ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
--------------------------
THÁI THỊ CHÚC
VẤN ĐỀ SỞ HỮU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X
Hà Nội – 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
--------------------------
THÁI THỊ CHÚC
VẤN ĐỀ SỞ HỮU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X
Người hướng dẫn: PGS. TS. Trần Ngọc Liêu
Hà Nội – 2019
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành cảm
ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cô giáo trong khoa Triết học, trường Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời
gian em học tập tại khoa, tại trường.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Trần Ngọc Liêu đã trực
tiếp hướng dẫn tận tình và chu đáo trong quá trình em thực hiện và hoàn thiện
khóa luận tốt nghiệp này. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn khóa luận
sẽ không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của các thầy, các cô, cùng toàn thể các bạn để khóa
luận này được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2019
Thái Thị Chúc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VÀ CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ SỞ HỮU ............................................ 7
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về sở hữu ................................. 7
1.2. Quan điểm của Đảng về vấn đề sở hữu ở Việt Nam qua các kỳ Đại
hội Đảng từ năm 1986 đến nay..................................................................... 14
Chương 2. ĐÁNH GIÁ VẤN ĐỀ SỞ HỮU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .. 23
2.1. Nền kinh tế thị trường và vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị
trường .................................................................................................. 23
2.1.1. Kinh tế thị trường và vấn đề sở hữu. .................................................. 23
2.1.2. Kết quả đạt được trong quá trình đổi mới của Đảng về vấn đề sở hữu.
......................................................................................................................... 27
2.2. Những hình thức sở hữu cơ bản trong quá trình đổi mới Việt Nam
hiện nay. ......................................................................................................... 34
2.2.1. Sở hữu nhà nước .................................................................................. 36
2.2.2. Sở hữu tập thể ...................................................................................... 40
2.2.3. Sở hữu tư nhân .................................................................................... 43
2.2.4. Sở hữu hỗn hợp .................................................................................... 47
2.3. Một số hạn chế và vấn đề đặt ra ........................................................... 50
KẾT LUẬN .................................................................................................... 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 64
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Sở hữu luôn được coi là vấn đề quan trọng của mỗi quốc gia. Giải quyết
vấn đề sở hữu sẽ tạo động lực cho phát huy kinh tế- xã hội, nhưng nếu không
nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề sở hữu sẽ làm cản trở đến quá trình xây dựng và
phát triển đất nước. Sự phát triển của khoa học công nghệ như vũ bão, xu
hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng nhanh cuốn hút các quốc gia
vào một sân chơi chung. Vì vậy, mỗi quốc gia phải nhanh chóng thay đổi, bắt
nhịp được xu thế chung của thế giới. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam. Với tình hình đất nước ta hiện nay, đặt
ra nhiều vấn đề liên quan đến sở hữu đòi hỏi phải nghiên cứu và tìm ra các
giải pháp giải quyết vấn đề.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển sẽ làm
thay đổi vấn đề sở hữu theo hướng có lợi cho việc phát triển và đảm bảo lợi
ích cho chủ thể kinh tế như các hình thức sở hữu đa dạng giúp cho chủ thể
kinh tế có điều kiện tự do sản xuất, kinh doanh và phát huy tính năng động
sáng tạo của mình. Từ đó, họ đảm bảo cuộc sống và mang lại lợi ích kinh tế
cho đất nước. Ngày nay, khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, xu hướng phát triển nền kinh tế tri thức, làm thay đổi các hình thức
sở hữu. Bối cảnh phát triển mới của đất nước cũng đang đặt ra hàng loạt vấn
đề liên quan đến sở hữu đòi hỏi phải nghiên cứu giải quyết. Đó là hiện thực
khách quan ảnh hưởng hệ thống và sâu sắc trực tiếp đến tiến trình phát triển
của Việt Nam, nhưng lại chưa được nghiên cứu. Vì vậy, trong bối cảnh toàn
cầu hóa, đứng trước những thời cơ và thách thức của thời đại, trước yêu cầu
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường mà vẫn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa thì Việt Nam nhất thiết
phải tiếp tục giải quyết đúng đắn vấn đề sở hữu. Từ đây, đòi hỏi Đảng và nhà
1
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải thay đổi tư duy lãnh đạo, đổi mới
đường lối và chính sách cho phù hợp với công cuộc hội nhập và phát triển
kinh tế- xã hội của đất nước. Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước từ năm 1986 đến nay và vấn đề sở hữu luôn là đề tài được giới
lý luận quan tâm nghiên cứu. Thành tựu hơn 30 năm đổi mới đã khẳng định
chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của
Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn đúng đắn. Chúng ta đã có nhiều chính sách
kịp thời nhằm đa dạng hóa các hình thức sở hữu và phát triển các thành phần
kinh tế.
Từ đó đến nay, vấn đề sở hữu luôn là đề tài được giới lý luận quan tâm
nghiên cứu. Song, thực tiễn xây dựng đất nước luôn đặt ra những yêu cầu
mới, đòi hỏi chúng ta phải giải quyết các vấn đề xung quanh sở hữu về bản
chất của sở hữu, sự tồn tại, vai trò của các hình thức sở hữu hiện nay và
những vấn đề đặt ra vẫn còn rất nhiều ý kiến khác nhau. Vì vậy, nghiên cứu
“Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.” có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, vấn đề sở hữu luôn thu hút
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận trên nhiều phương diện
kinh tế, chính trị- xã hội. Việc giải quyết vấn đề sở hữu là giải quyết vấn đề
cơ bản trong việc xác định mô hình cũng như phương hướng phát triển nền
kinh tế của mỗi quốc gia. Những tác động của thời cuộc đã ảnh hưởng sâu
rộng đến sự thay đổi của sở hữu và những quan niệm của con người về sở
hữu. Vấn đề đã và đang thu hút sự quan tâm không những là những nhà
nghiên cứu khoa học về luật pháp hay kinh tế, xã hội mà còn cả người dân
trong nước mà còn có cả nước ngoài.
2
Trong đó, có thể kể ra một số công trình đề cập đến vấn đề sở hữu tiêu
biểu sau đây:
- Cuốn “Chủ nghĩa Mác- Lênin và công cuộc đổi mới ở Việt Nam”
NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002 của PGS. TS. Đặng Hữu Toàn, tác
giả đã phân tích vấn đề đa dạng hóa và tính chất đan xen của các hình thức sở
hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và
nhấn mạnh sự phát triển kinh tế tư nhân. Cuốn “Về vấn đề sở hữu” do
Nguyễn Thị Luyến (chủ biên), tác giả chỉ ra rằng vấn đề sở hữu rất phức tạp
và đang còn nhiều ý kiến khác nhau. “Một số vấn đề sở hữu ở nước ta hiện
nay” do Nguyễn Văn Thạo và Nguyễn Hữu Đạt đồng chủ biên, NXB. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, đã trình bày một số vấn đề lý luận về sở hữu,
quan điểm về sở hữu. Bài viết “Vấn đề sở hữu trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội” của Phó giáo sư Tiến sĩ Lê Hữu Nghĩa trên tạp chí Cộng sản,
tháng 6/1989. Đổi mới sở hữu ở Việt Nam: Một số cơ sở lý luận của Phạm
Văn Đức (tạp chí Triết học, số 2- 2005) chỉ ra cơ sở lý luận căn bản của việc
đổi mới về sở hữu ở Việt Nam là sự đổi mới quan niệm về chủ nghĩa xã hội
và khẳng định sự thành công tiếp theo của công cuộc đổi mới phần nhiều phụ
thuộc vào những chủ trương và giải pháp nhằm sử dụng một cách tối ưu các
loại hình sở hữu. Bài viết: Phát triển các thành phần kinh tế trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (tạp chí Lý luận Chính trị, số 03-
2006) của tác giả Nguyễn Nhâm đã làm rõ tính khách quan của các hình thức
sở hữu, xác định rõ các thành phần kinh tế và vai trò của nó trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Các đề tài nghiên cứu khoa học như: kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ
“Những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề sở hữu trong chủ
nghĩa xã hội và ý nghĩa của những quan điểm đó đối với quá trình phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay”, Hà Nội, 2001 do TS Trần
Ngọc Linh làm chủ nhiệm đề tài; công trình “Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế
3
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội do GS. TS Nguyễn Kế Tuấn làm chủ biên. Các công trình đã nghiên
cứu nhiều mặt của vấn đề sở hữu và đề cập khá sâu sắc, toàn diện và có hệ
thống về vấn đề sở hữu. công trình “Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận-
thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986- 2006)” do Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận
biên tập và nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản (lưu hành nội bộ) đã đề
cập toàn diện và sâu sắc quá trình đổi mới và bài học rút ra về vấn đề sở hữu.
- Các luận văn, luận án nghiên cứu như: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Sở
hữu tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, Nguyễn Thị Huyền, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
2004, trên cơ sở những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề sở hữu, luận văn trình bày một số vấn đề lý luận
về sở hữu, sở hữu tư liệu sản xuất và những nhân tố tác động đến quá trình hình
thành, biến đổi của chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất trong nền kinh tế. Luận án
Tiến sĩ Triết học: Xu hướng và đặc điểm của quá trình đa dạng hóa các hình
thức sở hữu theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Vũ Hồng Sơn
(2000), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, trên cơ sở quan điểm,
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, thông qua phân tích sự đa dạng
hóa các hình thức sở hữu trên thế giới và trong công cuộc đổi mới ở nước ta, đã
nêu lên xu hướng và đặc điểm của quá trình đa dạng hóa các hình thức sở hữu
theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Các đề tài trên là có đóng góp rất lớn trong việc nhận thức quan điểm
chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề sở hữu. Luận chứng khoa học một số nhận
thức mới về phạm trù sở hữu. Và góp phần làm sáng tỏ nội dung quan điểm
đổi mới của Đảng về vấn đề sở hữu hiện nay. Tuy nhiên, như vậy không có
nghĩa đây là vấn đề đã được giải quyết thấu đáo. Thực tiễn khi xây dựng đất
nước luôn luôn vận động, biến đổi và sở hữu với có sự ảnh hưởng quan trọng
và luôn có những vấn đề mới nảy sinh cần được tiếp tục nghiên cứu. Song đây
4
sở hữu vẫn là vấn đề phức tạp và có rất nhiều những ý kiến khác nhau. Các
công trình nghiên cứu kể trên sẽ là những tài liệu tham khảo quý báu cho triển
khai đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và
Đảng Cộng sản Việt Nam về sở hữu, đánh giá vấn đề sở hữu đặc biệt là các
hình thức sở hữu và bước đầu luận giải những vấn đề đặt ra đối với sở hữu
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt mục đích như đã nêu ở trên, khóa luận
có những nhiệm vụ cụ thể như sau:
• Trình bày quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin và của Đảng về
sở hữu.
• Đánh giá vấn đề sở hữu tập trung vào các hình thức sở hữu ở Việt
Nam. Nêu ra những hạn chế và luận giải những vấn đề đặt ra đối với sở hữu
trong bối cảnh nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam, đặc biệt là các hình thức sở hữu.
- Phạm vi nghiên cứu:
• Về nội dung: Khi bàn về sở hữu dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn có
rất nhiều vấn đề đặt ra. Có thể kể đến như các chủ đề như chủ thể sở hữu, đối
tượng sở hữu, quyền sở hữu đối tượng sở hữu, loại hình sở hữu và hình thức
sở hữu. Trong phạm vi của khóa luận, chúng tôi tập trung nghiên cứu khảo sát
vào các hình thức sở hữu của Việt Nam hiện nay.
• Về thời gian: Quá trình đổi mới từ năm 1986 cho đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong báo cáo là: phân tích, tổng
hợp, quy nạp, diễn dịch, logic- lịch sử, khái quát hóa, trừu tượng hóa và các
phương pháp chung của khoa học xã hội.
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận.
- Ý nghĩa lý luận: Vì vậy, việc nắm vững vấn đề sở hữu, đặc biệt là luận
điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin sẽ là cơ sở lý luận nền tảng tư tưởng cho việc
vận dụng của Đảng trong hoạch định, định hướng phát triển cho đất nước. Đó
là căn cứ để đấu tranh chống các tư tưởng phản động, chống đối và xuyên tạc
quan điểm của Đảng và nhà nước.
- Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần vào việc đánh giá có tính khái quát, nhận
diện thực trạng về sở hữu trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta đang
có quá trình hoà quyện, đan xem, bổ sung cho nhau để phát triển trong một
hành lang định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là việc lựa chọn hợp quy luật và
có hiệu quả, phát huy được các mặt của sở hữu. Trong đó, vẫn còn tồn tại mặt
hạn chế và cần đưa ra những vấn đề đặt ra của sở hữu.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của
khóa luận gồm 2 chương, 5 tiết.
6
Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VÀ CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ SỞ HỮU
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về sở hữu
Khái niệm sở hữu đã trải qua một quá trình lịch sử phát triển lâu đời.
Trong suốt nhiều thế kỷ trước, khái niệm “sở hữu” hoặc là tuyệt nhiên không
được sử dụng, hoặc đã được dùng với những nghĩa khác xa nghĩa ngày nay
[25; Tr. 9]. C. Mác là người đầu tiên đứng trên quan điểm duy vật biện chứng
để phân tích xã hội và sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử. Từ đó, ông tìm ra
quy luật khách quan về sự phát triển của xã hội loài người. C. Mác khác với
những nhà tư tưởng cùng thời, ông đi sâu vào nghiên cứu vấn đề sở hữu gắn
với các hình thái kinh tế- xã hội chứ không nghiên cứu khái niệm sở hữu một
cách chung chung trừu tượng. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin
rất quan tâm vấn đề sở hữu, các ông đã tiếp thu một cách có chọn lọc những
quan điểm về sở hữu và đã đưa ra những quan điểm khoa học về sở hữu dựa
trên lập trường của chủ nghĩa duy vật, nhưng hầu như các ông không đưa ra
một định nghĩa cụ thể nào về sở hữu.
Trong các nghiên cứu của mình, C. Mác coi vấn đề sở hữu giữ vị trí cực
kỳ quan trọng cả về mặt kinh tế và mặt chính trị. Về mặt kinh tế, vấn đề sở
hữu có quan hệ mật thiết với quá trình sản xuất của cải vật chất. Sở hữu chính
là mối quan hệ xã hội tồn tại một cách khách quan giữa người với người trong
quá trình lao động sản xuất. Đó chính là quan hệ về các điều kiện khách quan
của sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng những của cải xã hội. Nhờ có
mối quan hệ khách quan này, con người có thể tiến hành được quá trình sản
xuất ra của cải vật chất và tinh thần và nhờ có quá trình sản xuất này mà xã
hội loài người có thể tồn tại và phát triển. C. Mác viết: “Nơi nào không có
một hình thái sở hữu nào cả, thì ở đó cũng không có một tên sản xuất nào cả.
Do đó cũng không có một xã hội nào cả”[8; Tr. 43]. Về mặt chính trị, C. Mác
7
cho rằng, giai cấp nào nắm được quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chủ
yếu, thì giai cấp đó nắm quyền tổ chức quản lý sản xuất, nắm quyền phân
phối sản phẩm xã hội; giai cấp nào nắm quyền chi phối lĩnh vực sản xuất các
giá trị vật chất, thì giai cấp đó cùng năm quyền chi phối mọi lĩnh vực khác
của đời sống xã hội, là giai cấp thống trị trong xã hội. Ông viết: “Tất cả các
cuộc cách mạng gọi là những cuộc cách mạng chính trị, từ cuộc cách mạng
đầu tiên cho đến cuộc cách mạng cuối cùng, đều được tiến hành để bảo hộ chế
độ sản xuất thuộc một loại nào đó.”[7;Tr. 173]
Đồng thời, C. Mác coi vấn đề sở hữu là vấn đề sống còn của bất kỳ giai
cấp nào trong xã hội, ông viết: “Vấn đề sở hữu bao giờ cũng là vấn đề sống
còn của giai cấp này hay giai cấp khác- tùy thuộc vào trình độ phát triển của
công nghiệp.”[2; Tr. 428]. Trong các tác phẩm mang tính cương lĩnh, C. Mác
và Ph. Ăngghen cũng đã xác định một cách triệt để và dứt khoát rằng sở hữu
là “vấn đề cơ bản”, then chốt của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Quan niệm của
Mác về sở hữu được trình bày ở nhiều tác phẩm Trong đó, có những tác phẩm
viết riêng như “Tư bản”, “Bản thảo kinh tế- triết học năm 1844; có những tác
phẩm viết chung với Ph. Ăngghen như “Hệ tư tưởng Đức”, “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản”...
Trước hết, C. Mác khẳng định: “định nghĩa sở hữu tư sản không phải là
gì khác mà là trình bày tất cả những quan hệ xã hội của sản xuất tư sản”[3;
Tr.234]. Đồng thời C. Mác và Ph. Ăngghen đều coi sở hữu không chỉ là một
quan hệ xã hội, mà trước hết về thực chất và cơ bản, sở hữu là là mối quan hệ
giữa người với người trong đời sống sản xuất xã hội, trước hết là tư liệu sản
xuất và kết quả của lao động sản xuất. Con người chỉ đặt ra vấn đề sở hữu khi
có sự hiện diện của người khác, cần khẳng định sự chiếm hữu của họ nhằm
thực hiện một lợi ích nào đó được thừa nhận cả về kinh tế và pháp lý[27; Tr.
14]. Đồng thời, C. Mác và Ph. Ăngghen cũng khẳng định sở hữu là một quan
hệ xã hội mang tính lịch sử cụ thể[5; Tr. 745- 746], C. Mác đã viết trong tác
8
phẩm “Sự khốn cùng của triết học” (1847): “Trong các thời đại lịch sử, quyền
sở hữu đã phát triển một cách khác nhau và trong một loạt quan hệ xã hội
hoàn toàn khác nhau.”[4; Tr. 234]. Khi định nghĩa về sở hữu C. Mác đã chỉ ra
phương pháp luận để nghiên cứu khái niệm sở hữu đó là phân tích nền sản
xuất xã hội. Vì chỉ có dựa vào nghiên cứu những điều kiện vật chất của đời
sống xã hội mới đưa ra được định nghĩa, vị trí và vai trò của sở hữu. Sở hữu là
quan hệ đối với những điều kiện của sản xuất. Sở hữu luôn có hai nội dung
kinh tế và pháp lý. Có thể hiểu một cách đơn giản nội dung pháp lý của phạm
trù sở hữu thừa nhận về mặt pháp luật một vật phẩm nào đó (đối tượng sở
hữu) là của ai và nội dung pháp lý của sở hữu thể hiện ở chỗ, pháp luật quy
định bảo vệ đối với chủ thể sở hữu như thế nào. Như trong tác phẩm “Quốc
hữu hóa ruộng đất”, C. Mác đã nhận định rằng, trong tiến trình lịch sử, những
kẻ chiếm đoạt đều nhận thấy cần phải thông qua luật pháp do chính họ đặt ra
để đem lại tính ổn định về mặt xã hội (một sự thừa nhận nào đó) cho cái
quyền nguyên thủy nảy sinh từ sức mạnh thô bạo. Còn nội dung kinh tế là
những lợi ích mà người sở hữu được hưởng từ vật phẩm đó. Nội dung kinh tế
của sở hữu trước hết thể hiện ở chỗ, nó là cơ sở, là điều kiện của sản xuất. Hai
nội dung trên của sở hữu có quan hệ biện chứng với nhau. Sự phát triển của
các quan hệ sở hữu về mặt kinh tế sẽ kéo theo những thay đổi của quan hệ
pháp lý. Còn, nội dung kinh tế của phạm trù sở hữu rất phức tạp, bao hàm
nhiều khâu, nhiều mối quan hệ, nó không chỉ dừng lại ở câu hỏi đối tượng sở
hữu thuộc về ai, ai quản lý kinh doanh mà còn xem xét đến cơ chế thực hiện
lợi ích kinh tế như thế nào, dưới hình thức nào? Vì vậy, khi xác định được nội
dung kinh tế của phạm trù sở hữu trong một giai đoạn lịch sử nhất định thì
cần phải đặt nó trong tất cả những mối liên hệ vốn có của nó. Sở hữu chính là
biểu hiện về mặt xã hội của sự chiếm hữu, nó thay đổi theo sự thay đổi của
những điều kiện kinh tế- xã hội của một giai đoạn lịch sử nhất định. Nói cách
9
khác, sở hữu là quan hệ xã hội mang tính lịch sử cụ thể biến đổi cùng với quá
trình phát triển của lịch sử loài người.
Quan niệm của C. Mác về sở hữu tư liệu sản xuất quyết định bởi tính
chất, trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Theo Ph. Ăngghen trong “Nguồn
gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” thì sự phát triển của lực
lượng sản xuất, việc phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, cũng như
việc tăng cường trao đổi hàng hóa là nguồn gốc nảy sinh hình thức sở hữu tư
hữu. Bởi không ai có thể tiến hành sản xuất nếu như không sở hữu bất cứ tư
liệu sản xuất nào vì sở hữu tư liệu sản xuất là tiền đề tạo ra của cải vật chất và
mang lại lợi ích cho chủ sở hữu. Các ông đã tiến hành phân tích những giai
đoạn chủ yếu trong sự phát triển lịch sử của sản xuất mà cơ sở nền tảng của
nó là sự phát triển của các lực lượng sản xuất. Ở đây, quan điểm này được
trình bày lần đầu tiên, các ông đã chỉ rõ, mỗi một nấc thang mới trong sự phát
triển lịch sử của sản xuất đã làm nảy sinh những hình thức phân công lao
động mới và tương ứng với mỗi hình thức phân công lao động ấy là những
hình thức sở hữu mới và đến lượt mình, mỗi hình thức sở hữu này lại sản sinh
ra những quan hệ xã hội và chính trị tương ứng với nó. C. Mác cho rằng:
“không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng
sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa
phát triển và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất
hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa
chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ. Cho nên, nhân loại bao giờ cũng chỉ
đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà nó có thể giải quyết được, vì khi xét kỹ
hơn, bao giờ người ta cũng thấy rằng bản thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi
những điều kiện vật chất để giải quyết nhiệm vụ đó đã có rồi, hay ít ra cũng
đang trong quá trình hình thành”[6; Tr. 15- 16]. Khi phát triển tới một giai
đoạn nhất định, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với
những quan hệ sản xuất hiện có, hay mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu,
10
trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Những quan
hệ cũ đã cản trở sản xuất, chứ không làm cho sản xuất tiến triển lên. Từ chỗ là
những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở
thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó, bắt đầu thời đại
của một cuộc cách mạng xã hội. Ví dụ như cuộc cách mạng tư sản Pháp đã
xóa bỏ chế độ sở hữu phong kiến để thay bằng chế độ sở hữu tư sản. Nói cách
khác, một chế độ xã hội mới không thể ra đời, không thế chiến thắng chế độ
xã hội cũ hay đứng vững khi mà các lực lượng sản xuất quá thấp kém hoặc
quá trì trệ. Như vậy, lực lượng sản xuất phát triển sẽ dẫn đến thay đổi quan hệ
sở hữu; bất cứ một sự cải biến nào về quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất
yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới, không còn phù hợp với
các quan hệ sở hữu cũ nữa. Nhưng C. Mác cũng chỉ ra rằng tuy quan hệ sản
xuất chịu sự quyết định trực tiếp của lực lượng sản xuất, nhưng với tư cách là
thành tố quan trọng nhất, quyết định bản chất quan hệ sản xuất, quyết định
bản chất chế độ kinh tế, quan hệ sở hữu là tiêu chí để phân biệt các hình thái
kinh tế- xã hội khác nhau.
Đặc biệt, để xóa bỏ chế độ tư hữu, theo C. Mác sẽ phải “kinh qua một quá
trình rất khó khăn và lâu dài trong hiện thực”. Bởi vì, sự xuất hiện, tồn tại và
phát triển của chế độ tư hữu có tính lịch sử của nó, với những ý nghĩa lịch sử
của nó. Điều đó có nghĩa là, mặc dù chúng ta hiểu được thế nào là chế độ tư
hữu và hơn thế, hiểu được bản chất của chế độ đó, nhưng chúng ta hoàn toàn
không thể xóa bỏ chế độ tư hữu ở bất kỳ trình độ phát triển nào của nền sản
xuất xã hội bằng mệnh lệnh hành chính, hay theo ý muốn chủ quan của con
người. Ngay cả khi nhiệm vụ đó được đặt ra thì việc xóa bỏ chế độ tư hữu cũng
không thể thực hiện được ngay lập tức, như Ph. Ăngghen đã viết trong tác
phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”. Trả lời câu hỏi: Liệu có thể
thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không? Ph. Ăngghen nêu rõ: “Không,
không thể được, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng
11
lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu”[2;
Tr. 469]. Việc xóa bỏ chế độ tư hữu phải tuân theo các quy luật khách quan của
sự vận động, phát triển xã hội và được thực hiện triệt để khi sự tập trung tư liệu
sản xuất và xã hội hóa lao động không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ
nghĩa của chúng nữa. Khi đó, cái vỏ ấy sẽ vỡ tung ra với phương thức sản xuất
mới có quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. C. Mác gọi đó là “sự phủ định cái phủ định”.
Kế thừa những quan điểm của C. Mác về sở hữu, Lênin đã nhận thấy rõ
tầm quan trọng của việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Ông khẳng
định: “Để thực sự giải phóng giai cấp công nhân, cần phải có cuộc cách mạng
xã hội, xuất phát một cách tự nhiên từ toàn bộ sự phát triển của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa, tức là phải thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất, chuyển các tư liệu đó thành sở hữu công cộng và thay thế nền sản xuất
hàng hóa tư bản chủ nghĩa bằng việc tổ chức sản xuất sản phẩm theo lối xã
hội chủ nghĩa...”[28; Tr. 518]. Đồng thời, Lênin đã vạch ra đặc trưng của thời
đại mới, về sự biến đổi sở hữu tư bản tư nhân thuần túy sang sở hữu tư bản
độc quyền và từ sở hữu tư bản độc quyền sang sở hữu tư bản độc quyền nhà
nước. Trong tác phẩm Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư
bản, Lênin đã chỉ ra quy luật chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh
sang chủ nghĩa tư bản độc quyền (chủ nghĩa đế quốc) là do sự tích tụ sản xuất
đã đạt đến trình độ cao vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Cuối thế kỷ XIX,
tích tụ và tập trung tư bản dẫn đến tích tụ sản xuất diễn ra mạnh mẽ trong nền
kinh tế ở các nước tư bản phát triển. Sở dĩ như vậy là do sự phát triển nhanh
của lực lượng sản xuất và việc ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật
mới vào sản xuất. Lênin cũng chỉ rõ đặc điểm kinh tế xuyên suốt và bao trùm
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành
phần. Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế có tính chất quá độ: không còn là nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế xã hội chủ
12
nghĩa. Ông giải thích: “Danh từ quá độ nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có
phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có cả những thành phần, những bộ
phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất
cứ ai cũng phải thừa nhận là có. Song không phải mỗi người thừa nhận điểm
ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế- xã hội khác nhau
hiện có ở Nga, chính là như thế nào. Mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính
là ở chỗ đó”[29; Tr. 362]. Những thành phần, những bộ phận, những mảnh đó
hợp thành hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất và có quan hệ tương tác với
nhau. Bộ phận kinh tế xã hội chủ nghĩa sẽ giữ vị trí thống trị và chi phối khi
kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội. Để thực hiện tư tưởng này những năm sau Cách mạng Tháng
Mười Nga, Lênin đã đề ra và chỉ đạo thi hành Chính sách kinh tế mới (NEP),
làm sống lại nền kinh tế của đất nước với chế độ đa sở hữu, đa thành phần
kinh tế, kể cả các thành phần phú nông và tư sản thành thị, đem lại sự khởi
sắc nền kinh tế- xã hội, góp phần quan trọng tăng cường tiềm lực quốc phòng
để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới. Trong những năm
thực hiện Chính sách kinh tế mới, những xí nghiệp vừa và nhỏ không thuộc
quyền sở hữu của nhà nước phát triển mạnh, kể cả những xí nghiệp đã chuyển
sang sở hữu nhà nước trong những năm thực hiện Chính sách Cộng sản thời
chiến song không hoạt động hoặc hoạt động kém hiệu quả thì trả lại cho chủ
cũ. Việc phục hồi các xí nghiệp tư nhân, việc phát triển thành phần kinh tế tư
bản tư nhân góp phần quan trọng phát triển nền kinh tế Nga đưa đất nước
thoát khỏi khủng hoảng kinh tế. Lênin cho rằng: “Chủ nghĩa tư bản là xấu so
với chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản lại là tốt so với thời trung cổ, với nền
tiểu sản xuất, với chủ nghĩa quan liêu do tình trạng phân tán của những người
tiêu sản xuất tạo nên. Vì chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ
nên tiêu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, bởi vậy, trong một mức độ nào đó, chủ
nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi, nó là sản vật tự nhiên của nên tiêu sản
13
xuất và trao đổi, bởi vậy, chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là
bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích
trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con
đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên”. [30; Tr.
276] Nhưng, những tư tưởng của Lênin về thời kỳ quá độ, về phát triển kinh
tế nhiều thành phần, về phát triển đa dạng các hình thức sở hữu và về phát
triển nền kinh tế thị trường đã không được những người kế tục sau này kế
thừa và phát triển, mà lại đưa nền kinh tế phát triển theo quỹ đạo của nền kinh
tế chỉ huy.
Học thuyết Mác- Lênin là nền tảng tư tưởng và phương pháp luận cho
chính đáng của giai cấp công nhân, là cơ sở khoa học để hoạch định đường lối
đấu tranh giành chính quyền và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Song việc vận
dụng các nguyên lý về vấn đề sở hữu đòi hỏi phải tính đến những điều kiện
lịch sử xã hội cụ thể. Sự cứng nhắc giáo điều chắc chắn sẽ dẫn đến thất bại.
Chính C. Mác đã từng chỉ rõ, học thuyết mang tên ông “không phải là một
giáo điều, mà là sự vận động”[29; Tr. 363]. Điều đó có nghĩa, các nguyên lý
của chủ nghĩa Mác- Lênin phải được vận dụng một cách sáng tạo phù hợp với
những điều kiện lịch sử cụ thể và cũng phải được nghiên cứu.
Như vậy, nội dung phạm trù sở hữu khá rộng, phức tạp, bao hàm nhiều
vấn đề, mối quan hệ, ở đây, chúng tôi chọn định nghĩa được nhiều người chấp
nhận: “Sở hữu là phạm trù chỉ toàn bộ các mối quan hệ giữa người với người
đối với đối tượng sở hữu và những sản vật đã tạo ra từ sự tác động của người
lao động vào đối tượng sở hữu ấy bằng những công cụ lao động do lịch sử
quy định.”[40; Tr. 17]
1.2. Quan điểm của Đảng về vấn đề sở hữu ở Việt Nam qua các kỳ Đại
hội Đảng từ năm 1986 đến nay.
Năm 1975, sau khi giành được hoàn toàn độc lập, thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ, Việt Nam bước vào công cuộc xây dựng lên xã hội chủ nghĩa cả 2
14
miền Bắc- Nam. Thời kỳ đầu chúng ta gặp rất nhiều khó khăn vì Việt Nam
xuất phát điểm là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nền công nghiệp còn hạn
chế, đồng thời chịu hậu quả của chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ để lại. Mặc dù đã xây dựng và đã mất rất nhiều công sức để tiến
hành công hữu, thậm chí đã phải cưỡng bức người dân để công hữu tư liệu
sản xuất nhằm mau chóng xây dựng chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ chế độ người
bóc lột người, tiến tới chủ nghĩa cộng sản. Đáng tiếc là do việc công hữu được
tiến hành ồ ạt, thậm chí bất chấp cả hệ quả kinh tế- xã hội nên chế độ công
hữu cao độ ở Việt Nam nói riêng, ở các nước xã hội chủ nghĩa nói chung đã
chưa phát huy được tác dụng trong thực tế sản xuất, kinh doanh và quản lý,
bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu cấp bách đặt ra là phải đổi mới toàn
diện đất nước, trong đó có đổi mới kinh tế, thay đổi nội dung, cách quản lý,
khai thác chế độ công hữu về tài sản.
Trong quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh
đạo đất nước đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin và tưư
tưởng Hồ Chí Minh vào thay đổi tư duy về vấn đề sở hữu, quan điểm của
Đảng về vấn đề sở hữu được phát triển và hoàn thiện hơn qua các kỳ Đại hội
và Hội nghị Trung ương như: Nghị quyết Trung ương 6 khóa IV (Tháng
8/1979), Chỉ thị 100 CT/TW của Ban Bí thư (tháng 1/1981), Quyết định
25/CP của Thủ Tướng Chính phủ (1/1987).
Bắt đầu từ Đại hội III của Đảng Cộng sản Việt Nam, việc cải tạo hệ
thống các quan hệ sản xuất cũ thành quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa
với 2 hình thức sở hữu chủ yếu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, đã được
thực hiện. Hai hình thức sở hữu này là cơ sở để xây dựng và phát triển thành
phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, trong Nghị quyết Trung ương 6 khóa
IV (tháng 8/1979) thị trường được công nhận như là một phạm trù khách quan
độc lập với kế hoạch, chúng ta có thể sử dụng để phục vụ cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
15
Từ năm 1986 đến nay, kế thừa các quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lấy phát triển lực
lượng sản xuất làm động lực để hoàn thiện và đổi mới quan hệ sản xuất, từ
chỗ coi sở hữu là mục đích của cách mạng xã hội (thời kỳ trước đổi mới)
chuyển thành phương tiện để phát triển kinh tế- xã hội. Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI đã có bước phát triển mới về tư duy lý luận, khắc phục sai
lầm chủ quan duy ý chí khi chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa để xác lập hai
hình thức sở hữu là nhà nước và tập thể. Đảng đánh dấu bước đột phá là trước
đây coi sở hữu là mục đích của cách mạng thì bây giờ được coi là phương tiện
để đạt mục tiêu trong phát triển kinh tế- xã hội. Sự đổi mới quan niệm về vấn
đề sở hữu mà còn tập đúng vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế trong
nền kinh tế quốc dân. Có thể nói, nó tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân,
tổ chức trong toàn xã hội phát huy mọi tiềm năng, sáng tạo, tạo ra sức mạnh
to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, đồng thời nó là
động lực to lớn cho chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đi đến một quyết định lịch
sử với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần là chiến lược lâu dài
trong suốt thời kỳ quá độ. Đại hội VI đã rút ra: “lực lượng sản xuất bị kìm
hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả khi quan hệ
sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.”[12; Tr. 57] Đây chính là hướng tư duy
khoa học tôn trọng sự vận động khách quan của kinh tế xã hội. Đặc biệt, Văn
kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII và Văn kiện các Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra mục
tiêu là phấn đấu xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”[14; Tr. 26 và 15; Tr. 19- 80]. Đó cũng là căn cứ để
chúng ta xác định thế nào là đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Áp dụng vào
16
vấn đề sở hữu, chúng ta có thể nói rằng, chủ trương đa dạng hoá các loại hình
sở hữu, cho phép nhiều thành phần kinh tế tồn tại và phát triển là một chủ
trương đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo chúng tôi, đó là những
quan điểm đầu tiên cho sự thay đổi quan điệm của Đảng về sở hữu ở Việt
Nam. Quan điểm trên được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VII năm 1991 và được thể chế trong Hiến pháp 1991 Điều
15 của Hiến pháp quy định: “Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên
chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể là nền tảng”. Đây là lần đầu tiên trên diễn đàn cao nhất,
chúng ta đề ra lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Tuy nhiên, chúng ta tạm thời chưa có sự khẳng định rõ ràng về kinh tế
thị trường và mới chấp nhận nó.
Kết hợp với tư tưởng thay đổi vai trò của sở hữu là chủ trương đa dạng
hóa hình thức sở hữu đã nảy mầm dựa trên cơ sở của ba loại hình sở hữu cơ
bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Những điều vừa nêu
về sở hữu, cũng đã được nêu ra từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm
1991) và được luật hoá ở Hiến pháp năm 1992. Ngoài ba hình thức sở hữu cơ
bản trên đây, Hiến pháp năm 1992 còn thừa nhận một số hình thức sở hữu
hỗn hợp, đan xen, được hình thành từ mối liên hệ liên doanh liên kết giữa các
thành phần kinh tế. Điều 22 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức
kinh tế trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật.” Đây là cơ sở
pháp lý để thừa nhận sự tồn tại hình thức sở hữu của các tổ chức kinh tế do
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế liên kết liên doanh như sở hữu
của các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, sở hữu của xí nghiệp
17
liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài; đồng thời là một trong những đổi mới
quan trọng góp phần làm nên thắng lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng xã
hội chủ nghĩa. Trên cơ sở xác định sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ
nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại
khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ
nghĩa xã hội đã được xây dựng. Đại hội VIII đã nhấn mạnh việc thực hiện các
chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh
tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân phát
triển; khẳng định “tiếp tục thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa…”[17; Tr. 545]
Như vậy, qua các kỳ Đại hội Đảng, các thành phần kinh tế ở Việt Nam
có sự thay đổi: từ chỗ lúc đầu (Đại hội VI) chỉ thừa nhận nền kinh tế có 5
thành phần (trừ tư bản thương nghiệp) đến chỗ “phát triển một nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đại hội VII- 1991), “nắm vững
định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần” và “thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần”[15; Tr. 91] (Đại hội VIII- 1996) là một bước tiến dài
trong lĩnh vực nhận thức và tổng kết thực tiễn những thành tựu của công cuộc
đổi mới.
Trong xây dựng mô hình kinh tế thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã xác định:
“Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế”[17; Tr. 733]. Trong báo cáo chính trị
tại đại hội lần thứ IX, Đảng ta xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối trong đó có ba hình
thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân,
18
“Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh
tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc”
và “từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu
tư nhân hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh
doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp”[16; Tr. 87- 96]. Đa dạng hóa các hình thức
sở hữu trong nền kinh tế có ý nghĩa quan trọng cho sự hình thành và phát triển
đa dạng các loại hình doanh nghiệp, phát huy tối ưu các tiềm năng, thế mạnh
của các chủ sở hữu và nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực
phát triển. Do đó, tạo nên sự cạnh tranh trong nền kinh tế và đó là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội.
Đến Đại hội X (2006), Đảng ta bổ sung: “Có một nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại với quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp”[17; Tr. 91]. Điều này thể hiện Đảng ta đã thay đổi hoàn toàn tư duy cũ
và đưa ra những chủ trương mới về chế độ sở hữu của nền kinh tế nước ta.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã có những khái quát mới về lý luận: “Phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức
phân phối.”[19; Tr. 73] Trong văn kiện, Đảng ta lần đầu tiên nêu ra đa dạng
hóa các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp.
Đây là một bước phát triển mới trong nhận thức lý luận của Đảng về nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các hình thức
sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng
ngày càng phát triển. Trong các hình thức sở hữu, chủ yếu là những doanh
nghiệp cổ phần cần có cơ chế và chính sách khuyến khích phát triển để chúng
trở thành phổ biến trong nền kinh tế, góp phần quan trọng thúc đẩy xã hội hóa
sản xuất kinh doanh và sở hữu.
19
Văn kiện Đại hội XII cũng đã nêu khái quát những nội dung quan trọng
về các bộ phận cấu thành, vai trò của thị trường, vai trò của nhà nước, vai trò
của nhân dân và mục tiêu bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc
các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị
trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn
lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực
nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ
chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể
chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử
dụng các công cụ, chính sách, các nguồn lực của nhà nước để định hướng và
điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế- xã hội”[20; Tr.
102- 103]…
Đổi mới về vấn đề sở hữu được Đảng ta thực hiện trước tiên trên lĩnh
vực kinh tế, sau đó mới bắt đầu thực hiện đổi mới trên các lĩnh vực chính trị,
văn hóa, xã hội. Quan điểm kinh tế của thời kỳ kế hoạch hóa tập trung từ
trước những năm 1980 cho rằng, nền kinh tế thị trường là sản phẩm riêng có
của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, luôn luôn đối lập với nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa và là nguyên nhân sản sinh ra bất công xã hội và chế độ người bóc lột
người. Tư duy đổi mới Đảng ta cho rằng quan điểm về kinh tế thị trường
trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung đã làm cho sức sản xuất không được giải
phóng, các nguồn lực xã hội không được khai thác triệt để, đã dẫn đến kìm
20
hãm sự phát triển xã hội. Tư duy đổi mới kinh tế của Đảng ta đã chỉ ra rằng,
kinh tế thị trường không chỉ gắn liền với chủ nghĩa tư bản, mà là thành tựu
của cả nhân loại [23; Tr. 8]. Quan điểm tư duy đổi mới về kinh tế đã được
hoàn thiện dần trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động thực tiễn ở nước
ta. Ngày nay, quan điểm tư duy đổi mới về kinh tế đã cụ thể hóa thành cơ chế,
chính sách đó là: Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Công cuộc đổi mới tiến hành hơn 30 năm đã mang lại những thành tựu
to lớn về kinh tế- xã hội và khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới
về vấn đề sở hữu, của chính sách đa dạng các hình thức sở hữu do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Những đổi mới về hình thức sở
hữu này đã đem lại những thành tựu to lớn, đưa đất nước thoát khỏi khủng
hoảng về kinh tế và tiến lên phát triển đất nước giàu mạnh. “Đất nước đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, có những thay đổi cơ bản và toàn diện.
Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiêp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang được đẩy mạnh.
Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn
kết toàn dân được củng cố và tăng cường. Chính trị- xã hội được ổn định.
Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế
không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia được tăng lên
rất nhiều, tạo thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên con đường chủ nghĩa
xã hội ngày càng sáng tỏ,...”[17; Tr. 17]
21
Tiểu kết Chương 1
Những tư tưởng của C. Mác, Ph. Ănghen và Lênin về vấn đề sở hữu nói
chung và xoá bỏ tư hữu nói riêng cho đến nay vẫn còn có ý nghĩa thời sự. Nó
giúp cho chúng ta một lần nữa nhìn nhận lại những sai lầm chủ quan duy ý
chí, vi phạm quy luật khách quan mà chúng ta đã phạm phải khi vội vàng xoá
bỏ mọi hình thức sở hữu cũ bằng biện pháp quốc hữu hóa và tập thể hoá trong
hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, trong khi chúng ta vẫn còn là
một nước nghèo, kém phát triển.
Trong thời đại mới với điều kiện hoàn cảnh mới với nhiều khó khăn,
nguy cơ và thách thức thì việc Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên định con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu xây dựng xã hội ta trở thành một
xã hội: “Công bằng, dân chủ, văn minh”. Đảng ta xác định nhiệm vụ trọng
tâm trong giai đoạn hiện nay là thực hiện quá trình đổi mới sở hữu ở Việt
Nam thành công bởi vì như quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin là sự phát
triển của xã hội chính là sự phát triển của sản xuất. Từ cơ sở lý luận, Đảng
vận dụng vào công cuộc đổi mới vấn đề sở hữu ở nước ta hiện nay chính là
kết quả sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung, thể hiện tư duy mới của Đảng về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và khẳng định có những thành phần
kinh tế đã thể hiện tốt vai trò của mình, song cũng có thành phần kinh tế còn
nhiều yếu kém, bất cập. Bởi vì chỉ khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản trên đất nước ta thì mới thực sự hoàn thành cuộc cách
mạng giải phóng con người, xây dựng một xã hội thực sự bình đẳng, bác ái,...
Đó là vấn đề cốt lõi mà chúng ta cần phải làm để xây dựng xã nội ta trở thành
xã hội dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh, đưa đất nước
ta đi lên xã hội chủ nghĩa dựa trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
22
Chương 2
ĐÁNH GIÁ VẤN ĐỀ SỞ HỮU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Nền kinh tế thị trường và vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường
2.1.1. Kinh tế thị trường và vấn đề sở hữu.
Trong nền kinh tế thế giới tồn tại các mô hình kinh tế thị trường: kinh tế
thị trường tự do, kinh tế thị trường xã hội, kinh tế thị trường hỗn hợp. Cơ chế
thị trường là một cơ chế kinh tế hiện thực được xác lâp một cách vững chắc
trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới. Dù không là một cơ chế hoàn hảo,
song cho đến nay nó vẫn chứng tỏ là một cơ chế phân bố nguồn lực và là một
cơ chế phát triển kinh tế lớn nhất. Một quốc gia dựa trên nền tảng thị trường
để phát triển kinh tế có thể không chắc thành công, nhưng một quốc gia
không dựa trên thị trường chắc chắn sẽ thất bại trong dài hạn[22]. Và trong
mỗi quốc gia lại có những biến thể khác nhau xuất phát từ quan niệm, trình độ
phát triển kinh tế- văn hóa- xã hội.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát
triển nhất định của văn minh nhân loại. Phải đạt đến một trình độ phát triển
nhất định, nền sản xuất xã hội mới thoát khỏi tình trạng tự cung tự cấp, mới
có sản phẩm dư thừa để trao đổi. Một trong những điều kiện để xuất hiện trao
đổi là tính chất tư nhân của sản xuất, tức là những người sản xuất độc lập với
nhau, sản xuất cái gì, sản xuất thế nào, cho ai là việc riêng của từng “người
sản xuất”. “Người sản xuất” cần được hiểu theo nghĩa rộng. “Người sản xuất”
có thể là cá nhân, hợp tác xã, công ty tư nhân, doanh nghiệp nhà nước… Điều
quan trọng nhất chính là những “người” này độc lập với nhau.
Kinh tế thị trường là phương tiện tốt nhất tạo lập cơ sở kinh tế, sức mạnh
kinh tế cho sự phát triển hiện đại của mỗi quốc gia. Kinh tế thị trường càng
hiện đại và được vận hành có hiệu quả thì cơ sở kinh tế, sức mạnh kinh tế do
nó tạo ra càng có điều kiện gia tăng mạnh mẽ thế và lực. Kết luận này là đúng
cho mọi quốc gia. Việt Nam không thể là một trường hợp ngoại lệ. Vì vậy,
23
khái niệm “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” mới chính thức
được xác định từ Đại hội IX của Đảng (năm 2001). Sau Đại hội VI, Đại hội
VII (năm 1991) xác định xây dựng “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận động theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước”. Đại hội VIII
(năm 1996) chủ trương xây dựng “nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa”. Việc coi kinh tế thị trường là một sản phẩm của văn minh nhân
loại ngày càng phát triển với trình độ cao, nên Đảng Cộng sản Việt Nam khi
xác định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa luôn
coi trọng yếu tố “mở”, cập nhật, tiếp thu tinh hoa, tiến bộ từ nền kinh tế thị
trường ở nhiều nước trên thế giới là hoàn toàn đúng đắn. Đại hội X của Đảng
Cộng sản Việt Nam (năm 2006) đã tiếp tục làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản
của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế ở nước ta, thể hiện ở
bốn tiêu chí là:
- Về mục đích phát triển: Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
- Về phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức,
nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành
phần kinh tế
- Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Tăng trưởng kinh tế
gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào
tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Đồng
thời để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển còn thực hiện phân
phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác.
- Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai
trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
24
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiếp tục hoàn thiện, phát triển đồng bộ các yếu tố
thị trường và các loại thị trường; Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu
lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn
luôn trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về
vấn đề sở hữu vào điều kiện cụ thể của đất nước, đưa nước ta từ một nước
nông nghiệp có nền kinh tế phát triển chậm, trở thành nước có sự phát triển
năng động trong khu vực với tốc độ tăng trưởng hàng năm tương đối cao.
Sở hữu, như mọi người đều biết, là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách
mạng [21]. Vì vậy, trong thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
tại Đại hội III Đảng ta đã đề ra chủ trương cải tạo hệ thống các quan hệ sản
xuất cũ thành quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, với 2 hình thức sở hữu
chủ yếu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Trong thời gian này, chúng ta đã
tập trung chú trọng, tạo mọi điều kiện để phát triển các thành phần kinh tế xã
hội chủ nghĩa, cải tạo, hạn chế để đi đến xoá bỏ dần các thành phần kinh tế
phi xã hội chủ nghĩa, đã giải quyết khá tốt các nhu cầu dân sinh vốn khá yếu
kém ở các nước chậm phát triển như ở nước ta; giúp cho việc huy động sức
người, sức của cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ đất
nước. Nhưng sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi,
đáng lẽ phải tập trung huy động mọi nguồn lực, mọi khả năng của các thành
phần kinh tế để phát triển, nhưng chúng ta lại thực hiện một cách giáo điều,
duy ý chí công cuộc cải tạo mà thực chất là xoá bỏ các thành phần được coi là
phi xã hội chủ nghĩa nhằm thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trên
phạm vi cả nước.
Với vấn đề sở hữu trong cuộc cách mạng nhằm lật đổ chế độ phong
kiến và đánh đổ đế quốc xâm lược đúng là vấn đề cơ bản. Thêm vào đó, việc
xây dựng một chế độ tiến bộ làm cơ sở nhằm thủ tiêu mọi áp bức bóc lột, tạo
25
lập sự bình đẳng, hữu nghị giữa các dân tộc là mục đích của sự phát triển xã
hội. Song mặt khác, bản thân các hình thức sở hữu lại là hình thức biểu hiện
và bị quy định bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Điều đó có
nghĩa là, nếu các hình thức sở hữu mà phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất thì nó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; còn trong
trường hợp ngược lại, nó không những không có tác dụng thúc đẩy, mà còn
cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Với ý nghĩa đó, sở hữu lại
là phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất. Điều này, đặc biệt quan trọng
đối với những nước chưa trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa thực
hiện quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam. Trên thực tế, do lúc đầu
Đảng nhận thức về vấn đề sở hữu theo quan điểm của C. Mác chưa đầy đủ,
khi cho rằng, quan hệ sản xuất phải đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển. Do vậy, một hệ quả tất yếu đã xảy ra là các quan hệ sở hữu, các
hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế ngoài nhà nước và ngoài tập thể bị
đối xử như là những vật cản cần phải xoá bỏ và cải tạo để đảm bảo sự đi lên
và sự thành công của chủ nghĩa xã hội. Chính vì nhận thức chưa đúng như
vậy, chúng ta đã nóng vội và có phần duy ý chí khi xóa bỏ mọi hình thức sở
hữu khác và chỉ chấp nhận hai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu nhà nước và
sở hữu tập thể. Chúng ta cũng không tuân theo quy luật kinh tế khách quan là
lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, muốn cho sản xuất phát triển
thì quan hệ sản xuất phải luôn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Cho nên, một mặt, không được nóng vội xóa bỏ hay xác
lập hình thức sở hữu nào đó một cách chủ quan; mặt khác, vẫn phải luôn luôn
quan tâm giải quyết từng bước quan hệ sản xuất, trong đó có quan hệ sở hữu,
sao cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới và lợi ích
của người lao động để giảm dần sự bất bình đẳng trong xã hội.
Trong nền kinh tế cũng sẽ bao hàm nhiều hình thức sở hữu như các nền
kinh tế thị trường khác. Tuy nhiên, cơ cấu các hình thức sở hữu ở nước ta và
26
vị trí của mỗi hình thức sở hữu trong cơ cấu đó sẽ có những khác biệt với các
nước khác. Đối với nước ta hiện nay, thực hiện việc quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là một mô thức mới,
gặp nhiều khó khăn thì việc đòi hỏi phải củng cố và hoàn thiện một hệ thống
lý luận khoa học sắc bén, trong đó có lý luận về vấn đề sở hữu là tất yếu
khách quan. Nó không chỉ là kim chỉ nam cho hành động kinh tế của đất
nước, mà còn góp phần giải quyết, tháo gỡ vướng mắc, khắc phục sai lầm
lệch lạc của thực tiễn quản lý điều hành phát sinh vì sự hoàn thiện của vấn đề
sở hữu xã hội chủ nghĩa, từ đây tạo ra cái nền vật chất pháp lý cho công cuộc
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, phấn đấu cho mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Việc thực hiện một nền kinh tế thị trường với các loại hình sở hữu khác
nhau là chiến lược lâu dài và tối ưu làm cho nền kinh tế của đất nước trở nên
năng động. Qua đó, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống của nhân
dân lao động và là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá hiệu
quả việc xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Song,
cũng cần phải nói thêm rằng, đối với con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay, từ nhận thức đến vận dụng lý luận về sở hữu của chủ
nghĩa Mác- Lênin vào tình hình cụ thể Việt Nam cần phải có sự tìm tòi, sáng
tạo, phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn.
2.1.2. Kết quả đạt được trong quá trình đổi mới của Đảng về vấn đề
sở hữu.
Sau hơn 30 năm đổi mới về vấn đề sở hữu, thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đã hình thành và từng bước hoàn thiện, thay cho
thể chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Thể chế kinh tế mới đã đi
vào cuộc sống và phát huy hiệu quả tích cực, thúc đẩy tăng trường kinh tế
nhanh và bền vững, khắc phục được khủng hoảng kinh tế- xã hội, tạo ra
những tiền đề cần thiết đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
27
Thời kỳ đầu khi Việt Nam mới giành được độc lập hoàn toàn, thống nhất
hai miền Bắc- Nam thì trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt
Nam, Đảng ta luôn luôn trung thành và vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa
Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của đất nước. Song cũng có lúc chúng ta
phạm phải một số sai lầm, khuyết điểm, trong đó có vấn đề sở hữu. Đó là
nhận thức cho rằng, có thể xác lập sớm một chế độ công hữu, một quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa để lôi kéo, thúc đẩy lực lượng sản xuất lạc hậu. Sau một
thời gian dài duy trì cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã đến lúc chúng ta
cần một sự chuyển đổi để phát triển kinh tế. Đảng đã có bước ngoặt trong đổi
mới tư duy về vấn đề sở hữu là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thành tựu nổi bật nhất trong bước khởi đầu đổi mới là phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước. Qua quá trình phát triển nhận thức tư duy, đường lối những quan
niệm, tư tưởng của Đảng và Nhà nước ngày một hoàn chỉnh.
Bắt đầu từ Đại hội VI đến nay, Đảng ta không ngừng thay đổi chủ
trương, chính sách theo hướng khuyến khích, hỗ trợ các thành phần kinh tế đó
phát triển. Chẳng hạn, trong “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội
đến năm 2000” Đảng đã khẳng định: “Mọi người được tự do kinh doanh theo
pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp... Mọi đơn vị kinh
tế không phân biệt quan hệ sở hữu đều hoạt động theo cơ chế tự chủ kinh
doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau bình đẳng trước pháp luật.” [13; Tr. 8]
Những tư tưởng trên đây đã được Đại hội IX của Đảng tiếp tục hoàn thiện và
phát triển trong chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Trong nền kinh tế đó, “các thành phần kinh tế kinh doanh theo
pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị truờng định
hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh...”[16; Tr. 95- 96]. Cơ chế thị trường với những ưu thế không thể chối
28
cãi là một sự lựa chọn hợp lý và cần thiết. Cơ chế quản lý cũ cồng kềnh, kém
năng lực đã không còn phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Những
căn bệnh đặc trưng của cơ chế cũ như bảo thủ, trì trệ, kém năng lực hình
thành nên bộ máy quản lý thiếu chuyên môn nghiệp vụ nhưng lại có thái độ
quan liêu, cửa quyền cần phải được thay đổi. Việc xoá bỏ hoàn toàn không dễ
dàng, không thể hoàn thành trong một sớm một chiều nhưng đó là việc cần
thiết để thúc đẩy kinh tế phát triển. Cùng với cơ chế cũ cũng là sự bất cập khi
nhà nước can thiệp quá sâu vào sản xuất kinh doanh, điều hành không tuân
theo các quy luật kinh tế mà theo cảm tính dẫn đến sự thất bại trong thực hiện
các mục tiêu kinh tế xã hội đã đề ra. Chuyển sang cơ chế mới sẽ tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế phát triển theo đúng những quy luật kinh tế khách
quan.
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tham khảo kinh
nghiệm phát triển của các quốc gia trên thế giới và từ thực tiễn phát triển Việt
Nam, Đảng ta đã đề ra đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Trong Đại hội VII (6-1991), văn kiện đã nêu rõ cơ chế vận
hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp
luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Đây là lần đầu tiên Đảng đề
cập đến cơ chế thị trường với tư cách là cơ chế vận hành nền kinh tế và đây là
bước phát triển mới về tư duy lý luận, một sự vận dụng độc lập, sáng tạo của
Đảng ta. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Công cuộc xóa đói giảm
nghèo đạt được những thành tựu to lớn. Đại hội IX của Đảngđưa ra khái niệm
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là “Một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo
quy luật của kinh tế thị trường dựa trên cơ sở và chịu sự chi phối bởi các
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”[16; Tr. 36]. Trong nền kinh tế
đó, các thế mạnh của “thị trường” được sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật của
nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”, còn tính “định hướng xã hội chủ
nghĩa” được hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý
29
và phân phối, nhằm mục đích cuối cùng là “dân giàu, nước mạnh, tiên tiến
hiện đại trong xã hội do dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa
bỏ áp bức bất công, tạ điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc”[45; Tr. 23]. Đảng xây dựng quan điểm mới kinh tế thị trường là
thành tựu chung của nhân loại, hoàn toàn không mâu thuẫn với chủ nghĩa xã
hội và định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà
nước trong nền kinh tế. Đây là kết quả của quá trình 30 năm đổi mới tư duy
và thực tiễn ở nước ta, được đúc kết lại trên cơ sở kiểm điểm, đánh giá và rút
ra các bài học lớn tại các kỳ Đại hội Đảng.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang
thực hiện là nền kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường,
vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu
tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế vận hành nền kinh tế đó
chính là cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy, quan niệm đổi
mới của Đảng đã thay đổi một số nhận thức như: Một là, kinh tế thị trường
không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển
chung của nhân loại. Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ba là, có thể và cần thiết sự dụng kinh tế
thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nếu biết vận dụng cơ chế
thị trường một cách đúng đắn thì có thể mang lại nhiều lợi ích cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [34; Tr. 178].
Trải qua nhiều năm thực hiện đổi mới, tư duy về kinh tế thị trường của
Đảng ta ngày càng hoàn thiện hơn và cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta đang từng bước được tạo lập và phát triển. Đảng và
Nhà nước đã hai lần sửa đổi và ban hành Hiến pháp, sửa đổi và ban hành trên
150 bộ luật và luật, trên 70 pháp lệnh. Gần đây nhất, Quốc hội đã thông qua
Hiến pháp 2013, luật Đất đai (sửa đổi), luật Đầu tư công cùng nhiều luật quan
trọng khác để từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
30
hội chủ nghĩa và thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh
tế. Những văn bản quy phạm pháp luật này về cơ bản đã tạo hành lang pháp lý
hình thành và thúc đẩy việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Những chính sách, điều luật giúp Việt Nam dần hình thành đầy
đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, vận hành cơ bản thông
suốt, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế. Đồng thời, xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn liền với hội nhập kinh tế quốc tế
sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn
mực của thị trường toàn cầu. Các yếu tố nền tảng cơ bản của kinh tế thị trường
dần được hình thành và được nhiều nước thừa nhận. Cho đến nay đã có gần 50
quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có
các đối tác thương mại lớn của Việt Nam [36; Tr.2].
Trên thực tế cho thấy, ở một nền kinh tế cần có nhiều hình thức sở hữu
chứ không đơn thuần chỉ có hai hình thức sở hữu trước đây. Trong quá trình
phân tích sự vận động của các nền kinh tế đã từng nói tồn tại trong lịch sử đã
chỉ ra rằng rất hiếm khi nền kinh tế chỉ có một thành phần kinh tế duy nhất.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ đấu tranh giữa cái cũ và cái
mới, cái cũ bị tiêu diệt nhưng chưa tiêu diệt hết, cái mới đang nảy sinh nhưng
còn yếu ớt. Tại Đại hội VI, khi đề ra đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta chủ
trương đa dạng hoá các loại hình sở hữu, phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước tiến quan trọng về tư duy
lý luận và nhận thức thực tiễn. Đảng không chỉ thừa nhận sự tồn tại như một
tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ, mà còn
nhận thấy sự cần thiết phải có chính sách đúng đắn nhằm sử dụng và phát
triển các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân nhằm thực hiện
những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Các loại hình thức kinh tế này rất đa
dạng, không cùng chung quyền lợi nên việc theo dõi, kiểm tra và kết hợp các
loại hình này trong cùng một.
31
Thực tiễn cho thấy, sự phát triển đa dạng và đóng góp ngày càng lớn cho
phát triển kinh tế- xã hội của các thành phần kinh tế những năm qua, đặc biệt
trong năm năm 2001- 2005 chính là thắng lợi đầy sức thuyết phục của đường
lối phát triển kinh tế nhiều thành phần. Từ chỗ chỉ có hai thành phần kinh tế là
nhà nước và tập thể với hai hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh là doanh
nghiệp nhà nước và hợp tác xã kiểu cũ. Đến nay, nền kinh tế nước ta đã bao
gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà
nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với nhiều loại hình tổ chức sản xuất,
kinh doanh rất đa dạng, phong phú cả về quy mô, trình độ lẫn quan hệ sản
xuất. Kết quả của đa dạng hoá sở hữu là số lượng chủ sở hữu tăng lên đặc biệt
là chủ sở hữu thuộc kinh tế tư nhân gồm tiểu chủ, cá thể, tư bản tư nhân và có
vốn đầu tư nước ngoài thúc đẩy quá trình khai thác và huy động nguồn lực về
vốn, lao động, tài nguyên, trí tuệ, tay nghề… vào kinh doanh, tạo ra nhiều giá
trị mới cho nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, gia tăng xuất khẩu, tạo
việc làm, cải thiện đời sồng và đóng góp ngân sách… Mỗi thành phần kinh tế
và loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh thích ứng với những đối tượng, điều
kiện và hoàn cảnh cụ thể, cùng phát triển và đều góp phần đẩy mạnh sản xuất,
kinh doanh, phát huy mọi nguồn lực trong nước cũng như ngoài nước làm nên
một nền kinh tế Việt Nam sống động, có tốc độ tăng trưởng cao, xóa đói,
giảm nghèo đạt kết quả nổi bật.
Sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu việc phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần không phải là “thụt lùi” không làm “mất chủ nghĩa xã hội”
như một số người lầm tưởng mà chính là một chủ trương lớn để khai thác,
phát huy mọi tiềm năng của toàn xã hội cũng như tranh thủ các nước và các tổ
chức quốc tế. Với những đặc điểm xã hội như ở nước ta hiện nay, việc thực
hiện một mô hình kinh tế mà trong đó có nhiều hình thức sở hữu khác nhau,
thậm chí đối lập với nhau, cùng tồn tại là một phương án tối ưu có khả năng
32
thúc đẩy nền kinh tế phát triển năng động. Điều này không hề mâu thuẫn với
lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin về sở hữu vì C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng:
“Sở hữu tư nhân là hình thức giao tiếp cần thiết ở một trình độ phát triển nhất
định của lực lượng sản xuất. Hình thức giao tiếp đó không thể bị xóa bỏ và là
điều kiện cần thiết cho sự sản xuất ra đời sống vật chất trực tiếp, chừng nào
chưa tạo ra được những lực lượng sản xuất, mà đối với chúng sở hữu tư nhân
trở thành xiềng xích hoặc trở ngại.”[1; Tr. 485- 486] Cơ sở lý luận của việc
xác lập tính đa dạng các hình thức sở hữu thể hiện ở luận điểm của C. Mác và
Ph. Ănghen cho rằng các hình thức sở hữu đựơc xác lập bởi trình độ xã hội
hoá sản xuất. Vì vậy, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, đa dạng hoá sở hữu là một thành tựu lớn cả về lý luận và thực tiễn của
công cuộc đổi mới.
Bên cạnh đó, nước ta đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kinh tế
tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước đã và đang đi vào cuộc sống. Các doanh nghiệp, doanh nhân được tự
chủ sản xuất, kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh. Quản lý nhà nước về kinh tế
được đổi mới từ can thiệp trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt động
sản xuất, kinh doanh sang quản lý bằng pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế- xã hội và các công cụ điều tiết vĩ mô khác. Kinh tế
thị trường luôn có tác động hai mặt đến sự phát triển kinh tế- xã hội nói chung
và đến đạo đức nói riêng. Do vậy, để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu
cực, đồng thời thông qua các quan hệ kinh tế mà xây dựng những chuẩn mực
đạo đức mới, phù hợp, tạo nên động lực bên trong cho sự phát triển kinh tế
trong điều kiện kinh tế thị trường thì trước hết, cần phải xây dựng và hoàn
thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là,
muốn định hướng các giá trị đạo đức thì trước tiên phải định hướng ngay
trong cơ sở kinh tế- xã hội đã sản sinh ra nó.
33
2.2. Những hình thức sở hữu cơ bản trong quá trình đổi mới Việt Nam
hiện nay.
Khi mới bước vào con đường xây dựng đất nước, chính vì nhận thức
chưa đúng, nên chúng ta đã nóng vội và có phần duy ý chí khi xóa bỏ mọi
hình thức sở hữu khác và chỉ chấp nhận hai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu
nhà nước và sở hữu tập thể. Chúng ta cũng không tuân theo quy luật kinh tế
khách quan là lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, muốn cho sản
xuất phát triển thì quan hệ sản xuất phải luôn phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất Việt Nam chỉ có kinh tế kế hoạch hoá tập
trung với vai trò tuyệt đối của nhà nước trong quản lý kinh tế mà thực chất là
Nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động sản xuất, kinh tế, từ Trung ương tới
địa phương, bằng phương thức mệnh lệnh hành chính. Đó là nền kinh tế hiện
vật và bao cấp, đi liền với phương thức phân phối bình quân, không thể hiện
tính khách quan của quy luật giá trị, quy luật thị trường. Trên thực tế, Nhà
nước độc quyền sản xuất- kinh doanh. Trong quan hệ sở hữu thì chỉ có sở hữu
nhà nước (đại diện cho sở hữu xã hội) và sở hữu tập thể. Không có kinh tế tư
nhân, không có thị trường và càng không có cạnh tranh. Vì vậy, đất nước thời
kỳ đầu đã rơi vào tình trạng khó khăn, khủng hoảng kinh tế nặng nề.
Cùng với sự vận động của thực tiễn và sự phát triển của nhận thức, lý
luận về phát triển nền kinh tế Đảng nhận thấy hướng đi trước đây không còn
hiệu quả, gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam phải đổi mới
về vấn đề sở hữu, quan trọng là phải xây dựng nền kinh tế nhiều loại hình sở
hữu theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình này được tiếp tục bổ sung,
hoàn thiện qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX và X, XI và XII. Từ đó, Đảng vận
dụng cơ sở lý luận vào vấn đề sở hữu nên đã thừa nhận tính đa dạng, khách
quan của các loại hình sở hữu và hình thức sở hữu sẽ mở ra cho chúng ta sự
nhận thức mới về sự phong phú trong sự tồn tại và phát triển của các thành
phần kinh tế. Các loại hình sở hữu, các thành phần kinh tế đều được xem là bộ
34
phận hợp thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các
chính sách cụ thể đối với các loại hình sở hữu và các thành phần kinh tế trở
nên thông thoáng hơn và ngày càng được hoàn thiện. Quan điểm về hình thức
sở hữu, thành phần sở hữu trong thời kỳ quá độ đã thay đổi căn bản và đến
nay đã được xác lập, đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
không chỉ có hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể mà đa dạng hóa
các hình thức sở hữu và thành phần sở hữu. Trong khóa luận này, chúng tôi
tập trung gồm có 4 hình thức sở hữu chính: Sở hữu nhà nước; Sở hữu tập thể;
Sở hữu tư nhân và Sở hữu hỗn hợp. Việc quy định các hình thức sở hữu cụ
thể sẽ giúp chúng ta có điều kiện quy định các phương thức tồn tại, vận động
của sở hữu gắn liền với các chủ sở hữu cụ thể cùng với các chế độ pháp lý có
tính đặc thù của từng hình thức sở hữu đó. Do đó cần phải có sự phân loại các
hình thức sở hữu một cách hợp lý và khoa học hơn. Tất cả các loại hình sở
hữu này đều là những phương tiện để đạt tới mục tiêu là xây dựng một nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, như đã
được xác định trong các đại hội gần đây của Đảng.
Nước ta đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới, của chính
sách đa dạng hóa hình thức sở hữu do Đảng khởi xướng và lãnh đạo toàn dân
thực hiện. Trong nền kinh tế nhiều thành phần mỗi hình thức nói trên có địa vị
và vai trò khác nhau. Địa vị của chúng phụ thuộc vào sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Thừa nhận đa dạng hoá các loại hình sở hữu không đồng
nghĩa với sự chấp nhận chế độ người áp bức bóc lột con người. Việc xây dựng
nền kinh tế thị trường không thể tách rời việc đa dạng hoá các hình thức sở
hữu về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên kinh tế thị trường mà chúng ta đang xây
dựng là nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính vì vậy việc đa
dạng hoá các hình thức sở hữu mang nét độc đoá riêng. Sự hình thành và phát
triển một cách đa dạng các hình thức sở hữu cho phép giải phóng được các
năng lực sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển, cải thiện đời sống nhân dân.
35
Theo chúng tôi, đó là cơ sở lý luận quan trọng cho sự thay đổi quan niệm về
sở hữu ở Việt Nam. Đây là cơ sở lý luận cho việc xây dựng con đường, bước
đi thích hợp nhằm giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, tạo môi trường
thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển, củng cố vai trò chủ đạo của sở
hữu nhà nước.
2.2.1. Sở hữu nhà nước
Khi bàn đến vấn đề sở hữu nhà nước, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-
Lênin cũng chưa thống nhất và sử dụng nhiều tên gọi khác nhau nhưng gần
nghĩa nhau: sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu chung, sở hữu công
cộng, sở hữu xã hội. Tại Đại hội X của Đảng đã khẳng định lại vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng
để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và thúc đẩy
các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân”[17; Tr. 83]. Đồng thời với khẳng định vai trò to lớn của kinh tế nhà
nước, Đại hội cũng tuyên bố rõ ràng rằng: “Các thành phần kinh tế hoạt động
theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”[17; Tr. 83]. Đảng cam kết chỉ đạo Nhà
nước thi hành các chính sách kinh tế không phân biệt đối xử với các hình thức
sở hữu. Đây là một bước tiến mới về quan điểm kinh tế nhiều thành phần của
Đảng ta. Hơn nữa, Đảng chủ trương đưa hệ thống doanh nghiệp nhà nước ra
hoạt động trong môi trường công khai, minh bạch và cạnh tranh thực sự, xoá
bỏ độc quyền và đặc quyền sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước,
buộc doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động hiệu quả mới được tồn tại.
Ở Việt Nam, cho đến nay các học giả tương đối thống nhất ý kiến về
quan niệm sở hữu cho rằng có sự khác nhau giữa sở hữu toàn dân và sở hữu
36
nhà nước, nhưng ở nước ta trong thời kỳ hiện nay chỉ nên sử dụng sở hữu nhà
nước là đủ. Chỉ khi nào đạt đến chủ nghĩa xã hội phát triển hoặc chủ nghĩa
cộng sản mới nên áp dụng hình thức sở hữu toàn dân. Trong thời kỳ bao cấp
trước đây chúng ta đã đồng nhất sở hữu nhà nước với sở hữu toàn dân. Do
nhầm lẫn như vậy, có thời gian dài người ta bỏ quên hình thức sở hữu nhà
nước, chỉ quan tâm đặc biệt tới hình thức sở hữu toàn dân với chế độ công
hữu tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Và cũng bởi vì sở
hữu toàn dân gắn kết với sự phát triển của kinh tế quốc doanh. Vì vậy, mà
chúng ta đã ra sức quốc doanh hoá nền kinh tế với niềm tin cho rằng có như
vậy mới có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn.
Trước hết, ta hiểu sở hữu nhà nước là hình thức sở hữu mà chủ sở hữu là
nhà nước và đối là các tạo được pháp luật hiện hành thừa nhận thuộc chủ
quyền của quốc gia, của nhà nước [10; Tr.42]. Ngoài ra, sở hữu nhà nước
được hiểu là sở hữu của toàn dân mà Nhà nước được giao quyền đại diện chủ
sở hữu. Nhà nước của ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà nước
được nhân dân giao phó trách nhiệm quản lý, sử dụng toàn bộ nguồn lực
thuộc sở hữu toàn dân để đầu tư có hiệu quả cho mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội của đất nước dưới nhiều hình thức tổ chức khác nhau. Hình thức sở hữu
nhà nước, xét về tổng thể mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu nhà nước ở
nước ta, có lẽ thể hiện chủ yếu ở khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực của
doanh nghiệp nhà nước. Để làm rõ vai trò sở hữu nhà nước, cần đặt nó trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xu hướng hội nhập
kinh tế quốc tế. Nếu quan niệm sở hữu nhà nước theo nghĩa rộng, bao gồm cả
khía cạnh đại diện cho sở hữu toàn dân, thì vai trò của sở hữu nhà nước trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là rất lớn, thể hiện ở chỗ:
- Sở hữu nhà nước là nòng cốt trong việc thực hiện quản lý nhà nước, tạo
lập các quan hệ sản xuất mới. Thực hiện các mục tiêu chính trị, xã hội bảo
đảm sự phát triển bền vững.
37
- Là đại diện cho sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước tồn tại trên các lĩnh
vực được Hiến pháp quy định như sở hữu đất đai, tài nguyên, vùng trời, vùng
biển và tiềm lực quốc gia.
- Sở hữu nhà nước có vai trò hướng dẫn, mở đường, công cụ điều tiết
nền kinh tế. Như vậy, sở hữu nhà nước thể hiện tiềm lực nhà nước, là một
trong những công cụ quan trọng điều tiết nền kinh tế và được sử dụng linh
hoạt trong quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Khác với các hình thức sở hữu khác, sở hữu nhà nước có chủ thể đặc
biệt, không phải là công dân, các đoàn thể, các tổ chức xã hội… mà còn là
chủ sở hữu nắm giữ tư liệu phổ biến và quan trọng nhất trong xã hội. Nhà
nước là chủ thể thực hiện quyền lực trong quản lý xã hội. Chủ thể của sở hữu
nhà nước dù tổ chức theo mô hình có nhiều cấp. Hơn nữa quyền quản lý
thường được thực hiện bởi một bộ máy làm việc theo chế độ công chức, cơ
chế quy trách nhiệm cá nhân và mục tiêu và kiểm soát thường không rõ ràng.
Nhà nước còn ban hành hệ thống các văn bản pháp luật, trong đó nhà nước tự
định các quyền trong sở hữu của mình, đồng thời định đoạt các quyền và
nghĩa vụ cho các chủ sở hữu khác. Vì vậy, nhà nước là một chủ thể đặc biệt.
Nhà nước thực hiện quyền lực trên nguyên tắc đại diện cho nhân dân, nắm giữ
những tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Chủ sở hữu thực hiện quyền của mình
thông qua các cơ quan, cá nhân, tổ chức và người đại diện theo quy định của
pháp luật. Hơn nữa quyền quản lý thường được thực hiện bởi một bộ máy làm
việc theo chế độ công chức, cơ chế quy trách nhiệm cá nhân và động cơ đạt
mục tiêu hiệu quả và áp lực kiểm soát thường không rõ ràng. Quyền chuyển
nhượng thường bị hạn chế, thể hiện một số quyền như thừa kế, tặng, biếu...
không thể thực hiện được vì pháp luật không cho phép.
Đối tượng sở hữu nhà nước bao gồm hai nhóm: Nhóm thứ nhất mang
tính chất gần như đương nhiên, không thể phân chia cho các chủ thể phi nhà
nước như vùng trời, vùng biển, tài nguyên trong lòng đất hoặc các đối tượng
38
mới xuất hiện gần đây như tên miền trên mạng Internet… Chính nhóm này
quy định sự cần thiết khách quan của sở hữu nhà nước trong nền kinh tế thị
trường. Nhóm thứ hai bao gồm các đối tượng vừa có thể thuộc sở hữu nhà
nước vừa có thể thuộc các chủ thể sở hữu khác.
Các thành phần kinh tế thuộc sở hữu nhà nước gồm doanh nghiệp nhà
nước, các tài sản thuộc sở hữu nhà nước như đất đai, tài nguyên, khoáng sản,
kết cấu hạ tầng, các nguồn dự trữ, ngân sách, các quỹ quốc gia và kể cả phần
vốn mà nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác.
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức do nhà nước đầu tư vốn thành phần và tổ
chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện
các mục tiêu kinh tế- xã hội do nhà nước giao. Bên cạnh đó, Nhà nước có thể
đầu tư vốn vào các doanh nghiệp, công trình thuộc các ngành và các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật và ngoại giao, quốc phòng, an
ninh để các doanh nghiệp cơ quan này thực hiện nhiệm vụ do Nhà nước đặt ra
thì phần vốn đó cũng thuộc sở hữu nhà nước. Ngoài những tài sản trên thì các
tài sản khác do pháp luật quy định cũng có thể thuộc sở hữu nhà nước, các di
tích lịch sử văn hóa mà nhà nước có quyền sở hữu, di sản thừa kế không có
người thừa kế…
Như vậy, sở hữu nhà nước là một phạm trù kinh tế khách quan, gắn liền
với sự tồn tại của nhà nước, bất kể nhà nước đó thuộc thể chế chính trị xã hội
nào. Hiện nay, nhà nước nắm trong tay lực lượng vật chất to lớn, lực lượng
vật chất này cùng với pháp luật, kế hoạch, chính sách sẽ tạo cho nhà nước một
sức mạnh to lớn để chi phối, hướng dẫn, điều tiết sự phát triển của toàn bộ
nền kinh tế. Tuy nhiên, khi nhà nước nắm trong tay một khối lượng sở hữu
khổng lồ thì chính những bất lợi của sở hữu nhà nước bắt nguồn từ đặc điểm
của chủ thể tập thể có xu hướng làm giảm tính hiệu quả của khu vực này, kéo
theo sự sụt giảm hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Nên có xu hướng nhà nước
rút khỏi những ngành cạnh tranh. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là
39
một giải pháp mang tính chất như những chiếc “van” an toàn để bảo đảm tính
hiệu quả không những cho các doanh nghiệp nhà nước, mà còn cho cả nền
kinh tế [9]. Thực hiện chủ trương cổ phần hóa và đổi mới, sắp xếp lại nên khu
vực doanh nghiệp nhà nước tiếp tục xu hướng giảm dần quy mô và tỷ lệ đóng
góp ở tất cả các chỉ tiêu trong giai đoạn 2011- 2016. Cụ thể tỷ lệ số doanh
nghiệp nhà nước giảm từ 1,01% năm 2011 xuống còn 0,53% năm 2016; số
lao động giảm từ 14,7% xuống 9,2%; vốn sản xuất kinh doanh từ 32,7%
xuống 28,4%; doanh thu thuần từ 26,5% xuống 16,7%; lợi nhuận trước thuế
từ 43,3% xuống 27,7%; thuế và đóng góp cho ngân sách nhà nước từ 35,0%
xuống 32,2% [37]. Vì vậy, việc xác định đúng đắn vai trò chủ đạo của sở hữu
nhà nước có ý nghĩa to lớn, mang tính quyết định đối với sự phát triển bền
vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta.
Quan điểm của Đảng ta về sở hữu nhà nước vừa là sự kế thừa quan điểm
của chủ nghĩa Mác- Lênin, vừa phát triển lên một mức cao hơn và giải thích
rõ hơn các nội dung liên quan đến sở hữu nhà nước như mối quan hệ của nó
với các hình thức sở hữu khác, cấu thành của kinh tế nhà nước, vai trò và nội
dung chủ đạo của sở hữu nhà nước, phương thức hoạt động của sở hữu nhà
nước trong nền kinh tế thị trường hội nhập… Những điểm phát triển này tạo
cơ sở lý luận và nhận thức đúng đắn cho các đảng viên, nhất là các đảng viên
giữ vai trò lãnh đạo, quản lý trong bộ máy nhà nước. Song, có thể nhận thấy,
thực tiễn vận hành kinh tế nhà nước sẽ còn đặt ra nhiều yêu cầu đòi hỏi phải
tiếp tục nghiên cứu và hoàn chỉnh về lý luận.
2.2.2. Sở hữu tập thể
Trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, sở hữu tập thể phát huy
mọi tiềm năng về vật chất, sức lao động của người lao động. Do đó, để sở hữu
tập thể thực sự phát huy sức mạnh đối với việc xây dựng và phát triển kinh tế
cũng như đảm bảo quyền lợi cho người lao động thì cần có một cơ chế rõ
ràng. Sở hữu tập thể là sở hữu của hợp tác xã hoặc các hình thức kinh tế tập
thể ổn định khác do cá nhân, hộ gia đình cùng góp vốn, góp sức hợp tác sản
40
xuất, kinh doanh nhằm thực hiện mục đích chung được quy định trong điều lệ,
theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, dân chủ, cùng quản lý và cùng hưởng
lợi (theo quy định tại điều 208 Bộ luật Dân sự 2005).
Chủ thể của sở hữu tập thể chính là các hợp tác xã nông nghiệp, lâm
nghiệp và các ngành, hể khác do Luật hợp tác xã ghi nhận: tổ chức kinh tế tự
chủ, do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp
vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức manh của tập
thể và của từng xã viên .nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển
kinh tế- xã hội của đất nước. Mỗi hợp tác xã là một chủ thể riêng biệt, là một
chủ sở hữu đối với tài sản riêng của mình. Nhà nước và pháp luật tôn trọng
quyền độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài sản của hợp tác xã. Nhà
nước bảo hộ quyền lợi hợp pháp của hợp tác xã, bảo đảm quyền bình đẳng
của hợp tác xã trong sản xuất, kinh doanh, không can thiệp vào việc quản lý
và hoạt động hợp pháp của hợp tác xã; ngoài ra nhà nước ban hành các văn
bản pháp luật và chính sách khuyến khích phát triển hợp tác xã; thông qua
hoạt động của hợp tác xã để thực hiện các chính sách giúp đỡ, hỗ trợ xã viên
xoá đói, giảm nghèo, thực hiện bình đẳng, công bằng và tiến bộ xã hội.
Đối tượng của sở hữu tập thể bao gồm các tư liệu sản xuất, công cụ lao
động, vốn góp của xã viên, các loại quỹ do hợp tác xã lập ra,… đối tượng
được lập nên từ tài sản đóng góp của các thành viên, nguồn lợi thu được trong
quá trình hợp tác xã hoạt động, vốn góp từ nhà nước,… Mỗi hợp tác xã đều
có quyền sở hữu đối với mỗi tư liệu sản xuất, công cụ lao động phục vụ cho
nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh và các hoạt động khác của hợp tác xã. Ngoài
các tư liệu sản xuất chính, nếu các hợp tác xã có phát triển thêm các ngành
nghề phụ để tăng thu nhập cho xã viên, thì hợp tác xã cũng có quyền sở hữu
đối vối các tư liệu sản xuất dùng vào việc phát triển ngành nghề phụ đó.
41
Trước đây, ở nước ta hình thức sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình
thức hợp tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp) với
nội dung là cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của đối tượng sở hữu đều là của
chung, mà các xã viên là chủ sở hữu. Sở hữu tập thể cũng biển hiện ở các hình
thức sở hữu như sở hữu tổ hợp tác, sở hữu hợp tác xã, sở hữu công ty cổ phần,
trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Hợp tác xã không phải là một hình thức
sở hữu riêng có, đặc trưng cho chủ nghĩa xã hội mà nó đã xuất hiện trong đời
sống kinh tế- xã hội nhiều trăm năm và đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển
khác nhau. Hợp tác xã luôn là một tổ chức kinh tế tiến bộ, ngày càng có vị trí
quan trọng trong phát triển kinh tế. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin, kinh nghiệm của các nước và thực tiễn nước ta trong nhiều năm qua thì
hợp tác xã là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, tồn tại khách quan và luôn
có vị trí quan trọng nhất là đối với những nước có nền kinh tế lạc hậu. Lênin
đã khẳng định chế độ của những xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội
chủ nghĩa. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá, các nhu cầu về kinh tế,
về vốn thì từ chỗ xác định mô hình hợp tác xã tập trung cao độ về tư liệu sản
xuất, quản lý như với xí nghiệp quốc doanh, phân phối theo công điểm, đã
dần có những quy định để đổi mới phù hợp hơn với nguyên tắc tự nguyện,
dân chủ, cùng có lợi. Chủ trương phát triển nhiều hình thức hợp tác đa dạng,
phù hợp với trình độ phát triển ở các ngành nghề, khu vực và trình độ khác
nhau, xã viên góp sức lao động, góp cổ phần, hợp tác xã hoạt động như doanh
nghiệp; đề cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, xóa bỏ tư tưởng bao cấp,
trông chờ, ỷ lại vào nhà nước. Tính đến thời điểm 01/01/2017 cả nước có 13,6
nghìn hợp tác xã, giảm 0,1%, trong đó số lượng hợp tác xã hoạt động trong
khu vực công nghiệp và xây dựng giảm mạnh nhất tới 20,1% (665 hợp tác
xã), ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 79 hợp tác xã (1,1%), số hợp
tác xã hoạt động trong khu vực dịch vụ lại tăng mạnh với 726 hợp tác xã
(22,2%) so với thời điểm 01/01/2012 [37]. Vì vậy, sở hữu tập thể là sở hữu
chung của một đơn vị do các thành viên cùng góp công sức xây dựng và vốn
42
là của cá nhân nhưng góp cổ phần để sử dụng chung đơn vị dưới các hình
thức tổ chức hợp tác xã.
Hiện nay vẫn tồn tại quan niệm cho rằng sở hữu tập thể là sở hữu của
những người sản xuất nhỏ trong các tổ chức hợp tác. Chính nhận thức không
đầy đủ về sở hữu tập thể là một trong các yếu tố cản trở sự phát triển của kinh
tế tập thể và của hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa trong thời gian qua. Quan niệm này không những trái với quan
niệm về “tập thể” theo đúng ngữ nghĩa của nó, mà còn thể hiện nhận thức
chưa thấu đáo quan điểm của Đảng về sở hữu tập thể trong các tổ chức kinh tế
liên kết- hợp tác. Trong các Nghị quyết của Đảng, bên cạnh việc nhấn mạnh
thành lập các hợp tác xã để tập hợp những người sản xuất nhỏ cá thể, mở rộng
phân công và hợp tác lao động, phát triển sức sản xuất, còn nói đến việc thu
hút các chủ thể khác tham gia vào hợp tác xã. Các chủ thể này có thể là những
thể nhân (cán bộ, công nhân viên), có thể là pháp nhân kinh tế khác không
cùng địa bàn lãnh thổ (các doanh nghiệp). Các chủ thể góp vốn này có thể
tham gia hoặc không tham gia lao động trực tiếp ở hợp tác xã. Vậy nên, chủ
thể sở hữu không phải là cá nhân cụ thể mà là một tập hợp, tập thể của những
người sử dụng và chủ sở hữu có thể xuất hiện dưới dạng một hay một nhóm
người được uỷ quyền, thể hiện những lợi ích của tập thể những người sở hữu
hoặc dưới dạng pháp nhân thống nhất. Nhà nước tạo điều kiện để sở hữu tập
thể của các hợp tác xã phát triển ổn định trong các lĩnh vực nông nghiệp, công
nghiệp, giao thông vận tải, trồng rừng, làm muối, ngư nghiệp... Nhà nước
khuyến khích và tạo điều kiện cho tất cả nhân dân tham gia vào sở hữu tập thể
phù hợp với trình độ, khả năng nghề nghiệp của từng cá nhân công dân nhằm
phát huy tiềm năng và sức mạnh của tập thể.
2.2.3. Sở hữu tư nhân
Với lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ thấp kém, con người không
thể chống nổi sức mạnh của tự nhiên nên phải cố kết với nhau trong lao động
chung và kết quả lao động thuộc về cộng đồng công xã. Lúc này chưa có chế
43
độ sở hữu tư nhân và cũng chưa có sản xuất hàng hóa và nền kinh tế hàng
hóa. Với sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, sở hữu tư nhân xuất hiện
và làm nảy sinh hiện tượng người bóc lột người xã hội phân chia thành giai
cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Sở hữu tư nhân là cơ sở kinh tế của quan hệ
xã hội dưới chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến. Dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa, chế độ tư hữu sở hữu tư nhân là hình thức sở hữu của từng cá nhân
công dân về tư liệu sinh hoạt, tiêu dùng và những tư liệu sản xuất nhằm đáp
ứng những nhu cầu về vật chất và tinh thần của công dân.
Sở hữu tư nhân là sở hữu của lao động cá thể, tư bản tư nhân trong nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, giao thông vận tải. Ở mỗi mức độ sở hữu có
chứa đựng nội dung của quy mô kinh tế rất khác nhau. Đồng thời nó chi phối
toàn bộ các quan hệ về lao động, kinh tế, quan hệ dân sự trong suốt quá trình
nó tồn tại và phát triển. Thừa nhận và bảo vệ sự tồn tại và phát triển của sở
hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất là một bước phát triển trong chế độ kinh
tế nước ta. Khi mà việc tồn tại nhiều hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất
còn là khách quan, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
nước ta trong giai đoạn hiện nay mà chủ trương xoá bỏ tư hữu, phát triển sở
hữu toàn dân thuần khiết, nhất là các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa này
chưa đủ sức giải quyết mọi vấn đề kinh tế- xã hội thì chẳng những kiềm hãm
sự phát triển của lực lượng sản xuất mà sở hữu toàn dân cũng bị suy vong vì
cung cách quản lý hành chính mệnh lệnh, độc quyền. Thừa nhận và bảo vệ sở
hữu tư nhân là nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất, hỗ trợ, bổ sung cho
kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trái lại, phải tôn trọng nó, bởi vì chính sở hữu tư
nhân chứa trong nó động lực cá nhân mạnh mẽ nhất, có tác dụng kích thích to
lớn đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của con người. Bên cạnh đó, cũng
cần thừa nhận một sự thật là, động lực cá nhân dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân
và lợi ích cá nhân là một thuộc tính bản năng của con người sẽ còn tồn tại lâu
dài. Nếu biết sử dụng động lực này cho thật tốt thì sẽ rất có lợi cho công cuộc
phát triển kinh tế nói riêng và cho sự nghiệp xây dựng đất nước nói chung.
44
Trải qua những giai đoạn lịch sử khác nhau sở hữu tư nhân được ghi
nhận là một hình thức sở hữu bình đẳng giống như bất cứ một hình thức sở
hữu nào khác. Hình thức sở hữu tư nhân đóng vai trò to lớn trong đời sống
kinh tế của đất nước. Điều 211 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Sở hữu tư
nhân là sở hữu của cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình. Sở hữu tư nhân
bao gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân.” Như vậy,
mặc dù là sở hữu của cá nhân đối với với tài sản nhưng dựa trên tính chất về
vốn và cách thức sản xuất, sử dụng lao động mà sở hữu tư nhân tồn tại nhiều
hình thức sở hữu được chia thành: sở hữu cá thể (vốn ít, tổ chức sản xuất kiểu
tự cung tự cấp), sở hữu tiểu chủ (cá nhân bắt đầu biết cách tổ chức sản xuất,
đã biết thuê nhân công lao động…), sở hữu tư bản tư nhân (vốn lớn, tổ chức
sản xuất ở trình độ cao...).
Sở hữu của cá nhân là một hình thức sở hữu phát sinh trong điều kiện
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước. Sự định hướng phát triển cho sở hữu tư nhân là nhằm
ngăn chặn mặt tiêu cực có ảnh hưởng xấu đến mục tiêu xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Sở hữu tư nhân được phát triển, được thừa nhận và được bảo
hộ ở nước ta nhưng không phải là hình thức sở hữu cơ bản nhất trong xã hội.
Bởi vì, sở hữu tập thể, sở hữu toàn dân vẫn là những hình thức sở hữu chủ
đạo, nền tảng và quyết định tới sự phát triển kinh tế của nước ta trong thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế quốc doanh ngày càng được củng cố và
phát triển theo các kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của nhà nước trong từng
giai đoạn và nó vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Do đó, sự
tồn tại và phát triển của sở hữu tư nhân trong điều kiện thời kỳ quá độ lên sản
xuất xã hội chủ nghĩa là cần thiết có ảnh hưởng tới sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta [31; Tr. 45].
Chủ thể của sở hữu tư nhân đó chính là cá nhân, bất cứ cá nhân công dân
nào không phân biệt các mức độ năng lực dân sự dều có thể là chủ sở hữu của
45
sở hữu tư nhân miễn là những người này có tài sản dựa trên các căn cứ pháp
lý do pháp luật quy định. Nhưng không phải cá nhân nào cũng thực hiện được
mà phụ thuộc vào nhận thức, làm chủ hành vi của mình. Do đó, trong một số
trường hợp nếu cá nhân không thể trực tiếp thực hiện được các quyền năng
của quyền sở hữu thì quyền năng này được thực hiện thông qua hành vi của
người đại diện; hay trong một số trường hợp cá nhân muốn thực hiện các
quyền năng của quyền sở hữu phải được sự đồng ý của người đại diện.
Đối tượng của sở hữu tư nhân bao gồm :
- Các thu nhập hợp pháp: Là tiền hoặc hiện vật có được do kết quả lao
động, hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp đem lại. Ngoài ra thu nhập
hợp pháp còn được hiểu là những khoản thu nhập có được từ việc được tặng
cho tài sản thừa kế tài sản... Thu nhập được cho là hợp pháp khi cá nhân thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước, các cá nhân và tổ chức khác.
- Của cải để dành: Đây là những khoản tiền hoặc hiện vật do thu nhập
hợp pháp của cá nhân mà có những chi tiêu sử dụng không hết. Cá nhân có
thể để dành dưới dạng tích trữ gửi ngân hàng, cho vay,...
- Nhà ở: Nhà ở là tư liệu sinh hoạt nhằm thỏa mãn nhu cầu cần thiết của
cá nhân, pháp luật bảo hộ quyền sở hữu nhà ở của cá nhân. Cá nhân có quyền
sở hữu đối với nhà ở trên nhiều căn cứ khác nhau như xây nhà ở, mua nhà ở,
được tặng cho, thừa kế nhà ở...
Ưu thế rõ rệt của sở hữu tư nhân so với sở hữu tập thể và sở hữu nhà
nước còn là ở chỗ, hai loại sở hữu này dễ dẫn đến tình trạng giảm động lực,
dễ trở nên vô chủ khi điều hành và kiểm soát kém, trong khi đó thì sở hữu tư
nhân của các cá nhân, cả trong kinh tế cá thể lẫn khi đưa vào sử dụng chung,
đều được giám sát tốt hơn và khả năng làm chủ cũng cao hơn, hiệu quả hơn.
Cần khẳng định rằng, trong điều kiện nước ta hiện nay, thừa nhận sở hữu tư
nhân, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân hoàn toàn không mâu thuẫn với
định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tế cho thấy, khu vực kinh tế tư nhân Việt
46
Nam đóng góp phần lớn trong tỷ trọng kinh tế như chiếm khoảng 40% GDP.
Đặc biệt, khu vực doanh nghiệp của kinh tế tư nhân cho thấy xu thế đóng góp
ngày càng tăng trong tỷ trọng GDP, từ 6,9% năm 2010 lên khoảng 8,2% năm
2017. Mặc dù vậy, tỷ trọng của khu vực này không có nhiều thay đổi trong
khi tỷ trọng khu vực kinh tế nhà nước trong GDP liên tục giảm, từ 35,6% năm
2005 xuống còn 27,1% năm 2017 và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng
từ khoảng hơn 15% năm 2005 lên khoảng 18,5% năm 2017. [43]
Đặc biệt là sở hữu tư nhân, từ chỗ bị kỳ thị, hạn chế và nhiều cấm đoán,
đến nay đã có những đổi mới căn bản, xác định rõ phải bảo đảm quyền tự do
kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân. Phát triển kinh tế tư nhân có vai
trò quan trọng, có ý nghĩa chiến lược lâu dài, khẳng định chủ trương phát triển
mạnh mẽ, không hạn chế ngành nghề, lĩnh vực mà luật pháp không cấm. Tạo
môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để sở hữu tư nhân
phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước
ngoài; khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho
người lao động, liên doanh liên kết với nhau, với sở hữu tập thể và sở hữu nhà
nước. Tuy nhiên cần phải thấy mặt trái luôn luôn tiềm ẩn của sở hữu tư nhân
là sự chiếm hữu lợi ích kinh tế. Để ngăn ngừa tình trạng này cần phải phát
huy ưu thế của các loại hình thức sở hữu xã hội chủ nghĩa, tăng cường quản lý
nhà nước đối với nền kinh tế thị trường, vừa tạo điều kiện cho các loại hình sở
hữu phát triển vừa bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, nhất là pháp luật kinh tế, xử
lý nghiêm mọi hành vi trái pháp luật.
2.2.4. Sở hữu hỗn hợp
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, chúng ta có dự kiến phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình
thức. Điều 16 Hiến pháp 1992 khẳng định phát triển thành phần kinh tế này.
Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995, sở hữu hỗn hợp được coi là một
hình thức sở hữu độc lập. Tuy nhiên, trên thực tế, hình thức sở hữu hỗn hợp
47
và hình thức sở hữu chung trong Bộ luật dân sự năm 1995 chỉ khác nhau về
chủ thể thực hiện quyền sở hữu, còn tài sản và việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản thuộc sở hữu này vẫn tuân theo quy định của việc chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu chung. Chính vì vậy, Bộ luật
dân sự năm 2005 đã sửa đổi nội dung quy định về sở hữu hỗn hợp của Bộ luật
dân sự năm 1995 thành một điều luật để điều chỉnh việc thực hiện quyền sở
hữu chung hỗn hợp như là một trong những trường hợp đặc biệt trong việc
thực hiện quyền sở hữu tài sản đối với hình thức sở hữu chung mà thôi.
Sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu cơ chế tham gia của nhiều loại chủ
thể khác nhau về tính chất. Có thể nói đây là loại hình kinh tế chung gian, có
tính chất đan xem giữa thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ
nghĩa. Thực chất đây là các xí nghiệp (hoặc công ty) cổ phần. Đó là các hình
thức tổ chức kinh tế không thuộc hẳn vào một thành phần kinh tế nào. Hiện
nay, chúng ta còn phải sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước hay hình thức tư
bản nhà nước làm phương tiện và cứu cách để phát triển. Bởi vì chủ nghĩa tư
bản nhà nước theo Lênin là một hình thức phổ biến trong thời kỳ quá độ và sự
tồn tại của nó là cần thiết. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần mỗi
hình thức sở hữu nói trên có vị trí và vai trò riêng của chúng. Địa vị lịch sử
của chúng phụ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất và trình độ quản
lý, vào tiến trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt trong thời gian này, nhà nước ta tiến
hành cổ phần hoá đa dạng hoá sở hữu mạnh mẽ đối với các doanh nghiệp nhà
nước làm ăn thua lỗ kéo dài hoặc doanh nghiệp không thuộc loại nhà nước
độc quyền lắm giữ, ngay cả các doanh nghiệp của Tổng công ty 90, Tổng
công ty 91.
Sở hữu hỗn hợp chiếm ưu thế phổ biến là kết quả xã hội hóa sản xuất và
xã hội hóa sở hữu ở trình độ cao do yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất,
cách mạng khoa học và công nghệ, quy mô sản xuất- kinh doanh và trình độ
48
quản lý,... Hình thức sở hữu này ngày càng phát triển và từng bước vượt qua
biên giới của một quốc gia cụ thể gắn liền với sự ra đời và phát triển mạnh
của các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia đang đóng vai trò “đầu rồng”,
chi phối mạng sản xuất và mạng phân phối toàn cầu và khu vực.
Cụ thể hơn, chế độ sở hữu này được hình thành từ sự liên kết giữa các
chủ thể sở hữu tư nhân với sở hữu nhà nước gắn với việc thành lập một tổ
chức kinh doanh (một pháp nhân kinh tế mới). Song trong thực tế, không chỉ
có liên kết giữa các chủ thể của hai chế độ sở hữu khác nhau với nhau, mà còn
diễn ra giữa các chủ thể kinh tế trong cùng một chế độ sở hữu (các chủ thể
kinh tế nhà nước với nhau, các chủ thể tư nhân với nhau). Trong tổ chức kinh
doanh mới được hình thành từ liên kết kinh doanh, mỗi chủ thể sở hữu vẫn
giữ quyền sở hữu với phần tài sản đã đóng góp và chỉ chịu trách nhiệm tương
ứng với phân tài sản ấy, những người đóng góp ủy quyền sử dụng các tài sản
cho những người do họ cử ra. Hình thức sở hữu hỗn hợp được biểu hiện cụ
thể bằng các hình thức sở hữu như sở hữu doanh nghiệp liên doanh, hợp
doanh với nước ngoài, sở hữu công ty cổ phần, sở hữu đa quốc gia, xuyên
quốc gia đó là những hình thức đa dạng của sở hữu tư bản nhà nước.
Áp dụng lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của
Việt Nam, Việt Nam hiện đang tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì vấn đề đặt ra là, trong khi tiếp tục
xây dựng và phát triển sở hữu toàn dân, làm cho nó thực sự đóng vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế, cần tiếp tục khai thác những mặt mạnh của sở hữu tư
nhân để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân lao
động. Đó cũng chính là đòi hỏi khách quan của sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Nói cách khác, việc cho phép tồn tại và phát triển nhiều loại hình sở
hữu, trong đó có sở hữu tư nhân không những là tất yếu mà còn cần thiết cho
việc phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tồn tại của sở hữu tư nhân sẽ là rất
lâu dài và nếu như thời kỳ quá độ, như một số nước khẳng định, có thể kéo
49
dài hàng trăm năm thì sự tồn tại của sở hữu tư nhân cũng không thể ngắn hơn
thời gian đó. Bên cạnh đó, phải tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động của kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã; đẩy mạnh liên kết và hợp tác
dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với
cơ chế thị trường. Nhà nước có cơ chế, chính sách hỗ trợ về tiếp cận nguồn
vốn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ phát
triển thị trường, tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở phát
triển và phát huy vai trò của kinh tế hộ.
Có thể khẳng định rằng, việc thực hiện một nền kinh tế nhiều thành phần
với các loại hình sở hữu khác nhau là chiến lược lâu dài và tối ưu để làm cho
nền kinh tế trở nên năng động nhằm phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao đời
sống của nhân dân lao động và là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để
đánh giá hiệu quả của việc xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, như Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định. Từ đây, Đảng và nhà
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tạo cơ chế để mọi thành phần kinh tế gắn
với các hình thức sở hữu khác nhau được phát triển một cách thực sự bình đẳng
trước pháp luật. Sự thành công tiếp theo của công cuộc đổi mới phần nhiều phụ
thuộc vào những chủ trương và giải pháp cho việc sử dụng một cách tối ưu các
loại hình sở hữu, cả sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể lẫn sở hữu tư nhân. Xét
đến cùng, mọi chủ trương, chính sách phải hướng đến thực hiện thắng lợi mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
2.3. Một số hạn chế và vấn đề đặt ra.
Trong quá trình hơn 30 năm đổi mới, đất nước đã bước ra khỏi tình trạng
khủng hoảng kinh tế- xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang
phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị- xã hội ổn
định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa- xã hội có bước phát
50
triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ
xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân
tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức
mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ
xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu;
vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao [37].
Từ những thành tựu to lớn trên tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục
đổi mới và phát triển trong những năm tới. Ta thấy, qua các tư tưởng đổi mới
Đảng đã thể hiện sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những thành tựu lý luận phát
triển của nhân loại, bám sát tình hình thực tiễn thế giới và trong nước, từng
bước tổng kết thực tiễn nhằm khái quát lý luận, các tư tưởng về phát triển
kinh tế thị trường cũng như những trải nghiệm trong quản lý đất nước và kinh
nghiệm của các quốc gia vào điều kiện của Việt Nam của các nhà hoạch định
chính sách, các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp và các tầng lớn nhân dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó, khắc phục những quan
điểm ấu trĩ, giáo điều, rập khuôn máy móc, phiến diện cực đoan, duy ý chí,
hẹp hòi và bảo thủ. Đồng thời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã mạnh dạn tìm tòi,
sáng tạo và hình thành về cơ bản khung lý luận tổng quát về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều đó được thể hiện
trước hết và trên hết ở lĩnh vực kinh tế, mà trọng điểm là xây dựng nền kinh tế
thị trường vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng
đặc điểm của Việt Nam, vừa tương thích với nền kinh tế thế giới đang trong
quá trình toàn cầu hóa ngày càng rộng hơn, sâu hơn. Sau đó, nhận thức mới
cho thấy độ rộng và chiều sâu ngày càng gia tăng trong phương pháp tiếp cận
51
để đạt đến mục tiêu đổi mới vấn đề sở hữu trong các lĩnh vực, xây dựng thành
công nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đồng thời, đây là chiến thắng của “cái mới” trong cuộc đấu tranh gay go
và phức tạp trên mặt trận nhận thức về đổi mới phát triển kinh tế Việt Nam
trong giai đoạn chuyển đổi tư tưởng. Bên cạnh những thành công đạt được
quan trọng trong nhận thức mới về sự phát triển, vẫn còn những khía cạnh cần
quan tâm để những kết quả đạt được của nhận thức mới tiếp tục vận động
đúng với bản chất của nó, xác định và nêu được những phương hướng mang
tính quy luật xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
bao gồm: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, gắn với phát
triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; Phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm ngày càng vững chắc quốc phòng và an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất; Xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện về mọi mặt tư tưởng,
chính trị, tổ chức, đạo đức và nhân cách đảng viên.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng cần phải thừa
nhận những yếu kém trong tổ chức quản lý nền kinh tế dẫn đến ảnh hưởng
xấu đối với sự tăng trưởng kinh tế, cũng như tạo ra nhiều kẽ hở dẫn đến sự
dung dưỡng, phát sinh những hành vi vi phạm các chuẩn mực đạo đức truyền
thống. Đến lượt nó, những hành vi này lại tác động tiêu cực trở lại đối với sự
phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Chẳng hạn, do thiếu những quy định
cụ thể hoặc do sự phối hợp không tốt giữa các cơ quan chức năng nên vẫn có
52
rất nhiều kẽ hở dẫn đến tình trạng tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế, làm hàng
giả, hàng nhái,... Tình trạng này không những gây nên những tác hại lớn đối
với sự phát triển kinh tế, mà còn góp phần làm gia tăng các tệ nạn xã hội, làm
băng hoại lối sống, đạo đức truyền thống của dân tộc. Kinh tế nhà nước trong
những năm vừa qua chưa thực sự làm tốt vai trò chủ đạo của mình, kinh
doanh kém hiệu quả, năng lực quản lý chưa cao đã dẫn đến những thất thoát
không nhỏ. Cơ chế “xin cho” vẫn còn tồn tại, tạo thuận lợi cho những hành vi
tham nhũng, cửa quyền, độc đoán làm mất lòng tin của nhân dân. Hệ thống
pháp luật tuy đã và đang được xây dựng nhưng vẫn chưa kịp thời, chưa đồng
bộ và đặc biệt là việc thực thi pháp luật của các cơ quan chức năng còn nhiều
lúng túng, tạo điều kiện cho một số kẻ cơ hội lợi dụng pháp luật để nhũng
nhiễu nhân dân, gây sự bất bình trong dân chúng. Kinh tế thị trường luôn có
tác động hai mặt đến sự phát triển kinh tế- xã hội nói chung và đến đạo đức
nói riêng. Điều đó thực sự gây bất lợi đối với việc xây dựng các chuẩn mực
đạo đức, các giá trị đạo đức. Thiết nghĩ, nếu nhà nước đưa ra được những biện
pháp phù hợp, đồng bộ và thực thi pháp luật một cách nghiêm minh thì không
những những hành vi phạm pháp bị ngăn chặn, mà còn cả những hành vi vi
phạm các chuẩn mực đạo đức cũng bị đẩy lùi; đồng thời xây dựng được một
xã hội phát triển về kinh tế, vững mạnh về chính trị và lành mạnh về đạo đức,
lối sống. Tuy nhiên, cần thấy rằng, nền kinh tế của nước ta hiện nay là nền
kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp
sang cơ chế thị trường, trong đó các yếu tố thị trường còn ở mức sơ khai,
chưa đầy đủ và đồng bộ, chưa đạt đến trình độ thuần thục, hoàn thiện của thị
trường văn minh. Nó vừa bao gồm những yếu tố của cơ chế quản lý cũ từ thời
bao cấp chưa bị xóa bỏ hẳn, vừa có những yếu tố của cơ chế thị trường mới
hình thành đang trong quá trình hoàn thiện, vừa mang định hướng xã hội chủ
nghĩa [34].
Những hạn chế trên xuất phát từ các nguyên nhân:
53
- Việc xây đựng thể chế kinh tể thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là vấn đề hoàn toàn mới chưa có tiền lệ trong lịch sử. Nhận thức về kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế do công tác lý luận
chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn, vấn đề này đã được Đại hội XI của Đảng
khẳng định: “Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhìn chung vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu”.
- Năng lực thể chế hóa và quản lý, tổ chức thực hiện của Nhà nước còn
chậm, nhất là trong việc giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc.
- Vai trò tham gia hoạch định chính sách, thực hiện và giám sát của các
cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị- xã hội, các tổ chức
xã hội, nghề nghiệp còn yếu.
Những vấn đề đặt ra của vấn đề sở hữu ở nước ta hiện nay:
Ở thời kỳ sản xuất nông nghiệp, phần lớn giá trị của nông sản là do lao
động cơ bắp của người nông dân tạo ra. Đến thời đại công nghiệp các cuộc
cách mạng công nghệ nổ ra thì máy móc đã dần dần thay thế lao động cơ bắp
trong tỷ lệ giá trị hàng hoá. Cách mạng công nghiệp đầu tiên sử dụng năng
lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Cuộc cách mạng lần 2 diễn
ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt. Cuộc cách mạng lần 3 sử
dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Bây giờ, cuộc
Cách mạng Công nghiệp Thứ tư đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó
kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số
và sinh học. Vì vậy, tình hình kinh tế thế giới chuyển mình mạnh mẽ, khoa
học kỹ thuật ngày càng phát triển. Sự phát triển như vũ bão của khoa học
công nghệ, đưa khoa học tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trí
thức hay trí tuệ con người trở thành nguồn tài nguyên quý giá và quan trọng
nhất. Những thành quả do con người tạo ra thông qua các hoạt động lao động,
văn hoá sáng tạo được thừa nhận là tài sản thì được gọi là tài sản trí tuệ.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã làm biến đổi sâu sắc
đời sống kinh tế- xã hội của các quốc gia. Nếu thời đại của C. Mác và của
54
Lênin là thời đại của cách mạng công nghiệp, thì thời đại ngày nay khoa học
công nghệ đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trình độ công
nghệ và tốc độ đổi mới công nghệ trở thành nhân tố quyết định sức mạnh kinh
tế và khả năng cạnh tranh trên thị trường không những của từng doanh nghiệp
mà cả của quốc gia. Nói đơn giản nhất đó là việc đặt vé máy bay, gọi xe taxi,
đặt phòng khác sạn hay là thanh toán trực tuyến… bây giờ đã trở nên quá đơn
giản và dễ dàng. Những tiện ích Internet của hiện nay sau 10 năm tới có thể sẽ
trở thành lạc hậu. Các bạn có thể thấy được rõ ràng Uber hay Grab là nhưng
công ty taxi lớn nhất thế giới mặc dù không có một chiếc xe nào, hay Airbnb
là một công ty khách sạn lớn nhất thế giới cho dù họ không có nổi 1 phòng
khách sạn nào cả... Đây chỉ là những thứ cơ bản nhất và là những biểu hiện
đầu tiên của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mà thôi. Các tư liệu sản xuất
dần đã dần thay đổi từ một xã hội công nghiệp tư liệu là hầm mỏ, nhà máy thì
bây giờ tư liệu là máy tính, công nghệ số ảo. Thật khó có thể tưởng tượng là
trong 10 năm tới nền công nghiệp sẽ diễn ra như thế nào? Có thể lúc đó chúng
ta sẽ mua thức ăn, đồ uống, làm việc online và điện thoại Smartphone sẽ trở
thành vật bất ly thân… và tất cả những dịch vụ không kết nối được với điện
thoại, internet thì sẽ sớm bị loại bỏ. Do đó, đầu tư phát triển khoa học công
nghệ được các doanh nghiệp và các chính phủ hết sức quan tâm. Trong thời
đại ngày nay, thời đại chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri
thức, sở hữu trí tuệ được đánh giá giữ vị trí còn quan trọng hơn là sở hữu về
vốn tài chính và tài nguyên. Không còn sự phân định rạch ròi ranh giới của
một số yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất do sự phát
triển có tính chất giao thoa giữa chúng. Chẳng hạn, tổ chức quản lý quá trình
sản xuất không thuần túy chỉ là một bộ phận cấu thành quan hệ sản xuất, mà
còn là một bộ phận quan trọng cấu thành lực lượng sản xuất, nó là chất kết
dính giữa các yếu tố vật chất và yếu tố con người trong lực lượng sản xuất,
chi phối trực tiếp tính hiệu quả của quá trình sản xuất. Khoa học công nghệ
55
cũng làm thay đổi vai trò của các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất. Con người dẫu vẫn là yếu tố quyết định của quá trình sản
xuất, nhưng lao động quản lý, chỉ đạo ở cả tầm vĩ mô và vĩ mô ngày càng giữ
vị trí quan trọng hơn so với lao động trực tiếp sản xuất.
Học thuyết C. Mác về hình thái kinh tế- xã hội đã được thực tiễn khắc
nghiệt kiểm nghiệm. Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu cùng những thiếu sót nghiêm trọng về mọi mặt của các nước tuyên
bố theo con đường xã hội chủ nghĩa cũng không thể coi là bằng chứng bác bỏ
tính khoa học của học thuyết C. Mác. Tất cả những gì đã diễn ra chỉ chứng tỏ
rằng, chưa có ở đâu trên trái đất này có đủ những điều kiện cần thiết cho sự ra
đời của xã hội mới- xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Những lý tưởng
cao đẹp của chủ nghĩa cộng sản: dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái, không có
áp bức bóc lột, thế giới đại đồng... vẫn là những mơ ước ngàn năm và vẫn là
mục đích đấu tranh của thế giới văn minh ngày nay. Với những ý nghĩa đó, có
thể nói rằng, không phải thời đại chúng ta đã bỏ qua học thuyết C. Mác mà
chính học thuyết C. Mác đã vượt qua ngay cả thời đại chúng ta. Điều đó
không có nghĩa là mọi luận điểm mà học thuyết C. Mác nêu ra đều đúng. Nếu
chỉ xét học thuyết C. Mác trong phạm trù hình thái kinh tế- xã hội ta đã thấy
rằng: cho đến nay chưa ai có thể phủ nhận sự phân tích về tiến trình lịch sử.
Nhưng qua sự phân tích quan điểm về sở hữu giữa chủ nghĩa Mác- Lênin, sự
vận dụng của Đảng vào vấn đề sở hữu ở Việt Nam hiện nay, chúng ta hoàn
toàn có thể khẳng định rằng, trong thời đại ngày nay, sức sống của chủ nghĩa
Mác- Lênin vẫn là bất diệt. Song, cũng cần phải nói thêm rằng, đối với con
đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, nếu như việc nhận
thức chủ nghĩa Mác- Lênin cần phải có sự tìm tòi, thì việc vận dụng chủ nghĩa
Mác- Lênin không thể thiếu sự sáng tạo. Do những hạn chế thời đại của mình,
Mác và những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin chưa bao giờ luận
chứng được rõ ràng, cụ thể lực lượng sản xuất mà xã hội mới- xã hội xã hội
56
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa cần phải thiết lập. Với những loại công cụ
sản xuất nào? Máy móc và hệ thống máy móc nào? Kiểu tổ chức sản xuất xã
hội mới về chất nào sẽ được xây dựng lên? Đấy vẫn là câu hỏi lớn đặt trước
nhân loại chúng ta ngày nay. Khi lực lượng sản xuất, tư liệu sản xuất phát
triển quá nhanh hàng ngày hàng giờ thì yêu cầu đòi hỏi mỗi quốc gia phải tiếp
thu, học hỏi và vận dụng thực tiễn để tránh tình trạng lạc hậu so với thế giới.
Mặc dù sở hữu nhà nước có vai trò to lớn trong chiến tranh và phát triển
kinh tế- xã hội nhưng cơ chế cũ là rào cản cho tăng trưởng kinh tế cần có sự
đổi mới về nhận thức và tư duy. Thực tế ở những nơi trong cơ cấu sở hữu có
nhiều sở hữu nhà nước thì việc phát triển kinh tế- xã hội gặp nhiều khó khăn.
Hiệu quả của sở hữu nhà nước phụ thuộc trực tiếp vào hiệu quả sử dụng các
đối tượng sở hữu vì có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng. Nhà
nước là chủ sở hữu duy nhất nhưng việc sử dụng các đối tượng thuộc sở hữu
nhà nước lại được giao cho một cơ quan cụ thể hoặc các doanh nghiệp, tập
đoàn hoặc các tổng công ty nhà nước... Hiệu quả thấp của doanh nghiệp nhà
nước là nguyên nhân phát sinh nhiều tiêu cực, lãng phí, thất thoát lớn tài sản
của Nhà nước. Từ đó, làm xuất hiện tình trạng tham nhũng và lạm dụng
quyền sở hữu của nhà nước để tạo vị thế độc quyền thị trường, sử dụng hiệu
quả không cao các đối tượng sở hữu thậm chí biến sở hữu nhà nước thành sở
hữu của những người có quyền sử dụng. Vì vậy, nhà nước phải thắt chặt quản
lý và điều chỉnh lại tỷ trọng các hình thức sở hữu.
Sở hữu tập thể thường được thể hiện thông qua vai trò của các hợp tác xã
sản xuất, hợp tác xã kinh doanh, dịch vụ,... trong đó xã viên đóng vai trò chủ
sở hữu. Trong thời kỳ bao cấp trước đây, kinh tế hợp tác xã cũng đã phát huy
những giá trị tích cực phục vụ cho công cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và
thống nhất Tổ quốc. Tuy nhiên, khi chuyển sang thời kỳ hòa bình, người dân
lao động trong hợp tác xã chưa thấy được lợi ích thiết thân của việc tham gia
hợp tác xã nên tỏ ra không mặn mà với mô hình hợp tác xã kiểu cũ. Làm thế
57
nào để xây dựng được những hợp tác xã kiểu mới hoạt động có hiệu quả trong
cơ chế thị trường nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước? Đó là vấn đề được các học giả quan tâm nghiên cứu và tìm giải pháp
khắc phục.
Sở hữu tư nhân gần đây được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu và cũng
đã có những đề tài nghiên cứu sâu sắc. Đồng thời, cũng chỉ ra rằng, trong các
chế độ trước đây đều quan tâm đến sở hữu tư nhân, từ việc theo đuổi mục
đích của cá nhân mà họ đã đóng góp vào lợi ích chung của xã hội. Ở Việt
Nam hiện nay, sở hữu tư nhân đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ, góp
phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Tuy nhiên, nhà
nước vẫn cần phải có những giải pháp cụ thể để phát huy vai trò của hình thức
sở hữu này hơn nữa.
Sở hữu hỗn hợp có thể mạnh hơn so với các hình thức sở hữu khác ở chỗ
nó kết hợp sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế. Vì vậy, nó có khả
năng tập hợp mọi nguồn lực khác nhau cho việc phát triển sản xuất, kinh
doanh nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao. Sở hữu hỗn hợp ngoài việc phát
huy được vai trò của các thành phần kinh tế khi kết hợp với nhau trong sản
xuất kinh doanh, còn giúp thu hút vốn đầu tư nước ngoài hoặc khuyến khích
các nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài nhằm tìm kiếm lợi nhuận trong
sản xuất, kinh doanh. Đó là hình thức sở hữu cần được khuyến khích phát
triển hơn nữa. Nhưng với hình thức sở hữu này đang ngày càng phát triển,
từng bước vượt qua biên giới của một quốc gia và gắn liền với sự phát triển
mạnh của các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia thì vấn đề quản lý nó ra
sao mà không làm kìm hãm sự phát triển là câu hỏi cần được giải quyết?
Việt Nam hiện đang tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, thì vấn đề đặt ra là, trong khi tiếp tục xây dựng và
phát triển sở hữu toàn dân, làm cho nó thực sự đóng vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế, cần tiếp tục khai thác những mặt mạnh của sở hữu tư nhân để phát triển
58
lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân lao động. Đó cũng chính là
đòi hỏi khách quan của sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nói cách khác,
việc cho phép tồn tại và phát triển nhiều loại hình sở hữu, trong đó có sở hữu tư
nhân không những là tất yếu mà còn cần thiết cho việc phát triển của lực lượng
sản xuất. Sự tồn tại của sở hữu tư nhân sẽ là rất lâu dài và nếu như thời kỳ quá
độ, như một số nước khẳng định, có thể kéo dài hàng trăm năm thì sự tồn tại
của sở hữu tư nhân cũng không thể ngắn hơn thời gian đó. Song mặt khác, bản
thân các hình thức sở hữu lại là hình thức biểu hiện và bị quy định bởi trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Điều đó có nghĩa là, nếu các hình thức sở
hữu mà phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó sẽ thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển; còn trong trường hợp ngược lại, nó không
những không có tác dụng thúc đẩy, mà còn cản trở sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Với ý nghĩa đó, sở hữu lại là phương tiện để phát triển lực lượng sản
xuất. Điều này, theo chúng tôi, đặc biệt quan trọng đối với những nước chưa
trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa thực hiện quá độ rút ngắn đi lên
chủ nghĩa xã hội tiêu biểu là Việt Nam.
59
Tiểu kết Chương 2
Cùng với quá trình tổng kết kinh nghiệm và phát triển sáng tạo lý luận về
đổi mới vấn đề sở hữu, chúng ta đã bước đầu có những kết quả và thành tựu
nhất định như hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
dần thay thế cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường và đa
đang hóa các hình thức sở hữu. Từ đây, chúng ta nêu ra những vấn đề đặt ra
mang tính quy luật của quá trình đổi mới vấn đề sở hữu ở Việt Nam.
Sở hữu có một vị trí cực kỳ quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội, xét
cho cùng nó là động lực trực tiếp thúc đẩy phát triển kinh tế và là vấn đề có
tính bản chất của sự hình thành chế độ xã hội mới. C. Mác viết: “Tất cả các
cuộc cách mạng gọi là những cuộc cách mạng chính trị, từ cuộc cách mạng
đầu tiên đến cuộc cách mạng cuối cùng, đều được tiến hành để bảo vệ sở hữu
thuộc một loại nào đó”[7; Tr. 173]. Từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân đến nay, hình thành 4 thành phần
kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài, đã tạo nên sự phong phú các mô hình tổ chức sản xuất kinh
doanh, mang đến sức sống mới cho nền kinh tế. Quá trình đa dạng hóa hình
thức sở hữu tư liệu sản xuất đã góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của
lực lượng sản xuất. Đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong nền kinh tế có ý
nghĩa quan trọng cho sự hình thành và phát triển đa dạng các loại hình doanh
nghiệp, phát huy tối ưu các tiềm năng, thế mạnh của các chủ sở hữu và nâng
cao hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực phát triển. Do đó, tạo nên sự
cạnh tranh trong nền kinh tế và đó là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-
xã hội.
60
KẾT LUẬN
Lý luận của C. Mác là một hệ thống mở, cần phải được tiếp tục nghiên
cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo vào điều kiện cụ thể của mỗi nước.
Trong vấn đề sở hữu là một phạm trù của kinh tế chính trị, có vị trí đặc biệt
quan trọng trong học thuyết của chủ nghĩa Mác- Lênin và quan điểm đổi mới
của Đảng và Nhà nước. Sở hữu cũng là nhân tố quan trọng nhất trong các
nhân tố cấu thành của quan hệ sản xuất. Sở hữu cũng là một phạm trù rất trừu
tượng, phức tạp và rộng lớn, cho đến nay vẫn còn rất nhiều ý kiến khác nhau,
vì vậy, việc nghiên cứu, vận dụng nó đòi hỏi phải có vốn kiến thức sâu rộng
và kinh nghiệm thực tế phong phú mới có thể giải quyết được một cách đầy
đủ và đúng đắn. Vậy việc nhận thức và vận dụng vấn đề sở hữu trong thực
tiễn của Đảng có liên quan đến sự thành bại của mô hình kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là quá trình đổi mới tư duy của đảng về xác
lập đường lối phát triển kinh tế, là sự tổng kết thực tiễn. Đường lối và chính
sách đổi mới từ đại hội VI của đảng đã đặt cơ sở, nền tảng ban đầu cho giai
đoạn chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta. Đảng đã đề ra đường lối
đổi mới toàn diện, sâu sắc, trong đó có đổi mới tư duy về kinh tế, khâu đột
phá cho đổi mới các lĩnh vực tiếp theo.
Qua phân tích sở hữu chúng ta thấy sở hữu đem lại nội dung cho các
quan hệ giá trị và thị trường. Do đó nó bộc lộ mối quan hệ giữa sở hữu và thị
trường. Sở hữu chỉ tồn tại và phát triển trong những điều kiện thị trường, nhờ
thế hình thành cơ chế tác động giữa chúng. Đó là cơ chế thực hiện các lợi ích
kinh tế của sở hữu và cơ chế cạnh tranh giữa các hình thức sở hữu. Nhận thức
được tầm quan trọng nói trên, từ lâu và nhất là trong giai đoạn đổi mới hiện
nay ở nước ta, việc nghiên cứu vấn đề sở hữu và vận dụng vào công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội đã thu hút được sự chú ý đông đảo các nhà nghiên cứu
và bước đầu đã thu được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, một mặt do sở
hữu là một vấn đề phức tạp, trên phương diện lý luận, nhiều lĩnh vực vẫn
61
chưa được làm sáng rõ; mặt khác, thực tiễn quá trình biến đổi sở hữu nước ta
thời gian qua đã và đang đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi phải làm rõ về mặt
cơ sở lý luận: quá trình chuyển biến từ sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng
đã và đang diễn ra thường xuyên và phổ biến dưới nhiều hình thức khác nhau.
Trong quá trình thực hiện đề tài, khóa luận đã cố gắng làm rõ một số nội dung
cơ bản sau đây: Một là, hệ thống hóa những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác- Lênin về vị trí, vai trò của sở hữu. Hai là, Đảng và Nhà nước dựa trên
cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về sở hữu vận dụng vào quá trình đổi
mới về vấn đề sở hữu ở nước ta giai đoạn trước và sau đổi mới. Ba là, đưa ra
một số kết quả đạt được trong quá trình đổi mới vấn đề sở hữu. Qua đó rút ra
những thành công và hạn chế đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nhằm
hoàn thiện quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Sau hơn 30 năm đổi mới, nước ta có bước ngoặc trong chuyển đổi thành
công từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Góp phần to lớn trong cuộc xây dựng
và đổi mới đất nước. Nền kinh tế sở hữu nhiều hình thức và cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần được hình thành tạo ra động lực và điều kiện thuận lợi giải
phóng sức sản xuất, khái thác tiềm năng cho phát triển kinh tế- xã hội. Cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước đã đi và từng bước phát triển thống
nhất trong cả nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Các loại thị trường
cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất trong cả nước, gắn với thị
trường khu vự và thế giới. Đường lối đổi mới của Đảng đã được thể chế hóa
thành pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển...
Chế độ sở hữu nhiều hình thức và cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được
hình thành tạo ra động lực và điều kiện thuận lợi giải phóng sức sản xuất, khai
thác tiềm năng cho phát triển kinh tế- xã hội. Quản lý nhà nước về kinh tế
62
được đổi mới từ can thiệp trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính sang quản lý
bằng pháp luật, chính sách, quy hoạch và các công cụ điều tiết vĩ mô khác.
Việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xóa đói, giảm
nghèo đạt nhiều kết quả tích cực. Thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh góp
phần đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, tạo ra tiền đề đẩy mạnh
công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã từng bước
hình thành và phát triển; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
được quan tâm xây dựng và từng bước hoàn thiện. Thực lực của nền kinh tế tăng
lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế
được duy trì hợp lý. Việt Nam được đánh giá là nhóm quốc gia có mức tăng
trưởng khá cao trên thế giới. Những kết quả đó là thành tựu nổi bật trong thực
hiện các chủ trương, giải pháp xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của
Nhà nước, sự nỗ lực của các thành phần kinh tế. Kết quả đó còn là sự đoàn kết,
đồng lòng, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vì mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Hiện nay nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
đang trong quá trình xây dựng và phát triển, không ít tiêu chí đang xây dựng
và hoàn thiện, đang dần tiệm cận với chuẩn mực quốc tế. Do vậy, cần đẩy
mạnh quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, cụ thể, cần tập trung,
tiếp tục hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực; thể chế cho cải thiện môi trường đầu tư; thể chế cho phát triển và
ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất, phát triển và đào tạo
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Đồng thời, cần hoàn
thiện thể chế trong quá trình trao đổi, phân phối vừa bảo đảm tính ngang giá,
vừa tạo động lực và nguồn lực cho tăng trưởng, phát triển, bảo đảm tiến bộ,
công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh.
63
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác- Ph. Ăngghen (1978), Toàn tập, tập 1, NXB. Sự thật, Hà Nội.
2. C. Mác- Ph. Ăngghen(1995), Toàn tập, tập 4, NXB. Chính trị Quốc gia.
3. C. Mác (1995), Sự khốn cùng của triết học// C. Mác và Ph. Ăngghen,
Toàn tập, tập 4, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. C. Mác- Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, NXB. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
5. C. Mác và Ph. Ăng-ghen (1980), Tuyển tập gồm 6 tập, tập I, NXB. Sự
thật,Hà Nội.
6. C. Mác- Ph. Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 13, NXB. Chính trị Quốc gia.
7. C. Mác- Ph. Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 21, NXB. Chính trị Quốc gia.
8. C. Mác- Ph. Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 46, NXB. Chính trị Quốc gia.
9. Nguyễn Trọng Chuẩn (2004), “Đổi mới quan niệm về chế độ sở hữu và ý
nghĩa chiến lược của sự đổi mới đó đối với sự phát triển của Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Triết học (12).
10. Nguyễn Cúc, Kim Văn Chính (chủ biên) (2006), Sở hữu nhà nước và
doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Cúc (2007), “Một số vấn đề về sở hữu nhà nước trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Cộng sản.
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/kinh-te/2007/2094/Mot-so-van-
de-ve-so-huu-nha-nuoc-trong-nen.aspx, cập nhật ngày 05/05/2019.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh
tế- xã hội đến năm 2000, NXB. Sự thật Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ khoá VII, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
64
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX. NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi
mới, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, NXB. Chính trị quốc gia- Sự thật Hà nội.
21. Phạm Văn Đức (2005), “Đổi mới về sở hữu ở Việt Nam: Một số cơ sở lý
luận”, Tạp chí Triết học (2).
22. Phi Mạnh Hồng, Trần Đình Thiên (2014), Quan niệm và tính thực tiễn
của “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam
hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo “Một số vấn đề lý luận- thực tiễn về kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Hội đồng lý luận Trung ương ,
TP. Hồ Chí Minh, tháng 3/2014.
23. Trương Thị Hiển (2012), “Một số vấn đề về đổi mới tư duy kinh tế trong
văn kiện Đại hội XI của Đảng”, Tạp chí phát triển nhân lực (1).
24. Trịnh Duy Huy (2005), “Xây dựng và hoàn thiện cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa- Một giải pháp cơ bản để xây dựng và phát triển
đạo đức”, Tạp chí Triết học (2).
25. Nguyễn Thị Huyền (2004), Sở hữu tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
65
26. Nguyễn Thị Huyền (2013), Các hình thức sở hữu và vai trò của chúng
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay, Viện Hàm lâm Khoa học Việt Nam, Học viện Khoa học Xã hội.
27. Đặng Thị Lan (2011), Quan điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin về
sở hữu và quan hệ sở hữu ở Việt Nam hiện nay, Đại học Quốc gia Hà
Nội.
28. V. I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 6, NXB. Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
29. V. I. Lênin (2005), Toàn tập, tập 36, NXB. Chính trị Quốc gia- Sự thật.
30. V . I . Lênin (1977), Toàn tập, tập 43, NXB. Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
31. Niên giám thống kê Việt Nam qua các năm và Báo cáo phát triển kinh
tế- xã hội các năm trên trang website của Chính phủ và Bộ Kế hoạch và
Đầu tư.
32. Lê Hữu Nghĩa (1989), Vấn đề sở hữu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội, Tạp chí Cộng sản
33. Phùng Trung Tập (1995), “Sở hữu tư nhân và các hình thức biểu hiện
của nó”, Tạp chí Luật học (44).
34. Pham Quốc Thái (2015), Sở hữu trong nền kinh tế thị trường hiện đại: lý
luận, thực tiễn thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam, NXB. Lao động-
Xã hội.
35. Ngô Ngọc Thắng (2008), “Thực hiện cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa trong giáo dục đại học ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Cộng
sản, http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-
Traodoi/2008/2497/Thuc-hien-co-che-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-
chu-nghia.aspx, cập nhật ngày 27/8/2008.
36. Nguyễn Viết Thông (2015), “Đánh giá tổng quát và bài học kinh
nghiệm”, Báo Nhân dân,
http://nhandan.com.vn/daihoidangtoangquocxii/nhin_lai_30_nam_doi_m
66
oi/item/28400202-danh-gia-tong-quat-va-bai-hoc-kinh-nghiem.html, cập
nhật ngày 27/ 04/ 2019.
37. Nguyễn Đức Thủy (2015), Một số thành tựu trong phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Tạp chí Cộng sản.
38. Tổng cụ Thống kê (2016), Tình hình kinh tế- xã hội năm 2016,
https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=621&ItemID=16174, cập
nhật ngày 07/05/2019.
39. Nguyễn Kế Tuấn (chủ biên) (2010), Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, NXB. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
40. Lê Thị Vinh (2012), Đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
41. Lê Thị Vinh (2015), Tác động của toàn cầu hóa đến quan hệ sở hữu ở
Việt Nam hiện nay, Kỷ yếu Hội nghị khoa học cán bộ trẻ và học viên sau
đại học năm học 2014 – 2015, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
42. Lê Thị Vinh (2017), Biến đổi của quan hệ sản xuất ở Việt Nam từ năm
1986 đến nay: Thực trạng và những vấn đề đặt ra, Luận án Tiến sĩ Triết
học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
43. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2018), Chuyên đề Số 18: Phát
triển kinh tế tư nhân và cơ cấu lại nền kinh tế trong điều kiện CMCN 4.0,
http://www.ciem.org.vn/Content/files/2018/vnep2018/C%C4%9018%20-
Ph%C3%A1t%20tri%E1%BB%83n%20kinh%20t%E1%BA%BF%20t%
C6%B0%20nh%C3%A2n%20v%C3%A0%20c%C6%A1%20c%E1%B
A%A5u%20l%E1%BA%A1i%20n%E1%BB%81n%20kinh%20t%E1%
BA%BF%20trong%20%C4%91i%E1%BB%81u%20ki%E1%BB%87n%
20CMCN%204_0-converted.pdf, cập nhật ngày 07/05/2019.
67
44. Võ Hồng Phúc (2006),Những thành tựu về kinh tế- xã hội qua 20 năm
đổi mới (1986- 2005) trong Việt Nam 20 năm đổi mới, NXB. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
45. Vũ Thanh Sơn (chủ biên) (2013),Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin.
Tập II những vấn đề kinh tế trị chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, NXB TT&TT.