TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

KHOA NGỮ VĂN

NGUYỄN THỊ NGÂN

THƠ NGUYỄN DUY

TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG

TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học

TS. LA NGUYỆT ANH

HÀ NỘI - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi, các số

liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong khóa luận là trung thực, chưa từng được

công bố trong bất cứ một công trình nào khác.

Hà Nội, tháng 05 năm 2016

Tác giả

Nguyễn Thị Ngân

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình triển khai khóa luận tôi nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn

của tiến sĩ La Nguyệt Anh, các thầy cô trong Tổ Bộ môn văn học Việt Nam. Tôi

xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Tiến sĩ, giảng viên La Nguyệt Anh, cùng toàn

thể thầy, cô giáo. Do khuôn khổ thời gian có hạn, năng lực nghiên cứu của bản

thân còn hạn chế, chắc chắn không tránh khỏi sự thiếu sót, tôi mong tiếp tục

nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô cùng toàn thể bạn bè để khóa luận được

hoàn thiện hơn.

Hà Nội, tháng 05 năm 2016

Tác giả

Nguyễn Thị Ngân

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU…….………………………………………………….……………….1

1. Lí do chọn đề tài…….. …………………………………..…………………....1

2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………………...3

3. Mục đích nghiên cứu……………………………………………….. …..…....6

4. Nhiệm vụ nghiên cứu …………………………..…………………………... 6

5. Phương pháp nghiên cứu………………………………...…………………....6

6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………..………………….…......7

7. Đóng góp của khóa luận……………………………………………………... 8

8. Cấu trúc khóa luận…………………………………………………………... 8

NỘI DUNG……………………………………………………………………. 9

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ………………...……………...... 9

1.1.Những tiền đề khoa học……………………………………….…………… 9

1.1.1. Khái niệm văn hóa, văn học………………………………………….......9

1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa - văn học…………………………………… 12

1.2. Nguyễn Duy và quá trình sáng tác……………………………..……….....13

1.2.1. Giới thiệu về tác giả Nguyễn Duy………………………………...…… 13

1.2.2. Quá trình sáng tác của Nguyễn Duy…………………………………….14

1.3. Khảo sát sáng tác của Nguyễn Duy trong chương trình Ngữ văn trung học

cơ sở và trung học phổ thông………………………………………………… 15

CHƯƠNG 2. DẤU ẤN VĂN HÓA TRONG ÁNH TRĂNG CỦA NGUYỄN

DUY......................................................................................................................….18

2.1. Văn hóa làng và sinh thái ………………………………………………....18

2.1.1. Văn hóa làng quê…………………………………………….…… ..…...18

2.1.2. Văn hóa sinh thái…………………………………………….…………. 23

2.2. Văn hóa đô thị và sự thức tỉnh ý thức môi sinh…………..….…………….28

2.2.1. Văn hóa đô thị…………………………………..………….……………28

2.2.2. Sự thức tỉnh ý thức môi sinh………………..……………………….…..31

CHƯƠNG 3. DẤU ẤN VĂN HÓA TRONG ĐÒ LÈN CỦA NGUYỄN

DUY……………………………………………………………………………35

3.1. Văn hóa truyền thống với lễ hội, phong tục tập quán……………………...35

3.1.1. Văn hóa lễ hội…………………………………………………………... 35

3.1.2. Phong tục, tập quán quê hương………………………………………… 39

3.2. Văn hóa hiện đại với những vấn đề thế sự……………………………….. 44

3.2.1. Văn hóa hiện đại………………………………………………………... 44

3.2.2. Những vấn đề thế sự……………………………………………………. 47

KẾT LUẬN…………………………………………………………………... 55

TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………..

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1 . Cơ sở lí luận

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực

của sự phát triển, là linh hồn sức sống của mỗi quốc gia dân tộc. Có thể thấy,

trong thế giới văn minh văn hóa đóng vai trò vô cùng quan trọng. Văn hóa bao

gồm nhiều thành tố, trong đó có văn học. Trong lĩnh vực nghệ thuật, văn học

được xem là nhân tố quan trọng kết tinh văn hóa . Mỗi tác phẩm văn chương đều

chứa đựng trong nó giá trị văn hóa của dân tộc và thời đại. Chính vì thế, văn học

là thành tố quan trọng của văn hóa.

Quan hệ văn học - văn hóa là một vấn đề có tính lí luận, vừa có ý nghĩa thực

tiễn trong nghiên cứu văn hóa, văn học. Việc nghiên cứu văn học trong mối

quan hệ với văn hóa lâu nay đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đề cập đến.

Song để soi chiếu vào các tác phẩm cụ thể, sự nghiệp sáng tác của một nhà văn

cụ thể chúng tôi thấy còn rất ít. Đề tài này giúp tìm hiểu mối quan hệ giữa văn

hóa với văn học đồng thời cho thấy dấu ấn văn hóa trong các tác phẩm văn học.

1.2. Cơ sở thực tiễn

Nguyễn Duy là nhà thơ thuộc thế hệ trẻ trong thơ ca kháng chiến chống

Mĩ và là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại.

Nguyễn Duy làm thơ khá sớm, nhưng đến năm 1973 ông mới được độc giả biết

đến với chùm thơ đoạt giải nhất cuộc thi thơ của Tuần báo Văn nghệ: Hơi ấm ổ

rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt Nam. Từ đó những tập thơ của Nguyễn Duy lần

lượt đến với độc giả như: Cát trắng (1973), Ánh trăng (1984), Mẹ và em (1987),

1

Đường xa (1989), Về (1994),… Có thể nói, ông đã có những đóng góp quan

trọng cho nền thơ Việt Nam, góp phần xây dựng trong tâm hồn thế hệ trẻ Việt

Nam tình cảm yêu mến, quý trọng, nâng niu, gìn giữ bản sắc của dân tộc mình.

Những vần thơ của Nguyễn Duy luôn mang đậm dấu ấn văn hóa của

chính mảnh đất quê hương ông với những gì giản dị nhất, đời thường nhất. Tìm

hiểu Thơ Nguyễn Duy trong trường phổ thông từ góc nhìn văn hóa là một

hướng đi mới giúp chúng ta có thể dễ dàng tiếp cận thơ Nguyễn Duy từ những

yếu tố văn hóa của truyền thống dân tộc. Trong nhà trường phổ thông hiện nay,

việc tìm hiểu, đánh giá tác phẩm từ góc nhìn văn hóa còn khá mới mẻ. Từ nhiều

năm nay, thơ Nguyễn Duy được đưa vào giảng dạy trong hệ thống nhà trường

phổ thông, từ tiểu học đến trung học phổ thông với các bài: Tre Việt Nam, Ngồi

buồn nhớ mẹ ta xưa, Ánh trăng, Đò Lèn. Song phần lớn sự nghiên cứu đó chỉ

mới ở mức độ xem xét giá trị hiện thực, chỉ tập trung khai thác những nét đặc

sắc về nội dung và nghệ thuật mà chưa chú ý nhiều đến yếu tố văn hóa thể hiện

trong tác phẩm. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài Thơ Nguyễn Duy trong trường

phổ thông từ góc nhìn văn hóa có một ý nghĩa thực tiễn quan trọng: Tìm hiểu

mối quan hệ giữa văn hóa và văn học trong thơ Nguyễn Duy giúp ta hiểu thêm

vẻ đẹp của thiên nhiên, mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, văn hóa

truyền thống cùng những phong tục tập quán, lễ hội và văn hóa hiện đại của dân

tộc Việt. Từ đó, góp thêm một cái nhìn khái quát về sự nghiệp thơ ca của nhà

thơ Nguyễn Duy. Thấy được sự đóng góp và vị thế của Nguyễn Duy trong

nguồn mạch phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại. Đặc biệt vận dụng vào việc

giảng dạy thơ Nguyễn Duy ở nhà trường phổ thông, hướng dẫn học sinh chiếm

2

lĩnh tri thức văn học.

Tìm hiểu Thơ Nguyễn Duy trong trường phổ thông từ góc nhìn văn hóa

không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn, góp phần nâng cao

hiệu quả giảng dạy thơ Nguyễn Duy trong trường phổ thông.

2. Lịch sử vấn đề

Có thể nói người có công phát hiện và giới thiệu thơ Nguyễn Duy là Hoài

Thanh. Ông đã nhận ra “một thế giới quen thuộc” và cảm nhận trong thơ Nguyễn

Duy “cái hương vị cuộc sống xưa trên đất nước chúng ta”. Sau bài viết của Hoài

Thanh, xuất hiện một số bài phê bình nghiên cứu về thơ Nguyễn Duy trên các báo và

tạp chí: Văn học, Nhà văn, Văn nghệ, Tiền phong, Giáo viên nhân dân. Nhìn một

cách bao quát, những bài viết, nghiên cứu về Nguyễn Duy gồm các tiểu luận, bài

báo, các luận văn. Có thể chia các bài viết này thành hai loại: loại bài nghiên cứu

khái quát thơ Nguyễn Duy và loại bài tìm hiểu những bài thơ, tập thơ tiêu biểu.

Trong các bài nghiên cứu khái quát thơ Nguyễn Duy của Hoài Thanh, Lại

Nguyên Ân, Nguyễn Thụy Kha, Vương Trí Nhàn, Nguyễn Quang Sáng, Chu

Văn Sơn, Vũ Văn Sỹ, Nguyễn Trọng Tạo, Đỗ Minh Tuấn, Phạm Thu Yến, các

tác giả đều có khuynh hướng đi sâu tìm hiểu phong cách thơ Nguyễn Duy.

Về phương diện đề tài, Nguyễn Quang Sáng nêu ý kiến: “... Trong thơ Duy

có hầu hết gương mặt các miền đất với những cảnh sắc, thần thái riêng” [20,

tr.91]. Tế Hanh cho rằng: “Những câu thơ viết về anh bộ đội, về cuộc đời quân

nhân vẫn là những câu thơ thấm thía nhất ” [5, tr.3]. Vũ Văn Sỹ có những nhận

xét khá tinh tế: “Nguyễn Duy thường nắm bắt những cái mong manh nhưng vững

chắc trong đời: chút rưng rưng của ánh trăng, một tiếng tắc kè lạc về giữa phố,

một dấu chân của lấm tấm ruộng bùn,...Và rồi hồn thơ Nguyễn Duy neo đậu được

ở đó” [20, tr.69]. Còn Vương Trí Nhàn đưa ra một nhận xét có ý nghĩa khái quát:

3

“Bao dung nên giàu có” [11, tr.280].

Về phương diện cảm hứng chủ đạo, Vũ Văn Sỹ đã mượn ngay câu thơ của

Nguyễn Duy để kết luận về cảm hứng chủ đạo trong thơ ông: “Nguyễn Duy-

người thương mến đến tận cùng chân thật” [20]. Nguyễn Quang Sáng nêu nhận

xét cụ thể hơn: “Nguyễn Duy gắn bó máu thịt với đất nước mình bằng tình cảm

rất cụ thể với người dân... Thơ Nguyễn Duy có niềm tự hào chính đáng về nhân

dân mình, cùng với nỗi buồn thương chính đáng”. Trong các bài phê bình

nghiên cứu về thơ Nguyễn Duy, thì bài viết Nguyễn Duy - thi sĩ thảo dân của

Chu Văn Sơn là một bài viết công phu, cung cấp cho người đọc một cái nhìn về

thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy. Trong đó hai từ “thảo dân” được dùng với

nghĩa: “Cái từ xưa này đang được làm mới, với những sắc thái thú vị của thì

hiện tại, bởi một phong cách ngôn ngữ mà Duy đang phải lòng- ngôn ngữ “cơm

bụi”. Từ đó biện giải “Nguyễn Duy là thi sĩ thảo dân”, chỉ ra bản chất “thảo

dân” ấy ở cảm hứng sáng tác, ngôn ngữ, giọng điệu, thể thơ lục bát của Nguyễn

Duy [16, tr.38-53].

Trong các bài viết về những bài thơ, tập thơ tiêu biểu của Nguyễn Duy,

các tác giả đã phát hiện được nét riêng độc đáo của từng tác phẩm. Trong Hơi

ấm ổ rơm, Vũ Quần Phương nhận thấy ở đó “tấm lòng thơm thảo, nhường cơm

xẻ áo của nhân dân ta”. Còn Lê Trí Viễn khi nói về bài Tre Việt Nam đã khẳng

định đó là những biểu hiện của “phẩm chất con người”. Đỗ Lai Thúy lại nhận

thấy ở thơ Nguyễn Duy sự “giải cổ tích hóa”, là “cốt cách hiện đại” [24, tr.379-

384]. Trong Ánh trăng, Nguyễn Bùi Vợi đã cảm nhận: “Nỗi ăn năn nhân bản,

thức tỉnh tâm linh, làm đẹp con người. Tập thơ của Nguyễn Duy được nhiều nhà

phê bình chú ý là Ánh trăng –tập thơ được nhận giải thưởng của Hội Nhà Văn

1984. Nếu như Lê Quang Trang chú ý đến sự thống nhất giữa những yếu tố đối

4

lập và sở trường thơ lục bát thì Từ Sơn lại tâm đắc với chất hiện thực, chất dân

tộc và những cảm xúc nồng nàn. Nhận xét về nội dung tập thơ, Từ Sơn viết:

“Ánh trăng chiếm số lượng lớn vẫn là những bài thơ viết về người lính, về

những điều đã cảm nhận trên các nẻo đường chiến tranh” [18, tr.2]. Cùng ý kiến

đó, Lê Quang Hưng đã đưa ra một cái nhìn tổng quát về tập thơ Ánh trăng: “Ánh

trăng trước tiên vẫn là tiếng nói của một người lính, tiếng nói tìm đến những

người lính – những đồng đội để sẻ chia, trò chuyện… Đúng như Nguyễn Duy

tâm sự: anh luôn cảm thấy mình mắc nợ cuộc sống, mắc nợ những đồng đội…”

[7, tr.156]. Trên cơ sở đó, Lê Quang Hưng chỉ ra sức hấp dẫn của tập thơ: “Ánh

trăng được nhiều bạn đọc yêu thích trước hết vì nó thực sự là một phần của một

cuộc đời, là tiếng nói của một cây bút có trách nhiệm trước cuộc sống xây dựng

và chiến đấu sôi động trên đất nước ta những năm qua” [7, tr.158]. Đến với thơ

Nguyễn Duy, nếu như Lại Nguyên Ân tập trung tìm hiểu sự cách tân thể loại và

giọng điệu thì Lê Quang Hưng lại đối sánh Ánh trăng với các tập thơ trước đó

của ông để khẳng định đây là: “Một bước tiến dài”. Nhà thơ Tế Hanh cũng có

nhận xét khi đọc tập thơ Ánh trăng: “Đọc thơ Nguyễn Duy trước hết ta thấy anh

là một người lính đã chiến đấu ở nhiều mặt trận. Hiện nay anh không phải là

quân nhân nhưng những câu thơ anh viết về bộ đội, về cuộc đời quân nhân vẫn

là những câu thơ thấm thía nhất” [5, tr.3].

Bên cạnh đó, có thể kể đến các ý kiến nhận xét về bài thơ Đò lèn. Trịnh

Thanh Sơn đọc bài Đò Lèn, cho đó là: “Những thước phim quay chậm” về nỗi

gian truân của người bà, khiến độc giả “chỉ đọc thôi đã muốn trào nước mắt” [17,

tr.14]. Sách giáo khoa Ngữ văn 12, phần Tiểu dẫn cũng giới thiệu: “Bài thơ Đò

Lèn được viết năm 1983, trong một dịp nhà thơ trở về quê hương, sống với những

hồi ức đan xen nhiều buồn vui của thời thơ ấu”. Gợi ý từ bài đọc thêm này của

5

trong Ngữ văn 12 như một giới thuyết mang tính chủ đề của Đò Lèn.

Như vậy, qua các bài nghiên cứu, phê bình thơ Nguyễn Duy nêu trên,

chúng tôi nhận thấy các tác giả đã chỉ ra được một số đặc điểm nổi bật về nội

dung, nghệ thuật trong thơ Nguyễn Duy. Nhìn chung, những bài viết trên mới đi

vào tìm hiểu một bài thơ, tập thơ hoặc chỉ dừng lại nghiên cứu một khía cạnh, một

mặt nào đó trong thơ Nguyễn Duy. Hiện chưa có một công trình nào đi sâu

nghiên cứu, khảo sát toàn diện và có hệ thống về thơ Nguyễn Duy từ góc nhìn văn

hóa.Vì thế đó là phần đất trống mà chúng tôi hy vọng có thể khai phá. Với khóa

luận này, chúng tôi hy vọng góp thêm tiếng nói tìm hiểu một cách có hệ thống về

thơ của Nguyễn Duy, chỉ ra nét đặc sắc của thơ Nguyễn Duy dưới góc nhìn văn

hoá. Tuy nhiên, tất cả những bài viết ấy đều là những gợi mở quý giá cho chúng

tôi khi thực hiện đề tài khóa luận.

3. Mục đích nghiên cứu

- Khẳng định, củng cố một khía cạnh nghiên cứu và tiếp nhận thơ Nguyễn

Duy trong nhà trường phổ thông.

- Góp phần khẳng định sự độc đáo trong phong cách nghệ thuật của

Nguyễn Duy qua tìm hiểu thơ Nguyễn Duy trong nhà trường phổ thông từ góc

nhìn văn hóa.

- Góp phần phục vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu tác phẩm văn học của

Nguyễn Duy trong nhà trường phổ thông nói riêng và các tác phẩm văn học nói chung.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tập hợp các vấn đề lý thuyết có liên quan đến đề tài; Khảo sát, phân loại

các yếu tố văn hóa ảnh hưởng trong thơ Nguyễn Duy.

- Phân tích, đánh giá các yếu tố văn hóa ảnh hưởng trong thơ Nguyễn Duy

6

để rút ra kết luận về thơ Nguyễn Duy trong nhà trường phổ thông từ góc nhìn văn

hóa, phục vụ cho việc nghiên cứu, tiếp nhận và giảng dạy tác phẩm trong nhà

trường phổ thông.

5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp

Với phương pháp này, chúng tôi vận dụng để có cách nhìn, cách đánh giá

vừa cụ thể, vừa khái quát những tầng nghĩa tiềm tàng của văn bản tác phẩm.

5.2. Phương pháp cấu trúc - hệ thống

Sử dụng phương pháp này để xem xét những bình diện, những yếu tố và

những biểu hiện của mối quan hệ văn hóa - văn học.

5.3. Phương pháp so sánh

So sánh thơ Nguyễn Duy với một số tác giả khác để thấy dấu ấn văn hóa

nổi bật trong thơ Nguyễn Duy. Từ đó khẳng định giá trị của yếu tố văn hoá độc

đáo đặc sắc trong thơ ông.

5.4. Phương pháp liên ngành

Chúng tôi sử dụng phương pháp này để soi chiếu thơ Nguyễn Duy ở nhiều

góc độ và tìm ra những nét nổi bật nhất trong mối quan hệ văn hóa - văn học.

6. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

6.1. Đối tượng nghiên cứu

Vận dụng mối quan hệ văn học - văn hóa để khai thác thơ Nguyễn Duy từ

góc nhìn văn hóa, trên bình diện nội dung: Văn hóa làng, văn hóa sinh thái, văn

hóa đô thị, sự thức tỉnh ý thức môi sinh, văn hóa truyền thống với những lễ hội,

phong tục, tập quán và văn hóa hiện đại với những vấn đề thế sự.

6.2. Phạm vi nghiên cứu

Trong phạm vi của đề tài khóa luận, chúng tôi giới hạn khảo sát những tác

7

phẩm thơ của Nguyễn Duy trong nhà trường phổ thông gồm: Ánh trăng, Đò lèn.

Ngoài ra, để có cơ sở đối sánh, chúng tôi còn nghiên cứu tác phẩm của các nhà

thơ khác. Qua đó thấy được nét tương đồng và đóng góp riêng của Nguyễn Duy.

7. Đóng góp của khóa luận

- Khóa luận của chúng tôi là một công trình nghiên cứu có hệ thống về

mối quan hệ giữa văn hóa và văn học thông qua thơ của Nguyễn Duy. Tìm hiểu

dấu ấn văn hóa trong thơ Nguyễn Duy, chúng tôi muốn chỉ ra vai trò của văn

hóa đối với văn học. Đồng thời qua đó, ta sẽ hiểu rõ hơn về quan hệ giữa văn

hóa và sáng tạo văn học.

- Khóa luận góp phần khẳng định bản sắc riêng của thơ Nguyễn Duy

trong tiến trình của thơ ca Việt Nam hiện đại. Khóa luận góp phần giúp người

tiếp nhận nhận ra giá trị của văn hóa, của sinh thái đối với con người. Bồi đắp lòng

yêu thiên nhiên và lòng tự hào về những giá trị văn hóa của dân tộc, góp phần nâng

cao ý thức giữ gìn bản bắc văn hóa Việt.

- Kết quả của khóa luận sẽ góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu, giảng

dạy, học tập thơ Nguyễn Duy ở nhà trường phổ thông.

8. Cấu trúc của khóa luận

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung khóa luận được triển khai trong

ba chương:

Chương 1: Những vấn đề chung.

Chương 2: Dấu ấn văn hóa trong Ánh Trăng của Nguyễn Duy.

8

Chương 3: Dấu ấn văn hóa trong Đò lèn của Nguyễn Duy.

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Những tiền đề khoa học

1.1.1. Khái niệm văn hóa, văn học

- Khái niệm văn hóa

Văn hóa là một hiện tượng đa dạng và phức tạp. Tùy theo góc độ nghiên

cứu, khái niệm văn hóa được trình bày khác nhau. Định nghĩa của UNESSCO

về văn hóa: “Văn hóa là tổng thể nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và

cảm xúc, quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã

hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền

cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những tập tục và tín ngưỡng”

Ở Việt Nam khái niệm văn hóa cũng được quan tâm, bàn đến.

Theo Từ điển Tiếng Việt, văn hóa được hiểu là: “tổng thể nói chung

những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình

lịch sử”.

Theo PGS - TS Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các

giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình

hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự

nhiên và xã hội” [23, tr.10].

- Khái niệm văn học

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, khái niệm văn học được khái quát như

sau: “Văn học là loại hình nghệ thuật sáng tạo bằng ngôn từ”. Khái niệm văn

9

học bao gồm cả văn học dân gian - được sáng tác và lưu truyền bằng miệng từ

đời này sang đời khác, và văn học viết - được sáng tác và lưu truyền dưới hình

thức văn bản viết.

Nghệ thuật là một hình thái ý thức đặc thù thuộc thượng tầng kiến trúc, liên

hệ mật thiết với các hình thái ý thức xã hội khác nhau như chính trị, triết học, đạo

đức, tôn giáo…Về phương diện này văn học là sự phản ảnh của đời sống xã hội

thể hiện sự nhận thức và sáng tạo của con người. Bản chất xã hội lịch sử của văn

học với tư cách là hình thái ý thức xã hội đặc thù được xác định bằng các khái

niệm như: tính hiện thực, tính nhân loại, tính giai cấp, tính tư tưởng, tính khuynh

hướng, tính đảng, tính nhân dân,… Nhưng khác với các hình thái ý thức xã hội

nói trên, văn học có những đặc trưng độc đáo của bộ môn nghệ thuật thể hiện ở

đối tượng nhận thức, ở nội dung và phương thức biểu đạt hình tượng, ở chất liệu

sáng tạo của nó. Văn học lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm. Văn

học nhận thức con người với toàn bộ tính tổng hợp, toàn vẹn, sống động trong các

mối quan hệ đời sống phong phú và phức tạp của nó, trên phương diện thẩm mĩ.

Trong tác phẩm văn học, nhà văn không chỉ nhận thức chân lí khách quan mà còn

bộc lộ tư tưởng và tình cảm, ước mơ và khát vọng của mình đối với con người và

cuộc sống. Do đó, Nội dung của văn học là sự thống nhất biện chứng giữa

phương diện chủ quan và phương diện khách quan.

Đối tượng và nội dung đặc thù đòi hỏi nhà văn phải có phương thức

chiếm lĩnh và biểu đạt đặc thù, đó là hình tượng nghệ thuật. Tính hình tượng là

dấu hiệu đặc trưng cơ bản giúp ta phân biệt văn học với những tác phẩm cũng

diễn đạt bằng lời văn, cũng dùng văn chương nhưng không phải là văn học.

Hình tượng nghệ thuật làm cho văn học gần gũi với các loại hình nghệ thật

khác. Tuy nhiên do mỗi loại hình nghệ thuật sử dụng một loại chất liệu khác

10

nhau, cho nên hình tượng của chúng có những đặc điểm riêng.

Do lấy ngôn từ làm chất liệu, văn học chỉ xây dựng được hình tượng

“phi vật thể”, có khả năng tác động vào trí tuệ, vào liên tưởng của con người.

Mặt khác, chính chất liệu ngôn từ giúp văn học đạt được tính vạn năng trong

việc chiếm lĩnh đời sống. Văn học chẳng những chiếm lĩnh được tất cả những

gì mắt thấy, tai nghe bằng cái nhìn thị giác và thính giác mà còn tái hiện được

cả mùi, vị, nắm bắt được cả những điều mơ hồ, vô hình nhưng có thật trong

cảm giác của con người. Văn học có thể phản ánh quá trình vận động không

ngừng của đời sống trong không gian và thời gian ở bất kì giới hạn nào. Với

chất liệu ngôn từ, văn học còn có khả năng tái hiện lời nói và thế giới tư tưởng

của con người.

1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa – văn học

Có nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam đã quan tâm đề cập tới. Có thể kể

đến những công trình sau:

Hồ Chí Minh trong Bàn về văn hóa, văn học thường trăn trở, khuyên nhủ

văn nghệ sĩ phải tìm hiểu sâu vốn văn hóa dân tộc, làm sao để quần chúng nhân

dân tiếp nhận được văn hóa: “Văn học và nghệ thuật phải luôn luôn tìm tòi

những con đường để làm sao có thể diễn tả một cách chân thực hơn và chân

chính hơn cho nhân dân nghe về những mối lo âu và những suy nghĩ của nhân

dân”.

Trần Đình Sử trong bài viết Vai trò sáng tạo văn hóa của văn học cho

rằng - vai trò sáng tạo ấy thể hiện rõ nhất trên bốn phương diện: 1/ Lấy việc sáng

tạo, biểu hiện con người làm đối tượng trung tâm, văn học trước hết phát huy vai

trò sáng tạo những mô hình nhân cách; 2/ Văn học có vai trò “phê phán văn

hóa”; 3/ Văn học có vai trò lựa chọn văn hóa; 4/ Văn học có vai trò sáng tạo văn

11

hóa [19, tr.891-894].

Phan Ngọc trong bài viết Về mối quan hệ giữa văn học và văn hóa, đã so

sánh mối quan hệ văn học - văn hóa của một số nước trên thế giới và đưa ra ý kiến:

“là người Việt Nam trong đó văn hóa thể hiện trước hết ở văn học” [10, tr.12].

Đỗ Lai Thúy trong Từ cái nhìn văn hóa đã tiến một bước gần hơn với

thực tiễn nghiên cứu khi nhìn nhận, đánh giá một số tác phẩm văn học cũng như

phong cách của một số nhà văn từ góc nhìn văn hóa [24].

Như vậy, ta có thể thấy: Văn hóa là cơ sở, nền tảng cho văn học ra đời và

phát triển.Văn học nghệ thuật là bộ phận cấu thành và rất quan trọng của văn

hóa. Thực tiễn cuộc sống và nền văn hóa dân tộc là mảnh đất màu mỡ làm nảy

sinh và nuôi dưỡng văn học nghệ thuật. Hiện thực đời sống - nơi tiềm tàng

những giá trị văn hóa vô cùng phong phú, luôn tác động tới nhận thức, tư tưởng

nhà văn. Nói cách khác, nhà văn kiếm tìm giá trị văn hóa từ hiện thực cuộc sống

để tái hiện, tái tạo trong tác phẩm văn chương theo phong cách riêng. Như vậy,

một tác phẩm văn học ra đời là kết quả của sự khúc xạ, chưng cất các giá trị văn

hóa. Khi nói tới văn hóa của một dân tộc, người ta không thể không nghĩ ngay

đến nền văn học của dân tộc đó.

Văn học phản ánh, lưu giữ và sáng tạo văn hóa. Thực tế cho thấy, văn học

của bất kì dân tộc nào cũng đều phản ánh và lưu giữ văn hóa dân tộc đó. Văn

học như là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội và văn hóa dân tộc. Không chỉ

phản ánh văn hóa, văn học còn là sự hội tụ kết tinh các nguồn văn hóa. Văn học,

thông qua bạn đọc góp phần cải tạo, thúc đẩy văn hóa phát triển. Văn học còn có

vai trò sáng tạo văn hóa, làm phong phú gấp bội những tinh hoa văn hóa vốn có.

Văn học nơi chứa đựng những tư tưởng văn hóa, những nhận thức thẩm mỹ về

12

muôn mặt của đời sống con người của nhà văn. Có thể nói, đằng sau những nhà

văn lớn là cả một nền văn hóa của nhiều thế kỷ. Văn học là một bộ phận của văn

hóa, nó chịu sự chi phối mang tính quyết định của văn hóa.

Như vậy, văn học luôn có mối quan hệ chặt chẽ với văn hóa. Có thể nói

nhà văn đích thực là một nhà hoạt động văn hóa, tác phẩm văn học là một sản

phẩm văn hóa và người đọc là một người hưởng thụ văn hóa. Văn hoá là nền

tảng tinh thần của xã hội và sáng tạo văn học nghệ thuật là bộ phận quan trọng,

nòng cốt của văn hoá. Nó có khả năng truyền cảm mạnh mẽ và có sức sống lâu

bền khi biết đi sâu vào tư tưởng đạo đức, đời sống bên trong của con người.

Có thể nói, phương diện văn hoá trong văn học ngày càng được quan tâm

bởi giữa văn hoá và văn học có mối liên hệ mật thiết. Văn học phản ánh đời

sống, thực chất cũng là một phán đoán về văn hoá. Văn hoá là một phương diện

bên trong quy định hành vi, suy nghĩ, cảm nhận của con người trong từng thời

kỳ. Đọc bất cứ tác phẩm văn học nào chúng ta đều tìm thấy những biểu hiện của

văn hoá trong đó. Văn hóa và văn học đều phản ánh đời sống con người nên mọi

lĩnh vực. Mọi lĩnh vực trong đời sống đều là đối tượng của văn hóa- văn học,

trong đó con người là chủ thể.

1.2. Nguyễn Duy và quá trình sáng tác

1.2.1. Giới thiệu về tác giả Nguyễn Duy

Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh tại xã Đông Vệ, huyện

Đông Sơn (nay là phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa ), tỉnh Thanh Hóa.

Năm 1965, từng làm tiểu đội trưởng đội dân quân trực chiến tại khu vực cầu

Hàm Rồng, một trọng điểm đánh phá ác liệt của không quân Mỹ trong những

năm chiến tranh Việt Nam. Năm 1966 ông nhập ngũ, trở thành lính đường dây

của bộ đội thông tin, tham gia chiến đấu nhiều năm trên các chiến trường Đường

13

9- Khe Sanh, Đường 9- Nam Lào, chiến trường miền Nam, biên giới phía Bắc (

năm 1979). Sau đó ông giải ngũ, làm việc tại Tuần báo Văn nghệ Hội Nhà văn

Việt Nam và là trưởng đại diện của tờ báo này tại phía Nam.

Năm 1973, ông đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần bao Văn nghệ với chùm

thơ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt Nam trong tập Cát trắng. Ngoài thơ

ông cũng viết tiểu thuyết, bút ký. Năm 1977 ông tuyên bố “gác bút” để chiêm

nghiệm lại bản thân rồi tập trung vào làm lịch thơ, in lên các chất liệu tranh, tre,

nứa, lá thậm chí bao tải. Từ năm 2001, ông in nhiều thơ trên giấy dó. Ông đã

biên tập và năm 2005 cho ra mắt tập thơ thiền in trên giấy dó ( gồm 30 bài thơ

thiền thời Lý, Trần do ông chọn lọc ) khổ 81 cm x 111 có nguyên bản tiếng Hán,

phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ tiếng Việt, dịch nghĩa và dịch thơ tiếng Anh

với ảnh nền và ảnh minh họa của ông.

Nguyễn Duy được giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.

1.2.2. Quá trình sáng tác của Nguyễn Duy

Trong những nhà thơ Việt Nam đương đại, có lẽ Nguyễn Duy là tên tuổi

được nhiều người biết đến. Sau nhiều tập thơ đơn lẻ, thơ Nguyễn Duy được

tuyển chọn lại thành một cuốn hơn 400 trang, do NXB Hội Nhà Văn và công ty

Nhã Nam ấn hành, giúp độc giả khái quát được ba yếu tố làm nên danh tiếng

Nguyễn Duy: Thứ nhất, vần điệu nhịp nhàng, dễ đọc, dễ thuộc. Thứ hai, tác giả

có khả năng trình diễn để tiếp cận công chúng. Thứ ba, năng lực thẩm mĩ của

người viết có nét tương đồng với không khí xã hội nên được hiệu ứng đám đông

đẩy lên cao.

Nguyễn Duy làm thơ từ khi còn học ở trường chuyên Lam Sơn, nhưng sau

cuộc thi thơ năm 1972 - 1973 do báo Văn Nghệ tổ chức công chúng mới thực sự

biết đến Nguyễn Duy. Trong cuộc thi thơ Nguyễn Duy đạ giải nhất đồng hạng

14

cùng Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Nhuận Cầm và Nguyễn Đức Mậu. Bốn bài thơ

của Nguyễn Duy là: Bầu trời vuông, Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ rơm, Giọt nước

mắt và nụ cười được xem như một phát hiện mới ạ ở giai đoạn cuối cuộc kháng

chiến chống Mỹ.

Suốt 30 năm làm thơ, viết văn, thành quả của ông là gần hai mươi tập thơ,

ba tập bút kí và một tiểu thuyết. Trong đó có thể kể đến những sáng tác tiêu biểu

như: Cát trắng, Đường xa, Quà tặng, Ánh trăng, Đò Lèn… (thơ); Nhìn ra bể

rộng trời cao (bút kí), Khoảng cách (tiểu thuyết)…

1.3. Khảo sát sáng tác của Nguyễn Duy trong chương trình Ngữ văn Trung

học Cơ sở (THCS) và Trung học Phổ thông (PTTH)

Bảng 1. Những tác phẩm được giảng dạy trong chương trình THCS

Ghi chú tên văn bản, Lớp Lớp 6 Lớp 7 Lớp 8 đoạn trích hoặc 9 những trích dẫn

Văn bản giảng 1 0 Ánh trăng 0 0 dạy chính (Ngữ văn 9, tập 1)

Văn bản đọc 0 0 Tre Việt Nam 1 0 thêm (Ngữ văn 6, tập 2)

Trích dẫn thơ

0 trong dạy Tiếng 0 0 0

15

Việt và làm văn

Trong chương trình THCS chúng tôi nhận thấy thơ Nguyễn Duy đã được

đưa vào giảng dạy trong nhà trường bao gồm văn bản giảng dạy chính và văn

bản đọc thêm. Ngoài ra cũng có trích dẫn thơ Nguyễn Duy trong dạy học Tiếng

Việt và làm văn.

Bảng 2. Những tác phẩm được giảng dạy trong chương trình THPT

Ghi chú tên văn bản,

Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 đoạn trích hoặc những

trích dẫn

Văn bản giảng dạy 0 0 0 chính

Đò Lèn Văn bản đọc thêm 0 0 1 (Ngữ văn 12, tập 1)

Trích thơ trong dạy

Tiếng Việt và làm 0 0 0

văn

Trong chương trình THPT thơ Nguyễn Duy cũng đã được đưa vào giảng

dạy. Đặc biệt trong chương trình THPT có bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy

được đưa vào chương trình học thêm. Theo xu hướng hiện nay thì việc dạy văn

hướng tới việc học sinh tự tìm hiểu, tự chiếm lĩnh tri thức dưới sự hướng dẫn

của giáo viên là rất quan trọng nên ngoài các văn bản học chính thì các đề thi

còn hướng tới các văn bản đọc thêm. Bởi lẽ đó các văn bản đọc thêm ngày càng

16

được chú trọng giảng dạy trong nhà trường THPT và văn bản đọc thêm ngày

càng có sự ảnh hưởng lớn tới khả năng lĩnh hội tri thức văn học của học sinh. Vì

vậy, chúng tôi cũng xem Đò Lèn là đối tượng nghiên cứu của khóa luận.

Qua kết quả khảo sát các sáng tác của Nguyễn Duy trong trường THCS và

THPT, chúng tôi nhận thấy thơ Nguyễn Duy được đưa vào giảng dạy ở cả bậc

THCS và THPT. Ngoài một số văn bản được đưa vào giảng dạy chính thức thì

thơ Nguyễn Duy cũng có một số bài được đưa vào phần đọc thêm và một số bài

được sử dụng làm ngữ liệu để giảng dạy phần Tiếng Việt và làm văn trong nhà

trường phổ thông.

Từ thực tế trên có thể thấy việc học sinh tiếp nhận thơ Nguyễn Duy còn

khá mới mẻ và gặp nhiều khó khăn chính vì vậy chúng tôi quyết định chọn đề tài

nghiên cứu về Thơ Nguyễn Duy trong trườngs phổ thông từ góc nhìn văn

hóa nhằm giúp cho việc giảng dạy và tiếp nhận thơ Nguyễn Duy trong trường

17

phổ thông một cách dễ dàng hơn.

CHƯƠNG 2

DẤU ẤN VĂN HÓA TRONG ÁNH TRĂNG CỦA NGUYỄN DUY

2.1. Văn hóa làng và sinh thái

2.1.1. Văn hóa làng

Nền văn hóa Việt Nam được tạo dựng trên cơ sở nền văn minh nông

nghiệp. Cuộc sống của người Việt Nam gắn bó với làng xã, quê hương. Tập tục

làng, văn hóa và truyền thống làng là chất keo gắn kết con người với làng quê,

bồi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước.

Làng không chỉ là một sản phẩm của một nền tổ chức chính trị nhà nước

mà còn là sản phẩm văn hóa mang bản sắc Việt Nam. Văn hóa làng được thể

hiện thông qua các biểu trưng văn hóa mang giá trị truyền thống như: đồng quê,

bến nước, con đê, ánh trăng quê,… Đó còn là phong tục tập quán, tâm lí, cách

ứng xử của con người. Cách ứng xử giữa con người với con người, giữa con

người với thiên nhiên đã tạo ra nét đặc trưng của văn hóa làng quê. Văn hóa đã

trở thành nguồn mạch ngầm không thể nhìn thấy nhưng lại có sức mạnh chi phối

tới đời sống mỗi con người. Với đơn vị làng, văn hóa đã thể hiện như những

khuôn thước ứng xử nằm ở tầng sâu trong đời sống cộng đồng. Mỗi con người

Việt Nam nếu may mắn được sinh ra và lớn lên ở làng thì dù đi đâu, về đâu, làm

gì thì khó có thể thoát khỏi tâm thức làng, lề thói làng, giá trị văn hóa làng, cái

đã ăn sâu vào văn hóa cá nhân. Đặc biệt trong tâm thức mỗi con người làng quê

Việt Nam thì họ luôn gắn bó với thiên nhiên, cảnh vật thôn quê. Đó cũng là sự

gắn bó giữa con người và tự nhiên, sự gắn bó đó là một tất yếu của cuộc sống.

Không huyền bí cao xa, không bao la rộng lớn, thiên nhiên trong thơ Nguyễn

18

Duy là những gì gần gũi mộc mạc nhất. Thiên nhiên ở đây rất bình dị nhưng lại

chở cả hồn thiêng của dân tộc, cả một bề dày văn hóa của quê hương. Nếu

không phải là văn hóa nông nghiệp lúa nước, cội nguồn của nền văn hóa dân tộc

thì làm sao có những hình ảnh rất quen thuộc ấy. Nhà thơ đã hướng mỹ cảm vào

văn hóa dân tộc, mà trong đó văn hóa làng là một thành tố. Nguyễn Duy đã

hướng ngòi bút vào những nét đặc sắc của văn hóa làng đặc biệt là hướng ngòi

bút vào cách ứng xủa của con người với thiên nhiên, tâm lí của con người nơi

làng quê . Hình ảnh thiên nhiên làng quê với những đặc trưng rất riêng đã mang

tính biểu tượng văn hóa độc đáo trong sáng tác Nguyễn Duy. Trong sáng tác của

mình, Nguyễn Duy không đơn thuần miêu tả vẻ đẹp bên ngoài của thiên nhiên.

Ông trải lòng mình với cảnh vật, soi chiếu thiên nhiên từ nhiều hoàn cảnh, nhiều

chiều kích khác nhau, từ đó mang đến những ý nghĩa mới mẻ cho những hình

ảnh vốn quen thuộc, mở ra cho người đọc những liên tưởng mới đầy thú vị. Có

thể nói, nền văn hóa Việt Nam với đặc trưng lớn nhất là văn hóa nông nghiệp đã

được Nguyễn Duy phản ánh thông qua những bức tranh thiên nhiên bằng thơ.

Bởi vậy, tiếng thơ Nguyễn Duy đã đưa tâm hồn người đọc trở về với những giá

trị văn hóa làng quê tỏa bóng hàng ngàn năm trong tâm hồn dân tộc Việt.

Trong văn hóa làng cái tôi làng xã gắn với văn hóa nông nghiệp vẫn hằn

trong tâm linh người Việt. Nét đẹp văn hóa làng trong Ánh trăng của Nguyễn

Duy trước tiên đó là hình ảnh một làng quê đẹp, êm ả, thanh bình với không gian

bao la rộng lớn, với cảnh vật thôn quê giản dị, mộc mạc, quen thuộc chứa đựng

những giá trị văn hóa cổ truyền hàng ngàn năm của dân tộc Việt. Đó là hình ảnh

của cánh đồng trải rộng bao la gắn với kí ức của con người, là dòng sông của

tuổi thơ, là ánh trăng theo suốt những bước chân trẻ thơ cho đến khi trưởng

thành. Hình ảnh làng quê yên bình, chất phác đó đã đi sâu vào tâm hồn nhà thơ

19

và mang lại cho nhà thơ những kỉ niệm ấu thơ đẹp, trong sáng, giản dị và rất đời

thường: “Hồi nhỏ sống với đồng/ với sông rồi với bể. Hồi chiến tranh ở rừng /

vầng trăng thành tri kỉ”. Cuộc sống nơi làng quê luôn chứa đựng những nét văn

hóa làng độc đáo, đó là lối sống hòa mình vào thiên nhiên cảnh vật, coi thiên

nhiên nơi làng quê ấy như người bạn tâm giao song hành cùng những bước

ngoặt lớn trong cuộc đời con người.

Được nuôi dưỡng từ cái nôi văn hóa Bắc Bộ, Nguyễn Duy lớn lên trên

mảnh đất với những cánh đồng lúa bạt ngàn thẳng cánh cò bay, những dòng

sông chở nặng phù sa…Thế giới tự nhiên không biết tự bao giờ trở thành người

mẹ nuôi dưỡng, chở che, là người bạn thủy chung với con người. Có lẽ điều đó

ăn sâu vào tâm thức nhà thơ như một lẽ tự nhiên, tự nhiên như hơi thở, khí trời.

Vì thế, ta có thể nhận thấy nét đẹp văn hóa của làng quê luôn được nhà thơ gắn

liền với những mảng màu thiên nhiên tại chính quê hương ông. Không gian cứ

mở rộng ra và những kí ức đẹp cứ hiện về. Kí ức trong tâm hồn nhà thơ, trong

trái tim nhà thơ đều gắn với cảnh vật quê hương, làng quê. Ánh trăng quê như

một người bạn thân tình luôn bước theo mỗi bước chân, luôn lắng nghe, luôn sẻ

chia với Nguyễn Duy. Không chỉ là lối sống hòa mình vào thiên nhiên cảnh vật

mà nét đẹp trong văn hóa làng còn là lối sống luôn nhớ về cuội nguồn, luôn nhớ

về xóm làng nơi mình đã sinh ra và lớn lên. Nguyễn Duy mang đậm hồn quê bởi

cái tôi này luôn nhớ về làng quê. Có thể nói, nỗi nhớ thương đau đáu nhất trong

nhà thơ là nỗi nhớ quê hương làng xóm. Trong tâm linh của người Việt Nam,

quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn, là máu thịt của mỗi người. Người dân đất

Việt bao đời nay luôn sống với tâm thức “lá” cuối cùng rồi cũng “rụng về cội”,

“Cáo chết ba năm còn quay đầu về núi”. Trong cái thế giới tinh thần phong phú

của những người nông dân thuần chất, ta tìm thấy được một tình cảm rất sâu

20

lắng thiết tha dành cho ngôi làng thân yêu của họ. Người nhà quê, với bản chất

thật thà trong sáng thì cái thứ tình cảm ấy càng mãnh liệt và thiết tha hơn. Khi ở

giữa quê hương, ông trải lòng mình để tắm những dòng sữa ngọt ngào chảy giữa

đồng quê. Khi xa quê nó trở thành nỗi nhớ da diết. Nhớ về làng quê là nhớ về

những gì bình dị nhất, nhớ vầng trăng nơi gửi gắm bao kỉ niệm. Vầng trăng (Ánh

trăng) của Nguyễn Duy là người bạn đường gắn bó với cuộc sống con người,

cùng sẻ chia những niềm vui lẫn nỗi buồn, cả hạnh phúc lẫn khổ đau. Trăng gắn

liền với kỉ niệm thời thơ ấu ở làng quê.

Vầng trăng tình nghĩa sáng trong không gian và thời gian kí ức. Con

người và thiên nhiên hài hoà trong mối kết giao tri kỉ, thuỷ chung. Từ những

năm tháng tuổi thơ bươn trải nhọc nhằn gắn bó với đồng, với sông rồi với bể cho

đến những năm tháng chiến tranh gian khổ sống với rừng, bao giờ trăng cũng

gần gũi, thân thiết. Giữa con người với thiên nhiên, với trăng là mối quan hệ

chung sống, quan hệ thâm tình khăng khít. Trăng là người bạn đồng hành trên

mỗi bước đường gian lao nên trăng hiện diện như là hình ảnh của quá khứ, là

hiện thân của kí ức chan hòa tình nghĩa. Khi xa quê, đi vào cuộc chiến, nỗi nhớ

thương chợt hiện về quay quắt tâm hồn, lúc này người và trăng lại càng gắn bó,

ánh trăng là bạn tri kỉ chia sẻ mọi gian nan thiếu thốn, mọi buồn vui sướng khổ

trong những năm tháng chiến tranh của tác giả. Như vậy là tuổi thơ chớp mắt đã

trôi qua, cái còn lại lúc này là vầng trăng thật đơn sơ, chung thuỷ, vầng trăng của

những kí ức, những kỉ niệm.

Trăng trong thơ Nguyễn Duy chính là hình ảnh thiên nhiên đẹp. Thiên

nhiên với tất cả những gì gần gũi, hồn nhiên, tươi mát. Một thiên nhiên rộng lớn,

khoáng đạt, chan hòa, mối quan hệ gắn bó giữa thiên nhiên và con người cũng

được mở ra. Trong đó con người sống với thiên nhiên, sống giữa thiên nhiên và

21

gắn bó máu thịt với thiên nhiên. Trong không gian thân thương của làng quê, ta

nhận ra niềm say mê, sảng khoái của con người được chan hoà, được sống trong

cái mát lành của quê hương. Con người được hưởng cái mát dịu ngọt ân tình của

thiên nhiên, hòa mình với thiên nhiên qua ánh trăng dịu hiền nơi làng quê và

trên dọc tuyến đường hành quân của một thời máu lửa. Trong sự cộng sinh chan

hòa ấy, con người tự nhận xét mình “hồn nhiên như cây cỏ” giữa mẹ tự nhiên,

như là một bộ phận của Tự nhiên. Đây chính nét đẹp nổi bật trong văn hóa làng

quê của con người Việt Nam, đó là lối sống gần gũi với thiên nhiên, hòa mình

với cảnh vật, coi cảnh vật như một người bạn ghi lại dấu ấn của tuổi thơ, lối

sống nặng nghĩa tình với quê hương, cách ứng xử giữa con người và tự nhiên .

Lối sống đó đã nuôi dưỡng tâm hồn mỗi con người, tạo dựng nên những kỉ niệm

đẹp, không thể nào quên, tạo nên nét đẹp trong văn hóa làng của dân tộc Việt.

Sống trong cộng đồng làng, hòa tâm hồn vào với thiên nhiên, cảnh vật

làng quê, coi làng quê là nơi khởi nguồn của sự sống, kết tinh của văn hóa con

người, tạo nên những con người nghĩa tình. Bởi vì lẽ đó nên những con người

nơi làng quê đó họ cũng sẵn sàng trở thành một người lính để bảo vệ sự bình yên

chốn quê hương. Tâm lí làng khiến họ luôn gắn cuộc đời mình vào sự yên bình

nơi làng quê đây là động lực để họ ra đi chiến đấu cho quê hương, đất nước, bảo

vệ những kí ức đẹp thời ấu thơ. Biết bao người lính đã ra đi, đã hi sinh cho dáng

hình vẹn toàn của quê hương, đất nước. Đó là những người lính trong Đồng Chí

của Chính Hữu: “Quê hương anh nước mặn đồng chua / Làng tôi nghèo đất cày

lên sỏi đá / Tôi với anh đôi người xa lạ / Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”.

Họ xuất thân từ những vùng quê nghèo, ra đi vì muốn chiến đấu bảo vệ những

vùng quê đó, bảo vệ nơi chôn rau cắt rốn, nơi tuổi thơ gắn bó, nơi nghĩa tình

nuôi dưỡng tâm hồn họ. Hay “Đêm nay rừng hoang sương muối / Đứng cạnh

22

bên nhau chờ giặc tới. Đầu súng trăng treo”. Họ còn là những người lính có

một thời gắn bó với quê hương, bản làng để rồi khi xa vẫn luôn vang vọng lời

nhắc nhở của nét đẹp văn hóa nơi chốn bản làng đó: “Người đi Châu Mộc chiều

sương ấy/ Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ/ Có thấy dáng người trên độc mộc / Trôi

dòng nước lũ hoa đong đưa” ( Tây Tiến- Quang Dũng). Đó còn là những người

lính luôn gắn mình vào thiên nhiên làng bản, thiên nhiên với những gì đẹp nhất:

“Nhớ gì như nhớ người yêu / Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương. Nhớ

từng bản khói cùng sương / Sớm hôm bếp lửa người thương đi về” (Việt Bắc -

Tố Hữu).

Văn hóa làng quê, bản làng luôn được người lính trân trọng, yêu thương.

Thiên nhiên nơi làng quê, bản làng như một người bạn tri kỉ, như một lẽ tự nhiên

đi vào tâm hồn họ, chiếm giữ những tình cảm chân thật nhất trong sâu thẳm trái

tim họ. Để rồi họ coi thiên nhiên là người bạn tâm giao, là người yêu thương, là

người để họ có thể gửi gắm nỗi niềm, gửi gắm những tâm tư tình cảm, những

hoài niệm xa vời của tuổi trẻ.

Từ đây chúng ta có thể nhận ra và thấy rõ được sự gắn bó mật thiết, lối sống

tình nghĩa, thủy chung giữa con người với tự nhiên, sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ

quê hương, đất nước chính là một nét đẹp nổi bất trong văn hóa làng. Nét đẹp văn

hóa đó cần được lưu giữ , trân trọng bởi lẽ nó sẽ là nền tảng tạo nên những con

người nghĩa tình, tạo nên nét đặc sắc cho văn hóa làng của dân tộc Việt.

2.1.2. Văn hóa sinh thái tự nhiên

Sinh thái trong tiếng Hi Lạp là “oikos” có nghĩa là nhà ở, nơi cư trú, nơi

sinh sống của mọi sinh vật, trong đó có con người.

Văn hóa sinh thái có rất nhiều khái niệm khác nhau. Có thể hiểu một cách

23

khái quát theo Đỗ Văn Hiểu: “ Văn hóa sinh thái là tất cả những giá trị vật chất

và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình tác động và cải biến tự

nhiên nhằm tạo ra một môi trường sống tốt hơn”

Theo TS Trần Thị Hồng Loan: “ Văn hóa sinh thái là tất cả những giá trị

vật chất và tinh thần do con người sáng tạo, tích lũy và phát triển trong quá trình

ứng xử với các loài sinh vật khác, nhằm tác động và cải biến tự nhiên vì sự tồn

tại của con người và giới thiệu tự nhiên ở cả hiện tại và tương lai. Nó được thể

hiện thông qua trình độ nhận thức của con người về môi trường tự nhiên ở cả

hiện tượng và tương lai. Nó được thể hiện thông qua trình độ nhận thức của con

người về môi trường tự nhiên trong hoạt động thực tiễn của chính bản thân con

người”. Trước hết văn hóa sinh thái được hiểu là những sản phẩm vật chất và

tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình tác động và cải biến tự

nhiên. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử phát triển của tự nhiên, con người cũng

giống như vô vàn các loài sinh vật khác trên Trái Đất muốn tồn tại và phát triển

thì không thể không có mối liên hệ nào với tự nhiên. Những nhu cầu cơ bản nhất

của con người như ăn, uống cũng cần có sự tác động đến tự nhiên. Cùng với

sự phát triển của con người, đã có giai đoạn con người quan niệm rằng mình là

bá chủ của muôn loài, là kẻ thống trị giới tự nhiên bằng những hành động,

những tác động vào môi trường tự nhiên một cách thái quá, con người cho rằng

tự nhiên phải khuất phục trước trí tuệ con người. Nhưng không đó là một quan

niệm hết sức sai lầm của con người trong mối quan hệ tự nhiên.

Tuy nhiên không phải mọi hoạt động, tác động của con người cải biến

môi trường tự nhiên đều trở thành giá trị văn hóa sinh thái. Những giá trị văn

hóa sinh thái được hình thành và lưu giữ, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống phải tương đối ổn định, thể hiện

24

được bản sắc của dân tộc người thông qua cách ứng xử với môi trường tự nhiên.

Chính vì thế mà thiên nhiên trở thành người bạn của con người, các thi nhân

thường mượn thiên nhiên, cảnh vật với những gì đời thường nhất, giản dị nhất

để gửi gắm tâm tư, cảm xúc. Tuy nhiên trong thời đại công nghiệp hóa, đô thị

hóa thì con người lại coi mình là trung tâm của vũ trụ và xa lánh, quên mất môi

trường sinh thái tự nhiên xung quanh mình. Nhận ra được sự quay lưng của con

người với chính môi trường sinh thái xung quanh cuộc sống của mình nhiều nhà

thơ đã lấy thiên nhiên, cảnh vật làm đề tài trong các bài thơ của mình và qua đó

khẳng định ý nghĩa, tầm quan trọng của môi trường sinh thái đối với con người.

Từ xưa mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên là hòa đồng, là gần

gũi, thiên nhiên đi vào thơ ca như một điều tất yếu, một lẽ dĩ nhiên: “Mênh

mông biển lúa xanh rờn / Tháp cao sừng sững trăng vờn bóng cau. Một vùng

phong cảnh trước sau / Bức tranh thiên cổ đượm màu giang san” ( ca dao) hay

trong thơ Hàn Mạc Tử cũng xuất hiện những hình ảnh thiên nhiên đẹp, gần gũi

với cuộc sống đời thường như: “Trong làn nắng ửng khói mơ tan / Đôi mái nhà

tranh lấm tấm vàng / Sột soạt gió trêu tà áo biếc / Trên giàn thiên lí- bóng xuân

sang” (Mùa xuân chín). Ta có thể thấy chủ đề về thiên nhiên vẫn luôn xuất hiện

và có vị trí quan trọng trong văn chương. Thiên nhiên như một khách thể thẩm

mĩ để các thi nhân soi ngắm và hưởng thụ, rất nhiều thi sĩ thể hiện sự tinh tế

tuyệt bậc khi miêu tả thiên nhiên và qua đó thể hiện nét đẹp văn hóa sinh thái,

gửi gắm những quan niệm về thiên nhiên, môi trường và con người.

Nguyễn Duy cũng đã mượn những hình ảnh quen thuộc nơi chốn làng quê

đã từng gắn bó với tuổi thơ ấu của mình như: đồng, sông, bể, ánh trăng… trong

bài thơ Ánh trăng để trải những suy tư, gửi gắm những quan niệm sâu sắc về

nghĩa tình thủy chung giữa thiên nhiên với con người. Đặc biệt những vần thơ

25

về đồng quê không chỉ thể hiện tình yêu mà Nguyễn Duy dành cho thiên nhiên

với tư cách là những vẻ đẹp giản dị , thanh tân nhất mà xét trên phương diện nào

đó đây cũng chính là ý thức chống lại sự tàn phá môi trường của văn minh công

nghiệp. Người đọc dễ dàng cảm nhận được “khối sầu đô thị” xuyên suốt mạch

thơ. Nguyễn Duy đã cho ta thấy sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại , đối lập

trong cách cư xử giữa vầng trăng trong quá khứ và vầng trăng trong hiện tại,

giữa thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và môi trường nhân tạo nhỏ hẹp mà người

lính đang sống.

Mở đầu bài thơ Nguyễn Duy đã gợi nhắc tới một thứ thiên nhiên trong

trẻo, vẻ đẹp thiên nhiên gắn liền với tuổi thơ, với cuộc đời lính của chính tác giả:

“Hồi nhỏ sống với đồng / Với sông rồi với bể. Hồi chiến tranh ở rừng / Vầng

trăng thành tri kỉ”. Đó là hình ảnh của những cánh đồng bao la, những con

sông quê, những bãi biển trải dài mênh mông nước. Đó cũng chính là hình ảnh

ánh trăng- người bạn tri kỉ của tuổi thơ, người bạn đường thủy chung của tác

giả. Ngay từ nhỏ Nguyễn Duy đã sống chan hòa với thiên nhiên, những kỉ niệm

tuổi thơ của ông luôn gắn liền với cảnh vật nơi thôn quê. Đặc biệt trăng đã trở

thành người bạn không thể thiếu của nhà thơ. Trăng chia ngọt, sẻ bùi, trăng đồng

cam cộng khổ trên mỗi bước hành quân: “Ngỡ không bao giờ quên / Cái vầng

trăng tình nghĩa”. Có thể nói thiên nhiên chính là cuội nguồn, là cái nôi tạo nên

những giá trị văn hóa tinh thần đặc sắc cho con người. Thiên nhiên đã nuôi

dưỡng tâm hồn con người, trở thành niềm thôi thúc của tác giả, gợi nhớ về cội

nguồn và ý thức trước lẽ sống thuỷ chung.

Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa nông nghiệp, ngay cả khi đô thị

hóa đã bắt đầu được mở rộng vào nửa đầu thế kỉ XX thì văn hóa tiểu nông vẫn

rất đậm nét. Vì thế mà con người thường sống rất gần gũi, gắn bó với thiên

26

nhiên. Thiên nhiên là cuội nguồn của tình yêu quê hương, đất nước. Bởi thế

thiên nhiên là nơi có khả năng chữa lành mọi vết thương tinh thần của những kẻ

xa quê. Cảm thức về thiên nhiên làng quê có khả năng làm vợi bớt sự chơ vơ

trong những tháng ngày sống xa quê. Văn hóa sinh thái trở thành mối gắn kết

giữa lịch sử của mỗi cá nhân với nơi sinh thành nuôi dưỡng mình. Thế nhưng

người lính năm nào giờ đã bị cuộc sống xô bồ, chớp nhoáng nơi phố xá làm

quên đi quá khứ vẹn tình bên thiên nhiên làng quê.

Về thành phố sống quen với ánh điện cửa gương, quen với sự nhộn nhịp,

tấp nập nơi thị thành mà quên đi ánh trăng tình nghĩa, con người trở nên xa cách

và dường như lãng quên thiên nhiên. Tác giả đã tạo ra sự đối lập giữa hình ảnh

vầng trăng tri kỉ, tình nghĩa trong quá khứ và vầng trăng “như người dưng qua

đường" trong hiện tại. Sự đối lập này diễn tả những đổi thay trong tình cảm của

con người. Thủa trước, ta hồn nhiên sống với đồng, với sông, với bể, với gian

lao "ở rừng”, khi ấy trăng chan hoà tình nghĩa, thiên nhiên và con người gần

gũi, hoà hợp. Bây giờ, thói quen cuộc sống với phương tiện đủ đầy khiến ta

không còn thấy trăng là tri kỉ, nghĩa tình nữa. Nhà thơ nói về trăng với sự lãng

quên của người lính cũng chính để thể hiện cái không gian tù túng, cái môi

trường sinh thái nơi đô thị bị bó hẹp và bị con người lãng quên. Văn hóa sinh

thái đang bị những con người nghĩa tình trước kia quay lưng lại trong cuộc sống

hiện đại.

Chúng ta có thể thấy cánh đồng, dòng sông, biển cả, hay ánh trăng quê

đều là những không gian sinh thái đã đi vào thơ. Không gian sinh thái này được

tác giả thấu hiểu và biểu đạt tinh tế nhờ tình yêu thiên nhiên. Tuy nhiên biểu

tượng tập trung nhất mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên là hình ảnh ánh

trăng. Nguyễn Duy đã nói tới ánh trăng như nói về một người bạn tri âm, tri kỉ.

27

Ánh trăng ấy soi tỏ cho tác giả nhận thức ra được giá trị thực sự của cuộc sống,

đưa tác giả trở về với quá khứ khi tác giả đối diện trực tiếp với ánh trăng, với

lòng mình: “Ngửa mặt lên nhìn mặt / Có cái gì rưng rưng. Như là đồng là bể /

như là sông là rừng”. Với Nguyễn Duy thiên nhiên mọi cảnh vật trong thiên

nhiên đều mang chứa linh hồn, ánh trăng mang đặc tính của con người, thủy

chung, tình nghĩa, đồng cam cộng khổ với con người. Nguyễn Duy đã coi thiên

nhiên như phông nền của sự hòa điệu giữa con người với cảnh vật. Thiên nhiên

ấy không bất động mà luôn luôn chuyển động, sự chuyển động ấy mang một

niềm gợi nhớ về quá khứ, về cuội nguồn.

2.2. Văn hóa đô thị và sự thức tỉnh ý thức môi sinh

2.2.1. Văn hóa đô thị

Người Việt có lối tư duy tổng hợp và biện chứng. Họ luôn có sự đắn đo

cân nhắc của người làm nông nghiệp. Cùng với nguyên tắc trọng tình đã dẫn đến

lối sống linh hoạt, khả năng thích ứng cao, luôn biến đổi cho thích hợp với từng

hoàn cảnh cụ thể. Mặt khác, con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Tình

trạng xã hội chi phối rất mạnh mẽ đến con người. Xã hội đơn giản, bình dị, con

người cũng đơn giản, chất phác. Xã hội sôi động, phức tạp, con người cũng phức

tạp. Theo từng bước chuyển mình của xã hội, tâm lí, tình cảm của con người dần

thêm phức tạp. Chính vì thế mà tư tưởng, tình cảm, tâm lí của con người cũng

dần thay đổi để thích ứng với cuộc sống. Vì thế bên cạnh lối sống gắn bó với

văn hóa làng, tập tục làng quê thì Ánh trăng của Nguyễn Duy còn thể hiện khá

rõ lối sống mới của con người trong môi trường mới, đó chính là văn hóa đô thị.

Khi chiến tranh kết thúc, hòa bình lập lại người lính bắt nhịp với lối sống

mới, đó là lối sống khép kín, dần quên đi cái lối sống văn hóa làng trước kia mà

họ tôn thờ, gìn giữ ngay cả trong những lúc gian nan. Ánh trăng được Nguyễn

28

Duy viết năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh - nơi đô thị của cuộc sống phồn

hoa, đầy đủ tiện nghi hiện đại, nơi những người từ trận đánh đã trở về và để lại

sau lưng cuộc kháng chiến gian khổ, tình nghĩa: “Từ hồi về thành phố / quen

ánh điện cửa gương. Vầng trăng đi qua ngõ / như người dưng qua đường”. Thời

gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở lại

trong tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói loà. Thế nhưng con

người không thể kháng cự lại sự thay đổi đó. Người lính năm xưa nay sống

trong môi trường mới, không còn làm nông nghiệp, không còn gắn bó mật thiết

với thiên nhiên nữa mà người lính ấy quen dần với những thứ xa hoa nơi “ánh

điện, cửa gương”. Và rồi chính sự xa hoa đó đã “xâm lấn” tâm thức người lính,

người lính đã có lúc lãng quên người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng

chừng chẳng thể quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình

lại xem như không quen không biết. Cuộc sống hiện đại với ánh sáng chói loà

của chốn đô thị với những vật dụng ngày càng hiện đại dường như đã làm lu mờ

ánh sáng của vầng trăng. Phải chăng là ánh trăng đã khác ánh trăng của ngày

xưa? Không! Ánh trăng vẫn thế vẫn gần gũi thân thương dịu dàng, chỉ có hoàn

cảnh sống của con người đã thay đổi khiến họ không nhận ra vẻ đẹp của vầng

trăng tri kỉ ngày xưa hay chính họ đã thờ ơ, họ quên đi. Thật xót xa cho vầng

trăng tuổi thơ vầng trăng đi bên nhau một thời chinh chiến như tri kỉ, vậy mà khi

người ta sống giữa phồn hoa đô thị thì nó lại bị lãng quên. Cuộc sống nơi đô thị

với lối sống khép kín, không gian sống bó hẹp, con người bị cuốn vào bộn bề

của công việc, sống trong lối sống hiện đại đề cao giá trị vật chất, sống trong

môi trường đô thị với những tráng lệ của “ Ánh điện” của “ Cửa gương” mà dần

quên đi cuộc sống trước kia, quên đi lối sống ân tình , nặng nghĩa với thiên

nhiên với con người. Tố Hữu cùng từng băn khoăn, trăn trở về sự thay đổi của

29

lòng người trong bài thơ Việt Bắc: “Mình về thành thị xa xôi / Nhà cao còn nhớ

núi đồi nữa chăng. Phố cao còn nhớ bản làng / Sáng đèn còn nhớ ánh trăng

giữa rừng”. Trong Ánh trăng Nguyễn Duy cũng trăn trở, cũng băn khoăn khi

con người sống theo lối sống mới. Lối sống đô thị bận bịu với cuộc sống mưu

sinh làm cho tình cảm gắn bó giữa con người với con người bị phai nhạt, con

người dường như mất đi sự giao hòa với thiên nhiên, không còn nhìn ngắm thiên

nhiên coi thiên nhiên như người bạn để tâm tình, để sẻ chia kỉ niệm mà dần lãng

quên đi thiên nhiên coi thiên nhiên như một người bạn xa lạ. Người lính năm

xưa đã lãng quên đi ánh trăng tình nghĩa theo mình suốt thời ấu thơ, trên bước

đường hành quân, quên đi ánh trăng đã soi tỏ một phần cuộc đời người lính ấy

mà chìm đắm trong cuộc sống mới, xa hoa, lộng lẫy ánh đèn điện nơi phố

phường nhộn nhịp. Sự ồn ã của phố phường, những công việc mưu sinh và

những nhu cầu vật chất thường nhật khác đã lôi kéo con người ra khỏi những giá

trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí của người lính,

khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá khứ. Con người khi được sống đầy đủ

về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị tinh thần, quên đi cái nền

tảng cơ bản của cuộc sống, đó chính là tình cảm con người. Nguyễn Duy đã

thẳng thắng nhìn vào sự thay đổi trong lối sống, trong cách ứng xử của con

người nơi đô thị với thiên nhiên, với quá khứ. Cuộc sống công nghiệp hoá, hiện

đại hoá của điện gương đã làm át đi sức sống của ánh trăng trong tâm hồn con

người. Trăng lướt nhanh như cuộc sống hiện đại gấp gáp, hối hả không có điều

kiện để con người nhớ về quá khứ. Và người lính đã quên đi chính ánh trăng đã

đồng cam cộng khổ với mình. Con người nơi chốn phồn hoa đó đã gạt bỏ sau

lưng những ân nghĩa, ân tình, những dĩ vãng của một thời ấu thơ, của những

ngày gian khổ nơi chiến trường để sống một cuộc sống mới. Người lính năm

30

xưa giờ đây bị cuốn vào nhịp sống nhanh, gấp gáp, quẩn quanh của thị thành mà

quên lãng đi một phần quá khứ, quên đi cái tâm hồn quê truyền thống, cái nghĩa

tình với thiên nhiên của cuộc đời mình. Qua đó nhà thơ cũng phê phán sâu sắc

văn minh hiện đại đối lập, làm xa rời con người với tự nhiên.

2.2.2. Sự thức tỉnh ý thức môi sinh

Con người và môi trường sinh thái tự nhiên luôn có mối quan hệ mật

thiết, gắn bó với nhau. Ngày từ thời ấu thơ Nguyễn Duy đã gắn bó với làng quê,

với đồng, với sông, với bể, gắn bó với ánh trăng nơi nhà thơ gửi gắm những tình

cảm, những kỉ niệm của tuổi thơ. Ngỡ tưởng rằng trong suốt cuộc đời mình nhà

thơ sẽ không thể nào quên đi cái thiên nhiên giản dị, đơn sơ mộc mạc nơi chốn

quê đó thì cuộc sống hiện đại sau những năm tháng chiến trận gian lao đã làm

cho nhà thơ quên lãng đi quá khứ, hờ hững lãnh đạm với ánh trăng xưa, quay

lưng lại với kí ức với người bạn ân tình, thủy chung của cuộc đời mình.

Cuộc đời như một dòng sông khi dịu êm lặng lẽ, lúc cuộn sóng trào dâng,

bởi thế cuộc sống thời hiện đại nơi thị thành cũng có lúc không còn êm đềm

trong thứ sáng phồn hoa mà luôn có những sự đổi thay. Và chính trong những sự

đổi thay ấy, ánh sáng của quá khứ, của ân tình lại bừng tỏ, là lúc người ta nhận

thấy giá trị của quá khứ gian lao mà tình nghĩa, thiếu thốn mà đủ đầy, nhận ra

được những giá trị tinh thần to lớn mà thiên nhiên, quá khứ mang lại: “Thình

lình đèn điện tắt. Phòng buyn- đinh tối om / Vội bật tung cửa sổ. Đột ngột vầng

trăng tròn”. Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa,

đầy đủ về vật chất, người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong

cái “thình lình”, “đột ngột” ấy, người lính vội bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra

một cái gì đó. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của

mình đây hay sao? Con người ấy không hề biết được rằng cái người bạn tri kỉ,

31

tình nghĩa, người bạn đã bị anh ta lãng quên luôn ở ngoài kia để chờ đợi anh ta.

“Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con người, không bao giờ oán giận hay

trách móc con người vì họ đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và

khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm lòng của một con người biết sám

hối, biết vươn lên hoàn thiện mình. Cuộc đời mỗi con người không ai có thể

đoán biết trước được, không ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà

không có khó khăn, thử thách. Cũng như một dòng sông, đời người là một chuỗi

dài với những quanh co, uốn khúc. Và chính trong những khúc quanh ấy, những

biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó

với họ trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Ở đây không chỉ là sự

thay thế ánh trăng cho ánh điện mà còn là sự thức tỉnh trong tiềm thức của con

người. Đó còn là sự thoảng thốt âu lo trong hình ảnh “Vội bật tung cửa sổ”

Vầng trăng ấy đâu phải chỉ khi đèn điện tắt mới xuất hiện mà nó vẫn nguyên vẹn

như thế, tròn đầy như thế, dịu lành như thế, vẫn lặng lẽ đi bên cạnh cuộc đời con

người,nó làm sáng lên cái góc tối đánh thức sự quên lãng trong cái đời sống đủ

đầy đến thừa thãi của con người. “Vầng trăng” xuất hiện thật bất ngờ, khoảnh

khắc ấy, phút giây ấy... người lính năm xưa mới bàng hoàng trước vẻ đẹp kì diệu

của vầng trăng. Bao nhiêu kỉ niệm xưa bỗng ùa về làm "Con người này" cứ

“rưng rưng” nước mắt: “Ngửa mặt lên nhìn mặt. Có cái gì rưng rưng/ Như là

đồng là bể. Như là sông là rừng”. Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đó

khiến cho người lính áy náy dù cho không bị quở trách một lời nào. Khi đối diện

với ánh trăng người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và

dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người

bạn “tri kỉ” của mình . Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như

đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nơi có

32

“sông” và có “bể”. Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào

dâng những nỗi niềm và những giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút

gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên

thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng

trong tuổi thơ và chiến tranh lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận

được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn

lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị

tổn thương. Trăng không chỉ là người bạn luôn đồng hành ở bên con người cho

dù con người có lãng quên mà trăng còn thức tỉnh con người. Trăng đưa con

người trở về với quá khứ, trở về với con người thực của mình. Trăng giúp con

người soi rọi và đối diện với chính cõi lòng mình để con người kịp thức tỉnh và

nhận ra những giá trị tinh thần to lớn từ người bạn thiên nhiên: “Trăng cứ tròn

vành vạnh. Kể chi người vô tình / Ánh trăng im phăng phắc. Đủ cho ta giật

mình”. Đối lập giữa cái tròn đầy vành vạnh của vầng trăng là hao khuyết thiếu

hụt của kẻ đã vô tâm quên đi quá khứ - cái qúa khứ ân tình thuỷ chung mà họ “

ngỡ không bao giờ quên ”. Đối lập giữa cái im lặng độ lượng của trăng là sự

thức tỉnh trong lương tri con người. Bài thơ, vì thế, mang đậm tư duy triết lí.

Nếu ai đó có lúc quên đi những điều thiêng liêng tốt đẹp của quá khứ thì phải có

những lúc giật mình tỉnh thức trong hiện tại mới mong đạt được những ân nghĩa

tốt lành ở tương lai. Bởi đó là chân lí đã trở thành đạo lí của người Việt ta:

“Uống nước nhớ nguồn”

Nguyễn Duy đã bừng tỉnh, nhận ra rằng dù sống trong cuộc sống mới, nơi

hào nhoáng của phố phường cũng không nên quên đi một phần quá khứ của

cuộc đời mình. Con người không thể thờ ơ với thiên nhiên, lạnh nhạt và lãnh

đạm với thiên nhiên bởi lẽ thiên nhiên chính là một người bạn tâm giao, một

33

người bạn thủy chung tình nghĩa. Thiên nhiên chính là sợi chỉ đưa con người trở

về sống thật với tình cảm, tâm hồn mình. Thiên nhiên giúp con người bừng tỉnh

trước những bụi bặm của cuộc sống và giúp thanh lọc tâm hồn con người.

Có thể nói Nguyễn Duy đã chú trọng đến mối quan hệ giữa con người với

môi trường sinh thái tự nhiên, từ đó gợi nhắc tới vấn đề ý thức môi sinh đối với

bạn đọc. Thiên nhiên đóng vai trò rất lớn và quan trọng trong đời sống của con

người thế nhưng con người lại đang chạy theo nhịp sống mới với sự xa hoa của

phố phường mà quên đi thiên nhiên thậm chí là tổn thương tới thiên nhiên làm

mất đi truyền thống sống hòa hợp với thiên nhiên từ ngàn đời của ông cha ta.

Thiếu vắng thiên nhiên tâm hồn con người trở nên xơ cứng, lạnh lùng vậy cần

phải trở về bảo vệ thiên nhiên sinh thái, bảo vệ môi trường sống quanh ta. Tìm

lại sự hòa hợp, tâm giao với tự nhiên, tình yêu đối với thiên nhiên đừng để

những hệ lụy của cuộc sống đô thị khiến ta có lúc xao nhãng, quên đi thiên

nhiên. Tác phẩm như một lời tự trách đầy đau đớn của Nguyễn Duy về sự vô

tình lãng quên thiên nhiên, đó cũng là niềm khắc khoải với những nguy cơ sinh

thái khi môi trường tự nhiên không được con người nhớ tới.

Ánh Trăng đã thức tỉnh tinh thần sinh thái của bạn đọc đồng thời nó như

một hồi chuông về sự khủng hoảng môi trường sinh thái, về cách cư xử của con

người với tự nhiên. Cảnh tỉnh con người về mối quan hệ của con người với tự

nhiên. Nguyễn Duy đã đặt con người trước những hoàn cảnh, tình huống và hậu

quả khi lãng quên hay đánh mất môi trường sinh thái tự nhiên trong cuộc sống

của mình. Bằng tình yêu tha thiết với thiên nhiên nhà thơ cũng đã khơi dậy tinh

34

thần và ý thức môi sinh trong lòng thế hệ người dân Việt.

CHƯƠNG 3

DẤU ẤN VĂN HÓA TRONG ĐÒ LÈN CỦA NGUYẾN DUY

3.1. Văn hóa truyền thống với lễ hội, phong tục tập quán

3.1.1. Văn hóa lễ hội

Xã hội Việt Nam cổ truyền là xã hội nông nghiệp. Chính đời sống nông

nghiệp đã chi phối rất lớn đến những nhu cầu cần thiết trong đời sống hằng ngày

của cư dân nông nghiệp. Là những nông dân, sống với nghề trồng lúa nước nên

nhu cầu về đời sống tâm linh trở thành nhu cầu lớn nhất đối với họ. Lễ hội được

hình thành. Lễ hội nuôi dưỡng đời sống văn hoá của cả cộng đồng, là nơi thắt

chặt tình cảm, là vô hình liên kết giữa cá nhân và cộng đồng. Lễ hội là dịp con

người được trở về nguồn, nguồn cội tự nhiên hay nguồn cội của dân tộc đều có ý

nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi người.

Sinh hoạt lễ hội có vị trí rất quan trọng trong tâm thức mỗi người dân

Việt Nam. “Nếu cây đa giếng nước, sân đình là những thành tố gắn bó thân thiết

với mỗi người từ thuở thiếu thời cho đến lúc giã biệt cõi đời, thì lễ hội lại là

thành tố văn hóa gắn bó không những thân thiết mà vừa thiêng liêng, lại vừa

mãnh liệt gần gũi” [9, tr.112]. Dường như lễ hội đã trở thành biểu tượng thiêng

liêng cho một nét văn hóa đẹp ở làng quê Việt Nam, là một biểu tượng văn hóa

in đậm nét trong thơ ca. Bài thơ Đò Lèn đã tái hiện lễ hội dân gian truyền thống

của dân tộc trên mảnh đất xứ Thanh. Đó là lễ hội Đền Sòng - lễ hội văn hóa tâm

linh vào loại lớn nhất của vùng quê Thanh Hóa.

Lễ hội Đền Sòng xuất phát từ tín ngưỡng thờ Mẫu của cư dân Việt. Lễ

hội để tưởng nhớ ngày Mẫu Liễu giáng trần cứu nhân độ thế, hay còn gọi là

35

ngày “rước bóng Đền Sòng”. Nguyễn Duy đã làm sống lại không khí ngày hội

quê, ghi lại dấu ấn trong thơ của mình. Hồn thơ ông như bị hút vào không khí

chung của làng quê vào hội mùa xuân. “Những ai có dịp sống ở làng, nhất là

làng quê miền Bắc đều dễ có cảm nhận rằng Hội làng là một lễ hội sinh động

sâu sắc lôi cuốn mọi người vào cuộc vận động quần thể náo nức ấy một cách tự

nguyện và say mê đến mức nào”…. Không chỉ có vậy, Nguyễn Duy còn đưa ta

trở về kí ức tuổi thơ đầy kỉ niệm - về “thần hồn” của một vùng quê xưa. Các địa

danh thân thuộc của quê hương thân yêu từng gắn bó với tâm hồn của tác giả

thời thơ bé, từng in dấu chân trong những ngày lễ hội được nhắc lại xiết bao nỗi

ân tình: Chùa Trần, đền Cây Thị, đền Sòng… Nguyễn Duy đã gợi lên ở người

đọc những rung động về cái hồn nhiên, trong sáng, ngộ nghĩnh của một cậu bé

nơi làng quê trước đây với đôi chân đất của con nhà nghèo, vẫn háo hức trong

mùa lễ hội. "Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh" (Tản Đà), giáp giới với tỉnh Ninh

Bình thế mà chú bé vẫn lặn lội “Chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng” (Đò Lèn).

Bàn “chân đất” đã trở thành hình ảnh không thể nào quên đối với mỗi người, cái

cảm giác được trực tiếp chạm chân vào đất mát lạnh đến vô cùng, nó ghi dấu

hành trình những đêm lễ xa xôi. Đi hội, xem hội thực sự là niềm hạnh phúc mê

say với những ai đã trải qua năm tháng sống ở làng quê. Nguyễn Duy đã cảm

nhận được điều đó một cách sâu sắc bằng cả niềm vui sướng của chính mình.

Có thể nói, lễ hội dân gian truyền thống đã được nhà thơ xứ Thanh ban

cho sự trường tồn trên những trang thơ. Lễ hội Đền Sòng trong thơ Nguyễn Duy

đã ghi dấu ấn biết bao nhiêu sinh hoạt văn hóa dân gian. Nhưng cái hồn quê sâu

đậm nhất làm nên khuôn mặt văn hóa của làng quê mà Nguyễn Duy đặc biệt

nâng niu chính là nghệ thuật hát Chầu văn. Đọc Đò Lèn, gợi lên kí ức tuổi thơ

của cậu bé Duy đắm chìm vào những trò chơi, ngụp lặn trong miên man những

36

tượng Phật, chùa Trần, đi lễ đền Sòng, hay xem hát Chầu văn: “ Mùi huệ trắng

quyện khói trầm thơm lắm / điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng” (Đò Lèn).

Chẳng biết từ bao giờ, không chỉ với cậu bé Nguyễn Duy mà cả du khách về dự

hội đền Sòng đều bị cuốn hút và say hồn với những làn điệu Chầu văn. Đây là

hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu thánh của văn hóa thờ Mẫu. Giai

điệu của hát văn với ba hệ thống làn điệu riêng Cồn- Dọc- Xá, khi thì mượt mà,

hấp dẫn, khi lại dồn dập, khoẻ khoắn vui tươi: “ Xanh xanh đỏ đỏ bừng bừng /

tứng từng tưng tửng từng tưng đã đời” (Cung văn). Chính vì thế hát chầu văn

luôn tạo ra một không khí tươi vui, háo hức, tưng bừng chứ không ai oán trầm

lắng như ca trù. Hát văn giống như những vũ điệu của thánh thần, dìu dặt và mê

hoặc lòng người. Dập dìu trên nền nhịp phách lúc ẩn lúc hiện, nhiều làn điệu

mang đậm tính trữ tình… Điệu hát khiến cả cung văn cùng các con nhang đệ tử

như tỉnh như say trong sự hòa quyện đồng điệu: “ Phím dây từng bậc lên trời / rủ

nhau quên tóc rối bời cỏ rơm” (Cung văn). Bởi vậy giai điệu tiếng đàn, giọng hát

Chầu văn có một sức quyến rũ đặc biệt với con người khi tìm đến với cõi tâm

linh. Chính sự gắn bó máu thịt với vùng đất xứ Thanh, thơ Nguyễn Duy hiện rõ

từng cảnh vật, con người cùng bao giá trị văn hóa tinh thần hàng nghìn đời mà

cha ông để lại. Người đọc qua đó mặc sức mà ngắm nhìn, thưởng thức và rồi yêu

thích thực sự nét văn hóa đặc sắc, độc đáo của vùng quê thân thương này.

Cũng như mọi lễ hội dân gian truyền thống, lễ hội Đền Sòng diễn ra

nhiều cuộc tế lễ, đặc biệt là lễ Rước bóng Mẫu, cô Bơ, cô Chín… lấp lánh vẻ

đẹp nghệ thuật và tâm linh huyền bí. Mùi hương hoa huệ cùng khói trầm bay đã

gợi ra một không gian linh thiêng, không gian tâm thức, không gian cầu nối giữa

cõi đời phàm tục và cõi tâm linh huyền ảo. Quyện trong mùi thơm của hoa huệ,

điệu hát văn trầm bổng, sâu lắng là những giá đồng làm say lòng người. Hoa huệ

37

trắng, khói trầm, điệu hát văn và bóng cô đồng “lảo đảo” dường như đã in sâu

vào tâm hồn tuổi thơ của Nguyễn Duy để rồi được khắc vào vần thơ Đò Lèn: “

Mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm / điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”.

Đạo Mẫu quan niệm Thần Thánh không hiện hình tướng mà chỉ có “bóng”.

Trong nghi thức hầu đồng, người ngồi đồng thể nhập vào trạng thái ngây ngất

của tâm lý trong tiếng nhạc hầu để Bóng Thánh ngự vào. Chính các màn diễn

xướng này tạo nên không khí linh thiêng, hứng khởi và thăng hoa của lễ hội. Nó

là sự thăng hoa từ đời sống hiện thực và trần tục, vượt lên thế giới hiện thực,

trần tục của đời sống thường ngày. Đời sống tâm linh với người dân như một cõi

riêng, một điểm tựa về tinh thần, để họ thoát tục, lãng quên phiền muộn trong

đời thực, phiêu bồng vào cõi mơ ước. Tính thiêng liêng của lễ hội hướng tâm

hồn con người đến sự trong sáng đẹp đẽ, hướng con người về cái cao cả - chân

thiện mỹ, trong đó có niềm tin tôn giáo tín ngưỡng.

Nếu ai có may mắn một lần được tham gia nghi lễ hầu đồng hẳn sẽ không

khỏi trầm trồ thích thú trước trang phục và trang sức của các cô Đồng, bà Đồng

mỗi khi thể nhập một vị Thánh. Có bao nhiêu giá đồng thì tương ứng với ngần

ấy bộ trang phục và trang sức đi kèm. Hình ảnh các cô Đồng, cậu Đồng dường

như càng “đẹp” hơn trong các màn vũ đạo đặc sắc. Ba mươi sáu giá đồng sẽ

tương ứng với ba mươi sáu vũ điệu khác nhau. Lễ hội thiêng liêng là vậy, nhưng

lễ hội lại thấm đượm chất đời, tươi nguyên nhựa sống. Giờ khắc lễ hội cũng là

giờ khắc thăng hoa của những con người đi hội, xem hội: “ Thần linh nườm

nượp trở về / chắp tay lạy thánh tôi mê cô đồng” (Tôi và em, và...). Không chỉ

bản thân người thể nhập “bóng Thánh” - những người tham dự nghi lễ phấn

khích, hào hứng mà người đi xem lễ hầu đồng cũng dường như càng xốn xang,

càng náo nức đến phải “mê cô đồng”- những con người thật đang thác mình vào

38

thế giới tâm linh huyền ảo, đưa con người hợp nhất với Thần linh.

Thơ Nguyễn Duy đã miêu tả hội Đền Sòng trang trọng và sôi động, ẩn

chứa cả một hành trình văn hóa của một xứ sở. Đó không đơn thuần là sự nhìn

thấy và ghi lại, mà là kết quả của cả một hành trình văn hóa dân tộc lắng đọng

trong tâm thức nhà thơ. Âm hưởng thiêng liêng và rộn ràng của lễ hội Đền Sòng

làm nên âm hưởng rộn ràng và thiêng liêng trong thi phẩm Nguyễn Duy. Nếu lễ

hội là nơi để con người trở về với cội nguồn văn hóa cổ truyền, thì lễ hội trong

thơ Nguyễn Duy chính là nơi bảo lưu và trao truyền các giá trị văn hóa đó cho

muôn đời sau. Thơ Nguyễn Duy tiếp tục khẳng định vẻ đẹp và ý nghĩa của cuộc

sống con người không thể tách rời tâm thức và cội nguồn văn hóa dân tộc.

3.1.2. Phong tục, tập quán quê hương

Cuộc sống của mỗi người Việt Nam đều gắn bó mật thiết với xóm làng,

quê hương. Bởi vậy, nói đến văn hoá làng quê là đề cập đến một bức tranh nhiều

màu sắc của sự đa dạng phong phú những phong tục tập quán - những thói quen

lâu đời đã ăn sâu vào tâm thức cộng đồng và lan tỏa trong dân chúng.

Lễ hội đền, chùa ở Việt Nam chứa đựng và mang đậm bản sắc của dân

tộc. Đó là thời gian mà những phong tục tập quán được thể hiện rõ nhất. Trong

Đò lèn Nguyễn Duy, lễ hội đền, chùa đã trở thành biểu tượng văn hóa đặc sắc

của dân tộc. Mọi sinh hoạt phong tục của ngày lễ đều được tác giả đưa vào thơ.

Có thể nói, bản sắc văn hóa được thể hiện đậm nét qua những trang thơ viết về

lễ hội đền, chùa. Với ý thức trân trọng và giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc,

thơ Nguyễn Duy ghi lại những giá trị văn hóa đã ăn sâu vào tiềm thức qua bao

thế hệ của người dân thôn quê. Có thể dễ dàng nhận thấy trong tác phẩm của

mình Nguyễn Duy đã nhắc tới rất nhiều các địa danh của quê hương bên cạnh đó

là hình ảnh của những ngôi đền, ngôi chùa như: Chùa Trần, đền Cây Thị, đền

39

Sòng,… sở dĩ trong tác phẩm của mình ông gợi nhắc lại những ngôi đền, ngôi

chùa vì nó gắn liền với tuổi thơ ông, gắn liền với cái thời:“ Bắt chim sẻ ở vành

tai tượng phật / và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần” ngay từ hồi còn nhỏ tác giả

đã được sống gần gũi với cái thế giới tâm linh tôn thờ đạo Phật của quê hương

mình thế nên hình ảnh những ngôi chùa chính là một phần tuổi thơ của Nguyễn

Duy. Trong tâm thức của Nguyễn Duy những ngôi đền, chùa không chỉ có lễ hội

mà nó còn là nơi nuôi dưỡng tâm hồn mình. Tuổi thơ của Nguyễn Duy trải dài

và gắn bó với mỗi bước chân tảo tần của người bà bên cạnh những ngôi chùa

thơm mùi huệ trắng, tỏa ngát khói trầm. Từ nhỏ cậu bé Nguyễn Duy đã được bà

cho đi lễ đền, chùa cùng bà nên Nguyễn Duy cảm nhận rất rõ cái thiêng liêng,

niềm tin mà người dân xứ Thanh gửi gắm nơi cõi phật. Có thể nói tục lễ đền, lễ

chùa đã trở thành một nét đẹp tâm linh trong văn hóa người Việt. Đền, chùa đã

mang lại sự an lòng cho con người, giúp con người có thể tìm thấy nơi bình an

thực sự. Đến với đền, chùa con người sẽ có cảm giác thiêng liêng, nhẹ nhàng,

thanh thản và quan trọng hơn nó giúp họ quên đi muộn phiền của cuộc sống, là

chỗ dựa về mặt tinh thần của con người:

Cái năm đói củ dong riềng luộc sượng

Cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm

Dù cuộc sống có nhiều khó khăn nhưng trong tâm thức người Việt họ vẫn

luôn gửi gắm một niềm tin nơi Thánh, Phật. Phong tục lễ đền, chùa đã ăn sâu

vào đời sống sinh hoạt của người dân Việt, trở thành nét văn hóa tâm linh đặc

sắc. Đó cũng chính là tín ngưỡng tôn đạo Phật của nhân dân ta. Có lẽ vì lí do đó

mà trong thơ của mình Nguyễn Duy đã cho bạn đọc thấy được một nét đặc sắc

trong phong tục quê hương của người dân Việt đó là tục đi lễ đền, chùa, không

chỉ gửi gắm niềm tin nơi cõi Phật mà còn tìm sự an lành, sự thanh thản nhẹ

40

nhàng để quên đi những bộn bề lo toan của cuộc sống.

Trong các trang thơ của mình Nguyễn Duy đã nhiều lần nhắc tới: “Mùi

huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm” hình ảnh huệ trắng phải chăng cũng chính

là một nét đẹp trong tín ngưỡng thờ phật, thờ tổ tiên… của người dân Việt.

Chúng ta thường bắt gặp hình ảnh ở những ngôi đền, ngôi chùa thường cắm huệ

trắng trên ban thờ, không chỉ vậy mà ngay cả thờ ông bà, tổ tiên người dân Việt

thường dùng hoa huệ trắng. Chính nét độc đáo trong tín ngưỡng này đã đi vào

thơ Nguyễn Duy rất đỗi giản dị mà gần gũi: “Mùi huệ trắng quyện khói trầm

thơm lắm” hay “Cái năm đói củ dong riềng luộc sượng / Cứ nghe mùi huệ trắng

với hương trầm”. Mùi huệ trắng hay cũng chính là sự tinh khiết, thanh cao trong

chính tâm hồn người dân Việt, mùi thơm nhẹ dịu đó quyện vào khói trầm tạo

nên không khí tĩnh lặng, nhẹ nhàng mà có gì đó thiêng liêng nơi thánh, phật.

Điều này mang lại cho con người sự thanh lọc, niềm tin và nghị lực trong cuộc

sống. Có lẽ vì vậy mà tục thờ hoa huệ ở đền, chùa, ở ban thờ tổ tiên trong gia

đình được người dân Việt lưu giữ, và mùi huệ trắng đó cũng gắn liền với tuổi ấu

thơ Nguyễn Duy theo vào những trang thơ của ông.

Người Việt Nam luôn hướng về lễ hội đền, chùa với ý nghĩa thiêng liêng,

trang trọng. Phải chăng những vất vả nhọc nhằn của cuộc sống đều lắng lại trước

ngày lễ thiêng liêng. Và người Việt dù điều kiện vật chất thiếu thốn, khó khăn

nhưng không vì thế mà họ kém đi lòng thành tâm hướng về Thánh, Phật. Trong

đời sống tâm linh của người Việt, tục đốt nhang (thắp hương) đã trở thành thuần

phong mĩ tục và được gìn giữ lưu truyền qua nhiều thế hệ. Nén hương đã đi vào

đời sống tâm linh, tín ngưỡng của người Việt Nam. Những sợi khói nhang cuộn

tròn, phảng phất bay đi để lại mùi hương thoang thoảng như một sợi dây thiêng

liêng gắn kết cuộc sống con người với đất trời, là cầu nối giữa con người ở trần

41

gian với thần thánh, ông bà, tổ tiên đang ở cõi vĩnh hằng. Nén nhang thơm dâng

đất trời tiên tổ đã trở thành nét đẹp văn hóa người Việt, đem lại cho mọi người

sự thanh thản, bình yên trong tâm hồn. Đối với người Việt Nam chúng ta những

khi muốn tìm nơi cho tâm hồn thanh thản, gửi những cầu mong và niềm tin thì

mọi người thường tìm đến nơi đền, chùa thắp nhang để cầu nguyện an vui. Vì lẽ

đó mà ngay từ nhỏ cậu bé trong Đò Lèn đã quen thuộc với mùi nhang thơm tỏa

ra từ các ngôi đền, ngôi chùa.

Đặc trưng văn hóa Việt là trọng tình “ một trăm cái lý không bằng một tí

cái tình”. Vì thế, truyền thống đạo lí thủy chung tình nghĩa cũng chính là một giá

trị văn hóa tinh thần đặc sắc của văn hóa Việt. Từ cuộc sống lao động ở làng xã

đã tạo ra sự đoàn kết gắn bó cộng đồng, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, cùng

nhau chia sẻ ngọt bùi đắng cay... Tình nghĩa thuỷ chung đã trở thành lẽ sống của

người dân Việt.

Với Nguyễn Duy, dường như tình thương yêu giữa con người với con

người đã làm nên nền móng vững chắc tạo nên những giá trị vĩnh hằng trong

cuộc sống. Những con người trong trang thơ Nguyễn Duy, làm lụng, suy nghĩ,

giao tiếp và đối xử với nhau trong sự chi phối sâu sắc của cái “tình”. Bằng tiếng

thơ của mình, Nguyễn Duy cho người đọc thấy thứ tài sản vô giá này được làm

nên và lưu truyền từ những con người bình dị, sống lặng lẽ giữa cuộc đời.

Nhưng trong cái bình thường có vẻ như quá giản đơn của họ, nhà thơ đã phát

hiện ra vẻ đẹp của con người Việt là cần cù, chịu khó, giàu đức hi sinh và lòng

yêu thương con người. Đó là hình ảnh người bà đơn độc nhưng mạnh mẽ trong

cuộc sống lam lũ, bần hàn trong những bất hạnh hay những thách thức tồn vong

của làng quê, gia đình nhưng bà vẫn giàu nghị lực vươn lên trong chính những

khó khăn đó. Bà lặn lội "mò cua xúc tép" ở đồng Quan để có tiền mua gạo nuôi

42

cháu. Bà đi gánh thuê chè xanh Ba Trại, gánh nặng, đường xa và gồ ghề, đêm tối

và gió rét, đôi chân bà "thập thững" bước đi. Đôi vai "chín dạn" vì gánh đòn tre.

Chân bước cao bước thấp, lúc ngả lúc nghiêng, bước đi "thập thững" trong đêm

tối, trong gió rét. Bà vất vả và cơ cực. Bà là hiện thân của đức hi sinh, chịu

thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam, của những cái cò lặn lội trong

cuộc đời. Nguyễn Duy đã gửi gắm bao tình thương và biết ơn đối với bà. Dù

cuộc sống có khó khăn, dù cho chiến tranh có tàn phá đi tất cả thì bà vẫn luôn

dành một tình thương yêu vô bờ bến cho đứa cháu của mình. Niềm thương yêu

đó chính là nghị lực để bà quên đi những mệt nhọc, lam lũ trong cuộc đời vươn

lên lo cho cuộc sống của cháu:

Bom Mĩ dội nhà bà tôi bay mất

Đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền

Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết

Bà tôi đi bán trứng ở Ga Lèn

Hiện thực khắc nghiệt của đời sống, cuộc chiến tranh chống Mỹ ập tới,

làm đảo lộn tất cả, một đảo lộn vừa đau đớn vừa xót xa nhưng bà vẫn giàu niềm

tin, giàu nghị lực trong cuộc sống. Bà vẫn tiếp tục lao động không hề sợ hãi hay

lùi bước trước khó khăn “ Bà tôi đi bán trứng ở Ga Lèn”. Hình ảnh người bà

với đức tính cần cù chịu thương chịu khó, giàu lòng yêu thương, giàu nghị lực

và niềm tin trong cuộc sống chính là một biểu tượng đẹp cho lối sống, phong tục

tập quán của con người Thanh Hóa nói riêng và của dân tộc Việt nói chung.

Xuất phát từ sự cảm thấu và trân trọng nét đẹp văn hóa của con người, quê

hương, trong sáng tác của mình, Nguyễn Duy cho ta thấy những nét đẹp của văn

hóa, con người trên dải đất cong cong hình chữ S dù sống trong hoàn cảnh bình

thường của cuộc sống hàng ngày hay trong những bất thường của chiến tranh thì

43

ở họ luôn ngời sáng nét đẹp của lối sống chan chứa nghĩa tình, giàu sự hi sinh và

nghị lực vươn lên.Thấu hiểu và viết lên những nét đẹp văn hóa của quê hương,

đất nước, chứng tỏ Nguyễn Duy đã quan sát, nhìn nhận bằng tất cả những tình

cảm yêu thương, trân trọng. Những vần thơ của Nguyễn Duy thực sự truyền đến

người đọc niềm ngưỡng vọng chân thành, tha thiết cùng những thức nhận sâu xa

bản sắc văn hóa Việt, lẽ ứng xử sâu xa trong cuộc đời.

3.2. Văn hóa hiện đại với những vấn đề thế sự

3.2.1. Văn hóa hiện đại

Văn hóa của mỗi dân tộc luôn là một dòng chảy không ngừng và bên cạnh

những nét đẹp của văn hóa truyền thống thì Nguyễn Duy cũng đã nhắc đến những

giá trị văn hóa hiện đại. Trong bài thơ Đò lèn ngoài văn hóa truyền thống với

những lễ hội, những phong tục tập quán thì Nguyễn Duy đã hướng ngòi bút của

mình đề cao những giá trị văn hóa hiện đại được tiếp nối và phát huy từ nét đẹp

văn hóa truyền thống, từ lối sống của con người giàu nghị lực và tình yêu thương.

Hình ảnh người bà tảo tần, giàu nghị lực trong cuộc sống không chỉ là một

nét đẹp về lối sống của con người Việt Nam xưa mà hình ảnh đó được nâng lên

như một nét đẹp truyền thống của người phụ nữ hiện đại ngày nay. Người bà ấy

dù trong bom đạn của chiến tranh, dù cuộc sống còn muôn vàn khó khăn, thiếu

thốn thì vẫn luôn dành cho cháu mình tình yêu thương vô bờ. Bà luôn vượt lên

sóng gió của cuộc đời để chở che, nuôi dạy cháu lớn khôn: “ Quán cháo đồng

giao thập thững những đêm hàn” hay “ Bom Mĩ dội nhà bà tôi bay hết” thì bà

vẫn đi bán trứng ở Ga lèn vì cuộc sống mưu sinh, vì lòng thương yêu cháu và vì

một niềm tin nơi cuộc sống còn nhiều khói bom. Không chỉ là một người bà yêu

thương cháu mà bà còn là người ba, người mẹ chăm lo cho cuộc sống sinh hoạt

hàng ngày của cháu, là người bạn để mang lại cho tuổi thơ Nguyễn Duy những

44

kỉ niệm ngọt ngào. Bà không chỉ giữ vai trò trụ cột trong gia đình mà còn là chỗ

dựa tinh thần là nguồn nuôi dưỡng tâm hồn Nguyễn Duy. Đó cũng chính là hình

ảnh của người phụ nữ hiện đại đảm đang, tháo vác bởi lẽ trong cuộc sống người

đàn ông sẽ thường là trụ cột, là chỗ dựa về mọi mặt cho các thành viên trong gia

đình. Thế nhưng trước hoàn cảnh khốn khó của cuộc sống bà đã trở thành niềm

tin, là chỗ dựa cho người cháu. Bà vượt lên trên tất cả, quên đi hoàn cảnh hiện

tại của bản thân mình để bươn trải với cuộc sống mưu sinh, để làm tròn trách

nhiệm người bà, người ba, người mẹ chăm lo cho gia đình. Ngoài những nhọc

nhằn của cuộc sống thường nhật bà cũng tìm cho mình những phút thư thái, tĩnh

tâm bên bóng cửa phật. Đó chính là sự cân bằng trong cuộc sống và là một nét

đẹp trong văn hóa hiện đại được Nguyễn Duy thể hiện.

Văn hóa hiện đại không tách rời với nét đẹp văn hóa truyền thống ngàn

đời xưa của ông cha ta mà có sự tiếp nối, phát huy. Trong văn học dân gian ta

bắt gặp hình ảnh người phụ nữ đẹp với tâm hồn thanh cao. Nhìn vào lịch sửa từ

ngàn xưa chúng ta có Bà Trưng, Bà Triệu đuổi giặc giữ yên bờ cõi. Chúng ta có

thể thấy từ xa xưa người phụ nữ đã có vai trò quan trong đối với cuộc sống, đối

với đất nước. Hình ảnh người bà của Nguyễn Duy là sự kết tinh vẻ đẹp của

người phụ nữa truyền thống với vẻ đẹp của người phụ nữ hiện đại đảm đang,

giàu nghị lực, niềm tin. Bà không chỉ vun vén cho cuộc sống mưu sinh mà còn

gián tiếp tham gia vào công cuộc bảo vệ đất nước. Trước khói bom của chiến

tranh bà vẫn vững vàng nuôi dạy cháu thơ, tạo niềm tin, động lực và là chỗ dựa

để Nguyễn Duy có thể khôn lớn với tuổi thơ vẹn tròn bên tình yêu thương. Bà là

hậu phương vững chắc để khi trưởng thành tác giả trở thành một người lính

chiến đấu vì sự bình yên của Tổ quốc. Sự cống hiến, hi sinh thầm lặng, lối sống

45

giàu niềm tin, nghị lực của bà là nét đẹp nổi bật của người phụ nữ hiện đại.

Người phụ nữ không chỉ đảm đang việc nhà mà còn tham gia vào các hoạt động

xã hội, tham gia vào quá trình bảo vệ và phát triển đất nước.

Cùng với nét đẹp hiện đại trong lối sống của người phụ nữ Đò Lèn cũng

đưa người đọc đến với nét đẹp văn hóa hiện đại trong cuộc sống sinh hoạt

thường nhật, nét đẹp trong tín ngưỡng thờ phật. Tín ngưỡng thờ Phật, thờ Mẫu

là một trong những tín ngưỡng có từ lâu đời ở Việt Nam và trở thành một phần

không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người dân Việt. Tuy nhiên cùng với

sự phát triển của xã hội thì đời sống tâm linh của người Việt cũng có sự phát

triển và thay đổi. Xuyên suốt bài thơ là hàng loạt các địa danh đền, chùa gắn liền

với mảnh đất Thanh Hóa như: Đền Cây Thị, đền Sòng, đền Trần… cho thấy nét

đẹp rất đặc biệt về mặt tâm linh, tín ngưỡng của văn hóa hiện đại. Trong cuộc

sống ngày nay con người vẫn luôn tin vào thánh phật, vẫn thành kính nơi cửa

phật.

Những năm đói củ dong riềng luộc sượng

Vẫn nghe mùi huệ trắng với hương trầm

Dù cuộc sống còn nghèo khó thì trong thâm tâm mỗi người dân xứ Thanh

họ vẫn luôn nuôi một niềm tin nơi thánh phật. Niềm tin và sự thành tâm đó tiếp

thêm sức mạnh để họ vượt qua những khó khăn trước mắt của cuộc sống, giúp

họ tìm được một hướng đi cho những bế tắc của tâm hồn. Đây là nét đẹp được

tiếp nối từ truyền thống tuy nhiên nét đẹp văn hóa đó đã có sự thay đổi và tiến

bộ trong cuộc sống hiện đại. Trong đời sống tâm linh bà vẫn gửi gắm niềm tin,

niềm hi vọng nơi thánh phật nhưng trước hoàn cảnh của cuộc sống thực tại chiến

tranh với những đau thương mất mát, nhất là sự tan hoang, đổ nát của những

chùa chiền thì bà vẫn đi bán trứng ở ga lèn vượt lên trên mọi hoàn cảnh và cả sự

46

khủng hoảng niềm tin nơi thánh phật. Giữa bom đan, giữ sự khủng hoảng về

niềm tin của con người vào thánh phật thì bà vẫn lặng lẽ với cuộc sống mưu

sinh. Đây chính là nét đẹp tiến bộ của con người hiện đại trong quan niệm và

cách nhìn nhận về tín ngưỡng thờ phật. Luôn có lòng thành kính đối với Thánh,

Phật, gửi gắm niềm tin và mong ước nơi cửa phật nhưng luôn có cái nhìn hiện

thực đối với cuộc sống, sống thực tế, sẵn sàng đối diện với khó khăn không bi

lụy hay mất phương hướng trước những sự khủng hoảng về tín ngưỡng.

3.2.2. Những vấn đề thế sự

Thơ Nguyễn Duy không chỉ phản ánh những vấn đề của văn hóa hiện đại

mà cả những vấn đề thế sự cũng được ông thể hiện khá rõ trong thơ của mình.

Xuyên suốt bài thơ Đò lèn đó là hiện thực của cuộc sống đầy khó khăn, vất vả

mà trong chính tuổi thơ của mình Nguyễn Duy đã chứng kiến và trải qua:

Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị

Chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng

Tuổi thơ ấu của Nguyễn Duy sống trong tình yêu thương của bà, một tuổi

thơ gắn liền với những trò chơi trẻ con, những hình ảnh về đời sống tâm linh, tín

ngưỡng của quê hương nhưng đằng sau đó lại là hiện thực đầy rẫy những khó

khăn, thiếu thốn. Hình ảnh một cậu bé “chân đất đi đêm” không chỉ cho thấy sự

vô tư, hồn nhiên của một đứa bé vội vàng, hồ hởi đi xem hội mà nó còn là hình

ảnh tố cáo cuộc sống thế sự đương thời nghèo nàn, khó khăn, thiếu thốn. Cái

hiện thực cuộc sống đó không chỉ thể hiện qua tuổi thơ Nguyễn Duy mà nó còn

hằn lên trong chính cuộc đời lam lũ, vất vả của người bà Nguyễn Duy:

Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

Bà mò cua xúc tép ở Đồng Quan

Bà đi gánh chè xanh Ba Trại

47

Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn

Đó là tất cả những cơ cực, vất vả mà người bà đã tảo tần nuôi đứa cháu.

Trong thơ Nguyễn Duy, trong cái đói, cái khổ nổi bật lên chính là hình ảnh lam

lũ của bà “Bà mò cua xúc tép”, đó là những việc làm hàng ngày để kiếm cái ăn

chăm lo cho con cháu. Ẩn hiện trong câu thơ hình ảnh bà còng lưng, nhẫn nại

mò cua bắt ốc, không quản khó nhọc để niềm vui ánh lên trong những đôi mắt

thơ ngây của cháu khi có miếng ăn… Thế nhưng xúc động hơn cả là hình ảnh bà

đi gánh chè xanh đêm đêm. Gánh nặng, đường xa và gồ ghề, đêm tối và gió rét,

đôi chân bà "thập thững" bước đi. Cái khó cái khổ đè nặng trên đôi vai gầy của

bà, thể hiện trong từng bước chân “thập thững”. Chi tiết đó đủ khắc họa lên

được bao nhiêu nhọc nhằn, khó khăn của đời bà. Bước thấp bước cao lần đi

trong “những đêm hàn” buốt giá, bà trở nên bé nhỏ, liêu xiêu, nhưng chất đầy sự

thương yêu đối với con cháu. Bà hiện lên với sự mảnh mai, nhỏ bé nhưng trên

đôi vai bà gánh chè rong như gánh cả một gia đình, một tương lai của con cháu:

“ Mò cua xúc tép”, “gánh chè xanh” là cả một cuộc sống vất vả mưu sinh. Một

người bà chịu thương chịu khó bền bỉ trong cuộc sống lam lũ, khuya sớm tảo

tần. Cái dáng nhẫn nại lội sông suối, tất bật trong đêm lạnh giá làm ta nhớ đến

cánh cò cơ cực trong ca dao: “Cái cò lặn lội bờ sông…”. Trải theo bước chân

của bà là những con đường quê hương gần gũi, thân quen mở ra với đồng Quan,

Ba Trại, Quán Cháo, Đồng Giao - cách xa với nơi ở của tác giả. Đọc những câu

thơ của Nguyễn Duy, ta nhận ra đâu đó thoáng chút hình ảnh người mẹ thân

thương ở thi phẩm Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm: “Mẹ già lại quẩy gánh

hàng rong / Bước cao thấp bên bờ tre hun hút…./…Đường trơn mưa lạnh mái

đầu bạc phơ…”. Cũng từ trong ướt lạnh sương gió, người mẹ hiền từ với hình

ảnh “bước thấp bước cao”, nhọc nhằn trên đôi vai mẹ gánh hàng rong mong

48

kiếm được miếng ăn, tất cả cuộc sống và tương lai của các con phụ thuộc vào

gánh hàng rong của mẹ. Không biết bao nhiêu người con sông Đuống đã lớn lên

sau gánh hàng rong ấy. Để rồi từ đó hình ảnh người bà, người mẹ hiện lên với

đức hi sinh và tấm lòng bao dung to lớn.

Hình ảnh người bà tần tảo, lam lũ cả cuộc đời chăm lo cho tuổi thơ của

Nguyễn Duy cũng chính là hình ảnh phản ánh rõ nhất cuộc sống đương thời. Từ

nhỏ cậu bé trong Đò lèn đã lớn lên trong vòng tay yêu thương của bà bởi lẽ tuổi

thơ của cậu đã phải trải qua những năm tháng kháng chiến chống giặc ngoại

xâm, chính cái tuổi thơ ấy đã thấm thía những gì là nghèo đói, thiếu thốn một

gia đình có ba, mẹ đủ đầy. Cuộc sống đói khổ, thiếu thốn khiến bà phải tần tảo

sớm khuya cho dù tuổi đã cao. Những nhọc nhằn của cuộc sống hằn lên trên đôi

vai gầy của bà, in dấu trong những đêm giá lạnh. Người bà tần tảo ấy cũng chính

là hiện thân của bao người bà, người mẹ Việt Nam trong cuộc khắng chiến

chống Mỹ ác liệt giàu đức hi sinh, lòng yêu thương. Cuộc kháng chiến gian khổ

tới đâu thì người bà ấy vẫn lặng lẽ bươn trải, vẫn lo lắng và vun đắp cho đứa

cháu của mình.

Hiện thực cuộc sống không chỉ thể hiện qua nỗi vất vả, cơ hàn của người

bà mà nó còn là nạn đói kinh hoàng của con người trong chiến tranh. Đó là

những bữa ăn cơm trộn, đó là những lần ăn củ rong riềng thay cơm. Hình ảnh củ

rong riềng luộc sượng đã cho thấy sự nghèo đói về khắp đất nước. Nạn đói là

một nỗi kinh hoàng với con người. Củ dong, củ riềng cũng thành bạn, sượng

sùng nhưng đáng nhớ, đáng thương trong hoài niệm tuổi thơ của tác giả “ Cái

năm đói, củ dong riềng luộc sượng”. Trong bữa ăn của bà với cháu chỉ là “củ

dong riềng luộc sượng” thay cơm. Câu thơ đưa người đọc đến với hiện thực đói

49

khát, đến người bà ngày đêm lam lũ vì cuộc sống mưu sinh đời thường mà cũng

chỉ bữa đói, bữa no. Sự chân thực trong bữa cơm ngày đói được Nguyễn Duy

miêu tả khiến người đọc không khỏi bồi hồi, rung cảm đến tận tâm can.

Thế rồi không những cảnh đói mà tuổi thơ bên người bà kính yêu ấy của

nhà thơ còn phải trải qua những năm tháng vô cùng ác liệt với bom đạn của

chiến tranh:

Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất

Đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền

Đó là những ngày tháng khó khăn trong cuộc đời tác giả và người bà của

mình. Hình ảnh nhà bà bay cũng như đền Sòng, chùa chiền bay hay “ Thánh với

phật rủ nhau đi đâu hết” đã lột tả hết sự gian ác khốc liệt của cuộc chiến tranh

ấy. Bà lại phải đổi nghề khác đó chính là bán trứng ở ga Lèn. Những hình ảnh

kia như nói lên được sự khủng khiếp của chiến tranh nó không chỉ phá mất nhà

của hai bà cháu mà ngay cả chỗ linh thiêng như chùa chiền cũng bị bom đạn làm

cho biến mất tàn trụi. Hình ảnh “Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết” cũng là

cách nói ám thị, phản ánh sự khủng hoảng niềm tin của con người vào công lí,

lẽ phải. Hiện thực chiến tranh hủy diệt sự sống khiến con người mất niềm tin

vào mọi giá trị công bằng và phép màu trong cuộc đời. Duy chỉ có bà là một

điều kì diệu vẫn trụ lại giữa trần gian đau thương:“Bà tôi đi bán trứng ở ga

Lèn”. Bà chính là hiện thân của đời thực, bé nhỏ, lặng lẽ mà phi thường vẫn

không bị đan bom của kẻ thù làm cho “bay mất”, bà vẫn thầm lặng đi bán trứng

trong mưa bom bão đạn để có tiền nuôi cháu. Bỗng dưng hình ảnh của bà trở

nên kì vĩ, là một phép màu giữa cuộc đời này, vượt lên trên cả tiên, phật, thánh,

thần. Bà chính là cội nguồn, là điểm tựa tinh thần vững chắc nhất.

Sâu thẳm trong các câu thơ của Nguyễn Duy là chuỗi cảm xúc rất đỗi đời

50

thường, chân thật của tác giả. Đò Lèn là quê ngoại, nơi Nguyễn Duy đã từng

sống cùng bà khi còn thơ dại, nơi người bà đã sống suốt cuộc đời với bao nhọc

nhằn, cơ cực… và cũng là nơi bà yên nghỉ giấc ngàn thu. Chính vì thế, Đò Lèn

là nơi chạm khắc vào kí ức nhà thơ và mỗi khi nhớ về nơi ấy, bao cảm xúc lại

dâng trào, buâng khuâng, da diết. Đò Lèn không chỉ là nơi gợi nhắc những kỉ

niệm tuổi thơ hồn nhiên mà còn là nơi gợi nhớ, gợi yêu thương về người bà tần

tảo, giàu đức hy sinh, là nơi mỗi khi nhớ về nhà thơ không thể không đau đáu

một niềm yêu thương, xót xa vô cùng xúc động, không thể không ân hận, day

dứt vì sự vô tình đến vô tâm của tuổi thơ để không nhận thức được những năm

tháng cơ cực mà người ssbà đã phải trải qua. “ Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế”

câu thơ là lời ăn năn, thú nhận mình có lỗi với bà, vì mình quá ngây thơ, trong

sáng, không phân định rạch ròi hư - thực, không phân biệt được thế giới thần,

tiên và cuộc sống lam lũ đời thường, không nhận ra nỗi vất vả lam lũ của bà nên

thành kẻ vô tâm. Tự đáy lòng Nguyễn Duy luôn tự trách mình sao nỡ vô tư đến

độ vô tình, vô tâm như vậy. Nhà thơ nhận thấy trong cuộc đời đôi khi vô tình, vô

tâm cũng là cái “tội”. Có lẽ điều này đã khiến Nguyễn Duy khi trưởng thành, khi

biết nhận thức được cái hư, cái thực và nhận ra sự vô tâm của mình thì suốt đời

day dứt không nguôi:

Tôi đi lính lâu không về quê ngoại

Dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi

Khi tôi biết thương bà thì đã muộn

Bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi

Bốn câu thơ là những lời gan ruột ngậm ngùi, chất chứa niềm thương xót,

được bộc lộ chân thành, xúc động. Khi đã là người lính, đã trải qua bao thăng

trầm của cuộc đời, nhận thức của con người cũng lớn dần cùng năm tháng, chính

51

điều đó đã giúp nhà thơ nhận ra quy luật của tự nhiên là vĩnh hằng “dòng sông

xưa vẫn bên lở, bên bồi” còn cuộc đời con người là ngắn ngủi, hữu hạn “bà chỉ

còn là một nấm cỏ thôi”. Và khi nhà thơ nhận ra mình biết thương bà thì “muộn”

rồi, bà không còn nữa. Sự hiện hữu của bà bây giờ chỉ còn là một “nấm cỏ”, an

thường giữa trời đất. Bà đi vào cõi vĩnh hằng nhưng trong lòng cháu hình ảnh bà

đã chạm khắc vĩnh cửu cùng với niềm yêu thương da diết và sự ăn năn, hối lỗi

chân thành. Đoạn thơ còn như lời tự thú về sự vô tư đến vô tâm của người cháu

và trong lời tự thú đó chất chứa một nỗi niềm ân hận, một niềm đau, niềm xót

xa, day dứt tận cõi lòng.

Khép bài thơ lại, nhưng âm vang tiếng lòng của người cháu vẫn khiến

bao người đọc xúc động. Bài thơ có sức giáo dục con người hướng về cội nguồn,

hướng về những giá trị nhân bản,… không đao to búa lớn, không giáo điều mà

chỉ bằng một câu chuyện rất thật, rất giản dị, tự nhiên, chân thành. Nguyễn Duy

đã thực sự chinh phục trái tim người đọc.

Đò Lèn là một triết luận sâu sắc của Nguyễn Duy về cuộc đời, về nhân

tình thế thái, về thân phận con người trong và sau chiến tranh. Đò Lèn đã vượt ra

khỏi tình cảm riêng tư của Nguyễn Duy để nói lên tiếng lòng, tình cảm chung

của mọi người. Nguyễn Duy đã phản ánh rất rõ một vấn đề thế sự của cuộc

sống thường ngày đó là sự vô tâm của giới trẻ đối với những người thân xung

quanh mình. Bài thơ đã chạm đến cõi sâu kín và thường nhật trong cuộc sống

tình cảm của mỗi con người. Dường như Nguyễn Duy vừa nói hộ vừa nhắc nhở

cho nhiều người về lẽ sống ở đời, đặc biệt là thái độ sống của mỗi người trong

hiện tại đối với những gì gần gũi nhất trong cuộc sống của mình. Và trên hết tác

giả gửi tới bạn đọc thông điệp: Hãy thức tỉnh, hãy chọn cho mình một cách

sống, biết quan tâm đến người thân, đến mọi người ngay khi có thể, để sau này

52

không phải nói lời ân hận muộn màng…

Nguyễn Duy đã đã dành nhiều trang viết về tuổi thơ, đồng ruộng, cỏ cây

bằng những tình cảm tha thiết, nặng tình, nặng nghĩa. Qua đó làm nổi bất lên nét

đẹp văn hóa của dân tộc Việt. Ông thường tìm về quá khứ, tìm về với tuổi thơ

vẹn tròn nghĩa tình để trải lòng mình vào thiên nhiên, cảnh vật vào những sinh

hoạt đời thường để ghi lại những dấu ấn văn hóa của một vùng quê, của một xứ

sở và cả cái hồn cốt của một nền văn hóa dân tộc. Cũng là khơi gợi và trở về với

quá khứ ở Ánh Trăng đó là những kí ức đẹp gắn liền với thiên nhiên, gắn liền

với văn hóa làng, văn hóa đô thị và văn hóa sinh thái tự nhiên. Nguyễn Duy đã

làm nổi bật được nét văn hóa truyền thống của người dân Việt thông qua những

tình cảm yêu mến, những kỉ niệm ngọt ngào, gắn bó với thiên nhiên, với ánh

trăng tình nghĩa. Từ đó thấy được nét đẹp trong văn hóa làng, văn hóa sinh thái,

trong cách ứng xử của con người với tự nhiên. Con người luôn sống chan hòa

với tự nhiên, tự nhiên và con người có mỗi quan hệ khăng khít, gần gũi. Từ đó

cũng khảng định vai trò to lớn và quan trọng của thiên nhiên đối với con người.

Trong Đò Lèn Nguyễn Duy cũng trở về với quá khứ với kí ức tuổi thơ bên bà để

tìm về với những giá trị văn hóa truyền thống của quê hương xứ Thanh, của con

người Việt Nam nặng nghĩa tình. Nét đẹp văn hóa đó không chỉ hiện lên với

những phong tục, tập quán, lễ hội mà còn in hằn ngay trên cuộc sống thường

ngày của Nguyễn Duy và người bà tảo tần của mình. Cùng với những nét đẹp

văn hóa truyền thống thì Đò Lèn cũng đưa bạn đọc đến với những nét văn hóa

hiện đại được tiếp nối từ truyền thống của người dân Việt qua đó làm nổi bật lên

những vấn đề thế sự của cuộc sống thường nhật.

Ánh trăng và Đò lèn đều là những vần thơ được tác giả khơi nguồn từ

chính tuổi thơ, cuộc đời mình. Đó đều là những lát cắt của tuổi ấu thơ mà

53

Nguyễn Duy đã chứng kiến và trải qua. Những kỉ niệm thời thơ bé, kỉ niệm của

người lính thời khói bom đó đã tạo nên một phần con người Nguyễn Duy và

giúp cho Nguyễn Duy có những góc nhìn về văn hóa của quê hương, đất nước.

Trong Ánh trăng và Đò Lèn Nguyễn Duy đều chú ý tới những yếu tố văn hóa

truyền thống và hiện đại từ đó đặt ra những vấn đề có ý nghĩa lớn lao đối với

cuộc sống như vấn đề sinh thái trước lối sống mới, vấn đề thế sự trong thời đại

mới. Chính cái chất “quê mùa”, sự từng trải trong tuổi thơ của mình kết hợp với

sự am hiểu sâu sắc nếp sống, phong tục, tập quán của dân tộc và tình cảm máu

thịt với quê hương đã tạo nên một phong cách thơ Nguyễn Duy đậm đà bản sắc

dân tộc.

Cũng tập trung viết về chiến tranh và quê hương như những nhà thơ khác

nhưng ngòi bút của ông không chú trọng thể hiện những vẻ đẹp hoành tráng

mang tính sử thi mà thường nghiêng về khuynh hướng phi sử thi, phản ánh

những vẻ đẹp đơn sơ, bình dị, lắng sâu những mất mát hy sinh, da diết với cuộc

sống vất vả lam lũ của người nông dân. Bước sang thời kỳ “ đổi mới” thơ

Nguyễn Duy càng mạnh mẽ, táo bạo, tỉnh táo phơi bày những bất cập của xã hội

đương thời. Chính vì vậy, thơ ông càng giàu giá trị nhân văn, nhân bản. Hình

tượng trung tâm trong các sáng tác của Nguyễn Duy là hình tượng cái tôi trữ

tình với bản nguyên “ mang dấu ấn ruộng đồng” được thể hiện ở hai bản thể: cái

tôi mang đậm “hồn quê” và cái tôi hài hoà “hồn phố”. Hai mảnh hồn ấy chuyển

hoá vào nhau, tan biến trong nhau tạo nên sự độc đáo của hình tượng cái tôi trữ

54

tình Nguyễn Duy, tạo nên phong cách thơ Nguyễn Duy.

KẾT LUẬN

Nguyễn Duy là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca Việt Nam

hiện đại. Với chặng đường sáng tạo nghệ thuật, Nguyễn Duy luôn khẳng định

tiếng nói riêng của mình trong nền thơ ca dân tộc. Những vần thơ cuả ông mang

đầy tình cảm gắn bó, trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

Hành trình thơ Nguyễn Duy là một chặng đường dài đưa người đọc tìm về và

nhận thức sâu sắc nền văn hóa Việt. Có thể nói nét đẹp văn hóa làng cùng với

những lễ hội, phong tục tập quán quê hương đã chứng minh cho mối quan hệ nội

tại của văn học và văn hoá.

Với tư cách chủ thể tiếp nhận văn hoá đồng thời là chủ thể sáng tạo, nhà

thơ chính là người lưu giữ qua văn chương mình những đặc trưng của văn hoá

dân tộc. Bằng sự khám phá ra vẻ đẹp văn hóa làng và văn hóa sinh thái, văn hóa

đô thị và sự thức tỉnh ý thức môi sinh,cùng với những nét đẹp về văn hóa lễ hội,

phong tục truyền thống và văn hóa hiện đại với những vấn đề thế sự. Nguyễn

Duy đã định vị được nét đẹp văn hóa Việt trên bản đồ văn chương và trong lòng

người yêu thơ. Với Nguyễn Duy, vai trò của kí ức văn hóa và ý thức lưu giữ

văn hóa Việt của nhà thơ có ý nghĩa quan trọng. Qua những trang thơ của mình,

Nguyễn Duy đã thể hiện tình yêu và sự gắn bó tha thiết với mảnh đất con người

quê hương, nhất là thể hiện được tầm nhìn, tầm am hiểu hết sức lịch lãm về văn

hóa và con người Việt. Thơ Nguyễn Duy thực sự đã đi vào lòng người đọc Việt

Nam bởi vì nó đã chạm đến cái phần như là vô thức và vô cùng da diết trong mỗi

người dân Việt. Ở đó có sự đồng hiện giữa hôm nay và cội nguồn dân tộc tạo

mạch ngầm chảy xuyên suốt, nuôi dưỡng và phát triển những giá trị bền vững.

Góc nhìn văn hóa đối với văn học là một góc nhìn tương đối rộng và mới

55

mẻ. Ở đó người đọc khám phá ra những giá trị vật chất và tinh thần trong thiên

nhiên, trong cuộc sống và nhất là trong chính bản thân con người trên những

trang văn. Qua đề tài Thơ Nguyễn Duy trong trường phổ thông từ góc nhìn

văn hóa chúng tôi đã phần nào trình bày được những nét đặc sắc trên thông qua

hai bài thơ trong chương trình phổ thông: Ánh Trăng và Đò Lèn.

Thơ Nguyễn Duy đã mang lại cho nền văn học Việt Nam hơi thở rất gần

gũi, rất thật của không gian thiên nhiên và không gian văn hóa sinh hoạt làng

quê. Thiên nhiên ở đây rất bình dị nhưng lại chở cả hồn thiêng của dân tộc, cả

một bề dày văn hóa của quê hương. Hình ảnh thiên nhiên làng quê như đồng,

sông, bể, ánh trăng, đã trở thành giá trị biểu tượng cho quê hương trong sáng tác

Nguyễn Duy. Đứng ở góc độ văn hóa của đời sống tâm linh những hình ảnh đó

nói riêng và làng quê Việt Nam nói chung là ngọn đèn rực sáng trong tâm hồn

bao thế hệ người dân Việt Nam, hướng những tâm hồn tự nguyện đi theo dòng

chảy của những giá trị truyền thống mà tổ tiên ta cả ngàn đời nay khơi nguồn và

dựng xây.

Nguyễn Duy còn đưa người đọc đến vơi một vấn đề đang được quan tâm

hàng đầu hiện nay đó là môi trường sinh thái tự nhiên đang bị con người lãng quên.

Con người bị cuốn vào nhịp sống của cuộc sống đô thị, của những xa hoa, hào

nhoáng mà quên đi thiên nhiên, quên đi người bạn nghĩa tình. Trong khi đó thiên

nhiên luôn thủy chung với con người, luôn dõi theo con người và ở bên con người

trong mọi hoàn cảnh. Từ đó khơi gợi ý thức môi sinh đối với mỗi con người.

Nguyễn Duy còn đưa người đọc tìm về một nền văn hóa truyền thống

thông qua những lễ hội, những phong tục tập quán, cuộc sống sinh hoạt làng quê

mang đậm bản sắc văn hóa Việt. Khác với các nhà thơ đương đại mải miết kiếm

tìm cái đẹp trong những giấc mơ ở tầng sâu vô thức thì Nguyễn Duy vẫn thầm

56

lặng phát hiện những vẻ đẹp đơn sơ, giản dị giữa cuộc sống đời thường đầy nhọc

nhằn. Nếu như “Hồn quê” là giá trị tinh thần của văn hóa - “Hồn quê Việt Nam”

gắn chặt với văn hóa làng Việt Nam thì thơ Nguyễn Duy đã chuyển tải một nền

văn hóa làng quê Việt gần gũi thân thương nhất, sâu đậm nhất đến với mỗi một

con người đất Việt.

Con người là chủ thể sáng tạo văn hóa, cuộc sống của con người cũng

chính là nơi những đặc sắc văn hóa hội tụ nhiều nhất. Qua việc khảo sát, tìm

hiểu văn hóa hiện đại cùng với những vấn đề thế sự trong bài thơ Đò Lèn của

Nguyễn Duy chúng tôi nhận thấy giá trị văn hóa truyền thống của người Việt

luôn được phát huy và ngày càng trở nên tiến bộ trong cuộc sống hiện đại tuy

nhiên bên cạnh đó thì cuộc sống vẫn còn rất nhiều các vấn đề thế sự cần phải

được quan tâm.

Có thể nói, có rất nhiều cách tiếp cận với văn học. Hướng nghiên cứu văn

học bằng con đường văn hoá đã cung cấp thêm một con đường mới để đến với

văn học. Đặc biệt là trong chương trình phổ thông việc tiếp cận tác phẩm văn

học còn gặp khá nhiều khó khăn. Bởi vậy, tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa

giúp ta cảm nhận một cách toàn diện và sâu sắc vẻ đẹp cũng như giá trị nhiều

mặt của thơ Nguyễn Duy. Việc tìm hiểu Thơ Nguyễn Duy trong trường phổ

thông từ góc nhìn văn hóa cũng góp thêm tiếng nói vào việc khẳng định giá trị

bản sắc truyền thống văn hóa dân tộc trong đời sống hiện đại. Tiếng thơ của ông

thể hiện khát vọng gìn giữ, tôn vinh hồn cốt văn hóa Việt và cho thấy rõ mối

quan hệ mật thiết giữa văn hóa ,văn học và sinh thái. Tiếng nói ấy thiết tha âm

vang mãi trong lòng người đọc ngân lên như hồi chuông giữa thời kỳ giao lưu

hội nhập văn hóa toàn cầu.

Đồng thời, hướng nghiên cứu này cũng mở ra một trường diện nghiên cứu

57

tương đối mới mẻ, rộng lớn để chúng ta tiếp tục tìm hiểu sáng tác của tác giả

khác. Tuy nhiên, do thời gian và khả năng nghiên cứu, chúng tôi chưa thể làm rõ

những khía cạnh văn hóa đa dạng khác trong thơ Nguyễn Duy. Đồng thời ở

những vấn đề đã trình bày trong khóa luận, chúng tôi cũng chưa thể làm rõ một

cách toàn diện, đôi chỗ còn mang tính chủ quan. Chúng tôi hy vọng sẽ nhận

được những ý kiến đóng góp của quý Thầy Cô để đề tài được hoàn thiện hơn

58

trong tương lai.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

2. Khánh Chi (1994), “Với Nguyễn Duy- những bài thơ lục bát là phần quí giá

nhất của mình”, Báo Đại đoàn kết, (43), tr.14.

3. Nguyễn Duy (1984), Ánh trăng, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam.

4. Phạm Đức Dương, Từ văn hoá đến văn học, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

6. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điển thuật ngữ văn học,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

5. Tế Hanh (1986), “Hoa trên đá và Ánh trăng”, Báo Văn nghệ, (15), tr.3.

7. Lê Quang Hưng (1986), “Thơ Nguyễn Duy và Ánh trăng”, Tạp chí Văn học,

(3), tr.155-158.

8. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

9. Phan Ngọc (1998), “Về mối quan hệ giữa phê bình văn hóa và văn học”, Tạp

chí Văn học (9).

10. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

11. Vương Trí Nhàn (2001), Cánh bướm và đóa hướng dương, Nxb Văn nghệ

Thành phố Hồ Chí Minh.

12. Hoàng Phê chủ biên (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm từ

điển học, Hà Nội.

13. Vũ Tiến Quỳnh tuyển chọn (1998), Phê bình-bình luận văn học (Bằng Việt,

Phạm Tiến Duật, Vũ Cao, Nguyễn Duy), Nxb Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh.

16. Chu Văn Sơn (2003), “Nguyễn Duy thi sĩ thảo dân”, Tạp chí Nhà văn, (3),

tr.38- 53.

17. Trịnh Thanh Sơn (2004), “Lời bình của Trịnh Thanh Sơn về bài Đò Lèn”,

59

Báo thơ (7+8) (1+2/2004), tr.14.

18. Từ Sơn (1985) , “Thơ Nguyễn Duy”, Báo Văn nghệ, (30), tr.2- 11.

19. Trần Đình Sử (2011), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục.

20. Vũ Văn Sỹ (1999), “Nguyễn Duy – người “thương mến đến tận cùng chân

thật”, Tạp chí Văn học, (10), tr. 68-74.

21. Bùi Thiết (2000), Cảm nhận về văn hóa, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

22. Phan Trọng Thưởng (1998), “Văn hóa- Văn nghệ”, Báo Nhân dân,

(11/7/1998), tr.2.

23. Trần Ngọc Thêm (2002), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

24. Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

25.http://www.bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/1705-1776-

633438553480742500/100-loi-giai-dap-ve-van-hoa-Viet-Nam/Khai-niem-

van-hoa-cua-UNESCO.htm

26.http://luanvan.net.vn/luan-van/khoa-luan-van-hoa-sinh-thai-cua-nguoi-dao-

60

quan-chet-tai-vuon-quoc-gia-ba-vi-xa-ba-vi-huyen-ba-vi-ha-noi-70218/