ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------
LÊ THỊ HIỀN
QUAN NIỆM ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA
J.P.SARTRE
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X
Hà Nội – 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------
LÊ THỊ HIỀN
QUAN NIỆM ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA
J.P.SARTRE
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. TRẦN THỊ ĐIỂU
Hà Nội – 2019
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành
cảm ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cô giáo trong khoa Triết học, trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt
thời gian em học tập tại khoa, tại trường.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới TS. Trần Thị Điểu
đã giúp đỡ và hướng dẫn em rất tận tình trong quá trình thực hiện và hoàn
thiện khóa luận tốt nghiệp này.
Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn khóa luận sẽ không tránh khỏi
những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của các thầy, các cô, cùng toàn thể các bạn để khóa luận này được hoàn
thiện hơn.
Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2019.
Sinh viên
Lê Thị Hiền
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ RA ĐỜI QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC
HỌC TRONG CHỦ NGHĨA HIỆN SINH CỦA J. P. SARTRE ................ 4
1.1. Điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội .......................................................... 4
1.2. Tiền đề lý luận cho sự ra đời quan điểm đạo đức học trong chủ nghĩa hiện
sinh của J. P. Sartre ........................................................................................... 8
1.2.1 Triết học đời sống .................................................................................... 9
1.2.2 Hiện tượng luận của Husserl ................................................................. 16
1.2.3 Tư tưởng triết học hiện sinh của M. Heidegger và K. Jaspers .............. 19
1.3. J.P. Sartre và nền tảng quan niệm đạo đức học của ông .......................... 24
1.3.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của J. P. Sartre ............................ 24
1.3.2. Nền tảng của quan niệm đạo đức học của J. P. Sartre ......................... 27
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................... 41
CHƯƠNG 2. QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC HỌC TRONG CHỦ NGHĨA HIỆN
SINH CỦA J.P.SARTRE ............................................................................... 42
2.1. Quan niệm về thiện và ác ......................................................................... 42
2.2. Về trách nhiệm ......................................................................................... 46
2.3. Về sự trung thực và can đảm .................................................................... 55
2.4. Đánh giá quan điểm đạo đức học của J.P.Sartre ...................................... 63
2.4.1. Giá trị .................................................................................................... 63
2.4.2. Hạn chế ................................................................................................. 69
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................... 74
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................... 78
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam đang trên con đường hội nhập với các nền văn hoá trên thế
giới. Việc trao đổi thông tin, giao tiếp quốc tế, hợp tác trên mọi lĩnh vực đã
trở thành xu hướng tất yếu của mỗi quốc gia. Trong sự đa dạng của các nền
văn hoá thế giới, nổi bật lên là nền văn hoá phương Tây đã hình thành và phát
triển từ rất sớm, mà thành quả nổi bật của nó là một nền văn minh kỹ thuật
nâng cao chất lượng đời sống xã hội. Trong bối cảnh ấy, việc tìm hiểu tư
tưởng triết học phương Tây với tính cách là nền tảng của đời sống tinh thần
xã hội phương Tây là hết sức cần thiết.
Từ xu thế của thế giới và thực tế của Việt Nam, chúng ta có thể khẳng
định rằng, chủ động và tích cực hội nhập là con đường tốt nhất để tranh thủ cơ
hội và vượt qua những thách thức của quá trình toàn cầu hóa. Bất kỳ sự biến
đổi và phát triển nào trong xã hội, suy cho đến cùng, cũng do con người quyết
định. Vì vậy, để tranh thủ được cơ hội, vượt qua những thách thức của toàn
cầu hóa, việc chuẩn bị và bồi dưỡng con người về mọi mặt trong quá trình hội
nhập là hết sức quan trọng. Trong ý nghĩa đó, các chuẩn mực, giá trị đạo đức
bị tác động, bị ảnh hưởng bởi nền văn hoá phương Tây là điều không tránh
khỏi. Vì vậy, trong bối cảnh giao lưu hội nhập hiện nay, việc tìm hiểu nền
tảng triết học, các quan niệm đạo đức học, các chuẩn mực đạo đức phương
Tây là đòi hỏi quan trọng và có ý nghĩa.
Là một trong những trào lưu triết học có ảnh hưởng sâu rộng tới đời
sống văn hoá - xã hội phương Tây và nhiều nước khác trên thế giới trong thế
kỷ XX, Chủ nghĩa hiện sinh không chỉ được đề cập, bàn luận sôi nổi trong các
công trình nghiên cứu triết học, trong các tác phẩm văn học nghệ thuật mà còn
thâm nhập vào đời sống, tạo nên một lối sống khá được ưa chuộng ở nhiều
1
nước phương Tây sau đại chiến thế giới lần thứ II. Bởi thế chủ nghĩa hiện sinh
đã để lại những dấu ấn quan trọng trong đời sống tinh thần ở các nước phương
Tây, qua đó ảnh hưởng đến nhiều nước phương Đông, trong đó có Việt Nam.
Triết học của J. P. Sartre là một trong những trào lưu triết học hiện đại ảnh
hưởng sâu rộng tới quần chúng nhân dân bởi nó là sự phản ứng thiết thực, hiện
hữu của đời sống con người khủng hoảng. Ông là một trong những người trụ
cột chính của phong trào hiện sinh nói chung và hiện sinh Pháp nói riêng. Bản
thân Sartre là một triết gia có sức cuốn hút trong giới thanh ,thiếu niên. Những
quan điểm triết học, đặc biệt là những tư tưởng đạo đức học của ông đã động
chạm tới tâm tính xác định của bộ phận người tươi trẻ, mới mẻ này. Ông như là
người cha đỡ đầu, người dẫn đường cho một thế hệ người cảm nhận được sự
mong manh của cuộc đời bởi cái chết, bệnh tật, trật tự, luân lý...đang đe doạ.
Nghiên cứu quan niệm đạo đức học của Sartre sẽ giúp tìm ra những giá trị có
thể vận dụng vào bối cảnh đời sống hiện đại ngày nay.
Với những lý do cơ bản trên, tôi chọn “Quan niệm đạo đức học của J.
P. Sartre” làm đề tài cho khóa luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ
Mục đích: Mục đích của khóa luận là phân tích làm rõ những quan
điểm đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh của J. P. Sartre, từ đó đưa ra
đánh giá về những giá trị và hạn chế của chúng.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, khóa luận thực hiện những
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, trình bày điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội và tiền đề lý
luận cho sự hình thành tư tưởng đạo đức học của J. P. Sartre.
Thứ hai, khái quát về cuộc đời, sự nghiệp của J. P. Sartre.
2
Thứ ba, làm rõ những nội dung quan điểm đạo đức học của J.P. Sartre.
Thứ tư, đưa ra đánh giá những giá trị và hạn chế của quan điểm đạo
đức học của J.P. Sartre.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những quan điểm
đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh của J. P. Sartre.
Phạm vi nghiên cứu: Bài khoá luận nghiên cứu, phân tích một số nội
dung cơ bản của tư tưởng đạo đức của J. P. Sartre như: quan niệm tự do, tiêu
chuẩn thiện ác, quan niệm về trách nhiệm, quan niệm về sự trung thực và can
đảm được thể hiện qua một số tác phẩm của J.P.Sartre.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dựa trên nguyên tắc về sự thống nhất giữa triết
học và lịch sử triết học để nghiên cứu quan niệm đạo đức học trong chủ nghĩa
hiện sinh của J.P.Sartre. Khóa luận kế thừa các kết qủa nghiên cứu của những
người đi trước.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong khóa luận là những
phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học, trong đó đặc biệt chú trọng phương
pháp lôgíc và lịch sử, phương pháp phân tích -tổng hợp, phương pháp so sánh...
5. Những đóng góp của khóa luận
Khóa luận trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản của
quan niệm đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh của J.P.Sartre, đưa ra những
đánh giá bước đầu về quan niệm này.
6. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, khóa
3
luận gồm hai chương, bảy tiết.
CHƯƠNG 1. ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ RA ĐỜI QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC
HỌC TRONG CHỦ NGHĨA HIỆN SINH CỦA J. P. SARTRE
1.1. Điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội
Sự khủng hoảng của kinh tế - chính trị - xã hội gắn liền với cuộc cách
mạng khoa học - kỹ thuật. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư
bản phương Tây bước vào thời kỳ huy hoàng. Cuộc cách mạng công nghiệp
và sau đó là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ - viễn thông đã làm thay
đổi toàn bộ nền sản xuất phương Tây. Loài người đã đi sâu nghiên cứu thế
giới từ vi mô đến vĩ mô, hàng loạt những phát kiến vĩ đại về phân tử, nguyên
tử, hạt nhân,... đến những hiểu biết về vũ trụ: các vì sao, thiên hà, đại thiên hà,
sự giãn nở của vũ trụ... Người ta ước tính rằng trong thế kỉ XX toàn bộ lượng
thông tin, tri thức tăng thêm khoảng 1000 lần so với đầu thế kỉ và vượt trội so
với tất cả các tri thức mà loài người tích lũy được trong suốt lịch sử phát triển
từ thế kỉ XIX trở về trước.
Khoa học - công nghệ đã len lỏi vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
trong đó có vai trò quan trọng nhất là thúc đẩy nền kinh tế của toàn cầu.
Những thành quả về mặt kinh tế, khoa học đã gây ra những ảnh hưởng mạnh
mẽ tới các lĩnh vực khác như xã hội, chính trị, văn hoá, giáo dục và tư tưởng
của thời đại. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật bên cạnh những ưu điểm, nó
cũng gây ra những ảnh hưởng nhất định. Theo đó, khoa học kỹ thuật không
đem lại lợi ích và hạnh phúc cho đông đảo quần chúng lao động. Tiến bộ của
khoa học và kỹ thuật chỉ là công cụ bóc lột của giai cấp thống trị đối với
người lao động, chứ không phải là công cụ để phát triển các giá trị nhân văn,
cải thiện đời sống của đại đa số người lao động trong xã hội. Hệ quả tiêu cực
này càng làm tăng thêm những mâu thuẫn xã hội.
Biểu hiện của những mâu thuẫn này là hai cuộc chiến tranh thế giới thứ
4
nhất và thứ hai. Hai cuộc đại chiến khốc liệt là bối cảnh xã hội với tính cách
là điều kiện cho sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa hiện sinh. Cuộc đại
chiến thế giới lần thứ I năm 1914 và đặc biệt sự tàn khốc, dã man của cuộc
đại chiến thế giới lần thứ II đã cuốn hút châu Âu vào những cuộc chém giết
liên miên, làm cho dân chúng, đặc biệt tầng lớp thanh niên cảm thấy mình
như những con số vô danh. Chính những biến cố lớn lao này trong xã hội đã
làm đã làm ý thức xã hội thay đổi sâu sắc. Con người bắt đầu ưu tư, lo lắng
mất niềm tin hy vọng vào những gì là tốt đẹp. Cơ cấu xã hội của người dân
châu Âu bị đảo lộn về mọi mặt. Chính trị, pháp luật, tôn giáo... đều bị con
người nghi ngờ về những giá trị của nó. Con người sống trong chán nản, buồn
bã, lo âu và thấy cuộc sống thật vô nghĩa, phi lý, “buồn nôn”...
Chủ nghĩa hiện sinh ra đời sau Chiến tranh thế giới lần thứ I, bắt nguồn
từ học thuyết của S.Kierkegaard và trở thành một trào lưu tư tưởng phổ biến ở
Đức vào những năm 20 của thế kỷ XX. Lúc đó nước Đức thua trận trong
chiến tranh thế giới thứ I và bị tàn phá nghiêm trọng, triết học hiện sinh của
M.Heidegger phản ánh sự bi quan của xã hội Đức trước sự tàn phá đó. Trong
Chiến tranh thế giới lần thứ II, trung tâm triết học hiện sinh từ Đức chuyển
sang Pháp. Chiến tranh cùng với sự khủng hoảng nguồn nguyên liệu, sinh thái
và suy thoái đạo đức xã hội đã làm tăng sự khủng hoảng tâm hồn trong xã hội
tư bản phương Tây hiện đại.
Trước bối cảnh xã hội với những cuộc chiến tranh tàn khốc xảy ra liên
tiếp, sự phản ứng của xã hội diễn ra một cách gay gắt, làm bộc phát hàng loạt
những phong trào phản kháng, phủ định trên nhiều bình diện của đời sống. Về
mặt chính trị - xã hội, đó là những phong trào xã hội. Ở Mỹ là phong trào
Phản văn hóa của thanh niên, sinh viên. Ở Pháp là cuộc bạo loạn tháng Năm –
Sáu (1968). Về mặt văn hóa, đó là phong trào văn học hiện đại, văn học mới
(chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa siêu thực .v.v..). Đặc biệt trên mặt trận triết
học, từ cuối thế kỷ, triết học phi duy lý đã xuất hiện: triết học đời sống
5
(Bergson, Nietzche), chủ nghĩa Freud,... Trong bối cảnh cảnh xã hội đó, chủ
nghĩa hiện sinh cũng như quan niệm đạo đức học của nó đã xuất hiện như một
lời phản kháng mạnh mẽ về tồn tại xã hội đương thời. Chủ nghĩa hiện sinh đi
vào cuộc sống con người thành một quy luật tất yếu. Con người nhận ra tính
phi nhân tính của lịch sử khi mà những mâu thuẫn xã hội không thể nào điều
hoà được. Cơ cấu xã hội bị đảo lộn, kinh tế điêu tàn, chính trị trở thành trò ảo
thuật của giai cấp tư sản. Chủ nghĩa hiện sinh ra đời trong bối cảnh đó là và là
một trào lưu phát triển mạnh cả trong triết học mà Jean-Paul Sartre là một
trong những gương mặt lớn nhất. Sự ảnh hưởng rộng lớn và sâu sắc của Jean-
Paul Sartre không chỉ bao trùm đất nước và thời đại của mình mà còn lan tỏa
khắp hành tinh cho đến ngày hôm nay. Đặc biệt chủ nghĩa hiện sinh còn là sự
phản ứng đối với chủ nghĩa duy lý thống trị trong xã hội phương Tây.
Chủ nghĩa hiện sinh ở Pháp cũng là sự phản ứng chống lại chủ nghĩa
duy lý. Nhưng nó gắn với những điều kiện lịch sử riêng của nước Pháp, nó
diễn ra ở một nước có truyền thống vững chãi về tự do, nó nảy sinh ngay
trong thời kỳ chiếm đóng của chủ nghĩa phát xít Đức, do đó nó có những nét
đặc thù không thể bỏ qua. Ở Pháp, sau khi chiến tranh kết thúc (1945) chủ
nghĩa hiện sinh đã phát triển rất mạnh mẽ và J.P.Sartre là nhà triết học hiện
sinh lớn nhất.
Chủ nghĩa duy lý đã khuyếch trương rằng khoa học là vạn năng, khoa
học có thể giải đáp tất cả vấn đề nhân sinh. Chẳng hạn, A. Comte cho rằng,
lịch sử nhân loại có lẽ sẽ chấm dứt ở thời đại đế quốc khoa học, vì với khoa
học mọi cái sẽ không còn bí ẩn nữa. Người ta sẽ hiểu rõ quá khứ, hiện tại,
tương lai của đời sống thiên nhiên, đời sống xã hội, đời sống con người như
trong lòng bàn tay vậy. Tuy nhiên, lịch sử đã không chứng tỏ điều này. Lý trí
khoa học đã nhìn con người như một hiện tượng vật lý, nó đã phủ nhận vai trò
của con người trong việc thẩm định, đánh giá các giá trị. Chủ nghĩa duy lý đã
6
gây nên sự khủng hoảng về tinh thần trong xã hội phương Tây hiện đại.
Theo cách nói của Mác, xã hội duy lý hoá ở phương Tây đã làm cho
con người chỉ còn là một “lực lượng vật chất đơn thuần”. Con người trở thành
bần cùng và kiệt quệ trong bộ máy kỹ thuật khổng lồ của xã hội hiện đại. Một
xã hội phương Tây giàu có về mặt vật chất nhưng dường như lại nghèo về văn
hoá tinh thần, kinh tế tăng trưởng nhanh nhưng đạo đức, văn hoá dường như
lại trở nên suy đồi. Trong xã hội như vậy, con người suy sụp, lo âu, sợ hãi... là
điều dễ hiểu.
Nếu triết học duy lý coi khoa học là chiếc đũa thần vạn năng có thể giải
quyết được mọi vấn đề, thì đối lập với nó là khuynh hướng triết học nghi ngờ
vào khả năng của khoa học kỹ thuật, khuynh hướng này hạ thấp, thậm chí
chống lại tư duy duy lý. Nhìn thấy những giới hạn của tư duy duy lý, của trí
tuệ con người, các triết gia theo khuynh hướng này cho rằng tư duy duy lý,
khoa học không phải lúc nào cũng thấu hiểu, giải quyết được mọi vấn đề.
Đã có nhiều nhà triết học đi sâu tìm hiểu về nhận thức cảm tính, tư duy
kinh nghiệm, phương pháp nhận thức bằng trực giác, linh cảm. Ở Kant, việc
đề cao tính nhân bản đã được xây dựng một cách sâu sắc, tuyệt vời. Đối với
vấn đề khả năng nhận thức của con người, một mặt Kant đánh giá cao tư duy
duy lý khoa học vì nó cho ta giá trị chắc chắn, mặt khác ông cho rằng phương
pháp của khoa học thực nghiệm là hiệu nghiệm, tuyệt vời nhưng chỉ hiệu
nghiệm, tuyệt vời khi dùng đúng chỗ. Điều này có nghĩa là, tư duy duy lý
không phải là tất cả. Theo Kant, phán đoán suy luận tuy dựa vào tính chất chủ
quan nhưng cũng có những giá trị nhất định vì với nhận thức khoa học, người
ta cũng không thể hiểu hết được đời sống tâm linh, đời sống tình cảm.
Bên cạnh đó, phải kể đến phương pháp nhận thức con người. Nếu Đề
các tơ cho rằng, tôi tư duy vậy tôi tồn tại, nghĩa là tôi tư duy về tôi, như vậy
tôi sẽ trở thành khách thể, trở thành cái gì đó khác tôi... thì K. Jaspers lại cho
rằng tồn tại của con người không giống như tồn tại của các sự vật thông
7
thường khác nên không thể dùng phương pháp phân ly chủ thể – khách thể để
nhận thức về tồn tại người. Theo Jaspers, chúng ta không nên phân ly con
người như là một chủ thể nhận thức, và một khách thể bị nhận thức. Vậy con
người phải được nhận thức theo phương pháp nào? Theo các nhà triết học
hiện sinh, hiện sinh của con người chỉ có thể được hiểu trên tinh thần con
người vượt ra những gì họ biết về chính họ, nhưng con người là một tồn tại tự
do và tự do lựa chọn của mỗi cá nhân trong cuộc đời lại không giống nhau
nên không thể có một công thức chung để tìm hiểu thân phận con người, mà
con người chỉ có thể được hiểu một cách sâu sắc nhất trong chính tư tưởng và
hành động của họ. Như vậy, các lý thuyết triết học có khuynh hướng chống
hay hạ thấp vai trò của chủ nghĩa duy lý và phương pháp nhận thức con người
cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy sự ra đời đạo đức học của chủ
nghĩa hiện sinh.
Bất cứ học thuyết triết học nào cũng đều chịu ảnh hưởng bởi hoàn cảnh
lịch sử, điều kiện kinh tế–xã hội. Đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh cũng
không nằm ngoài quy luật này. Chính sự khủng hoảng về chính trị, pháp luật,
sự suy đồi về đạo đức, sự đảo lộn trong cơ cấu xã hội của người dân châu Âu
là bối cảnh thuận lợi cho sự ra đời triết học hiện sinh nói chung và đạo đức
học hiện sinh nói riêng. Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự
sùng bái quá mức lý tính trong chủ nghĩa duy lý đã gây nên sự khủng hoảng,
sự bại hoại tinh thần trong xã hội phương Tây hiện đại. Tình trạng con người
bị bần cùng hoá, bị kiệt quệ, không tìm ra lối thoát trong bộ máy kỹ thuật
khổng lồ của xã hội phương Tây hiện đại cũng là một trong những yếu tố
quan trọng đưa đến sự ra đời quan niệm đạo đức học của chủ nghĩa hiện sinh
nói chung và của J.P.Sartre nói riêng.
1.2. Tiền đề lý luận cho sự ra đời quan điểm đạo đức học trong chủ
nghĩa hiện sinh của J. P. Sartre
Chủ nghĩa Mác –Lê nin đã chỉ ra quy luật cơ bản của đời sống xã hội
8
là: Mọi quy luật của ý thức xã hội chỉ được ra đời trên một tồn tại xã hội nhất
định và bị quy định bởi chính tồn tại xã hội đó. Tồn tại xã hội không phải là
cái gì khác hơn là những điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa và tư tưởng, những
yếu tố tạo nên sự hình thành, phát triển của các tư tưởng triết học. Tư tưởng
triết học của J. P. Sartre cũng không được ra đời từ hư vô mà phải kể tới ba
nguồn gốc tư tưởng trực tiếp sau: Một là, Triết học đời sống của A.
Schopenhauer, F. Nietzsche, H. Bergson,…; Hai là, hiện tượng luận E.
Husserl; Ba là, chủ nghĩa hiện sinh của K. Jaspers và M. Heidegger.
1.2.1 Triết học đời sống
Triết học đời sống ra đời đòi hỏi giải quyết những vấn đề đang đặt ra
trong cuộc sống hàng ngày, nó là kết quả của sự phát triển thái quá của khoa
học dẫn tới khủng hoảng nghiêm trọng trong đời sống tinh thần con người ở
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Sự ra đời của triết học đời sống gắn với sự
phát triển của khoa học sinh học, tâm lý học, khoa học tự nhiên... có nhiều
phát minh mới nhưng không thể lý giải được. Khái niệm trung tâm của triết
học đời sống chính là phạm trù “Đời sống”, đây không phải là vấn đề cơ bản
của triết học như trước đây quan niệm, mà là một bản nguyên tuyệt đối, vô
hạn của thế giới có tính chất tích cực, đa dạng vận động vĩnh viễn. Phương
pháp nhận thức của trào lưu này là sự cảm nhận cảm xúc, trực giác, niềm tin
tôn giáo,.. như là sự phản ứng trực tiếp đối với triết học duy lý.
Triết học đời sống xem xét tồn tại của con người với tư cách là biểu
hiện của cuộc sống và có thể nhận thức được bằng trực giác. Trào lưu triết
học này là sự phản ứng đối với bức tranh cơ giới về thế giới, là sự phản ứng
đối với chủ nghĩa duy vật máy móc. Đứng trên lập trường của chủ nghĩa phi
lý, chủ nghĩa hư vô, chủ nghĩa chống khoa học, triết học đời sống đã cố gắng
khắc phục hạn chế của chủ nghĩa duy vật máy móc.
Triết học đời sống bao gồm những đại biểu tiêu biểu như: A.
9
Schopenhauer, F. Nietzsche, H. Bergson, W. Dilthey, G. Simmel.
A.Schopenhauer( 1788 –1860 )
Đề cập đến các vấn đề luân lý xã hội, địa vị của con người trong thế
giới, tự do của con người và ý nghĩa của nhân sinh, triết học Schopenhauer có
ảnh hưởng đến tư tưởng của chủ nghĩa hiện sinh. Trước đó, ảnh hưởng của
triết học Schopenhauer rất hạn chế. Chỉ đến khi làn sóng bi quan bao trùm
khắp nước Đức sau thất bại của cuộc cách mạng năm 1848, người ta mới
đổ xô nhau tìm đọc tác phẩm của ông, coi ông như một thần tượng của triết
học. Triết học nào cổ vũ con người hướng tới tự nhiên và xã hội, khích lệ con
người hướng thiện, hoặc ca ngợi hạnh phúc và lý tưởng đều bị
Schopenhauer phê phán. Ông cho rằng, tự do và đạo đức thuộc về ý chí, chỉ
có hành động của bản thân ý chí mới là tự do.
Thế giới như là ý chí và biểu tượng là tác phẩm chủ yếu nhất, có vị trí
cốt lõi nhất trong các tác phẩm của Schopenhauer. Trong tác phẩm,
Schopenhauer coi thế giới tựa như hai mảng, biểu tượng và ý chí. Mệnh đề
thứ nhất của ông là “thế giới là biểu tượng của tôi”, có nghĩa là mọi vật trên
thế giới đều cần lấy chủ thể làm điều kiện, chúng chỉ là chủ thể nên tồn tại.
Với mệnh đề này, Schopenhauer đã khám phá ra vai trò vô cùng quan trọng
gán cho chủ thể. Thế giới được lý giải như cái hiện ra cho chúng ta thông qua
những biểu tượng của chúng ta. Thế giới như biểu tượng của tôi và được đem
lại thông qua sự thể nghiệm của tôi. Do đó, những gì mà con người trực tiếp
lĩnh hội được chưa phải là cái cách mà vật thể tự nó là như thế hoặc đúng như
thế. Con người không biết gì hết về cái cây tự nó mà chỉ biết sự tưởng tượng
của chính mình về cái cây, cũng như “nó không biết mặt trời, trái đất, mà chỉ
biết cái mắt nhìn thấy mặt trời, cái tay sờ thấy đất; thế giới bao quanh chỉ tồn
tại như biểu tượng, tức hoàn toàn đối với cái khác, cái có biểu tượng, mà bản
thân con người là như vậy”[18, 15]. Theo ông, chúng ta là những chủ thể
10
nhận thức và chỉ biết thế giới như chúng ta thấy nó, do đó “toàn thể thế giới
sự vật mãi mãi chỉ là biểu tượng, và vì vậy bị xác định hoàn toàn và mãi mãi
bởi chủ thể” [29, 281].
Schopenhauer đề cao vai trò của chủ thể. Ông cho rằng, vũ trụ là cái
nhìn của tôi về vũ trụ. Vũ trụ chỉ là kết quả của cuộc gặp gỡ giữa tôi và ngoại
giới, vì thế không có vũ trụ tuyệt đối. Nghĩa là không có một vũ trụ bất biến
nào cho tất cả mọi người mà chỉ có những cái nhìn từ những quan niệm nhất
định nào đó. Như vậy, thế giới theo quan niệm Schopenhauer không phải là
hệ thống những tri thức có sẵn để tất cả mọi người nhận thức, mà thế giới là
những cái chúng ta đang tri giác. Không ai biết gì về thế giới ngoài những cái
họ thấy, ngoài những cái đặt trước tri giác, trí khôn của con người. Do vậy,
mỗi người sẽ có một cái nhìn khác nhau về thế giới và sẽ không có một thế
giới chung cho tất cả mọi người. Đó là cội nguồn của thuyết “đánh giá” và
“đảo lại những giá trị” của F. Nietzsche. Đó cũng là nguồn gốc sinh ra chủ thể
tính, một trong những giá trị lớn lao của triết học hiện sinh nói chung và đạo
đức học hiện sinh của Sartre nói riêng. Quan niệm của Schopenhauer đề cao
vai trò của con người với tính cách là chủ thể nhận thức hay ý chí đạo đức đã
ảnh hưởng đáng kể tới quan niệm của chủ nghĩa hiện sinh về đạo đức học của
Sartre. Tiếp thu tư tưởng này, Sartre đã chối bỏ sự ràng buộc của con người
vào những khuôn mẫu, chuẩn mực và những công thức chung có sẵn và cho
rằng, những giá trị của cuộc sống, việc xác định thiện hay ác là phụ thuộc vào
nguyên tắc do chính mỗi cá nhân tạo ra. Chính những quan niệm này của
Schopenhauer đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc đời, tư tưởng của Nietzsche
và quan niệm đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh.
F. Nietzsche (1844 - 1900)
Nietzsche cho rằng: “Làm sáng tỏ cho bản thân và chỉ ra vấn đề đạo
đức, - tôi coi đó là nhiệm vụ mới và quan trọng nhất. Tôi không cho rằng
nhiệm vụ ấy đã được giải quyết trong triết học đạo đức trước kia” và trên cơ
11
sở kế thừa tư tưởng của Schopenhauer, Nietzsche đã xây dựng nền triết học
của mình với xuất phát điểm là “đánh giá lại mọi giá trị”. Ông muốn “đổi lại
cái bảng giá trị luân lý và xã hội; những gì người ta vẫn tôn trọng từ trước đến
nay sẽ bị ông thoá mạ và lên án”. [21;116]. F. Nietzsche cho rằng, từ Socrates
đến nay, tư tưởng và văn hóa do chủ nghĩa lý tính chi phối đã hạn chế cuộc
sống và bản năng phi lý tính của con người. Những khái niệm triết học trước
đây chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa lý tính đều là hư cấu và sai lầm, che lấp
bản năng cuộc sống con người. Để làm cho khả năng con người không bị ràng
buộc, để cuộc sống và hành động đạo đức con người có giá trị chân chính, thì
phải phá bỏ các quan niệm cũ.
Nietzsche cho rằng muốn trở thành một người sáng tạo ra giá trị, phân
định thiện ác thì cần phải lật đổ các giá trị cũ. Đối với Nietzsche, các học
thuyết triết học dựa trên tư duy duy lí không những không mang lại lợi ích gì
cho nhân loại mà còn làm tê liệt, mê hoặc cuộc sống. Nietzsche cho rằng,
không thể có chân lí trừu tượng. Chân lí trừu tượng chỉ là một thứ tri thức do
người khác dạy và ta chấp nhận mà không xét lại. Ông tranh đấu cho tri thức
mới, tri thức cụ thể gắn liền với thực tế sống động. Tri thức này nằm trong
cuộc sống của mỗi người và nó có thước đo khác nhau tuỳ theo quan niệm
của họ. F. Nietzsche xây dựng một loại triết học có thể phát hiện và biểu đạt
cái tồn tại sâu kín của con người. Ông đã bác bỏ quan niệm triết học phái lý
tính truyền thống, lấy nhận thức luận làm trung tâm, mà triết học thì nên lấy
cuộc sống và hành động con người làm trung tâm, làm cho triết học trở thành
thực tiễn về mặt ý nghĩa luân lý. Nhà triết học này đã hướng lý luận đi vào
thực tiễn, có gắn với thực tiễn, lý luận mới thực sự là cái được nhào nặn có
nghĩa. Đây là một trong những đóng góp quan trọng của Nietzche cho triết
học đời sống.
Nietzsche ý thức rằng cuộc sống là giá trị cao nhất, tuy nhiên tự bản
thân nó không tạo ra ý nghĩa mà chính con người mang lại giá trị, ý nghĩa
12
cho cuộc sống. Theo ông, sở dĩ cuộc sống từ trước đến giờ không có giá trị vì
tư duy duy lý và các tôn giáo đã dạy con người ta sống yếm thế, thụ động, đã
nhầm tưởng rằng mục đích cuộc sống là có sẵn, không phải do con người tạo
ra. Như vậy, chỉ là nhắm mắt tuân theo những luân lý và tập tục của xã hội,
chỉ là những kẻ nô lệ. Nietzsche kêu gọi mọi người hãy sống tự do, theo
chuẩn mực của bản thân, do bản thân mình đặt ra và tự chịu trách nhiệm về
việc làm của mình. Con người không được làm nô lệ cho bất cứ điều gì. Con
người phải luôn luôn sáng tạo ra chính cuộc sống của mình vì không cảnh nô
lệ nào nhục nhã bằng nô lệ tinh thần.
Có thể nói, tư tưởng đạo đức học của F. Nietzsche là nguồn gốc tư
tưởng quan trọng của quan niệm về đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh nói
chung và của Sartre nói riêng. Ông cho rằng con người không được làm nô lệ
cho bất cứ điều gì, phải luôn luôn sáng tạo ra chính cuộc sống của mình.
Nietzche đã đặt ra những vấn đề trọng yếu của triết học nhân sinh, với tham
vọng lột bỏ được nếp tư tưởng chịu ảnh hưởng nặng nề của luân lý truyền
thống. Tuy nhiên, những gì mà ông làm được mới dừng lại ở mức độ một nhà
tư tưởng chưa thoát ly được địa vị và giai cấp của mình. J.P.Sartre đã mượn ở
Nietzche những tư tưởng về sự tự do cũng như khai thác, khắc phục và phát
triển lên sự phủ định những giá trị cũ lỗi thời, sự bành chướng của chủ nghĩa
duy lý cho những luận giải của mình. Nhờ vậy mà Nietzsche được ví là một
trong những nhà sáng lập ra chủ nghĩa hiện sinh.
Henri Bergson (1859–1941)
Ảnh hưởng đáng kể nhất của H. Bergson tới sự hình thành và phát triển
của chủ nghĩa hiện sinh nói chung và đạo đức học nói riêng với J.P.Sartre là
thuyết trực giác. Theo ông, để có được tri thức thật sự về bên trong thực tại
phải sử dụng phương thức trực giác.
H. Bergson cho rằng mỗi cá nhân đều có thể có ý thức trực giác, trực
13
giác tựa hồ đồng nhất với bản thân sự sống, trực giác là thể nghiệm nội tâm,
trực giác là ý thức trực tiếp, là đặt mình vào bên trong đối tượng. Theo ông, trí
tuệ có khuynh hướng giới hạn đạo đức vào một xã hội khép kín và chỉ khi xuất
hiện các nhà thần bí, các thánh nhân thì mới có tiến bộ đạo đức, “cả khi trí tuệ
hình thành các quy tắc cho mọi người, trực giác mở ra những nguồn phong phú
hơn của sức mạnh cảm xúc, lập tức khơi dậy khát vọng và cung cấp lực sáng
tạo để ôm ấp những lối sống mới. Như thế đạo đức không ngừng đi từ sự suy
xét về bản ngã và về xã hội để mở rộng ra toàn thể nhân loại” [29, 348].
Theo Bergson, trực giác, trí nhớ là điểm giao nhau giữa vật chất và tinh
thần. Cả hai phái duy vật và duy tâm đều coi trực giác đơn giản là một hành vi
nhận thức của con người. Đó là một thái độ coi thường với trực giác. Theo
ông thì trực giác và toàn bộ tâm thần bị làm cho lệ thuộc vào hành động toàn
vẹn, hiện thực của con người. Trực giác là thước đo năng lực hành động con
người. nhờ năng lực trực giác này con người mới tham gia vào thực tiễn lịch
sử. nhờ trực giác mà con người có thể nhận thức được bản chất của sự sống.
Với khả năng của trực giác con người có thể đột nhập vào bên trong hiện
tượng một cách trực tiếp, không cần liên tưởng, lýthuyết, để thống nhất trong
một bản thể. Trực giác có liên hệ với trí nhớ trong một quá trình phức tạp, kéo
dài. Trên hết trực giác phải là sự lựa chọn và ý thức biết về sự lựa chọn này.
Với quan niệm như vậy về tâm linh con người A. Bergson đã đưa thuyếttrực
giác của ông vừa là thuyết bản thể luận vừa là một phương pháp nhận thức
của tồn tại mà sau này chủ nghĩa hiện sinh của Sartre tiếp thu.
Khái niệm cốt lõi mà Bergson muốn truyền thụ và ảnh hưởng quan
trọng nhất có lẽ là khái niệm “Cuộc sống”. Ông đã tiến hành phân tích khái
niệm này. Theo sự phân tích đó thì “Cuộc sống” là biện chứng của vật chất và
tinh thần. Nhưng sự biện chứng này có phần đi vào chỗ thần bí vì theo ông
“Cuộc sống” là không thể nhận thức được đối với khoa học nói chung. Cái
bản chất nhất của “Cuộc sống” này chính là những vòng khâu liên tục, nối
14
tiếp nhau. Đó là những quá trình liên tiếp như một “Độ dài thời gian”có động
lực tạo ra bởi một “Khí thế sống”mãnh liệt. Ông gọi trực giác là bản năng
không có lợi ích thực tiễn, có ý thức với bản thân, có khả năng suy tư về
khách thể của mình, và mở rộng nó. Bản năng còn là hình thức của trực giác
đưa ta vào vùng sâu của “Cuộc sống”. Nhưng chính như trên đã phân tích thì
ông lại coi trực giác là một khả năng đặc biệt cho phép ta đi vào sâu bên trong
những bản chất, để hợp nhất với sự vật trong một bản thể thống nhất. Như vậy
là trực giác của ông là không mang một bản chất nào khẳng định mà lại có
những khả năng phủ định. Với vai trò phủ định như vậy thì thuyết trực giác
trở thành một công cụ luận chiến hơn là một phương pháp, một đối tượng
mang tính chất khẳng định.
Tuy là một trực giác mơ hồ và đứt đoạn như một ngọn đèn đang tắt.
Nhưng nhìn chung thì nó bùng lên chính vào thời điểm chúng ta nói tới những
lơị ích thiết thực của chúng ta. Trực giác là lộ ra cái “Tôi” của chúng ta, tự do
của chúng ta, số phận của chúng ta. Tất nhiên nó có yếu ớt, lao đao. Bất chấp
điều đó thì học thuyết này của ông vẫn có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đối với
những quan điểm hiện sinh của Sartre. Đặc trưng trong đó là quan niệm về
tồn tại con người gắn bó hữu cơ với giới tự nhiên. Ở đó con người không
ngừng chia sẻ, khám phá thế giới mà còn phải có trách nhiệm với vũ trụ này
bằng một ý thức đong đầy khí thế.
Triết học đời sống là nguồn gốc tư tưởng quan trọng của quan niệm về
đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh nói chung và của Sartre nói riêng. Triết
học đời sống xem xét tồn tại của con người với tư cách là biểu hiện của cuộc
sống và có thể nhận thức được bằng trực giác. J.P.Sartre đã mượn ở triết học
đời sống những tư tưởng của chủ nghĩa phi duy lý cho sự luận giải của mình.
Đề cao vai trò của con người với tính cách là chủ thể nhận thức hay ý chí đạo
đức đã ảnh hưởng đáng kể tới quan niệm của chủ nghĩa hiện sinh về đạo đức
học của Sartre. Kêu gọi mọi người hãy sống tự do, theo chuẩn mực của bản
15
thân, do bản thân mình đặt ra và tự chịu trách nhiệm về việc làm của mình,
con người không được làm nô lệ cho bất cứ điều gì. Triết học hiện sinh hành
động của J. P. Sartre phát triển sau chiến tranh thế giới thứ hai, đã tiếp thu ở
những tư tưởng trên đây của triết học đời sống. Tạo thành một phong trào triết
học đi vào những vấn đề quan trọng của tồn tại người.
1.2.2 Hiện tượng luận của Husserl
Edmund Husserl (1859 –1938) là một triết gia Đức, với một tư duy số
học và triết học cao, Husserl đã đặt lại cơ sở cho triết học hiện đại, xây dựng
một mô hình triết học chặt chẽ với tên gọi: Hiện tượng học, mà J. P. Sartre đã
kế tục và phát triển vinh quang.
Trong bối cảnh tư tưởng của thời kỳ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa duy
khoa học và chủ nghĩa duy lý tính tương ứng với nó có liên quan chặt chẽ
với chủ nghĩa tâm lý, coi tâm lý học là cơ sở để bênh vực lý tính. Husserl
cũng loay hoay mất hơn mười năm với những kỳ vọng vào chủ nghĩa tâm
lý và cuối cùng ông phê phán chủ nghĩa tâm lý và sáng tạo nên hiện tượng
học, tức chuyển từ lập trường của chủ nghĩa duy khoa học sang lập trường
hiện tượng học. Hiện tượng học đã xác định ảnh hưởng sâu rộng lên nhiều
lĩnh vực khoa học, tri thức nhân văn. “Quay về với bản thân sự việc” là khẩu
hiệu được Husserl nêu lên nhằm làm cho tư tưởng triết học thoát khỏi bước đi
lệch lạc để nhìn thẳng vào những thách thức của hiện thực. Hiện tượng học
thoát thai từ khoa học tự nhiên nhưng dần dần phát triển thành trào lưu tư
tưởng của chủ nghĩa nhân văn và trở thành trào lưu tư tưởng nhân văn quan
trọng bậc nhất, đem lại sắc thái hoàn toàn mới cho tư tưởng thế kỷ XX. Và,
một trong những dấu ấn quan trọng nhất là: hiện tượng học trở thành cơ sở lý
luận của chủ nghĩa hiện sinh.
Tuy hiện tượng học của Husserl có nhiều điểm xa lạ với chủ nghĩa hiện
sinh, nhưng chính nhờ hiện tượng học mà chủ nghĩa hiện sinh mới có cơ sở lý
16
luận để trở thành học thuyết triết học. Lý luận của Husserl về ý thức và tính ý
hướng của nó là nền tảng cho luận đề cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh sau này
là: hiện sinh có trước bản chất.
Theo Husserl, không có vũ trụ tuyệt đối và cũng không có chủ thể tuyệt
đối. Nếu vũ trụ là đối tượng, thì nó chỉ có thể là đối tượng cho tôi hay cho anh
thôi, nó không thể là đối tượng tuyệt đối. Đối tượng không phải là một nội
dung có sẵn, mà là một hành vi chưa thực hiện, còn chờ để thực hiện. Ý thức
bao giờ cũng là ý thức về một cái gì, ý thức bao giờ cũng có đối tượng, hoàn
cảnh tôi đang nhìn quan sát cái bút hoặc đang nhớ đến người bạn của tôi...
Husserl gọi tính chất của ý thức là “Tính ý hướng”.
Như vậy, ý thức là “ý hướng”, là hướng đến một đối tượng, ý thức cần
có đối tượng, ý thức chỉ tồn tại bằng cách hướng đến một đối tượng nào đó và
ngược lại đối tượng phải là đối tượng cho ý thức. Đối tượng không phải là
một nội dung có sẵn, mà nó là một hành vi chưa thực hiện, nó phụ thuộc vào
tính ý hướng của ý thức, thực ra là tính chỉ hướng của ý thức, tính chỉ hướng
này là tự chỉ hoặc chỉ vào tự thân. Ông khẳng định, trong lĩnh vực ý thức
thuần tuý, bất cứ đối tượng nào, như một cái cây, một làn sóng điện từ, một
con vi khuẩn dưới kính hiển vi... đều không thể tồn tại tách rời khỏi ý thức,
chúng đều là những vật đã được ý thức hướng vào. Ý thức không thể tách rời
đối tượng mà chỉ có thể hướng về sự tồn tại của đối tượng.
Theo Husserl, cần phải mô tả đối tượng y như nó xuất hiện trước ý
thức, mô tả tất cả những gì mình đã sống thực. Mô tả hiện tượng luôn phải trở
về với sự vật chứ không được suy diễn, nghĩ ra. Theo Husserl, ông không đi
đánh giá các giá trị của đạo đức như cái gì là thiện cái gì là ác, đâu là lương
tâm hay là trách nhiệm... điều mà ông quan tâm là phải mô tả những hiện
tượng ấy sao cho thật sự chính xác như nó đang là. Ý nghĩa thật sự đóng góp
của Husserl đối với đạo đức học là đã đưa địa vị con người làm căn bản hơn
so với Kant, là trung tâm của mọi xem xét đạo đức. Đây là tính thực tiễn căn
17
bản của tồn tại để con người nhận ra sự tồn tại của mình trước thế giới. Đạo
đức học là vấn đề của con người và không thể được nhìn nhận như là cái gì
định sẵn cho con người theo một định luật phổ quát. Tồn tại người phải thật
sự tách biệt với quy luật của thế giới.
Husserl là người đặt nền móng lý luận cho chủ nghĩa hiện sinh. Triết
học hiện sinh nói chung và đạo đức học hiện sinh của Sartre nói riêng mang
dấu ấn của hiện tượng học về cả đối tượng và phương pháp. Triết học này đã
kiên quyết từ chối việc biến con người thành đối tượng của các khoa học
khách quan, mà con người phải là cái biểu hiện ra, được cảm nhận bởi kinh
nghiệm và hoàn cảnh cá nhân của nó. Những người theo thuyết hiện sinh
phản đối quy luật khách quan đang giải thích tự do con người, không chấp
nhận cách định nghĩa tự do là tất yếu được nhận thức và họ cũng bác bỏ
hành vi công thức hoá hoạt động của con người. Con người phải là cái độc
nhất, cá nhân và riêng. Tính chủ quan là cái lớn nhất mà hiện tượng học
đem lại cho triết học hiện sinh mà Sartre đã tiếp thu. Tính chủ quan ở đây
không phải là yếu tố của hoạt động nhận thức mà là lĩnh vực bản thể luận.
Tính chủ quan là một thực tại đặc biệt luôn hiện diện trong hành vi con người
nhưng không bao giờ trở thành đối tượng của nhận thức. Theo Husserl, xét từ
giác độ tính tồn tại thì tính chủ quan thể hiện là cơ sở thứ nhất, sinh ra nghĩa
xuất phát của mọi hình thức hoạt động của con người. Nó là cái tuyệt đối mà
triết học cần phải xuất phát để giải thích mọi vấn đề khác. Đối với chủ nghĩa
hiện sinh, tính chủ quan đó, như Sartre giải thích: “chủ quan tính có hai
nghĩa khác nhau...một đằng có nghĩa rằng chủ thể cá biệt tự lựa chọn, đằng
khác lại có nghĩa rằng con người không thể vượt qua chủ quan tính của con
người được. Chính nghĩa thứ hai này là nghĩa sâu xa của thuyết hiện
sinh”[7, 20]. Lý luận của Husserl về ý thức và tính ý hướng của nó là nền tảng
cho luận đề cơ bản trong quan điểm của J.P.Sartre sau này là: hiện sinh có
18
trước bản chất. Do vậy, nói đến nguồn gốc hình thành chủ nghĩa hiện sinh nói
chung và đạo đức học của J.P.Sartre nói riêng chúng ta không thể không kể
đến hiện tượng luận của Husserl.
1.2.3 Tư tưởng triết học hiện sinh của M. Heidegger và K. Jaspers
M. Heidegger ( 1889 –1976 ) là một trong những đại biểu sáng lập ra
chủ nghĩa hiện sinh. Trong tư tưởng của Heidegger về tồn tại vượt trước, ông
gọi Dasein là một nguyên nhân khởi thủy - là nền tảng cho mọi cái hiện hữu.
Cái hiện hữu là mặt khách quan của tồn tại người nhưng cái hiện hữu này tự
nó là vô nghĩa, là hư vô nếu không được soi sáng bằng tồn tại người. Sự tồn
tại của cái hiện hữu chỉ tồn tại khi Dasein gán cho nó một ý nghĩa. Cái bàn
trước mắt tôi tồn tại khi tôi nhìn thấy nó là chiếc bàn, cái cây bởi nó là cái cây
khitôi phát hiện nó như là một cái cây...nhưng sự hiện hữu ấy không có nghĩa
là tồn tại.
Heidegger dùng thuật ngữ Dasein để chỉ con người - một tồn tại người
có ý thức. Con người trước hết phải tồn tại, nhưng sự tồn tại của con người
không đơn thuần như tồn tại của vạn vật mà con người luôn tự vấn về sự tồn
tại của mình.
Theo Heidegger, con người cảm thấy cô đơn trong cuộc sống, cảm thấy
mình như kẻ bị lưu đầy. Con người xuất hiện trong cuộc đời nhưng không
biết mình từ đâu tới, mình sẽ đi đâu, chỉ biết rằng mình tồn tại trong trần gian
nhưng không biết nương tựa chống đỡ vào đâu ngoài hoàn cảnh sống của
mình. Ông không nhìn nhận những điều này với ý nghĩa tiêu cực mà trái lại
nó là động cơ thúc đẩy khích lệ con người cố gắng tự tạo cho mình một cuộc
sống có ý nghĩa hơn, sống có trách nhiệm hơn. Con người tự sáng tạo nên
mình, tự làm nên mình.
Tư tưởng triết học về hiện sinh của ông đã bóc trần những khía cạnh
của tồn tại thông qua những cái hiện hữu. Ở đó con người cũng là một cái
19
hiện hữu nhằm giải thích rõ tồn tại của bản thân thông qua chính sự hiện hữu
này. Cái thật sự tồn tại chính là Dasien cái tồn tại ở đây và bây giờ. Người
trực tiếp nêu ra câu hỏi về sự tồn tại của chính mình đi tìm giá trị cũng như
mục đích của tồn tại ở đây.Vì vậy theo Heidegger con người không được
phép sống hay tồn tại theo kiểu sự hiện hữu được, mà phải làm cho mình
xứng danh vì đã sinh ra trong cuộc đời này. Thế mới không lãng phí sự tồn tại
này. Heidegger coi việc chiêm ngưỡng cái chết là nguồn gốc, xung lực, lòng
nhiệt tình thiết tha với cuộc sống, và đó cũng là động lực cơ bản khích lệ con
người hoạt động trong những năm tháng còn lại của cuộc đời.
Theo Heidegger, con người là của chính mình, của chính sự lựa chọn.
Ai không hiểu được điều đó thì người ấy tất yếu sẽ khước từ chân lý của tồn
tại. Khi những giá trị được tạo ra, thì chúng được coi là ý nghĩa cuộc sống của
con người, xuất phát từ tự do lựa chọn, hay sự kiên định trước tính hữu hạn
của sự hiện sinh. Như vậy, nhờ có sự lĩnh ngộ về tồn tại của mình, con người
mới phân biệt tồn tại người với các thể hiện sinh khác.
Tồn tại người Dasien có bản chất là hiện sinh. Với bản chất này con
người đã không còn được diễn giải bằng bình diện lý trí. Phần thâm sâu của
con người là sự lo âu, nỗi sợ hãi, cô đơn...được hiện hữu thường xuyên.
Những nỗi niềm này đã biến bản thân con người thành những tồn tại đích thực
nhất mà triết học truyền thống lý tính đã khinh bỉ. Cái bản chất duy nhất của
con người và thế giới. Nỗi ưu tư này liên tục đẩy con người vào việc nhìn
ngắm lại bản thể tồn tại của mình bằng những sự kiện ngây thơ, ngẫu nhiên
nhất. Bằng thiết kế vào thực tại để hướng tới một tương lai khác.
Heidegger đã khắc hoạ nên một sự đặc thù của tồn tại người so với
những hiện hữu khác. Làm nổi bật lên cấp bậc tồn tại Dasien là cái khả năng
hiện thực hoá bản thân mình, luôn thiết kế mới mẻ bản thân của tồn tại chính
mình. Ông đã đưa ra một hình thái hiện sinh thực sự khác lạ so với những
quan niệm về con người trong sử triết. Đó là cách lựa chọn lối sống của mình,
20
tự làm nên bản chất của chính mình trong một viễn cảnh đa đoan và hỗn độn.
Tư tưởng đạo đức học của Heidegger đã tạo ra ảnh hưởng quan trọng
cho sự hình thành tư tưởng đạo đức của Sartre. Nghe lời người bạn Simone de
Bevoir, Sartre đã xin học bổng sang Đức trong vòng một năm để học về hiện
tượng luận của Husserl và đặc biệt là tư tưởng triết học hiện sinh của
Heidegger, và sau đó đã du nhập chủ nghĩa hiện sinh từ Đức sang Pháp. Tư
tưởng của Sartre trong tác phẩm “Tồn tại và hư vô” về thực chất là sự vận
dụng và phát triển quan niệm về tồn tại người của Heidegger theo một hướng
khác. Dựa trên phương pháp của Husserl, Heidegger đặt ra khả năng tư duy
để vượt ra khỏi cái tồn tại và hiểu về tồn tại. Con người tạo nên sự vật và tạo
nên chính mình nhưng không phải là tác nhân thuần túy. Sự hiện tồn của
một cá biệt cụ thể giữa những cái tồn tại khác nên con người phải tự thiết
lập lấy mình, làm nên chính mình. Sartre tiếp thu, nối tiếp và phát triển tư
tưởng trên của Heidegger. Tồn tại người theo Heidegger nghĩa là cho dù tôi
có thể các bỏ bất cứ cái gì, nhưng tôi không thể bác bỏ chính tôi; cho dù tôi
không biết tồn tại là gì, tôi vẫn biết được là tôi đang tồn tại, bởi vì tôi thể
nghiệm sự tồn tại của tôi trực tiếp và rõ ràng nhất. Điểm khác biệt của con
người là ở chỗ nó ý thức được tồn tại của bản thân mình. Dasein mở đường đi
tới tồn tại – bản thể, khẳng định con người tự tạo nên mình. Sartre đã khai
thác luận điểm này của Heidegger và phát triển thành luận điểm của mình với
việc xây dựng hai đặc điểm chính của con người hiện sinh: Một là con người
tự tạo nên mình, làm mình thành người. Hai là để tạo nên mình con người lựa
chọn tự do. Như vậy, Heidegger chỉ đặt ra một cái nhìn mới về chủ thể còn
Sartre khẳng định vai trò của chủ thể và con người tạo dựng cho thế giới
những giá trị của con người gán cho nó.
K. Jaspers (1883 –1969)
Cùng với Heidegger, K.Jaspers đã sáng lập chủ nghĩa hiện sinh Đức nổi
tiếng trong thế kỷ XX. K.Jasper cho rằng triết học phải tập trung vào suy tư
21
các vấn đề của con người liên quan đến công việc tự ý thức cá nhân, góp phần
hình thành nhân cách, triết học phải chú tâm để tìm hiểu con người như một
tồn tại tình thần, có ý thức và tự do. Mong muốn của K. Jasper là không muốn
con người cứ sống khắc khoải với thế giới như một sự vật. Bởi theo
K.Jaspers, không phải bất cứ con người nào, bất cứ ai cũng có thể vươn tới
cấp độ hiện sinh nhân vị. Từ cấp độ sự vật đến cấp độ hiện sinh con người
luôn cần đến một bước nhảy, một sự vượt bỏ. Sự vượt bỏ này là tính tự phản
tư về cuộc đời của chính mình khi đã khái quát được tính bị giới hạn của tồn
tại người. Để làm được điều này con người cần phải có tinh thần trách nhiệm,
sự dũng cảm trước hoàn cảnh sống của chính mình. Đây là một sự tìm kiếm tự
do đích thực.
Nói tới con người trong quan niệm của K. Jasper là nói tới bản thân con
người sinh tồn trong thế giới gắn liền với hoàn cảnh sống của mình. Con
người với những khả năng và vượt ra xa những gì mình có, nghĩa là luôn là
một tồn tại tự vượt ra những gì mình muốn bằng tự do của mình phụ thuộc
vào một số yêu sách tuyệt đối nào đó. Con người phải có trách nhiệm về
chính bản thân mình và xã hội. Đó là bản chất sâu xa của tự do nơi con người.
K.Jaspers nói đến khái niệm “tình huống giới hạn” như một khái niệm
mấu chốt để hiểu được triết học hiện sinh. Theo ông, chỉ trong các “tình
huống giới hạn”, như cái chết, tội lỗi, đấu tranh, ngẫu nhiên, người ta mới có
thể cảm nhận được mình là ai. “Tình huống giới hạn” là mặt khách quan của
kiếp người phải hứng chịu và không thể nào chạy trốn được. Tồn tại người (
Dasein) đã hiện sinh trong thế giới thì phải chiến đấu với nó. Với sức yếu
đuối của chính mình hầu như con người không thể nào làm được nhưng may
thay con người có công cụ phục vụ cho cuộc chiến ấy. Cuộc chiến ấy như là
một định mệnh và phải đề cao trách nhiệm của chính chủ thể hiện sinh ấy.
Đây là cơ sở cho quan niệm đạo đức học của Jasper. Sự thiết lập của tội lỗi,
với những gì là tội lỗi thì phải siêu việt cái tôi ấy ra khỏi hoàn cảnh. Điểm
22
chấm hết cho hiện sinh của tôi chính là cái chết. Nhưng ông không đợi một
cái gì đằng sau nấm mồ hiu quạnh mà ông nghĩ rằng cần phải để lại một cái gì
đó mà có giá trị cho đời sau. Đó là cái còn lại có giá trị của một đời người
đóng góp cho lịch sử. Thế mới xứng đáng là một con người.
Từ những điều trình bày trên, có thể nói, triết học Jaspers là kết quả của
những tư tưởng, những suy ngẫm chân thành và sâu sắc về con người. Trong
triết học của ông, người ta thấy những suy tư trong việc đi tìm định mệnh con
người, thấy sự cố gắng của ông trong việc giúp cho con người thoát ra khỏi
cảnh sa lầy tự mãn và do vậy, những suy tư, cố gắng này của ông đã có ảnh
hưởng tích cực tới chủ nghĩa hiện sinh nói chung và đạo đức học hiện sinh
của Sartre nói riêng. Điều đáng ghi nhận nhất trong triết học về con người của
Jaspers là sự thức tỉnh con người, buộc con người phải tự ý thức về trách
nhiệm làm người của mình và phải sống sao cho xứng đáng với sự hiện sinh
ấy. Tư tưởng của Jaspers về tự do cũng mang ý nghĩa sâu sắc, khi nó giúp cho
con người nhận thức được tự do có giới hạn, tự do là ý nghĩa căn bản của hiện
sinh, nhưng đó không phải là tự do vô lối, vô ý thức của con người. Tự do là
hành động xuất phát tự trong tâm khảm của ta. Tự do là do tự ta đã quyết định
như thế và ta hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự quyết định này. Đây thực sự là
nghĩa sâu xa của hiện sinh và cũng là đặc tính của hiện sinh. Con người chỉ tự
do thực sự khi và chỉ khi nó ý thức sâu xa về tính chất giới hạn của tự do hiện
sinh: Tự do của hiện sinh trước hết là một tự do có giới hạn và bị quy định, bị
giới hạn. Bởi lẽ, chính thân xác cũng bị quy định bởi sức khỏe, bởi sức chịu
đựng; bị giới hạn bởi khả năng suy nghĩ, bởi hoàn cảnh... Vì thế, Jaspers
khẳng định tự do của con người không thể có khi thiếu ý thức về sự kiện bị
giới hạn của hiện sinh. Như vậy, có thể nói, tự do hiện sinh của Jaspers khác
với tự do sinh tồn, tự do bừa bãi, khác với tự do tiêu cực của những kẻ yếu
hèn. Tự do hiện sinh là trách nhiệm và lo âu của con người tự giác và dám tự
quyết. Nhân vị tự do là ý thức về quyền tự do của mình, đồng thời cũng ý
23
thức sâu xa về trách nhiệm làm người của mình. Sartre đã tiếp thu quan điểm
về con người tự do của Jasper, theo đó con người phải có trách nhiệm về
chính bản thân mình và xã hội, đề cao trách nhiệm của chính chủ thể hiện
sinh. Đó là bản chất sâu xa của tự do nơi con người. Nó trở thành cơ sở lý
luận cho đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh của J. P. Sartre.
1.3. J.P. Sartre và nền tảng quan niệm đạo đức học của ông
1.3.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của J. P. Sartre
Jean-Paul Charles Aymard Sartre (thường được gọi ngắn gọn hơn là
Jean-Paul Sartre). Ông là nhà văn, nhà triết học hiện sinh Pháp được trao
giải Nobel Văn học năm 1964. Jean-Paul Sartre là một trong những nhà
triết học hàng đầu của Pháp thế kỷ XX. J. P. Sartre sinh ngày 21-06-1905
tại Paris trong một gia đình gia giáo và giàu có. Ông mất ngày 15-4-1980
tại Paris. Mồ côi cha từ năm 2 tuổi, khi mẹ tái giá, ông chủ yếu sống với
ông ngoại. Năm 1924, ông vào học Trường Cao đẳng Sư phạm nổi tiếng,
sau đó làm luận văn Thạc sĩ triết học, đỗ thủ khoa. Ông dạy học ở nhiều
nơi tại Pháp. Từ năm 1933 đến năm 1934, Jean-Paul Sartre sang Đức dạy
học, đồng thời chịu ảnh hưởng nhiều từ triết học Đức, nhất là Hiện tượng
học và những tư tưởng của Heiddeger. Kể từ 1946, sống ở Paris, lần lượt
du lịch viếng thăm và chứng kiến thực tại các nước khác chính thể chính
trị với nhau: Mỹ, Bắc Phi, Nam châu phi, Liên Xô, Thụy điển và nhiều
nước khác nữa. Trong thời gian này ông tiếp tục sự nghiệp triết lý và văn
nghệ không ngừng nghỉ, mỗi lần cho xuất bản một cuốn sách (luận thuyết,
khảo luận, tiểu thuyết, kịch, phim) là mỗi lần gây lên tranh luận quyết liệt
trong giới văn nghệ pháp và ngoại quốc. Sự nghiệp triết lý và văn nghệ
này không bao giờ tách rời các hành động của ông: ở con người J.P.Sartre
bao giờ hành động và lý thuyết cũng khăng khít mật thiết với nhau. Ông
là một trong những nhân sĩ đã gây dựng phong trào chống chiến tranh ở
24
Việt Nam (1950-1954), chiến tranh ở Algérie (1954-1961),…
Jean-Paul Sartre là một trong số các nhà văn coi quan điểm triết học là
trung tâm của hoạt động sáng tạo. Tác phẩm triết học chính L'Être et le Néant
(Tồn tại và hư vô, 1943) là sự tổng hợp quan điểm chính của ông về cuộc
sống. Chủ nghĩa nhân đạo hiện sinh mà Sartre truyền bá trong tiểu luận nổi
tiếng L'existentialisme est un humanisme (Chủ nghĩa hiện sinh là chủ nghĩa
nhân đạo) cũng được thể hiện rõ trong tiểu thuyết Les chemins de la liberté
(Những con đường của tự do, 1945-1949). Từ giữa thập niên 1940, ông
nghiên cứu chủ nghĩa Marx, thành lập tạp chí Les temps modernes (Thời mới),
tuyên truyền các ý tưởng cách mạng, hoạt động xã hội.
Năm 1964 Sartre được Viện Hàn lâm Thụy Điển quyết định trao giải
Nobel nhưng ông từ chối nhận giải vì không muốn mình biến thành một thiết
chế xã hội ảnh hưởng đến công việc hoạt động chính trị cấp tiến. Lý do khiến
tác giả cuốn Les Mots từ chối không nhận giải Nobel, là một lối hành động
thẳng thắn và minh bạch để nhấn mạnh khía cạnh của một nhà văn bao giờ
cũng có những hành động đi đôi với tư tưởng của mình: lý thuyết và việc làm
của ông, cho tới bây giờ lúc nào cũng khăng khít với nhau, không hề có một
khoảng cách chia đôi. Ông hết sức trung thành với quan niệm về văn nghệ nói
chung cũng như tư tưởng chính trị của mình.
Những năm cuối đời Sartre bị mù, không viết được nhưng ông trả lời
vô số phỏng vấn, thảo luận các vấn đề chính trị với bạn bè. Sartre cũng được
biết đến nhiều với tư cách một nhà viết kịch phi lý. Ông nổi tiếng với các vở
kịch Les Mouches (Ruồi) và Huis clos (Phía sau cửa đóng). Ngoài ra, Sartre
còn viết phê bình văn học và các bài nghiên cứu về Charles Baudelaire, Jean
Genet. Cuốn sách viết về thời niên thiếu của ông, Les mots (Lời nói), được
xuất bản năm 1964.
Tác phẩm của ông xoay quanh các chủ đề, hình thức cơ bản sau:
25
Luận thuyết triết lý
Luận thuyết triết lý của Sartre bị ảnh hưởng bởi hiện tượng luận của E.
Husserl. Với các tác phẩm chính là “Tưởng Tượng”(1936), “Sơ thảo một
nguyên lý về xúc cảm” (1939), “Tưởng tượng”(1940). Những tác phẩm này
ông chủ yếu bàn tới vấn đề bản thể luận. Trong đó ông đã xem xét tương quan
giữa Vô thể -Hữu thể. Xem như cơ cấu đích thực của sự hiện sinh của mọi vật
thể. Có nghĩa là ông lật ngược lại vai trò khách quan của cặp Hữu thể -Vô thể.
Hữu thể -Vô thể đã trở thành cặp phạm trù kinh điển của chủ nghĩa hiện sinh
và năm 1943 ông cho xuất bản thành sách. Ông bàn đến cái trống rỗng trong ý
thức con người. Ông đã bàn tới sự tự do trong quan điểm này về vấn đề bản
thể luận. Phê bình lý luận biện chứng(1960) là tác phẩm mà ông đã phê bình
về xã hội hiện sinh. Ông phê phán cách tiếp cận lịch sử của những nhà triết
học theo lối cổ điển trên cơ sở đó đưa ra phương pháp tiếp cận lịch sử mới
ủng hộ cách tiếp cận của chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác. Ông cũng không
quên trả lại cho con người một chỗ đứng mới trong quan điểm về vũ trụ quan.
Tiểu thuyết sáng tạo hay hồi ký
Cũng là một sở trường của Sartre với những tác phẩm tiêu biểu như
“Bức tường” (1939), “Những nẻo đường tự do” (1945), “Tuổi trưởng
thành” (1945), “Triển hạn” 1945), “Những cái chết trong tâm hồn” (1949).
Qua những tác phẩm này có thể thấy được những quan niệm và triết lý sống
của J. P. Sartre. Rằng trong xã hội này chúng ta đều có thể thấy được chán
chường với thế sự của những con người nhận thấy được giá trị đích thực của
cuộc đời này. Sự hiện sinh của mỗi con người tưởng chừng như là một sự
thừa thãi, chứa chất biết bao nỗi niềm. Tất cả không có một lối thoát cho cuộc
đời này, rồi sự cứu rỗi duy nhất là đối diện với sự thật.
Kịch có luận đề
Đây là thể loại mang ông tới với công chúng. Kịch của ông cũng không
26
phải là loại dễ nhận biết mà thuộc vào dạng ẩn dụ và trừu tượng. Mỗi vở kịch
của J.P.Sartre đều có một đề tài trung tâm. Đề tài trung tâm của vở Morts sans
sepulture (Chết không mồ mả, 1946) là vấn đề tinh thần đứng trước đau đớn
thể xác, con người bạo động, tra tấn, chất choc. La Putain respectueuse (Con
đĩ, 1946) tố cáo một hình thức của thái độ ngụy tín của những con người kỳ
thị chủng tộc, giả tạo, xảo trá và bất công. Les Mains sales (Bàn tay nhơ
nhuốc, 1948) đặt vấn đề trong sạch của con người chánh trị, phương tiện và
cứu cánh, thực tế và lý tưởng. Le diable et le Bon Dieu (Quỷ thần và thượng
đế; 1951) trình bày nỗi cô đơn của con người làm chủ định mệnh của mình
trong một vũ trụ không có Thượng đế,… Những sáng tác này của ông được
nhiều đạo diễn và diễn viên đưa vào phim ảnh, sân khấu và đạt được những
tiếng vang, được công chúng mến mộ. Qua những tác phẩm này ông đã tuyên
bố những tư tưởng của mình. Tự do luôn phải là sự đấu tranh dám đương đầu
với trách nhiệm của chính mình. Kịch của ông không thuộc vào thể loại bi
kịch cổ điển, cũng không phải là bi kịch tâm lý, mà là một loại kịch mà con
người đứng trước hoàn cảnh đặc biệt và tự do của con người trong hoàn cảnh
đó. Các nhân vật mà J. P. Sartre bao giờ cũng là nhân vật tự tạo ra, ngay lúc
nhân vật đang lựa chọn và trong sự trói buộc cả cuộc đời nhân vật. Qua đây
ông muốn nâng triết lý hiện sinh bằng hành động đích thực hay hiện sinh
hành động.
1.3.2. Nền tảng của quan niệm đạo đức học của J. P. Sartre
Định lý căn bản của chủ nghĩa hiện sinh Sartre làm cơ sở và khởi điểm
cho mọi tư duy sau này của ông, chính là “sự vắng mặt của Thượng đế”. Hơn
nửa thế kỷ trước, cái chết của Thượng đế đã được chứng nhận bởi những triết
gia Đức: Feuerback, Nietzsche, Marx. Theo Sartre, con người là dự tính
(projet) của mình và tự mình tạo ra mình.
Thân phận con người và tồn tại người
Nếu như triết học truyền thống đã bỏ con người để chạy theo sự vật và
27
giới tự nhiên, thì các triết gia hiện sinh lại dành ưu tiên cho những suy tư về
con người, họ cho rằng việc tìm hiểu con người là khẩn thiết hơn tìm hiểu vũ
trụ, giới tự nhiên. Triết học hiện sinh quan tâm đến tính chủ thể cụ thể của con
người, chứ không phải khái niệm trừu tượng về "chủ thể". Đó là lý do nhiều
triết gia hiện sinh (như Sartre, Camus...) chọn hình thức văn nghệ (tiểu thuyết,
kịch...) để đến gần hơn với đời sống thực, nói lên những băn khoăn, thao thức,
đau khổ và lựa chọn trong "thân phận" làm người. Luận điểm của Socrate:
“Con người hãy nhận thức chính bản thân mình” được coi là tuyên ngôn triết
học của họ.
Thứ nhất, con người mà chủ nghĩa hiện sinh nói đến không phải là con
người phổ quát mà là con người với tư cách là cá nhân có một số phận riêng
biệt và đang sống trong những hoàn cảnh cụ thể. Thân phận của con người,
con người phải là do chính con người tạo nên và không chịu sự quy định của
bất cứ cái gì. Điều đó cho thấy, mục đích của J.P.Sartre cũng như của các nhà
triết học hiện sinh là muốn chối bỏ mọi thứ ràng buộc của xã hội đối với con
người. Triết học truyền thống nhìn nhận con người như một bản tính và ý
nghĩa của cuộc sống đã có sẵn, rõ ràng, còn chủ nghĩa hiện sinh không quan
niệm cuộc sống, thân phận con người lạc quan như vậy. Chủ nghĩa hiện sinh
lo lắng cho thân phận của con người, lo lắng trong nỗ lực đi tìm ý nghĩa của
cuộc sống và xây dựng cuộc sống. Các nhà triết học hiện sinh đã phê phán
triết học truyền thống chỉ nghiên cứu con người như một đối tượng khách
quan, một tồn tại khách quan giống như các sự vật hay các sinh vật khác. Các
nhà triết học hiện sinh cho rằng tồn tại của con người là một tồn tại đặc biệt,
không giống như sự tồn tại của mọi sinh vật khác, tồn tại của con người là
“tồn tại hiện sinh”.
Phát triển tư tưởng của Heidegger về tồn tại vượt trước, J.P.Sartre đưa
ra luận điểm “tồn tại có trước bản chất”. Theo ông, nếu ở các sự vật, đồ vật
hay thú vật bản chất có trước tồn tại thì ở con người thì tồn tại có trước bản
28
chất. Theo Sartre, con người bắt đầu cuộc sống mà không có trước một bản
chất có sẵn, không bị quy định trước bởi bất cứ một bản chất nào, nghĩa là con
người hoàn toàn tự do.
Con người đó là sự tự do lựa chọn, là tự lựa chọn bản thân mình và bản
chất của mình. Con người phải vượt ra khỏi giới hạn của mình, phải vượt lên
trên tồn tại hiện có của mình. Con người có tự do trong một hoàn cảnh cụ thể,
nhưng con người phải tự quyết định, tự lựa chọn mình. Con người là giá trị tự
thân, con người không tạo ra mình theo các thước đo chung. Con người cá
nhân là độc đáo, là không thể được thay thế bằng bất cứ ai hay bất cứ cái gì.
Thứ hai, nếu Heidegger phân biệt tồn tại và cái hiện hữu, thì Sartre
phân biệt tồn tại tự nó và tồn tại cho nó. Tồn tại tự nó gắn liền với tồn tại của
các sự vật vật lý, các sinh vật trong thế giới; tồn tại cho nó gắn liền với tồn tại
của ý thức cá nhân. Hai yếu tố này tương tác, không thể tách rời nhau, tồn tại
cho nó mang ý nghĩa đến cho tồn tại tự nó. Đặc điểm chính của tồn tại tự nó
là tính phi biện chứng tuyệt đối, và tính thụ động tuyệt đối. Nghĩa là tồn tại tự
nó phủ định mọi dấu hiệu nhỏ nhất của sự vận động, phát triển và đối lập. Tồn
tại tự nó là tồn tại không có sự hình thành, phát sinh và phát triển, nó thoát ly
tính thời gian. Vương quốc tồn tại tự nó của Sartre là một vương quốc hiện
sinh chết cứng, không biến đổi, thế giới tồn tại tự nó không có tính biện
chứng. Theo Sartre, tồn tại tự nó như thế không khác gì phi tồn tại, không
khác gì hư vô.
Ngược lại, tồn tại cho nó là cái đối lập, cái khác với tồn tại tự nó, nó là
nguyên nhân của chính nó. Tồn tại cho nó chính là ý thức cá nhân, ý thức cá
nhân xuất phát từ chính bản thân nó, là nguồn gốc của mọi sự sống động của
cuộc sống và ý nghĩa của cuộc sống.
Theo Sartre, con người là tồn tại cho nó. Tuy nhiên, tồn tại cho nó là
một tồn tại không đầy đủ, tồn tại thiếu hụt, luôn hướng về phía trước, luôn
29
thực hiện dự án của chính mình. Vì con người là sự thiếu hụt nên con người
mới thấy thiếu thốn mọi thứ ở đời, cái gì con người cũng cần có, có ít thì
muốn có nhiều, có nhiều thì muốn có nhiều hơn. Tồn tại cho nó khiến cho con
người không ngừng vượt qua, phủ định chính mình và thế giới, không ngừng
làm cho bản thân mình và thế giới có giá trị và ý nghĩa mới. Sự vượt qua, phủ
định và sáng tạo này không thể một lần mà con người đạt được thế giới hoàn
mỹ. Do vậy, con người không ngừng vượt qua, phủ định, sáng tạo. Theo
Sartre, quá trình này là tự do của con người. Ông cho rằng, với tư cách là tồn
tại cho nó, kết cấu bên trong của con người đã là tự do. Hiện sinh của con
người là tự do của con người.
Ta thấy lý luận của ông có bề ngoài của phép biện chứng, vì ông nhấn
mạnh đến quá trình không ngừng vượt qua, phủ định và sáng tạo. Tuy nhiên
đây là phép biện chứng phủ định, nó không giống với phép biện chứng lấy sự
thống nhất của các mặt đối lập làm hạt nhân.
Mặc dù tồn tại tự nó và tồn tại cho nó có đặc trưng trái ngược nhau
nhưng Sartre lại thừa nhận nó thống nhất với nhau. Tồn tại tự nó là cái phông
tối mà trên đó nổi lên tồn tại cho nó đang hoạt động với tư cách là nguồn gốc
chung nhất cho cuộc sống đa dạng và phong phú. Tồn tại cho nó mang ý
nghĩa đến cho tồn tại tự nó. Nếu tồn tại tự nó không có tồn tại cho nó thì cũng
không có ý nghĩa. Trong mối quan hệ này vai trò quyết định thuộc về tồn tại
cho nó chứ không phải tồn tại tự nó.
Thân phận của con người, con người phải là do chính con người tạo
nên và không chịu sự quy định của bất cứ cái gì. Điều đó cho thấy, mục đích
của J.P.Sartre cũng như của các nhà triết học hiện sinh là muốn chối bỏ mọi
thứ ràng buộc của xã hội đối với con người. Trong quan niệm của họ, con
người chẳng lệ thuộc vào bất cứ cái gì, ngoài sự đối diện với chính bản thân
mình, con người tự làm nên bản chất của mình. Quan niệm này của Sartre
cũng đã thể hiện tinh thần của đạo đức học hiện sinh, nghĩa là con người hãy
30
tuân theo nguyên tắc của chính bản thân mình.
Như vậy, triết học hiện sinh nghiên cứu tồn tại của con người chủ
yếu là nghiên cứu về sự tồn tại của thân phận con người chứ không phải
tồn tại của con người với tư cách là một hiện tượng của tự nhiên. Trong
vấn đề bản thể luận J. P. Sartre cho rằng: Chỉ có con người mới là tồn tại
đích thực và bản chất nhất, có khả năng tự định nghĩa bản thể của mình.
Cơ sở triết học tồn tại của J. P. Sartre là Tính ý hướng của E. Husserl.
Con người có tính ý hướng, tính ý hướng này là cơ sở cho bản thể luận
cho những quan niệm về thế giới. Cái tôi ý hướng này luôn hướng tới đối
tượng nào đó là khách thể. Như vậy phải có sự tồn tại của tôi thì khách
thể mới được bộc lộ. Từ đây ông phân biệt giữa tồn tại tự nó và tồn tại
cho nó. Con người là đối tượng vượt ra khỏi những tri thức khoa học. Bản
chất của con người phải được cảm nhận, nhận thức từ chính trong tư
tưởng và hành động của họ và con người là một tồn tại tự do và tự do lựa
chọn của mỗi người, trong cuộc đời là khác nhau. Do đó, thật là sai lầm
khi đưa ra một khuôn mẫu, một công thức chung để đi tìm hiểu thân phận
con người. Những quan niệm của chủ nghĩa hiện sinh về tồn tại người và
thân phận con người như đã nói ở trên là nền tảng hết sức quan trọng cho
quan niệm đạo đức học của chủ nghĩa hiện sinh của J. P. Sartre.
Tồn tại người là tồn tại đặc biệt, có thể ý thức, tự vấn về chính bản thân
mình, con người là do chính mình tạo nên. Mình tự tạo bản chất cho mình và
cuộc sống thường ngày với bao lo toan vất vả đã đặt ra trước con người nhiều
sự lựa chọn. Sự lựa chọn này là tự do của con người, con người tự phải đưa ra
quyết định lựa chọn điều này hay điều khác, và phải chịu trách nhiệm về
quyết định của mình trước bản thân cũng như trước mọi người. Tuy nhiên, có
những điều sâu kín trong con người nhiều khi không thể nhận thức hay giải
quyết được bằng lí trí hoặc bằng một lực lượng vật chất nào đó, con người
không thể hoàn toàn sống với những “quy pháp ban ngày” mà không có
31
những “đam mê ban đêm”... Xuất phát từ chính những điều này mà triết học
hiện sinh đưa ra quan niệm đạo đức học của mình. Cuộc đời con người là hữu
hạn, cuộc sống của con người đang tiến dần đến cái chết, do vậy, con người
hãy nhận thức hiện sinh của mình, vượt qua những ràng buộc của bất cứ lực
lượng nào để sống đúng với nguyên tắc của lòng mình, sống đúng với lương
tâm của mình.
Tồn tại và bản chất
“Đối với con người, tồn tại có trước bản chất”, đó là luận đề quan trọng
hàng đầu của chủ nghĩa hiện sinh do Sartre tuyên bố. Theo luận đề này, bất cứ
vật nào, với ý nghĩa triết học, cũng đều có một bản chất và một tồn tại. Các
triết gia hiện sinh phê phán quan niệm của các nhà triết học cho rằng bản chất
con người là có trước, sau đó con người mới tồn tại, phê phán quan niệm cho
rằng có bản chất chung cho tất cả mọi người gọi là bản chất con người.
J.P. Sartre giải thích: Tồn tại có trước bản chất có nghĩa là, trước hết,
con người hiện hữu, đứng dậy, xuất hiện trong khung cảnh, và chỉ sau đó mới
định nghĩa chính mình. Các nhà triết học hiện sinh quan niệm, nếu con người
là không xác định là vì ban đầu nó không là gì cả, chỉ sau đó nó mới là một
cái gì, và tự nó sẽ làm nó thành cái gì. Như thế không có bản tính người, vì
không có thượng đế để quan niệm về nó...con người không là gì khác ngoài
cái mà tự nó làm thành chính mình. [27, 333]
Theo Sartre, nói tồn tại con người có trước bản chất con người, là để
phân biệt con người với con vật. Vật là một tồn tại không có tự do, không thể
tự sáng tạo ra mình, mà bản chất của chúng là do con người ban cho. Do vậy
bản chất có trước. Ông nêu ví dụ về con dao dọc giấy: trước khi người thợ chế
tạo ra con dao dọc giấy, họ đã có một ý tưởng nó phải như thế nào, phải có
các tính chất nào. Do vậy, bản chất của con dao dọc giấy phải có trong trí
khôn người thợ trước khi nó hiện hữu. Khác với vật, ở con người, tồn tại có
32
trước, vì con người có tự do. Chính tự do đã làm thành bản chất con người,
bản chất con người chỉ có được khi con người bằng sự tự do của mình hành
động dấn thân vào những hoàn cảnh của đời sống để sáng tạo ra mình.
Sartre muốn nói rằng ta không hề hay biết một "bản tính" hay "bản
chất" có sẵn nào đó của con người, chẳng hạn, dùng làm định hướng hay
đường lối cho giáo dục, luân lý và sự phát triển xã hội, hoặc để từ đó, xác
định chỗ đứng của con người trong vũ trụ. Đúng hơn, ta "bị ném vào cuộc
đời" và không có bản tính định sẵn nào cả. Mặt tích cực của quan niệm này là:
khi dự phóng, quyết định, hành động, ta "tự tạo ra chính mình". Thuyết hiện
sinh, theo cách hiểu ấy, đã ảnh hưởng rộng rãi ra khỏi Tây Âu vốn là cái nôi
của nó. Một trong những nhà triết học giáo dục quan trọng nhất của nước Mỹ
là Maxine Greene (1917-2014) phát triển tư tưởng hiện sinh, xoay quanh chủ
đề: Tự do như là Thực tiễn. "Tự do", theo bà, không phải là nhờ sống trong
một "nước tự do", mà vì ta sống theo một cách thế tự do. Lý tưởng của giáo
dục là ở chỗ làm cho con người có năng lực "siêu việt" lên khỏi vị trí hầu như
đã được an bài và khó tránh khỏi ấy. Vậy, chính "con người cụ thể", chứ
không phải bản tính nhất định nào, vẫy gọi con người hãy tự sáng tạo chính
mình. Trong diễn trình ấy, những vấn đề chỉ được đặt ra cho từng con người
cá nhân cụ thể để giải đáp và tiếp tục tìm tòi, vươn tới.
Như vậy, trong quan niệm của J. P. Sartre thì con người sinh ra rồi mới
tạo nên bản chất của chính mình. Đó có thể được hiện diện trong tâm thức hay
trong các dự án định sẵn để tiến tới hành động, do cách lựa chọn của mỗi
người, bằng hoạt động sáng tạo của chính mình, trong một hoàn cảnh sống
của mình. Như vậy ở mỗi người có một bản chât riêng chứ hoàn toàn không
có cái gọi là bản chất chung toàn cầu. Mọi sự tồn tại xã hội do chính con
người cụ thể mang đến. Quan điểm về tồn tại có trước bản chất là điểm khác
biệt căn bản so với những lý luận truyền thống về con người. Là điểm vô thần
cốt yếu của thuyết hiện sinh: Con người hiện hữu trước đã, con người tự thấy
33
mình sinh ra ở đời đã, sau đó con người mới tự định nghĩa mình được. Hiện
sinh chính là cái tôi tự do tuyệt đối không bị ràng buộc vào bất kỳ một hoàn
cảnh, một trật tự nào, hiện sinh người phải kiến tạo ra chính mình bằng một
bản thiết kế theo ý chí hướng. Có nghĩa là nằm ngoài quy luật nhân quả, hiện
sinh đồng nghĩa với tự do tuyệt đối. Câu hỏi khắc khoải của nhà hiện sinh là:
sống có ý nghĩa hay không? Ta phải làm gì đối với thế giới và cải biến thế
giới?. Sự đau khổ và bế tắc là không thể tránh khỏi. Mong muốn đi tìm một
cứu cánh là không thể nào tư duy đuợc. Nhưng may thay cho con người và
với chính Sartre, Tự do đã đưa con người đi ra khỏi tình trạng cay đắng, đoạ
đày của trần thế thê lương. Hiện sinh của tôi không có một tha nhân nào giống
cả. Không có một cơ sở nào làm căn cứ nguồn gốc cho sự hiện hữu của tôi.
Tôi như một ngẫu nhiên bị giới hạn trong bước đường tự do.
Hiện sinh và tự do
Về hiện sinh, với tư cách là cái cốt lõi, cơ bản của tồn tại người, hiện
sinh là phương thức sống, thái độ sống của con người. Nó là phần nguyên
thuỷ nhất, là cuộc sống nội tâm của con người.
Thứ nhất, chủ nghĩa hiện sinh đã phân biệt hiện sinh với sinh tồn. Nếu
như chỉ bám vào sự sống, coi sự sống là vật quý giá nhất và như là tất cả ý
nghĩa cuộc đời thì hiện sinh là vươn lên trên mức sống của sinh vật. Hiện sinh
là ý nghĩa của đời sống, người ta chỉ vươn tới hiện sinh khi nào người ta đã ý
thức được rằng mình sống không phải để mà sống, mà sống là để thể hiện cái
định mệnh cao quý và độc đáo của mình. Hiện sinh không nên hiểu theo nghĩa
thông thường đồng nghĩa với chữ có, chữ là. Từ hiện hữu, con người phải
khao khát vươn tới cái mà anh ta muốn trở nên, phải vượt lên cái mà anh ta
hiện là. Hiện sinh tiềm ẩn những khả năng khôn cùng để con người tự do thực
hiện một tồn tại cao hơn. Theo Sartre, hiện sinh lúc đầu là hư vô, con người
“lúc đầu không thể hiện là gì cả” và tất cả mọi cái đang sinh thành đều bắt
nguồn từ hư vô. Tuy nhiên, với tư cách là một trạng thái của con người, sự
34
hiện sinh là tự do. Tự do là cơ sở của cái có tính người trong con người. Lúc
đầu con người không được quy định trước bởi thể xác hay bởi các quy định xã
hội nào. Con người hành động một cách đa dạng, không thể hiện trước, không
phụ thuộc vào những hạn chế tưởng tượng.
Thứ hai, ở Sartre, hiện sinh còn là hành vi sáng tạo, sáng tạo của con
người là không tuân theo bất kỳ khuôn mẫu có sẵn nào. Hiện sinh không phải
"là" và cũng không phải "sống", mà là sống với cuộc sống của mình, nghĩa là
từ cái "là" đến cái mình "sẽ là", phải sống với cuộc sống đích thực của mình.
Điều đó chứng tỏ rằng, mỗi hiện sinh không bao giờ được ở nguyên một chỗ,
mà phải vươn tới cái mình "sẽ là", tức là luôn hướng tới cái mà mình "hiện
chưa là". Như vậy, người hiện sinh là người phải giác ngộ được tính chất cao
quý và độc đáo của mình. Người hiện sinh phải biết rõ những khả năng của
mình, và phải biết khai thác những khả năng đó.
Về tự do, chủ nghĩa hiện sinh Pháp gắn liền với tiến trình giải phóng
nước Pháp khỏi chủ nghĩa phát xít, do đó chủ đề về tự do của con người nổi
lên hàng đầu. Như đã biết, nguyên lý của chủ nghĩa hiện sinh là con người
không có bản tính, con người không làm theo chương trình của ai, nó không
có sứ mạng làm vì ai. Nó chỉ là cái mà nó là, con người tự sáng tạo bản chất
của mình. Con người tự tạo nên mình, làm cho mình trở thành mình. Đây
chính là tính chủ thể của con người, và tự do của con người được biểu hiện
qua tính chủ thể này. Ở chủ nghĩa hiện sinh, xuất phát từ tự do, người ta có
thể làm rõ mọi phạm trù của đạo đức học như: thiện và ác, lương tâm và danh
dự, công bằng và lạc quan. Tất cả những gì là đạo đức đều được đặt dưới ánh
sáng phê phán của tự do [16, 49].
Thứ nhất, tự do là tự do lựa chọn, là lựa chọn nền tảng cho chính tôi
thực hiện. Tự do không có bản chất nào cả. Con người tự phát hiện về mình,
về tự do của mình. Tự do không có bản chất nhưng tự do lại là nền tảng của
mọi bản chất mà hiện sinh đi tới. Tự do lựa chọn của con người là không
35
cùng. Nhà hiện sinh cho rằng ngay cả khi con người sống trong hoàn cảnh bị
ngoại giới trói buộc thì con người vẫn có tự do ở chỗ đảm nhận nó. Theo chủ
nghĩa hiện sinh, tự do ngang hàng với tồn tại. Họ cho rằng, chỉ cần con người
sống là con người có tự do, tự do là một điều con người không thể tránh khỏi.
Sartre khẳng định rằng, con người tự do lựa chọn bản chất của mình và trở
thành người do chính mình tạo nên vì tồn tại có trước bản chất, tự do của con
người có trước bản chất. Bản chất của con người chỉ có được khi con người
dấn thân vào những hoàn cảnh của đời sống để sáng tạo ra mình, sáng tạo ra
bản chất của mình. Trong triết học truyền thống hay trong triết học Mác, tự do
là nhận thức được những quy luật tất yếu, vì triết học này thừa nhận sự tồn tại
của những quy luật khách quan và tính tất yếu của chúng. Tuy nhiên, vào buổi
đầu của lịch sử, do khả năng hạn chế, con người chưa nhận thức được, chưa
giải thích được những bí ẩn của giới tự nhiên nên con người chưa có tự do, và
nếu nhận thức của con người càng sâu sắc thì con người càng có tự do.
Sartre khẳng định cho tới lúc chết, thậm chí cả khi đang hấp hối, con
người vẫn là người tự do và có trách nhiệm trong việc tạo dựng và thực hiện
giá trị. Và tự do của Sartre là thứ tự do con người lựa chọn khi tư tưởng đứng
trước nhiều khả năng khác nhau, không bị hạn chế gì, không bị quy định bởi
bất cứ yếu tố nào ở bên ngoài. Hoàn cảnh khách quan bên ngoài tự nó không
thể giới hạn tự do của con người, bởi con người có thể tự do chấp nhận, cũng
như tự do không chấp nhận hoàn cảnh, nghĩa là tự do tỏ thái độ đối với hoàn
cảnh ấy, gán cho nó bất cứ một ý nghĩa nào. Một người nào đó có thể không
thể tự do hành động một việc gì đó nhưng trong ý nghĩ thì họ có thể tự do suy
nghĩ, chẳng hạn một tội phạm không thể tự do vượt ngục nhưng trong ý nghĩ
thì họ có thể tự do lựa chọn sự chốn chạy. Người nô lệ bị xiềng xích không
thể tự do chạy trốn chủ nô, nhưng cũng có thể là người tự do trong việc xác
định thái độ của mình đối với tình trạng nô lệ như lựa chọn sự trốn chạy hoặc
biện pháp chống đối
Thứ hai, trong triết học Sartre, tự do là cái mà con người tất nhiên phải
36
có, tự do là tuyệt đối cho con người ở ngoài tính quy luật và tính nhân quả. Tự
do không thể phân biệt với tồn tại, ông cho rằng chỉ cần con người sống là có
tự do, tự do là điều con người không thể tránh khỏi, tự do là cái được phán
quyết cho con người, do đó con người không phải được tự do mà bị tự do.
Sartre viết “Tự do không thể hiểu được, mà được mô tả như là năng lực tách
biệt của tâm thần con người. Chúng ta cố gắng xác định con người như tồntại
mà nhờ đó cái hư vô hiện ra, và tồn tại này hiện ra với chúng ta như là tự do...
Sự hiện sinh người có quan hệ với bản chất của nó không phải như sự tồn tại
với bản chất trong thế giới vật thể. Tự do tồn tại trước bản chất của con người,
tự do là điềukiện mà nhờ đó bản chất người nói chung là có thể. Cái mà chúng
ta gọi là tự do, không bị tha hoá khỏi thực tại người. Không nên nói rằng, con
người ngay từ đầu đã tồn tại, sau đó mới có tự do: giữa tồn tại người và tự do
không có ranh giới” [15, 120]. Đối với Sartre, tự do là cái con người tất nhiên
phải có. Từ chỗ khẳng định tự do là hoạt động ý thức nên theo Sartre chỉ cần
con người sống, có ý thức thì con người có tự do.
Sartre cũng nhấn mạnh tự do là bản thân hành vi lựa chọn chứ không
phải là thông qua lựa chọn mà có được tự do, nghĩa là kết quả của sự tự do lựa
chọn không quan trọng. Một số sự lựa chọn có thể không đem lại kết quả như
mong muốn, không thành công nhưng điều này không liên quan đến tự do,
bởi tự do chính là cái tôi đã tự do lựa chọn theo suy nghĩ của tôi và sự lựa
chọn đó dù đúng dù sai vẫn là do tôi tự do lựa chọn. Sartre quan niệm tự do
như là một tự do tuyệt đối mà biểu hiện của nó là sự lựa chọn hành động. Tự
do ấy không cần bất kỳ một bản chất nào làm cơ sở mà đơn giản là hoàn cảnh
bắt ta phải lựa chọn phù hợp với lương tâm và trách nhiệm của mình. Đó mới
là làm người đích thực hay hiểu đơn thuần là khi tôi hiện sinh là lúc tôi chọn
cách thức hành động khi đó tôi hiểu tôi hiện sinh. Công cuộc hiện sinh là
công cuộc sau khi sinh ra tồn tại và trước cái chết. Hiện sinh là khoảng giữa
của sự sinh thành và cái chết. Cho nên, đạo đức học của ông phải là: Hiện
37
sinh là tự do. Tự do là tuyệt đối nơi con người.
Như vậy, theo thuyết tự do của Sartre thì ai cũng có thể thực hiện sự
lựa chọn trong tư tưởng dù ở trong hoàn cảnh nào, trong trạng thái lo âu, sợ
hãi hay bình tĩnh, tự tin và sự lựa chọn này là tự do. Sự lựa chọn này do bản
thân cá nhân tiến hành chứ không phụ thuộc theo một tiêu chuẩn đặt sẵn,
không bị ràng buộc bởi bất cứ dư luận xã hội nào. Nó do ý muốn chủ quan
của con người, nó căn cứ vào ý nguyện của con người... Tuy nhiên, để tránh
rơi vào chủ nghĩa chủ quan thì Sartre đã khẳng định cần phải gắn sự tự do lựa
chọn với trách nhiệm đạo đức, nghĩa là mỗi cá nhân phải có ý thức, trách
nhiệm trước bản thân mình, trước người khác khi đưa ra sự lựa chọn của mình
chứ không phải chịu trách nhiệm trước một đối tượng nào đó như pháp luật,
chuẩn mực xã hội, chuẩn mực đạo đức... và trách nhiệm không phải là yêu
cầu của cảnh sát, mà là sự hưởng ứng đối với hiện tượng tự do. Theo Sartre,
mỗi cá nhân tự đưa ra sự lựa chọn của mình nên kết quả sự lựa chọn đó như
thế nào thì bản thân cá nhân phải tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình
chứ không thể đổ lỗi cho bất cứ ai cả. Toàn bộ sự thành bại, được mất đều do
chính tôi tạo nên, do vậy, nếu có thất bại cũng không thể có ai gánh vác trách
nhiệm hộ tôi. Nếu sự lựa chọn là thất bại ta có thể đưa ra sự lựa chọn mới để
dẫn đến thành công.
Thứ ba, Sartre ca ngợi tự do sáng tạo và trách nhiệm đối với tự do. Tuỳ
tiện là tự do thiếu trách nhiệm đối với sự tự do. Tuỳ tiện không những không
bảo vệ, mà ngược lại, còn tiêu diệt tự do. Chẳng hạn, phạm tội không phải là
hành vi tự do, mà là hành vi tuỳ tiện, nó bóp chết tự do của con người. Người
theo triết học hiện sinh nhất quán luôn gắn liền hiện tại với tương lai, coi hiện
tại là cái cần phải mở ra một viễn cánh cho tương lai. Sư vô trách nhiệm đối
với tương lai sẽ hạn chế "tự do". Tự do không có cơ sở, cũng như con người
vốn dĩ đã được tự do. Con người và chỉ có con người mới có quyền tự do
quyết định mình sẽ trở thành người nào và như thế nào. Con người xuất phát
38
từ lương tâm, từ thế giới nội tâm của mình để tự quyết định việc đó, chứ
không phải do người khác, cái khác quyết định thay cho mình. Vậy tại sao cá
nhân không những phải tự chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình trước
bản thân mà còn phải chịu trách nhiệm trước người khác.... Bởi vì sự lựa chọn
của cá nhân còn liên quan đến người khác, đến toàn nhân loại, do đó mỗi cá
nhân không chỉ quan tâm đến vận mệnh của mình mà còn phải quan tâm đến
vận mệnh của người khác. Khi tôi thực hiện sự lựa chọn, tôi coi mình như
một mẫu mực cho mọi người xem, cho mọi người noi theo.
Như vậy, theo Sartre, mọi giá trị đạo đức đều bắt nguồn từ sáng tạo của
cá nhân, đều do cá nhân phụ trách. Con người không thể né tránh tự do không
thể tự lừa dối mình. Do vậy, con người sẽ rơi vào tâm trạng cô đơn, buồn
phiền. Họ cô đơn, buồn phiền vì không thể không đưa ra sự lựa chọn và cũng
không thể dựa vào người khác để đưa ra sự lựa chọn mà phải tự bản thân
mình, phải dựa vào mình, và khi đã quyết định lựa chọn cái gì thì cá nhân
phải tự chịu trách nhịêm trước bản thân mình, trước người khác, trước xã
hội...
Tự do vốn phi lý nhưng nó được tồn tại người lựa chọn nên buộc phải
có trách nhiệm. Tự do là khả năng lựa chọn và tự quyết. Ngoài ra nó còn là
một sự sáng tạo, làm những việc trái với truyền thống, những việc không ai
nghĩ tới. Tự do đè nặng lên vai con người Sartre. Mọi hành động phải do cá
nhân đảm nhiệm, tránh đi mọi cái hèn hạ và nhu nhược. Thái độ với tự do của
Sartre là chân chính vì nó là cơ sở của mọi hành động của riêng ông. Hậu quả
của mọi lựa chọn chính ta phải là người tự gánh vác tránh thái độ đùn đẩy, ỉ
lại vào hoàn cảnh. Sự đánh mất mình đã dẫn tới tệ sùng bái tôn giáo, sự lừa
dối mình, sống giả tạo, không trung thực với lòng mình.
Con người phải trút bỏ hết những luật lệ, tiền định có sẵn và giành lấy
tự do hoàn toàn, phải dùng tự do ấy mà lựa chọn, đảm đương lấy trách nhiệm
về hành động của mình, tìm trong xã hội loài người để thực thi hành động ấy
39
trọn vẹn. Song, tâm hồn nhiều khi bị dao động, do dự, ngập ngừng, không
dám và không tự quyết định thi hành ý chí dự tính. Thành ra, ta đã tự biến
mình thành kẻ thấp hèn. Tránh sự thấp hèn này để vươn tới tự do lựa chọn và
tự quyết là toàn bộ hạt nhân của tư tưởng đạo đức học của J. P. Sartre.
Tóm lại, Sartre đã phân biệt hiện sinh với sinh tồn, ở Sartre, hiện sinh
còn là hành vi sáng tạo, sáng tạo của con người là không tuân theo bất kỳ
khuôn mẫu có sẵn nào. Tự do với Sartre là tự do lựa chọn, là lựa chọn nền tảng
cho chính tôi thực hiện; tự do là cái mà con người tất nhiên phải có, là tuyệt đối
cho con người ở ngoài tính quy luật và tính nhân quả. Thêm vào đó Sartre còn
ca ngợi tự do sáng tạo và trách nhiệm đối với tự do. Tự do của chủ nghĩa hiện
sinh là tự do hiện sinh, tự do lựa chọn, tự do quyết định. Tự do ở đây là dám là
mình. Nếu tôi cứ sống như cái máy, ở trên bảo sao tôi làm vậy, người ta bảo
sao mình làm vậy, thì tôi mới chỉ sống như một sinh vật, chưa sống cái kiếp
người của tôi. Cuộc sống ù lì đó, sống chỉ để sinh tồn, sống như cây cỏ đó,
Sartre gọi là buồn nôn. Trong “Buồn nôn” của Jean-Paul Sartre, nhân vật luôn
luôn buồn nôn như một thái độ phản kháng những gì thuộc về lí tính cứng nhắc
siêu hình. Nhân vật chính Roquentin đang trên con đường khám phá ra lí do
tồn tại của con người là...không có lí do gì hết. Và con người muốn vượt khỏi
cuộc sống tầm thường đó thì phải vượt lên trên mình, phải sống một cách độc
đáo. Độc đáo ở đây không có nghĩa lập dị mà có nghĩa là tự do chọn lấy một lối
sống riêng, không bắt chước người khác và cũng không chịu sự sai bảo, kiềm
chế của người khác. Độc đáo là tự xác định nhân vị của mình. Con người phải
trút bỏ hết những luật lệ, tiền định có sẵn và giành lấy tự do hoàn toàn, phải
dùng tự do ấy mà lựa chọn, đảm đương lấy trách nhiệm về hành động của
mình, tìm trong xã hội loài người để thực thi hành động ấy trọn vẹn. Song, tâm
hồn nhiều khi bị dao động, do dự, ngập ngừng, không dám và không tự quyết
định thi hành ý chí dự tính. Thành ra, ta đã tự biến mình thành kẻ thấp hèn.
Tránh sự thấp hèn này để vươn tới tự do lựa chọn và tự quyết là toàn bộ hạt
40
nhân của tư tưởng đạo đức học của J. P. Sartre.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Chủ nghĩa Mác –Lê nin đã chỉ ra quy luật cơ bản của đời sống xã hội
là: Mọi quy luật của ý thức xã hội chỉ được ra đời trên một tồn tại xã hội nhất
định và bị quy định bởi chính tồn tại xã hội đó. Đạo đức học trong chủ nghĩa
hiện sinh cũng không nằm ngoài quy luật này. Chính sự khủng hoảng về
chính trị, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự sùng bái quá mức lý tính
trong chủ nghĩa duy lý đã gây nên sự khủng hoảng, sự bại hoại tinh thần trong
xã hội phương Tây hiện đại. Tình trạng con người bị bần cùng hoá, bị kiệt
quệ, không tìm ra lối thoát trong bộ máy kỹ thuật khổng lồ của xã hội phương
Tây hiện đại là bối cảnh thuận lợi cho sự ra đời đạo đức học hiện sinh nói
chung và quan niệm đạo đức của J.P.Sartre nói riêng.
Thêm vào đó, tư tưởng đạo đức học của J. P. Sartre cũng không được ra
đời từ hư vô mà phải kể tới ba nguồn gốc tư tưởng trực tiếp sau: Một là, Triết
học đời sống của A. Schopenhauer, F. Nietzsche, H. Bergson,…; Hai là,
hiện tượng luận E. Husserl; Ba là, chủ nghĩa hiện sinh của K. Jaspers và M.
Heidegger.
Tiếp thu và phát triển từ các bậc tiền bối đi trước, Sartre đã xây dựng
cho mình một nền tảng vững chắc để hình thành quan niệm đạo đức học của
mình. Những quan niệm về tồn tại người và thân phận con người, tồn tại có
trước bản chất, tự do là tự do hiện sinh, tự do lựa chọn, tự do quyết định và
phải gắn với trách nhiệm.
Như vậy, có thể nói, bối cảnh xã hội phương Tây cuối thế kỷ XIX, đầu
XX cùng với sự bùng nổ, phát triển của chủ nghĩa duy lý và những tư tưởng
của các nhà triết học đặt nền móng cho chủ nghĩa hiện sinh, là những bối cảnh
lịch sử và nguồn gốc không thể thiếu được cho sự ra đời của đạo đức học hiện
41
sinh nói chung và quan niệm đạo đức học của J.P.Sartre nói riêng.
CHƯƠNG 2. QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC HỌC TRONG CHỦ NGHĨA
HIỆN SINH CỦA J.P.SARTRE
2.1. Quan niệm về thiện và ác
Nói đến đạo đức học ta không thể không nói tới những quan niệm nền
tảng của nó như thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, tội lỗi... Vậy trong chủ
nghĩa hiện sinh nói chung và quan điểm đạo đức của J. P. Sartre nói riêng,
như thế nào được coi là thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm... ?
Trong đạo đức học Mác –Lênin, thiện là giá trị đạo đức khẳng định
lợi ích xã hội, bất cứ yếu tố cấu trúc nào có tác động khẳng định lợi ích
xã hội thì được coi là giá trị thiện. Ý nghĩ và hành vi bảo vệ tài sản xã
hội chủ nghĩa, hy sinh bảo vệ tổ quốc là những giá trị thiện. “Ác” là
phản giá trị đạo đức, phủ định lợi ích xã hội. Yếu tố cấu trúc nào có tác
động khẳng định lợi ích xã hội hay lợi ích của người khác thì bị coi là
ác, ý nghĩ và hành vi ăn cắp, tham nhũng tài sản xã hội chủ nghĩa, ý nghĩ
và hành vi phản bội Tổ quốc là những ác.
Thứ nhất, thiện, ác theo quan niệm đạo đức học hiện sinh là những
nguyên tắc đạo đức do mỗi cá nhân tự tạo ra thông qua hành vi lựa chọn của
mình, chính hành vi chọn lựa của chúng ta sẽ tạo ra cái thiện hay cái ác.
“Thiện” trong chủ nghĩa hiện sinh được thể hiện với tư cách các phương diện
hiện sinh của tự do và trách nhiệm về tự do. “Ác” là sự từ bỏ thiện. Giá trị
thiện thể hiện ở hành động phù hợp, đúng với mong muốn, tiêu chuẩn của cá
nhân đặt ra, nếu cá nhân nào làm trái với nguyên tắc của lòng mình thì hành
vi đó sẽ tạo ra cái ác. Điều này có nghĩa là, nếu theo quan niệm đạo đức học
Mác –Lênin, giá trị thiện, ác gắn liền với lợi ích của xã hội, lợi ích của người
khác, bị ràng buộc vào những chuẩn tắc của xã hội, của luật pháp... thì đạo
đức học trong chủ nghĩa hiện sinh lại gắn liền với tự do. Hành vi chọn lựa của
42
chủ thể sẽ tạo ra cái thiện hay cái ác gắn liền với tự do. Theo Sartre mỗi con
người đều có tự do, tự do là tự do lựa chọn và đưa ra quyết định trong những
tình huống nhất định của cuộc sống, tự do không dựa trên cơ sở nhận thức và
tuân theo quy luật tất yếu khách quan như quan niệm của triết học Mác. Đạo
đức học theo chủ nghĩa hiện sinh, không phải chọn các giá trị đúng, các giá trị
chuẩn mực theo tiêu chí của xã hội. Bởi ngoài tự do sẽ không có giá trị nào
tồn tại độc lập với các lựa chọn của chúng ta, bởi chính hành vi chọn lựa của
chúng ta sẽ tạo ra cái tốt hay cái xấu, cái thiện hay cái ác.
Thứ hai, Sartre đã thể hiện một cách sâu sắc những biểu hiện của cái
thiện và cái ác trong vở kịch trác tuyệt: Le Diable et Le Bon Dieu (Ác Quỷ và
Thượng Ðế) (Chúa của Kitô giáo), (1951). “Diable” (ác quỷ) và “Dieu”
(thượng đế) là hai khái niệm tôn giáo đặc thù của ba tôn giáo lớn trong Thánh
Kinh (Bible). “Dieu” biểu hiện Thiện-tuyệt-đối, Diable biểu hiện Ác-tuyệt-
đối. Trong vở kịch này nổi bật lên là nhân vật Goetz - kẻ muốn tự mình là
mình, ngang hàng với Chúa nhưng trong thế đối lập, chỉ làm chuyện ác để
chứng mình rằng Chúa không có thực và, nếu có, cũng bất lực, không có khả
năng ngăn cản chàng làm chuyện ác. Cuối vở kịch, chàng công nhận thua
cuộc, chấp nhận cho Heinrich - là linh mục của kẻ bần cùng bị kết án là phản
bội Nhà Thờ, hành hạ mình, than trách Chúa đã im lặng, và chợt hiểu:
- Linh mục, mày có lý, mọi chuyện đều do tao bày đặt. Một mình tao.
Tao đã lạy lục, xin một dấu hiệu, tao đã gửi thông điệp tới tận Trời: không ai
trả lời. Ông trời không biết đến cả tên tao. Từng giây, từng phút, tao tự hỏi
mình có thể là gì dưới cặp mắt của Chúa. Bây giờ tao đã biết câu trả lời:
không là gì cả. Chúa không thấy tao, không nghe thấy tiếng kêu gọi của tao,
không biết đến tao. Mày thấy khoảnh trống trên đầu chúng ta không? Chúa
đấy. Mày thấy lỗ hổng trong cánh cửa kia không? Chúa đấy. Sự im lặng,
chính là Chúa. Sự vắng mặt, chính là Chúa, nỗi cô đơn của con người. Chỉ
còn có tao thôi: một mình, tao đã quyết định gì là Ác; một mình, tao sáng tạo
43
gì là Thiện. Chính tao đã gian dối, tao, con người đã từng làm ra những
chuyện mầu nhiệm, tao, con người đang tự lên án mình hôm nay, chỉ có tao
mới có khả năng tha tội cho tao; tao, con người. [9, 25]
Chúa ở đây không đơn thuần là Chúa của Kitô giáo mà là mọi niềm tin
đã bị thần thánh hoá, thiêng liêng hoá như sự thật hay quy luật khách quan
của lịch sử chẳng hạn, rồi đặt lên trên đầu con người để tự nó trói buộc đời
nó, biến đời nó thành định mệnh, từ đó ta cảm nhận được ngay tầm vóc tư
tưởng của vở kịch. Theo Sartre, con người có quyền lựa chọn bất cứ cái gì và
hành động theo những gì mình chọn là có tự do, đó chính là thiện. Con người
không bị ràng buộc bởi bất kỳ cái gì ngoại trừ phải đối diện với chính bản
thân mình để tự đưa ra quyết định lựa chọn theo cách riêng của mình. Tự do
của con người không theo khuôn mẫu có sẵn nào, tự do của con người chỉ có
thể đạt được trong sự tìm kiếm một nghệ thuật sống ở đời bằng cách không
bao giờ chấp nhận một giá trị định sẵn nào.
Những việc làm được chỉ đạo, chi phối bằng yếu tố bản năng của con
người, mà không theo khuôn mẫu giá trị định sẵn, theo quan niệm đạo đức
học trong chủ nghĩa hiện sinh sẽ mang giá trị thiện; còn khi hành động của
con người bị ràng buộc, trói chặt vào những thói quen, những công thức xã
hội, những tập tục truyền thống lạc hậu có sẵn thì con người sẽ mất tự do, mất
tự do bởi vì con người hèn nhát, an phận chịu giam hãm trong nhà tù của
những chuẩn mực, khuôn mẫu đúc sẵn, của những quy tắc. Điều này nghĩa là
con người an phận theo những chuẩn tắc của xã hội mà quên đi mình phải
sáng tạo, phải độc đáo, phải thể hiện sự tự do của mình qua những hành động
được dẫn dẵn bằng bản năng, bằng nguyên tắc của lòng mình để tạo ra chính
mình. Những suy nghĩ và việc làm này chính là sự từ bỏ thiện, nói cách khác,
cái ác được thể hiện ở đây. Sartre cũng kêu gọi con người sáng tạo vì tự do
của con người là tự do sáng tạo chứ không dập khuôn máy móc theo những gì
định sẵn, nếu ai đó cho rằng con người không có tự do thì đều sai trái, nhưng
44
nếu con người lựa chọn cái hèn hạ thì điều này đồng nghĩa với việc con người
tự hạn chế tự do của chính mình. Do đó, để con người thực sự được tự do một
cách sáng tạo, thì con người phải đánh giá các giá trị để thiết lập trật tự các
giá trị mở đường cho tự do và sáng tạo, đó cũng chính là biểu hiện của cái
thiện theo Sartre.
Thứ ba, đối với Sartre, người làm điều thiện là người dám ăn dám nói
theo suy nghĩ của mình, dám nói đến cùng không dấu diếm bất cứ chi tiết nào,
không sợ bất cứ lời dị nghị xã hội nào và dám hành động theo lương tâm của
mình. Người có đạo đức, làm điều thiện là người phải giành lấy tự do từ
những tập tục truyền thống, những quy ước xã hội và khi đã giành được tự do
thì con người không nên giữ nó trong tháp ngà mà phải dùng tự do để dấn
thân vào trong xã hội, vào trong cõi đời này, phải dựa vào tự do để thực hiện
những hành động có ích.
Nói tóm lại, dám là chính mình sẽ trở thành người có đạo đức theo
quan niệm đạo đức học của Sartre cũng như của chủ nghĩa hiện sinh. “Đạo
đức không phải vấn đề chọn các giá trị “đúng”, bởi vì ngoại trừ tự do, không
có giá trị nào khác tồn tại độc lập với các chọn lựa của chúng ta. Chính hành
vi chọn lựa của chúng ta tạo cho nó giá trị, làm cho nó thành tốt. Nhiệm vụ
đạo đức của chúng ta là nhìn nhận tự do hoàn toàn của mình và sử dụng nó để
tạo ra chính mình” [27, 331]
Tóm lại, những quan niệm về thiện và ác xem như là giá trị tuyệt đối,
những giá trị cố hữu được định sẵn bởi những tập tục, công thức, những
chuẩn mực xã hội đều bị bác bỏ theo nguyên tắc đạo đức học của chủ nghĩa
hiện sinh. Theo các nhà đạo đức học hiện sinh, thiện và ác chỉ có thể liên hệ
tới một hoàn cảnh đặc biệt, hành động của con người phải hướng tới cái thiện,
loại trừ cái ác. Trong tình thế, hoàn cảnh hiện thời con người đang sống, cái
ác cần diệt trừ, cái họa, cái nạn của thế giới cần phải loại bỏ là tình trạng
nghèo đói, là sự áp bức bóc lột, sự lừa dối, giả tạo.... Xuất phát từ tự do với
45
thân phận bi đát của con người. Cái thiện, cái ác trên lập trường của J. P.
Sartre đều được thiết lập trên một chủ quan tính. Con người là kẻ lập pháp
cho chính mình, phải tự mình quyết định chọn lựa lấy tất cả.
2.2. Về trách nhiệm
Bên cạnh việc quan tâm tới các yếu tố thiện và ác, tới các hành động có
thể coi là đúng hay sai, tốt hay xấu, đạo đức học còn quan tâm tới trách
nhiệm, nghĩa vụ hay bổn phận của mỗi cá nhân đối với hành vi của mình. Đạo
đức trong triết học hiện sinh cũng không thể bỏ qua bổn phận, trách nhiệm
của con người tới việc làm, tới sự lựa chọn, tới quyết định của chính mình
trên cơ sở tự do lựa chọn và sáng tạo. Để hiểu và đánh giá đúng giá trị của tư
tưởng về trách nhiệm trong đạo đức học hiện sinh của Sartre, chúng ta phải
làm rõ những nội dung cơ bản của nó. Những nội đó được trình bày một cách
khái quát như sau.
Thứ nhất, con người phải có trách nhiệm về sự hiện hữu của mình, về
lựa chọn bản chất của mình trong xã hội. Ở đây ta thấy, theo đạo đức học
mácxít, trách nhiệm của mỗi cá nhân là tuân theo những chuẩn mực, khuôn
mẫu giá trị do xã hội hoặc người khác đặt sẵn cho mình. Nếu hoàn thành công
việc theo đúng những quy tắc có sẵn đó của xã hội sẽ được coi là có trách
nhiệm đạo đức, ngược lại, không tuân thủ nguyên tắc ưu tiên lợi ích xã hội,
không làm theo chuẩn mực chung của xã hội, mà quyết định lựa chọn theo ý
muốn chủ quan của cá nhân mình, theo nguyện vọng, bản năng của mình sẽ bị
coi là thiếu trách nhiệm, không có trách nhiệm.
Như đã biết, nguyên tắc thứ nhất của chủ nghĩa hiện sinh là con người
không là gì khác ngoài cái mà tự nó làm thành chính mình, nhờ có tự do mà
con người tạo ra chính mình, con người trước hết là một hiện hữu ném mình
tới một tương lai và là hiện hữu ý thức về việc hình dung mình là hiện hữu
trong tương lai. Con người là khởi điểm của một kế hoạch tự ý thức về mình,
hơn là một mảng rêu, một mớ rác, hay một cây cải; không có gì tồn tại trước
46
kế hoạch này; không có gì ở trên đời cả; con người sẽ là cái mà nó dự định trở
thành. Đó trước hết là trách nhiệm về mình, về số phận của mình. Mỗi người
tự đáy lòng mình đều biết rằng chỉ có bản thân nó chịu trách nhiệm về số
phận, về những thành công và thất bại của mình, thậm chí cả trong trường hợp
nó muốn đổ lỗi cho người khác hay cho hoàn cảnh.
Thứ hai, con người phải có trách nhiệm trước bản thân mình, trước
người khác và với toàn xã hội khi đưa ra sự lựa chọn của mình. Sartre viết:
"Tôi chịu trách nhiệm... về bản thân tôi và về mọi người. Tôi tạo ra cho mình
một hình ảnh người xác định mà tôi lựa chọn. Tôi lựa chọn mình, tôi lựa chọn
con người nói chung" [17, 13]. Nói cách khác, với Sartre thì con người, bằng
hành động của mình, không những lựa chọn số phận của mình và bản thân
mình, mà còn tác động theo một cách nào đó đến người khác.
Sartre muốn chứng tỏ sự sống của con người là không thể thiếu
gánh nặng trách nhiệm: về bản thân, về người thân, về Tổ quốc của mình
và về toàn thể nhân loại. Nhiều người chạy trốn trách nhiệm này, làm ra
vẻ không cảm nhận thấy nó, nhưng nó không buông tha họ. Con người
không thể hoàn toàn chạy trốn khỏi lo âu, khỏi sự quan tâm và trách
nhiệm. Điều đó chỉ có ở những người bị bệnh tâm thần, nghiện ma tuý,
song cũng không phải tuyệt đối. Thực ra thì bệnh tâm thần, tự sát, say
rượu và nghiện ma tuý là ý đồ chạy trốn khỏi gánh nặng cuộc đời và
chứng tỏ gánh nặng ấy đã vượt quá mức mà con người có khả năng chịu
đựng. Tuy nhiên, ngay cả trong xã hội hoàn hảo nhất thì con người vẫn
phải gánh vác những nghĩa vụ, phải quan tâm và lo âu. Chính vì vậy mà lo
âu, quan tâm hay trách nhiệm không phải là các phạm trù xã hội, mà là
các phạm trù hiện sinh. Chúng biểu thị cái vốn có ở sự sống với tư cách là
sự sống của con người, không phụ thuộc vào thời gian, vị trí và chế độ
kinh tế - xã hội. Sự sống bao giờ cũng là một gánh nặng. Do vậy, nó đòi
hỏi con người phải có lòng dũng cảm để sống, phải kiên định chịu đựng
47
gánh nặng của cuộc đời.
Chính sự tự do của con người là hành vi tự tạo ra giá trị, hành vi của
mỗi cá nhân sẽ phát minh ra giá trị. Con người sẽ phải tự quyết trong việc lựa
chọn hành vi của mình chứ không thể dập khuôn theo những giá trị định sẵn
và cũng không thể dựa vào người khác để đưa ra quyết định cho mình vì
con người phải tự tạo ra chính mình và phải tự chịu trách nhiệm về chính sự
lựa chọn của mình. Do vậy, đối với đạo đức học hiện sinh, trách nhiệm, bổn
phận là việc phục tùng những giá trị mà bản thân mình lựa chọn, chứ không
phải phục tùng những giá trị của xã hội hay của người khác đã lựa chọn, sắp
xếp trước theo lợi ích của họ.
Tuy nhiên, nói đến trách nhiệm, đạo đức học hiện sinh không chỉ nhấn
mạnh trách nhiệm của bản thân chúng ta mà mỗi người còn phải chịu trách
nhiệm về mọi người. Vậy tại sao tôi lại phải chịu trách nhiệm về mọi người
khi mọi người cũng như tôi, cũng có tự do để tự quyết, tự tạo ra chính mình?
Theo đạo đức học hiện sinh, không thể có cái tốt, xấu, thiện, ác định sẵn, mà
chúng đều là công trình của chính cái Tôi trong mỗi con người, là sự sáng tạo
nhờ tự do của chúng ta, “chỉ có mình tôi, tôi tự quyết định cái xấu, tôi tự phát
minh ra cái tốt‟. Như vậy, chính việc chọn lựa của con người sẽ tạo ra giá trị,
và giá trị do cá nhân tôi tạo ra có thể sẽ được mọi người noi theo. Do vậy, khi
tôi quyết định chọn lựa một việc gì thì chọn lựa của tôi được xem như là một
mẫu mực cho tất cả mọi người. “Khi tạo ra con người mà chúng ta muốn trở
thành, không có một hành động duy nhất nào của chúng ta mà không đồng
thời tạo ra hình ảnh về một con người mà chúng ta nghĩ phải trở thành”,
Sartre nêu ví dụ “khi tôi quyết định lập gia đình, tôi tuyên bố rằng hôn nhân là
một giá trị... Tất nhiên không phải hôn nhân là một phần của bản tính con
người, nhưng dù sao chọn lựa của tôi là một cố gắng để định nghĩa bản tính
con người. Qua chọn lựa của tôi, tôi đang đưa tất cả nhân loại chứ không phải
một mình tôi vào chế độ một vợ một chồng. Vì vậy, tôi chịu trách nhiệm về
48
mình và về mọi người khác” [26, 334]
Lên tiếng chống lại chủ nghĩa cá nhân, J.P.Sartre đã đưa ra lập luận:
"Khi nói con người tự lựa chọn bản thân mình, chúng tôi hàm ý nói rằng, mỗi
người trong chúng ta đều lựa chọn bản thân mình. Nhưng qua đó, chúng tôi
cũng muốn nói rằng, khi lựa chọn bản thân mình, chúng ta lựa chọn tất cả mọi
người". [16, 11] Với nghĩa đó, mỗi người đều phải chịu trách nhiệm về mọi
người, đều phải lựa chọn "con người nói chung", lựa chọn "mô hình con
người". Đạo đức học hiện sinh phủ nhận những giá trị định sẵn, phủ nhận sự
ràng buộc của những tập tục, luân lý ngàn đời có sẵn vì theo họ, giá trị cuộc
sống, tốt hay xấu là do sự lựa chọn của chúng ta, ta chọn một vật không phải
vì nó tốt mà trái lại, chính việc lựa chọn của chúng ta tạo ra giá trị tốt cho vật
đó. Bản chất con người không có trước tồn tại, không được định sẵn và nếu
bản chất con người đã được cho sẵn và ấn định sẵn thì con người không thể
chịu trách nhiệm về chính mình, nhưng chính con người tạo ra giá trị, tạo ra
chính mình nhờ có tự do nên không ai khác ngoài con người phải chịu trách
nhiệm về bản thân mình.
Một ví dụ rất tiêu biểu trong quan niệm này của đạo đức học hiện sinh
là: Trong thời kỳ bị quân Đức chiếm đóng, một người học trò của Sartre đến
xin ông một lời khuyên rằng nên ở lại nước Pháp để làm việc và nuôi dưỡng
mẹ già đang không có nguồn sống hay sang Anh quốc để tiếp tục cuộc chiến
đấu chống quân xâm lược. Sartre trả lời chàng trai trẻ như sau: hãy tự lựa chọn
lấy con đường của mình và tự quyết lấy giá trị của sự tự do lựa chọn đó. Sự
sáng tạo ra những giá trị là một hành vi riêng tư và không một ai có thể làm
thay cho mình được. Như vậy, việc mình sẽ trở thành người như thế nào là do
con người tự do lựa chọn, do con người tự sáng tạo nên chính mình, con người
lên kế hoạch cho những hành vi của mình để hành vi đó tạo ra các giá trị.
Thứ ba, người có trách nhiệm là người làm theo đạo đức của bản thân
và dám chịu trách nhiệm về kết quả của sự lựa chọn của mình, cho dù kết quả
49
đó như thế nào. Tự do hoàn toàn thuộc về con người, là của con người, nhờ sự
tự do này mà con người phải tự quyết định chọn lựa các tình huống và khi con
người đã tự quyết các hành vi của mình thì con người không thể đổ lỗi cho bất
kỳ ai, con người không thể hèn nhát trốn tránh trách nhiệm, mà con người
phải có bổn phận, tự chịu trách nhiệm với quyết định của mình dù quyết định
đó cho kết quả như thế nào. Những người trốn tránh trách nhiệm bằng cách đổ
lỗi do hoàn cảnh, môi trường chi phối quyết định của mình đều bị thuyết hiện
sinh phê phán. Chẳng hạn, có học thuyết cho phép con người bào chữa hành
vi đã làm nhưng lẽ ra không nên làm của mình như là do yếu tố khách quan
chi phối như hoàn cảnh tác động, do ảnh hưởng của bạn bè, gia đình... còn
Sartre lại không chấp nhận quan niệm này vì cho rằng như vậy là không trung
thực. Trên thực tế, quyết định chọn lựa là do chính bản thân mình, chính mình
tự quyết trốn chạy hiểm nguy, chính mình làm cho mình trở thành kẻ hèn nhát
chứ không phải do hoàn cảnh, do môi trường hay do kinh nghiệm cuộc
sống...cho nên không thể đổ lỗi cho ai mà phải tự chịu trách nhiệm về việc
làm của mình.
Xuất phát từ quan niệm con người bị tự do, nghĩa là chỉ cần con người
sống là có tự do, tự do là điều con người không thể tránh khỏi, tự do là cái
được phán quyết cho con người. Trong cuộc sống chúng ta luôn đối mặt với
các tình huống buộc phải đưa ra lựa chọn bất kể đó là tình huống như thế nào,
nhưng nhờ có tự do mà con người quyết định lựa chọn cái gì, do vậy, con
người sẽ phải hoàn toàn tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình cho dù khi
lựa chọn hành vi là do đam mê. Theo Sartre “nếu có người đe doạ làm hại
chúng ta, nếu chúng ta không làm một hành động nào đó, chúng ta có tự do từ
chối đòi hỏi của họ và chấp nhận bị hại. Cả khi chúng ta bị nhốt trong tù và bị
kiềm chế thể lý, chúng ta vẫn có tự do để chọn thái độ của mình trong tình
huống ấy. Đối với những người nói rằng họ không thể không hành động như
thế, bởi vì họ bị lôi kéo bởi đam mê...Sartre nói con người chịu trách nhiệm
50
về đam mê của mình” [27, 333]. Như vậy, bất kể kết quả đến như thế nào thì
người có đạo đức phải chịu trách nhiệm về hành vi tự quyết của mình vì
người có đạo đức theo quan niệm của các nhà triết học hiện sinh là người dám
ăn, dám nói những điều mình suy nghĩ, tự làm, tự chịu...
Hiện sinh có trước bản chất, nghĩa là chúng ta không thể định nghĩa con
người qua những ý niệm trừu tượng, mà bằng chính hành động của họ. Cuộc
đời này tự nó không có ý nghĩa gì hết, hay ít ra nó chỉ đơn thuần mang ý
nghĩa mà chính con người gán cho nó. Vì vậy đối với con người trong vũ trụ
này không có luật lệ nào, luân lý nào, cũng như không có bồn phận nào trái
buộc hành động của họ cả. Con người hoàn toàn tự do, họ buộc phải hoàn
toàn tự do. Nhưng chính vì con người sống, nghĩa là hành động không ngừng,
họ buộc phải lựa chọn, bởi có hành động là có lựa chọn. Dẫu ở trong cảnh tù
túng giam cầm, con người vẫn hoàn toàn tự do, và khi họ nhận thức được rõ
ràng thế tự do ấy của mình, thì họ nghiễm nhiên sẽ lựa chọn đúng hành động
mà Sartre gọi là “un acte authentique”, nghĩa là hành động đích thực.
Tuy vậy, không phải bất luận con người nào cũng có được từng giây
phút những hành động đích thực. Những kẻ yếu đuối tinh thần, những kẻ bạc
nhược lý trí không tài nào hành động một cách đích thực được; họ sợ trách
nhiệm như sợ bệnh hủi, họ nơm nớp trốn tránh trách nhiệm, không dám gánh
vác trên vai, và họ không ngừng ngụy biện hay ngụy tín. Họ không còn tự do
nữa, tư cách đích thực nữa, mà là thứ tư cách giả tạo. Con người tự do là
người hành động một cách đích thực. Khí thế tự do ấy của con người đích
thực có quyền xem mình là giá trị đứng trên hết mọi giá trị khác. Bởi vậy bất
luận hành động nào chà đạp tự do sẽ nghiễm nhiên mất hết tính cách đích
thực của mình, nghĩa là không còn hành động đích thực nữa. Đây là khía cạnh
chính yếu của đạo đức hiện sinh J.P.Sartre.
Chủ đề vở kịch nổi tiếng, và là một trong những kiệt tác của ông, Huis
Clos (Kín cửa) xoay quanh đề tài ngụy tín này và được ông tóm tắt bằng một
51
câu bất hủ: địa ngục, chính là kẻ khác. Chúng ta có thể làm gì, nên làm gì và
phải làm gì để không ngụy tín, để không tuyệt vọng, để không bị mê hoặc bởi
yếu đuối thường tình nào, và nhất là để thoát khỏi tình trạng giả dối, bất chính
trực đó?
Lấy hai nhân vật Oreste và Mathieu:
Oreste rút trong vở kịch đầu tay Ruồi (Les Mouches), Oreste trở về
thành Argos, ban đầu do dự, ngập ngừng không dám thi hành ý chí phục thù
cho cha, bỗng nhận thấy rằng con người chùng chình là con người hèn nhát,
con người không dám gánh trách nhiệm của việc mình làm là con người thấp
hèn; sống ở đời thì phải lựa chọn, phải dấn thân, và con người chính trực ở
chỗ họ dám gánh lấy trách nhiệm về mỗi hành động của mình. Trước những
lời khuyên răn úp mở, những cử chỉ dọa nạt của thần linh, trong hoàn cảnh
đơn chiếc ở một thành phố hiềm khích và không chỗ nương tựa, Oreste chẳng
để mình bị mắc mưu bởi hành vi xảo trá của Égisthe.
Oreste: “…Lẽ phải vốn là việc của con người, ta chẳng cần đến một
Thượng đế nào để dạy nó cho ta. Tiêu diệt ngươi, thứ đồ nhơ nhuốc đểu giả,
và hủy hoại uy thế của ngưới đối với dân thành Argos là đúng theo lẽ phải,
hoàn lại cho họ bản năng biết tới phẩm giá của mình, là đúng theo lẽ phải”
Oreste đã chẳng ngại chọn lựa đúng hành động cho phép mình thực
hiện chính mình, chọn lựa đúng hành động biểu thị con người đích thực của
mình - hành động đích thực của con người tự do.
Oreste : “… Em đã thực hiện hành động của em đó… Em sẽ gánh nó
trên vai như lái đò đưa khách, em sẽ chở nó sang sông và chịu trách nhiệm về
nó…”. Với hành động đích thực ấy, với trách nhiệm tự mình lãnh ấy, Oreste
đã mặc cả những chướng ngại tày đình, là công thức xã hội, là trật tự do thần
linh đặt định, là những giá trị cổ hủ mà cứu vớt thành phố Argos ra khỏi nỗi
niềm ăn năn hối lỗi, nhờ vậy tìm thấy lại được hạnh phúc ở đời của con người
52
thật sự tự do.
Mathieu rút trong bộ tiểu thuyết Những con đường của tự do (les
Chemins de la Liberte), sau bao nhiêu tháng ngày vô tư lự, sau bao nhiêu
hành động vô ý thức nhận thấy rằng tự do của mình quả thực vô ích, vì không
có động cơ hành động, sau cùng đã tìm thấy được ý nghĩa của hành động của
mình: động cơ thúc đẩy chàng hành động là tính liên đới bạn bè của chàng,
với nhân loại nói chung
Bài học toát ra từ hai nhân vật chính trong hai tác phẩm nổi tiếng trên
đều hết sức rõ ràng: con người sau khi đã trút bỏ được mọi ràng buộc tiền
định có sẵn và giành lấy được tự do hoàn toàn, phải dùng tự do ấy mà lựa
chọn, mà gánh lấy trách nhiệm về hành động của mình, liên hệ mình với xã
hội loài người, để thực hiện mình hoàn toàn. Tất cả đạo đức của JP Sarter nằm
trọn ở đây. [4, 105]
Người ta đã được trông thấy Sartre bao nhiêu lần xác định lập trước,
tức là lựa chọn, nhận trách nhiệm trước mặt mọi người, trong một tinh thần
liên đới nhân loại. Cứ nghĩ đến thái độ và lập trường của ông trước các vấn đề
Việt Nam và Algégrie độ nào, đến chữ ký của ông trong bản Tuyên ngôn của
121 nhà trí thức. Như vậy, nghĩa là lời nói và việc làm của ông đi đôi với
nhau, nghĩa là lý thuyết và hành động không chia rẽ bởi một khoảng cách nào,
đã nói thì làm, và làm thì làm cho đến cùng, không thiên vị, không sợ sệt.
Thứ tư, người có trách nhiệm là người luôn luôn bị trạng thái lo âu chi
phối trước mỗi quyết định lựa chọn hành động. Như đã nói, con người khi
thực hiện hành vi lựa chọn thì không những phải chịu trách nhiệm cá nhân mà
còn phải chịu trách nhiệm trước mọi người. Chúng ta không thể không cho
phép mọi người làm theo gương mình, do vậy chúng ta phải lo âu về việc làm
của mình bởi rất có thể nó sẽ trở thành phổ biến trong xã hội. Nếu là người có
trách nhiệm, ta không thể trốn chạy sự lo âu của mình, dù có thể chúng ta tự
an ủi rằng hành động của mình không quan trọng vì mọi người sẽ không noi
53
theo mình, nhưng thực tâm, ta không thể phủ nhận trạng thái lo âu vẫn thường
trực trong hành vi tự quyết của mình. “Mọi người phải tự nhủ mình, tôi có
thực sự là loại người có quyền hành động thế nào, để loài người có thể tự
hướng dẫn chính mình bằng các hành động của tôi không? và nếu họ không tự
nói với mình như thế, họ đang che giấu sự lo âu của họ” [27, 334]
Thứ năm, Sartre nhất quán gắn liền hiện tại với tương lai, coi hiện tại là
cái cần phải mở ra một viễn cảnh cho tương lai. Thừa nhận con người là hữu
hạn, hữu tử, song Sartre không vì thế mà bênh vực những cái thủ tiêu sự sống
và toàn bộ những giá trị của nó. Ông luôn gắn liền hiện tại với tương lai, coi
hiện tại là cái cần phải mở ra viễn cảnh cho tương lai. Sự vô trách nhiệm đối
với tương lai sẽ làm giảm giá trị của tự do. Con người sống vô nghĩa là con
người chỉ biết đề cao hiện tại. Chỉ có trách nhiệm đối với tự do mới quy định
trách nhiệm đối với cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Xét về mặt triết học,
tính nhất thời, tính hữu hạn không nằm ở phía trước, mà nằm ở phía sau tự do
và trách nhiệm. Như vậy, có thể nói, Sartre hoàn toàn không bác bỏ giá trị
cuộc sống. Sartre đề cao tự do gắn với trách nhiệm đối với cuộc sống và cho
rằng, không nên đồng nhất tự do đích thực với tự do hình thức của kẻ đớn
hèn. Lựa chọn cái hèn hạ, con người đã tự hạn chế tự do của mình. Để tránh
sự chế ngự của cái hèn hạ, chúng ta cần phải phân cấp giá trị, phải kêu gọi
con người phát hiện ra những giá trị quan trọng, mở ra viễn cảnh cho tự do và
sáng tạo. Mỗi người đều có thể sáng tạo một cách phù hợp với những năng
lực của mình, nhưng những hành vi khác nhau lại có giá trị khác nhau, nếu
nhìn từ góc độ tự do và trách nhiệm.
Tóm lại, theo Sartre con người phải có trách nhiệm về sự lựa chọn bản
chất của mình trong xã hội, phải có trách nhiệm trước bản thân mình, trước
người khác và với toàn xã hội. Người có trách nhiệm theo ông là người làm
theo đạo đức của bản thân và dám chịu trách nhiệm về kết quả của sự lựa
chọn của mình, cho dù kết quả đó như thế nào, luôn luôn bị trạng thái lo âu
54
chi phối trước mỗi quyết định lựa chọn hành động và coi hiện tại là cái cần
phải mở ra một viễn cảnh cho tương lai. Quan trọng nhất là trách nhiệm
không thể tách rời tự do. “Vốn có thiên mệnh phải trở thành tự do, con người
mang toàn bộ sức nặng của thế giới trên đôi vai mình. Con người chịu trách
nhiệm về thế giới và về bản thân mình, và đó là phương thức tồn tại của nó”
[22, 14]. Sự tồn tại của Tôi không có căn cứ. Tôi chỉ đơn giản là bị “quẳng
vào” thế giới; nhưng sau đó và cùng với đó, Tôi bắt đầu phải chịu trách nhiệm
về bản thân; Tôi tự do và có trách nhiệm, khi vẫn không có căn cứ cho sự tồn
tại của mình. Trách nhiệm ở đây là trách nhiệm hiện sinh, chứ hoàn toàn
không phải là trách nhiệm trước một người nào đó, trước một cái gì đó. Với
quan niệm này, Sartre đã chế nhạo tất cả những ai có ý định từ bỏ giá trị của
bản thân để tìm kiếm các căn cứ cho sự tồn tại của mình và minh biện cho sự
sống và cái chết của mình ở cái khác, tức là tồn tại bị tha hoá, tồn tại không
phải với tư cách “tồn tại tự nó”.
2.3. Về sự trung thực và can đảm
Bên cạnh việc quan tâm tới các yếu tố thiện và ác, trách nhiệm của mỗi
cá nhân đối với hành vi của mình, đạo đức học của Sartre còn quan tâm đến
sự trung thực và can đảm như một biểu hiện cụ thể của hành vi có trách
nhiệm.
Về sự trung thực, thứ nhất, trung thực theo Sartre là không một ai được
đổ vấy trách nhiệm về những hành vi của mình cho người khác hoặc cho hoàn
cảnh, con người hoàn toàn tự do lựa chọn, nhưng họ cũng phải hoàn toàn chịu
trách nhiệm. Các vở kịch của Sartre đầy những người khổng lồ, phá hủy tất cả
hai bên phải trái với niềm tin sắt đá rằng, họ tự do hành động theo sở thích
của mình. Thực tế, Sartre chỉ thừa nhận một đức tính, đó là tính trung thực. J.
P. Sartre đã dùng phương pháp hiện tượng học để chứng minh rằng muốn
sống trung thực, phải sống trong suốt với chính mình, với người khác, vời
55
đời.
Nhân vật chính trong tác phẩm "Buồn Nôn" là Antoine Roquentin đã
khám phá ra quá nhiều sự ghê tởm của thế giới chung quanh. Anh ta và sự cô
đơn của anh đã dẫn tới nhiều kinh nghiệm về buồn nôn tâm lý. Dần dần anh ta
nhận thức được rằng con người là một hiện thực ngẫu nhiên, không có ý nghĩa
và giá trị gì cả, không cần thiết và không có cả lý do tồn tại. Như vậy con
người là gì? Ý thức là gì? Con người phải sống trung thực, phải sống “trong
suốt” với chính mình, với các người khác, với đời... Như vậy, buồn nôn chính
là một kinh nghiệm, qua đó, ý thức không thêm bớt gì cả, không áp đặt một ý
nghĩa nào lên thế giới, mà chỉ đón nhận. Nhận thức của Sartre về ý nghĩa sự
sống là một thứ nhận thức hoàn toàn phi lý. Nghĩa là không bắt đầu từ đâu và
cũng không biết đi tới đâu cả. Hiện sinh không còn nằm trong trạng thái tình
cảm và ý chí thuần túy nữa, mà tràn ngập trong suy tư của con người. Sartre
đã triển khai tư tưởng Hiện sinh một cách trọn vẹn và đúng nghĩa nhất. Trong
sự nhập cuộc của mình, con người hiện sinh đã cố gắng đưa ra một giải thoát
cho tâm tư, bằng sự thể nghiệm vào trạng thái hiện sinh tuyệt đối. Nhưng trên
thực tế, con người hiện sinh vẫn chỉ là con người hữu hạn, bị giới hạn một
cách tàn nhẫn. Trong Buồn nôn của Jean Paul Sartre, nhân vật luôn luôn buồn
nôn như một thái độ phản kháng những gì thuộc về lý tính cứng nhắc siêu
hình. Nhân vật chính Roquetin đang trên con đường khám phá ra lý do tồn tại
của con người là… không có lý do gì hết. Con người là một hiện thực ngẫu
nhiên (contingent), không có lý do tồn tại. Khái niệm contingence vừa có
nghĩa tất yếu vừa có nghĩa không có ý nghĩa, vô nghĩa. Đó là một sự tồn tại tự
nhiên, ngẫu nhiên, không vì một Đấng nào và tự nó không có giá trị gì gì cả.
Và con đường của Buồn nôn đi từ nhân vật trốn chạy sự thật đó bằng đủ thứ
ứng xử nhưng những cơn buồn nôn vẫn tồn tại. Buồn nôn như là một biểu
tượng về bản năng, về sự phi lý của việc con người tồn tại bằng một lý do
nào. Bản thân những cơn buồn nôn đó tự nó không có lý do, không lý giải
bằng một tầng chìm ký ức nào. Cuốn tiểu thuyết kết thúc với hình ảnh
56
Roquentin nghe một đoạn nhạc và bỗng nhiên hiểu rằng nghệ thuật là điều tất
yếu duy nhất của con người. Như vậy con người đã phải đối diện một cách cô
đơn giữa ý thức cá nhân và thân phận làm người, và lối thoát để làm cho thân
phận này có giá trị là "làm nghệ thuật”.
Thêm vào đó, con người Sartre đặc biệt nhất ở nhu cầu, ý chí sống
trong suốt (transparent) với chính mình, với người khác, với đời. Ðiều này
phù hợp với triết lý của L'Être et le Néant (Thực thể và Hư vô): Ý thức là một
quá trình phủ định trong suốt, không gợn tí vật thể nào. Chính ông đã thuật
lại, phân tích tuổi thơ của mình trong Les Mots, (Ngôn từ). Trong Les Mots, (
Ngôn từ), ông đã vận dụng triết lý của L'Être et le Néant (Thực thể và Hư vô)
để hiểu tuổi thơ của mình, xem nó đã ảnh hưởng cuộc đời, tư duy, tác phẩm
của mình ra sao, những gì còn tồn tại trong mình, những gì cuộc đời, nghiệm
sinh của mình đã khiến mình quét đi. Năm 1990, tập san Les Temps Modernes
(Thời Hiện đại) đăng trong 2 số đồ sộ, tổng cộng gần 1500 trang, bài vở của
nhiều người đã từng quen biết, gần gũi với Sartre, dưới tựa Témoins de Sartre
(Nhân chứng về Sartre). Sartre lại cho phép đăng tất cả bản thảo bỏ dở, thư từ
ông viết cho bất cứ ai, đặc biệt cho Simone de Beauvoir, tất cả những gì ông
đã từng viết. Đó chính là bằng chứng về ý chí sống trong suốt với chính mình.
Không những Sartre muốn sống trong suốt với chính mình, ông còn muốn
sống trong suốt với người khác. Ở đây là Simone de Beauvoir. Vì họ cùng
nhân sinh quan và nhân sinh quan ấy, cộng với bản lĩnh, tài năng của mỗi
người, khiến họ có khả năng sống bình đẳng, trong suốt với nhau: theo nhân
sinh quan ấy, đam mê chiếm hữu hay đam mê thống trị người khác là những
đam mê hão, không thể thực hiện được, chỉ dẫn tới những nếp sống không
trung thực, với những thái độ không trung thực như ghen tuông, v.v. Họ chưa
từng sống chung dưới một mái nhà, thường ở hai khách sạn khác nhau và,
cuối đời, ở hai căn hộ khác nhau. Nhưng ngày nào họ cũng gặp nhau, nói cho
nhau biết mọi chuyện về đời sống hàng ngày, những suy nghĩ của họ. Sartre
57
cũng muốn sống trong suốt với đời. Thà mất bạn còn hơn duy trì một quan hệ
bè bạn nhập nhằng. Thí dụ điển hình nhất là cuộc tranh luận với Albert
Camus. Bài Réponse à Albert Camus (Trả lời Albert Camus) thể hiện tiêu
biểu tình bạn của Sartre trong văn chương: hiểu và đánh giá một cách tổng
hợp con người, hành động, tư tưởng, văn chương. Trong bài, Sartre giải thích
vì sao những suy luận dẫn Camus đến một đỉnh cao của văn chương Pháp
cũng là những suy luận đưa Camus vào ngõ cụt, biến Camus thành nhân vật
hình thức ngay trong văn chương.
Thứ hai, về sự không trung thực, theo Sartre không trung thực là thông
tin xuyên tạc tình hình thực tế và định hướng chống lại các lý tưởng về tự do.
Hèn nhát là sự che dấu tự do nhờ dựa vào hoàn cảnh. Với Sartre, tự do lựa
chọn hiện sinh là một đặc trưng của con người, bởi nhờ đó mà con người phân
biệt mình với mọi thực thể khác. Tự do mang lại phẩm giá cho con người,
song tự do cũng là một gánh nặng mà con người muốn loại bỏ. Con người vốn
ưa thích sự hướng dẫn cái gì là đúng, là sai và được trút bỏ trách nhiệm phải
định đoạt giá trị. Song con người lại không có lối thoát nào khác ngoài sự tự
do lựa chọn. Con người có thể tìm cách trốn tránh bằng việc quyết định không
lựa chọn, nhưng cố gắng này là không thể, bởi quyết định không chọn lựa tự
nó đã là một sự chọn lựa, con người cũng có thể tìm cách trốn tránh trách
nhiệm của mình bằng cách quyết định theo lời khuyên của ai đó, nhưng bản
thân việc này cũng là một sự lựa chọn. Như vậy, con người bị kết án phải tự
do, con người buộc phải lựa chọn và phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của
mình. Sartre đã khẳng định rằng mỗi cá nhân phải có ý thức, trách nhiệm
trước bản thân mình, trước người khác khi đưa ra sự lựa chọn của mình chứ
không phải chịu trách nhiệm trước một đối tượng nào đó như pháp luật, chuẩn
mực xã hội, chuẩn mực đạo đức... và trách nhiệm không phải là yêu cầu của
cảnh sát, mà là sự hưởng ứng đối với hiện tượng tự do. Có thể nói rằng, đạo
đức học trong chủ nghĩa hiện sinh lên án những người chống lại tự do vì đối
58
với quan niệm này tự do là giá trị cao nhất trong con người, bất cứ ai cũng
đều có tự do, con người không thể trốn chạy tự do, chỉ cần con người sống là
có tự do, con người bị kết án là tự do. Trốn tránh tự do là sự không trung
thực, là sự lừa dối đối với chính mình và với tha nhân. Khái niệm sự thực
(vérité), sự trung thực với chính mình (authenticité), sự giả dối với chình
mình (mauvaise fois).
Sartre đã từng giải thích, những nhân vật trong 4 truyện ngắn của tuyển
tập Le Mur (Bức tường), đều thể hiện nếp sống không trung thực. Trong
L'Enfer, c'est les Autres (Ðiạ ngục, chính là tha nhân), nội dung triết lý của
nó: tha nhân là kẻ duy nhất có thể mang lại cho mình phần thiếu hụt của mình,
tha nhân nắm trong tay bí mật của chính mình, vì thế mình cứ phải lẽo đẽo
theo tha nhân để trở thành mình. Vì tha nhân là tự do, mình không bao giờ
được cho điều đó, có khi còn bị gán đủ thứ chuyện mình không ngờ nổi.
La Putain respectueuse (Con đĩ kính cẩn), và nội dung vở kịch ấy cũng
thể hiện triết lý của L'Être et le Néant (Thực thể và Hư vô). Mặc dù mình đã
bị người đời biến mình thành đĩ, mình vẫn kính trọng quan điểm đó của người
đời, tự coi mình là đĩ. Con đĩ làm như thế vì nó tin tưởng những giá trị do
người đời tạo ra, nó tự chấp nhận là đĩ vì nó còn tin tưởng ở người. Nó đáng
thương ở đó. Những đứa coi nó là đĩ, là một loại người hạ cấp, không cùng
'bản chất' với mình, không đáng mặt người.
Thêm vào đó, trong vở kịch Les Mouches (Ruồi), ông nói về thái độ
ngụy tín của hạng người yếu đuối. Sau mười lăm năm lưu biệt xứ sở, Oreste
trở về chốn cũ là thành Argos, châu thành ngày nay đã hóa một thành phố dở
sống dở chết, một thành phố rữa thối quằn quại và nhung nhúc ruồi nhặng.
Năm Oreste lên ba, chàng bị tình nhân của mẹ (hoàng hậu Clytemnestre) là
Égisthe toan đem giết đi nhưng được cứu và gửi đi xa. Égisthe đã đồng lõa
với Clytemnestre giết hại nhà vua để chiếm ngôi. Mười lăm năm trước đây
khi nhà vua (Agamemnon) chiến thắng trở về thành Argos, thì đám tị dân này,
59
tuy biết rõ là hoàng hậu Clytemnestre đã phụ tình ngài và cặp kè với tình nhân
là Égisthe. Họ cũng vẫn không thốt lên lấy một lời, chẳng những vì họ không
dám quyết định, không dám nhận trách nhiệm, không dám hành động một
cách đích thực, mà còn vì trong thâm tâm của họ đã mong mỏi cái án mạng ấy
như một ngày hội. Chính vì vậy mà họ đều lấy làm ăn năn hối lỗi kể từ ngày
hội khủng khiếp ấy. Và thần linh đã xua loại ruồi nhớp nhúa bủa xuống thành
phố, nung sôi mãi cái tâm trạng bất ổn ấy của họ, cái tâm trạng bất ổn của
hạng người ngụy tín, không dám nhìn thẳng vào tình thế trước mặt, không
dám quyết định dứt khoát, không dám gánh vác trách nhiệm. Đám thị dân
thành Argos, với tâm trạng bất ổn và lòng ăn năn hối hận, không ngừng sống
trong thứ trật tự đặt định sẵn của thần linh và của Égisthe, và họ đã hèn nhát
chấp nhận thứ trật tự do kẻ khác chỉ định ấy [4, 169]
Từ đó có thể thấy rằng, đã là con người có ý thức thì sẽ có tự do, tự do
là điều không thể tránh khỏi nên người nào chống lại tự do sẽ là không trung
thực, giả dối. Chủ nghĩa hiện sinh cho rằng, tự do là cái tất nhiên phải có ở
con người, ai cũng có thể thực hiện sự lựa chọn trong tư tưởng dù ở trong
hoàn cảnh nào, trong trạng thái lo âu, sợ hãi hay bình tĩnh, tự tin và sự lựa
chọn này là tự do. Sự lựa chọn này do bản thân cá nhân tiến hành chứ không
phụ thuộc theo một tiêu chuẩn đặt sẵn, không bị ràng buộc bởi bất cứ dư luận
xã hội nào. Từ quan niệm này, đạo đức học hiện sinh khẳng định, nếu ai trốn
chạy tự do, trốn chạy trách nhiệm bằng cách đổ lỗi do hoàn cảnh, do người
khác, do kinh nghiệm thiếu thời của mình.... Đều là những người hèn nhát.
Về sự can đảm, Sartre cho rằng người can đảm là người dám làm, dám
chịu, mình tự quyết, tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình dù kết quả là
thất bại hay thành công. Giá trị cuộc sống không phải là cái gì khác ngoài ý
nghĩa mà mỗi người muốn tạo dựng cho nó. Việc coi con người là nạn nhân
của số phận, của các thế lực khách quan, của tính di truyền hay của một sự
đam mê nào đó là sự tự lừa dối, tự biến mình thành kẻ hèn nhát, vì con người
60
có sự tự do đối với thế giới, nên thế giới không thể ảnh hưởng một cách máy
móc và hoàn toàn đối với ý thức và sự lựa chọn của con người. Con người tự
làm mình trở thành kẻ hèn nhát khi chạy trốn hiểm nguy, chạy trốn nghĩa vụ
phải đưa ra sự lựa chọn trước những tình huống trong cuộc sống. Đạo đức học
hiện sinh cho rằng người có đạo đức là người dám làm, dám chịu, mình tự
quyết, tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình dù kết quả là thất bại hay
thành công. Do đó, chúng ta không thể đổ lỗi cho hoàn cảnh, cũng không thể
dựa dẫm vào người khác, hay dựa dẫm vào những giá trị định sẵn, không thể
trông chờ, bám víu vào một sự thiện, ác, tốt, xấu vốn đã đuợc thiết lập trước,
mà chúng ta phải đối diện với sự kiện quan trọng và đầy trách nhiệm rằng,các
sự vật không tốt trước khi chúng ta chọn chúng, nhưng trở thành tốt bởi vì
chúng ta chọn chúng. Nếu ai không nhận thức được điều này mà cứ che giấu
sự tự do vốn có trong con người nhờ vào hoàn cảnh sẽ là kẻ hèn nhát theo đạo
đức học hiện sinh.
Thêm vào đó, Sartre cho rằng kẻ hèn nhát được định nghĩa từ hành vi
hắn đã thực hiện. Sartre lập luận rằng khi mô tả một kẻ hèn nhát, nói rằng kẻ
hèn nhát này chịu trách nhiệm về sự hèn nhát của mình, anh ta không phải
như vậy vì anh ta có một trái tim, một buồng phổi hay một bộ óc hèn nhát,
cũng không phải do cấu tạo sinh lý, mà vì anh ta đã tự tạo mình như là kẻ hèn
nhát bằng những hành vi của mình. Không có khí chất hèn nhát, mà có những
khí chất nóng nảy, như cách nói của nhiều người là chỉ có máu xấu, hay
những khí chất ôn hòa ; nhưng con người có máu xấu không vì thế mà hèn
nhát, vì cái làm nên tính hèn nhát chính là hành vi chối bỏ hay nhượng bộ,
tính khí không phải là hành vi. Kẻ hèn nhát được định nghĩa từ hành vi hắn đã
thực hiện. Điều mà người hiện sinh nói, đó là kẻ hèn nhát tự tạo mình thành
kẻ hèn nhát, người anh hùng tự tạo mình thành người anh hùng. Luôn luôn có
một khả năng để cho kẻ hèn nhát không còn là hèn nhát nữa, và để cho người
61
anh hùng thôi là người anh hùng. Vấn đề là sự dấn thân toàn diện. Nó định
nghĩa con người bằng hành động, đây là đạo đức học về hành động và về sự
dấn thân.
Sartre định nghĩa bản chất của sự “dấn thân” dựa trên những thí dụ
hùng hồn để minh giải, ông viết “Tôi cho là Flaubert và Goncourt có trách
nhiệm về cuộc đàn áp sau thời Công xã vì họ đã không viết một dòng nào để
ngăn cản sự kiện đó”. Ta thấy đó là sự dấn thân, không phải là một sự dấn
thân thuần túy trên phương diện đạo đức hay trên nguyên tắc. Không phải tư
tưởng dấn thân mà chính là hành động: đối với nhà văn, thì đó lại là lời nói.
Im lặng, dù vì bất kỳ một nguyên cớ nào đều có nghĩa là không chịu đảm
nhận toàn thế giới mà nhà căn phải diễn tả. [4, 173]
Chủ nghĩa hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản (1946) của Jean-Paul
Sartre cũng thể hiện điểm mấu chốt của thuyết hiện sinh là con người phải
hành động, là sự dấn thân và trải nghiệm. Bởi như Sartre viết: “Chúng tôi
muốn có một học thuyết được dựa trên chân lý, chứ không phải là một tập
hợp các lý thuyết đẹp đẽ, tràn đầy hy vọng nhưng không có những cơ sở hiện
thực”, và Sartre khẳng định: “Thuyết Hiện sinh là một thuyết lạc quan, một
học thuyết hành động” [28, 14]
Ngay chính bản thân cuộc đời của Sartre cũng chính là một sự dấn thân.
Lời nói và việc làm của ông luôn đi đôi với nhau, nghĩa là lý thuyết và hành
động thống nhất với nhau, đã nói là làm. Sartre luôn luôn giữ thế đứng độc
lập, tự chủ, không đại diện bất cứ ai ngoài chính mình. Tùy lúc, tùy chuyện,
ông liên kết với lực lượng chính trị này hay lực lượng chính trị kia, nhưng
không gia nhập một đảng phái, một phong trào nào. Về mặt tư tưởng, ông
luôn luôn khẳng định tư tưởng của chính mình. Ngay lúc ông tìm cách liên kết
với phong trào cộng sản, ông vẫn đăng Chủ nghĩa duy vật và Cách mạng
(Matérialisme et Révolution), 1946, một tiểu luận phê phán chủ nghĩa duy vật
biện chứng và các trí thức cộng sản giáo điều Pháp. Sartre luôn luôn đứng về
62
phía kẻ yếu, kẻ bị đàn áp, ở bất cứ đâu. Bằng chứng là trong suốt thời chiến,
Sartre luôn ủng hộ cách mạng Việt Nam. Đến năm 1979, lần đầu tiên ông
chấp nhận công khai đến điện Élysée yêu cầu Tổng thống Giscard d'Estaing
tăng cường giúp đỡ thuyền-nhân Việt Nam. Hành động, triết lý và văn
chương của Sartre luôn luôn thống nhất với nhau, văn chương mở đường cho
triết lý hay hiện sinh hoá triết lý dưới dạng nghệ thuật, triết lý soi sáng văn
chương, hành động đưa triết lý vào đời, thôi thúc tư duy triết học, sáng tác
nghệ thuật.
2.4. Đánh giá quan điểm đạo đức học của J.P.Sartre
2.4.1. Giá trị
Thứ nhất, khác với triết học truyền thống, chủ nghĩa hiện sinh đã xem
xét con người với cuộc sống riêng biệt và độc đáo của nó và thừa nhận con
người có thẩm quyền bất khả xâm phạm là “sự tự do”. J.P.Sartre cho rằng con
người được quyền tự do lựa chọn những hành động của mình và quan trọng
hơn, đó phải là những hành động mang tính sáng tạo và độc đáo. Bởi lẽ, con
người chẳng lệ thuộc vào bất cứ cái gì ngoài sự đối diện với chính bản thân
mình và thông quan sự hiện hữu của mình con người tự làm nên bản chất của
mình. Bản chất của con người thể hiện ở cái độc đáo do chính nó tạo ra, hoạt
động của con người phải hướng tới việc tạo ra những cái mới, những cái chưa
có. Chính quan niệm này của J.P.Sartre đã thực sự thúc đẩy sự tìm tòi sáng
tạo trong hoạt động khoa học cũng như hoạt động thực tiễn của con người.
Đạo đức học của J. P. Sartre đề cao ý chí, tự do và nghị lực của con người cá
nhân, sự quyết tâm dám vượt qua hoàn cảnh để thực hiện cái tôi của mình,
thực hiện kế hoạch và dự án của mình. Tự do là nguyên nhân, động lực xuất
phát toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học của J. P. Sartre. Tự do gắn chặt với
thân phận con người, là sự khác biệt với sự vật, có thể lựa chọn cho mình một
phương thức sống độc đáo không bị áp đặt từ bên ngoài. Từ đó mỗi người đều
phải chịu trách nhiệm với những lựa chọn của mình trước thế giới và bản
63
thân.
Người có đạo đức theo quan niệm của chủ nghĩa hiện sinh nói chung và
của Sartre nói riêng là người dám làm, dám chịu. Dám làm là làm theo
nguyên tắc của lòng mình chứ không phải làm theo hệ thống giá trị đã viết sẵn
cho cả xã hội. Nhờ có tự do, con người phải tự tạo ra các giá trị cho mình và
tạo ra chính mình thông qua các giá trị đó. Trong quá trình đi tìm giá trị này,
con người phải đối mặt với những khó khăn, bộn bề của cuộc sống, họ băn
khoăn trước những tình huống phải đưa ra quyết định lựa chọn. Mỗi cá nhân
đều có thể lựa chọn cho mình một con người mà mình muốn. Không tin tưởng
vào bất kỳ một sự nô dịch nào đối với bản chất con người. Chúng ta có thể tạo
ra mình là một người anh hùng hay một con người hèn nhát điều đó hoàn toàn
phụ thuộc vào sự lựa chọn của ta. Lúc này, không còn cách nào khác con
người phải dấn thân và hành động, khi hành động con người sẽ rơi vào tâm
trạng lo âu, vì con người phải tự chịu trách nhiệm với mình, với mọi người.
Người có trách nhiệm khi hành động sẽ lo âu bởi một mặt, lo âu thúc đẩy
hành động của con người, mặt khác lo âu đi liền với trách nhiệm. Làm được
điều này, con người sẽ trở thành có đạo đức học.
Có thể nói đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh của J.P.Sartre đã phủ
nhận những giá trị cũ, những tập quán, những quy tắc xã hội trói buộc sự tự
do của con người, kìm hãm tính năng động, sáng tạo của con người cũng như
sự phát triển của họ. Lịch sử phát triển tư tưởng nhân loại cho thấy rằng,
không phải giá trị nào trong lịch sử cũng đều phù hợp và tác động tốt đến sự
phát triển của mỗi cá nhân cũng như sự phát triển của xã hội. Do vậy, ở khía
cạnh này, đạo đức học của J.P.Sartre có giá trị tích cực vì đã động viên cá
nhân hãy thoát khỏi sự ràng buộc của những chuẩn tắc đã lỗi thời để tạo ra
những giá trị mới, nhờ đó mà con người sẽ chủ động, tích cực và năng động
hơn trong suy nghĩ và trong hành động.
Như đã biết, tự do không chỉ là nhận thức và hành động theo quy luật,
64
trong các quan hệ xã hội của con người, tự do biểu hiện một cách tập trung và
thực tế ở các quyền cơ bản của con người. Sự phát triển và sự phong phú các
quyền, cũng như những đảm bảo xã hội cho sự thực hiện các quyền đó trở
thành tiêu chí của sự phát triển tự do và tiến bộ xã hội. Chính vì vậy, xã hội
ngày càng mở rộng không gian tự do cho sự nghiên cứu khoa học và ứng
dụng các thành quả nghiên cứu đó vào cuộc sống. Bởi vì, tự do bao giờ cũng
là điểm xuất phát của sự phát triển. Phát triển vừa là hệ quả của tự do, đồng
thời cũng là tiền đề để con người tự do nhiều hơn. Nhận thức rõ vai trò của
khoa học công nghệ đối với sự phát triển của đất nước, Việt Nam luôn tạo
môi trường tự do cho nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ. Điều
27, Luật khoa học và công nghệ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
có ghi rất rõ: “Khuyến khích ứng dụng hết quả nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ”. Trong đó khoản 3 và khoản 4 của Điều này khẳng
định:“Nhà nước tạo điều kiện để tổ chức khoa học và công nghệ, cá nhân hoạt
động khoa học và công nghệ chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ để ứng dụng rộng rãi vào sản xuất và đời sống”; “Chủ sở
hữu, tác giả và người ứng dụng thành công kết quả nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ được hưởng lợi ích do việc ứng dụng kết quả này vào
sản xuất và đời sống theo hợp đồng khoa học và công nghệ và theo quy định
của pháp luật” [32, 28]. Tóm lại, bất kể Luật khoa học và công nghệ của một
quốc gia nào cũng khuyến khích các nhà khoa học tìm ra được những phát
minh và đưa những phát minh của mình vào phục vụ cuộc sống ngày càng tốt
hơn, tạo điều kiện cho tự do của con người ngày càng phát triển hơn. Đó là
biểu hiện rõ nét nhất của phát triển tự do con người trong Cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại.
Thứ hai, khi đưa ra quan niệm về trách nhiệm, đạo đức học mácxít cho
rằng, người có trách nhiệm là người hoàn thành tốt công việc theo khuôn
mẫu, chuẩn mực xã hội trên tinh thần tự nguyện, tự giác như có người gặp
65
nạn thì lập tức trách nhiệm cứu nạn được đặt ra; người lao động có trách
nhiệm lao động trung thực và tận tâm. Những trách nhiệm, chuẩn mực này
không phải do cá nhân tự tạo bằng sự tự do lựa chọn của mình mà do xã hội
hoặc người khác đặt ra nhằm đáp ứng lợi ích của xã hội. Còn đạo đức học
hiện sinh lại cho rằng, con người phải chịu trách nhiệm về chính quyết định
của mình, mình tự quyết định mình là người như thế nào, tự quyết định vận
mệnh của chính bản thân mình nên sướng hay khổ, thành hay bại cũng đều do
con người làm nên nên không thể đổ lỗi cho bất cứ ai. Người có trách nhiệm
là người làm đúng theo lương tâm của mình. Hơn thế, đạo đức học của Sartre
còn khẳng định, bên cạnh trách nhiệm cá nhân, con người còn phải có trách
nhiệm với mọi người.
Việt Nam với việc vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa những năm qua đã và đang tạo ra những biến đổi căn bản về mọi
mặt đời sống kinh tế -xã hội. Những biến đổi sâu sắc trong đời sống vật chất
xã hội tất yếu sẽ dẫn đến sự biến đổi tương ứng trong đời sống tinh thần của
xã hội, trong đó bao gồm cả những vấn đề liên quan đến các giá trị đạo đức xã
hội. Trong cơ chế kinh tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa chúng ta luôn hướng tới việc xác lập hệ thống các quan hệ đạo đức mà
trong đó cá nhân phải có trách nhiệm đối với hành động và hậu quả của
những hành động do mình tạo ra, ngăn chặn mọi sự phương hại đến lợi ích
chung của toàn xã hội. Đồng thời, chính sách kinh tế thị trường của Việt Nam
luôn chú ý đến vấn đề ý thức tự giác, tính năng động xã hội và trách nhiệm
đạo đức, xác lập một hệ chuẩn đạo đức chung cho toàn xã hội, gắn lợi ích cá
nhân với lợi ích xã hội, coi sự kết hợp hài hòa hệ thống các lợi ích cơ bản là
điều kiện cho phát triển các giá trị đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội. Kết quả
là, trách nhiệm xã hội đã không ngừng được nâng cao trong đời sống xã hội,
trong ý thức và hoạt động của từng người dân, từng gia đình và toàn xã hội.
Như vậy, quan niệm về trách nhiệm trong đạo đức học hiện sinh của
66
Sartre có giá trị rất lớn, vì con người sẽ phải chủ động, quyết đoán trong công
việc cũng như trong cuộc sống, tránh được tính dựa dẫm trông chờ vào người
khác. Từ đó, buộc mỗi cá nhân phải tự cân nhắc để thực hiện lựa chọn của
mình. Thêm nữa, con người còn phải chịu trách nhiệm về mọi người, nghĩa là
con người sẽ phải lo âu khi đưa ra quyết định của mình, vì rất có thể quyết
định của mình sẽ có ảnh hưởng nhất định đến mọi người. Nhìn nhận, đánh giá
từ góc độ đạo đức học Mác -Lênin, nếu lựa chọn của mỗi cá nhân phù hợp với
tiêu chí đạo đức của xã hội thì đây là điều đáng khích lệ con người không
những tạo thêm những giá trị đạo đức phù hợp với chuẩn mực, truyền thống
đạo đức dân tộc mà vẫn phát huy được tính độc lập, tự chủ của cá nhân trong
mọi tình huống.
Thứ ba, theo quan niệm đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh, bản
chất con người phải do chính con người tự tạo nên và không chịu sự quy định,
ràng buộc bởi bất cứ cái gì; sự tồn tại của con người có trước bản chất. Bản
tính con người không có sẵn như đồ vật, mà con người tự tạo bản chất cho
mình, thông qua các chọn lựa. Lời kêu gọi, con người “hãy là chính mình”,
“hãy làm cho mình khác đi” đã nói lên rằng chủ nghĩa hiện sinh là triết học
hành động. Các giá trị đạo đức cũng đều do mỗi cá nhân tự tạo ra thông qua
các hành vi của mình. Thiện, ác là do cá nhân tự quy định, nếu hành động phù
hợp với nguyên tắc của lòng mình thì đó là thiện, ngược lại sẽ là ác. Con
người không đứng im một chỗ mà tồn tại của con người là tồn tại hướng về
tương lai. Tương lai đó tốt hay xấu là do việc tự do lựa chọn hành động của
con người quy định.
Chủ nghĩa hiện sinh đã khẳng định vai trò tích cực của con người
trong việc tạo ra bản chất của chính mình, làm nên số phận, vận mệnh của
chính mình. Nó đã nhấn mạnh tính năng động, sáng tạo, tự lập của con
người, đồng thời nâng cao ý thức, trách nhiệm của con người trước hành
động của mình. Con người không thể đổ lỗi cho ai vì con người tự quyết
67
và tự chịu trách nhiệm.
Ngày nay, trong bối cảnh Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ diễn
ra trên quy mô toàn cầu, đã và đang làm cho tự do và trách nhiệm của con
người được nâng cao và phong phú hơn bao giờ hết. Những nhân tố cơ bản
nhất quy định quá trình hiện đại hoá xã hội, như kinh tế thị trường, tiến bộ
công nghệ, dân chủ hoá, toàn cầu hoá... đang thúc đẩy mạnh mẽ, nhưng đồng
thời cũng đặt ra những thách thức to lớn đối với sự phát triển tự do và trách
nhiệm của con người. Chính những nhân tố này đang tạo ra những điều kiện,
những đảm bảo ngày một tốt hơn cả về mặt vật chất lẫn về mặt tinh thần cho
sự phát triển tự do và trách nhiệm của con người. Sự phát triển kinh tế, công
nghệ tạo điều kiện cho sự phát triển con người thông qua việc đáp ứng ngày
một đầy đủ hơn các nhu cầu về vật chất, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, giải
trí... Sự phát triển của dân chủ tạo điều kiện mở rộng các quyền của con
người: quyền tự do kinh doanh, tự do cư trú, tự do hoạt động tôn giáo, tự do
lập hiệp hội, tự do tham gia rộng rãi vào đời sống chính trị, văn hóa, xã hội...
Tất cả những điều đó làm cho sự lựa chọn giá trị cũng như hoạt động của con
người ngày càng tự do hơn, được đảm bảo hơn.
Thứ tư, quan niệm đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh của Sartre
còn là sự phản ánh, phản kháng chống lại sự áp bức, sự vùi dập con người.
Quan niệm này đã tố cáo các lực lượng làm tha hoá con người. Đó là những
lực lượng có thật và bành trướng trong một thế giới trí tuệ, nhưng ít đạo đức,
thừa của cải nhưng thiếu công bằng, giàu có về vật chất, nhưng nghèo nàn về
tinh thần, trong một thế giới mà trong đó không ít người cảm thấy dường như
tất cả trở nên phi lý, vô nghĩa, con người không tìm thấy ý nghĩa của cuộc
sống. Sartre là người đã chứng kiến sự tàn bạo của chủ nghĩa phát xít, thấy rõ
sự bi quan, bế tắc, thất vọng của con người trong chiến tranh. Ông muốn là
người chứng kiến thời đại, mô tả và biểu hiện tình trạng hỗn loạn của nó đồng
thời thể hiện ý chí vươn lên thoát khỏi tình trạng ấy. Tồn tại và hư vô (1945)
68
– tác phẩm chủ yếu và đồ sộ nhất của ông về triết học hiện sinh ra đời trong
hoàn cảnh ấy đã phản ánh trong mô hình con người của ông một thái độ phản
kháng chống lại cái man rợ, thể hiện lập trường nhân đạo trừu tượng, ý muốn
cứu vớt con người khỏi thế giới đã hủy hoại con người.
2.4.2. Hạn chế
Thứ nhất, chủ nghĩa hiện sinh của J. P. Sartre là chủ nghĩa duy tâm chủ
quan, đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa Mác về vấn đề cơ bản của triết học.
Không tính tới yếu tố khách quan với tư cách là nguồn gốc và bản chất của ý
thức con người. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì hệ
chuẩn chủ thể - khách thể nằm trong một mối tương giao không thể chia cắt.
Trong đó yếu tố khách thể giữ vai trò quyết định trong nhận thức cũng như
trong hành động của chủ thể. Mọi mục đích, dự án đều hướng tới thực tiễn
quá trình tương giao liên chủ thể ấy. Việc xa rời những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác sẽ dẫn tới chủ nghĩa duy tâm triết học và tác động tai hại tới hoạt
động thực tiễn của con người.
Tính ưu tiên các lợi ích cá nhân được thể hiện rõ nhất ở các lĩnh vực
như quan hệ gia đình. Một mặt, đó là sự giải phóng khỏi các gánh nặng của
gia đình truyền thống và hôn nhân cưỡng bức theo tính toán. Nhưng việc thổi
phồng cái cá nhân đã dẫn đến một thái cực khác, đó là bản thân thiết chế gia
đình đã bị băng hoại đáng kể. Số các vụ ly hôn trên thế giới là quá nhiều, ở
các thành phố lớn có quá nửa các cuộc hôn nhân đều kết thúc bằng ly hôn.
Người ta cưới vợ và lấy chồng với tâm thế sẵn sàng chia đàn xẻ nghé, thường
các cặp vợ chồng ly hôn cũng không có ý muốn giữ gìn gia đình, họ đơn giản
hy sinh gia đình của mình cho những kế hoạch riêng, lòng tham tự do bỗng
dưng được thức tỉnh thay cho một cuộc tình mới. Kết quả là nhiều trẻ em lớn
lên trong các gia đình thiếu bố, thiếu mẹ, hoặc cả hai. Và điều đó diễn ra khá
tự nhiên trên lập trường ưu tiên cho những lợi ích riêng cá nhân.
Xét trên quan niệm triết học nói chung và đạo đức học Mác – Lênin
69
nói riêng thì đạo đức học hiện sinh đã nhấn mạnh thái quá tính năng động,
tính sáng tạo, tự chủ của con người đến mức rơi vào chủ nghĩa duy tâm về
mặt xã hội và chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa hiện sinh đã tách con người ra
khỏi môi trường xã hội, đã không để ý tới nhân tố khách quan, tới hoàn cảnh
lịch sử, tới những tiêu chí, quy tắc đạo đức của xã hội.
Thứ hai. J. P. Sartre đề cao phép biện chứng tiêu cực, chống lại phép
biện chứng tự nhiên và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Phép biện chứng duy
vật phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan như cái vốn có của nó. Những
quy luật của tự nhiên là không thể phủ nhận, mọi sự nhận thức đều lấy tự
nhiên làm cơ sở và mục đích của thực tiễn. Phép biện chứng của J. P. Sartre là
phép biện chứng chủ quan, phản ánh những quy luật nội tâm của tồn tại người
trái với phép biện chứng tự nhiên. Quy luật của tồn tại người là những cảm
xúc của con người phải sống trong thời đại có nguy cơ huỷ hoại chính sự tồn
tại ấy. Tâm lý chung của con người là sự lo âu, sợ hãi...những cái không thể
tách được ra khỏi tồn tại người. Do đó theo Sartre thì những thay đổi của tự
nhiên và xã hội hoàn toàn phụ thuộc vào những hành động đã được thử thách
qua những xao xuyến của tâm tư.
Thứ ba. Duy tâm về lịch sử, xã hội. Coi cá nhân quyết định xã hội. Đề
cao quá mức cá nhân sẽ đi tới chủ quan duy ý chí trong nhận thức và hành
động. Chưa thấy được động lực phát triển của xã hội, thúc đẩy xã hội phát
triển là quần chúng nhân dân, người làm nên lịch sử. Cá nhân kiệt xuất có thể
lãnh đạo nhân dân qua các thời kỳ lịch sử nhưng người trực tiếp thực thi
những chiến lược,chính sách, đường lối lại chính là nhân dân. Mọi mục đích
đều lấy lợi ích nhân dân làm chính. Nhưng nếu chỉ quan tâm tới cá nhân thì
chủ nghĩa vị lợi sẽ thay thế chủ nghĩa công lợi. Đề cao chủ nghĩa cá nhân, xu
hướng khuyến khích chủ nghĩa cá nhân cực đoan, thiếu sự khoan dung hòa
đồng như: tách biệt tình làng nghĩa xóm, không nêu cao được tính thần đại
70
đoàn kết dân tộc...
Chủ nghĩa hiện sinh đã không đúng khi phủ nhận tính quy định khách
quan của hành vi con người, đã không thấy hết ý nghĩa khách quan của những
giá trị đạo đức mà nhân loại đã có được hàng ngàn năm nay, quên đi những
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc vì quá đề cao vai trò của cá nhân con
người và đã bỏ qua việc phải cần có một tổ chức cách mạng để làm thay đổi
những điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần cho con người, bỏ qua nguồn
gốc xã hội dẫn đến sự tha hoá của con người - điều mà chủ nghĩa Mác rất
quan tâm.
Thực tiễn cho thấy, trong xã hội còn áp bức bóc lột, còn bất bình đẳng
thì tự do trong hành động cũng như tự do trong tư tưởng cũng đều không có.
Sống trong xã hội này, không phải ai muốn nghĩ gì cũng được bởi suy nghĩ
của con người còn bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố của đời sống xã hội. Triết
học Mác cho rằng, tồn tại xã hội quyết đinh ý thức xã hội, nghĩa là đời sống
vật chất như thế nào thì đời sống tinh thần sẽ hình thành như thế ấy. Do vậy, ý
nghĩ của một hành vi luôn bị hoàn cảnh xã hội, điều kiện sinh hoạt vật chất
quy định, quan niệm của con người về một hành vi nào đó là tốt hay xấu,
thiện hay ác đều do những điều kiện xã hội nhất định mà họ đang sống chi
phối và quyết định. Có thể nói, quan niệm đạo đức học của J.P.Sartre có phần
chủ quan thái quá.
Thứ tư, việc ông gắn sự tự do lựa chọn với sự ưu phiền, lo âu, tuyệt
vọng một cách thuần tuý thì lại thể hiện tính bi quan trong thuyết tự do của
ông. Hơn nữa khi đưa ra khái niệm tự do, Sartre đã không để ý tới nhân tố
khách quan, tới hoàn cảnh lịch sử, tới những tiêu chí, quy tắc đạo đức của xã
hội.... Điều này làm cho quan niệm của ông khác với quan niệm của nhiều học
thuyết khác trong đó có chủ nghĩa Mác. Quan điểm chủ quan và cực đoan của
Sartre về tự do mở đường cho việc nhân nhượng, chống lại mọi hiện thực xã
hội. Khước từ mọi quy tắc cộng đồng mà thay vào đó là quyền tự quyết theo ý
71
muốn chủ quan. Không kế thừa những giá trị truyền thống dẫn tới những
nguy cơ nổi loạn, xung đột lợi ích... tạo nên một xã hội vô chính phủ, mất kỷ
cương phép nước. Thiết lập một lối sống buông thả vượt qua những quy tắc
đạo đức đời thường dẫn tới những tai biến, bệnh hoạn.
Quan niệm về tự do lựa chọn của con người theo đạo đức học của
Sartre mới chỉ là sự lựa chọn “ dự phóng”, tức là sự lựa chọn mới chỉ hướng
tới tương lai của mỗi cá nhân, theo nguyện vọng của mỗi cá nhân, nên sẽ nếu
sự lựa chọn của mỗi cá nhân không phù hợp với lợi ích chung của cả xã hội,
không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc thì sẽ dẫn đến trào lưu, lối
sống phi đạo đức..., làm biến đổi các giá trị truyền thống của dân tộc.
Như đã biết, tự do là khát vọng của toàn nhân loại, khát vọng được
hành động theo tình cảm, nguyện vọng, nguyên tắc của lòng mình mà đạo đức
học trong chủ nghĩa hiện sinh đề cập đến là điều dễ hiểu bởi vì chủ nghĩa hiện
sinh là sự phản ánh tâm trạng của tầng lớp trí thức tư sản và tiểu tư sản trong
thời kỳ khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, triết học cũng như đạo đức
học hiện sinh tập trung xoay quanh vấn đề con người, thân phận con người
trong bối cảnh khủng hoảng của xã hội và khoa học. Học thuyết này thể hiện
tính năng động, sáng tạo, chủ động của mỗi cá nhân để thoát ra khỏi guồng
máy xã hội, thoát ra khỏi sự trói buộc của những chuẩn mực đặt trước cho con
người để đạt tới tự do.
Trên thực tế, mục đích của đạo đức học hiện sinh là nhân văn. Học
thuyết đạo đức này là vì con người, quan tâm đến thân phận, cuộc đời con
người. Tuy nhiên, phương thức thực hiện mục tiêu chưa thật phù hợp. Trước
đây, giới triết học mácxít khi đề cập đến chủ nghĩa hiện sinh thường nói chủ
yếu về các mặt hạn chế, tiêu cực của nó như chủ nghĩa cá nhân tư sản cực
đoan, chủ nghĩa bi quan, thái độ thất vọng, chán chường,... Những hạn chế,
tiêu cực ấy là có thật. Nhưng đạo đức học hiện sinh nói chung và quan điểm
đạo đức của Sartre nói riêng còn có những mặt tích cực, hợp lý đáng học hỏi.
72
Dựa trên quan niệm triết học và đạo đức học Mác –Lênin để nhìn nhận, chủ
nghĩa hiện sinh bên cạnh những hạn chế đã có những đóng góp nhất định cho
đạo đức học. Tuy vậy, chúng ta cần xem xét, đánh giá một cách khách quan
để thấy được, tiếp thu những hạt nhân hợp lý và loại bỏ những nhân tố không
phù hợp trong đạo đức học hiện sinh để đạo đức học Mác –Lênin ngày càng
73
hoàn thiện hơn.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Những quan niệm nền tảng của đạo đức học như thiện, ác, lương tâm,
trách nhiệm.... được Sartre đề cập đến thông qua các tác phẩm của mình.
J.P.Sartre lý giải: thiện là sự thể hiện nguyên tắc của tự do và trách nhiệm. Ác
là sự từ bỏ thiện. Không trung thực là thông tin xuyên tạc tình hình thực tế và
định hướng chống lại các lý tưởng về tự do. Lương tâm là sự tự đánh giá của
cá nhân trên phương diện tính cấp bách của nó đối với tự do. Tội lỗi là sự từ
bỏ trách nhiệm. Hèn nhát là sự che dấu tự do nhờ dựa vào hoàn cảnh. Bổn
phận là việc phục tùng những giá trị mà bản thân mình lựa chọn.
Quan điểm đạo đức học của Sartre được hình thành và phát triển trong
bối cảnh xã hội khủng hoảng, nó phản ánh những bế tắc của xã hội tư bản,
những mâu thuẫn xã hội không giải quyết được. Nó là tiếng nói tố cáo xã hội
tư bản đã làm tha hoá con người, đồng thời cũng là sự phản ứng chống lại xã
hội ấy. Đạo đức học hiện sinh của Sartre cũng góp tiếng nói trong việc phê
phán những giá trị cũ, lỗi thời, những nguyên tắc tập quán xã hội lạc hậu trói
chặt, kìm hãm con người, làm con người không phát huy được tính năng động
sáng tạo của mình. Đạo đức học của J.P.Sartre bên cạnh những giá trị còn có
những hạn chế nhất định. Do vậy, chúng ta phải tiếp cận quan điểm đạo đức
học của chủ nghĩa hiện sinh nói chung nói chung và của Sartre nói riêng trên
74
tinh thần biện chứng, kế thừa có chọn lọc.
KẾT LUẬN
Quan niệm về đạo đức học là một trong những bộ phận cơ bản trong
chủ nghĩa hiện sinh, một học thuyết về con người và đời người. Triết lí hiện
sinh của Sartre nổi lên không chỉ như một học thuyết, tư tưởng triết học mà
còn là một khuynh hướng sáng tác trong văn học những năm đầu thế kỉ XX.
Sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện sinh lúc bấy giờ như là một sự cứu vớt linh
hồn cho con người sống trong một xã hội thiếu vắng niềm tin. Chính vì lẽ đó
mà nó phát triển rất nhanh rộng với những ảnh hưởng đa chiều, có tích cực
lẫn tiêu cực. Thuyết hiện sinh của Sartre không phải là một học thuyết vô thần
theo nghĩa nó tận lực chứng minh rằng thượng đế không hiện hữu. Đúng hơn
nó tuyên bố rằng: cho dù thượng đế có hiện hữu thì cũng chẳng có gì thay đổi
cả. Và con người cần tìm lại chính mình bởi không ai có thể cứu con người ra
khỏi những nơi tối tăm ngoài bản thân mình. Đối với Sartre, con người lúc
nào cũng ở ngoài bản thân mình, và chính vì sự tự do đó mà con người hiện
hữu. Mặt khác, chính nhờ sự theo đuổi những lí tưởng, những mục đích đặt ra
mà con người hiện hữu. Không có một vũ trụ nào khác ngoài vũ trụ người,
vũ trụ của tính chủ thể người.
Hiện nay, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt trong bối cảnh
hội nhập với thế giới đa dạng các nền văn hoá, chúng ta phải làm giàu đẹp văn
hoá Việt Nam lấy con người là trung tâm. Không thể phủ nhận rằng, trong xu
thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, chúng ta đã đạt được
những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá.... Nhưng,
song song với quá trình phát triển đó đã nảy sinh nhiều vấn đề đe dọa sự ổn
định chính trị, gây ra sự biến chuyển của các giá trị truyền thống dân tộc.
Những lời ăn, tiếng nói, hành vi và nếp sống theo truyền thống, phong tục tập
quán mờ nhạt dần và phong cách “Tây hoá” ngày càng đậm nét... Trên thực
75
tế, quan niệm đạo đức học của chủ nghĩa hiện sinh nói chung và của J.P.Sartre
nói riêng, tương tác với những giá trị văn hoá truyền thống phương Đông, với
các tư tưởng Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá thật sự khoa học
nội dung, ý nghĩa và hạn chế của triết học hiện sinh là rất cần thiết đối với
nhận thức và thực tiễn của chúng ta.
Quan điểm đạo đức học của Sartre được hình thành và phát triển trong
bối cảnh xã hội khủng hoảng, nó phản ánh những bế tắc của xã hội tư bản,
những mâu thuẫn xã hội không giải quyết được. Nó là tiếng nói tố cáo xã hội
tư bản đã làm tha hoá con người, đồng thời cũng là sự phản ứng chống lại xã
hội ấy. Đạo đức học hiện sinh của Sartre cũng góp tiếng nói trong việc phê
phán những giá trị cũ, lỗi thời, những nguyên tắc tập quán xã hội lạc hậu đã
kìm hãm con người, làm con người không phát huy được tính năng động, chủ
động, tích cực sáng tạo của mình.
Chủ nghĩa hiện sinh nói chung và đạo đức học hiện sinh nói riêng bên
cạnh một số giá trị, còn có những hạn chế nhất định. Quan niệm này đã đề cao
tự do cá nhân một cách thái quá và không chú ý đến những giá trị chuẩn mực
xã hội, những giá trị truyền thống, phong tục tập quán của các dân tộc. Chủ
nghĩa hiện sinh cũng đặt ra một số vấn đề đạo đức học quan trọng như thiện,
ác, lương tâm, trách nhiệm cá nhân, tự do lựa chọn, ý nghĩa cuộc sống, bản
chất con người v.v..
J.P.Sartre lý giải những quan niệm nền tảng của đạo đức học như:
thiện, ác, lương tâm, trung thực, tội lỗi, hèn nhát. Thiện thể hiện nguyên tắc
của tự do và trách nhiệm. Ác là sự từ bỏ thiện. Không trung thực là thông tin
xuyên tạc tình hình thực tế và định hướng chống lại các lý tưởng về tự do.
Lương tâm là sự tự đánh giá của cá nhân trên phương diện tính cấp bách của
nó đối với tự do. Tội lỗi là sự từ bỏ trách nhiệm. Hèn nhát là sự che dấu tự do
nhờ dựa vào hoàn cảnh. Bổn phận là việc phục tùng những giá trị mà bản thân
76
mình lựa chọn. [16, 52]
Tuy nhiên, cách giải quyết vấn đề được đưa ra chưa thật hợp lý: Đạo
đức học hiện sinh quên mất vai trò quan trọng của điều kiện sinh hoạt vật
chất, của môi trường xã hội loài người. Thêm nữa, những giá trị đạo đức mà
các triết gia hiện sinh đề cập tới mới chỉ là giá trị do mỗi cá nhân tự tạo ra trên
cơ sở tự do lựa chọn hành vi cho mình, do đó còn mang tính chủ quan. Có thể
nhận định rằng, đạo đức học hiện sinh có xu hướng đề cao các giá trị của chủ
nghĩa cá nhân.
Đạo đức học hiện sinh bên cạnh những hạn chế còn có những giá trị
nhất định. Do vậy, chúng ta phải tiếp cận triết học hiện sinh nói chung và
quan niệm đạo đức học của chủ nghĩa hiện sinh nói riêng trên tinh thần biện
chứng, kế thừa có chọn lọc, nghĩa là phải loạt bỏ những yếu tố tiêu cực và giữ
lại “hạt nhân hợp lý”, phải biết tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại và
gìn giữ các giá trị truyền thống của dân tộc. Có như vậy, chúng ta mới nhìn
77
nhận và hiểu thực chất của vấn đề này.
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Nguyệt Anh (2015), Chủ nghĩa hiện sinh của Jean-Paul Sartre
trong tiểu thuyết Buồn nôn, Luận văn ThS. Văn học, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
2. Lê Thị Tuyết Ba, Vấn đề bảo vệ các giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam, http://www.chungta.com
3. Phạm Vĩnh Cư, Từ Thị Loan (dịch) (2004), Triết học đạo đức, Nxb Văn
hoá - Thông tin, Hà Nội.
4. Trần Thiện Đạo (2001), Chủ nghĩa hiện sinh và thuyết cấu trúc, Nxb Văn
học, Hà Nội.
5. Trần Thị Điểu (2008), Tính đặc thù của vấn đề đạo đức trong triết học hiện
sinh, Luận văn ThS. Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Hà Nội.
6. Trần Thị Điểu (2012), Tư tưởng về trách nhiệm trong triết học hiện sinh,
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam.
7. Trần Thái Đỉnh (1968). Triết học nhập môn, Ra Khơi, Sài Gòn.
8. Phạm Văn Đức (2006), “Toàn cầu hóa và sự tác động của nó đối với Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 3(178), Viện Triết học.
9. Phan Huy Đường, (2010), Jean-Paul Sartre - Nỗi đam mê làm người của
thế kỷ 20, http://www.chungta.com
10. Lưu Phóng Đồng (2004), Giáo trình hướng tới thế kỷ XXI - Triết học
phương Tây hiện đại (Lê Khánh Trường dịch), Nxb Lý luận chính trị.
11. Nguyễn Hào Hải (2001), Một số học thuyết triết học phương Tây hiện đại,
78
Nxb Văn hóa thông tin.
12. Nguyễn Vũ Hảo (2018), Giáo trình Triết học phương Tây hiện đại, Nxb
Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
13. Nguyễn Vũ Hảo (2007), Những vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX
(Kỷ yếu hội thảo quốc tế), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
14. Nguyễn Khắc Hiếu (1999), Đạo đức học Mác –Lênin, khoa Triết học,
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.
15. Đỗ Minh Hợp (1996), “Tính chủ quan trong triết học phương Tây hiện
đại”, Tạp chí triết học, số 1, Viện Triết học.
16. Đỗ Minh Hợp (2005), “Tư tưởng đạo đức học của Gi. P. Xáctơrơ”, Tạp
chí triết học, số 174, Viện Triết học.
17. Đỗ Minh Hợp (2005), Nhân học triết học hiện đại với vấn đề tồn tại
người, http://www.chungta.com
18. Đỗ Minh Hợp (2005), “Ph. Nítsơ –Người “Khuấy đảo”triết học Tây Âu
nửa cuối thế kỷ XIX”, Tạp chí Triết học, số 2.
19. Đỗ Minh Hợp, (2007), Tư tưởng đạo đức học của F. Nietzsche
trong:“Những vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX” (Kỷ yếu Hội thảo
Quốc tế), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
20. Đỗ Minh Hợp (2008), Tự do và trách nhiệm trong đạo đức học hiện sinh,
http://www.chungta.com
21. Đỗ Minh Hợp (2009), Tự do và trách nhiệm cá nhân trong “Tồn tại và hư
vô” của J. -P. Sartre, http://www.chungta.com
22. Đỗ Minh Hợp (2006), Chủ nghĩa hiện sinh, nhìn từ góc độ văn hóa học,
79
http://www.chungta.com
23. Nguyễn Thị Như Huế (2007), Quan niệm đạo đức học trong chủ nghĩa
hiện sinh, Luận văn ThS. Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Hà Nội.
24. Võ Công Liêm (2011), Hiện hữu và hư không (L’ÊTRE Et NÉANT /
BEING And NOTHINGNESS), http://newvietart.com
25. Sartre, J. P (1943), Ruồi, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
26. Bùi Văn Nam Sơn (2015), Thuyết hiện sinh: "Tiến lên để sống",
http://www.chungta.com
27. Samuel Enoch Stumpf & Donal C.Abel (Lê Văn Hy dịch) (2004), Nhập
môn triết học phương Tây, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.
28. Samuel Enoch Stumpf (2004), Lịch sử triết học và các luận đề (Đỗ Văn
Thuấn và Lê Văn Hy dịch), Nxb Lao động, Hà Nội.
29. Đỗ Ngọc Thạch (2011), Sartre và văn học, http://newvietart.com
30. Hoàng Văn Thắng (2004), “Quan niệm của GI.P.Xáctơrơ về con người
trong "Hiện sinh một nhân bản thuyết"”, Tạp chí Triết học, số 9 (160), Viện
Triết học.
31. Vương Văn Tín (2015), Tư tưởng của J.P.Sartre trong tác phẩm “Ruồi”
(Les Mouches), Luận văn ThS. Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Hà Nội.
32. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Luật khoa
80
học và công nghệ Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.