ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------------

LÊ THỊ HIỀN

QUAN NIỆM ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA

J.P.SARTRE

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2015-X

Hà Nội – 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------------

LÊ THỊ HIỀN

QUAN NIỆM ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA

J.P.SARTRE

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2015-X

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. TRẦN THỊ ĐIỂU

Hà Nội – 2019

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành

cảm ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cô giáo trong khoa Triết học, trường

Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt

thời gian em học tập tại khoa, tại trường.

Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới TS. Trần Thị Điểu

đã giúp đỡ và hướng dẫn em rất tận tình trong quá trình thực hiện và hoàn

thiện khóa luận tốt nghiệp này.

Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn khóa luận sẽ không tránh khỏi

những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý

kiến của các thầy, các cô, cùng toàn thể các bạn để khóa luận này được hoàn

thiện hơn.

Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2019.

Sinh viên

Lê Thị Hiền

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ RA ĐỜI QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC

HỌC TRONG CHỦ NGHĨA HIỆN SINH CỦA J. P. SARTRE ................ 4

1.1. Điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội .......................................................... 4

1.2. Tiền đề lý luận cho sự ra đời quan điểm đạo đức học trong chủ nghĩa hiện

sinh của J. P. Sartre ........................................................................................... 8

1.2.1 Triết học đời sống .................................................................................... 9

1.2.2 Hiện tượng luận của Husserl ................................................................. 16

1.2.3 Tư tưởng triết học hiện sinh của M. Heidegger và K. Jaspers .............. 19

1.3. J.P. Sartre và nền tảng quan niệm đạo đức học của ông .......................... 24

1.3.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của J. P. Sartre ............................ 24

1.3.2. Nền tảng của quan niệm đạo đức học của J. P. Sartre ......................... 27

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................... 41

CHƯƠNG 2. QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC HỌC TRONG CHỦ NGHĨA HIỆN

SINH CỦA J.P.SARTRE ............................................................................... 42

2.1. Quan niệm về thiện và ác ......................................................................... 42

2.2. Về trách nhiệm ......................................................................................... 46

2.3. Về sự trung thực và can đảm .................................................................... 55

2.4. Đánh giá quan điểm đạo đức học của J.P.Sartre ...................................... 63

2.4.1. Giá trị .................................................................................................... 63

2.4.2. Hạn chế ................................................................................................. 69

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................... 74

KẾT LUẬN .................................................................................................... 75

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................... 78

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Việt Nam đang trên con đường hội nhập với các nền văn hoá trên thế

giới. Việc trao đổi thông tin, giao tiếp quốc tế, hợp tác trên mọi lĩnh vực đã

trở thành xu hướng tất yếu của mỗi quốc gia. Trong sự đa dạng của các nền

văn hoá thế giới, nổi bật lên là nền văn hoá phương Tây đã hình thành và phát

triển từ rất sớm, mà thành quả nổi bật của nó là một nền văn minh kỹ thuật

nâng cao chất lượng đời sống xã hội. Trong bối cảnh ấy, việc tìm hiểu tư

tưởng triết học phương Tây với tính cách là nền tảng của đời sống tinh thần

xã hội phương Tây là hết sức cần thiết.

Từ xu thế của thế giới và thực tế của Việt Nam, chúng ta có thể khẳng

định rằng, chủ động và tích cực hội nhập là con đường tốt nhất để tranh thủ cơ

hội và vượt qua những thách thức của quá trình toàn cầu hóa. Bất kỳ sự biến

đổi và phát triển nào trong xã hội, suy cho đến cùng, cũng do con người quyết

định. Vì vậy, để tranh thủ được cơ hội, vượt qua những thách thức của toàn

cầu hóa, việc chuẩn bị và bồi dưỡng con người về mọi mặt trong quá trình hội

nhập là hết sức quan trọng. Trong ý nghĩa đó, các chuẩn mực, giá trị đạo đức

bị tác động, bị ảnh hưởng bởi nền văn hoá phương Tây là điều không tránh

khỏi. Vì vậy, trong bối cảnh giao lưu hội nhập hiện nay, việc tìm hiểu nền

tảng triết học, các quan niệm đạo đức học, các chuẩn mực đạo đức phương

Tây là đòi hỏi quan trọng và có ý nghĩa.

Là một trong những trào lưu triết học có ảnh hưởng sâu rộng tới đời

sống văn hoá - xã hội phương Tây và nhiều nước khác trên thế giới trong thế

kỷ XX, Chủ nghĩa hiện sinh không chỉ được đề cập, bàn luận sôi nổi trong các

công trình nghiên cứu triết học, trong các tác phẩm văn học nghệ thuật mà còn

thâm nhập vào đời sống, tạo nên một lối sống khá được ưa chuộng ở nhiều

1

nước phương Tây sau đại chiến thế giới lần thứ II. Bởi thế chủ nghĩa hiện sinh

đã để lại những dấu ấn quan trọng trong đời sống tinh thần ở các nước phương

Tây, qua đó ảnh hưởng đến nhiều nước phương Đông, trong đó có Việt Nam.

Triết học của J. P. Sartre là một trong những trào lưu triết học hiện đại ảnh

hưởng sâu rộng tới quần chúng nhân dân bởi nó là sự phản ứng thiết thực, hiện

hữu của đời sống con người khủng hoảng. Ông là một trong những người trụ

cột chính của phong trào hiện sinh nói chung và hiện sinh Pháp nói riêng. Bản

thân Sartre là một triết gia có sức cuốn hút trong giới thanh ,thiếu niên. Những

quan điểm triết học, đặc biệt là những tư tưởng đạo đức học của ông đã động

chạm tới tâm tính xác định của bộ phận người tươi trẻ, mới mẻ này. Ông như là

người cha đỡ đầu, người dẫn đường cho một thế hệ người cảm nhận được sự

mong manh của cuộc đời bởi cái chết, bệnh tật, trật tự, luân lý...đang đe doạ.

Nghiên cứu quan niệm đạo đức học của Sartre sẽ giúp tìm ra những giá trị có

thể vận dụng vào bối cảnh đời sống hiện đại ngày nay.

Với những lý do cơ bản trên, tôi chọn “Quan niệm đạo đức học của J.

P. Sartre” làm đề tài cho khóa luận của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ

Mục đích: Mục đích của khóa luận là phân tích làm rõ những quan

điểm đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh của J. P. Sartre, từ đó đưa ra

đánh giá về những giá trị và hạn chế của chúng.

Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, khóa luận thực hiện những

nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, trình bày điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội và tiền đề lý

luận cho sự hình thành tư tưởng đạo đức học của J. P. Sartre.

Thứ hai, khái quát về cuộc đời, sự nghiệp của J. P. Sartre.

2

Thứ ba, làm rõ những nội dung quan điểm đạo đức học của J.P. Sartre.

Thứ tư, đưa ra đánh giá những giá trị và hạn chế của quan điểm đạo

đức học của J.P. Sartre.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những quan điểm

đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh của J. P. Sartre.

Phạm vi nghiên cứu: Bài khoá luận nghiên cứu, phân tích một số nội

dung cơ bản của tư tưởng đạo đức của J. P. Sartre như: quan niệm tự do, tiêu

chuẩn thiện ác, quan niệm về trách nhiệm, quan niệm về sự trung thực và can

đảm được thể hiện qua một số tác phẩm của J.P.Sartre.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Khóa luận được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dựa trên nguyên tắc về sự thống nhất giữa triết

học và lịch sử triết học để nghiên cứu quan niệm đạo đức học trong chủ nghĩa

hiện sinh của J.P.Sartre. Khóa luận kế thừa các kết qủa nghiên cứu của những

người đi trước.

Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong khóa luận là những

phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học, trong đó đặc biệt chú trọng phương

pháp lôgíc và lịch sử, phương pháp phân tích -tổng hợp, phương pháp so sánh...

5. Những đóng góp của khóa luận

Khóa luận trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản của

quan niệm đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh của J.P.Sartre, đưa ra những

đánh giá bước đầu về quan niệm này.

6. Kết cấu khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, khóa

3

luận gồm hai chương, bảy tiết.

CHƯƠNG 1. ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ RA ĐỜI QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC

HỌC TRONG CHỦ NGHĨA HIỆN SINH CỦA J. P. SARTRE

1.1. Điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội

Sự khủng hoảng của kinh tế - chính trị - xã hội gắn liền với cuộc cách

mạng khoa học - kỹ thuật. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư

bản phương Tây bước vào thời kỳ huy hoàng. Cuộc cách mạng công nghiệp

và sau đó là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ - viễn thông đã làm thay

đổi toàn bộ nền sản xuất phương Tây. Loài người đã đi sâu nghiên cứu thế

giới từ vi mô đến vĩ mô, hàng loạt những phát kiến vĩ đại về phân tử, nguyên

tử, hạt nhân,... đến những hiểu biết về vũ trụ: các vì sao, thiên hà, đại thiên hà,

sự giãn nở của vũ trụ... Người ta ước tính rằng trong thế kỉ XX toàn bộ lượng

thông tin, tri thức tăng thêm khoảng 1000 lần so với đầu thế kỉ và vượt trội so

với tất cả các tri thức mà loài người tích lũy được trong suốt lịch sử phát triển

từ thế kỉ XIX trở về trước.

Khoa học - công nghệ đã len lỏi vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội

trong đó có vai trò quan trọng nhất là thúc đẩy nền kinh tế của toàn cầu.

Những thành quả về mặt kinh tế, khoa học đã gây ra những ảnh hưởng mạnh

mẽ tới các lĩnh vực khác như xã hội, chính trị, văn hoá, giáo dục và tư tưởng

của thời đại. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật bên cạnh những ưu điểm, nó

cũng gây ra những ảnh hưởng nhất định. Theo đó, khoa học kỹ thuật không

đem lại lợi ích và hạnh phúc cho đông đảo quần chúng lao động. Tiến bộ của

khoa học và kỹ thuật chỉ là công cụ bóc lột của giai cấp thống trị đối với

người lao động, chứ không phải là công cụ để phát triển các giá trị nhân văn,

cải thiện đời sống của đại đa số người lao động trong xã hội. Hệ quả tiêu cực

này càng làm tăng thêm những mâu thuẫn xã hội.

Biểu hiện của những mâu thuẫn này là hai cuộc chiến tranh thế giới thứ

4

nhất và thứ hai. Hai cuộc đại chiến khốc liệt là bối cảnh xã hội với tính cách

là điều kiện cho sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa hiện sinh. Cuộc đại

chiến thế giới lần thứ I năm 1914 và đặc biệt sự tàn khốc, dã man của cuộc

đại chiến thế giới lần thứ II đã cuốn hút châu Âu vào những cuộc chém giết

liên miên, làm cho dân chúng, đặc biệt tầng lớp thanh niên cảm thấy mình

như những con số vô danh. Chính những biến cố lớn lao này trong xã hội đã

làm đã làm ý thức xã hội thay đổi sâu sắc. Con người bắt đầu ưu tư, lo lắng

mất niềm tin hy vọng vào những gì là tốt đẹp. Cơ cấu xã hội của người dân

châu Âu bị đảo lộn về mọi mặt. Chính trị, pháp luật, tôn giáo... đều bị con

người nghi ngờ về những giá trị của nó. Con người sống trong chán nản, buồn

bã, lo âu và thấy cuộc sống thật vô nghĩa, phi lý, “buồn nôn”...

Chủ nghĩa hiện sinh ra đời sau Chiến tranh thế giới lần thứ I, bắt nguồn

từ học thuyết của S.Kierkegaard và trở thành một trào lưu tư tưởng phổ biến ở

Đức vào những năm 20 của thế kỷ XX. Lúc đó nước Đức thua trận trong

chiến tranh thế giới thứ I và bị tàn phá nghiêm trọng, triết học hiện sinh của

M.Heidegger phản ánh sự bi quan của xã hội Đức trước sự tàn phá đó. Trong

Chiến tranh thế giới lần thứ II, trung tâm triết học hiện sinh từ Đức chuyển

sang Pháp. Chiến tranh cùng với sự khủng hoảng nguồn nguyên liệu, sinh thái

và suy thoái đạo đức xã hội đã làm tăng sự khủng hoảng tâm hồn trong xã hội

tư bản phương Tây hiện đại.

Trước bối cảnh xã hội với những cuộc chiến tranh tàn khốc xảy ra liên

tiếp, sự phản ứng của xã hội diễn ra một cách gay gắt, làm bộc phát hàng loạt

những phong trào phản kháng, phủ định trên nhiều bình diện của đời sống. Về

mặt chính trị - xã hội, đó là những phong trào xã hội. Ở Mỹ là phong trào

Phản văn hóa của thanh niên, sinh viên. Ở Pháp là cuộc bạo loạn tháng Năm –

Sáu (1968). Về mặt văn hóa, đó là phong trào văn học hiện đại, văn học mới

(chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa siêu thực .v.v..). Đặc biệt trên mặt trận triết

học, từ cuối thế kỷ, triết học phi duy lý đã xuất hiện: triết học đời sống

5

(Bergson, Nietzche), chủ nghĩa Freud,... Trong bối cảnh cảnh xã hội đó, chủ

nghĩa hiện sinh cũng như quan niệm đạo đức học của nó đã xuất hiện như một

lời phản kháng mạnh mẽ về tồn tại xã hội đương thời. Chủ nghĩa hiện sinh đi

vào cuộc sống con người thành một quy luật tất yếu. Con người nhận ra tính

phi nhân tính của lịch sử khi mà những mâu thuẫn xã hội không thể nào điều

hoà được. Cơ cấu xã hội bị đảo lộn, kinh tế điêu tàn, chính trị trở thành trò ảo

thuật của giai cấp tư sản. Chủ nghĩa hiện sinh ra đời trong bối cảnh đó là và là

một trào lưu phát triển mạnh cả trong triết học mà Jean-Paul Sartre là một

trong những gương mặt lớn nhất. Sự ảnh hưởng rộng lớn và sâu sắc của Jean-

Paul Sartre không chỉ bao trùm đất nước và thời đại của mình mà còn lan tỏa

khắp hành tinh cho đến ngày hôm nay. Đặc biệt chủ nghĩa hiện sinh còn là sự

phản ứng đối với chủ nghĩa duy lý thống trị trong xã hội phương Tây.

Chủ nghĩa hiện sinh ở Pháp cũng là sự phản ứng chống lại chủ nghĩa

duy lý. Nhưng nó gắn với những điều kiện lịch sử riêng của nước Pháp, nó

diễn ra ở một nước có truyền thống vững chãi về tự do, nó nảy sinh ngay

trong thời kỳ chiếm đóng của chủ nghĩa phát xít Đức, do đó nó có những nét

đặc thù không thể bỏ qua. Ở Pháp, sau khi chiến tranh kết thúc (1945) chủ

nghĩa hiện sinh đã phát triển rất mạnh mẽ và J.P.Sartre là nhà triết học hiện

sinh lớn nhất.

Chủ nghĩa duy lý đã khuyếch trương rằng khoa học là vạn năng, khoa

học có thể giải đáp tất cả vấn đề nhân sinh. Chẳng hạn, A. Comte cho rằng,

lịch sử nhân loại có lẽ sẽ chấm dứt ở thời đại đế quốc khoa học, vì với khoa

học mọi cái sẽ không còn bí ẩn nữa. Người ta sẽ hiểu rõ quá khứ, hiện tại,

tương lai của đời sống thiên nhiên, đời sống xã hội, đời sống con người như

trong lòng bàn tay vậy. Tuy nhiên, lịch sử đã không chứng tỏ điều này. Lý trí

khoa học đã nhìn con người như một hiện tượng vật lý, nó đã phủ nhận vai trò

của con người trong việc thẩm định, đánh giá các giá trị. Chủ nghĩa duy lý đã

6

gây nên sự khủng hoảng về tinh thần trong xã hội phương Tây hiện đại.

Theo cách nói của Mác, xã hội duy lý hoá ở phương Tây đã làm cho

con người chỉ còn là một “lực lượng vật chất đơn thuần”. Con người trở thành

bần cùng và kiệt quệ trong bộ máy kỹ thuật khổng lồ của xã hội hiện đại. Một

xã hội phương Tây giàu có về mặt vật chất nhưng dường như lại nghèo về văn

hoá tinh thần, kinh tế tăng trưởng nhanh nhưng đạo đức, văn hoá dường như

lại trở nên suy đồi. Trong xã hội như vậy, con người suy sụp, lo âu, sợ hãi... là

điều dễ hiểu.

Nếu triết học duy lý coi khoa học là chiếc đũa thần vạn năng có thể giải

quyết được mọi vấn đề, thì đối lập với nó là khuynh hướng triết học nghi ngờ

vào khả năng của khoa học kỹ thuật, khuynh hướng này hạ thấp, thậm chí

chống lại tư duy duy lý. Nhìn thấy những giới hạn của tư duy duy lý, của trí

tuệ con người, các triết gia theo khuynh hướng này cho rằng tư duy duy lý,

khoa học không phải lúc nào cũng thấu hiểu, giải quyết được mọi vấn đề.

Đã có nhiều nhà triết học đi sâu tìm hiểu về nhận thức cảm tính, tư duy

kinh nghiệm, phương pháp nhận thức bằng trực giác, linh cảm. Ở Kant, việc

đề cao tính nhân bản đã được xây dựng một cách sâu sắc, tuyệt vời. Đối với

vấn đề khả năng nhận thức của con người, một mặt Kant đánh giá cao tư duy

duy lý khoa học vì nó cho ta giá trị chắc chắn, mặt khác ông cho rằng phương

pháp của khoa học thực nghiệm là hiệu nghiệm, tuyệt vời nhưng chỉ hiệu

nghiệm, tuyệt vời khi dùng đúng chỗ. Điều này có nghĩa là, tư duy duy lý

không phải là tất cả. Theo Kant, phán đoán suy luận tuy dựa vào tính chất chủ

quan nhưng cũng có những giá trị nhất định vì với nhận thức khoa học, người

ta cũng không thể hiểu hết được đời sống tâm linh, đời sống tình cảm.

Bên cạnh đó, phải kể đến phương pháp nhận thức con người. Nếu Đề

các tơ cho rằng, tôi tư duy vậy tôi tồn tại, nghĩa là tôi tư duy về tôi, như vậy

tôi sẽ trở thành khách thể, trở thành cái gì đó khác tôi... thì K. Jaspers lại cho

rằng tồn tại của con người không giống như tồn tại của các sự vật thông

7

thường khác nên không thể dùng phương pháp phân ly chủ thể – khách thể để

nhận thức về tồn tại người. Theo Jaspers, chúng ta không nên phân ly con

người như là một chủ thể nhận thức, và một khách thể bị nhận thức. Vậy con

người phải được nhận thức theo phương pháp nào? Theo các nhà triết học

hiện sinh, hiện sinh của con người chỉ có thể được hiểu trên tinh thần con

người vượt ra những gì họ biết về chính họ, nhưng con người là một tồn tại tự

do và tự do lựa chọn của mỗi cá nhân trong cuộc đời lại không giống nhau

nên không thể có một công thức chung để tìm hiểu thân phận con người, mà

con người chỉ có thể được hiểu một cách sâu sắc nhất trong chính tư tưởng và

hành động của họ. Như vậy, các lý thuyết triết học có khuynh hướng chống

hay hạ thấp vai trò của chủ nghĩa duy lý và phương pháp nhận thức con người

cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy sự ra đời đạo đức học của chủ

nghĩa hiện sinh.

Bất cứ học thuyết triết học nào cũng đều chịu ảnh hưởng bởi hoàn cảnh

lịch sử, điều kiện kinh tế–xã hội. Đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh cũng

không nằm ngoài quy luật này. Chính sự khủng hoảng về chính trị, pháp luật,

sự suy đồi về đạo đức, sự đảo lộn trong cơ cấu xã hội của người dân châu Âu

là bối cảnh thuận lợi cho sự ra đời triết học hiện sinh nói chung và đạo đức

học hiện sinh nói riêng. Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự

sùng bái quá mức lý tính trong chủ nghĩa duy lý đã gây nên sự khủng hoảng,

sự bại hoại tinh thần trong xã hội phương Tây hiện đại. Tình trạng con người

bị bần cùng hoá, bị kiệt quệ, không tìm ra lối thoát trong bộ máy kỹ thuật

khổng lồ của xã hội phương Tây hiện đại cũng là một trong những yếu tố

quan trọng đưa đến sự ra đời quan niệm đạo đức học của chủ nghĩa hiện sinh

nói chung và của J.P.Sartre nói riêng.

1.2. Tiền đề lý luận cho sự ra đời quan điểm đạo đức học trong chủ

nghĩa hiện sinh của J. P. Sartre

Chủ nghĩa Mác –Lê nin đã chỉ ra quy luật cơ bản của đời sống xã hội

8

là: Mọi quy luật của ý thức xã hội chỉ được ra đời trên một tồn tại xã hội nhất

định và bị quy định bởi chính tồn tại xã hội đó. Tồn tại xã hội không phải là

cái gì khác hơn là những điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa và tư tưởng, những

yếu tố tạo nên sự hình thành, phát triển của các tư tưởng triết học. Tư tưởng

triết học của J. P. Sartre cũng không được ra đời từ hư vô mà phải kể tới ba

nguồn gốc tư tưởng trực tiếp sau: Một là, Triết học đời sống của A.

Schopenhauer, F. Nietzsche, H. Bergson,…; Hai là, hiện tượng luận E.

Husserl; Ba là, chủ nghĩa hiện sinh của K. Jaspers và M. Heidegger.

1.2.1 Triết học đời sống

Triết học đời sống ra đời đòi hỏi giải quyết những vấn đề đang đặt ra

trong cuộc sống hàng ngày, nó là kết quả của sự phát triển thái quá của khoa

học dẫn tới khủng hoảng nghiêm trọng trong đời sống tinh thần con người ở

cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Sự ra đời của triết học đời sống gắn với sự

phát triển của khoa học sinh học, tâm lý học, khoa học tự nhiên... có nhiều

phát minh mới nhưng không thể lý giải được. Khái niệm trung tâm của triết

học đời sống chính là phạm trù “Đời sống”, đây không phải là vấn đề cơ bản

của triết học như trước đây quan niệm, mà là một bản nguyên tuyệt đối, vô

hạn của thế giới có tính chất tích cực, đa dạng vận động vĩnh viễn. Phương

pháp nhận thức của trào lưu này là sự cảm nhận cảm xúc, trực giác, niềm tin

tôn giáo,.. như là sự phản ứng trực tiếp đối với triết học duy lý.

Triết học đời sống xem xét tồn tại của con người với tư cách là biểu

hiện của cuộc sống và có thể nhận thức được bằng trực giác. Trào lưu triết

học này là sự phản ứng đối với bức tranh cơ giới về thế giới, là sự phản ứng

đối với chủ nghĩa duy vật máy móc. Đứng trên lập trường của chủ nghĩa phi

lý, chủ nghĩa hư vô, chủ nghĩa chống khoa học, triết học đời sống đã cố gắng

khắc phục hạn chế của chủ nghĩa duy vật máy móc.

Triết học đời sống bao gồm những đại biểu tiêu biểu như: A.

9

Schopenhauer, F. Nietzsche, H. Bergson, W. Dilthey, G. Simmel.

A.Schopenhauer( 1788 –1860 )

Đề cập đến các vấn đề luân lý xã hội, địa vị của con người trong thế

giới, tự do của con người và ý nghĩa của nhân sinh, triết học Schopenhauer có

ảnh hưởng đến tư tưởng của chủ nghĩa hiện sinh. Trước đó, ảnh hưởng của

triết học Schopenhauer rất hạn chế. Chỉ đến khi làn sóng bi quan bao trùm

khắp nước Đức sau thất bại của cuộc cách mạng năm 1848, người ta mới

đổ xô nhau tìm đọc tác phẩm của ông, coi ông như một thần tượng của triết

học. Triết học nào cổ vũ con người hướng tới tự nhiên và xã hội, khích lệ con

người hướng thiện, hoặc ca ngợi hạnh phúc và lý tưởng đều bị

Schopenhauer phê phán. Ông cho rằng, tự do và đạo đức thuộc về ý chí, chỉ

có hành động của bản thân ý chí mới là tự do.

Thế giới như là ý chí và biểu tượng là tác phẩm chủ yếu nhất, có vị trí

cốt lõi nhất trong các tác phẩm của Schopenhauer. Trong tác phẩm,

Schopenhauer coi thế giới tựa như hai mảng, biểu tượng và ý chí. Mệnh đề

thứ nhất của ông là “thế giới là biểu tượng của tôi”, có nghĩa là mọi vật trên

thế giới đều cần lấy chủ thể làm điều kiện, chúng chỉ là chủ thể nên tồn tại.

Với mệnh đề này, Schopenhauer đã khám phá ra vai trò vô cùng quan trọng

gán cho chủ thể. Thế giới được lý giải như cái hiện ra cho chúng ta thông qua

những biểu tượng của chúng ta. Thế giới như biểu tượng của tôi và được đem

lại thông qua sự thể nghiệm của tôi. Do đó, những gì mà con người trực tiếp

lĩnh hội được chưa phải là cái cách mà vật thể tự nó là như thế hoặc đúng như

thế. Con người không biết gì hết về cái cây tự nó mà chỉ biết sự tưởng tượng

của chính mình về cái cây, cũng như “nó không biết mặt trời, trái đất, mà chỉ

biết cái mắt nhìn thấy mặt trời, cái tay sờ thấy đất; thế giới bao quanh chỉ tồn

tại như biểu tượng, tức hoàn toàn đối với cái khác, cái có biểu tượng, mà bản

thân con người là như vậy”[18, 15]. Theo ông, chúng ta là những chủ thể

10

nhận thức và chỉ biết thế giới như chúng ta thấy nó, do đó “toàn thể thế giới

sự vật mãi mãi chỉ là biểu tượng, và vì vậy bị xác định hoàn toàn và mãi mãi

bởi chủ thể” [29, 281].

Schopenhauer đề cao vai trò của chủ thể. Ông cho rằng, vũ trụ là cái

nhìn của tôi về vũ trụ. Vũ trụ chỉ là kết quả của cuộc gặp gỡ giữa tôi và ngoại

giới, vì thế không có vũ trụ tuyệt đối. Nghĩa là không có một vũ trụ bất biến

nào cho tất cả mọi người mà chỉ có những cái nhìn từ những quan niệm nhất

định nào đó. Như vậy, thế giới theo quan niệm Schopenhauer không phải là

hệ thống những tri thức có sẵn để tất cả mọi người nhận thức, mà thế giới là

những cái chúng ta đang tri giác. Không ai biết gì về thế giới ngoài những cái

họ thấy, ngoài những cái đặt trước tri giác, trí khôn của con người. Do vậy,

mỗi người sẽ có một cái nhìn khác nhau về thế giới và sẽ không có một thế

giới chung cho tất cả mọi người. Đó là cội nguồn của thuyết “đánh giá” và

“đảo lại những giá trị” của F. Nietzsche. Đó cũng là nguồn gốc sinh ra chủ thể

tính, một trong những giá trị lớn lao của triết học hiện sinh nói chung và đạo

đức học hiện sinh của Sartre nói riêng. Quan niệm của Schopenhauer đề cao

vai trò của con người với tính cách là chủ thể nhận thức hay ý chí đạo đức đã

ảnh hưởng đáng kể tới quan niệm của chủ nghĩa hiện sinh về đạo đức học của

Sartre. Tiếp thu tư tưởng này, Sartre đã chối bỏ sự ràng buộc của con người

vào những khuôn mẫu, chuẩn mực và những công thức chung có sẵn và cho

rằng, những giá trị của cuộc sống, việc xác định thiện hay ác là phụ thuộc vào

nguyên tắc do chính mỗi cá nhân tạo ra. Chính những quan niệm này của

Schopenhauer đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc đời, tư tưởng của Nietzsche

và quan niệm đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh.

F. Nietzsche (1844 - 1900)

Nietzsche cho rằng: “Làm sáng tỏ cho bản thân và chỉ ra vấn đề đạo

đức, - tôi coi đó là nhiệm vụ mới và quan trọng nhất. Tôi không cho rằng

nhiệm vụ ấy đã được giải quyết trong triết học đạo đức trước kia” và trên cơ

11

sở kế thừa tư tưởng của Schopenhauer, Nietzsche đã xây dựng nền triết học

của mình với xuất phát điểm là “đánh giá lại mọi giá trị”. Ông muốn “đổi lại

cái bảng giá trị luân lý và xã hội; những gì người ta vẫn tôn trọng từ trước đến

nay sẽ bị ông thoá mạ và lên án”. [21;116]. F. Nietzsche cho rằng, từ Socrates

đến nay, tư tưởng và văn hóa do chủ nghĩa lý tính chi phối đã hạn chế cuộc

sống và bản năng phi lý tính của con người. Những khái niệm triết học trước

đây chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa lý tính đều là hư cấu và sai lầm, che lấp

bản năng cuộc sống con người. Để làm cho khả năng con người không bị ràng

buộc, để cuộc sống và hành động đạo đức con người có giá trị chân chính, thì

phải phá bỏ các quan niệm cũ.

Nietzsche cho rằng muốn trở thành một người sáng tạo ra giá trị, phân

định thiện ác thì cần phải lật đổ các giá trị cũ. Đối với Nietzsche, các học

thuyết triết học dựa trên tư duy duy lí không những không mang lại lợi ích gì

cho nhân loại mà còn làm tê liệt, mê hoặc cuộc sống. Nietzsche cho rằng,

không thể có chân lí trừu tượng. Chân lí trừu tượng chỉ là một thứ tri thức do

người khác dạy và ta chấp nhận mà không xét lại. Ông tranh đấu cho tri thức

mới, tri thức cụ thể gắn liền với thực tế sống động. Tri thức này nằm trong

cuộc sống của mỗi người và nó có thước đo khác nhau tuỳ theo quan niệm

của họ. F. Nietzsche xây dựng một loại triết học có thể phát hiện và biểu đạt

cái tồn tại sâu kín của con người. Ông đã bác bỏ quan niệm triết học phái lý

tính truyền thống, lấy nhận thức luận làm trung tâm, mà triết học thì nên lấy

cuộc sống và hành động con người làm trung tâm, làm cho triết học trở thành

thực tiễn về mặt ý nghĩa luân lý. Nhà triết học này đã hướng lý luận đi vào

thực tiễn, có gắn với thực tiễn, lý luận mới thực sự là cái được nhào nặn có

nghĩa. Đây là một trong những đóng góp quan trọng của Nietzche cho triết

học đời sống.

Nietzsche ý thức rằng cuộc sống là giá trị cao nhất, tuy nhiên tự bản

thân nó không tạo ra ý nghĩa mà chính con người mang lại giá trị, ý nghĩa

12

cho cuộc sống. Theo ông, sở dĩ cuộc sống từ trước đến giờ không có giá trị vì

tư duy duy lý và các tôn giáo đã dạy con người ta sống yếm thế, thụ động, đã

nhầm tưởng rằng mục đích cuộc sống là có sẵn, không phải do con người tạo

ra. Như vậy, chỉ là nhắm mắt tuân theo những luân lý và tập tục của xã hội,

chỉ là những kẻ nô lệ. Nietzsche kêu gọi mọi người hãy sống tự do, theo

chuẩn mực của bản thân, do bản thân mình đặt ra và tự chịu trách nhiệm về

việc làm của mình. Con người không được làm nô lệ cho bất cứ điều gì. Con

người phải luôn luôn sáng tạo ra chính cuộc sống của mình vì không cảnh nô

lệ nào nhục nhã bằng nô lệ tinh thần.

Có thể nói, tư tưởng đạo đức học của F. Nietzsche là nguồn gốc tư

tưởng quan trọng của quan niệm về đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh nói

chung và của Sartre nói riêng. Ông cho rằng con người không được làm nô lệ

cho bất cứ điều gì, phải luôn luôn sáng tạo ra chính cuộc sống của mình.

Nietzche đã đặt ra những vấn đề trọng yếu của triết học nhân sinh, với tham

vọng lột bỏ được nếp tư tưởng chịu ảnh hưởng nặng nề của luân lý truyền

thống. Tuy nhiên, những gì mà ông làm được mới dừng lại ở mức độ một nhà

tư tưởng chưa thoát ly được địa vị và giai cấp của mình. J.P.Sartre đã mượn ở

Nietzche những tư tưởng về sự tự do cũng như khai thác, khắc phục và phát

triển lên sự phủ định những giá trị cũ lỗi thời, sự bành chướng của chủ nghĩa

duy lý cho những luận giải của mình. Nhờ vậy mà Nietzsche được ví là một

trong những nhà sáng lập ra chủ nghĩa hiện sinh.

Henri Bergson (1859–1941)

Ảnh hưởng đáng kể nhất của H. Bergson tới sự hình thành và phát triển

của chủ nghĩa hiện sinh nói chung và đạo đức học nói riêng với J.P.Sartre là

thuyết trực giác. Theo ông, để có được tri thức thật sự về bên trong thực tại

phải sử dụng phương thức trực giác.

H. Bergson cho rằng mỗi cá nhân đều có thể có ý thức trực giác, trực

13

giác tựa hồ đồng nhất với bản thân sự sống, trực giác là thể nghiệm nội tâm,

trực giác là ý thức trực tiếp, là đặt mình vào bên trong đối tượng. Theo ông, trí

tuệ có khuynh hướng giới hạn đạo đức vào một xã hội khép kín và chỉ khi xuất

hiện các nhà thần bí, các thánh nhân thì mới có tiến bộ đạo đức, “cả khi trí tuệ

hình thành các quy tắc cho mọi người, trực giác mở ra những nguồn phong phú

hơn của sức mạnh cảm xúc, lập tức khơi dậy khát vọng và cung cấp lực sáng

tạo để ôm ấp những lối sống mới. Như thế đạo đức không ngừng đi từ sự suy

xét về bản ngã và về xã hội để mở rộng ra toàn thể nhân loại” [29, 348].

Theo Bergson, trực giác, trí nhớ là điểm giao nhau giữa vật chất và tinh

thần. Cả hai phái duy vật và duy tâm đều coi trực giác đơn giản là một hành vi

nhận thức của con người. Đó là một thái độ coi thường với trực giác. Theo

ông thì trực giác và toàn bộ tâm thần bị làm cho lệ thuộc vào hành động toàn

vẹn, hiện thực của con người. Trực giác là thước đo năng lực hành động con

người. nhờ năng lực trực giác này con người mới tham gia vào thực tiễn lịch

sử. nhờ trực giác mà con người có thể nhận thức được bản chất của sự sống.

Với khả năng của trực giác con người có thể đột nhập vào bên trong hiện

tượng một cách trực tiếp, không cần liên tưởng, lýthuyết, để thống nhất trong

một bản thể. Trực giác có liên hệ với trí nhớ trong một quá trình phức tạp, kéo

dài. Trên hết trực giác phải là sự lựa chọn và ý thức biết về sự lựa chọn này.

Với quan niệm như vậy về tâm linh con người A. Bergson đã đưa thuyếttrực

giác của ông vừa là thuyết bản thể luận vừa là một phương pháp nhận thức

của tồn tại mà sau này chủ nghĩa hiện sinh của Sartre tiếp thu.

Khái niệm cốt lõi mà Bergson muốn truyền thụ và ảnh hưởng quan

trọng nhất có lẽ là khái niệm “Cuộc sống”. Ông đã tiến hành phân tích khái

niệm này. Theo sự phân tích đó thì “Cuộc sống” là biện chứng của vật chất và

tinh thần. Nhưng sự biện chứng này có phần đi vào chỗ thần bí vì theo ông

“Cuộc sống” là không thể nhận thức được đối với khoa học nói chung. Cái

bản chất nhất của “Cuộc sống” này chính là những vòng khâu liên tục, nối

14

tiếp nhau. Đó là những quá trình liên tiếp như một “Độ dài thời gian”có động

lực tạo ra bởi một “Khí thế sống”mãnh liệt. Ông gọi trực giác là bản năng

không có lợi ích thực tiễn, có ý thức với bản thân, có khả năng suy tư về

khách thể của mình, và mở rộng nó. Bản năng còn là hình thức của trực giác

đưa ta vào vùng sâu của “Cuộc sống”. Nhưng chính như trên đã phân tích thì

ông lại coi trực giác là một khả năng đặc biệt cho phép ta đi vào sâu bên trong

những bản chất, để hợp nhất với sự vật trong một bản thể thống nhất. Như vậy

là trực giác của ông là không mang một bản chất nào khẳng định mà lại có

những khả năng phủ định. Với vai trò phủ định như vậy thì thuyết trực giác

trở thành một công cụ luận chiến hơn là một phương pháp, một đối tượng

mang tính chất khẳng định.

Tuy là một trực giác mơ hồ và đứt đoạn như một ngọn đèn đang tắt.

Nhưng nhìn chung thì nó bùng lên chính vào thời điểm chúng ta nói tới những

lơị ích thiết thực của chúng ta. Trực giác là lộ ra cái “Tôi” của chúng ta, tự do

của chúng ta, số phận của chúng ta. Tất nhiên nó có yếu ớt, lao đao. Bất chấp

điều đó thì học thuyết này của ông vẫn có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đối với

những quan điểm hiện sinh của Sartre. Đặc trưng trong đó là quan niệm về

tồn tại con người gắn bó hữu cơ với giới tự nhiên. Ở đó con người không

ngừng chia sẻ, khám phá thế giới mà còn phải có trách nhiệm với vũ trụ này

bằng một ý thức đong đầy khí thế.

Triết học đời sống là nguồn gốc tư tưởng quan trọng của quan niệm về

đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh nói chung và của Sartre nói riêng. Triết

học đời sống xem xét tồn tại của con người với tư cách là biểu hiện của cuộc

sống và có thể nhận thức được bằng trực giác. J.P.Sartre đã mượn ở triết học

đời sống những tư tưởng của chủ nghĩa phi duy lý cho sự luận giải của mình.

Đề cao vai trò của con người với tính cách là chủ thể nhận thức hay ý chí đạo

đức đã ảnh hưởng đáng kể tới quan niệm của chủ nghĩa hiện sinh về đạo đức

học của Sartre. Kêu gọi mọi người hãy sống tự do, theo chuẩn mực của bản

15

thân, do bản thân mình đặt ra và tự chịu trách nhiệm về việc làm của mình,

con người không được làm nô lệ cho bất cứ điều gì. Triết học hiện sinh hành

động của J. P. Sartre phát triển sau chiến tranh thế giới thứ hai, đã tiếp thu ở

những tư tưởng trên đây của triết học đời sống. Tạo thành một phong trào triết

học đi vào những vấn đề quan trọng của tồn tại người.

1.2.2 Hiện tượng luận của Husserl

Edmund Husserl (1859 –1938) là một triết gia Đức, với một tư duy số

học và triết học cao, Husserl đã đặt lại cơ sở cho triết học hiện đại, xây dựng

một mô hình triết học chặt chẽ với tên gọi: Hiện tượng học, mà J. P. Sartre đã

kế tục và phát triển vinh quang.

Trong bối cảnh tư tưởng của thời kỳ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa duy

khoa học và chủ nghĩa duy lý tính tương ứng với nó có liên quan chặt chẽ

với chủ nghĩa tâm lý, coi tâm lý học là cơ sở để bênh vực lý tính. Husserl

cũng loay hoay mất hơn mười năm với những kỳ vọng vào chủ nghĩa tâm

lý và cuối cùng ông phê phán chủ nghĩa tâm lý và sáng tạo nên hiện tượng

học, tức chuyển từ lập trường của chủ nghĩa duy khoa học sang lập trường

hiện tượng học. Hiện tượng học đã xác định ảnh hưởng sâu rộng lên nhiều

lĩnh vực khoa học, tri thức nhân văn. “Quay về với bản thân sự việc” là khẩu

hiệu được Husserl nêu lên nhằm làm cho tư tưởng triết học thoát khỏi bước đi

lệch lạc để nhìn thẳng vào những thách thức của hiện thực. Hiện tượng học

thoát thai từ khoa học tự nhiên nhưng dần dần phát triển thành trào lưu tư

tưởng của chủ nghĩa nhân văn và trở thành trào lưu tư tưởng nhân văn quan

trọng bậc nhất, đem lại sắc thái hoàn toàn mới cho tư tưởng thế kỷ XX. Và,

một trong những dấu ấn quan trọng nhất là: hiện tượng học trở thành cơ sở lý

luận của chủ nghĩa hiện sinh.

Tuy hiện tượng học của Husserl có nhiều điểm xa lạ với chủ nghĩa hiện

sinh, nhưng chính nhờ hiện tượng học mà chủ nghĩa hiện sinh mới có cơ sở lý

16

luận để trở thành học thuyết triết học. Lý luận của Husserl về ý thức và tính ý

hướng của nó là nền tảng cho luận đề cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh sau này

là: hiện sinh có trước bản chất.

Theo Husserl, không có vũ trụ tuyệt đối và cũng không có chủ thể tuyệt

đối. Nếu vũ trụ là đối tượng, thì nó chỉ có thể là đối tượng cho tôi hay cho anh

thôi, nó không thể là đối tượng tuyệt đối. Đối tượng không phải là một nội

dung có sẵn, mà là một hành vi chưa thực hiện, còn chờ để thực hiện. Ý thức

bao giờ cũng là ý thức về một cái gì, ý thức bao giờ cũng có đối tượng, hoàn

cảnh tôi đang nhìn quan sát cái bút hoặc đang nhớ đến người bạn của tôi...

Husserl gọi tính chất của ý thức là “Tính ý hướng”.

Như vậy, ý thức là “ý hướng”, là hướng đến một đối tượng, ý thức cần

có đối tượng, ý thức chỉ tồn tại bằng cách hướng đến một đối tượng nào đó và

ngược lại đối tượng phải là đối tượng cho ý thức. Đối tượng không phải là

một nội dung có sẵn, mà nó là một hành vi chưa thực hiện, nó phụ thuộc vào

tính ý hướng của ý thức, thực ra là tính chỉ hướng của ý thức, tính chỉ hướng

này là tự chỉ hoặc chỉ vào tự thân. Ông khẳng định, trong lĩnh vực ý thức

thuần tuý, bất cứ đối tượng nào, như một cái cây, một làn sóng điện từ, một

con vi khuẩn dưới kính hiển vi... đều không thể tồn tại tách rời khỏi ý thức,

chúng đều là những vật đã được ý thức hướng vào. Ý thức không thể tách rời

đối tượng mà chỉ có thể hướng về sự tồn tại của đối tượng.

Theo Husserl, cần phải mô tả đối tượng y như nó xuất hiện trước ý

thức, mô tả tất cả những gì mình đã sống thực. Mô tả hiện tượng luôn phải trở

về với sự vật chứ không được suy diễn, nghĩ ra. Theo Husserl, ông không đi

đánh giá các giá trị của đạo đức như cái gì là thiện cái gì là ác, đâu là lương

tâm hay là trách nhiệm... điều mà ông quan tâm là phải mô tả những hiện

tượng ấy sao cho thật sự chính xác như nó đang là. Ý nghĩa thật sự đóng góp

của Husserl đối với đạo đức học là đã đưa địa vị con người làm căn bản hơn

so với Kant, là trung tâm của mọi xem xét đạo đức. Đây là tính thực tiễn căn

17

bản của tồn tại để con người nhận ra sự tồn tại của mình trước thế giới. Đạo

đức học là vấn đề của con người và không thể được nhìn nhận như là cái gì

định sẵn cho con người theo một định luật phổ quát. Tồn tại người phải thật

sự tách biệt với quy luật của thế giới.

Husserl là người đặt nền móng lý luận cho chủ nghĩa hiện sinh. Triết

học hiện sinh nói chung và đạo đức học hiện sinh của Sartre nói riêng mang

dấu ấn của hiện tượng học về cả đối tượng và phương pháp. Triết học này đã

kiên quyết từ chối việc biến con người thành đối tượng của các khoa học

khách quan, mà con người phải là cái biểu hiện ra, được cảm nhận bởi kinh

nghiệm và hoàn cảnh cá nhân của nó. Những người theo thuyết hiện sinh

phản đối quy luật khách quan đang giải thích tự do con người, không chấp

nhận cách định nghĩa tự do là tất yếu được nhận thức và họ cũng bác bỏ

hành vi công thức hoá hoạt động của con người. Con người phải là cái độc

nhất, cá nhân và riêng. Tính chủ quan là cái lớn nhất mà hiện tượng học

đem lại cho triết học hiện sinh mà Sartre đã tiếp thu. Tính chủ quan ở đây

không phải là yếu tố của hoạt động nhận thức mà là lĩnh vực bản thể luận.

Tính chủ quan là một thực tại đặc biệt luôn hiện diện trong hành vi con người

nhưng không bao giờ trở thành đối tượng của nhận thức. Theo Husserl, xét từ

giác độ tính tồn tại thì tính chủ quan thể hiện là cơ sở thứ nhất, sinh ra nghĩa

xuất phát của mọi hình thức hoạt động của con người. Nó là cái tuyệt đối mà

triết học cần phải xuất phát để giải thích mọi vấn đề khác. Đối với chủ nghĩa

hiện sinh, tính chủ quan đó, như Sartre giải thích: “chủ quan tính có hai

nghĩa khác nhau...một đằng có nghĩa rằng chủ thể cá biệt tự lựa chọn, đằng

khác lại có nghĩa rằng con người không thể vượt qua chủ quan tính của con

người được. Chính nghĩa thứ hai này là nghĩa sâu xa của thuyết hiện

sinh”[7, 20]. Lý luận của Husserl về ý thức và tính ý hướng của nó là nền tảng

cho luận đề cơ bản trong quan điểm của J.P.Sartre sau này là: hiện sinh có

18

trước bản chất. Do vậy, nói đến nguồn gốc hình thành chủ nghĩa hiện sinh nói

chung và đạo đức học của J.P.Sartre nói riêng chúng ta không thể không kể

đến hiện tượng luận của Husserl.

1.2.3 Tư tưởng triết học hiện sinh của M. Heidegger và K. Jaspers

M. Heidegger ( 1889 –1976 ) là một trong những đại biểu sáng lập ra

chủ nghĩa hiện sinh. Trong tư tưởng của Heidegger về tồn tại vượt trước, ông

gọi Dasein là một nguyên nhân khởi thủy - là nền tảng cho mọi cái hiện hữu.

Cái hiện hữu là mặt khách quan của tồn tại người nhưng cái hiện hữu này tự

nó là vô nghĩa, là hư vô nếu không được soi sáng bằng tồn tại người. Sự tồn

tại của cái hiện hữu chỉ tồn tại khi Dasein gán cho nó một ý nghĩa. Cái bàn

trước mắt tôi tồn tại khi tôi nhìn thấy nó là chiếc bàn, cái cây bởi nó là cái cây

khitôi phát hiện nó như là một cái cây...nhưng sự hiện hữu ấy không có nghĩa

là tồn tại.

Heidegger dùng thuật ngữ Dasein để chỉ con người - một tồn tại người

có ý thức. Con người trước hết phải tồn tại, nhưng sự tồn tại của con người

không đơn thuần như tồn tại của vạn vật mà con người luôn tự vấn về sự tồn

tại của mình.

Theo Heidegger, con người cảm thấy cô đơn trong cuộc sống, cảm thấy

mình như kẻ bị lưu đầy. Con người xuất hiện trong cuộc đời nhưng không

biết mình từ đâu tới, mình sẽ đi đâu, chỉ biết rằng mình tồn tại trong trần gian

nhưng không biết nương tựa chống đỡ vào đâu ngoài hoàn cảnh sống của

mình. Ông không nhìn nhận những điều này với ý nghĩa tiêu cực mà trái lại

nó là động cơ thúc đẩy khích lệ con người cố gắng tự tạo cho mình một cuộc

sống có ý nghĩa hơn, sống có trách nhiệm hơn. Con người tự sáng tạo nên

mình, tự làm nên mình.

Tư tưởng triết học về hiện sinh của ông đã bóc trần những khía cạnh

của tồn tại thông qua những cái hiện hữu. Ở đó con người cũng là một cái

19

hiện hữu nhằm giải thích rõ tồn tại của bản thân thông qua chính sự hiện hữu

này. Cái thật sự tồn tại chính là Dasien cái tồn tại ở đây và bây giờ. Người

trực tiếp nêu ra câu hỏi về sự tồn tại của chính mình đi tìm giá trị cũng như

mục đích của tồn tại ở đây.Vì vậy theo Heidegger con người không được

phép sống hay tồn tại theo kiểu sự hiện hữu được, mà phải làm cho mình

xứng danh vì đã sinh ra trong cuộc đời này. Thế mới không lãng phí sự tồn tại

này. Heidegger coi việc chiêm ngưỡng cái chết là nguồn gốc, xung lực, lòng

nhiệt tình thiết tha với cuộc sống, và đó cũng là động lực cơ bản khích lệ con

người hoạt động trong những năm tháng còn lại của cuộc đời.

Theo Heidegger, con người là của chính mình, của chính sự lựa chọn.

Ai không hiểu được điều đó thì người ấy tất yếu sẽ khước từ chân lý của tồn

tại. Khi những giá trị được tạo ra, thì chúng được coi là ý nghĩa cuộc sống của

con người, xuất phát từ tự do lựa chọn, hay sự kiên định trước tính hữu hạn

của sự hiện sinh. Như vậy, nhờ có sự lĩnh ngộ về tồn tại của mình, con người

mới phân biệt tồn tại người với các thể hiện sinh khác.

Tồn tại người Dasien có bản chất là hiện sinh. Với bản chất này con

người đã không còn được diễn giải bằng bình diện lý trí. Phần thâm sâu của

con người là sự lo âu, nỗi sợ hãi, cô đơn...được hiện hữu thường xuyên.

Những nỗi niềm này đã biến bản thân con người thành những tồn tại đích thực

nhất mà triết học truyền thống lý tính đã khinh bỉ. Cái bản chất duy nhất của

con người và thế giới. Nỗi ưu tư này liên tục đẩy con người vào việc nhìn

ngắm lại bản thể tồn tại của mình bằng những sự kiện ngây thơ, ngẫu nhiên

nhất. Bằng thiết kế vào thực tại để hướng tới một tương lai khác.

Heidegger đã khắc hoạ nên một sự đặc thù của tồn tại người so với

những hiện hữu khác. Làm nổi bật lên cấp bậc tồn tại Dasien là cái khả năng

hiện thực hoá bản thân mình, luôn thiết kế mới mẻ bản thân của tồn tại chính

mình. Ông đã đưa ra một hình thái hiện sinh thực sự khác lạ so với những

quan niệm về con người trong sử triết. Đó là cách lựa chọn lối sống của mình,

20

tự làm nên bản chất của chính mình trong một viễn cảnh đa đoan và hỗn độn.

Tư tưởng đạo đức học của Heidegger đã tạo ra ảnh hưởng quan trọng

cho sự hình thành tư tưởng đạo đức của Sartre. Nghe lời người bạn Simone de

Bevoir, Sartre đã xin học bổng sang Đức trong vòng một năm để học về hiện

tượng luận của Husserl và đặc biệt là tư tưởng triết học hiện sinh của

Heidegger, và sau đó đã du nhập chủ nghĩa hiện sinh từ Đức sang Pháp. Tư

tưởng của Sartre trong tác phẩm “Tồn tại và hư vô” về thực chất là sự vận

dụng và phát triển quan niệm về tồn tại người của Heidegger theo một hướng

khác. Dựa trên phương pháp của Husserl, Heidegger đặt ra khả năng tư duy

để vượt ra khỏi cái tồn tại và hiểu về tồn tại. Con người tạo nên sự vật và tạo

nên chính mình nhưng không phải là tác nhân thuần túy. Sự hiện tồn của

một cá biệt cụ thể giữa những cái tồn tại khác nên con người phải tự thiết

lập lấy mình, làm nên chính mình. Sartre tiếp thu, nối tiếp và phát triển tư

tưởng trên của Heidegger. Tồn tại người theo Heidegger nghĩa là cho dù tôi

có thể các bỏ bất cứ cái gì, nhưng tôi không thể bác bỏ chính tôi; cho dù tôi

không biết tồn tại là gì, tôi vẫn biết được là tôi đang tồn tại, bởi vì tôi thể

nghiệm sự tồn tại của tôi trực tiếp và rõ ràng nhất. Điểm khác biệt của con

người là ở chỗ nó ý thức được tồn tại của bản thân mình. Dasein mở đường đi

tới tồn tại – bản thể, khẳng định con người tự tạo nên mình. Sartre đã khai

thác luận điểm này của Heidegger và phát triển thành luận điểm của mình với

việc xây dựng hai đặc điểm chính của con người hiện sinh: Một là con người

tự tạo nên mình, làm mình thành người. Hai là để tạo nên mình con người lựa

chọn tự do. Như vậy, Heidegger chỉ đặt ra một cái nhìn mới về chủ thể còn

Sartre khẳng định vai trò của chủ thể và con người tạo dựng cho thế giới

những giá trị của con người gán cho nó.

K. Jaspers (1883 –1969)

Cùng với Heidegger, K.Jaspers đã sáng lập chủ nghĩa hiện sinh Đức nổi

tiếng trong thế kỷ XX. K.Jasper cho rằng triết học phải tập trung vào suy tư

21

các vấn đề của con người liên quan đến công việc tự ý thức cá nhân, góp phần

hình thành nhân cách, triết học phải chú tâm để tìm hiểu con người như một

tồn tại tình thần, có ý thức và tự do. Mong muốn của K. Jasper là không muốn

con người cứ sống khắc khoải với thế giới như một sự vật. Bởi theo

K.Jaspers, không phải bất cứ con người nào, bất cứ ai cũng có thể vươn tới

cấp độ hiện sinh nhân vị. Từ cấp độ sự vật đến cấp độ hiện sinh con người

luôn cần đến một bước nhảy, một sự vượt bỏ. Sự vượt bỏ này là tính tự phản

tư về cuộc đời của chính mình khi đã khái quát được tính bị giới hạn của tồn

tại người. Để làm được điều này con người cần phải có tinh thần trách nhiệm,

sự dũng cảm trước hoàn cảnh sống của chính mình. Đây là một sự tìm kiếm tự

do đích thực.

Nói tới con người trong quan niệm của K. Jasper là nói tới bản thân con

người sinh tồn trong thế giới gắn liền với hoàn cảnh sống của mình. Con

người với những khả năng và vượt ra xa những gì mình có, nghĩa là luôn là

một tồn tại tự vượt ra những gì mình muốn bằng tự do của mình phụ thuộc

vào một số yêu sách tuyệt đối nào đó. Con người phải có trách nhiệm về

chính bản thân mình và xã hội. Đó là bản chất sâu xa của tự do nơi con người.

K.Jaspers nói đến khái niệm “tình huống giới hạn” như một khái niệm

mấu chốt để hiểu được triết học hiện sinh. Theo ông, chỉ trong các “tình

huống giới hạn”, như cái chết, tội lỗi, đấu tranh, ngẫu nhiên, người ta mới có

thể cảm nhận được mình là ai. “Tình huống giới hạn” là mặt khách quan của

kiếp người phải hứng chịu và không thể nào chạy trốn được. Tồn tại người (

Dasein) đã hiện sinh trong thế giới thì phải chiến đấu với nó. Với sức yếu

đuối của chính mình hầu như con người không thể nào làm được nhưng may

thay con người có công cụ phục vụ cho cuộc chiến ấy. Cuộc chiến ấy như là

một định mệnh và phải đề cao trách nhiệm của chính chủ thể hiện sinh ấy.

Đây là cơ sở cho quan niệm đạo đức học của Jasper. Sự thiết lập của tội lỗi,

với những gì là tội lỗi thì phải siêu việt cái tôi ấy ra khỏi hoàn cảnh. Điểm

22

chấm hết cho hiện sinh của tôi chính là cái chết. Nhưng ông không đợi một

cái gì đằng sau nấm mồ hiu quạnh mà ông nghĩ rằng cần phải để lại một cái gì

đó mà có giá trị cho đời sau. Đó là cái còn lại có giá trị của một đời người

đóng góp cho lịch sử. Thế mới xứng đáng là một con người.

Từ những điều trình bày trên, có thể nói, triết học Jaspers là kết quả của

những tư tưởng, những suy ngẫm chân thành và sâu sắc về con người. Trong

triết học của ông, người ta thấy những suy tư trong việc đi tìm định mệnh con

người, thấy sự cố gắng của ông trong việc giúp cho con người thoát ra khỏi

cảnh sa lầy tự mãn và do vậy, những suy tư, cố gắng này của ông đã có ảnh

hưởng tích cực tới chủ nghĩa hiện sinh nói chung và đạo đức học hiện sinh

của Sartre nói riêng. Điều đáng ghi nhận nhất trong triết học về con người của

Jaspers là sự thức tỉnh con người, buộc con người phải tự ý thức về trách

nhiệm làm người của mình và phải sống sao cho xứng đáng với sự hiện sinh

ấy. Tư tưởng của Jaspers về tự do cũng mang ý nghĩa sâu sắc, khi nó giúp cho

con người nhận thức được tự do có giới hạn, tự do là ý nghĩa căn bản của hiện

sinh, nhưng đó không phải là tự do vô lối, vô ý thức của con người. Tự do là

hành động xuất phát tự trong tâm khảm của ta. Tự do là do tự ta đã quyết định

như thế và ta hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự quyết định này. Đây thực sự là

nghĩa sâu xa của hiện sinh và cũng là đặc tính của hiện sinh. Con người chỉ tự

do thực sự khi và chỉ khi nó ý thức sâu xa về tính chất giới hạn của tự do hiện

sinh: Tự do của hiện sinh trước hết là một tự do có giới hạn và bị quy định, bị

giới hạn. Bởi lẽ, chính thân xác cũng bị quy định bởi sức khỏe, bởi sức chịu

đựng; bị giới hạn bởi khả năng suy nghĩ, bởi hoàn cảnh... Vì thế, Jaspers

khẳng định tự do của con người không thể có khi thiếu ý thức về sự kiện bị

giới hạn của hiện sinh. Như vậy, có thể nói, tự do hiện sinh của Jaspers khác

với tự do sinh tồn, tự do bừa bãi, khác với tự do tiêu cực của những kẻ yếu

hèn. Tự do hiện sinh là trách nhiệm và lo âu của con người tự giác và dám tự

quyết. Nhân vị tự do là ý thức về quyền tự do của mình, đồng thời cũng ý

23

thức sâu xa về trách nhiệm làm người của mình. Sartre đã tiếp thu quan điểm

về con người tự do của Jasper, theo đó con người phải có trách nhiệm về

chính bản thân mình và xã hội, đề cao trách nhiệm của chính chủ thể hiện

sinh. Đó là bản chất sâu xa của tự do nơi con người. Nó trở thành cơ sở lý

luận cho đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh của J. P. Sartre.

1.3. J.P. Sartre và nền tảng quan niệm đạo đức học của ông

1.3.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của J. P. Sartre

Jean-Paul Charles Aymard Sartre (thường được gọi ngắn gọn hơn là

Jean-Paul Sartre). Ông là nhà văn, nhà triết học hiện sinh Pháp được trao

giải Nobel Văn học năm 1964. Jean-Paul Sartre là một trong những nhà

triết học hàng đầu của Pháp thế kỷ XX. J. P. Sartre sinh ngày 21-06-1905

tại Paris trong một gia đình gia giáo và giàu có. Ông mất ngày 15-4-1980

tại Paris. Mồ côi cha từ năm 2 tuổi, khi mẹ tái giá, ông chủ yếu sống với

ông ngoại. Năm 1924, ông vào học Trường Cao đẳng Sư phạm nổi tiếng,

sau đó làm luận văn Thạc sĩ triết học, đỗ thủ khoa. Ông dạy học ở nhiều

nơi tại Pháp. Từ năm 1933 đến năm 1934, Jean-Paul Sartre sang Đức dạy

học, đồng thời chịu ảnh hưởng nhiều từ triết học Đức, nhất là Hiện tượng

học và những tư tưởng của Heiddeger. Kể từ 1946, sống ở Paris, lần lượt

du lịch viếng thăm và chứng kiến thực tại các nước khác chính thể chính

trị với nhau: Mỹ, Bắc Phi, Nam châu phi, Liên Xô, Thụy điển và nhiều

nước khác nữa. Trong thời gian này ông tiếp tục sự nghiệp triết lý và văn

nghệ không ngừng nghỉ, mỗi lần cho xuất bản một cuốn sách (luận thuyết,

khảo luận, tiểu thuyết, kịch, phim) là mỗi lần gây lên tranh luận quyết liệt

trong giới văn nghệ pháp và ngoại quốc. Sự nghiệp triết lý và văn nghệ

này không bao giờ tách rời các hành động của ông: ở con người J.P.Sartre

bao giờ hành động và lý thuyết cũng khăng khít mật thiết với nhau. Ông

là một trong những nhân sĩ đã gây dựng phong trào chống chiến tranh ở

24

Việt Nam (1950-1954), chiến tranh ở Algérie (1954-1961),…

Jean-Paul Sartre là một trong số các nhà văn coi quan điểm triết học là

trung tâm của hoạt động sáng tạo. Tác phẩm triết học chính L'Être et le Néant

(Tồn tại và hư vô, 1943) là sự tổng hợp quan điểm chính của ông về cuộc

sống. Chủ nghĩa nhân đạo hiện sinh mà Sartre truyền bá trong tiểu luận nổi

tiếng L'existentialisme est un humanisme (Chủ nghĩa hiện sinh là chủ nghĩa

nhân đạo) cũng được thể hiện rõ trong tiểu thuyết Les chemins de la liberté

(Những con đường của tự do, 1945-1949). Từ giữa thập niên 1940, ông

nghiên cứu chủ nghĩa Marx, thành lập tạp chí Les temps modernes (Thời mới),

tuyên truyền các ý tưởng cách mạng, hoạt động xã hội.

Năm 1964 Sartre được Viện Hàn lâm Thụy Điển quyết định trao giải

Nobel nhưng ông từ chối nhận giải vì không muốn mình biến thành một thiết

chế xã hội ảnh hưởng đến công việc hoạt động chính trị cấp tiến. Lý do khiến

tác giả cuốn Les Mots từ chối không nhận giải Nobel, là một lối hành động

thẳng thắn và minh bạch để nhấn mạnh khía cạnh của một nhà văn bao giờ

cũng có những hành động đi đôi với tư tưởng của mình: lý thuyết và việc làm

của ông, cho tới bây giờ lúc nào cũng khăng khít với nhau, không hề có một

khoảng cách chia đôi. Ông hết sức trung thành với quan niệm về văn nghệ nói

chung cũng như tư tưởng chính trị của mình.

Những năm cuối đời Sartre bị mù, không viết được nhưng ông trả lời

vô số phỏng vấn, thảo luận các vấn đề chính trị với bạn bè. Sartre cũng được

biết đến nhiều với tư cách một nhà viết kịch phi lý. Ông nổi tiếng với các vở

kịch Les Mouches (Ruồi) và Huis clos (Phía sau cửa đóng). Ngoài ra, Sartre

còn viết phê bình văn học và các bài nghiên cứu về Charles Baudelaire, Jean

Genet. Cuốn sách viết về thời niên thiếu của ông, Les mots (Lời nói), được

xuất bản năm 1964.

Tác phẩm của ông xoay quanh các chủ đề, hình thức cơ bản sau:

25

Luận thuyết triết lý

Luận thuyết triết lý của Sartre bị ảnh hưởng bởi hiện tượng luận của E.

Husserl. Với các tác phẩm chính là “Tưởng Tượng”(1936), “Sơ thảo một

nguyên lý về xúc cảm” (1939), “Tưởng tượng”(1940). Những tác phẩm này

ông chủ yếu bàn tới vấn đề bản thể luận. Trong đó ông đã xem xét tương quan

giữa Vô thể -Hữu thể. Xem như cơ cấu đích thực của sự hiện sinh của mọi vật

thể. Có nghĩa là ông lật ngược lại vai trò khách quan của cặp Hữu thể -Vô thể.

Hữu thể -Vô thể đã trở thành cặp phạm trù kinh điển của chủ nghĩa hiện sinh

và năm 1943 ông cho xuất bản thành sách. Ông bàn đến cái trống rỗng trong ý

thức con người. Ông đã bàn tới sự tự do trong quan điểm này về vấn đề bản

thể luận. Phê bình lý luận biện chứng(1960) là tác phẩm mà ông đã phê bình

về xã hội hiện sinh. Ông phê phán cách tiếp cận lịch sử của những nhà triết

học theo lối cổ điển trên cơ sở đó đưa ra phương pháp tiếp cận lịch sử mới

ủng hộ cách tiếp cận của chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác. Ông cũng không

quên trả lại cho con người một chỗ đứng mới trong quan điểm về vũ trụ quan.

Tiểu thuyết sáng tạo hay hồi ký

Cũng là một sở trường của Sartre với những tác phẩm tiêu biểu như

“Bức tường” (1939), “Những nẻo đường tự do” (1945), “Tuổi trưởng

thành” (1945), “Triển hạn” 1945), “Những cái chết trong tâm hồn” (1949).

Qua những tác phẩm này có thể thấy được những quan niệm và triết lý sống

của J. P. Sartre. Rằng trong xã hội này chúng ta đều có thể thấy được chán

chường với thế sự của những con người nhận thấy được giá trị đích thực của

cuộc đời này. Sự hiện sinh của mỗi con người tưởng chừng như là một sự

thừa thãi, chứa chất biết bao nỗi niềm. Tất cả không có một lối thoát cho cuộc

đời này, rồi sự cứu rỗi duy nhất là đối diện với sự thật.

Kịch có luận đề

Đây là thể loại mang ông tới với công chúng. Kịch của ông cũng không

26

phải là loại dễ nhận biết mà thuộc vào dạng ẩn dụ và trừu tượng. Mỗi vở kịch

của J.P.Sartre đều có một đề tài trung tâm. Đề tài trung tâm của vở Morts sans

sepulture (Chết không mồ mả, 1946) là vấn đề tinh thần đứng trước đau đớn

thể xác, con người bạo động, tra tấn, chất choc. La Putain respectueuse (Con

đĩ, 1946) tố cáo một hình thức của thái độ ngụy tín của những con người kỳ

thị chủng tộc, giả tạo, xảo trá và bất công. Les Mains sales (Bàn tay nhơ

nhuốc, 1948) đặt vấn đề trong sạch của con người chánh trị, phương tiện và

cứu cánh, thực tế và lý tưởng. Le diable et le Bon Dieu (Quỷ thần và thượng

đế; 1951) trình bày nỗi cô đơn của con người làm chủ định mệnh của mình

trong một vũ trụ không có Thượng đế,… Những sáng tác này của ông được

nhiều đạo diễn và diễn viên đưa vào phim ảnh, sân khấu và đạt được những

tiếng vang, được công chúng mến mộ. Qua những tác phẩm này ông đã tuyên

bố những tư tưởng của mình. Tự do luôn phải là sự đấu tranh dám đương đầu

với trách nhiệm của chính mình. Kịch của ông không thuộc vào thể loại bi

kịch cổ điển, cũng không phải là bi kịch tâm lý, mà là một loại kịch mà con

người đứng trước hoàn cảnh đặc biệt và tự do của con người trong hoàn cảnh

đó. Các nhân vật mà J. P. Sartre bao giờ cũng là nhân vật tự tạo ra, ngay lúc

nhân vật đang lựa chọn và trong sự trói buộc cả cuộc đời nhân vật. Qua đây

ông muốn nâng triết lý hiện sinh bằng hành động đích thực hay hiện sinh

hành động.

1.3.2. Nền tảng của quan niệm đạo đức học của J. P. Sartre

Định lý căn bản của chủ nghĩa hiện sinh Sartre làm cơ sở và khởi điểm

cho mọi tư duy sau này của ông, chính là “sự vắng mặt của Thượng đế”. Hơn

nửa thế kỷ trước, cái chết của Thượng đế đã được chứng nhận bởi những triết

gia Đức: Feuerback, Nietzsche, Marx. Theo Sartre, con người là dự tính

(projet) của mình và tự mình tạo ra mình.

Thân phận con người và tồn tại người

Nếu như triết học truyền thống đã bỏ con người để chạy theo sự vật và

27

giới tự nhiên, thì các triết gia hiện sinh lại dành ưu tiên cho những suy tư về

con người, họ cho rằng việc tìm hiểu con người là khẩn thiết hơn tìm hiểu vũ

trụ, giới tự nhiên. Triết học hiện sinh quan tâm đến tính chủ thể cụ thể của con

người, chứ không phải khái niệm trừu tượng về "chủ thể". Đó là lý do nhiều

triết gia hiện sinh (như Sartre, Camus...) chọn hình thức văn nghệ (tiểu thuyết,

kịch...) để đến gần hơn với đời sống thực, nói lên những băn khoăn, thao thức,

đau khổ và lựa chọn trong "thân phận" làm người. Luận điểm của Socrate:

“Con người hãy nhận thức chính bản thân mình” được coi là tuyên ngôn triết

học của họ.

Thứ nhất, con người mà chủ nghĩa hiện sinh nói đến không phải là con

người phổ quát mà là con người với tư cách là cá nhân có một số phận riêng

biệt và đang sống trong những hoàn cảnh cụ thể. Thân phận của con người,

con người phải là do chính con người tạo nên và không chịu sự quy định của

bất cứ cái gì. Điều đó cho thấy, mục đích của J.P.Sartre cũng như của các nhà

triết học hiện sinh là muốn chối bỏ mọi thứ ràng buộc của xã hội đối với con

người. Triết học truyền thống nhìn nhận con người như một bản tính và ý

nghĩa của cuộc sống đã có sẵn, rõ ràng, còn chủ nghĩa hiện sinh không quan

niệm cuộc sống, thân phận con người lạc quan như vậy. Chủ nghĩa hiện sinh

lo lắng cho thân phận của con người, lo lắng trong nỗ lực đi tìm ý nghĩa của

cuộc sống và xây dựng cuộc sống. Các nhà triết học hiện sinh đã phê phán

triết học truyền thống chỉ nghiên cứu con người như một đối tượng khách

quan, một tồn tại khách quan giống như các sự vật hay các sinh vật khác. Các

nhà triết học hiện sinh cho rằng tồn tại của con người là một tồn tại đặc biệt,

không giống như sự tồn tại của mọi sinh vật khác, tồn tại của con người là

“tồn tại hiện sinh”.

Phát triển tư tưởng của Heidegger về tồn tại vượt trước, J.P.Sartre đưa

ra luận điểm “tồn tại có trước bản chất”. Theo ông, nếu ở các sự vật, đồ vật

hay thú vật bản chất có trước tồn tại thì ở con người thì tồn tại có trước bản

28

chất. Theo Sartre, con người bắt đầu cuộc sống mà không có trước một bản

chất có sẵn, không bị quy định trước bởi bất cứ một bản chất nào, nghĩa là con

người hoàn toàn tự do.

Con người đó là sự tự do lựa chọn, là tự lựa chọn bản thân mình và bản

chất của mình. Con người phải vượt ra khỏi giới hạn của mình, phải vượt lên

trên tồn tại hiện có của mình. Con người có tự do trong một hoàn cảnh cụ thể,

nhưng con người phải tự quyết định, tự lựa chọn mình. Con người là giá trị tự

thân, con người không tạo ra mình theo các thước đo chung. Con người cá

nhân là độc đáo, là không thể được thay thế bằng bất cứ ai hay bất cứ cái gì.

Thứ hai, nếu Heidegger phân biệt tồn tại và cái hiện hữu, thì Sartre

phân biệt tồn tại tự nó và tồn tại cho nó. Tồn tại tự nó gắn liền với tồn tại của

các sự vật vật lý, các sinh vật trong thế giới; tồn tại cho nó gắn liền với tồn tại

của ý thức cá nhân. Hai yếu tố này tương tác, không thể tách rời nhau, tồn tại

cho nó mang ý nghĩa đến cho tồn tại tự nó. Đặc điểm chính của tồn tại tự nó

là tính phi biện chứng tuyệt đối, và tính thụ động tuyệt đối. Nghĩa là tồn tại tự

nó phủ định mọi dấu hiệu nhỏ nhất của sự vận động, phát triển và đối lập. Tồn

tại tự nó là tồn tại không có sự hình thành, phát sinh và phát triển, nó thoát ly

tính thời gian. Vương quốc tồn tại tự nó của Sartre là một vương quốc hiện

sinh chết cứng, không biến đổi, thế giới tồn tại tự nó không có tính biện

chứng. Theo Sartre, tồn tại tự nó như thế không khác gì phi tồn tại, không

khác gì hư vô.

Ngược lại, tồn tại cho nó là cái đối lập, cái khác với tồn tại tự nó, nó là

nguyên nhân của chính nó. Tồn tại cho nó chính là ý thức cá nhân, ý thức cá

nhân xuất phát từ chính bản thân nó, là nguồn gốc của mọi sự sống động của

cuộc sống và ý nghĩa của cuộc sống.

Theo Sartre, con người là tồn tại cho nó. Tuy nhiên, tồn tại cho nó là

một tồn tại không đầy đủ, tồn tại thiếu hụt, luôn hướng về phía trước, luôn

29

thực hiện dự án của chính mình. Vì con người là sự thiếu hụt nên con người

mới thấy thiếu thốn mọi thứ ở đời, cái gì con người cũng cần có, có ít thì

muốn có nhiều, có nhiều thì muốn có nhiều hơn. Tồn tại cho nó khiến cho con

người không ngừng vượt qua, phủ định chính mình và thế giới, không ngừng

làm cho bản thân mình và thế giới có giá trị và ý nghĩa mới. Sự vượt qua, phủ

định và sáng tạo này không thể một lần mà con người đạt được thế giới hoàn

mỹ. Do vậy, con người không ngừng vượt qua, phủ định, sáng tạo. Theo

Sartre, quá trình này là tự do của con người. Ông cho rằng, với tư cách là tồn

tại cho nó, kết cấu bên trong của con người đã là tự do. Hiện sinh của con

người là tự do của con người.

Ta thấy lý luận của ông có bề ngoài của phép biện chứng, vì ông nhấn

mạnh đến quá trình không ngừng vượt qua, phủ định và sáng tạo. Tuy nhiên

đây là phép biện chứng phủ định, nó không giống với phép biện chứng lấy sự

thống nhất của các mặt đối lập làm hạt nhân.

Mặc dù tồn tại tự nó và tồn tại cho nó có đặc trưng trái ngược nhau

nhưng Sartre lại thừa nhận nó thống nhất với nhau. Tồn tại tự nó là cái phông

tối mà trên đó nổi lên tồn tại cho nó đang hoạt động với tư cách là nguồn gốc

chung nhất cho cuộc sống đa dạng và phong phú. Tồn tại cho nó mang ý

nghĩa đến cho tồn tại tự nó. Nếu tồn tại tự nó không có tồn tại cho nó thì cũng

không có ý nghĩa. Trong mối quan hệ này vai trò quyết định thuộc về tồn tại

cho nó chứ không phải tồn tại tự nó.

Thân phận của con người, con người phải là do chính con người tạo

nên và không chịu sự quy định của bất cứ cái gì. Điều đó cho thấy, mục đích

của J.P.Sartre cũng như của các nhà triết học hiện sinh là muốn chối bỏ mọi

thứ ràng buộc của xã hội đối với con người. Trong quan niệm của họ, con

người chẳng lệ thuộc vào bất cứ cái gì, ngoài sự đối diện với chính bản thân

mình, con người tự làm nên bản chất của mình. Quan niệm này của Sartre

cũng đã thể hiện tinh thần của đạo đức học hiện sinh, nghĩa là con người hãy

30

tuân theo nguyên tắc của chính bản thân mình.

Như vậy, triết học hiện sinh nghiên cứu tồn tại của con người chủ

yếu là nghiên cứu về sự tồn tại của thân phận con người chứ không phải

tồn tại của con người với tư cách là một hiện tượng của tự nhiên. Trong

vấn đề bản thể luận J. P. Sartre cho rằng: Chỉ có con người mới là tồn tại

đích thực và bản chất nhất, có khả năng tự định nghĩa bản thể của mình.

Cơ sở triết học tồn tại của J. P. Sartre là Tính ý hướng của E. Husserl.

Con người có tính ý hướng, tính ý hướng này là cơ sở cho bản thể luận

cho những quan niệm về thế giới. Cái tôi ý hướng này luôn hướng tới đối

tượng nào đó là khách thể. Như vậy phải có sự tồn tại của tôi thì khách

thể mới được bộc lộ. Từ đây ông phân biệt giữa tồn tại tự nó và tồn tại

cho nó. Con người là đối tượng vượt ra khỏi những tri thức khoa học. Bản

chất của con người phải được cảm nhận, nhận thức từ chính trong tư

tưởng và hành động của họ và con người là một tồn tại tự do và tự do lựa

chọn của mỗi người, trong cuộc đời là khác nhau. Do đó, thật là sai lầm

khi đưa ra một khuôn mẫu, một công thức chung để đi tìm hiểu thân phận

con người. Những quan niệm của chủ nghĩa hiện sinh về tồn tại người và

thân phận con người như đã nói ở trên là nền tảng hết sức quan trọng cho

quan niệm đạo đức học của chủ nghĩa hiện sinh của J. P. Sartre.

Tồn tại người là tồn tại đặc biệt, có thể ý thức, tự vấn về chính bản thân

mình, con người là do chính mình tạo nên. Mình tự tạo bản chất cho mình và

cuộc sống thường ngày với bao lo toan vất vả đã đặt ra trước con người nhiều

sự lựa chọn. Sự lựa chọn này là tự do của con người, con người tự phải đưa ra

quyết định lựa chọn điều này hay điều khác, và phải chịu trách nhiệm về

quyết định của mình trước bản thân cũng như trước mọi người. Tuy nhiên, có

những điều sâu kín trong con người nhiều khi không thể nhận thức hay giải

quyết được bằng lí trí hoặc bằng một lực lượng vật chất nào đó, con người

không thể hoàn toàn sống với những “quy pháp ban ngày” mà không có

31

những “đam mê ban đêm”... Xuất phát từ chính những điều này mà triết học

hiện sinh đưa ra quan niệm đạo đức học của mình. Cuộc đời con người là hữu

hạn, cuộc sống của con người đang tiến dần đến cái chết, do vậy, con người

hãy nhận thức hiện sinh của mình, vượt qua những ràng buộc của bất cứ lực

lượng nào để sống đúng với nguyên tắc của lòng mình, sống đúng với lương

tâm của mình.

Tồn tại và bản chất

“Đối với con người, tồn tại có trước bản chất”, đó là luận đề quan trọng

hàng đầu của chủ nghĩa hiện sinh do Sartre tuyên bố. Theo luận đề này, bất cứ

vật nào, với ý nghĩa triết học, cũng đều có một bản chất và một tồn tại. Các

triết gia hiện sinh phê phán quan niệm của các nhà triết học cho rằng bản chất

con người là có trước, sau đó con người mới tồn tại, phê phán quan niệm cho

rằng có bản chất chung cho tất cả mọi người gọi là bản chất con người.

J.P. Sartre giải thích: Tồn tại có trước bản chất có nghĩa là, trước hết,

con người hiện hữu, đứng dậy, xuất hiện trong khung cảnh, và chỉ sau đó mới

định nghĩa chính mình. Các nhà triết học hiện sinh quan niệm, nếu con người

là không xác định là vì ban đầu nó không là gì cả, chỉ sau đó nó mới là một

cái gì, và tự nó sẽ làm nó thành cái gì. Như thế không có bản tính người, vì

không có thượng đế để quan niệm về nó...con người không là gì khác ngoài

cái mà tự nó làm thành chính mình. [27, 333]

Theo Sartre, nói tồn tại con người có trước bản chất con người, là để

phân biệt con người với con vật. Vật là một tồn tại không có tự do, không thể

tự sáng tạo ra mình, mà bản chất của chúng là do con người ban cho. Do vậy

bản chất có trước. Ông nêu ví dụ về con dao dọc giấy: trước khi người thợ chế

tạo ra con dao dọc giấy, họ đã có một ý tưởng nó phải như thế nào, phải có

các tính chất nào. Do vậy, bản chất của con dao dọc giấy phải có trong trí

khôn người thợ trước khi nó hiện hữu. Khác với vật, ở con người, tồn tại có

32

trước, vì con người có tự do. Chính tự do đã làm thành bản chất con người,

bản chất con người chỉ có được khi con người bằng sự tự do của mình hành

động dấn thân vào những hoàn cảnh của đời sống để sáng tạo ra mình.

Sartre muốn nói rằng ta không hề hay biết một "bản tính" hay "bản

chất" có sẵn nào đó của con người, chẳng hạn, dùng làm định hướng hay

đường lối cho giáo dục, luân lý và sự phát triển xã hội, hoặc để từ đó, xác

định chỗ đứng của con người trong vũ trụ. Đúng hơn, ta "bị ném vào cuộc

đời" và không có bản tính định sẵn nào cả. Mặt tích cực của quan niệm này là:

khi dự phóng, quyết định, hành động, ta "tự tạo ra chính mình". Thuyết hiện

sinh, theo cách hiểu ấy, đã ảnh hưởng rộng rãi ra khỏi Tây Âu vốn là cái nôi

của nó. Một trong những nhà triết học giáo dục quan trọng nhất của nước Mỹ

là Maxine Greene (1917-2014) phát triển tư tưởng hiện sinh, xoay quanh chủ

đề: Tự do như là Thực tiễn. "Tự do", theo bà, không phải là nhờ sống trong

một "nước tự do", mà vì ta sống theo một cách thế tự do. Lý tưởng của giáo

dục là ở chỗ làm cho con người có năng lực "siêu việt" lên khỏi vị trí hầu như

đã được an bài và khó tránh khỏi ấy. Vậy, chính "con người cụ thể", chứ

không phải bản tính nhất định nào, vẫy gọi con người hãy tự sáng tạo chính

mình. Trong diễn trình ấy, những vấn đề chỉ được đặt ra cho từng con người

cá nhân cụ thể để giải đáp và tiếp tục tìm tòi, vươn tới.

Như vậy, trong quan niệm của J. P. Sartre thì con người sinh ra rồi mới

tạo nên bản chất của chính mình. Đó có thể được hiện diện trong tâm thức hay

trong các dự án định sẵn để tiến tới hành động, do cách lựa chọn của mỗi

người, bằng hoạt động sáng tạo của chính mình, trong một hoàn cảnh sống

của mình. Như vậy ở mỗi người có một bản chât riêng chứ hoàn toàn không

có cái gọi là bản chất chung toàn cầu. Mọi sự tồn tại xã hội do chính con

người cụ thể mang đến. Quan điểm về tồn tại có trước bản chất là điểm khác

biệt căn bản so với những lý luận truyền thống về con người. Là điểm vô thần

cốt yếu của thuyết hiện sinh: Con người hiện hữu trước đã, con người tự thấy

33

mình sinh ra ở đời đã, sau đó con người mới tự định nghĩa mình được. Hiện

sinh chính là cái tôi tự do tuyệt đối không bị ràng buộc vào bất kỳ một hoàn

cảnh, một trật tự nào, hiện sinh người phải kiến tạo ra chính mình bằng một

bản thiết kế theo ý chí hướng. Có nghĩa là nằm ngoài quy luật nhân quả, hiện

sinh đồng nghĩa với tự do tuyệt đối. Câu hỏi khắc khoải của nhà hiện sinh là:

sống có ý nghĩa hay không? Ta phải làm gì đối với thế giới và cải biến thế

giới?. Sự đau khổ và bế tắc là không thể tránh khỏi. Mong muốn đi tìm một

cứu cánh là không thể nào tư duy đuợc. Nhưng may thay cho con người và

với chính Sartre, Tự do đã đưa con người đi ra khỏi tình trạng cay đắng, đoạ

đày của trần thế thê lương. Hiện sinh của tôi không có một tha nhân nào giống

cả. Không có một cơ sở nào làm căn cứ nguồn gốc cho sự hiện hữu của tôi.

Tôi như một ngẫu nhiên bị giới hạn trong bước đường tự do.

Hiện sinh và tự do

Về hiện sinh, với tư cách là cái cốt lõi, cơ bản của tồn tại người, hiện

sinh là phương thức sống, thái độ sống của con người. Nó là phần nguyên

thuỷ nhất, là cuộc sống nội tâm của con người.

Thứ nhất, chủ nghĩa hiện sinh đã phân biệt hiện sinh với sinh tồn. Nếu

như chỉ bám vào sự sống, coi sự sống là vật quý giá nhất và như là tất cả ý

nghĩa cuộc đời thì hiện sinh là vươn lên trên mức sống của sinh vật. Hiện sinh

là ý nghĩa của đời sống, người ta chỉ vươn tới hiện sinh khi nào người ta đã ý

thức được rằng mình sống không phải để mà sống, mà sống là để thể hiện cái

định mệnh cao quý và độc đáo của mình. Hiện sinh không nên hiểu theo nghĩa

thông thường đồng nghĩa với chữ có, chữ là. Từ hiện hữu, con người phải

khao khát vươn tới cái mà anh ta muốn trở nên, phải vượt lên cái mà anh ta

hiện là. Hiện sinh tiềm ẩn những khả năng khôn cùng để con người tự do thực

hiện một tồn tại cao hơn. Theo Sartre, hiện sinh lúc đầu là hư vô, con người

“lúc đầu không thể hiện là gì cả” và tất cả mọi cái đang sinh thành đều bắt

nguồn từ hư vô. Tuy nhiên, với tư cách là một trạng thái của con người, sự

34

hiện sinh là tự do. Tự do là cơ sở của cái có tính người trong con người. Lúc

đầu con người không được quy định trước bởi thể xác hay bởi các quy định xã

hội nào. Con người hành động một cách đa dạng, không thể hiện trước, không

phụ thuộc vào những hạn chế tưởng tượng.

Thứ hai, ở Sartre, hiện sinh còn là hành vi sáng tạo, sáng tạo của con

người là không tuân theo bất kỳ khuôn mẫu có sẵn nào. Hiện sinh không phải

"là" và cũng không phải "sống", mà là sống với cuộc sống của mình, nghĩa là

từ cái "là" đến cái mình "sẽ là", phải sống với cuộc sống đích thực của mình.

Điều đó chứng tỏ rằng, mỗi hiện sinh không bao giờ được ở nguyên một chỗ,

mà phải vươn tới cái mình "sẽ là", tức là luôn hướng tới cái mà mình "hiện

chưa là". Như vậy, người hiện sinh là người phải giác ngộ được tính chất cao

quý và độc đáo của mình. Người hiện sinh phải biết rõ những khả năng của

mình, và phải biết khai thác những khả năng đó.

Về tự do, chủ nghĩa hiện sinh Pháp gắn liền với tiến trình giải phóng

nước Pháp khỏi chủ nghĩa phát xít, do đó chủ đề về tự do của con người nổi

lên hàng đầu. Như đã biết, nguyên lý của chủ nghĩa hiện sinh là con người

không có bản tính, con người không làm theo chương trình của ai, nó không

có sứ mạng làm vì ai. Nó chỉ là cái mà nó là, con người tự sáng tạo bản chất

của mình. Con người tự tạo nên mình, làm cho mình trở thành mình. Đây

chính là tính chủ thể của con người, và tự do của con người được biểu hiện

qua tính chủ thể này. Ở chủ nghĩa hiện sinh, xuất phát từ tự do, người ta có

thể làm rõ mọi phạm trù của đạo đức học như: thiện và ác, lương tâm và danh

dự, công bằng và lạc quan. Tất cả những gì là đạo đức đều được đặt dưới ánh

sáng phê phán của tự do [16, 49].

Thứ nhất, tự do là tự do lựa chọn, là lựa chọn nền tảng cho chính tôi

thực hiện. Tự do không có bản chất nào cả. Con người tự phát hiện về mình,

về tự do của mình. Tự do không có bản chất nhưng tự do lại là nền tảng của

mọi bản chất mà hiện sinh đi tới. Tự do lựa chọn của con người là không

35

cùng. Nhà hiện sinh cho rằng ngay cả khi con người sống trong hoàn cảnh bị

ngoại giới trói buộc thì con người vẫn có tự do ở chỗ đảm nhận nó. Theo chủ

nghĩa hiện sinh, tự do ngang hàng với tồn tại. Họ cho rằng, chỉ cần con người

sống là con người có tự do, tự do là một điều con người không thể tránh khỏi.

Sartre khẳng định rằng, con người tự do lựa chọn bản chất của mình và trở

thành người do chính mình tạo nên vì tồn tại có trước bản chất, tự do của con

người có trước bản chất. Bản chất của con người chỉ có được khi con người

dấn thân vào những hoàn cảnh của đời sống để sáng tạo ra mình, sáng tạo ra

bản chất của mình. Trong triết học truyền thống hay trong triết học Mác, tự do

là nhận thức được những quy luật tất yếu, vì triết học này thừa nhận sự tồn tại

của những quy luật khách quan và tính tất yếu của chúng. Tuy nhiên, vào buổi

đầu của lịch sử, do khả năng hạn chế, con người chưa nhận thức được, chưa

giải thích được những bí ẩn của giới tự nhiên nên con người chưa có tự do, và

nếu nhận thức của con người càng sâu sắc thì con người càng có tự do.

Sartre khẳng định cho tới lúc chết, thậm chí cả khi đang hấp hối, con

người vẫn là người tự do và có trách nhiệm trong việc tạo dựng và thực hiện

giá trị. Và tự do của Sartre là thứ tự do con người lựa chọn khi tư tưởng đứng

trước nhiều khả năng khác nhau, không bị hạn chế gì, không bị quy định bởi

bất cứ yếu tố nào ở bên ngoài. Hoàn cảnh khách quan bên ngoài tự nó không

thể giới hạn tự do của con người, bởi con người có thể tự do chấp nhận, cũng

như tự do không chấp nhận hoàn cảnh, nghĩa là tự do tỏ thái độ đối với hoàn

cảnh ấy, gán cho nó bất cứ một ý nghĩa nào. Một người nào đó có thể không

thể tự do hành động một việc gì đó nhưng trong ý nghĩ thì họ có thể tự do suy

nghĩ, chẳng hạn một tội phạm không thể tự do vượt ngục nhưng trong ý nghĩ

thì họ có thể tự do lựa chọn sự chốn chạy. Người nô lệ bị xiềng xích không

thể tự do chạy trốn chủ nô, nhưng cũng có thể là người tự do trong việc xác

định thái độ của mình đối với tình trạng nô lệ như lựa chọn sự trốn chạy hoặc

biện pháp chống đối

Thứ hai, trong triết học Sartre, tự do là cái mà con người tất nhiên phải

36

có, tự do là tuyệt đối cho con người ở ngoài tính quy luật và tính nhân quả. Tự

do không thể phân biệt với tồn tại, ông cho rằng chỉ cần con người sống là có

tự do, tự do là điều con người không thể tránh khỏi, tự do là cái được phán

quyết cho con người, do đó con người không phải được tự do mà bị tự do.

Sartre viết “Tự do không thể hiểu được, mà được mô tả như là năng lực tách

biệt của tâm thần con người. Chúng ta cố gắng xác định con người như tồntại

mà nhờ đó cái hư vô hiện ra, và tồn tại này hiện ra với chúng ta như là tự do...

Sự hiện sinh người có quan hệ với bản chất của nó không phải như sự tồn tại

với bản chất trong thế giới vật thể. Tự do tồn tại trước bản chất của con người,

tự do là điềukiện mà nhờ đó bản chất người nói chung là có thể. Cái mà chúng

ta gọi là tự do, không bị tha hoá khỏi thực tại người. Không nên nói rằng, con

người ngay từ đầu đã tồn tại, sau đó mới có tự do: giữa tồn tại người và tự do

không có ranh giới” [15, 120]. Đối với Sartre, tự do là cái con người tất nhiên

phải có. Từ chỗ khẳng định tự do là hoạt động ý thức nên theo Sartre chỉ cần

con người sống, có ý thức thì con người có tự do.

Sartre cũng nhấn mạnh tự do là bản thân hành vi lựa chọn chứ không

phải là thông qua lựa chọn mà có được tự do, nghĩa là kết quả của sự tự do lựa

chọn không quan trọng. Một số sự lựa chọn có thể không đem lại kết quả như

mong muốn, không thành công nhưng điều này không liên quan đến tự do,

bởi tự do chính là cái tôi đã tự do lựa chọn theo suy nghĩ của tôi và sự lựa

chọn đó dù đúng dù sai vẫn là do tôi tự do lựa chọn. Sartre quan niệm tự do

như là một tự do tuyệt đối mà biểu hiện của nó là sự lựa chọn hành động. Tự

do ấy không cần bất kỳ một bản chất nào làm cơ sở mà đơn giản là hoàn cảnh

bắt ta phải lựa chọn phù hợp với lương tâm và trách nhiệm của mình. Đó mới

là làm người đích thực hay hiểu đơn thuần là khi tôi hiện sinh là lúc tôi chọn

cách thức hành động khi đó tôi hiểu tôi hiện sinh. Công cuộc hiện sinh là

công cuộc sau khi sinh ra tồn tại và trước cái chết. Hiện sinh là khoảng giữa

của sự sinh thành và cái chết. Cho nên, đạo đức học của ông phải là: Hiện

37

sinh là tự do. Tự do là tuyệt đối nơi con người.

Như vậy, theo thuyết tự do của Sartre thì ai cũng có thể thực hiện sự

lựa chọn trong tư tưởng dù ở trong hoàn cảnh nào, trong trạng thái lo âu, sợ

hãi hay bình tĩnh, tự tin và sự lựa chọn này là tự do. Sự lựa chọn này do bản

thân cá nhân tiến hành chứ không phụ thuộc theo một tiêu chuẩn đặt sẵn,

không bị ràng buộc bởi bất cứ dư luận xã hội nào. Nó do ý muốn chủ quan

của con người, nó căn cứ vào ý nguyện của con người... Tuy nhiên, để tránh

rơi vào chủ nghĩa chủ quan thì Sartre đã khẳng định cần phải gắn sự tự do lựa

chọn với trách nhiệm đạo đức, nghĩa là mỗi cá nhân phải có ý thức, trách

nhiệm trước bản thân mình, trước người khác khi đưa ra sự lựa chọn của mình

chứ không phải chịu trách nhiệm trước một đối tượng nào đó như pháp luật,

chuẩn mực xã hội, chuẩn mực đạo đức... và trách nhiệm không phải là yêu

cầu của cảnh sát, mà là sự hưởng ứng đối với hiện tượng tự do. Theo Sartre,

mỗi cá nhân tự đưa ra sự lựa chọn của mình nên kết quả sự lựa chọn đó như

thế nào thì bản thân cá nhân phải tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình

chứ không thể đổ lỗi cho bất cứ ai cả. Toàn bộ sự thành bại, được mất đều do

chính tôi tạo nên, do vậy, nếu có thất bại cũng không thể có ai gánh vác trách

nhiệm hộ tôi. Nếu sự lựa chọn là thất bại ta có thể đưa ra sự lựa chọn mới để

dẫn đến thành công.

Thứ ba, Sartre ca ngợi tự do sáng tạo và trách nhiệm đối với tự do. Tuỳ

tiện là tự do thiếu trách nhiệm đối với sự tự do. Tuỳ tiện không những không

bảo vệ, mà ngược lại, còn tiêu diệt tự do. Chẳng hạn, phạm tội không phải là

hành vi tự do, mà là hành vi tuỳ tiện, nó bóp chết tự do của con người. Người

theo triết học hiện sinh nhất quán luôn gắn liền hiện tại với tương lai, coi hiện

tại là cái cần phải mở ra một viễn cánh cho tương lai. Sư vô trách nhiệm đối

với tương lai sẽ hạn chế "tự do". Tự do không có cơ sở, cũng như con người

vốn dĩ đã được tự do. Con người và chỉ có con người mới có quyền tự do

quyết định mình sẽ trở thành người nào và như thế nào. Con người xuất phát

38

từ lương tâm, từ thế giới nội tâm của mình để tự quyết định việc đó, chứ

không phải do người khác, cái khác quyết định thay cho mình. Vậy tại sao cá

nhân không những phải tự chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình trước

bản thân mà còn phải chịu trách nhiệm trước người khác.... Bởi vì sự lựa chọn

của cá nhân còn liên quan đến người khác, đến toàn nhân loại, do đó mỗi cá

nhân không chỉ quan tâm đến vận mệnh của mình mà còn phải quan tâm đến

vận mệnh của người khác. Khi tôi thực hiện sự lựa chọn, tôi coi mình như

một mẫu mực cho mọi người xem, cho mọi người noi theo.

Như vậy, theo Sartre, mọi giá trị đạo đức đều bắt nguồn từ sáng tạo của

cá nhân, đều do cá nhân phụ trách. Con người không thể né tránh tự do không

thể tự lừa dối mình. Do vậy, con người sẽ rơi vào tâm trạng cô đơn, buồn

phiền. Họ cô đơn, buồn phiền vì không thể không đưa ra sự lựa chọn và cũng

không thể dựa vào người khác để đưa ra sự lựa chọn mà phải tự bản thân

mình, phải dựa vào mình, và khi đã quyết định lựa chọn cái gì thì cá nhân

phải tự chịu trách nhịêm trước bản thân mình, trước người khác, trước xã

hội...

Tự do vốn phi lý nhưng nó được tồn tại người lựa chọn nên buộc phải

có trách nhiệm. Tự do là khả năng lựa chọn và tự quyết. Ngoài ra nó còn là

một sự sáng tạo, làm những việc trái với truyền thống, những việc không ai

nghĩ tới. Tự do đè nặng lên vai con người Sartre. Mọi hành động phải do cá

nhân đảm nhiệm, tránh đi mọi cái hèn hạ và nhu nhược. Thái độ với tự do của

Sartre là chân chính vì nó là cơ sở của mọi hành động của riêng ông. Hậu quả

của mọi lựa chọn chính ta phải là người tự gánh vác tránh thái độ đùn đẩy, ỉ

lại vào hoàn cảnh. Sự đánh mất mình đã dẫn tới tệ sùng bái tôn giáo, sự lừa

dối mình, sống giả tạo, không trung thực với lòng mình.

Con người phải trút bỏ hết những luật lệ, tiền định có sẵn và giành lấy

tự do hoàn toàn, phải dùng tự do ấy mà lựa chọn, đảm đương lấy trách nhiệm

về hành động của mình, tìm trong xã hội loài người để thực thi hành động ấy

39

trọn vẹn. Song, tâm hồn nhiều khi bị dao động, do dự, ngập ngừng, không

dám và không tự quyết định thi hành ý chí dự tính. Thành ra, ta đã tự biến

mình thành kẻ thấp hèn. Tránh sự thấp hèn này để vươn tới tự do lựa chọn và

tự quyết là toàn bộ hạt nhân của tư tưởng đạo đức học của J. P. Sartre.

Tóm lại, Sartre đã phân biệt hiện sinh với sinh tồn, ở Sartre, hiện sinh

còn là hành vi sáng tạo, sáng tạo của con người là không tuân theo bất kỳ

khuôn mẫu có sẵn nào. Tự do với Sartre là tự do lựa chọn, là lựa chọn nền tảng

cho chính tôi thực hiện; tự do là cái mà con người tất nhiên phải có, là tuyệt đối

cho con người ở ngoài tính quy luật và tính nhân quả. Thêm vào đó Sartre còn

ca ngợi tự do sáng tạo và trách nhiệm đối với tự do. Tự do của chủ nghĩa hiện

sinh là tự do hiện sinh, tự do lựa chọn, tự do quyết định. Tự do ở đây là dám là

mình. Nếu tôi cứ sống như cái máy, ở trên bảo sao tôi làm vậy, người ta bảo

sao mình làm vậy, thì tôi mới chỉ sống như một sinh vật, chưa sống cái kiếp

người của tôi. Cuộc sống ù lì đó, sống chỉ để sinh tồn, sống như cây cỏ đó,

Sartre gọi là buồn nôn. Trong “Buồn nôn” của Jean-Paul Sartre, nhân vật luôn

luôn buồn nôn như một thái độ phản kháng những gì thuộc về lí tính cứng nhắc

siêu hình. Nhân vật chính Roquentin đang trên con đường khám phá ra lí do

tồn tại của con người là...không có lí do gì hết. Và con người muốn vượt khỏi

cuộc sống tầm thường đó thì phải vượt lên trên mình, phải sống một cách độc

đáo. Độc đáo ở đây không có nghĩa lập dị mà có nghĩa là tự do chọn lấy một lối

sống riêng, không bắt chước người khác và cũng không chịu sự sai bảo, kiềm

chế của người khác. Độc đáo là tự xác định nhân vị của mình. Con người phải

trút bỏ hết những luật lệ, tiền định có sẵn và giành lấy tự do hoàn toàn, phải

dùng tự do ấy mà lựa chọn, đảm đương lấy trách nhiệm về hành động của

mình, tìm trong xã hội loài người để thực thi hành động ấy trọn vẹn. Song, tâm

hồn nhiều khi bị dao động, do dự, ngập ngừng, không dám và không tự quyết

định thi hành ý chí dự tính. Thành ra, ta đã tự biến mình thành kẻ thấp hèn.

Tránh sự thấp hèn này để vươn tới tự do lựa chọn và tự quyết là toàn bộ hạt

40

nhân của tư tưởng đạo đức học của J. P. Sartre.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Chủ nghĩa Mác –Lê nin đã chỉ ra quy luật cơ bản của đời sống xã hội

là: Mọi quy luật của ý thức xã hội chỉ được ra đời trên một tồn tại xã hội nhất

định và bị quy định bởi chính tồn tại xã hội đó. Đạo đức học trong chủ nghĩa

hiện sinh cũng không nằm ngoài quy luật này. Chính sự khủng hoảng về

chính trị, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự sùng bái quá mức lý tính

trong chủ nghĩa duy lý đã gây nên sự khủng hoảng, sự bại hoại tinh thần trong

xã hội phương Tây hiện đại. Tình trạng con người bị bần cùng hoá, bị kiệt

quệ, không tìm ra lối thoát trong bộ máy kỹ thuật khổng lồ của xã hội phương

Tây hiện đại là bối cảnh thuận lợi cho sự ra đời đạo đức học hiện sinh nói

chung và quan niệm đạo đức của J.P.Sartre nói riêng.

Thêm vào đó, tư tưởng đạo đức học của J. P. Sartre cũng không được ra

đời từ hư vô mà phải kể tới ba nguồn gốc tư tưởng trực tiếp sau: Một là, Triết

học đời sống của A. Schopenhauer, F. Nietzsche, H. Bergson,…; Hai là,

hiện tượng luận E. Husserl; Ba là, chủ nghĩa hiện sinh của K. Jaspers và M.

Heidegger.

Tiếp thu và phát triển từ các bậc tiền bối đi trước, Sartre đã xây dựng

cho mình một nền tảng vững chắc để hình thành quan niệm đạo đức học của

mình. Những quan niệm về tồn tại người và thân phận con người, tồn tại có

trước bản chất, tự do là tự do hiện sinh, tự do lựa chọn, tự do quyết định và

phải gắn với trách nhiệm.

Như vậy, có thể nói, bối cảnh xã hội phương Tây cuối thế kỷ XIX, đầu

XX cùng với sự bùng nổ, phát triển của chủ nghĩa duy lý và những tư tưởng

của các nhà triết học đặt nền móng cho chủ nghĩa hiện sinh, là những bối cảnh

lịch sử và nguồn gốc không thể thiếu được cho sự ra đời của đạo đức học hiện

41

sinh nói chung và quan niệm đạo đức học của J.P.Sartre nói riêng.

CHƯƠNG 2. QUAN ĐIỂM ĐẠO ĐỨC HỌC TRONG CHỦ NGHĨA

HIỆN SINH CỦA J.P.SARTRE

2.1. Quan niệm về thiện và ác

Nói đến đạo đức học ta không thể không nói tới những quan niệm nền

tảng của nó như thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, tội lỗi... Vậy trong chủ

nghĩa hiện sinh nói chung và quan điểm đạo đức của J. P. Sartre nói riêng,

như thế nào được coi là thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm... ?

Trong đạo đức học Mác –Lênin, thiện là giá trị đạo đức khẳng định

lợi ích xã hội, bất cứ yếu tố cấu trúc nào có tác động khẳng định lợi ích

xã hội thì được coi là giá trị thiện. Ý nghĩ và hành vi bảo vệ tài sản xã

hội chủ nghĩa, hy sinh bảo vệ tổ quốc là những giá trị thiện. “Ác” là

phản giá trị đạo đức, phủ định lợi ích xã hội. Yếu tố cấu trúc nào có tác

động khẳng định lợi ích xã hội hay lợi ích của người khác thì bị coi là

ác, ý nghĩ và hành vi ăn cắp, tham nhũng tài sản xã hội chủ nghĩa, ý nghĩ

và hành vi phản bội Tổ quốc là những ác.

Thứ nhất, thiện, ác theo quan niệm đạo đức học hiện sinh là những

nguyên tắc đạo đức do mỗi cá nhân tự tạo ra thông qua hành vi lựa chọn của

mình, chính hành vi chọn lựa của chúng ta sẽ tạo ra cái thiện hay cái ác.

“Thiện” trong chủ nghĩa hiện sinh được thể hiện với tư cách các phương diện

hiện sinh của tự do và trách nhiệm về tự do. “Ác” là sự từ bỏ thiện. Giá trị

thiện thể hiện ở hành động phù hợp, đúng với mong muốn, tiêu chuẩn của cá

nhân đặt ra, nếu cá nhân nào làm trái với nguyên tắc của lòng mình thì hành

vi đó sẽ tạo ra cái ác. Điều này có nghĩa là, nếu theo quan niệm đạo đức học

Mác –Lênin, giá trị thiện, ác gắn liền với lợi ích của xã hội, lợi ích của người

khác, bị ràng buộc vào những chuẩn tắc của xã hội, của luật pháp... thì đạo

đức học trong chủ nghĩa hiện sinh lại gắn liền với tự do. Hành vi chọn lựa của

42

chủ thể sẽ tạo ra cái thiện hay cái ác gắn liền với tự do. Theo Sartre mỗi con

người đều có tự do, tự do là tự do lựa chọn và đưa ra quyết định trong những

tình huống nhất định của cuộc sống, tự do không dựa trên cơ sở nhận thức và

tuân theo quy luật tất yếu khách quan như quan niệm của triết học Mác. Đạo

đức học theo chủ nghĩa hiện sinh, không phải chọn các giá trị đúng, các giá trị

chuẩn mực theo tiêu chí của xã hội. Bởi ngoài tự do sẽ không có giá trị nào

tồn tại độc lập với các lựa chọn của chúng ta, bởi chính hành vi chọn lựa của

chúng ta sẽ tạo ra cái tốt hay cái xấu, cái thiện hay cái ác.

Thứ hai, Sartre đã thể hiện một cách sâu sắc những biểu hiện của cái

thiện và cái ác trong vở kịch trác tuyệt: Le Diable et Le Bon Dieu (Ác Quỷ và

Thượng Ðế) (Chúa của Kitô giáo), (1951). “Diable” (ác quỷ) và “Dieu”

(thượng đế) là hai khái niệm tôn giáo đặc thù của ba tôn giáo lớn trong Thánh

Kinh (Bible). “Dieu” biểu hiện Thiện-tuyệt-đối, Diable biểu hiện Ác-tuyệt-

đối. Trong vở kịch này nổi bật lên là nhân vật Goetz - kẻ muốn tự mình là

mình, ngang hàng với Chúa nhưng trong thế đối lập, chỉ làm chuyện ác để

chứng mình rằng Chúa không có thực và, nếu có, cũng bất lực, không có khả

năng ngăn cản chàng làm chuyện ác. Cuối vở kịch, chàng công nhận thua

cuộc, chấp nhận cho Heinrich - là linh mục của kẻ bần cùng bị kết án là phản

bội Nhà Thờ, hành hạ mình, than trách Chúa đã im lặng, và chợt hiểu:

- Linh mục, mày có lý, mọi chuyện đều do tao bày đặt. Một mình tao.

Tao đã lạy lục, xin một dấu hiệu, tao đã gửi thông điệp tới tận Trời: không ai

trả lời. Ông trời không biết đến cả tên tao. Từng giây, từng phút, tao tự hỏi

mình có thể là gì dưới cặp mắt của Chúa. Bây giờ tao đã biết câu trả lời:

không là gì cả. Chúa không thấy tao, không nghe thấy tiếng kêu gọi của tao,

không biết đến tao. Mày thấy khoảnh trống trên đầu chúng ta không? Chúa

đấy. Mày thấy lỗ hổng trong cánh cửa kia không? Chúa đấy. Sự im lặng,

chính là Chúa. Sự vắng mặt, chính là Chúa, nỗi cô đơn của con người. Chỉ

còn có tao thôi: một mình, tao đã quyết định gì là Ác; một mình, tao sáng tạo

43

gì là Thiện. Chính tao đã gian dối, tao, con người đã từng làm ra những

chuyện mầu nhiệm, tao, con người đang tự lên án mình hôm nay, chỉ có tao

mới có khả năng tha tội cho tao; tao, con người. [9, 25]

Chúa ở đây không đơn thuần là Chúa của Kitô giáo mà là mọi niềm tin

đã bị thần thánh hoá, thiêng liêng hoá như sự thật hay quy luật khách quan

của lịch sử chẳng hạn, rồi đặt lên trên đầu con người để tự nó trói buộc đời

nó, biến đời nó thành định mệnh, từ đó ta cảm nhận được ngay tầm vóc tư

tưởng của vở kịch. Theo Sartre, con người có quyền lựa chọn bất cứ cái gì và

hành động theo những gì mình chọn là có tự do, đó chính là thiện. Con người

không bị ràng buộc bởi bất kỳ cái gì ngoại trừ phải đối diện với chính bản

thân mình để tự đưa ra quyết định lựa chọn theo cách riêng của mình. Tự do

của con người không theo khuôn mẫu có sẵn nào, tự do của con người chỉ có

thể đạt được trong sự tìm kiếm một nghệ thuật sống ở đời bằng cách không

bao giờ chấp nhận một giá trị định sẵn nào.

Những việc làm được chỉ đạo, chi phối bằng yếu tố bản năng của con

người, mà không theo khuôn mẫu giá trị định sẵn, theo quan niệm đạo đức

học trong chủ nghĩa hiện sinh sẽ mang giá trị thiện; còn khi hành động của

con người bị ràng buộc, trói chặt vào những thói quen, những công thức xã

hội, những tập tục truyền thống lạc hậu có sẵn thì con người sẽ mất tự do, mất

tự do bởi vì con người hèn nhát, an phận chịu giam hãm trong nhà tù của

những chuẩn mực, khuôn mẫu đúc sẵn, của những quy tắc. Điều này nghĩa là

con người an phận theo những chuẩn tắc của xã hội mà quên đi mình phải

sáng tạo, phải độc đáo, phải thể hiện sự tự do của mình qua những hành động

được dẫn dẵn bằng bản năng, bằng nguyên tắc của lòng mình để tạo ra chính

mình. Những suy nghĩ và việc làm này chính là sự từ bỏ thiện, nói cách khác,

cái ác được thể hiện ở đây. Sartre cũng kêu gọi con người sáng tạo vì tự do

của con người là tự do sáng tạo chứ không dập khuôn máy móc theo những gì

định sẵn, nếu ai đó cho rằng con người không có tự do thì đều sai trái, nhưng

44

nếu con người lựa chọn cái hèn hạ thì điều này đồng nghĩa với việc con người

tự hạn chế tự do của chính mình. Do đó, để con người thực sự được tự do một

cách sáng tạo, thì con người phải đánh giá các giá trị để thiết lập trật tự các

giá trị mở đường cho tự do và sáng tạo, đó cũng chính là biểu hiện của cái

thiện theo Sartre.

Thứ ba, đối với Sartre, người làm điều thiện là người dám ăn dám nói

theo suy nghĩ của mình, dám nói đến cùng không dấu diếm bất cứ chi tiết nào,

không sợ bất cứ lời dị nghị xã hội nào và dám hành động theo lương tâm của

mình. Người có đạo đức, làm điều thiện là người phải giành lấy tự do từ

những tập tục truyền thống, những quy ước xã hội và khi đã giành được tự do

thì con người không nên giữ nó trong tháp ngà mà phải dùng tự do để dấn

thân vào trong xã hội, vào trong cõi đời này, phải dựa vào tự do để thực hiện

những hành động có ích.

Nói tóm lại, dám là chính mình sẽ trở thành người có đạo đức theo

quan niệm đạo đức học của Sartre cũng như của chủ nghĩa hiện sinh. “Đạo

đức không phải vấn đề chọn các giá trị “đúng”, bởi vì ngoại trừ tự do, không

có giá trị nào khác tồn tại độc lập với các chọn lựa của chúng ta. Chính hành

vi chọn lựa của chúng ta tạo cho nó giá trị, làm cho nó thành tốt. Nhiệm vụ

đạo đức của chúng ta là nhìn nhận tự do hoàn toàn của mình và sử dụng nó để

tạo ra chính mình” [27, 331]

Tóm lại, những quan niệm về thiện và ác xem như là giá trị tuyệt đối,

những giá trị cố hữu được định sẵn bởi những tập tục, công thức, những

chuẩn mực xã hội đều bị bác bỏ theo nguyên tắc đạo đức học của chủ nghĩa

hiện sinh. Theo các nhà đạo đức học hiện sinh, thiện và ác chỉ có thể liên hệ

tới một hoàn cảnh đặc biệt, hành động của con người phải hướng tới cái thiện,

loại trừ cái ác. Trong tình thế, hoàn cảnh hiện thời con người đang sống, cái

ác cần diệt trừ, cái họa, cái nạn của thế giới cần phải loại bỏ là tình trạng

nghèo đói, là sự áp bức bóc lột, sự lừa dối, giả tạo.... Xuất phát từ tự do với

45

thân phận bi đát của con người. Cái thiện, cái ác trên lập trường của J. P.

Sartre đều được thiết lập trên một chủ quan tính. Con người là kẻ lập pháp

cho chính mình, phải tự mình quyết định chọn lựa lấy tất cả.

2.2. Về trách nhiệm

Bên cạnh việc quan tâm tới các yếu tố thiện và ác, tới các hành động có

thể coi là đúng hay sai, tốt hay xấu, đạo đức học còn quan tâm tới trách

nhiệm, nghĩa vụ hay bổn phận của mỗi cá nhân đối với hành vi của mình. Đạo

đức trong triết học hiện sinh cũng không thể bỏ qua bổn phận, trách nhiệm

của con người tới việc làm, tới sự lựa chọn, tới quyết định của chính mình

trên cơ sở tự do lựa chọn và sáng tạo. Để hiểu và đánh giá đúng giá trị của tư

tưởng về trách nhiệm trong đạo đức học hiện sinh của Sartre, chúng ta phải

làm rõ những nội dung cơ bản của nó. Những nội đó được trình bày một cách

khái quát như sau.

Thứ nhất, con người phải có trách nhiệm về sự hiện hữu của mình, về

lựa chọn bản chất của mình trong xã hội. Ở đây ta thấy, theo đạo đức học

mácxít, trách nhiệm của mỗi cá nhân là tuân theo những chuẩn mực, khuôn

mẫu giá trị do xã hội hoặc người khác đặt sẵn cho mình. Nếu hoàn thành công

việc theo đúng những quy tắc có sẵn đó của xã hội sẽ được coi là có trách

nhiệm đạo đức, ngược lại, không tuân thủ nguyên tắc ưu tiên lợi ích xã hội,

không làm theo chuẩn mực chung của xã hội, mà quyết định lựa chọn theo ý

muốn chủ quan của cá nhân mình, theo nguyện vọng, bản năng của mình sẽ bị

coi là thiếu trách nhiệm, không có trách nhiệm.

Như đã biết, nguyên tắc thứ nhất của chủ nghĩa hiện sinh là con người

không là gì khác ngoài cái mà tự nó làm thành chính mình, nhờ có tự do mà

con người tạo ra chính mình, con người trước hết là một hiện hữu ném mình

tới một tương lai và là hiện hữu ý thức về việc hình dung mình là hiện hữu

trong tương lai. Con người là khởi điểm của một kế hoạch tự ý thức về mình,

hơn là một mảng rêu, một mớ rác, hay một cây cải; không có gì tồn tại trước

46

kế hoạch này; không có gì ở trên đời cả; con người sẽ là cái mà nó dự định trở

thành. Đó trước hết là trách nhiệm về mình, về số phận của mình. Mỗi người

tự đáy lòng mình đều biết rằng chỉ có bản thân nó chịu trách nhiệm về số

phận, về những thành công và thất bại của mình, thậm chí cả trong trường hợp

nó muốn đổ lỗi cho người khác hay cho hoàn cảnh.

Thứ hai, con người phải có trách nhiệm trước bản thân mình, trước

người khác và với toàn xã hội khi đưa ra sự lựa chọn của mình. Sartre viết:

"Tôi chịu trách nhiệm... về bản thân tôi và về mọi người. Tôi tạo ra cho mình

một hình ảnh người xác định mà tôi lựa chọn. Tôi lựa chọn mình, tôi lựa chọn

con người nói chung" [17, 13]. Nói cách khác, với Sartre thì con người, bằng

hành động của mình, không những lựa chọn số phận của mình và bản thân

mình, mà còn tác động theo một cách nào đó đến người khác.

Sartre muốn chứng tỏ sự sống của con người là không thể thiếu

gánh nặng trách nhiệm: về bản thân, về người thân, về Tổ quốc của mình

và về toàn thể nhân loại. Nhiều người chạy trốn trách nhiệm này, làm ra

vẻ không cảm nhận thấy nó, nhưng nó không buông tha họ. Con người

không thể hoàn toàn chạy trốn khỏi lo âu, khỏi sự quan tâm và trách

nhiệm. Điều đó chỉ có ở những người bị bệnh tâm thần, nghiện ma tuý,

song cũng không phải tuyệt đối. Thực ra thì bệnh tâm thần, tự sát, say

rượu và nghiện ma tuý là ý đồ chạy trốn khỏi gánh nặng cuộc đời và

chứng tỏ gánh nặng ấy đã vượt quá mức mà con người có khả năng chịu

đựng. Tuy nhiên, ngay cả trong xã hội hoàn hảo nhất thì con người vẫn

phải gánh vác những nghĩa vụ, phải quan tâm và lo âu. Chính vì vậy mà lo

âu, quan tâm hay trách nhiệm không phải là các phạm trù xã hội, mà là

các phạm trù hiện sinh. Chúng biểu thị cái vốn có ở sự sống với tư cách là

sự sống của con người, không phụ thuộc vào thời gian, vị trí và chế độ

kinh tế - xã hội. Sự sống bao giờ cũng là một gánh nặng. Do vậy, nó đòi

hỏi con người phải có lòng dũng cảm để sống, phải kiên định chịu đựng

47

gánh nặng của cuộc đời.

Chính sự tự do của con người là hành vi tự tạo ra giá trị, hành vi của

mỗi cá nhân sẽ phát minh ra giá trị. Con người sẽ phải tự quyết trong việc lựa

chọn hành vi của mình chứ không thể dập khuôn theo những giá trị định sẵn

và cũng không thể dựa vào người khác để đưa ra quyết định cho mình vì

con người phải tự tạo ra chính mình và phải tự chịu trách nhiệm về chính sự

lựa chọn của mình. Do vậy, đối với đạo đức học hiện sinh, trách nhiệm, bổn

phận là việc phục tùng những giá trị mà bản thân mình lựa chọn, chứ không

phải phục tùng những giá trị của xã hội hay của người khác đã lựa chọn, sắp

xếp trước theo lợi ích của họ.

Tuy nhiên, nói đến trách nhiệm, đạo đức học hiện sinh không chỉ nhấn

mạnh trách nhiệm của bản thân chúng ta mà mỗi người còn phải chịu trách

nhiệm về mọi người. Vậy tại sao tôi lại phải chịu trách nhiệm về mọi người

khi mọi người cũng như tôi, cũng có tự do để tự quyết, tự tạo ra chính mình?

Theo đạo đức học hiện sinh, không thể có cái tốt, xấu, thiện, ác định sẵn, mà

chúng đều là công trình của chính cái Tôi trong mỗi con người, là sự sáng tạo

nhờ tự do của chúng ta, “chỉ có mình tôi, tôi tự quyết định cái xấu, tôi tự phát

minh ra cái tốt‟. Như vậy, chính việc chọn lựa của con người sẽ tạo ra giá trị,

và giá trị do cá nhân tôi tạo ra có thể sẽ được mọi người noi theo. Do vậy, khi

tôi quyết định chọn lựa một việc gì thì chọn lựa của tôi được xem như là một

mẫu mực cho tất cả mọi người. “Khi tạo ra con người mà chúng ta muốn trở

thành, không có một hành động duy nhất nào của chúng ta mà không đồng

thời tạo ra hình ảnh về một con người mà chúng ta nghĩ phải trở thành”,

Sartre nêu ví dụ “khi tôi quyết định lập gia đình, tôi tuyên bố rằng hôn nhân là

một giá trị... Tất nhiên không phải hôn nhân là một phần của bản tính con

người, nhưng dù sao chọn lựa của tôi là một cố gắng để định nghĩa bản tính

con người. Qua chọn lựa của tôi, tôi đang đưa tất cả nhân loại chứ không phải

một mình tôi vào chế độ một vợ một chồng. Vì vậy, tôi chịu trách nhiệm về

48

mình và về mọi người khác” [26, 334]

Lên tiếng chống lại chủ nghĩa cá nhân, J.P.Sartre đã đưa ra lập luận:

"Khi nói con người tự lựa chọn bản thân mình, chúng tôi hàm ý nói rằng, mỗi

người trong chúng ta đều lựa chọn bản thân mình. Nhưng qua đó, chúng tôi

cũng muốn nói rằng, khi lựa chọn bản thân mình, chúng ta lựa chọn tất cả mọi

người". [16, 11] Với nghĩa đó, mỗi người đều phải chịu trách nhiệm về mọi

người, đều phải lựa chọn "con người nói chung", lựa chọn "mô hình con

người". Đạo đức học hiện sinh phủ nhận những giá trị định sẵn, phủ nhận sự

ràng buộc của những tập tục, luân lý ngàn đời có sẵn vì theo họ, giá trị cuộc

sống, tốt hay xấu là do sự lựa chọn của chúng ta, ta chọn một vật không phải

vì nó tốt mà trái lại, chính việc lựa chọn của chúng ta tạo ra giá trị tốt cho vật

đó. Bản chất con người không có trước tồn tại, không được định sẵn và nếu

bản chất con người đã được cho sẵn và ấn định sẵn thì con người không thể

chịu trách nhiệm về chính mình, nhưng chính con người tạo ra giá trị, tạo ra

chính mình nhờ có tự do nên không ai khác ngoài con người phải chịu trách

nhiệm về bản thân mình.

Một ví dụ rất tiêu biểu trong quan niệm này của đạo đức học hiện sinh

là: Trong thời kỳ bị quân Đức chiếm đóng, một người học trò của Sartre đến

xin ông một lời khuyên rằng nên ở lại nước Pháp để làm việc và nuôi dưỡng

mẹ già đang không có nguồn sống hay sang Anh quốc để tiếp tục cuộc chiến

đấu chống quân xâm lược. Sartre trả lời chàng trai trẻ như sau: hãy tự lựa chọn

lấy con đường của mình và tự quyết lấy giá trị của sự tự do lựa chọn đó. Sự

sáng tạo ra những giá trị là một hành vi riêng tư và không một ai có thể làm

thay cho mình được. Như vậy, việc mình sẽ trở thành người như thế nào là do

con người tự do lựa chọn, do con người tự sáng tạo nên chính mình, con người

lên kế hoạch cho những hành vi của mình để hành vi đó tạo ra các giá trị.

Thứ ba, người có trách nhiệm là người làm theo đạo đức của bản thân

và dám chịu trách nhiệm về kết quả của sự lựa chọn của mình, cho dù kết quả

49

đó như thế nào. Tự do hoàn toàn thuộc về con người, là của con người, nhờ sự

tự do này mà con người phải tự quyết định chọn lựa các tình huống và khi con

người đã tự quyết các hành vi của mình thì con người không thể đổ lỗi cho bất

kỳ ai, con người không thể hèn nhát trốn tránh trách nhiệm, mà con người

phải có bổn phận, tự chịu trách nhiệm với quyết định của mình dù quyết định

đó cho kết quả như thế nào. Những người trốn tránh trách nhiệm bằng cách đổ

lỗi do hoàn cảnh, môi trường chi phối quyết định của mình đều bị thuyết hiện

sinh phê phán. Chẳng hạn, có học thuyết cho phép con người bào chữa hành

vi đã làm nhưng lẽ ra không nên làm của mình như là do yếu tố khách quan

chi phối như hoàn cảnh tác động, do ảnh hưởng của bạn bè, gia đình... còn

Sartre lại không chấp nhận quan niệm này vì cho rằng như vậy là không trung

thực. Trên thực tế, quyết định chọn lựa là do chính bản thân mình, chính mình

tự quyết trốn chạy hiểm nguy, chính mình làm cho mình trở thành kẻ hèn nhát

chứ không phải do hoàn cảnh, do môi trường hay do kinh nghiệm cuộc

sống...cho nên không thể đổ lỗi cho ai mà phải tự chịu trách nhiệm về việc

làm của mình.

Xuất phát từ quan niệm con người bị tự do, nghĩa là chỉ cần con người

sống là có tự do, tự do là điều con người không thể tránh khỏi, tự do là cái

được phán quyết cho con người. Trong cuộc sống chúng ta luôn đối mặt với

các tình huống buộc phải đưa ra lựa chọn bất kể đó là tình huống như thế nào,

nhưng nhờ có tự do mà con người quyết định lựa chọn cái gì, do vậy, con

người sẽ phải hoàn toàn tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình cho dù khi

lựa chọn hành vi là do đam mê. Theo Sartre “nếu có người đe doạ làm hại

chúng ta, nếu chúng ta không làm một hành động nào đó, chúng ta có tự do từ

chối đòi hỏi của họ và chấp nhận bị hại. Cả khi chúng ta bị nhốt trong tù và bị

kiềm chế thể lý, chúng ta vẫn có tự do để chọn thái độ của mình trong tình

huống ấy. Đối với những người nói rằng họ không thể không hành động như

thế, bởi vì họ bị lôi kéo bởi đam mê...Sartre nói con người chịu trách nhiệm

50

về đam mê của mình” [27, 333]. Như vậy, bất kể kết quả đến như thế nào thì

người có đạo đức phải chịu trách nhiệm về hành vi tự quyết của mình vì

người có đạo đức theo quan niệm của các nhà triết học hiện sinh là người dám

ăn, dám nói những điều mình suy nghĩ, tự làm, tự chịu...

Hiện sinh có trước bản chất, nghĩa là chúng ta không thể định nghĩa con

người qua những ý niệm trừu tượng, mà bằng chính hành động của họ. Cuộc

đời này tự nó không có ý nghĩa gì hết, hay ít ra nó chỉ đơn thuần mang ý

nghĩa mà chính con người gán cho nó. Vì vậy đối với con người trong vũ trụ

này không có luật lệ nào, luân lý nào, cũng như không có bồn phận nào trái

buộc hành động của họ cả. Con người hoàn toàn tự do, họ buộc phải hoàn

toàn tự do. Nhưng chính vì con người sống, nghĩa là hành động không ngừng,

họ buộc phải lựa chọn, bởi có hành động là có lựa chọn. Dẫu ở trong cảnh tù

túng giam cầm, con người vẫn hoàn toàn tự do, và khi họ nhận thức được rõ

ràng thế tự do ấy của mình, thì họ nghiễm nhiên sẽ lựa chọn đúng hành động

mà Sartre gọi là “un acte authentique”, nghĩa là hành động đích thực.

Tuy vậy, không phải bất luận con người nào cũng có được từng giây

phút những hành động đích thực. Những kẻ yếu đuối tinh thần, những kẻ bạc

nhược lý trí không tài nào hành động một cách đích thực được; họ sợ trách

nhiệm như sợ bệnh hủi, họ nơm nớp trốn tránh trách nhiệm, không dám gánh

vác trên vai, và họ không ngừng ngụy biện hay ngụy tín. Họ không còn tự do

nữa, tư cách đích thực nữa, mà là thứ tư cách giả tạo. Con người tự do là

người hành động một cách đích thực. Khí thế tự do ấy của con người đích

thực có quyền xem mình là giá trị đứng trên hết mọi giá trị khác. Bởi vậy bất

luận hành động nào chà đạp tự do sẽ nghiễm nhiên mất hết tính cách đích

thực của mình, nghĩa là không còn hành động đích thực nữa. Đây là khía cạnh

chính yếu của đạo đức hiện sinh J.P.Sartre.

Chủ đề vở kịch nổi tiếng, và là một trong những kiệt tác của ông, Huis

Clos (Kín cửa) xoay quanh đề tài ngụy tín này và được ông tóm tắt bằng một

51

câu bất hủ: địa ngục, chính là kẻ khác. Chúng ta có thể làm gì, nên làm gì và

phải làm gì để không ngụy tín, để không tuyệt vọng, để không bị mê hoặc bởi

yếu đuối thường tình nào, và nhất là để thoát khỏi tình trạng giả dối, bất chính

trực đó?

Lấy hai nhân vật Oreste và Mathieu:

Oreste rút trong vở kịch đầu tay Ruồi (Les Mouches), Oreste trở về

thành Argos, ban đầu do dự, ngập ngừng không dám thi hành ý chí phục thù

cho cha, bỗng nhận thấy rằng con người chùng chình là con người hèn nhát,

con người không dám gánh trách nhiệm của việc mình làm là con người thấp

hèn; sống ở đời thì phải lựa chọn, phải dấn thân, và con người chính trực ở

chỗ họ dám gánh lấy trách nhiệm về mỗi hành động của mình. Trước những

lời khuyên răn úp mở, những cử chỉ dọa nạt của thần linh, trong hoàn cảnh

đơn chiếc ở một thành phố hiềm khích và không chỗ nương tựa, Oreste chẳng

để mình bị mắc mưu bởi hành vi xảo trá của Égisthe.

Oreste: “…Lẽ phải vốn là việc của con người, ta chẳng cần đến một

Thượng đế nào để dạy nó cho ta. Tiêu diệt ngươi, thứ đồ nhơ nhuốc đểu giả,

và hủy hoại uy thế của ngưới đối với dân thành Argos là đúng theo lẽ phải,

hoàn lại cho họ bản năng biết tới phẩm giá của mình, là đúng theo lẽ phải”

Oreste đã chẳng ngại chọn lựa đúng hành động cho phép mình thực

hiện chính mình, chọn lựa đúng hành động biểu thị con người đích thực của

mình - hành động đích thực của con người tự do.

Oreste : “… Em đã thực hiện hành động của em đó… Em sẽ gánh nó

trên vai như lái đò đưa khách, em sẽ chở nó sang sông và chịu trách nhiệm về

nó…”. Với hành động đích thực ấy, với trách nhiệm tự mình lãnh ấy, Oreste

đã mặc cả những chướng ngại tày đình, là công thức xã hội, là trật tự do thần

linh đặt định, là những giá trị cổ hủ mà cứu vớt thành phố Argos ra khỏi nỗi

niềm ăn năn hối lỗi, nhờ vậy tìm thấy lại được hạnh phúc ở đời của con người

52

thật sự tự do.

Mathieu rút trong bộ tiểu thuyết Những con đường của tự do (les

Chemins de la Liberte), sau bao nhiêu tháng ngày vô tư lự, sau bao nhiêu

hành động vô ý thức nhận thấy rằng tự do của mình quả thực vô ích, vì không

có động cơ hành động, sau cùng đã tìm thấy được ý nghĩa của hành động của

mình: động cơ thúc đẩy chàng hành động là tính liên đới bạn bè của chàng,

với nhân loại nói chung

Bài học toát ra từ hai nhân vật chính trong hai tác phẩm nổi tiếng trên

đều hết sức rõ ràng: con người sau khi đã trút bỏ được mọi ràng buộc tiền

định có sẵn và giành lấy được tự do hoàn toàn, phải dùng tự do ấy mà lựa

chọn, mà gánh lấy trách nhiệm về hành động của mình, liên hệ mình với xã

hội loài người, để thực hiện mình hoàn toàn. Tất cả đạo đức của JP Sarter nằm

trọn ở đây. [4, 105]

Người ta đã được trông thấy Sartre bao nhiêu lần xác định lập trước,

tức là lựa chọn, nhận trách nhiệm trước mặt mọi người, trong một tinh thần

liên đới nhân loại. Cứ nghĩ đến thái độ và lập trường của ông trước các vấn đề

Việt Nam và Algégrie độ nào, đến chữ ký của ông trong bản Tuyên ngôn của

121 nhà trí thức. Như vậy, nghĩa là lời nói và việc làm của ông đi đôi với

nhau, nghĩa là lý thuyết và hành động không chia rẽ bởi một khoảng cách nào,

đã nói thì làm, và làm thì làm cho đến cùng, không thiên vị, không sợ sệt.

Thứ tư, người có trách nhiệm là người luôn luôn bị trạng thái lo âu chi

phối trước mỗi quyết định lựa chọn hành động. Như đã nói, con người khi

thực hiện hành vi lựa chọn thì không những phải chịu trách nhiệm cá nhân mà

còn phải chịu trách nhiệm trước mọi người. Chúng ta không thể không cho

phép mọi người làm theo gương mình, do vậy chúng ta phải lo âu về việc làm

của mình bởi rất có thể nó sẽ trở thành phổ biến trong xã hội. Nếu là người có

trách nhiệm, ta không thể trốn chạy sự lo âu của mình, dù có thể chúng ta tự

an ủi rằng hành động của mình không quan trọng vì mọi người sẽ không noi

53

theo mình, nhưng thực tâm, ta không thể phủ nhận trạng thái lo âu vẫn thường

trực trong hành vi tự quyết của mình. “Mọi người phải tự nhủ mình, tôi có

thực sự là loại người có quyền hành động thế nào, để loài người có thể tự

hướng dẫn chính mình bằng các hành động của tôi không? và nếu họ không tự

nói với mình như thế, họ đang che giấu sự lo âu của họ” [27, 334]

Thứ năm, Sartre nhất quán gắn liền hiện tại với tương lai, coi hiện tại là

cái cần phải mở ra một viễn cảnh cho tương lai. Thừa nhận con người là hữu

hạn, hữu tử, song Sartre không vì thế mà bênh vực những cái thủ tiêu sự sống

và toàn bộ những giá trị của nó. Ông luôn gắn liền hiện tại với tương lai, coi

hiện tại là cái cần phải mở ra viễn cảnh cho tương lai. Sự vô trách nhiệm đối

với tương lai sẽ làm giảm giá trị của tự do. Con người sống vô nghĩa là con

người chỉ biết đề cao hiện tại. Chỉ có trách nhiệm đối với tự do mới quy định

trách nhiệm đối với cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Xét về mặt triết học,

tính nhất thời, tính hữu hạn không nằm ở phía trước, mà nằm ở phía sau tự do

và trách nhiệm. Như vậy, có thể nói, Sartre hoàn toàn không bác bỏ giá trị

cuộc sống. Sartre đề cao tự do gắn với trách nhiệm đối với cuộc sống và cho

rằng, không nên đồng nhất tự do đích thực với tự do hình thức của kẻ đớn

hèn. Lựa chọn cái hèn hạ, con người đã tự hạn chế tự do của mình. Để tránh

sự chế ngự của cái hèn hạ, chúng ta cần phải phân cấp giá trị, phải kêu gọi

con người phát hiện ra những giá trị quan trọng, mở ra viễn cảnh cho tự do và

sáng tạo. Mỗi người đều có thể sáng tạo một cách phù hợp với những năng

lực của mình, nhưng những hành vi khác nhau lại có giá trị khác nhau, nếu

nhìn từ góc độ tự do và trách nhiệm.

Tóm lại, theo Sartre con người phải có trách nhiệm về sự lựa chọn bản

chất của mình trong xã hội, phải có trách nhiệm trước bản thân mình, trước

người khác và với toàn xã hội. Người có trách nhiệm theo ông là người làm

theo đạo đức của bản thân và dám chịu trách nhiệm về kết quả của sự lựa

chọn của mình, cho dù kết quả đó như thế nào, luôn luôn bị trạng thái lo âu

54

chi phối trước mỗi quyết định lựa chọn hành động và coi hiện tại là cái cần

phải mở ra một viễn cảnh cho tương lai. Quan trọng nhất là trách nhiệm

không thể tách rời tự do. “Vốn có thiên mệnh phải trở thành tự do, con người

mang toàn bộ sức nặng của thế giới trên đôi vai mình. Con người chịu trách

nhiệm về thế giới và về bản thân mình, và đó là phương thức tồn tại của nó”

[22, 14]. Sự tồn tại của Tôi không có căn cứ. Tôi chỉ đơn giản là bị “quẳng

vào” thế giới; nhưng sau đó và cùng với đó, Tôi bắt đầu phải chịu trách nhiệm

về bản thân; Tôi tự do và có trách nhiệm, khi vẫn không có căn cứ cho sự tồn

tại của mình. Trách nhiệm ở đây là trách nhiệm hiện sinh, chứ hoàn toàn

không phải là trách nhiệm trước một người nào đó, trước một cái gì đó. Với

quan niệm này, Sartre đã chế nhạo tất cả những ai có ý định từ bỏ giá trị của

bản thân để tìm kiếm các căn cứ cho sự tồn tại của mình và minh biện cho sự

sống và cái chết của mình ở cái khác, tức là tồn tại bị tha hoá, tồn tại không

phải với tư cách “tồn tại tự nó”.

2.3. Về sự trung thực và can đảm

Bên cạnh việc quan tâm tới các yếu tố thiện và ác, trách nhiệm của mỗi

cá nhân đối với hành vi của mình, đạo đức học của Sartre còn quan tâm đến

sự trung thực và can đảm như một biểu hiện cụ thể của hành vi có trách

nhiệm.

Về sự trung thực, thứ nhất, trung thực theo Sartre là không một ai được

đổ vấy trách nhiệm về những hành vi của mình cho người khác hoặc cho hoàn

cảnh, con người hoàn toàn tự do lựa chọn, nhưng họ cũng phải hoàn toàn chịu

trách nhiệm. Các vở kịch của Sartre đầy những người khổng lồ, phá hủy tất cả

hai bên phải trái với niềm tin sắt đá rằng, họ tự do hành động theo sở thích

của mình. Thực tế, Sartre chỉ thừa nhận một đức tính, đó là tính trung thực. J.

P. Sartre đã dùng phương pháp hiện tượng học để chứng minh rằng muốn

sống trung thực, phải sống trong suốt với chính mình, với người khác, vời

55

đời.

Nhân vật chính trong tác phẩm "Buồn Nôn" là Antoine Roquentin đã

khám phá ra quá nhiều sự ghê tởm của thế giới chung quanh. Anh ta và sự cô

đơn của anh đã dẫn tới nhiều kinh nghiệm về buồn nôn tâm lý. Dần dần anh ta

nhận thức được rằng con người là một hiện thực ngẫu nhiên, không có ý nghĩa

và giá trị gì cả, không cần thiết và không có cả lý do tồn tại. Như vậy con

người là gì? Ý thức là gì? Con người phải sống trung thực, phải sống “trong

suốt” với chính mình, với các người khác, với đời... Như vậy, buồn nôn chính

là một kinh nghiệm, qua đó, ý thức không thêm bớt gì cả, không áp đặt một ý

nghĩa nào lên thế giới, mà chỉ đón nhận. Nhận thức của Sartre về ý nghĩa sự

sống là một thứ nhận thức hoàn toàn phi lý. Nghĩa là không bắt đầu từ đâu và

cũng không biết đi tới đâu cả. Hiện sinh không còn nằm trong trạng thái tình

cảm và ý chí thuần túy nữa, mà tràn ngập trong suy tư của con người. Sartre

đã triển khai tư tưởng Hiện sinh một cách trọn vẹn và đúng nghĩa nhất. Trong

sự nhập cuộc của mình, con người hiện sinh đã cố gắng đưa ra một giải thoát

cho tâm tư, bằng sự thể nghiệm vào trạng thái hiện sinh tuyệt đối. Nhưng trên

thực tế, con người hiện sinh vẫn chỉ là con người hữu hạn, bị giới hạn một

cách tàn nhẫn. Trong Buồn nôn của Jean Paul Sartre, nhân vật luôn luôn buồn

nôn như một thái độ phản kháng những gì thuộc về lý tính cứng nhắc siêu

hình. Nhân vật chính Roquetin đang trên con đường khám phá ra lý do tồn tại

của con người là… không có lý do gì hết. Con người là một hiện thực ngẫu

nhiên (contingent), không có lý do tồn tại. Khái niệm contingence vừa có

nghĩa tất yếu vừa có nghĩa không có ý nghĩa, vô nghĩa. Đó là một sự tồn tại tự

nhiên, ngẫu nhiên, không vì một Đấng nào và tự nó không có giá trị gì gì cả.

Và con đường của Buồn nôn đi từ nhân vật trốn chạy sự thật đó bằng đủ thứ

ứng xử nhưng những cơn buồn nôn vẫn tồn tại. Buồn nôn như là một biểu

tượng về bản năng, về sự phi lý của việc con người tồn tại bằng một lý do

nào. Bản thân những cơn buồn nôn đó tự nó không có lý do, không lý giải

bằng một tầng chìm ký ức nào. Cuốn tiểu thuyết kết thúc với hình ảnh

56

Roquentin nghe một đoạn nhạc và bỗng nhiên hiểu rằng nghệ thuật là điều tất

yếu duy nhất của con người. Như vậy con người đã phải đối diện một cách cô

đơn giữa ý thức cá nhân và thân phận làm người, và lối thoát để làm cho thân

phận này có giá trị là "làm nghệ thuật”.

Thêm vào đó, con người Sartre đặc biệt nhất ở nhu cầu, ý chí sống

trong suốt (transparent) với chính mình, với người khác, với đời. Ðiều này

phù hợp với triết lý của L'Être et le Néant (Thực thể và Hư vô): Ý thức là một

quá trình phủ định trong suốt, không gợn tí vật thể nào. Chính ông đã thuật

lại, phân tích tuổi thơ của mình trong Les Mots, (Ngôn từ). Trong Les Mots, (

Ngôn từ), ông đã vận dụng triết lý của L'Être et le Néant (Thực thể và Hư vô)

để hiểu tuổi thơ của mình, xem nó đã ảnh hưởng cuộc đời, tư duy, tác phẩm

của mình ra sao, những gì còn tồn tại trong mình, những gì cuộc đời, nghiệm

sinh của mình đã khiến mình quét đi. Năm 1990, tập san Les Temps Modernes

(Thời Hiện đại) đăng trong 2 số đồ sộ, tổng cộng gần 1500 trang, bài vở của

nhiều người đã từng quen biết, gần gũi với Sartre, dưới tựa Témoins de Sartre

(Nhân chứng về Sartre). Sartre lại cho phép đăng tất cả bản thảo bỏ dở, thư từ

ông viết cho bất cứ ai, đặc biệt cho Simone de Beauvoir, tất cả những gì ông

đã từng viết. Đó chính là bằng chứng về ý chí sống trong suốt với chính mình.

Không những Sartre muốn sống trong suốt với chính mình, ông còn muốn

sống trong suốt với người khác. Ở đây là Simone de Beauvoir. Vì họ cùng

nhân sinh quan và nhân sinh quan ấy, cộng với bản lĩnh, tài năng của mỗi

người, khiến họ có khả năng sống bình đẳng, trong suốt với nhau: theo nhân

sinh quan ấy, đam mê chiếm hữu hay đam mê thống trị người khác là những

đam mê hão, không thể thực hiện được, chỉ dẫn tới những nếp sống không

trung thực, với những thái độ không trung thực như ghen tuông, v.v. Họ chưa

từng sống chung dưới một mái nhà, thường ở hai khách sạn khác nhau và,

cuối đời, ở hai căn hộ khác nhau. Nhưng ngày nào họ cũng gặp nhau, nói cho

nhau biết mọi chuyện về đời sống hàng ngày, những suy nghĩ của họ. Sartre

57

cũng muốn sống trong suốt với đời. Thà mất bạn còn hơn duy trì một quan hệ

bè bạn nhập nhằng. Thí dụ điển hình nhất là cuộc tranh luận với Albert

Camus. Bài Réponse à Albert Camus (Trả lời Albert Camus) thể hiện tiêu

biểu tình bạn của Sartre trong văn chương: hiểu và đánh giá một cách tổng

hợp con người, hành động, tư tưởng, văn chương. Trong bài, Sartre giải thích

vì sao những suy luận dẫn Camus đến một đỉnh cao của văn chương Pháp

cũng là những suy luận đưa Camus vào ngõ cụt, biến Camus thành nhân vật

hình thức ngay trong văn chương.

Thứ hai, về sự không trung thực, theo Sartre không trung thực là thông

tin xuyên tạc tình hình thực tế và định hướng chống lại các lý tưởng về tự do.

Hèn nhát là sự che dấu tự do nhờ dựa vào hoàn cảnh. Với Sartre, tự do lựa

chọn hiện sinh là một đặc trưng của con người, bởi nhờ đó mà con người phân

biệt mình với mọi thực thể khác. Tự do mang lại phẩm giá cho con người,

song tự do cũng là một gánh nặng mà con người muốn loại bỏ. Con người vốn

ưa thích sự hướng dẫn cái gì là đúng, là sai và được trút bỏ trách nhiệm phải

định đoạt giá trị. Song con người lại không có lối thoát nào khác ngoài sự tự

do lựa chọn. Con người có thể tìm cách trốn tránh bằng việc quyết định không

lựa chọn, nhưng cố gắng này là không thể, bởi quyết định không chọn lựa tự

nó đã là một sự chọn lựa, con người cũng có thể tìm cách trốn tránh trách

nhiệm của mình bằng cách quyết định theo lời khuyên của ai đó, nhưng bản

thân việc này cũng là một sự lựa chọn. Như vậy, con người bị kết án phải tự

do, con người buộc phải lựa chọn và phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của

mình. Sartre đã khẳng định rằng mỗi cá nhân phải có ý thức, trách nhiệm

trước bản thân mình, trước người khác khi đưa ra sự lựa chọn của mình chứ

không phải chịu trách nhiệm trước một đối tượng nào đó như pháp luật, chuẩn

mực xã hội, chuẩn mực đạo đức... và trách nhiệm không phải là yêu cầu của

cảnh sát, mà là sự hưởng ứng đối với hiện tượng tự do. Có thể nói rằng, đạo

đức học trong chủ nghĩa hiện sinh lên án những người chống lại tự do vì đối

58

với quan niệm này tự do là giá trị cao nhất trong con người, bất cứ ai cũng

đều có tự do, con người không thể trốn chạy tự do, chỉ cần con người sống là

có tự do, con người bị kết án là tự do. Trốn tránh tự do là sự không trung

thực, là sự lừa dối đối với chính mình và với tha nhân. Khái niệm sự thực

(vérité), sự trung thực với chính mình (authenticité), sự giả dối với chình

mình (mauvaise fois).

Sartre đã từng giải thích, những nhân vật trong 4 truyện ngắn của tuyển

tập Le Mur (Bức tường), đều thể hiện nếp sống không trung thực. Trong

L'Enfer, c'est les Autres (Ðiạ ngục, chính là tha nhân), nội dung triết lý của

nó: tha nhân là kẻ duy nhất có thể mang lại cho mình phần thiếu hụt của mình,

tha nhân nắm trong tay bí mật của chính mình, vì thế mình cứ phải lẽo đẽo

theo tha nhân để trở thành mình. Vì tha nhân là tự do, mình không bao giờ

được cho điều đó, có khi còn bị gán đủ thứ chuyện mình không ngờ nổi.

La Putain respectueuse (Con đĩ kính cẩn), và nội dung vở kịch ấy cũng

thể hiện triết lý của L'Être et le Néant (Thực thể và Hư vô). Mặc dù mình đã

bị người đời biến mình thành đĩ, mình vẫn kính trọng quan điểm đó của người

đời, tự coi mình là đĩ. Con đĩ làm như thế vì nó tin tưởng những giá trị do

người đời tạo ra, nó tự chấp nhận là đĩ vì nó còn tin tưởng ở người. Nó đáng

thương ở đó. Những đứa coi nó là đĩ, là một loại người hạ cấp, không cùng

'bản chất' với mình, không đáng mặt người.

Thêm vào đó, trong vở kịch Les Mouches (Ruồi), ông nói về thái độ

ngụy tín của hạng người yếu đuối. Sau mười lăm năm lưu biệt xứ sở, Oreste

trở về chốn cũ là thành Argos, châu thành ngày nay đã hóa một thành phố dở

sống dở chết, một thành phố rữa thối quằn quại và nhung nhúc ruồi nhặng.

Năm Oreste lên ba, chàng bị tình nhân của mẹ (hoàng hậu Clytemnestre) là

Égisthe toan đem giết đi nhưng được cứu và gửi đi xa. Égisthe đã đồng lõa

với Clytemnestre giết hại nhà vua để chiếm ngôi. Mười lăm năm trước đây

khi nhà vua (Agamemnon) chiến thắng trở về thành Argos, thì đám tị dân này,

59

tuy biết rõ là hoàng hậu Clytemnestre đã phụ tình ngài và cặp kè với tình nhân

là Égisthe. Họ cũng vẫn không thốt lên lấy một lời, chẳng những vì họ không

dám quyết định, không dám nhận trách nhiệm, không dám hành động một

cách đích thực, mà còn vì trong thâm tâm của họ đã mong mỏi cái án mạng ấy

như một ngày hội. Chính vì vậy mà họ đều lấy làm ăn năn hối lỗi kể từ ngày

hội khủng khiếp ấy. Và thần linh đã xua loại ruồi nhớp nhúa bủa xuống thành

phố, nung sôi mãi cái tâm trạng bất ổn ấy của họ, cái tâm trạng bất ổn của

hạng người ngụy tín, không dám nhìn thẳng vào tình thế trước mặt, không

dám quyết định dứt khoát, không dám gánh vác trách nhiệm. Đám thị dân

thành Argos, với tâm trạng bất ổn và lòng ăn năn hối hận, không ngừng sống

trong thứ trật tự đặt định sẵn của thần linh và của Égisthe, và họ đã hèn nhát

chấp nhận thứ trật tự do kẻ khác chỉ định ấy [4, 169]

Từ đó có thể thấy rằng, đã là con người có ý thức thì sẽ có tự do, tự do

là điều không thể tránh khỏi nên người nào chống lại tự do sẽ là không trung

thực, giả dối. Chủ nghĩa hiện sinh cho rằng, tự do là cái tất nhiên phải có ở

con người, ai cũng có thể thực hiện sự lựa chọn trong tư tưởng dù ở trong

hoàn cảnh nào, trong trạng thái lo âu, sợ hãi hay bình tĩnh, tự tin và sự lựa

chọn này là tự do. Sự lựa chọn này do bản thân cá nhân tiến hành chứ không

phụ thuộc theo một tiêu chuẩn đặt sẵn, không bị ràng buộc bởi bất cứ dư luận

xã hội nào. Từ quan niệm này, đạo đức học hiện sinh khẳng định, nếu ai trốn

chạy tự do, trốn chạy trách nhiệm bằng cách đổ lỗi do hoàn cảnh, do người

khác, do kinh nghiệm thiếu thời của mình.... Đều là những người hèn nhát.

Về sự can đảm, Sartre cho rằng người can đảm là người dám làm, dám

chịu, mình tự quyết, tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình dù kết quả là

thất bại hay thành công. Giá trị cuộc sống không phải là cái gì khác ngoài ý

nghĩa mà mỗi người muốn tạo dựng cho nó. Việc coi con người là nạn nhân

của số phận, của các thế lực khách quan, của tính di truyền hay của một sự

đam mê nào đó là sự tự lừa dối, tự biến mình thành kẻ hèn nhát, vì con người

60

có sự tự do đối với thế giới, nên thế giới không thể ảnh hưởng một cách máy

móc và hoàn toàn đối với ý thức và sự lựa chọn của con người. Con người tự

làm mình trở thành kẻ hèn nhát khi chạy trốn hiểm nguy, chạy trốn nghĩa vụ

phải đưa ra sự lựa chọn trước những tình huống trong cuộc sống. Đạo đức học

hiện sinh cho rằng người có đạo đức là người dám làm, dám chịu, mình tự

quyết, tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình dù kết quả là thất bại hay

thành công. Do đó, chúng ta không thể đổ lỗi cho hoàn cảnh, cũng không thể

dựa dẫm vào người khác, hay dựa dẫm vào những giá trị định sẵn, không thể

trông chờ, bám víu vào một sự thiện, ác, tốt, xấu vốn đã đuợc thiết lập trước,

mà chúng ta phải đối diện với sự kiện quan trọng và đầy trách nhiệm rằng,các

sự vật không tốt trước khi chúng ta chọn chúng, nhưng trở thành tốt bởi vì

chúng ta chọn chúng. Nếu ai không nhận thức được điều này mà cứ che giấu

sự tự do vốn có trong con người nhờ vào hoàn cảnh sẽ là kẻ hèn nhát theo đạo

đức học hiện sinh.

Thêm vào đó, Sartre cho rằng kẻ hèn nhát được định nghĩa từ hành vi

hắn đã thực hiện. Sartre lập luận rằng khi mô tả một kẻ hèn nhát, nói rằng kẻ

hèn nhát này chịu trách nhiệm về sự hèn nhát của mình, anh ta không phải

như vậy vì anh ta có một trái tim, một buồng phổi hay một bộ óc hèn nhát,

cũng không phải do cấu tạo sinh lý, mà vì anh ta đã tự tạo mình như là kẻ hèn

nhát bằng những hành vi của mình. Không có khí chất hèn nhát, mà có những

khí chất nóng nảy, như cách nói của nhiều người là chỉ có máu xấu, hay

những khí chất ôn hòa ; nhưng con người có máu xấu không vì thế mà hèn

nhát, vì cái làm nên tính hèn nhát chính là hành vi chối bỏ hay nhượng bộ,

tính khí không phải là hành vi. Kẻ hèn nhát được định nghĩa từ hành vi hắn đã

thực hiện. Điều mà người hiện sinh nói, đó là kẻ hèn nhát tự tạo mình thành

kẻ hèn nhát, người anh hùng tự tạo mình thành người anh hùng. Luôn luôn có

một khả năng để cho kẻ hèn nhát không còn là hèn nhát nữa, và để cho người

61

anh hùng thôi là người anh hùng. Vấn đề là sự dấn thân toàn diện. Nó định

nghĩa con người bằng hành động, đây là đạo đức học về hành động và về sự

dấn thân.

Sartre định nghĩa bản chất của sự “dấn thân” dựa trên những thí dụ

hùng hồn để minh giải, ông viết “Tôi cho là Flaubert và Goncourt có trách

nhiệm về cuộc đàn áp sau thời Công xã vì họ đã không viết một dòng nào để

ngăn cản sự kiện đó”. Ta thấy đó là sự dấn thân, không phải là một sự dấn

thân thuần túy trên phương diện đạo đức hay trên nguyên tắc. Không phải tư

tưởng dấn thân mà chính là hành động: đối với nhà văn, thì đó lại là lời nói.

Im lặng, dù vì bất kỳ một nguyên cớ nào đều có nghĩa là không chịu đảm

nhận toàn thế giới mà nhà căn phải diễn tả. [4, 173]

Chủ nghĩa hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản (1946) của Jean-Paul

Sartre cũng thể hiện điểm mấu chốt của thuyết hiện sinh là con người phải

hành động, là sự dấn thân và trải nghiệm. Bởi như Sartre viết: “Chúng tôi

muốn có một học thuyết được dựa trên chân lý, chứ không phải là một tập

hợp các lý thuyết đẹp đẽ, tràn đầy hy vọng nhưng không có những cơ sở hiện

thực”, và Sartre khẳng định: “Thuyết Hiện sinh là một thuyết lạc quan, một

học thuyết hành động” [28, 14]

Ngay chính bản thân cuộc đời của Sartre cũng chính là một sự dấn thân.

Lời nói và việc làm của ông luôn đi đôi với nhau, nghĩa là lý thuyết và hành

động thống nhất với nhau, đã nói là làm. Sartre luôn luôn giữ thế đứng độc

lập, tự chủ, không đại diện bất cứ ai ngoài chính mình. Tùy lúc, tùy chuyện,

ông liên kết với lực lượng chính trị này hay lực lượng chính trị kia, nhưng

không gia nhập một đảng phái, một phong trào nào. Về mặt tư tưởng, ông

luôn luôn khẳng định tư tưởng của chính mình. Ngay lúc ông tìm cách liên kết

với phong trào cộng sản, ông vẫn đăng Chủ nghĩa duy vật và Cách mạng

(Matérialisme et Révolution), 1946, một tiểu luận phê phán chủ nghĩa duy vật

biện chứng và các trí thức cộng sản giáo điều Pháp. Sartre luôn luôn đứng về

62

phía kẻ yếu, kẻ bị đàn áp, ở bất cứ đâu. Bằng chứng là trong suốt thời chiến,

Sartre luôn ủng hộ cách mạng Việt Nam. Đến năm 1979, lần đầu tiên ông

chấp nhận công khai đến điện Élysée yêu cầu Tổng thống Giscard d'Estaing

tăng cường giúp đỡ thuyền-nhân Việt Nam. Hành động, triết lý và văn

chương của Sartre luôn luôn thống nhất với nhau, văn chương mở đường cho

triết lý hay hiện sinh hoá triết lý dưới dạng nghệ thuật, triết lý soi sáng văn

chương, hành động đưa triết lý vào đời, thôi thúc tư duy triết học, sáng tác

nghệ thuật.

2.4. Đánh giá quan điểm đạo đức học của J.P.Sartre

2.4.1. Giá trị

Thứ nhất, khác với triết học truyền thống, chủ nghĩa hiện sinh đã xem

xét con người với cuộc sống riêng biệt và độc đáo của nó và thừa nhận con

người có thẩm quyền bất khả xâm phạm là “sự tự do”. J.P.Sartre cho rằng con

người được quyền tự do lựa chọn những hành động của mình và quan trọng

hơn, đó phải là những hành động mang tính sáng tạo và độc đáo. Bởi lẽ, con

người chẳng lệ thuộc vào bất cứ cái gì ngoài sự đối diện với chính bản thân

mình và thông quan sự hiện hữu của mình con người tự làm nên bản chất của

mình. Bản chất của con người thể hiện ở cái độc đáo do chính nó tạo ra, hoạt

động của con người phải hướng tới việc tạo ra những cái mới, những cái chưa

có. Chính quan niệm này của J.P.Sartre đã thực sự thúc đẩy sự tìm tòi sáng

tạo trong hoạt động khoa học cũng như hoạt động thực tiễn của con người.

Đạo đức học của J. P. Sartre đề cao ý chí, tự do và nghị lực của con người cá

nhân, sự quyết tâm dám vượt qua hoàn cảnh để thực hiện cái tôi của mình,

thực hiện kế hoạch và dự án của mình. Tự do là nguyên nhân, động lực xuất

phát toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học của J. P. Sartre. Tự do gắn chặt với

thân phận con người, là sự khác biệt với sự vật, có thể lựa chọn cho mình một

phương thức sống độc đáo không bị áp đặt từ bên ngoài. Từ đó mỗi người đều

phải chịu trách nhiệm với những lựa chọn của mình trước thế giới và bản

63

thân.

Người có đạo đức theo quan niệm của chủ nghĩa hiện sinh nói chung và

của Sartre nói riêng là người dám làm, dám chịu. Dám làm là làm theo

nguyên tắc của lòng mình chứ không phải làm theo hệ thống giá trị đã viết sẵn

cho cả xã hội. Nhờ có tự do, con người phải tự tạo ra các giá trị cho mình và

tạo ra chính mình thông qua các giá trị đó. Trong quá trình đi tìm giá trị này,

con người phải đối mặt với những khó khăn, bộn bề của cuộc sống, họ băn

khoăn trước những tình huống phải đưa ra quyết định lựa chọn. Mỗi cá nhân

đều có thể lựa chọn cho mình một con người mà mình muốn. Không tin tưởng

vào bất kỳ một sự nô dịch nào đối với bản chất con người. Chúng ta có thể tạo

ra mình là một người anh hùng hay một con người hèn nhát điều đó hoàn toàn

phụ thuộc vào sự lựa chọn của ta. Lúc này, không còn cách nào khác con

người phải dấn thân và hành động, khi hành động con người sẽ rơi vào tâm

trạng lo âu, vì con người phải tự chịu trách nhiệm với mình, với mọi người.

Người có trách nhiệm khi hành động sẽ lo âu bởi một mặt, lo âu thúc đẩy

hành động của con người, mặt khác lo âu đi liền với trách nhiệm. Làm được

điều này, con người sẽ trở thành có đạo đức học.

Có thể nói đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh của J.P.Sartre đã phủ

nhận những giá trị cũ, những tập quán, những quy tắc xã hội trói buộc sự tự

do của con người, kìm hãm tính năng động, sáng tạo của con người cũng như

sự phát triển của họ. Lịch sử phát triển tư tưởng nhân loại cho thấy rằng,

không phải giá trị nào trong lịch sử cũng đều phù hợp và tác động tốt đến sự

phát triển của mỗi cá nhân cũng như sự phát triển của xã hội. Do vậy, ở khía

cạnh này, đạo đức học của J.P.Sartre có giá trị tích cực vì đã động viên cá

nhân hãy thoát khỏi sự ràng buộc của những chuẩn tắc đã lỗi thời để tạo ra

những giá trị mới, nhờ đó mà con người sẽ chủ động, tích cực và năng động

hơn trong suy nghĩ và trong hành động.

Như đã biết, tự do không chỉ là nhận thức và hành động theo quy luật,

64

trong các quan hệ xã hội của con người, tự do biểu hiện một cách tập trung và

thực tế ở các quyền cơ bản của con người. Sự phát triển và sự phong phú các

quyền, cũng như những đảm bảo xã hội cho sự thực hiện các quyền đó trở

thành tiêu chí của sự phát triển tự do và tiến bộ xã hội. Chính vì vậy, xã hội

ngày càng mở rộng không gian tự do cho sự nghiên cứu khoa học và ứng

dụng các thành quả nghiên cứu đó vào cuộc sống. Bởi vì, tự do bao giờ cũng

là điểm xuất phát của sự phát triển. Phát triển vừa là hệ quả của tự do, đồng

thời cũng là tiền đề để con người tự do nhiều hơn. Nhận thức rõ vai trò của

khoa học công nghệ đối với sự phát triển của đất nước, Việt Nam luôn tạo

môi trường tự do cho nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ. Điều

27, Luật khoa học và công nghệ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

có ghi rất rõ: “Khuyến khích ứng dụng hết quả nghiên cứu khoa học và phát

triển công nghệ”. Trong đó khoản 3 và khoản 4 của Điều này khẳng

định:“Nhà nước tạo điều kiện để tổ chức khoa học và công nghệ, cá nhân hoạt

động khoa học và công nghệ chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và

phát triển công nghệ để ứng dụng rộng rãi vào sản xuất và đời sống”; “Chủ sở

hữu, tác giả và người ứng dụng thành công kết quả nghiên cứu khoa học và

phát triển công nghệ được hưởng lợi ích do việc ứng dụng kết quả này vào

sản xuất và đời sống theo hợp đồng khoa học và công nghệ và theo quy định

của pháp luật” [32, 28]. Tóm lại, bất kể Luật khoa học và công nghệ của một

quốc gia nào cũng khuyến khích các nhà khoa học tìm ra được những phát

minh và đưa những phát minh của mình vào phục vụ cuộc sống ngày càng tốt

hơn, tạo điều kiện cho tự do của con người ngày càng phát triển hơn. Đó là

biểu hiện rõ nét nhất của phát triển tự do con người trong Cuộc cách mạng

khoa học và công nghệ hiện đại.

Thứ hai, khi đưa ra quan niệm về trách nhiệm, đạo đức học mácxít cho

rằng, người có trách nhiệm là người hoàn thành tốt công việc theo khuôn

mẫu, chuẩn mực xã hội trên tinh thần tự nguyện, tự giác như có người gặp

65

nạn thì lập tức trách nhiệm cứu nạn được đặt ra; người lao động có trách

nhiệm lao động trung thực và tận tâm. Những trách nhiệm, chuẩn mực này

không phải do cá nhân tự tạo bằng sự tự do lựa chọn của mình mà do xã hội

hoặc người khác đặt ra nhằm đáp ứng lợi ích của xã hội. Còn đạo đức học

hiện sinh lại cho rằng, con người phải chịu trách nhiệm về chính quyết định

của mình, mình tự quyết định mình là người như thế nào, tự quyết định vận

mệnh của chính bản thân mình nên sướng hay khổ, thành hay bại cũng đều do

con người làm nên nên không thể đổ lỗi cho bất cứ ai. Người có trách nhiệm

là người làm đúng theo lương tâm của mình. Hơn thế, đạo đức học của Sartre

còn khẳng định, bên cạnh trách nhiệm cá nhân, con người còn phải có trách

nhiệm với mọi người.

Việt Nam với việc vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa những năm qua đã và đang tạo ra những biến đổi căn bản về mọi

mặt đời sống kinh tế -xã hội. Những biến đổi sâu sắc trong đời sống vật chất

xã hội tất yếu sẽ dẫn đến sự biến đổi tương ứng trong đời sống tinh thần của

xã hội, trong đó bao gồm cả những vấn đề liên quan đến các giá trị đạo đức xã

hội. Trong cơ chế kinh tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa chúng ta luôn hướng tới việc xác lập hệ thống các quan hệ đạo đức mà

trong đó cá nhân phải có trách nhiệm đối với hành động và hậu quả của

những hành động do mình tạo ra, ngăn chặn mọi sự phương hại đến lợi ích

chung của toàn xã hội. Đồng thời, chính sách kinh tế thị trường của Việt Nam

luôn chú ý đến vấn đề ý thức tự giác, tính năng động xã hội và trách nhiệm

đạo đức, xác lập một hệ chuẩn đạo đức chung cho toàn xã hội, gắn lợi ích cá

nhân với lợi ích xã hội, coi sự kết hợp hài hòa hệ thống các lợi ích cơ bản là

điều kiện cho phát triển các giá trị đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội. Kết quả

là, trách nhiệm xã hội đã không ngừng được nâng cao trong đời sống xã hội,

trong ý thức và hoạt động của từng người dân, từng gia đình và toàn xã hội.

Như vậy, quan niệm về trách nhiệm trong đạo đức học hiện sinh của

66

Sartre có giá trị rất lớn, vì con người sẽ phải chủ động, quyết đoán trong công

việc cũng như trong cuộc sống, tránh được tính dựa dẫm trông chờ vào người

khác. Từ đó, buộc mỗi cá nhân phải tự cân nhắc để thực hiện lựa chọn của

mình. Thêm nữa, con người còn phải chịu trách nhiệm về mọi người, nghĩa là

con người sẽ phải lo âu khi đưa ra quyết định của mình, vì rất có thể quyết

định của mình sẽ có ảnh hưởng nhất định đến mọi người. Nhìn nhận, đánh giá

từ góc độ đạo đức học Mác -Lênin, nếu lựa chọn của mỗi cá nhân phù hợp với

tiêu chí đạo đức của xã hội thì đây là điều đáng khích lệ con người không

những tạo thêm những giá trị đạo đức phù hợp với chuẩn mực, truyền thống

đạo đức dân tộc mà vẫn phát huy được tính độc lập, tự chủ của cá nhân trong

mọi tình huống.

Thứ ba, theo quan niệm đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh, bản

chất con người phải do chính con người tự tạo nên và không chịu sự quy định,

ràng buộc bởi bất cứ cái gì; sự tồn tại của con người có trước bản chất. Bản

tính con người không có sẵn như đồ vật, mà con người tự tạo bản chất cho

mình, thông qua các chọn lựa. Lời kêu gọi, con người “hãy là chính mình”,

“hãy làm cho mình khác đi” đã nói lên rằng chủ nghĩa hiện sinh là triết học

hành động. Các giá trị đạo đức cũng đều do mỗi cá nhân tự tạo ra thông qua

các hành vi của mình. Thiện, ác là do cá nhân tự quy định, nếu hành động phù

hợp với nguyên tắc của lòng mình thì đó là thiện, ngược lại sẽ là ác. Con

người không đứng im một chỗ mà tồn tại của con người là tồn tại hướng về

tương lai. Tương lai đó tốt hay xấu là do việc tự do lựa chọn hành động của

con người quy định.

Chủ nghĩa hiện sinh đã khẳng định vai trò tích cực của con người

trong việc tạo ra bản chất của chính mình, làm nên số phận, vận mệnh của

chính mình. Nó đã nhấn mạnh tính năng động, sáng tạo, tự lập của con

người, đồng thời nâng cao ý thức, trách nhiệm của con người trước hành

động của mình. Con người không thể đổ lỗi cho ai vì con người tự quyết

67

và tự chịu trách nhiệm.

Ngày nay, trong bối cảnh Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ diễn

ra trên quy mô toàn cầu, đã và đang làm cho tự do và trách nhiệm của con

người được nâng cao và phong phú hơn bao giờ hết. Những nhân tố cơ bản

nhất quy định quá trình hiện đại hoá xã hội, như kinh tế thị trường, tiến bộ

công nghệ, dân chủ hoá, toàn cầu hoá... đang thúc đẩy mạnh mẽ, nhưng đồng

thời cũng đặt ra những thách thức to lớn đối với sự phát triển tự do và trách

nhiệm của con người. Chính những nhân tố này đang tạo ra những điều kiện,

những đảm bảo ngày một tốt hơn cả về mặt vật chất lẫn về mặt tinh thần cho

sự phát triển tự do và trách nhiệm của con người. Sự phát triển kinh tế, công

nghệ tạo điều kiện cho sự phát triển con người thông qua việc đáp ứng ngày

một đầy đủ hơn các nhu cầu về vật chất, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, giải

trí... Sự phát triển của dân chủ tạo điều kiện mở rộng các quyền của con

người: quyền tự do kinh doanh, tự do cư trú, tự do hoạt động tôn giáo, tự do

lập hiệp hội, tự do tham gia rộng rãi vào đời sống chính trị, văn hóa, xã hội...

Tất cả những điều đó làm cho sự lựa chọn giá trị cũng như hoạt động của con

người ngày càng tự do hơn, được đảm bảo hơn.

Thứ tư, quan niệm đạo đức học trong chủ nghĩa hiện sinh của Sartre

còn là sự phản ánh, phản kháng chống lại sự áp bức, sự vùi dập con người.

Quan niệm này đã tố cáo các lực lượng làm tha hoá con người. Đó là những

lực lượng có thật và bành trướng trong một thế giới trí tuệ, nhưng ít đạo đức,

thừa của cải nhưng thiếu công bằng, giàu có về vật chất, nhưng nghèo nàn về

tinh thần, trong một thế giới mà trong đó không ít người cảm thấy dường như

tất cả trở nên phi lý, vô nghĩa, con người không tìm thấy ý nghĩa của cuộc

sống. Sartre là người đã chứng kiến sự tàn bạo của chủ nghĩa phát xít, thấy rõ

sự bi quan, bế tắc, thất vọng của con người trong chiến tranh. Ông muốn là

người chứng kiến thời đại, mô tả và biểu hiện tình trạng hỗn loạn của nó đồng

thời thể hiện ý chí vươn lên thoát khỏi tình trạng ấy. Tồn tại và hư vô (1945)

68

– tác phẩm chủ yếu và đồ sộ nhất của ông về triết học hiện sinh ra đời trong

hoàn cảnh ấy đã phản ánh trong mô hình con người của ông một thái độ phản

kháng chống lại cái man rợ, thể hiện lập trường nhân đạo trừu tượng, ý muốn

cứu vớt con người khỏi thế giới đã hủy hoại con người.

2.4.2. Hạn chế

Thứ nhất, chủ nghĩa hiện sinh của J. P. Sartre là chủ nghĩa duy tâm chủ

quan, đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa Mác về vấn đề cơ bản của triết học.

Không tính tới yếu tố khách quan với tư cách là nguồn gốc và bản chất của ý

thức con người. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì hệ

chuẩn chủ thể - khách thể nằm trong một mối tương giao không thể chia cắt.

Trong đó yếu tố khách thể giữ vai trò quyết định trong nhận thức cũng như

trong hành động của chủ thể. Mọi mục đích, dự án đều hướng tới thực tiễn

quá trình tương giao liên chủ thể ấy. Việc xa rời những nguyên lý của chủ

nghĩa Mác sẽ dẫn tới chủ nghĩa duy tâm triết học và tác động tai hại tới hoạt

động thực tiễn của con người.

Tính ưu tiên các lợi ích cá nhân được thể hiện rõ nhất ở các lĩnh vực

như quan hệ gia đình. Một mặt, đó là sự giải phóng khỏi các gánh nặng của

gia đình truyền thống và hôn nhân cưỡng bức theo tính toán. Nhưng việc thổi

phồng cái cá nhân đã dẫn đến một thái cực khác, đó là bản thân thiết chế gia

đình đã bị băng hoại đáng kể. Số các vụ ly hôn trên thế giới là quá nhiều, ở

các thành phố lớn có quá nửa các cuộc hôn nhân đều kết thúc bằng ly hôn.

Người ta cưới vợ và lấy chồng với tâm thế sẵn sàng chia đàn xẻ nghé, thường

các cặp vợ chồng ly hôn cũng không có ý muốn giữ gìn gia đình, họ đơn giản

hy sinh gia đình của mình cho những kế hoạch riêng, lòng tham tự do bỗng

dưng được thức tỉnh thay cho một cuộc tình mới. Kết quả là nhiều trẻ em lớn

lên trong các gia đình thiếu bố, thiếu mẹ, hoặc cả hai. Và điều đó diễn ra khá

tự nhiên trên lập trường ưu tiên cho những lợi ích riêng cá nhân.

Xét trên quan niệm triết học nói chung và đạo đức học Mác – Lênin

69

nói riêng thì đạo đức học hiện sinh đã nhấn mạnh thái quá tính năng động,

tính sáng tạo, tự chủ của con người đến mức rơi vào chủ nghĩa duy tâm về

mặt xã hội và chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa hiện sinh đã tách con người ra

khỏi môi trường xã hội, đã không để ý tới nhân tố khách quan, tới hoàn cảnh

lịch sử, tới những tiêu chí, quy tắc đạo đức của xã hội.

Thứ hai. J. P. Sartre đề cao phép biện chứng tiêu cực, chống lại phép

biện chứng tự nhiên và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Phép biện chứng duy

vật phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan như cái vốn có của nó. Những

quy luật của tự nhiên là không thể phủ nhận, mọi sự nhận thức đều lấy tự

nhiên làm cơ sở và mục đích của thực tiễn. Phép biện chứng của J. P. Sartre là

phép biện chứng chủ quan, phản ánh những quy luật nội tâm của tồn tại người

trái với phép biện chứng tự nhiên. Quy luật của tồn tại người là những cảm

xúc của con người phải sống trong thời đại có nguy cơ huỷ hoại chính sự tồn

tại ấy. Tâm lý chung của con người là sự lo âu, sợ hãi...những cái không thể

tách được ra khỏi tồn tại người. Do đó theo Sartre thì những thay đổi của tự

nhiên và xã hội hoàn toàn phụ thuộc vào những hành động đã được thử thách

qua những xao xuyến của tâm tư.

Thứ ba. Duy tâm về lịch sử, xã hội. Coi cá nhân quyết định xã hội. Đề

cao quá mức cá nhân sẽ đi tới chủ quan duy ý chí trong nhận thức và hành

động. Chưa thấy được động lực phát triển của xã hội, thúc đẩy xã hội phát

triển là quần chúng nhân dân, người làm nên lịch sử. Cá nhân kiệt xuất có thể

lãnh đạo nhân dân qua các thời kỳ lịch sử nhưng người trực tiếp thực thi

những chiến lược,chính sách, đường lối lại chính là nhân dân. Mọi mục đích

đều lấy lợi ích nhân dân làm chính. Nhưng nếu chỉ quan tâm tới cá nhân thì

chủ nghĩa vị lợi sẽ thay thế chủ nghĩa công lợi. Đề cao chủ nghĩa cá nhân, xu

hướng khuyến khích chủ nghĩa cá nhân cực đoan, thiếu sự khoan dung hòa

đồng như: tách biệt tình làng nghĩa xóm, không nêu cao được tính thần đại

70

đoàn kết dân tộc...

Chủ nghĩa hiện sinh đã không đúng khi phủ nhận tính quy định khách

quan của hành vi con người, đã không thấy hết ý nghĩa khách quan của những

giá trị đạo đức mà nhân loại đã có được hàng ngàn năm nay, quên đi những

giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc vì quá đề cao vai trò của cá nhân con

người và đã bỏ qua việc phải cần có một tổ chức cách mạng để làm thay đổi

những điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần cho con người, bỏ qua nguồn

gốc xã hội dẫn đến sự tha hoá của con người - điều mà chủ nghĩa Mác rất

quan tâm.

Thực tiễn cho thấy, trong xã hội còn áp bức bóc lột, còn bất bình đẳng

thì tự do trong hành động cũng như tự do trong tư tưởng cũng đều không có.

Sống trong xã hội này, không phải ai muốn nghĩ gì cũng được bởi suy nghĩ

của con người còn bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố của đời sống xã hội. Triết

học Mác cho rằng, tồn tại xã hội quyết đinh ý thức xã hội, nghĩa là đời sống

vật chất như thế nào thì đời sống tinh thần sẽ hình thành như thế ấy. Do vậy, ý

nghĩ của một hành vi luôn bị hoàn cảnh xã hội, điều kiện sinh hoạt vật chất

quy định, quan niệm của con người về một hành vi nào đó là tốt hay xấu,

thiện hay ác đều do những điều kiện xã hội nhất định mà họ đang sống chi

phối và quyết định. Có thể nói, quan niệm đạo đức học của J.P.Sartre có phần

chủ quan thái quá.

Thứ tư, việc ông gắn sự tự do lựa chọn với sự ưu phiền, lo âu, tuyệt

vọng một cách thuần tuý thì lại thể hiện tính bi quan trong thuyết tự do của

ông. Hơn nữa khi đưa ra khái niệm tự do, Sartre đã không để ý tới nhân tố

khách quan, tới hoàn cảnh lịch sử, tới những tiêu chí, quy tắc đạo đức của xã

hội.... Điều này làm cho quan niệm của ông khác với quan niệm của nhiều học

thuyết khác trong đó có chủ nghĩa Mác. Quan điểm chủ quan và cực đoan của

Sartre về tự do mở đường cho việc nhân nhượng, chống lại mọi hiện thực xã

hội. Khước từ mọi quy tắc cộng đồng mà thay vào đó là quyền tự quyết theo ý

71

muốn chủ quan. Không kế thừa những giá trị truyền thống dẫn tới những

nguy cơ nổi loạn, xung đột lợi ích... tạo nên một xã hội vô chính phủ, mất kỷ

cương phép nước. Thiết lập một lối sống buông thả vượt qua những quy tắc

đạo đức đời thường dẫn tới những tai biến, bệnh hoạn.

Quan niệm về tự do lựa chọn của con người theo đạo đức học của

Sartre mới chỉ là sự lựa chọn “ dự phóng”, tức là sự lựa chọn mới chỉ hướng

tới tương lai của mỗi cá nhân, theo nguyện vọng của mỗi cá nhân, nên sẽ nếu

sự lựa chọn của mỗi cá nhân không phù hợp với lợi ích chung của cả xã hội,

không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc thì sẽ dẫn đến trào lưu, lối

sống phi đạo đức..., làm biến đổi các giá trị truyền thống của dân tộc.

Như đã biết, tự do là khát vọng của toàn nhân loại, khát vọng được

hành động theo tình cảm, nguyện vọng, nguyên tắc của lòng mình mà đạo đức

học trong chủ nghĩa hiện sinh đề cập đến là điều dễ hiểu bởi vì chủ nghĩa hiện

sinh là sự phản ánh tâm trạng của tầng lớp trí thức tư sản và tiểu tư sản trong

thời kỳ khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, triết học cũng như đạo đức

học hiện sinh tập trung xoay quanh vấn đề con người, thân phận con người

trong bối cảnh khủng hoảng của xã hội và khoa học. Học thuyết này thể hiện

tính năng động, sáng tạo, chủ động của mỗi cá nhân để thoát ra khỏi guồng

máy xã hội, thoát ra khỏi sự trói buộc của những chuẩn mực đặt trước cho con

người để đạt tới tự do.

Trên thực tế, mục đích của đạo đức học hiện sinh là nhân văn. Học

thuyết đạo đức này là vì con người, quan tâm đến thân phận, cuộc đời con

người. Tuy nhiên, phương thức thực hiện mục tiêu chưa thật phù hợp. Trước

đây, giới triết học mácxít khi đề cập đến chủ nghĩa hiện sinh thường nói chủ

yếu về các mặt hạn chế, tiêu cực của nó như chủ nghĩa cá nhân tư sản cực

đoan, chủ nghĩa bi quan, thái độ thất vọng, chán chường,... Những hạn chế,

tiêu cực ấy là có thật. Nhưng đạo đức học hiện sinh nói chung và quan điểm

đạo đức của Sartre nói riêng còn có những mặt tích cực, hợp lý đáng học hỏi.

72

Dựa trên quan niệm triết học và đạo đức học Mác –Lênin để nhìn nhận, chủ

nghĩa hiện sinh bên cạnh những hạn chế đã có những đóng góp nhất định cho

đạo đức học. Tuy vậy, chúng ta cần xem xét, đánh giá một cách khách quan

để thấy được, tiếp thu những hạt nhân hợp lý và loại bỏ những nhân tố không

phù hợp trong đạo đức học hiện sinh để đạo đức học Mác –Lênin ngày càng

73

hoàn thiện hơn.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Những quan niệm nền tảng của đạo đức học như thiện, ác, lương tâm,

trách nhiệm.... được Sartre đề cập đến thông qua các tác phẩm của mình.

J.P.Sartre lý giải: thiện là sự thể hiện nguyên tắc của tự do và trách nhiệm. Ác

là sự từ bỏ thiện. Không trung thực là thông tin xuyên tạc tình hình thực tế và

định hướng chống lại các lý tưởng về tự do. Lương tâm là sự tự đánh giá của

cá nhân trên phương diện tính cấp bách của nó đối với tự do. Tội lỗi là sự từ

bỏ trách nhiệm. Hèn nhát là sự che dấu tự do nhờ dựa vào hoàn cảnh. Bổn

phận là việc phục tùng những giá trị mà bản thân mình lựa chọn.

Quan điểm đạo đức học của Sartre được hình thành và phát triển trong

bối cảnh xã hội khủng hoảng, nó phản ánh những bế tắc của xã hội tư bản,

những mâu thuẫn xã hội không giải quyết được. Nó là tiếng nói tố cáo xã hội

tư bản đã làm tha hoá con người, đồng thời cũng là sự phản ứng chống lại xã

hội ấy. Đạo đức học hiện sinh của Sartre cũng góp tiếng nói trong việc phê

phán những giá trị cũ, lỗi thời, những nguyên tắc tập quán xã hội lạc hậu trói

chặt, kìm hãm con người, làm con người không phát huy được tính năng động

sáng tạo của mình. Đạo đức học của J.P.Sartre bên cạnh những giá trị còn có

những hạn chế nhất định. Do vậy, chúng ta phải tiếp cận quan điểm đạo đức

học của chủ nghĩa hiện sinh nói chung nói chung và của Sartre nói riêng trên

74

tinh thần biện chứng, kế thừa có chọn lọc.

KẾT LUẬN

Quan niệm về đạo đức học là một trong những bộ phận cơ bản trong

chủ nghĩa hiện sinh, một học thuyết về con người và đời người. Triết lí hiện

sinh của Sartre nổi lên không chỉ như một học thuyết, tư tưởng triết học mà

còn là một khuynh hướng sáng tác trong văn học những năm đầu thế kỉ XX.

Sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện sinh lúc bấy giờ như là một sự cứu vớt linh

hồn cho con người sống trong một xã hội thiếu vắng niềm tin. Chính vì lẽ đó

mà nó phát triển rất nhanh rộng với những ảnh hưởng đa chiều, có tích cực

lẫn tiêu cực. Thuyết hiện sinh của Sartre không phải là một học thuyết vô thần

theo nghĩa nó tận lực chứng minh rằng thượng đế không hiện hữu. Đúng hơn

nó tuyên bố rằng: cho dù thượng đế có hiện hữu thì cũng chẳng có gì thay đổi

cả. Và con người cần tìm lại chính mình bởi không ai có thể cứu con người ra

khỏi những nơi tối tăm ngoài bản thân mình. Đối với Sartre, con người lúc

nào cũng ở ngoài bản thân mình, và chính vì sự tự do đó mà con người hiện

hữu. Mặt khác, chính nhờ sự theo đuổi những lí tưởng, những mục đích đặt ra

mà con người hiện hữu. Không có một vũ trụ nào khác ngoài vũ trụ người,

vũ trụ của tính chủ thể người.

Hiện nay, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền

kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt trong bối cảnh

hội nhập với thế giới đa dạng các nền văn hoá, chúng ta phải làm giàu đẹp văn

hoá Việt Nam lấy con người là trung tâm. Không thể phủ nhận rằng, trong xu

thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, chúng ta đã đạt được

những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá.... Nhưng,

song song với quá trình phát triển đó đã nảy sinh nhiều vấn đề đe dọa sự ổn

định chính trị, gây ra sự biến chuyển của các giá trị truyền thống dân tộc.

Những lời ăn, tiếng nói, hành vi và nếp sống theo truyền thống, phong tục tập

quán mờ nhạt dần và phong cách “Tây hoá” ngày càng đậm nét... Trên thực

75

tế, quan niệm đạo đức học của chủ nghĩa hiện sinh nói chung và của J.P.Sartre

nói riêng, tương tác với những giá trị văn hoá truyền thống phương Đông, với

các tư tưởng Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá thật sự khoa học

nội dung, ý nghĩa và hạn chế của triết học hiện sinh là rất cần thiết đối với

nhận thức và thực tiễn của chúng ta.

Quan điểm đạo đức học của Sartre được hình thành và phát triển trong

bối cảnh xã hội khủng hoảng, nó phản ánh những bế tắc của xã hội tư bản,

những mâu thuẫn xã hội không giải quyết được. Nó là tiếng nói tố cáo xã hội

tư bản đã làm tha hoá con người, đồng thời cũng là sự phản ứng chống lại xã

hội ấy. Đạo đức học hiện sinh của Sartre cũng góp tiếng nói trong việc phê

phán những giá trị cũ, lỗi thời, những nguyên tắc tập quán xã hội lạc hậu đã

kìm hãm con người, làm con người không phát huy được tính năng động, chủ

động, tích cực sáng tạo của mình.

Chủ nghĩa hiện sinh nói chung và đạo đức học hiện sinh nói riêng bên

cạnh một số giá trị, còn có những hạn chế nhất định. Quan niệm này đã đề cao

tự do cá nhân một cách thái quá và không chú ý đến những giá trị chuẩn mực

xã hội, những giá trị truyền thống, phong tục tập quán của các dân tộc. Chủ

nghĩa hiện sinh cũng đặt ra một số vấn đề đạo đức học quan trọng như thiện,

ác, lương tâm, trách nhiệm cá nhân, tự do lựa chọn, ý nghĩa cuộc sống, bản

chất con người v.v..

J.P.Sartre lý giải những quan niệm nền tảng của đạo đức học như:

thiện, ác, lương tâm, trung thực, tội lỗi, hèn nhát. Thiện thể hiện nguyên tắc

của tự do và trách nhiệm. Ác là sự từ bỏ thiện. Không trung thực là thông tin

xuyên tạc tình hình thực tế và định hướng chống lại các lý tưởng về tự do.

Lương tâm là sự tự đánh giá của cá nhân trên phương diện tính cấp bách của

nó đối với tự do. Tội lỗi là sự từ bỏ trách nhiệm. Hèn nhát là sự che dấu tự do

nhờ dựa vào hoàn cảnh. Bổn phận là việc phục tùng những giá trị mà bản thân

76

mình lựa chọn. [16, 52]

Tuy nhiên, cách giải quyết vấn đề được đưa ra chưa thật hợp lý: Đạo

đức học hiện sinh quên mất vai trò quan trọng của điều kiện sinh hoạt vật

chất, của môi trường xã hội loài người. Thêm nữa, những giá trị đạo đức mà

các triết gia hiện sinh đề cập tới mới chỉ là giá trị do mỗi cá nhân tự tạo ra trên

cơ sở tự do lựa chọn hành vi cho mình, do đó còn mang tính chủ quan. Có thể

nhận định rằng, đạo đức học hiện sinh có xu hướng đề cao các giá trị của chủ

nghĩa cá nhân.

Đạo đức học hiện sinh bên cạnh những hạn chế còn có những giá trị

nhất định. Do vậy, chúng ta phải tiếp cận triết học hiện sinh nói chung và

quan niệm đạo đức học của chủ nghĩa hiện sinh nói riêng trên tinh thần biện

chứng, kế thừa có chọn lọc, nghĩa là phải loạt bỏ những yếu tố tiêu cực và giữ

lại “hạt nhân hợp lý”, phải biết tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại và

gìn giữ các giá trị truyền thống của dân tộc. Có như vậy, chúng ta mới nhìn

77

nhận và hiểu thực chất của vấn đề này.

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thị Nguyệt Anh (2015), Chủ nghĩa hiện sinh của Jean-Paul Sartre

trong tiểu thuyết Buồn nôn, Luận văn ThS. Văn học, Trường Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

2. Lê Thị Tuyết Ba, Vấn đề bảo vệ các giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị

trường ở Việt Nam, http://www.chungta.com

3. Phạm Vĩnh Cư, Từ Thị Loan (dịch) (2004), Triết học đạo đức, Nxb Văn

hoá - Thông tin, Hà Nội.

4. Trần Thiện Đạo (2001), Chủ nghĩa hiện sinh và thuyết cấu trúc, Nxb Văn

học, Hà Nội.

5. Trần Thị Điểu (2008), Tính đặc thù của vấn đề đạo đức trong triết học hiện

sinh, Luận văn ThS. Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân

văn, Hà Nội.

6. Trần Thị Điểu (2012), Tư tưởng về trách nhiệm trong triết học hiện sinh,

Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam.

7. Trần Thái Đỉnh (1968). Triết học nhập môn, Ra Khơi, Sài Gòn.

8. Phạm Văn Đức (2006), “Toàn cầu hóa và sự tác động của nó đối với Việt

Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 3(178), Viện Triết học.

9. Phan Huy Đường, (2010), Jean-Paul Sartre - Nỗi đam mê làm người của

thế kỷ 20, http://www.chungta.com

10. Lưu Phóng Đồng (2004), Giáo trình hướng tới thế kỷ XXI - Triết học

phương Tây hiện đại (Lê Khánh Trường dịch), Nxb Lý luận chính trị.

11. Nguyễn Hào Hải (2001), Một số học thuyết triết học phương Tây hiện đại,

78

Nxb Văn hóa thông tin.

12. Nguyễn Vũ Hảo (2018), Giáo trình Triết học phương Tây hiện đại, Nxb

Đại Học Quốc Gia Hà Nội.

13. Nguyễn Vũ Hảo (2007), Những vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX

(Kỷ yếu hội thảo quốc tế), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

14. Nguyễn Khắc Hiếu (1999), Đạo đức học Mác –Lênin, khoa Triết học,

trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.

15. Đỗ Minh Hợp (1996), “Tính chủ quan trong triết học phương Tây hiện

đại”, Tạp chí triết học, số 1, Viện Triết học.

16. Đỗ Minh Hợp (2005), “Tư tưởng đạo đức học của Gi. P. Xáctơrơ”, Tạp

chí triết học, số 174, Viện Triết học.

17. Đỗ Minh Hợp (2005), Nhân học triết học hiện đại với vấn đề tồn tại

người, http://www.chungta.com

18. Đỗ Minh Hợp (2005), “Ph. Nítsơ –Người “Khuấy đảo”triết học Tây Âu

nửa cuối thế kỷ XIX”, Tạp chí Triết học, số 2.

19. Đỗ Minh Hợp, (2007), Tư tưởng đạo đức học của F. Nietzsche

trong:“Những vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX” (Kỷ yếu Hội thảo

Quốc tế), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

20. Đỗ Minh Hợp (2008), Tự do và trách nhiệm trong đạo đức học hiện sinh,

http://www.chungta.com

21. Đỗ Minh Hợp (2009), Tự do và trách nhiệm cá nhân trong “Tồn tại và hư

vô” của J. -P. Sartre, http://www.chungta.com

22. Đỗ Minh Hợp (2006), Chủ nghĩa hiện sinh, nhìn từ góc độ văn hóa học,

79

http://www.chungta.com

23. Nguyễn Thị Như Huế (2007), Quan niệm đạo đức học trong chủ nghĩa

hiện sinh, Luận văn ThS. Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn, Hà Nội.

24. Võ Công Liêm (2011), Hiện hữu và hư không (L’ÊTRE Et NÉANT /

BEING And NOTHINGNESS), http://newvietart.com

25. Sartre, J. P (1943), Ruồi, Nxb Sân khấu, Hà Nội.

26. Bùi Văn Nam Sơn (2015), Thuyết hiện sinh: "Tiến lên để sống",

http://www.chungta.com

27. Samuel Enoch Stumpf & Donal C.Abel (Lê Văn Hy dịch) (2004), Nhập

môn triết học phương Tây, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.

28. Samuel Enoch Stumpf (2004), Lịch sử triết học và các luận đề (Đỗ Văn

Thuấn và Lê Văn Hy dịch), Nxb Lao động, Hà Nội.

29. Đỗ Ngọc Thạch (2011), Sartre và văn học, http://newvietart.com

30. Hoàng Văn Thắng (2004), “Quan niệm của GI.P.Xáctơrơ về con người

trong "Hiện sinh một nhân bản thuyết"”, Tạp chí Triết học, số 9 (160), Viện

Triết học.

31. Vương Văn Tín (2015), Tư tưởng của J.P.Sartre trong tác phẩm “Ruồi”

(Les Mouches), Luận văn ThS. Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn, Hà Nội.

32. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Luật khoa

80

học và công nghệ Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.