ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA TRIẾT HỌC

-----------------------

LÊ THỊ DIỆU NGỌC

TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA N.MACHIAVELLI TRONG TÁC PHẨM QUÂN VƢƠNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH 2016 – X

HÀ NỘI – 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA TRIẾT HỌC

-----------------------

LÊ THỊ DIỆU NGỌC

TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA N.MACHIAVELLI TRONG TÁC PHẨM QUÂN VƢƠNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH 2016 - X

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Khóa luận này là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện.

Những kết quả từ những tác giả trƣớc mà tôi sử dụng đều đƣợc trích dẫn rõ

ràng, cụ thể. Không có bất kì sự không trung thực nào trong các kết quả

nghiên cứu.

Nếu có gì sai trái, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 31 tháng 5 năm 2020

Sinh viên

Lê Thị Diệu Ngọc

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

NỘI DUNG ....................................................................................................... 9

CHƢƠNG 1. CUỘC ĐỜI CỦA N.MACHIAVELLI VÀ NỘI DUNG CHÍNH CỦA TÁC PHẨM QUÂN VƢƠNG ................................................. 9

1.1. Điều kiện kinh tế - chính trị, xã hội thời kì Phục hƣng ....................... 9

1.2. Tiền đề lý luận cho sự ra đời tƣ tƣởng của Machiavelli .................... 13

1.3. Cuộc đời và sự nghiệp của Nicolo Machiaveli .................................. 21

1.4. Nội dụng chính của tác phẩm “Quân vƣơng” .................................... 25

CHƢƠNG 2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC N. MACHIAVELLI TRONG TÁC PHẨM “QUÂN VƢƠNG” ................. 30

2.1. Mối quan hệ chính trị và đạo đức ...................................................... 30

2.2. Cái nhìn của N.Machiavelli về bản tính con ngƣời ........................... 40

2.3. Bản tính ngƣời thể hiện trong phẩm chất quân vƣơng ...................... 44

2.4. Thời cơ và vận mệnh.......................................................................... 53

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 58

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: ....................................................... 60

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Lịch sử là một dòng chảy không ngừng từ quá khứ đến tƣơng lai. Trong

dòng chảy đó thời kì Phục hƣng có vị trí vô cùng độc đáo, đặt nền móng cho

một nền văn minh phát triển rực rỡ sau này. Thời kì Trung cổ con ngƣời bị kìm

kẹp, thân phận con ngƣời đã quá nhỏ bé, con ngƣời phải đeo gông cùm của thần

quyền và thế quyền, một xã hội luôn nhuốm màu u ám. Chủ nghĩa nhân văn thời

kì Phục hƣng nhƣ những tia sáng đầu tiên trong màn đêm u tối ấy, đƣa con

ngƣời dần thoát khỏi sự kìm kẹp hàng ngàn năm, mở ra một thời kì phát triển

rực rỡ về mọi mặt. Ăngghen đã nhận xét thời kì Phục hƣng: “Đó là một cuộc

đảo lộn tiến bộ nhất mà từ xƣa tới nay, nhân loại đã trải qua, đó là một thời đại

cần có những con ngƣời khủng lồ và đã sinh ra những con ngƣời khủng lồ:

khổng lồ về năng lực suy nghĩ, về nhiệt tình tính cách, khổng lồ về mặt có lắm

tài, lắm nghề và về mặt học thức sâu rộng” [9; tr.459- 460].

Niccolò Machiavelli (1469 - 1527) cũng đƣợc xem nhƣ một ngƣời

“khổng lồ” của thời kì này. N.Machiavelli là một nhà tƣ tƣởng lỗi lạc của Italia

thời kì Phục hƣng, một ngƣời đƣợc coi là “ông tổ” của chính trị học hiện đại.

N.Machiavelli sống trong một thời kì có nhiều biến động, một thời kì mà mọi

mặt trong đời sống từ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tƣ tƣởng,… đều có sự

thay đổi to lớn. Thời kì Trung cổ đang trên đà sụp đổ để nhƣờng chỗ cho thời kì

Phục hƣng, chủ nghĩa tƣ bản xuất hiện và ngày càng lớn mạnh cùng với đó là

chế độ phong kiến đang trên đà tiêu vong, các phát kiến địa lí, những phát minh

khoa học,…

Ngƣời ta biết rất ít về tuổi trẻ của Machiavelli, nhƣng song có một điều

chắc chắn là ông đƣợc nắm rất rõ về thời kì Hy Lạp - La Mã. Ông tham gia vào

con đƣờng chính trị từ rất sớm, chính điều đó đã đem lại cho ông nhƣng kinh

1

nghiệm thực tiễn quý báu, ảnh hƣởng rất lớn đến tƣ tƣởng của ông sau này. Tuy

nhiên, những biến động ở Florence đã khiến ông phải chấm dứt sự nghiệp chính

trị của mình. Cũng vì lẽ đó, Machiavelli dành thời gian để suy ngẫm, đƣa ra

những lý luận của riêng mình. Trong các tác phẩm của ông thì tác phẩm Quân

vƣơng là tác phẩm nổi tiếng nhất và đây cũng chính là tác phẩm gây nhiều tranh

cãi nhất. Tuy nhiên đây cũng là cuốn cẩm nang quan trọng của nhiều nhà chính

trị nổi tiếng. Tác phẩm Quân vƣơng không phải là một tác phẩm thuần chính trị,

mà trong đó cũng có những tƣ tƣởng triết học về con ngƣời, về các phẩm chất

đạo đức đƣợc Machiavelli thể hiện qua nhân cách ngƣời cầm quyền.

Trong tác phẩm Quân vƣơng N.Machiavelli giành một phần để đề cập

đến nhân cách của ngƣời cầm quyền, đây cũng đƣợc xem nhƣ là tƣ tƣởng đạo

đức mà ông muốn thể hiện. Trong tƣ tƣởng của mình, N.Machiavelli lấy con

ngƣời làm trung tâm, làm bộ phận quan trọng nhất của thế giới. Ông đƣa ra

quan niệm lấy cá nhân làm chủ thể và là mục đích của mọi cải tạo lịch sử.

Thông qua lăng kính “cá nhân” N.Machiavelli đã xem xét mọi vấn đề, bắt đầu

từ vấn đề đạo đức xã hội và kết thúc ở vấn đề tôn giáo. Ông đƣa con ngƣời từ

cuộc sống ở thiên đƣờng về với cuộc sống hiện thực ở trần thế. Trong cuộc sống

hiện thực, đạo đức của con ngƣời bị nhiều thứ tác động nhƣ lợi ích vật chất, địa

vị, tác động của mọi ngƣời xung quanh,… Những thứ này ảnh hƣởng đến sự

hình thành và phát triển đạo đức của mỗi ngƣời. Và con ngƣời thể hiện rõ nhất

bản tính của mình trong lĩnh vực chính trị. Nhãn quan chính trị Machiavelli đã

lột tả đƣợc bản chất của con ngƣời là ích kỉ, tham lam.

Ngày nay, đất nƣớc ta đang trong quá trình hội nhập với thế giới trên mọi

lĩnh vực, trong đó có cả văn hóa, chính trị, đạo đức. Vì vậy việc nghiên cứu, tìm

hiểu tử tƣởng đạo đức của N.Machiavelli trong tác phẩm Quân vƣơng là hoàn

toàn cần thiết. Qua việc nghiên cứu tác phẩm chúng ta có thể nâng cao năng lực

tƣ duy chính trị, nhận diện các sự kiện chính trị, hiểu rõ hơn về bối cảnh xã hội

châu Âu những năm đầu thời kì Phục hƣng, điều đó có ích trong quá trình hội

2

nhập của nƣớc ta. Trong qua trình hội nhập với thế giới, chúng ta cũng phải đối

mặt với không ít nguy cơ, nhƣ hiện tƣợng một số ngƣời đánh mất bản thân,

chạy theo các giá trị vật chất, bội tín, ích kỉ, hay sự xuống cấp của các giá trị

đạo đức truyền thống. Để khắc phục tình trạng này chúng ta cần nghiên cứu và

khảo sát các tƣ tƣởng triết học về đạo đức, về con ngƣời đặc biệt là tƣ tƣởng đạo

đức của N.Machiavelli để tìm ra nguyên nhân của sự tha hóa và các giải pháp

khắc phục. Machiavelli còn cho chúng ta thấy rõ con ngƣời không chỉ tha hóa

trong lĩnh vực kinh tế mà còn tha hóa trong lĩnh vực chính trị - lĩnh vực thể hiện

rõ bản chất của con ngƣời. Một đóng góp quan trọng khác của N.Machiavelli

trong quan niệm về con ngƣời là sự định hƣớng vào chủ thể chính trị. Theo đó,

an nguy của quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào phẩm chất của quân vƣơng, của

thủ lĩnh chính trị.

Không phải ngẫu nhiên mà Quân vƣơng đƣợc liệt vào hàng một trong

những cuốn sách kinh điển hay về chính trị. Cho đến tận ngày nay tác phẩm vẫn

duy trì đƣợc tính thực tế và khả năng dự báo về những gì cần có để trở thành

một quân vƣơng, một ngƣời lãnh đạo. Trong quan niệm của Machiavelli, đã là

một quân vƣơng thì không thể bị cản trở bởi những luân lí, những giá trị đạo

đức. Rousseau đã nói về Machiavelli: “Dƣờng nhƣ đây là các bài học dành cho

các vị vua chúa, nhƣng thực ra ông đang dạy những bài học vĩ đại cho nhân

dân”.

Xuất phát từ những lý do trên em chọn Tƣ tƣởng dạo đức của Niccolò

Machiavelli trong tác phẩm “Quân vƣơng làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử

nhân ngành triết học của mình.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Niccolò Machiavelli là một trong những nhà tƣ tƣởng có cái nhìn độc đáo

nhất thời kì Phục hƣng. Điều đó đƣợc ông thể hiện một phần trong tác phẩm

Quân vƣơng . Tác phẩm hoàn thành năm 1513 nhƣng đến năm 1532 tác phẩm

3

Quân vƣơng (Il Principe) của Machiavelli mới đƣợc xuất bản tại Italia. Mãi đến

năm 1540 tác phẩm mới đƣợc dịch sang tiếng Anh, và đƣợc tái bản nhiều lần

sau đó. Nhƣng trƣớc đó gần 4 thế kỷ năm 1559, tác phẩm Quân vƣơng cùng

toàn bộ các tác phẩm khác của Machiavelli đã bị đƣa vào danh mục sách bị giáo

hội cấm lƣu hành và tàng trữ. Những “ngƣời theo Thiên Chúa giáo và theo đạo

tin lành đều đua nhau lên tiếng chống đối ông” [8; tr. 5].

Tuy nhiên sách của ông đã đƣợc lƣu truyền từ trƣớc đó, vì vậy tuy bị cấm

lƣu hành nhƣng tác phẩm không mấy bị ảnh hƣởng vì nó đã đƣợc dịch ra nhiều

thứ tiếng, tác phẩm đã sớm lan tỏa khắp châu Âu. Đặc biệt nhiều nhà độc tài và

vua chúa trong mọi thời kì đã tìm đƣợc các lời khuyên hữu ích trong tác phẩm

Quân vƣơng của Machiavelli: “Bằng danh sách những độc giả say mê cuốn sách

gồm những nhân vật rất quan trọng: Hoàng đế Charles đệ ngũ, và bà Catherine

de Medicis đã tán thƣởng tác phẩm. Oliver Cromwell đã kiếm đƣợc một bản

Ông Hoàng (tức Quân vƣơng) chép tay và đã áp dụng những nguyên tắc của

cuốn sách đó trong Chính phủ Cộng hòa Anh quốc. Hai ông vua Pháp Henry đệ

ngũ Là Henry đệ tứ lúc bị ám sát còn cầm cuốn Ông hoàng trong tay. Cũng một

cuốn sách đó đã giúp cho Fréderick Đại đế tạo ra chính sách của nƣớc Phổ thời

ấy. Vua Louis thứ 14 đã coi Ông hoàng là cuốn sách gối đầu gƣờng đƣợc ƣa

thích hơn hết. Ngƣời ta đã tìm thấy một cuốn Ông hoàng có ghi những chú thích

trong xe ngựa của Hoàng đế Napoléon ở Waterlo. Những ý kiến về cách cai trị

của Napoléon đệ tam đã chính thức bắt nguồn cũng từ cuốn Ông hoàng, và

Bismark cũng đã là một đệ tử trung thành của N.Machiavelli. Gần đây hơn nữa,

cứ theo nhƣ chính lời của Hitler thì Ông hoàng là nguồn cảm hứng thƣờng

xuyên của ông ta lúc nghỉ ngơi. Về phần Benito Mussolini, ông đã từng tuyên

bố: Tôi tin rằng cuốn Ông hoàng của N.Machiavelli phải là sách chỉ nam tuyệt

tác của nhà chính khách. Học thuyết của tác giả ngày nay vẫn hợp thời vì trong

vòng bốn trăm năm vẫn không có những gì thay đổi sâu xa trong trí não ngƣời

4

ta hay là trong những hoạt động của các quốc gia” [ 2; tr. 23].

Có thời gian tiếng tăm của Machiavelli bị gắn với sự độc ác, xấu xa, là

một chính khách đầy mƣu mô, thủ đoạn, giả đạo đức,… đến thế kỉ XIX tiếng

tăm của Machiavelli mới đƣợc bênh vực và biện minh phần nào. Ngày nay

Machiavelli đƣợc xem nhƣ là “ông tổ” của chính trị học hiện đại, một nhà bình

luận xuất sắc về tâm lí học và nghệ thuật của ngƣời lãnh đạo và tác phẩm “Quân

vƣơng” chính là tác phẩm đặt nền móng.

Ở Việt Nam thân thế, sự nghiệp của Niccolò Machiavelli cũng đƣợc

nhiều ngƣời quan tâm, xuất hiện những công trình nghiên cứu về Machiavelli

tuy còn nhiều hạn chế. Một số tác phẩm của Machiavelli cũng đƣợc dịch sang

tiếng Việt với nhiều bản dịch khác nhau. Đặc biệt là tác phẩm Quân vƣơng đã

đƣợc nhiều ngƣời dịch và tái bản nhiều lần. Các bản dịch của Vũ Mạnh Hồng,

Nguyễn Hiền Chi hay bản dịch của Đặng Thƣ đã cho ta thấy đƣợc khái quát

nhất về Machiavelli và toàn bộ nội dung của tác phẩm Quân vƣơng. Trong tác

phẩm Quân vƣơng Machiavelli đƣa ra những tƣ tƣởng chính trị, đạo đức, tƣ

tƣởng về con ngƣời hết sức độc đáo, khác biệt với những tƣ tƣởng trƣớc đó.

Cuốn Những luận thuyết nổi tiếng thế giới (Nxb văn hóa thông tin. Tp Hồ

Chí Minh 1999) của Vũ Đình Phòng và Lê Huy Hòa đã bƣớc đầu giới thiệu khái

quát về thân thế, sự nghiệp và tác phẩm Quân vƣơng của Machiavelli. Ngoài ra

tác phẩm còn nói đến một số biến cố của Italia giai đoạn này.

Cuốn Đại cƣơng lịch sử triết học phƣơng Tây của Đỗ Minh Hợp, Nguyễn

Anh Tuấn (Nxb Văn hóa thông tin. Tp Hồ Chí Minh 2006), và cuốn Lịch sử

triết học phƣơng tây tập 1 của Đỗ Minh Hợp (Nxb Chính trị quốc gia 2014) đã

nói đến tƣ tƣởng của N.Machiavelli trên cơ sở xâu chuỗi các vấn đề để chỉ ra

đặc điểm tƣ duy của Machiavelli; chủ nghĩa hiện thực về chính trị, cái nhìn bi

quan về con ngƣời, các quan điểm mới về đức hạnh của quốc vƣơng; các

“nguyên tắc” nhƣ là điều kiện phục hồi và đổi mới đời sống chính trị. Nhóm tác

giả đã khái quát ba quan điểm cơ bản khi nói đến mối quan hệ chính trị và đạo

5

đức là: tính chất đạo đức của chính trị đƣợc quy định bởi mục đích của nó;

phƣơng tiện sử dụng có ảnh hƣởng hàng đầu đến ý nghĩa đạo đức của nó; cả

mục đích lẫn phƣơng tiện đều quan trọng nhƣ nhau đối với việc đem lại cho

chính trị tính chất nhân đạo, mục đích lẫn phƣơng tiện cần phải tƣơng dung với

nhau và với bối cảnh cụ thể. Trong ba quan điểm trên thì Machiavelli là ngƣời

ủng hộ quan điểm thứ nhất, tuy nhiên sẽ là sai lầm khi coi ông là ngƣời thanh

minh cho sự tách rời hoàn toàn chính trị khỏi đạo đức.

Cuốn 106 nhà thông thái do P.S.Taranốp biên soạn (Đỗ Minh Hợp dịch,

Nxb chính trị quốc gia 2000) đã lấy mốc từ vua Sôlômông cho đến Actua

Sơpenhaoơ, chọn ra 106 gƣơng mặt tiêu biểu, trong đó đã đề cập đến

Machiavelli. Tác phẩm đã trình bày khái quát, cô đọng lại những nét chính từ

cuộc đời, các sự kiện làm nên số phận, tạo nên tính cách, cũng nhƣ tƣ tƣởng của

Machiavelli.

Theo Robert B.Downs trong cuốn Những tác phẩm biến đổi thế giới

(Hoài Châu và Từ Huệ dịch, Nxb Lao động hà nội 2003), “Quân vƣơng là một

trong những tác phẩm từng gây đƣợc những ảnh hƣởng sâu đậm và lâu dài ở

phƣơng Tây và phƣơng Đông, có tác động lớn lao đến đời sống nhân loại, xứng

đáng đƣợc gọi là „Books That Changed World‟ – những tác phẩm biến đổi thế

giới” [2; tr. 5]. Cuốn sách nhắc đến tác phẩm Ông hoàng của Machiavelli ngay

từ những trang đầu tiên, và nhận định tác phẩm chứa đựng những bài học cho

muôn đời. Tác phẩm đã chỉ ra và phân tích khái quát nhất những tƣ tƣởng đạo

đức, chính trị,… mà Machiavelli nhắc đến trong tác phẩm Quân vƣơng.

Nhìn chung những nghiên cứu về N.Machiavelli không nhiều, nhƣng các

nghiên cứu đều có đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu tử tƣởng của

Machiavelli trong đó có cả tử tƣởng về đạo đức của ông. Tuy nhiên chƣa có

cuốn sách nào lấy Machiavelli cũng nhƣ những tƣ tƣởng và tác phẩm của ông

làm nghiên cứu chủ đạo. Trƣớc tình hình đó, khóa luận mong muốn đem đến cái

6

nhìn sáng tỏ tƣ tƣởng đạo đức của Machiavelli trong tác phẩm Quân vƣơng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích: Phân tích, làm rõ tƣ tƣởng đạo đức của Machiavelli trong tác

phẩm Quân vƣơng.

Nhiệm vụ:

- Phân tích điều kiện kinh tế, xã hội và tiền đề tƣ tƣởng – lý luận cho sự

ra đời của tƣ tƣởng đạo đức của Niccolò Machiavelli và sự ra đời của tác phẩm

Quân vƣơng.

- Trình bày khái quát những nội dung cơ bản của tác phẩm Quân vƣơng

- Phân tích, làm rõ những tƣ tƣởng đạo đức mà Machiavelli thể hiện trong

tác phẩm Quân vƣơng.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu: Tƣ tƣởng đạo đức của Niccolò Machiavelli

Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu nghiên cứu tƣ tƣởng đạo đức của

N.Machiavelli thông qua tác phẩm “Quân vƣơng”.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận: Dựa trên các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện

chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết đạo đức Mác - Lênin.

Phƣơng pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng các phƣơng pháp nghiên

cứu cụ thể nhƣ phƣơng pháp phân tích tổng hợp, so sánh, thống nhất lịch sử -

logíc, khái quát hóa, trừu tƣợng hóa,…

7

6. Ý nghĩa của khóa luận

Ý nghĩa lý luận: Khóa luận đóng góp vào việc hiểu đúng và sâu hơn về

một lĩnh vực quan trọng của triết học phƣơng Tây thời kì Phục hƣng nói chung,

đạo đức học của Machiavelli nói riêng.

Ý nghĩa thực tiễn: Khóa luận có thể đƣợc dùng làm tài liệu tham khảo cho

những ai ham thú tìm hiểu về tƣ tƣởng đạo đức của Machiavelli.

7. Kết cấu của khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận

8

gồm 2 chƣơng, 8 tiết.

NỘI DUNG CHƢƠNG 1. CUỘC ĐỜI CỦA N.MACHIAVELLI VÀ NỘI DUNG

CHÍNH CỦA TÁC PHẨM QUÂN VƢƠNG

1.1. Điều kiện kinh tế - chính trị, xã hội thời kì Phục hƣng

Sau khi Hy Lạp - La Mã cổ đại sụp đổ, Tây Âu bƣớc vào thời kì Trung cổ

với sự thống trị của nhà thờ. Bƣớc vào thời kì này các công trình, thành tựu thời

kì Hy - La xây dựng đã dần bị lãng quên, bị vùi lấp một phần không nhỏ. Thời

kì này cả Châu Âu trở nên u ám.

Thời kì Trung Cổ ở châu Âu kéo dài hàng nghìn năm với sự thống trị của

nhà thờ, nền kinh tế tự cung tự cấp làm cho sự giao thƣơng rất hạn chế. Tới thế

kỉ XIV theo sự phát triển của kinh tế ở các thành thị, phƣơng thức sản xuất mới

hình thành trong lòng phƣơng thức sản xuất phong kiến, mầm mống của quan

hệ sản xuất tƣ bản dần dần đƣợc hình thành. Sự phân công lao động giữa các

ngành nghề, các vùng sản xuất đã hình thành nên nền kinh tế hàng hóa, giai cấp

tƣ sản bắt đầu xuất hiện. Quan hệ sản xuất tƣ bản phát triển nhanh chóng và trở

nên lớn mạnh hơn, các nhà tƣ sản, các nhà tƣ tƣởng không còn chịu sự áp đặt,

các giáo lí lỗi thời của nhà thờ, họ tìm cách thoát khỏi sự kìm kẹp của giáo hội

và nhà thờ. Tuy nhiên do lực lƣợng còn mỏng, giai cấp tƣ sản chƣa thể lật đổ

đƣợc nhà thờ, vì vậy họ tìm đến một cách khác, đó là làm một cuộc cách mạng

trên lĩnh vực văn hóa, tƣ tƣởng.

Các nhà tƣ tƣởng của giai cấp tƣ sản vận động khôi phục lại sự huy hoàng

của văn hóa Tây Âu thời cổ đại. Họ nhìn thấy ở trong nền văn hóa thời cổ đại có

nhiều yếu tố phù hợp với tình hình hiện nay, có thể giúp ích đƣợc họ, có thể

chống lại giáo hội và nhà thờ và hơn hết có thể làm cho giáo hội và nhà thời

không có lí do để buộc tội họ.

Phong trào văn hóa Phục hƣng xuất hiện đầu tiên ở Italia. Ngƣời Italia gọi

phong trào này là “Renascita”. Italia là trung tâm của đế quốc Roma thời cổ đại

9

vì vậy ở đây còn giữa lại nhiều di tích của nền văn hóa Hy Lạp – Roma. Từ

Italia phong trào nhanh chóng lan ra khắp các nƣớc ở Tây Âu nhƣ Anh, Pháp,

Tây Ban Nha và lan khắp cả Châu Âu. Các nhà văn hóa phục hƣng mong muốn

khôi phục lại nền văn hóa rực rỡ từ thời cổ đại Hy lạp – La Mã, với một lí do

chính đáng là khôi phục lại những điều mà Chúa cho phép, điều này làm cho

giáo hội và nhà thờ không thể phản đối phong trào Phục hƣng. Qua việc khôi

phục nền văn hóa cổ đại các nhà văn hóa thời kì này còn muốn nhà thờ thay đổi

cách nhìn về thế giới và con ngƣời.

Các nhà văn hóa Phục hƣng chú ý nhiều vào việc khôi phục lại truyền

thống đề cao con ngƣời của thời Hy Lạp cổ đại vốn từ thời Protago đã coi “Con

ngƣời là thƣớc đo của muôn loài”. Và khôi phục sự tự do của con ngƣời so với

sự chuyên chế độc tài của phong kiến và giáo hội. Trong bức tranh “Mars và

Venus” của danh họa Veronese, chàng kị sĩ rời khỏi yên ngựa, rũ bỏ thanh

gƣơm, cởi bỏ chiếc áo khoác, ngả đầu vào vị nữ thần sắc đẹp và tình yêu. Hai

tiểu thần Amua bay tới, một tiểu thần buộc chân họ vào nhau bằng sợi dây gắn

bó, tiểu thần còn lại đem thanh gƣơm trả lại ngựa xám, chú ngựa xám buồn thiu.

Chiếc áo của nữ thần phủ lên một bức tƣờng đen tối tƣợng trƣng cho thời kì

trung cổ đang đổ vỡ và hiện ra sau bức tƣờng là một kiến trúc nổi tiếng của thời

Hy Lạp cổ đại. Hay trong bức tranh “Hằng nga tái sinh” toàn bộ bức tranh nhƣ

là một lời tuyên ngôn rằng thời kì Trung Cổ đang trên đà sụp đổ và nhƣờng chỗ

cho một thời kì mới.

Xét về bản chất kinh tế thời kì Phục hƣng là thời kì chuyển từ phƣơng

thức sản xuất phong kiến sang phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa. “Đây là

thời kì tích lũy tƣ bản đƣợc mở rộng, trong nông nghiệp phƣơng thức canh tác

đƣợc cải tiến nhƣ luân canh, sử dụng phân bón, đầm lầy đƣợc tát cạn, rừng rậm

đƣợc khai phá nên diện tích canh tác đƣợc mở rộng, sản lƣợng tăng” [7; tr. 24].

Ngƣời nông dân bị cƣớp mất ruộng đất, ngƣời lao động bị tách khỏi tƣ liệu sản

xuất. Các đồng cỏ nuôi bò, nuôi cừu đƣợc mở rộng. Các chủ xƣởng thủ công

10

nghiệp dần áp dụng phƣơng thức quản lí mới theo lối tƣ bản chủ nghĩa, họ ngày

càng có vai trò quan trọng trong xã hội mới và nắm giữ vai trò quan trọng trong

nền kinh tế, họ trở thành một giai cấp mới trong xã hội - gia cấp tƣ sản. Ngƣời

nông dân bị cƣớp đoạt ruộng đất, để có thể nuôi sống chính mình họ buộc phải

rời xa quê hƣơng đến các công trƣờng thủ công nghiệp, các thành phố lớn để

làm thuê. Họ chính là tiền thân của giai cấp vô sản sau này.

Chế độ phong kiến ngày càng lụi tàn, phƣơng thức sản xuất nhỏ lẻ của

chế độ phong kiến đã không còn phù hợp với sự phát triển của thời đại. Những

đạo luật hà khắc, sự bóc lột tàn ác của ngƣời địa chủ phong kiến đối với nông

dân đã làm mâu thuẫn giữa ngƣời địa chủ với ngƣời nông dân trở nên gay gắt,

những cuộc nổi dậy của nông dân nhằm chống lại địa chủ phong kiến diễn ra

khắp Châu Âu và giai cấp tƣ sản trở thành đồng minh của họ. “Ngƣời ta không

chỉ đòi xóa bỏ đặc quyền đặc lợi của giai cấp phong kiến, những chƣớng ngại

trên con đƣờng phát triển theo xu hƣớng tƣ bản chủ nghĩa và còn chĩa mũi nhọn

vào giáo hội La Mã, thành lũy tinh thần của chế độ phong kiến” [4; tr. 236].

Giai đoạn này cũng xuất hiện nhiều trƣờng đại học nhƣ đại học Tuludo,

Oxford, Cambridge, Palecmo,… chúng trở thành những nơi học tập, nghiên

cứu, trung tâm văn hóa, khoa học, dần thay thế cho các trƣờng học của giáo hội,

làm giảm ảnh hƣởng của giáo hội đối với nhân dân. Các trƣờng học có xu thế

hoạt động độc lập nhằm thoát khỏi sự kìm kẹp của giáo hội.

Ở Tây Âu giai đoạn này ngƣời nông dân rời bỏ quê hƣơng đến các thành

thị làm thuê rất đông đảo, vì thế hình thành rất nhiều các thành thị. Có ba loại

thành thị: “Thành thị mới: thành thị của những ngƣời thủ công thoát ly khỏi

nông thôn lập nên. Thành thị cổ: thành thị có từ thời cổ đại đƣợc phục hồi lại.

Thành thị do lãnh chúa quý tộc phong kiến xây dựng cho thị dân thuê” [13;

tr.94].

Thế kỉ XV đánh đánh dấu sự chuyển biến to lớn của xã hội châu Âu. Do

11

kinh tế tƣ bản không những phát triển, sự đòi hỏi của thực tiễn sản xuất vật chất,

các ngành khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển. Các thành tựu to lớn của khoa

học kĩ thuật trên mọi lĩnh vực nhƣ sử dụng năng lƣợng nƣớc, các ngành dệt,

luyện kim, chế tạo vũ khí,… có sự phát triển vƣợt bậc. Sự phân công lao động

đƣợc đẩy mạnh, các công xƣởng thủ công không ngừng đƣợc mở rộng.

Quan hệ sản xuất tƣ bản đƣợc hình thành và phát trển không ngừng. Giai

cấp tƣ sản không ngừng lớn mạnh và khẳng định vai trò, sức mạnh của mình

trong xã hội phong kiến. Nhƣng trong giai đoạn này, quan hệ sản xuất phong

kiến vẫn còn tồn tại, quan hệ sản xuất tƣ bản chƣa đƣợc củng cố vững chắc. Vì

vậy giai cấp lãnh chúa phong kiến vẫn tiếp tục bóc lột nông dân, nông dân mất

hết ruộng đất buộc phải trở thành những ngƣời làm thuê. Mâu thuẫn giữa nông

dân và các địa chủ phong kiến ngày càng trở lên gay gắt hơn. Lợi dụng mâu

thuẫn đó giai cấp tƣ sản một mặt thì cùng với nông dân chống lại các lãnh chúa

phong kiến, mặt khác do giai cấp tƣ sản cần một thị trƣờng thống nhất, tiền tệ

thống nhất, vì vậy giai cấp tƣ sản đã bắt tay với nhà vua chống lại các lãnh chúa

để xây dựng một nhà nƣớc trung ƣơng tập quyền. Tuy nhiên nhà nƣớc này

không phải là biểu hiện sự hùng mạnh của chế độ phong kiến phƣơng Tây mà

chỉ là sự cố gắng cuối cùng của chế độ phong kiến hòng giữ lại địa vị thống tị

của mình. Nhà nƣớc phong kiến trong thời kì này nhƣ là một liên minh giữa một

nhà nƣớc đang trên đà sụp đổ với sự phát triển của giai cấp tƣ sản.

Các phát kiến địa lí, những hành tựu của khoa học tự nhiên, sự ra đời của

nhiều loại máy móc đã làm thay đổi cả châu Âu. Với sự xuất hiện của máy móc,

sự xuất hiện các nguồn năng lƣợng mới nhƣ năng lƣợng gió đã làm tăng năng

suất lao động, của cái đƣợc làm ra nhiều hơn. Hiệu quả kinh tế đƣợc đặt lên

hàng đầu. Những mong muốn của con ngƣời có thể đáp ứng ngay tại hiện thực

mà không phải trong Kinh thánh hay ở thế giới bên kia.

Mọi mặt xung quanh cuộc sống con ngƣời dần dần thay đổi, vì vậy tƣ duy

con ngƣời cũng dần thay đổi. Con ngƣời thay vì bị kìm kẹp bởi những giáo điều

12

hà khắc của Thiên chúa giáo thì giờ đây bắt đầu có cơ hội sáng tạo hơn, đƣợc tự

do phát triển, giảm bớt những cấm đoán hơn so với lúc giáo hội còn đang thịnh

trị. So với thời kì Thiên chúa giáo đang thống trị hoàn toàn mọi mặt của xã hội

thì con ngƣời làm việc thiện là làm theo lời Chúa, làm điều ác là trái ý của

Chúa, mọi việc con ngƣời làm đều quy về với Chúa, thì giờ đây đã xuất hiện

tầng lớp tri thức phi tôn giáo, họ truyền bá những tƣ tƣởng tiến bộ, những tƣ

tƣởng nằm ngoài nhà thờ, con ngƣời không còn chịu sự an bài tuyệt đối của

Thiên Chúa. Các tƣ tƣởng tiến bộ không ngừng đƣợc truyền bá quyền uy, sự

phổ biến của giáo hội không còn tuyệt đối nhƣ trƣớc. Ngoài những phát minh về

khoa học kĩ thuật làm thay đổi phƣơng thức sản xuất còn có các khám phá khoa

học làm đảo lộn mọi nhận thức trƣớc đó của con ngƣời, lung lay nền chuyên

chính của nhà thờ. Các vấn đề khoa học nhƣ Galileo khẳng định trái đất hình

tròn. Ông nói trái đất cũng nhƣ mọi hành tinh khác mà thôi, nó không phải là

trung tâm của cả vũ trụ này, nó chỉ là trung tâm của các lực lƣợng mà nó chi

phối. Các quan điểm của các nhà triết học nhƣ của Leonardo da Vinci, Bruno,

Nicolo Machiavelli, Dante… đã đƣa ra những quan điểm khác biệt so với các

quan điểm trƣớc đó. Những quan điểm mới này đã đánh một đòn mạnh vào sự

chuyên chính tinh thần của nhà thờ Trung cổ. Phục hƣng có thể xem là thời kì

con ngƣời tìm lại chính mình, con ngƣời không bị lệ thuộc vào Chúa, con ngƣời

trở về chính mình, trở về với chính thế giới thực tại.

1.2. Tiền đề lý luận cho sự ra đời tƣ tƣởng của Machiavelli

Thời kì Phục hƣng chịu ảnh hƣởng sâu sắc của nền văn hóa Hy Lạp cổ

đạị. “Từ thế kỷ XIII trở đi, nhờ sự tiến bộ của kỹ thuật, sự phát triển của phƣơng

tiện giao thông, sự trao đổi về sách cũ, sách mới bên cạnh nền học thuật chính

thức, bên cạnh kinh viện học, ngƣời ta đã thấy nảy nở một nguồn tƣ tƣởng lành

mạnh, bạo dạn. Kho tàng tƣ tƣởng Hy Lạp, khoa học Ả Rập kích thích tinh thần

học hỏi với ngƣời xƣa, với ngoại quốc. Đi đôi với những cuộc thám hiểm,

những đạo quân viễn chinh, với sự phát triển công nghệ và thƣơng mại, là

13

những cuộc phát kiến về văn hóa, về khoa học, về phong tục của xã hội Đông

Âu và Tiểu Á” [8; tr.20 – 21]. Con ngƣời thời Phục hƣng có cơ hội tiếp xúc lại

với nền văn minh cổ đại dƣới mọi hình thức nhƣ triết học, nghệ thuật, văn

chƣơng,… những điều này tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đời sống

tinh thần con ngƣời của giai đoạn Phục hƣng.

Vì vậy, ngay từ thời còn trẻ N.Machiavelli đã dành nhiều quan tâm đến

các tác phẩm và tác giả thời Hy Lạp và La Mã cổ đại. Và cũng chính tƣ tƣởng

của thời kì Hy - La cổ đại đã trở thành nguồn tƣ tƣởng để Machiavelli sử dụng

trong các tác phẩm sau này, đặc biệt là trong tác phẩm Quân vƣơng. Machiavelli

tiếp thu nhiều tƣ tƣởng của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại nhƣ Socrates,

Platon, Arixtotle,…

1.2.1. Socrates

Socrates (469 - 399 TCN), nhà triết học nổi tiếng thời Hy Lạp cổ đại.

Ông cho rằng luật pháp chính là nền tảng của nhà nƣớc. Ông chủ trƣơng giao

quyền điều hành nhà nƣớc vào tay những ngƣời có năng lực, có tri thức.

Socrates phê phán những quan niệm sai lầm về cái thiện “Ở thời ông, một

khi bàn về vấn đề giá trị, thì phải thông qua các khái niệm cái thiện, kĩ năng, cái

đức hạnh và cái hạnh phúc. Các khái niệm này có thể diễn tả theo ba khuynh

hƣớng. Có thể quan niệm cái thiện theo cách hiểu của chủ nghĩa vị lợi

(Utilitarismus) nhƣ cái gì đó có mục đích, hữu ích, cần thiết. Hay theo cách hiểu

của chủ nghĩa khoái lạc, cái thiện là cái dễ chịu, khao khát, ham muốn tƣơng

ứng. Chủ nghĩa tự nhiên lại coi cái thiện là sự vƣợt trội và là sức mạnh của kẻ

thống trị. Ở đây chủ nghĩa vi lợi và chủ nghĩa tự nhiên không phải là đáp số

cuối cùng, vì cái hữu dụng và cái mạnh chỉ phục vụ cho một mục đích đƣợc xếp

đặt nào đó” [5; tr.75 -76]. Điều này thƣờng thấy trong thời đại của Socrates.

Trong tƣ tƣởng đạo đức của Socrates thì học thuyết đức hạnh là bộ phận

cơ bản nhất. Ông thừa nhận ba đức hạnh cơ bản là tính kiềm chế, lòng dũng cảm

14

và sự công bằng. Ba đức hạnh này hợp lại thành sự thông thái. “Sự thông thái là

đức hạnh nói chung và thể hiện khả năng phân biệt cái tốt và cái xấu, cái hữu

ích và cái bất dụng, trong đó tính tự chủ là cơ sở cho mọi đức hạnh khác. Thiếu

nó thì ngƣời ta không thể sống và làm việc. Lòng dũng cảm là sự biết cách cần

khắc phục những mối nguy hiểm một cách khéo léo và mạnh bạo nhƣ thế nào.

Việc tuân thủ luật pháp thành văn – cơ sở cho sự thịnh vƣợng của nhà nƣớc – và

sự công bằng là tri thức giúp con ngƣời biết tuân thủ luật pháp đó” [14; tr.50].

Socrates coi điều tốt (phúc lợi) là thỏa mãn, hài lòng, coi cái ác là đau

khổ. Tất cả mọi ngƣời đều hƣớng đến điều tốt, đến hạnh phúc, tránh cái xấu.

Tuy nhiên con ngƣời lại mắc sai lầm khi tìm đến hạnh phúc, và con ngƣời

không biết rõ thế nào là hài lòng thực sự. Vì thế con ngƣời cần đến tri thức, cần

tri thức dẫn đƣờng đến hạnh phúc. Socrates đặc biệt đề cao tri thức và coi tri

thức là nền tảng của đức hạnh. Khi con ngƣời có tri thức thì họ sẽ biết hƣớng

đến cái thiện và tránh điều ác. Mọi cái ác, hành vi vô đạo đức đều là do sự kém

hiểu biết, do sự dốt nát. Vì vậy con đƣờng đi đến tri thức cũng là con đƣờng

hoàn thiện nhân cách đạo đức của con ngƣời. Tuy nhiên con ngƣời tự tìm kiếm

tri thức của riêng mình vì vậy họ có đủ sức chống lại những ý kiến của ngƣời

khác. Socrates kiên quyết bảo vệ tính độc lập của mỗi cá nhân trƣớc những đánh

giá của xã hội.

Socrates ủng hộ ngƣời cầm quyền là những ngƣời có tri thức chứ không

phải là quý tộc hay những kẻ giàu có. Ông cho rằng nhà nƣớc và luật pháp đứng

trên nhất vì vậy mọi ngƣời đều phải tuân thủ luật pháp mà mỗi quốc gia đã ban

hành.

1.2.2. Platon

Platon (427 - 347 TCN) xuất thân từ tầng lớp quý tộc ở Athen. Ông cho

rằng nhà nƣớc phát sinh từ những nhu cầu của con ngƣời. “Trong cuộc sống,

con ngƣời luôn tồn tại các nhu cầu cơ bản là lƣơng thực, quần áo và chỗ ở.

15

Không một cá nhân nào có thể tự một mình thỏa mãn đƣợc tất cả những nhu cầu

ấy, vì vậy nhà nƣớc đầu tiên sẽ gồm nhiều cá nhân kết hợp với nhau để giúp

nhau đáp ứng các nhu cầu này. Nhƣ vậy, Platon là một trong những nhà triết

học đầu tiên đƣa ra quan điểm về nguồn gốc tự nhiên của nhà nƣớc. Platon phê

phán gay gắt nền dân chủ Athens, và thể hiện rõ ra tƣ tƣởng duy lý hóa nhà

nƣớc, cho rằng nền dân chủ Athens nó không dẹp bỏ đƣợc tình trạng vô trật tự,

bởi quyền lực nhà nƣớc không dựa trên lý trí mà trên số đông ngu đần, thất học,

dẫn đến tình trạng phân tán quyền lực và xé nhỏ luật pháp” [7 ;tr.33 -34]. Platon

chủ trƣơng xây dựng một nhà nƣớc lý tƣởng với sự tối thƣợng của luật pháp,

mọi công dân phải tuân thủ luật pháp mà nhà nƣớc lý tƣởng đã đề ra. Platon cho

rằng sự thay đổi chính quyền này bằng chính quyền khác có hai nguyên nhân.

“Thứ nhất là từ tình trạng chiến tranh bắt nguồn từ lòng tham của con ngƣời.

Thứ hai là sự tự đào thải của chính các quốc gia khi nó trở nên bất chính” [7;

tr.34]. Platon luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức, tri thức của ngƣời cai trị. Ông

loại bỏ những kẻ bất tài, bịp bợm ra khỏi chính quyền và lựa chọn những ngƣời

tài năng, đức độ để lãnh đạo nhà nƣớc.

Platon phân chia xã hội ra làm ba đẳng cấp. Đẳng cấp thứ nhất thuộc về

các nhà triết học, các nhà chính trị họ sẽ giải quyết mọi vấn đề quốc gia, họ sở

hữu “nghệ thuật làm vua”, đức hạnh phù hợp với họ là sự thông thái. Đẳng cấp

thứ hai là những chiến binh chịu trách nhiệm bảo vệ đất nƣớc, đức hạnh phù

hợp với họ là lòng dũng cảm. Đẳng cấp thứ ba là nông dân và thợ thủ công họ

chịu trách nhiệm tạo ra của cải cho xã hội và phục tùng tầng lớp trên, vì vậy họ

cần đến đức hạnh ôn hòa hay kiềm chế. Đức hạnh chung giữa ba tầng lớp này là

chính nghĩa. Chính nghĩa đòi hỏi họ phải sống đúng khôn khổ ngành nghề của

mình và phục tùng dức hạnh phù hợp.

Platon cho rằng thiện hay ác đã có sẵn trong ý niệm của con ngƣời rồi.

Chỉ thông qua ý niệm về cái thiện, mọi vật mới là bản thân chúng. Thế giới ý

niệm là một hệ thống có cấu trúc phân cấp, trong đó ý niệm bậc thấp hơn phục

16

tùng ý niệm bậc cao hơn. Platon tƣớc đi sở hữu và gia đình của mỗi công dân vì

theo ông nhà nƣớc lí tƣởng chỉ cần những ngƣời khỏe mạnh sống động. Vì vậy

trẻ em yếu đuối, ngƣời đau ốm không có giá trị đều bị mang đi giết. Chính vì

thế nhân từ, yếu đuối không có chỗ trong quan niệm đạo đức.

1.2.3. Aristotle

Aristotle (384 - 322 TCN) là nhà triết học vĩ đại ngƣời Hy Lạp. Cũng nhƣ

một số nhà triết học khác, ông chủ trƣơng cai trị nhà nƣớc bằng pháp luật. Ông

cho rằng nhà nƣớc là một tạo vật của tự nhiên và trong con ngƣời luôn có bản

tính chính trị. Ông cho rằng đạo đức là một biến thể của chính trị.

Aistotle xem xét cái thiện trên nhiều phƣơng diện khác nhau. Theo ông

cái thiện tồn tại trong phong tục, kinh nghiệm cuộc sống hàng ngày của con

ngƣời. Theo ông cái thiện đạt đƣợc vì lợi ích tự thân chứ không phải vì lợi ích

của bất cứ ai. Con ngƣời có đầy đủ giàu có, danh dự xã hội, nhiều bạn,… đều

thúc đẩy con ngƣời ta đến thực hiện hành vi tốt, đến cái thiện.

Mục đích mà con ngƣời hƣớng đến chính là hạnh phúc, con ngƣời hƣớng

đến hạnh phúc theo con đƣờng và phƣơng tiện khác nhau, cho dù họ có ý thức

đƣợc điều đó hay không. Hạnh phúc là một khả năng dựa trên những phẩm chất

đạo đức, nó bắt đầu bằng sự lựa chọn có mục đích của con ngƣời. Hạnh phúc

theo ông, là không phải đầy đủ các đức tính mà là có cuộc sống đầy đủ. Hạnh

phúc có tính phổ quát, nó không giống nhau ở mỗi cá nhân, có ngƣời hạnh phúc

trong khoái lạc, hƣởng thụ, có ngƣời hạnh phúc trong danh vọng, đại vị.

Aistotle xây dựng nên quan điểm về sự trung bình mẫu mực trong đạo

đức học. Quan điểm này của ông xuất hát từ quan niệm độ nhƣ một thứ cốt cách

thẫm đẫm tinh thần Hy Lạp. Bởi thế trong các học thuyết của mình, đặc biệt

trong đạo đức học và chính trị học, Arixtotle cho rằng trong một tập thể cái tốt

nhất luôn là cái trung bình cộng, không thái quá mà cũng không bất cập. Ông

17

khẳng định “Ta phải công nhận rằng sự trung dung và trung bình là điều tốt

nhất, và nhƣ vậy. Rõ ràng có đƣợc vận may vừa phải là điều tốt nhất” [1;

tr.236].

Ông cho rằng chế độ nô lệ là dĩ nhiên, vì một số ngƣời đã đƣợc định

trƣớc là trở thành nô lệ. Một số ngƣời khác lại thích hợp với đời sống chính trị

hơn là lao động chân tay. Mỗi ngƣời cần phải là tốt nhiệm vụ của mình.

1.2.4. Chủ nghĩa nhân văn Phục hƣng

Thời đại Phục hƣng đã tái hiện lại phần nào những sinh hoạt trí tuệ của

thời kì cổ đại. Và Italia chính là trung tâm của phong trào này, vì vậy ở đây hình

thành rất nhiều các lĩnh vực, hoạt động mới. Các sáng tạo phục vụ con ngƣời

đƣợc phổ biến rộng rãi. Nhƣ việc chế tạo máy in của Gutenberg (1440) đã giúp

cho các tài liệu đƣợc lƣu truyền rộng khắp. “Ông tổ thời Phục hƣng là thi sĩ

Petrarca (1374), nhà nhân bản Florence. Nhƣng phong trào Phục hƣng nở rộ từ

1453, khi Constantinople thất thủ, nhiều nhà bác học Hy Lạp nhƣ Bessarion

sang Tây phƣơng tị nạn, mang theo nhiều thủ bản Hy ngữ. Ngƣời Tây phƣơng

có dịp khám phá lại nền văn minh Cổ đại dƣới mọi hình thức: triết học, văn

chƣơng, nghệ thuật và khoa học. Các học giả ngƣời Ý say mê nghiên cứu nền

văn chƣơng cổ cho tới lúc này vẫn đang "ngủ yên" trong các tu viện” [8; tr.20 -

21].

Thuật ngữ “chủ nghĩa nhân văn” có nguồn gốc gắn liền với khái niệm

“studia humanitatis”, có nghĩa đen là “phòng học các môn khoa học nhân văn”

[6; tr.543]. Từ thế kỉ XIV, “ngƣời ta dùng thuật ngữ này để chỉ những bộ môn

nhƣ ngữ pháp, tu từ học, thi ca, lịch sử đạo đức học. Những ngƣời dạy các môn

này bắt đầu đƣợc gọi là những ngƣời theo chủ nghĩa nhân văn” [6; tr.543]. Tuy

nhiên những ngƣời đi theo chủ nghĩa nhân văn Phục hƣng lại không cảm thấy

đây chỉ là một số môn nghiên cứu con ngƣời, mà là phƣơng tiện phát triển và

nâng cao phẩm giá con ngƣời. Chủ nghĩa nhân văn Phục hƣng trƣớc hết là một

18

hiện tƣợng thẩm mỹ. Nhiều ngƣời vẫn luôn nhầm tƣởng Chủ nghĩa nhân văn

Phục hƣng với định hƣớng đạo đức, luân lý, chứ không phải định hƣớng thẩm

mỹ. Trong khi đó, chủ nghĩa nhân văn Phục hƣng tuy có yếu tố đạo đức nhƣng

đó không phải yếu tố đắc thù và không phải là nội dung trung tâm. Đặc điểm

quan trọng của chủ nghĩa nhân văn là hƣớng đến thực tiễn. “Điều này không có

nghĩa là các nhà nhân văn không xây dựng hay không cố gắng xây dựng các lý

thuyết. Điều này có nghĩa lý luận đối với họ không phải là mục đích tự thân.

Khác với triết học trung cổ, trong đó tính hoàn hảo của hệ thống lý luận là một

yếu tố quan trọng tự thân nó, lý luận trong chủ nghĩa nhân văn cần phải phục vụ

công khai và phục vụ ngay các lợi ích của cuộc sống thực tiễn” [6; tr.547]. Con

ngƣời cần phải sống một cuộc sống hiện thực ở trần thế chứ không phải mong

chờ về một cuộc sống bên kia thiên đàng.

Chủ nghĩa nhân văn Phục Hƣng có ảnh hƣởng rất lớn đến các tƣ tƣởng

đạo đức của Machiavelli. Chính tên gọi Phực Hƣng đã liên quan đến sự phục

hồi lại các tri thức thời kì cổ đại mà vẫn còn đến giá trị của thời kì hiện nay.

Mọi tri thức là ở trần thế chứ không phải là nhƣng tri thức trên thiên đàng của

tôn giáo, kinh viện. “Đồng thời với việc xảy ra sự phục hồi tinh thần Thiên chúa

chân chính, suy xét lại truyền thống Thiên chúa, chống đối kịch liệt sự xa hoa

của giới tăng lữ và sự xuyên tạc học thuyết của Chúa Kitô bằng sự bù trừ, kêu

gọi sự Phục hƣng Thiên chúa giáo tông đồ khởi thủy” [8; tr.23].

Đặc điểm căn bản của thời đại Phục hƣng là đề cao con ngƣời, lấy con

ngƣời làm trung tâm của thế giới chứ không phải Chúa. Con ngƣời đƣợc đặt lên

hàng đầu, sau đó mới là quan tâm các vấn đề xung quanh con ngƣời. Các quan

niệm nhƣ thế giới do tự nhiên sinh ra chứ không phải do Chúa trời tạo nên, con

ngƣời không phải là một bộ phận của Chúa,… đƣợc truyền bá rộng rãi.

“Chủ nghĩa nhân văn, thứ nhất là ý thức tự do tƣ tƣởng và chủ nghĩa cá

nhân hoàn toàn thế tục đặc trƣng cho thời Phục hƣng. Thứ hai, đây không đơn

giản là tự do tƣ tƣởng thế tục mà còn là các phƣơng diện chính trị - xã hội, công

19

dân, giáo dục, sinh hoạt, đạo đức và các phƣơng diện thực tiễn khác của sự tự

do tƣ tƣởng này. Nhƣ vậy đặc điểm quan trọng của chủ nghĩa nhân văn là sự

hƣớng đến thực tiễn của nó. Điều này hoàn toàn không có nghĩa là các nhà nhân

văn không xây dựng hay không cố gắng xây dựng các lý thuyết. Mà có nghĩa là

lý luận đối với họ không phải là mục đích tự thân. Khác với triết học Trung cổ,

trong đó tính hoàn hảo của hệ thống lý luận là một yếu tố quan trọng tự thân nó,

lý luận trong chủ nghĩa nhân văn cần phải phục vụ công khai và ngay các lợi ích

của cuộc sống thực tiễn. Lý luận cần phải trả lời cho câu hỏi “sống nhƣ thế

nào?”. Con ngƣời, cá nhân cụ thể cần phải sống một cuộc sống thế tục chứ

không phải là một cuộc sống trong giáo hội. Cá nhân, cá thể đƣợc đặt vào trung

tâm của những hệ thống lý luận. Tƣ tƣởng của các nhà nhân văn vận động

không phải từ cái thần thánh đến cá nhân, mà ngƣợc lại từ cá nhân đến cái thần

thánh” [8; tr.25]. Con ngƣời là trung tâm của mọi học thuyết. Các nhà nhân văn

đã xem xét mọi vấn đề dƣới lăng kính cá nhân mình, mở ra sự sáng tạo vô hạn

cho con ngƣời. Đặc biệt là sự phát triển trên linh vực thẩm mỹ - nghệ thuật.

Chủ nghĩa nhân văn Phục hƣng đã tạo điều kiện cho nghệ thuật thời kì

này phát triển rực rỡ. Các nhà nhân văn xem việc sáng tạo ra các tác phẩm nghệ

thuật là viêc sáng tạo ra nhân cách cá nhân của chính mình. Và xem đây cũng là

cách để khẳng định mình.

Với tình hình xã hội Tây Âu lúc bấy giờ chủ nghĩa nhân văn lại tạo ra

những tích cực và tiêu cực của nó. Chủ nghĩa nhân văn tạo ra nhƣng con ngƣời

khổng lồ, những sản phẩm văn hóa mang tính thời đại, những công trình nói lên

sự phát triển phồn vinh của thời đại Phục hƣng. Nhƣng mặt khác nó cũng tạo ra

những mặt trái của nó, khi bản thân con ngƣời đƣợc giải phóng thì những dục

vọng, tật xấu của con ngƣời cũng vậy, “sự lộng hành của những dục vọng, của

thói chuyên chế và của thói vô kỉ luật đạt tầm cỡ chƣa từng thấy ở thời Phục

hƣng” [8; tr.27].

Các nhà tƣ tƣởng của chủ nghĩa nhân văn thời kì này đã nói lên những bất

20

bình của nhân dân với giáo hội, với chế độ phong kiến. “Các nhà tƣ tƣởng này

chống lại sự thao túng của giáo hội Thiên chúa giáo, các giáo điều tôn giáo bằng

tƣ tƣởng bảo vệ các quyền và nhân cách con ngƣời. Tƣ tƣởng từ bỏ hạnh phúc

trần gian của Thiên chúa giáo đối lập với niềm tin vào sức mạnh của lý trí và

kinh nghiệm, vào sức mạnh của con ngƣời. Sự thay đổi của đời sống kinh tế - xã

hội, sự chuyển biến đột ngột của các hoạt động chính trị đã làm rạn nứt và đổ vỡ

những hệ giá trị vốn có nền tảng trong hàng ngàn năm qua” [8; tr 27 – 28]. Sự

thống trị hàng ngàn năm của Giáo hội và chế độ phong kiến đang bị đe dọa. Hệ

giá trị của Thiên chúa giáo đã không còn phù hợp với xã hội, nó làm dấy lên sự

hoài nghi của con ngƣời, con ngƣời buộc phải suy ngẫm về mình. Thi sĩ

Giovanni Boccaccio đã diễn tả trạng thái tinh thần thời đại: “Chƣa bao giờ

ngƣời ta thấm thía đến thế về sự phù du và phi lý của kiếp ngƣời. Vậy chỉ còn

lại hai lối thoát: hoặc phải tận hƣởng cuộc sống ngắn ngủi nơi trần thế, hoặc

hiến mình cho những giá trị siêu thế gian. Nhƣ thế, bên cạnh nhu cầu tín

ngƣỡng, tôn giáo hƣớng đến cái vĩnh hằng, con ngƣời đột nhiên phát hiện ra

một cảm thức mới mẻ về cuộc đời, và tỏ ra nhạy cảm trƣớc nhu cầu nội tâm

hƣớng đến cái đẹp. Cái đẹp – thanh cao lẫn nhục cảm – rồi sẽ đƣợc khắc ghi

trong hoạt động nghệ thuật sáng tạo” [8; tr.28].

1.3. Cuộc đời và sự nghiệp của Nicolo Machiaveli

Niccolò Machiavelli là nhà văn, nhà sử học, nhà thơ thời đại Phục hƣng.

Ông sinh ngày 03 tháng 5 năm 1469, mất ngày 21 tháng 6 năm 1527 tại thành

phố Florence, Italia. Cha ông là một luật sƣ nhƣng do những món nợ không trả

đƣợc nên không đƣợc phép hành nghề nên gia đình ông trở nên túng thiếu. Ông

không học đại học, không biết tiếng Hy Lạp, nhƣng lại hiểu rất rõ về tiếng

Latinh đến mức có thể đọc đƣợc tiếng La Mã và cũng thông qua việc hiểu rõ

tiếng Latinh mà ông biết đến các tác giả Hy Lạp. Ông đọc và tìm hiểu rất kĩ các

tác giả La Mã, Hy Lạp.

Từ thời trẻ tuổi Machiavelli đã rất quan tâm đến sử thi của Lucretius

21

Carus và cũng chính sử thi này ảnh hƣởng rất nhiều đến quan điểm sau này của

Machiavelli. Ông rất quan tâm đến đời sống xã hội phức tạp ở Florence trong

những năm tháng phục hồi chế độ cộng hòa ở đây và cầm quyền của

Savonarolla có lối sống khắc kỉ, có tâm trạng chống đối tại tòa thánh Rome.

Ngay sau khi Savonarolla bị xử tử vào năm 1498, khi mà chế độ cộng hòa vẫn

còn tiếp tục tồn tại ở Florencia, ông bắt đầu làm việc tại một công sở của nền

cộng hòa, sau đó làm thƣ kí văn phòng chính phủ. Ở đây ông làm nhiều công

việc khác nhau – chính trị và ngoại giao. Một thời gian ngắn ông đƣợc bầu làm

thƣ kí Hội đồng quân sự và ngoại giao, nhờ đó ông có cơ hội đi nhiều nơi, tiếp

xúc nhiều chính khách cũng nhƣ nhiều sự kiện lịch sử. Ông đã tiếp kiến nữ bá

tƣớc Caterina Sforza (1499), vua Louis VII của Pháp (trong các năm 1500,

1504, 1510, 1511), Cesare Borgia (1502, 1503), Giáo hoàng Giuliô II (vào các

năm 1503, 1506), hoàng đế Maximilian II (từ năm 1507 đến năm 1508),…

Chính các sứ mệnh ngoại giao và việc gặp gỡ nhiều ngƣời lãnh đạo mà nhiều tƣ

tƣởng của ông đã đƣợc hình thành, và thể hiện trong tác phẩm Quân vƣơng của

mình.

Đặc trƣng cho quan điểm chính trị và triết học xã hội đã chín muồi ở thời

kì này của Machiavelli thể hiện ở chỗ ông tự coi mình là con ngƣời của hành

động luôn đƣợc suy xét kịp thời. Ông thích nhắc lại câu châm ngôn cổ: “Đầu

tiên sống, rồi sau đó mới triết lý”. Ông chủ yếu buộc phải nghiên cứu triết học

và trình bày tƣ tƣởng của mình dƣới dạng văn học. Điều này có thể thấy trong

tác phẩm “Quân vƣơng” của ông, tác phẩm đã phá vỡ nguyên tắc đặc thù của

các tác phẩm chính trị truyền thống về cả nội dung lẫn hình thức.

Trở thành bạn của Piero Soderini ( ngƣời đứng đầu chính phủ Firenze

năm 1502). Machiavelli do quá chán nản trƣớc sự kém cỏi của đội quân đánh

thuê mà chính phủ Florence sử dụng, ông đã thuyết phục Soderini hậu thuẫn

việc xây dựng quân đội quốc gia của Firenze bất chấp những ý kiến phản đối

của giới qúy tộc Firenze. Machiavelli đã đứng ra tuyển chọn, đào tạo và tập

22

luyện cho đội quân này. Vào năm 1509, sự sáng suốt của ông đã đƣợc minh

chứng khi quân đội Florence giành đƣợc quyền kiểm soát thành phố láng giềng

Pisa sau một cuộc chiến kéo dài suốt 15 năm. Thành công này đánh dấu một

bƣớc tiến trong sự nghiệp của Machiavelli. Năm 1512, chính phủ cộng hòa bị

thay thế bằng nền bạo chính của nhà Medici. Sau đó Machiavelli bị bãi chức và

cấm rời khỏi lãnh thổ Firenze.

Vài tháng sau, hai thanh niên bất mãn với chính quyền và bị bắt cũng với

danh sách những ngƣời bất mãn với nhà Medici. Trong đó có tên của

Machiavelli, dù không có gì chứng tỏ nhƣng ông vẫn bị tống giam. Nhân đợt ân

xá khi ngƣời chú của Giuliano là Giovanni đƣợc bầu làm Giáo hoàng Lêô X vào

tháng 3 năm 1513, Machiavelli đƣợc tha và ông lui về sống tại một trang trại

nhỏ ở quê nhà. Trong thời gian này, ông viết nhiều thƣ cho ngƣời bạn thân là

Francesco Vettori, một nhà ngoại giao Firenze đƣợc bổ nhiệm giữ chức đại sứ

tại thành Roma để nắm bắt thông tin về thế giới bên ngoài và hy vọng Vettori có

thể tiến cử ông cho nhà Medici. Trong hoàn cảnh bức bách đó, Machiavelli

dành nhiều thời gian để viết lên những tác phẩm của mình. Ông đã viết nhiều

tác phẩm nhƣ Quân vƣơng (1513), Những suy ngẫm về 10 cuốn sách đầu tiên

của Tit Livi (1516 – 1517), Con lừa (1517), Mandradora (1518), Về nghệ thuật

quân sự (1519 – 1517), Andria (1519), Benphago (1520), Cuộc đời của

Catruchco Katracani (1520), Lịch sử Florenxia, Đối thoại về ngôn ngữ.

Tong đó tác phẩm Quân vƣơng là tác phẩm nổi tiếng nhất của của ông.

Tác phẩm này chắt lọc những nhìn nhận của ông về các phẩm chất đạo đức, về

bản tính con ngƣời, nghệ thuật lãnh đạo cũng nhƣ chính sách ngoại giao. Ông

dâng tặng nhà Medici tác phẩm này nhằm chứng tỏ sự tận tâm của mình nhƣng

không thành công. Cho tới năm 1515, nhà Medici vẫn không để mắt tới ông và

sự nghiệp ngoại giao của ông đã chấm dứt.

Machiavelli có thái độ đặc biệt thù địch đối với tầng lớp quý tộc phong

kiến, ông cho rằng họ là những kẻ sống một cuộc sống xa hoa dựa trên thu nhập

23

từ các điền trang của mình. Ông coi họ là kẻ thù không đội trời chung của đời

sống dân sự ở dƣới chế độ cộng hòa và thậm chí ông không ngần ngại tuyên bố

cần thiết phải thủ tiêu hoàn toàn họ. Thiện cảm của Machiavelli đƣợc dành hoàn

toàn cho nhân dân mà ông trƣớc hết kể đến tầng lớp cƣ dân thị thành phong lƣu

và tích cực nhất - thƣơng gia, thợ thủ công, hoạt động sản xuất đa dạng của họ

đảm bảo sự phát triển thịnh vƣợng của Florencia và các thành thị khác ở Italia.

Hoạt động lao động tích cực của họ phù hợp với vai trò chính trị quan trọng

hàng đầu của họ trong việc điều hành công việc nhà nƣớc. Song, đại đa số cƣ

dân còn lại, tầng lớp dƣới của nó, “tầng thấp nhất của cái tháp xã hội”, lại hoàn

toàn không dành đƣợc thiện cảm của Machiavelli. Một yếu tố quan trọng nữa ở

Machiavelli là thái độ thù địch sâu sắc của ông đối với giới tăng lữ, giới chức

sắc tôn giáo nói chung [6 ; tr.563].

Thái độ thù địch nhƣ vậy của Machiavelli chủ yếu bắt nguồn từ tâm trạng

và các tƣ tƣởng chính trị dân tộc của ông. Italia phải trả cái giá là sự phân tán về

mặt chính trị cho sự phát triển thịnh vƣợng của Florence và các vƣơng quốc

khác. Các vƣơng quốc khác nhau của nó liên tục xung đột với nhau, còn các

nƣớc láng giềng hùng mạnh, đặc biệt là Pháp và Tây Ban Nha, đã bành trƣớng

sang Italia, gây chiến với nhau nhờ liên minh với các vƣơng quốc Italia, chia xé

chúng, làm cho chúng bị suy thoái.

Tòa thánh Rome đóng một vai trò tiêu cực trong việc chia rẽ Italia. Vốn là

một nhà nƣớc thần quyền và phong kiến, song lại cố gắng mở rộng biên giới của

mình, nó trở thành một trong những trở ngại chính trị trên con đƣờng thống nhất

Italia thành một nhà nƣớc thống nhất. Sự thống nhất nhƣ vậy cấu thành một

trong những kích thích quan trọng nhất đối với tƣ tƣởng chính trị của

Machiavelli. Từ đó, thái độ thù địch của ông đối với tầng lớp tăng lữ lại càng có

tính chất thế giới quan và nhân sinh quan sâu sắc hơn [6; tr.564].

Các tác phẩm của ông đã thu hút đƣợc sự chú ý của Hồng y Giáo chủ

Giulio de Medici, ngƣời đã nắm quyền ở Firenze một vài năm và nhờ đó, ông đã

24

đƣợc giao nhiệm vụ viết về lịch sử của Florence. Ông viết cuốn Lịch sử thành

Firenze từ năm 1520 tới năm 1524. Năm 1523, Giulio đƣợc bầu làm Giáo hoàng

Clêmentê VII và Machiavelli đệ trình cuốn Lịch sử thành Firenze cho giáo

hoàng vào năm 1525. Sự giảng hòa với nhà Medici đã giúp Machiavelli đƣợc

tham gia chính sự trong một thời gian ngắn. Ông đƣợc giao trách nhiệm phụ

trách các vấn đề quân sự tại Firenze cho Giáo hoàng. Tuy nhiên, Giáo hoàng

Clêmentê VII mắc mƣu kẻ thù và thành Roma bị quân đội Tin lành của Đức

cƣớp phá. Sự cố này đã khiến cho ngƣời dân Florence làm cuộc lật đổ nhà

Medici vào năm 1527. Machiavelli, ngƣời suốt đời ủng hộ và bảo vệ nền cộng

hòa Firenze, lại một lần nữa không gặp may vì bị những ngƣời cộng hòa nghi

ngờ là cấu kết với nhà Medici. Tuy nhiên, ông không phải tiếp tục chứng kiến

định mệnh trớ trêu của mình bởi ông qua đời sau một trận ốm vào tháng 6 năm

1527.

1.4. Nội dụng chính của tác phẩm “Quân vƣơng”

Quân vƣơng là tác phẩm nổi tiếng của Machiavelli nhƣng không đƣợc

xuất bản khi ông còn sống mà chỉ đƣợc lƣu truyền dƣới hình thức chép tay. Tác

phẩm lần đầu tiên đƣợc xuất bản vào năm 1532, với sự cho phép của giáo hoàng

Clement VII. Và đƣợc tái bản nhiều lần sau đó. Đến năm 1559, tất cả các tác

phẩm của Machiavelli bị đƣa vào danh mục sách cấm của giáo hội. Tuy nhiên

dù bị cấm nhƣng sự lan truyền của tác phẩm không mấy bị ảnh hƣởng vì nó sớm

đã đƣợc dịch ra nhiều thứ tiếng, lan tỏa khắp châu Âu. Quan điểm chính trị của

ông còn đƣợc nhiều nhà cai trị coi nhƣ cuốn cẩm nang để tranh giành quyền lực.

Machiavelli viết tác phẩm theo những điều ông thấy thực tế ở đời sống chính trị,

ông không viết tác phẩm với mong muốn tạo ra một bạo chúa.

Tác phẩm ghi lại những kinh nghiệm trong chuyến công du của ông qua

Romagna dƣới sự thống trị độc tài của Cesare Borgia. Ban đầu ông không coi

trọng thủ đoạn chính trị của Borgia nhƣng sau này Machiavelli lại khâm phục

khả năng nắm quyền của nhà độc tài này. Trong tác phẩm Quân Vƣơng

25

Machiavelli có đề cập đến nhiều thủ đoạn chính trị, trong đó có nhiều thủ đoạn

là của Borgia. Trong tác phẩm ông đƣa ra những quan niệm về chính trị khác

hẳn với các quan niệm truyền thống. Ông cho rằng ngƣời nắm quyền lên quan

tâm đến mục đích chính trị hơn là phƣơng pháp thực hiện. Kết quả biện minh

cho hành động.

Kết cấu của tác phẩm đƣợc chia làm 26 chƣơng với các nội dung lớn: các

vƣơng quốc - cách cai trị, các loại quân lính – quân đội, những phẩm chất cần

có của một quân vƣơng, vấn đề thần tử của quân vƣơng và hai phần lẻ là vai trò

của số phận và lời kêu gọi giải phóng Italia.

Nội dung lớn đầu tiên là các vƣơng quốc, cách cai trị chúng đƣợc đề cập

trong 11 chƣơng đầu, gần một nửa tác phẩm. Qua đó ta thấy Machiavelli đã

nghiên cứu, tìm hiểu rất nhiều loại hình chính trị của các quốc gia khác nhau.

Qua những sự kiện lịch sử mà ông tận mắt chứng kiến hay ghi chép đƣợc, trong

tác phẩm ông phân biệt các hình thức vƣơng quốc: các vƣơng quốc quân chủ thế

tập, các vƣơng quốc quân chủ mới, và ông cũng nhắc đến các nƣớc cộng hòa

nhƣng không đƣợc bàn tới trong tác phẩm này. Theo Machiavelli “các vƣơng

quốc hoặc là do cha truyền con nối từ những dòng họ nắm quyền lâu đời, hoặc

mới đƣợc thiết lập”, tuy nhiên lại có nhiều hình thức để bình định một quốc gia.

Machiavelli đƣa ra các hình thức bình định một vƣơng quốc, ông đã chia các

vƣơng quốc thành: các vƣơng quốc giành đƣơc do tài trí, năng lực của bản thân,

các vƣơng quốc giành đƣợc bằng binh lực của ngƣời khác và vận may của bản

thân, các vƣơng quốc giành đƣợc nhờ sự hung ác, tàn bạo, các vƣơng quốc dân

cử và các vƣơng quốc giáo hội. Theo ông, các vƣơng quốc này thì đều đƣợc cai

trị theo một trong hai cách. Cách thứ nhất là quân vƣơng cùng với bề tôi, cận

thần do ông ta chỉ định, nếu theo cách cai trị này thì quân vƣơng có quyền lực

rất lớn. Cách thứ hai là quân vƣơng cùng với các công hầu thế tập, số công hầu

này là các lãnh chúa có lãnh địa và thần dân riêng. Machiavelli quan tâm đến

cách thức cai trị một vƣơng quốc, những vùng đất bị thôn tính có sự tƣơng đồng

26

về văn hóa, ngôn ngữ với chính quốc sẽ dễ dàng sát nhập với chính quốc, nếu

không thì quân vƣơng cần đích thân đến cƣ ngụ tại vùng đất mới đó để dễ dàng

hơn cho việc cai trị, đồng hóa. Theo ông có 3 cách thức để cai trị một vƣơng

quốc. Thứ nhất là phá hủy hết, thứ hai là đích thân đến cƣ ngụ tại chỗ, thứ ba là

để dân sống theo luật lệ của họ, cống nạp cho quân vƣơng. Trong tác phẩm

Machiavelli còn nói lên những khó khăn mà một quân vƣơng phải đƣơng đầu,

ông luôn nhấn mạnh quân vƣơng phải dựa vào năng lực của bản thân và thần

dân. Ông cũng đƣa ra nhiều những thủ đoạn mà một quân vƣơng nên áp dụng.

Nội dung thứ hai bàn về binh lính, quân đội đƣợc nói đến từ chƣơng thứ

12 đến chƣơng 14. Machiavelli nói lên vai trò quan trọng không thể thiếu của

quân đội, quân đội nhƣ là nền móng của một quốc gia. Một quốc gia có thể có

quân binh, đạo quân riêng, lính đánh thuê, quân đồng minh hoặc là hỗn hợp các

loại trên. Ông cho rằng lính đánh thuê và quân đồng minh là những loại quân vô

dụng và nguy hiểm. Quân vƣơng nào cũng nên có quân đội riêng của mình. Ông

cũng đề cập đến việc rèn luyện cho quân đội vì theo ông chiến tranh là công

việc của kẻ trị vì do đó rất cần một quân đội mạnh.

Nội dung thứ ba Machiavelli đề cập đến trong tác phẩm “Quân vƣơng” là

phẩm chất của một quân vƣơng, đƣợc thể hiện từ chƣơng 15 đến chƣơng 21.

Trong những chƣơng này Machiavelli cho rằng một quân vƣơng nếu muốn

thành công thì không cần có đủ các phẩm chất đạo đức mà chỉ cần tỏ ra là mình

có tất cả những phẩm chất đạo đức tốt đó. Quân vƣơng muốn thành công thì

phải học đƣợc cách gác lòng tốt sang một bên, sử dụng lòng tốt còn tùy thuộc

vào thời điểm. Ông đề cập đến từng cặp phẩm chất đạo đức trái ngƣợc nhau.

Quân vƣơng cần tránh sự khinh miệt và thù ghét. Một quân vƣơng cần có sự

khôn ngoan và mới mục đích duy nhất là bảo vệ đƣợc vƣơng quốc và địa vị của

mình, để bảo vệ đƣợc địa vị của mình thì quân vƣơng buộc phải làm điều ác. Và

“quan điểm đáng chú ý của Machiavelli là quan điểm về tầm quan trọng của

“lòng dân” và nguyên tắc lựa chọn chính sách trị nƣớc rất hiện đại: không có

27

chính sách nào toàn vẹn, cần phải biết chọn lấy cái bất lợi nhỏ nhất” [8; tr.37].

Nội dung tiếp theo là nói về bộ máy giúp việc cho quân vƣơng.

Machiavelli phân tích mối quan hệ giữa hai bên và cho rằng hai bên cần giúp đỡ

nhau. Và quân vƣơng cũng cần chọn cho mình những cận thần khôn ngoan.

Hai phần sau cũng ông bàn về số phận và kêu gọi giải phóng Italia. Quan

điểm của ông rất thực tế và tiến bộ, khi cho rằng số phận chỉ chi phối một nửa

của con ngƣời còn một nửa là do con ngƣời quyết định. Theo Machiavelli, hành

động của con ngƣời có thể khác nhau nhƣng thất bại hay thành công là do hợp

thời hay không hợp thời.

Machiavelli đã tách chính trị ra khỏi đạo đức, tôn giáo. Ngƣời đã làm

chính trị thì không nên quan tâm đến đạo đức. Chính trị là hoạt động có mục

đích của con ngƣời, trong đó họ cố gắng thực hiện lợi ích và nhu cầu của mình.

“Việc thông qua và thực hiện các giải pháp chính trị phụ thuộc vào các yếu tố:

mục đích – phƣơng tiện – vai trò của thủ lĩnh. Mà tất cả điều này lại đƣợc xây

dựng trên cơ sở là những quan niệm của ông về con ngƣời – chủ nghĩa bi quan

về nhân học” [8; tr.38].

Quân vƣơng là tác phẩm gây ra nhiều tranh cãi từ khi ra đời cho đến tận

ngày nay. Những luận điểm trong tác phẩm đã gây ra nhiều ý kiến trái chiều.

Khi mới xuất bản thì đƣợc tái bản nhiều lần nhƣng có thời gian lại bị liệt vào

hàng sách cấm và cũng vì đó mà Machiavelli chịu nhiều sự phỉ báng. Tuy nhiên

tác phẩm lại nhận đƣợc nhiều hƣởng ứng của một số chính khách, các nhà tƣ

tƣởng,… nhƣ Bacon nhận xét: “Chúng ta đã chịu ơn N.Machiavelli và những

tác giả đã viết về những điều mà con ngƣời làm chứ không phải điều con ngƣời

nên làm”, hay nhƣ Rousseau đã viết: “Dƣờng nhƣ đó có vẻ là các bài học cho

các vua chúa, nhƣng thực ra, ông đã dạy những bài học vĩ đại cho nhân dân” [8;

tr.38].

Tác phẩm còn nhiều giá trị cho đến ngày này một phần là do có những tƣ

28

tƣởng triết học về con ngƣời, “những nhận xét lạnh lùng về con ngƣời và cách

thức mà ông khuyên bậc quân vƣơng đều hữu ích cho chính khách, giới chủ hay

đơn giản là trong đối nhân xử thế hàng ngày. Phát hiện về bản chất con ngƣời

và phƣơng diện thể hiện rõ nhất bản chất đó – chính trị đã đồng thời dẫn ông

đến con đƣờng khai sinh ra một ngày khoa học mới – khoa học chính trị” [8;

tr.39].

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Nhƣ Ăngghen đã nói, thời Phục hƣng sinh ra những con ngƣời khổng lồ,

và Machiavelli cũng chính là con ngƣời khủng lồ nhƣ vậy. Machiavelli đã kế

thừa xuất sắc những thành tựu tƣ tƣởng của thời Hy – La cổ đại và kế thừa

những tinh hoa của thời kì này để hình thành nên tƣ tƣởng của chính mình.

Trong chƣơng này, khóa luận đã làm rõ những điều kiện và tiền đề cho sự ra đời

của tƣ tƣởng đạo đức của Machiavelli và sự ra đời của tác phẩm Quân vƣơng.

Có thể thấy rằng những tƣ tƣởng của Machiavelli đặc biệt là những tƣ tƣởng

đạo đức của ông hình thành trong hoàn cảnh xã hội có nhiều biến động. Để có

đƣợc những thành tựu vƣợt bậc đó, ngoài tố chất thiên bẩm, Machiavelli cũng

hòa mình vào tinh thần của thời đại để tìm ra những tƣ tƣởng đạo đức phù hợp

với một quân vƣơng hay rộng ra là với con ngƣời. Bên cạnh đó, trong chƣơng

này khóa luận cũng trình bày sơ lƣợc về cuộc đời, sự nghiệp của Machiavelli và

29

những nội dung cơ bản của tác phẩm “Quân vƣơng”.

CHƢƠNG 2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC

N. MACHIAVELLI TRONG TÁC PHẨM “QUÂN VƢƠNG”

2.1. Mối quan hệ chính trị và đạo đức

Tƣ duy chính trị của Machiavelli khác biệt với những tƣ tƣởng chính trị

trƣớc đó, ông cố gắng tách chính trị ra thành lĩnh vực độc lập, độc lập với tôn

giáo, đạo đức. Machiavelli không quan tâm đến những gì cần tồn tại, ông xem

xét cách quân vƣơng đối xử thế nào với thần dân và bằng hữu. Tuy đã có nhiều

ngƣời viết về đề tài này và ông sợ mọi ngƣời sẽ cho ông là ngạo mạn, và ông

cũng cảnh báo rằng điều ông viết ra sẽ khác nhiều ngƣời. Machiavelli viết ra

thực chất vấn đề dựa vào kinh nghiệm của ông chứ không phải là sự tƣởng

tƣợng qua các sự kiện hay sử sách ghi lại. Với một số ngƣời trƣớc đó, họ đã vẽ

ra một đất nƣớc với nền cộng hòa và vƣơng quốc trong mơ mà chƣa ai từng biết

đến, nhìn thấy nó nhƣ thế nào. Machiavelli đã đƣa ra quan điểm “Việc sống thế

nào khác xa với việc sống phải thế nào”. Sự khác biệt giữa cách mà con ngƣời

thực sự sống khác xa so với việc mà con ngƣời cần phải sống, do đó nếu con

ngƣời làm những việc phải làm thay vì những việc cần làm thì chẳng mấy chốc

con ngƣời sẽ bị tiêu vong thay vì tồn tại lâu dài. Do đó nếu chúng ta cứ mãi

sống theo đạo đức, theo cái thiện giữa một xã hội đầy dẫy những kẻ dối trá, xấu

xa thì ta sẽ sớm bị tiêu diệt giữa đám đông ấy. Từ đó suy ra một quốc vƣơng

phải biết làm điều sai trái, nếu muốn giữ vững quyền lực của mình thì phải biết

từ bỏ cái thiện khi cần thiết.

Machiavelli cho rằng quốc vƣơng rất dễ bị lâm vào hoàn cảnh phải sử

dụng những biện pháp dã man, không mang tính đạo đức. Ông viết: “Khi một

ngƣời nào đó trở thành quốc vƣơng ở một quốc gia hay ở một thành phố nào đó,

đặc biệt là khi không có chỗ dựa vững chắc ở đó, khi ngƣời ấy không có thiên

hƣớng về chế độ quân chủ và chế độ cộng hòa, thì phƣơng tiện đáng tin cậy

nhất của ngƣời ấy để duy trì quyền lực là cải biến tất cả theo cách mới (vì ngƣời

30

ấy là quốc vƣơng mới): lập chính phủ mới ở các thành phố với tên gọi mới, với

những quyền năng mới và những con ngƣời mới; biến ngƣời giàu thành kẻ

nghèo, còn ngƣời nghèo thì thành ngƣời giàu,… xây dựng các thành phố mới và

triệt phá các thành phố cũ, di chuyển cƣ dân từ nơi này đến nơi khác, tóm lại

làm đảo lộn mọi thứ ở đất nƣớc này. Những biện pháp đó là hết sức tàn ác và

thù địch với mọi lối sống, không chỉ với lối sống của tín đồ Thiên Chúa giáo,

mà còn với lối sống có nhân tính nói chung. Cần né tránh những biện pháp nhƣ

vậy: sống riêng tƣ bình lặng còn hơn trở thành quốc vƣơng bằng cái giá hủy diệt

đa số ngƣời khác. Ngƣời nào không muốn chọn con đƣờng thiện nêu trên, thì

ngƣời ấy sẽ rơi vào cái ác. Những ngƣời lựa chọn con đƣờng ở giữa là họa nhất,

vì họ không biết cách trở nên không hoàn toàn xấu xa hay hoàn toàn tốt đẹp” [6;

tr.566 – 567].

Machiavelli có một cái nhìn bi quan về con ngƣời và theo ông con ngƣời

có thiên hƣớng trở nên xấu xa, độc ác hơn là đến cái thiện. Vì vậy ngƣời chính

khách luôn cần phải biết rõ thực chất ấy, ngƣời chính khách không nên dựa vào

cái thiện để lãnh đạo thần dân mà phải khiến cho ngƣời dân luôn luôn sợ hãi họ.

Tuy nhiên để là một quốc vƣơng lí tƣởng thì ngƣời đó không chỉ khiến cho

ngƣời dân sợ hãi mình mà còn phải khiến cho ngƣời dân yêu mến mình, đó mới

là một quân vƣơng giỏi. Nhƣng một quân vƣơng khó có thể để ngƣời dân vừa

yêu mến vừa sợ hãi mình, thƣờng thì quân vƣơng chỉ có thể chọn một trong hai

đức tính này. Và theo Machiavelli thì quân vƣơng nên để mọi ngƣời sở hãi mình

hơn là yêu mến mình.

Phẩm giá này đƣợc Machiavelli đề cập đến nhƣ là một đức hạnh của quốc

vƣơng. Đức hạnh mà Machiavelli đề cập đến ở đây là đức hạnh trong chính trị

chứ không phải là đức hạnh theo nghĩa cua Kitô giáo. “Ông sử dụng thuật ngữ

này theo truyền thống Hy Lạp cổ – arete theo nghĩa tự nhiên chủ nghĩa, không

có quan niệm thần linh chủ nghĩa về arete nhƣ “khôn ngoan” vốn đặc trƣng cho

Platon, Aristotes, Socrates. Thực ra là nó gần gũi với thuật ngữ “arete” ở một số

31

nhà ngụy biện. Machiavelli đã rút ra từ nó một số hệ quả cực đoan. Đức hạnh là

sức mạnh và sức khoẻ, là sự ranh mãnh và nghị lực, là khả năng tiên đoán, lập

kế hoạch, cƣỡng chế; nó là ý chí mạnh mẽ nhất. Cai trị con ngƣời là sự lãnh

đạm, sự bất trung, sự hám lợi, sự điên rồ, sự trở mặt trong chủ ý; sự không biết

kiềm chế, sự không biết hy sinh nhằm đạt tới mục đích; một cái vẫy tay của nhà

cầm quyền cũng đủ làm cho trật tự bị phá huỷ, thần dân loại bỏ nó, quay trở

mặt, phản bội. Theo truyền thống chính trị trung cổ, đa số ngƣời tội lỗi đều căm

thù mọi cái thần thánh, hoàn toàn tuân thủ quyền lực thế tục, phiến loạn và quốc

vƣơng tàn bạo” [6; tr.567 – 568].

Khác với các nhà triết học trƣớc đó Machiavelli có cái nhìn độc đáo về

mối quan hệ giữa chính trị và đạo đức. Theo quan điểm của Platon thì các giá trị

đạo đức phụ thuộc vào đặc điểm của linh hồn. Platon mô tả linh hồn có ba phần:

Lí trí, cảm tính, dục vọng. Mỗi phần của linh hồn sẽ có phẩm hạnh riêng biệt. và

Platon đã chia con ngƣời trong xã hội ra làm ba cấp theo từng phần của linh hồn

và kèm theo nó là đức hạnh phù hợp với họ. Tầng lớp những ngƣời lao động,

nông dân, thƣơng gia, thợ thủ công họ là những ngƣời cần đến đức hạnh ôn hòa

hay sự kiềm chế. Tầng lớp chiến binh, họ là những ngƣời bảo vệ quốc gia vì thế

đức hạnh mà họ cần đến là lòng dũng cảm. Tầng lớp cao nhất là những ngƣời sở

hữu “nghệ thuật làm vua”, đức hạnh phù hợp với họ nhất đó chính là sự thông

thái. Và đức hạnh chung của tất cả mọi ngƣời là chính nghĩa, duy trì công lý.

Nhà nƣớc lý tƣởng có sự phân công tổ chức dựa theo tài năng và phần linh hồn

nổi trội của mỗi ngƣời. Và theo ông trong nhà nƣớc lý tƣởng nếu ngƣời sở hữu

phần linh hồn lí trí nào có tài năng, đức hạnh vƣợt trội hơn các thành viên khác

thì đều có thể trở thành ngƣời lãnh đạo nhà nƣớc lý tƣởng. Theo đó ta có thể

thấy theo Platon thì những hoạt động trị vì của một vị quân vƣơng đều dựa trên

phẩm hạnh sẵn có dựa vào linh hồn của mỗi ngƣời, là khuôn mẫu sãn có trong

cộng đồng, một ngƣời có thể trở thành quân vƣơng chỉ vì ngƣời đó vƣợt trội

hơn mà thôi.

Aistotle thấy con ngƣời vừa là sinh vật tƣ duy vừa là sinh vật chính trị.

32

Ông cho rằng luân lí và chính trị có liên kết chặt chẽ với nhau, và một ngƣời

sống thật sự đạo đức chỉ khi ngƣời đó tham gia vào chính trị. “Nhiệm vụ của

đạo đức là tác động thuận lợi tới hạnh phúc của xã hội, còn chính trị là khoa học

nghệ thuật mƣu cầu hạnh phúc cho xã hội. Theo ông, đạo đức phải phục tùng

chính trị, bởi chính trị là khoa học “rƣờng mối” quyết định tính chất và mội

dung của đạo đức. Đạo đức học sẽ không có nội dung nếu nó không hòa lẫn với

chính trị và pháp chế. Ông lập luận cho một nhà nƣớc đƣợc cai trị dựa trên bản

tính ngƣời, những nhu cầu, đặc điểm, khát vọng vốn có của con ngƣời” [7;

tr.50]. Đạo đức và chính trị theo Aristotle là không thể tách rời, đạo đức và

chính trị giúp con ngƣời đạt tới hạnh phúc, con ngƣời cần phải rèn luyện đạo

đức ngay từ khi còn ở trong quá trình mang thai. Vì vậy ông phê phán Platon

trong việc thủ tiêu gia đình và chế độ tƣ hữu vì nó làm mất đi bản tính ngƣời và

điều đó không thể thực hiện đƣợc. Aistotle coi cái thiện là mục đích hành động

của mỗi con ngƣời. Ông xem xét cái thiện trên nhiều phƣơng diện khác nhau và

theo ông để xây dựng một đời sống tốt, sống thiện thì mỗi công dân cần có đức

hạnh. Đức hạnh vừa là nếp sống, thói quen, cũng nhƣ dựa vào ý chí để xác định

cái thiện và tuân thủ, làm theo nó, tránh những diều ác. Để con ngƣời có đức

hạnh thì cần đến chính trị học. Chính vì vậy theo Aristotle đạo đức học và chính

trị học có mối quan hệ mật thiết không thể tách rời.

Một ngƣời nữa luận giải mối liên hệ giữa đạo đức học và chính trị chính

là Kant. Đạo đức học của Kant đề cao đến sự tự trị cá nhân, không phụ thuộc

vào bất cứ thứ gì. Con ngƣời tuân thủ luật pháp do chính bản thân mình đặt ra,

mỗi ngƣời tự đặt ra luật pháp, quy tắc cho chính bản thân mình và phải chấp

hành nó. “Kant cho rằng chính trị là cái răn dạy con ngƣời về phúc lợi tối cao,

còn đạo đức là con đƣờng đúng đắn để đạo đức đạt tới phúc lợi ấy. Những xung

khắc giữa chính trị và đạo đức trên thực tế đƣợc chế định bởi khát vọng vị kỉ về

lợi ích riêng của những cá nhân riêng biệt và của các quốc gia. Nhƣng khi thực

hiện hành vi đạo đức phù hợp với yêu cầu của „mệnh lệnh tuyệt đối‟ (nguyên

33

tắc đạo đức mang tính phổ biến và tất yếu), lý tính thực tiễn thuần túy không thể

theo đuổi mục đích vật chất. Từ đó, có thể suy ra rằng, các quyết định chính trị

hợp lý cần phải xuất phát không phải từ phúc lợi của một dân tộc nào đó, mà

phải xuất phát từ việc có tính đến bổn phận pháp lý thuần túy” [7; tr.51]. Mặc

dù đạo đức học và chính trị học của Kant đƣợc xem nhƣ là hai lĩnh vực độc lập

với nhau nhƣng giữa chúng có mối quan hệ rất mật thiết với nhau, cả hai đều đề

cập đến vấn đề tự do. Tuy nhiên nếu nếu đạo đức học giải thích tự do là gì, con

ngƣời có tự do hay không, hƣớng con ngƣời sống có đạo đức thì triết học pháp

quyền của Kant lại giải thích tự do do đâu mà có và làm thế nào để con ngƣời

có thể đảm bảo quyền tự do đó. Kant cho rằng nguyên tắc tối cao của đạo đức là

sự tự trị của ý chí, và sự tự trị của ý chí chính là tự do, vì vậy một hành vi xuất

phát từ sự tự trị của ý chí cũng chính hành vi tự do và là cơ sở của phẩm giá con

ngƣời. Phẩm giá con ngƣời - đó là một trong những nội dung cơ bản của đạo

đức mà nguyên tắc của nó là: “Hãy hành động nhƣ thể anh cần nhân loại, trong

bản thân anh cũng nhƣ trong mỗi một con ngƣời, mọi là mục đích, chứ không

bao giờ chỉ là phƣơng tiện”. Thông qua khái niệm về sự tự trị của ý chí, tự do và

phẩm giá con ngƣời, Kant muốn khẳng định rằng con ngƣời là tự do, và tự do là

sự thể hiện phẩm giá con ngƣời. Nhƣng tự do có đƣợc từ đâu? Kant lập luận

rằng tự do có đƣợc từ quyền bẩm sinh (das angeborene Recht) và quyền do pháp

luật đem lại (das erworbene Recht)” [3; tr.20]. Qua đó ta có thể thấy rõ đạo đức

học và triết học pháp quyền của Kant có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ

sung, giải thích cho nhau, khó có thể tách rời.

Hay là ở Phƣơng Đông nơi mà ta có thể thấy rõ nhất mối quan hệ mật

thiết, gắn bó giữa đạo đức và chính trị. Ở phƣơng Đông nền quân chủ đƣợc duy

trì hàng nghìn năm, việc dùng đạo đức để cai trị đất nƣớc là điều luôn xảy ra

trong hầu hết các triều đại. Những quốc gia phƣơng Đông coi vai trò của đạo

đức trong chính trị là vô cùng to lớn. Các vị quân vƣơng đề cao tƣ tƣởng “Lấy

34

đức trị dân”. Các tƣ tƣởng đạo đức của Nho giáo tồn tại lâu đời trong bộ máy

chính quyền phƣơng Đông. Các hành vi đạo đức có vai trò điều chỉnh các hành

vi chính trị. Mọi quân vƣơng luôn đề cao chữ “Đức”.

Qua đó có thể thấy có rất nhiều các tƣ tƣởng của các triết gia khác nhau

đều cho rằng chính trị và đạo đức có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tuy mỗi

thời điểm lịch sử lại có những quan điểm khác nhau về các giá trị đạo đức

nhƣng về cơ bản các phẩm chất đạo đức lại đƣợc tồn lại lâu dài nhƣ lòng yêu

thƣơng con ngƣời, từ bi, dũng cảm,… Tuy nhiên các giá trị đạo đức ở phƣơng

diện bản thể luận khác với các giá trị đạo đức ở phƣơng diện chính trị. Các giá

trị đạo đức dù ở một thời điểm nào cũng cần đƣợc xem nhƣ là một phƣơng pháp

hữu dụng trong cai trị.

Tuy nhiên Machiavelli có cái nhìn hoàn toàn khác biệt với các nhà tƣ

tƣởng trƣớc đó và cả sau này. Theo Ông chính trị và đạo đức nên độc lập, tách

biệt với nhau, không nên can thiệp vào nhau. Đạo đức là công việc của xã hội

công dân, của trách nhiệm cá nhân, còn chính trị là lĩnh vực đối kháng giữa các

lợi ích, các nhóm ngƣời cầm quyền. Machiavelli đã làm đƣợc điều mà các nhà

tƣ tƣởng trƣớc đó chƣa làm dƣợc, đó là ông đã tách chính trị ra khỏi sự giám

sát, kìm kẹp của tôn giáo và đạo đức. Ông đặt chính trị ra riêng biệt không lẫn

vào với các lĩnh vực khác, trung tâm của chính trị là chính trị, các phƣơng thức,

phƣơng tiện để đạt đƣợc mục đích chính trị chứ không phải là tôn giáo hay đạo

đức là trung tâm của chính trị. Trong tác phẩm “Quân vƣơng”, ông khẳng định

chính trị cần phải tính đến trạng thái cụ thể của đạo đức xã hội. Khi xã hội trở

lên rối ren, hỗn loạn thì quân vƣơng có thể sử dụng mọi phƣơng tiện, kể cả các

phƣơng tiện vô đạo đức, để giải thoát xã hội, đƣa xã hội trở lại trật tự của nó.

“Nhƣ vậy, Machiavelli giữ lại đạo đức nhƣ là cái điều tiết đời sống riêng

tƣ của các chính khách, cũng nhƣ mục đích tốt đẹp là cái biện minh cho những

phƣơng tiện vô đạo đức để đạt tới nó. Do vậy, sẽ là sai lầm nếu coi ông là ngƣời

biện minh cho sự tách rời hoàn toàn chính trị khỏi đạo đức. Mƣu toan giải

35

phóng chính trị khỏi đạo đức, đặt nó ra ngoài cái thiện và cái ác thƣờng đƣợc

thực hiện để biện minh cho những hành vi phản nhân văn hay ít nhất thì cũng

đƣa chính trị thoát khỏi sự phê phán. Trên thực tế, chúng dẫn tới sự can thiệp

của chính trị vào lĩnh vực đạo đức và tới sự phá hủy đạo đức” [6; tr.570]. Chính

mối quan hệ giữa chính trị và đạo đức đã buộc Machiavelli giải quyết mối quan

hệ giữa phƣơng tiện và mục đích. Sự ảnh hƣởng của mục đích và phƣơng tiện

đến kết quả từ lâu đã có nhiều đánh giá khác nhau. “Có thể tách biệt ba quan

điểm cơ bản về vấn đề này: 1) tính chất đạo đức của chính trị đƣợc quy định bởi

mục đích của nó; 2) phƣơng tiện sử dụng có ảnh hƣởng hàng đầu đến ý nghĩa

đạo đức của nó; 3) cả mục đích lẫn phƣơng tiện điều quan trọng nhƣ nhau đối

với việc đem lại cho chính trị tính chất nhân đạo, chính chúng cần phải tƣơng

dung với nhau và với bối cảnh cụ thể” [6; tr.570].

Machiavelli là ngƣời bảo vệ cho cách tiếp cận thứ nhất. Quan niệm nổi

tiếng của Machiavelli đó là mục đích biện minh cho phƣơng tiện. Có thể sử

dụng những phƣơng tiện vô đạo đức để dạt đƣợc mục đích tốt đẹp, nhƣ trong tác

phẩm “Quân vƣơng” ông có ghi “vua chúa không nên ngại mang tiếng độc ác,

miễn là giữ cho thần dân đoàn kết và trung thành”. Một quân vƣơng có thể sử

dụng những biện pháp dã man, vô đạo đức để có thể là cho thần dân trung thành

và đoàn kết lại. Theo ông một bạo quân có thể làm đất nƣớc ổn định còn nhân

từ hơn là một vị vua hiền mà làm đất nƣớc rối ren. Machavelli đã lấy kì tích của

tƣớng Hannibal để làm rõ hơn luận điểm của mình “trong những kì tích của

Hannibal có ghi lại việc này: Chỉ huy một đạo quân đông đảo gồm nhiều sắc tộc

đi chinh chiến ở những miền đất lạ, ông không hề gặp chuyện bất đồng nội bộ

hay chống đối nào, bất kể thời vận may rủi. Nguyên nhân chính là do sự tàn bạo

vô nhân đạo của Hannibal; điều này, với lòng can đảm phi thƣởng của ông,

khiến binh sĩ nể trọng và kinh sợ, nhƣng nếu không có tính tàn độc đó thì các

năng lực khác của ông không đủ sức gây tác dụng. Đám văn nhân thiển cận một

mặt tán dƣơng sự nghiệp của Hannabal, nhƣng mặt khác lại lên án cái yếu tố

36

chính đã tạo nên những thành tựu ấy” [11; tr.91]. Tƣớng Hannabal đã dùng

chính sự tàn bạo của mình làm cho tƣớng lĩnh và nhân dân kính sợ, phục tùng

ông, giúp ông lãnh đạo đƣợc đội quân chinh chiến ở nhiều vùng đất lạ. Mục

đích của Hannabal là đoàn kết đƣợc đội quân của mình dù cho ông dùng cách

cực đoan nhất đó là dùng sự tàn bạo của mình, làm cho mọi ngƣời sợ ông, điều

này hoàn toàn có thể chấp nhận đƣợc.

Có nhiều chính khách sau này dựa vào những mục đích cao cả để che lấp

đi những hành vi chính trị vô đạo đức của mình. Những chính khách dựa vào

những mục đích vĩ đại để gây ra chiến tranh, khủng bố,… nhƣng thực chất

những mục đích ấy chỉ để che lấp đi những tham vọng chính trị của kẻ tạo ra

chúng. Những kẻ này luôn hứa hẹn sẽ cho dân tộc mình hạnh phúc, trở thành

những ngƣời cao quý nhất,… Nhƣng những mục đích vĩ đại ấy chỉ để cho nhân

dân hi sinh bản thân mình để thỏa mãn tham vọng của kẻ đề ra.

Ta có thể thấy Machavelli tách chính trị ra độc lập, khi làm chính trị con

ngƣời ta không còn quan tâm đến đạo đức hay tôn giáo. Chính trị học của

Machiavelli không ƣu tiên đƣờng lối “Đức trị” nhƣ nhiều nhà tƣ tƣởng đi trƣớc.

Ông không tin vào việc dùng đạo đức có thể khiến thần dân đoàn kết lại, giữ sự

ổn định và làm một quốc gia có thể phát triển. Hiện thực châu Âu cũng nhƣ ở

Italia thời này đã cho thấy sự bất lực của nhà nƣớc và nhà thờ khi mãi giơ cao

khẩu hiệu thực hiện, và làm theo Chúa. Tuy nhiên “Machiavelli không phải là

kẻ vô đạo, càng không phải kẻ vô đạo đức, nham hiểm mà chỉ là con ngƣời với

trí tuệ sắc sảo này nhận thấy sự không tƣơng xứng giữa dân chúng với mƣu cầu

vô hạn vốn sẵng sàng đẩy con ngƣời tới sự tàn ác, tham lam, bạo động, vô đạo,

một loại „nhân dân quỷ giữ‟ với những phƣơng tiện „hiền lành‟ nhƣ các phẩm

hạnh truyền thống” [7; tr.51]. Machiavelli còn nhận thấy giáo hội lợi dụng đạo

đức để củng cố quyền lực của mình. Giáo hội lúc bấy giờ không chỉ là truyền

đạt lại ý của Chúa, dăn dạy con ngƣời làm theo Chúa, thờ phụng Chúa mà Giáo

hội giờ đây đã tham gia cả vào việc quản lí xã hội, tham gia vào sự điều hành

37

của nhà nƣớc, một lĩnh vực của chính trị, của quyền lực.

Tƣ tƣởng này của Machiavelli có nét tƣơng đồng với Hàn Phi Tử một

triết gia ngƣời Trung Quốc. “Trong lịch sử tƣ tƣởng Trung Quốc, các phƣơng

pháp “bình thiên hạ” ban đầu dựa trên đức trị, căn cứ trên những quan điểm tâm

lý học tinh tế của các nhà tƣ tƣởng. Nhƣng từ thời Xuân Thu - Chiến Quốc, khi

chế độ quý tộc sụp đổ, chế độ tập quyền xuất hiện, quân quyền dần đƣợc xem

trọng. Ngƣời dân dần dần có đƣợc tự do, quan hệ giữa con ngƣời ngày càng

phức tạp và mang tính trung gian hóa. Do vậy phƣơng pháp lấy ngƣời trị ngƣời

trƣớc kia trở nên ít hiệu quả, luật pháp bắt đầu đƣợc sử dụng nhƣ công cụ cai

quản xã hội chủ yếu. Phái Pháp gia luận chứng cho xu hƣớng về mặt lý luận.

Trong pháp gia có ba phái: trọng thế, trọng thuật và trọng pháp. Hàn Phi Tử là

ngƣời tổng hợp cả ba phái này. Hàn Phi Tử rất coi trọng việc quan sát và thấu

hiểu bản tính con ngƣời để có biện pháp cai trị tốt nhất. Ông cho rằng tâm lý

con ngƣời vốn thích thƣởng sợ phạt, chạy theo lợi và né tránh hại, tính ngƣời là

ác, có thiên hƣớng trục lợi, tính toán tƣ lợi trong quan hệ với nhau, vì vậy Hàn

Phi tử chống lại quan điểm của Nho gia lấy đức để dẫn dắt dân và lấy lễ để sửa

họ. Dùng pháp, thuật, thế thì đất nƣớc thịnh, và ông coi đây là nguyên tắc bắt

buộc” [7; tr.57]. Tƣ tƣởng này của Hàn Phi Tử và Machiavelli đều cho rẳng con

ngƣời sợ cái ác, tránh hại tìm lợi vì thế khi làm chính trị ngƣời ta có thể sử dụng

bất cứ biện pháp nào dù là biện pháp tàn bạo nhất.

Đạo đức mà Machiavelli đang nhắc đến là ở khía cạnh phụ thuộc vào

chính trị. Ngƣời cai trị có thể sử dụng nó, hoặc bác bỏ nó tùy vào ý muốn của

ngƣời cai trị. Đạo đức ở đây có thể hiểu là thuật trị nƣớc, nó phụ thuộc hoàn

toàn vào chính trị, vào ngƣời sử dụng nó. Theo Machiavelli một quân vƣơng

không cần có đủ tất cả những phẩm chất cần có mà chỉ cần giả vờ nhƣ mình có

đủ những phẩm chất đấy. Đó đều là những biện pháp chính trị có thể sử dụng

khi cai trị. Machiavelli không coi thƣờng hay bác bỏ đạo đức mà ông muốn

chấm dứt tình trạng hỗn loạn đƣơng thời, khi giáo hội đã can thiệp quá nhiều

vào chính trị. Vì vậy khi đề cập đến các phẩm chất nên có ở một Quân vƣơng

38

ông đã đề cập đến “sùng đạo” và cho rằng một quân vƣơng cần phải “ra vẻ nhƣ

có đức tính sùng đạo”, với một giọng đầy giễu cợt. Đối với Machiavelli việc

quan tâm nhất của chính trị là duy trì quyền lực, mà lòng tốt không đảm bảo

quyền lực và lòng tốt cũng không làm cho con ngƣời ta đƣợc nhiều quyền lực

hơn. Vì vậy đạo đức không giúp cho con ngƣời ta giữ đƣợc quyền lực mà để

giữ đƣợc quyền lực thì phải dựa vào ngƣời cai trị những kinh nghiệm, biện pháp

của ngƣời lãnh đạo.

Machiavelli cũng khẳng định chính trị phải loại bỏ những ảnh hƣởng của

đạo đức, bỏ ngoài tai những đánh giá về đạo đức và thay vào đó là những biện

pháp để đạt đƣợc mục đích chính trị. “Machiavelli sử dụng các khái niệm về

đức hạnh để chỉ phạm vi của phẩm chất cá nhân mà các quân vƣơng sẽ thấy nó

cần thiết để có đƣợc để "duy trì trạng thái của mình" và để "đạt đƣợc những

điều tốt đẹp", hai dấu hiệu tiêu chuẩn của sức mạnh cho anh ta. Một điều phũ

phàng là rõ ràng không thể có tƣơng đƣơng giữa các nhân đức thông thƣờng và

xảo quyệt. Machiavelli hy vọng quân vƣơng, vốn đƣợc coi là ngƣời có đức hạnh

cao nhất, khi tình hình đòi hỏi, có khả năng hành xử theo một cách hoàn toàn

ác” [7; tr.61]. Vì theo Machiavelli con ngƣời thƣờng hay vô ơn, thay đổi, giả

tạo, lừa dối, tránh né hiểm nguy, và hám lợi. Khi quân vƣơng hành động vì lợi

ích của họ, họ là của ngài, họ cống hiến cho quân vƣơng máu của họ, tài sản của

họ, cuộc sống của họ và con trai của họ. Nhƣng đó là khi nguy hiểm còn ở xa.

Khi nguy hiểm cận kề quân vƣơng, họ sẽ trở mặt. Đó chính là lí do quân vƣơng

có thể tráo trở khi cần thiết, có thể sử dụng cái ác nếu cần. Tuy nhiên

Machiavelli không phủ định hoàn toàn đạo đức trong chính trị, mà ông chỉ phủ

định đạo đức lúc quân vƣơng cần giữ quyền lực của mình và răn đe mọi ngƣời.

Lúc không cần sử dụng cái ác thì quân vƣơng nên giữ vững phẩm chất cần có

của một quân vƣơng hay nói cách khác là giả vờ nhƣ mình có đầy đủ phẩm chất

của một quân vƣơng.

Chính trị là thứ không thể cai trị đƣợc bằng tôn giáo, một quân vƣơng

39

không thể dựa vào tôn giáo mà có thể trở thành một quân vƣơng giỏi. Vì vậy

Machiavelli xây dựng những các nguyên tắc đạo đức hoàn toàn đối lập với Kitô

giáo truyền thống. Trong chính trị ông phân biệt rạch ròi giữa mục tiêu thực tiễn

và các phẩm chất đạo đức. Bởi theo ông hành động của con ngƣời rất khó để có

thể phán xử công bằng vì vậy chỉ có kết quả mới là cái đáng để quan tâm, là cơ

sở để đánh giá.

2.2. Cái nhìn của N.Machiavelli về bản tính con ngƣời

Sự ảnh hƣởng của giáo hội và nhà thờ ở Tây Âu thời Trung cổ là vô cùng

mạnh mẽ. Bất cứ việc gì, bất cứ hoàn cảnh nào con ngƣời cũng nhờ đến Chúa,

cũng hi vọng vào Chúa. Khi con ngƣời làm nhiều điều ác họ đến trƣớc Chúa để

xƣng tội với mong muốn Chúa sẽ giảm nhẹ hay xóa bỏ tội ác mà họ đã gây ra.

Con ngƣời sợ sự trừng phạt của Chúa vì vậy con ngƣời cũng hạn chế mình ở

nhiều mặt, sống thiện hơn với mong ƣớc sau khi chết đi mình có thể đƣợc Chúa

đƣa lên thiên đàng. Con ngƣời tin rằng chỉ có khi đƣợc lên thiên đàng ngƣời ta

mới đƣợc sống mãi mãi, và đó mới là cuộc sống chân thực của con ngƣời. Cuộc

sống ở trần thế của con ngƣời đầy rẫy những đau khổ, tội ác, dối trá, chỉ là cuộc

sống tạm bợ. Giáo hội đã truyền bá những tƣ tƣởng này vào mỗi ngƣời đân, lợi

dụng đức tin của họ để tham gia vào chính trị và giữ vai trò quan trọng trong bộ

máy chính trị. Những lời dạy, khuyên răn của Chúa đã bị biến chất bởi mục đích

của con ngƣời.

Khi có càng nhiều nghi ngờ về “nƣớc Trời” mà nhà thờ luôn tuyên

truyền, có nhiều những nhà tƣ tƣởng đƣa ra những tƣ tƣởng mới xuất hiện thì

đây là lúc báo hiệu thời kì Trung cổ đang lụi tàn và nhƣờng chỗ cho một thời kì

mới. Thời kì Phục hƣng xuất hiện nhƣ một ánh sáng rọi xuống màn đêm u tối,

ánh sáng của văn minh, ánh sáng của tri thức soi xuống “đêm trƣờng Trung cổ”

và ngày càng tỏa ra mọi nơi. Bầu không khí rực rỡ mở ra một “thời đại hoàng

kim” cho con ngƣời. Trƣớc đây khi tƣ duy của con ngƣời bị kìm kẹp bởi những

giáo lí của giáo hội, các tƣ tƣởng, sáng tạo không phù hợp với nhà thờ đều bị

40

cấm và khép tội. Thì giờ đây con ngƣời đƣa những sáng tạo vƣợt lên khỏi

những ngăn cấm của nhà thờ, lồng ghép khéo léo vào văn chƣơng, hội họa,

nghệ thuật. Hay trƣớc đây con ngƣời luôn hƣớng về những điều đẹp đẽ ở nƣớc

trời thì giờ đây con ngƣời hƣớng về cuộc sống nơi trần thế, cuộc sống hiện thực

của con ngƣời. Con ngƣời muốn khôi phục lại những giá trị đã bị lãng quên của

thời cổ đại.

Con ngƣời giải phóng mình ra khỏi những hạn chế của tôn giáo, không

ngừng sáng tạo. Nhƣng nhiều khi con ngƣời giải phóng bản thân một cách thái

quá, họ giải phóng cả tham vọng của cá nhân. Những thói hƣ tật xấu, sự đảo lộn

các giá trị đạo đức làm cho xã hội trở lên rối loạn. Mọi năng lực của con ngƣời

đƣợc tự do phát huy nhƣng ngƣời ta lại chƣa nghĩ đến việc kiềm chế những điều

không tốt cho xã hội. Con ngƣời vì đạt đƣợc mục đích của mình đã bất chất mọi

thứ, con ngƣời nhờ đến quyền lực, tiền bạc để thỏa mãn dục vọng cá nhân.

Cũng chính tiền bạc, quyền lực đã chi phối xã hội, chi phối sự công bằng. Chính

Sếchxpia thông qua “Timông ở Aten” cũng đã phải thốt lên: “Vàng! Vàng kim,

vàng óng ánh, vàng quý giá!… Chỉ bấy nhiêu đã đổi trắng thay đen, biến xấu

thành đẹp, biến bất công thành công bằng, hèn hạ thành cao quý, già thành trẻ,

khiếp nhƣợc thành dũng cảm. Hỡi thần linh bất tử, cái ấy là gì? Cái ấy là cái

khiến cho linh mục và đệ tử của ngài làm ngơ trƣớc bàn thờ của ngài… Tên nô

lệ màu vàng ấy xây dựng và phá hủy tôn giáo của ngài, làm cho kẻ độc ác đƣợc

hƣởng phƣớc lành, làm cho ngƣời ta tôn sùng những gì ghê tởm nhất, đặt kẻ

trộm cắp lên ghế thƣợng nghị sĩ, ban chức tƣớc danh vọng cho chúng và làm

cho chúng đƣợc mọi ngƣời quỵ lụy” [12; tr.288].

Machiavelli đã nhìn thấy đƣợc tình hình rối loạn lúc đó. Ông thấy đƣợc

các vị linh mục dùng tôn giáo để can thiệp vào chính trị. Ông đã phê phán

những vị linh mục và giáo hội “đã làm cho chúng ta thành những ngƣời không

tôn giáo và xấu xa… thánh hóa những ngƣời tầm thƣờng và những ngƣời trầm

tƣ, đã đặt cái thiện tối cao vào sự hạ mình… trong khi tôn giáo cổ đại lại đặt cái

41

thiện tối cao đó vào sự cao thƣợng của tâm hồn” [8; tr.46 – 47].

Machiavelli đã đi theo chủ nghĩa hiện thực về chính trị. Ông tìm hiểu mọi

việc xảy ra trong thực tế. Nói cách khác, cần xem xét quốc vƣơng xử xự nhƣ thế

nào đối với thần dân và liên minh. Điều này cũng đƣợc ông đề cập đến trong tác

phẩm Quân vƣơng. Ông tìm hiểu những gì có trong thực tế mà không phải

những gì tƣởng tƣợng ra. Nhƣ những linh mục thì quân vƣơng là ngƣời đƣợc

chúa lựa chọn, đại diện cho Chúa, họ hành động theo những nguyên tắc của

giáo hội, tất cả là vận mệnh do Chúa sắp đặt. Nhƣng những gì xảy ra lại hoàn

toàn trái ngƣợc, “vận mệnh chỉ làm chủ một nửa các hành động của chúng ta,

nửa còn lại – hay có lẽ ít hơn một chút – là do ta định đoạt” [11; tr.122]. Vì vậy

những quân vƣơng nào chỉ chú ý đến Chúa, đến những luân lí, nguyên tắc của

giáo hội thì đều phải trả giá đắt, thậm chí đánh mất vƣơng quốc của mình. Và vị

vua nào chỉ phụ thuộc vào vận mệnh sẽ thất bại khi vận mệnh thay đổi.

Machiavelli đã nhìn thấy rõ điều đó vì vậy ông muốn nhấn mạnh rằng những gì

xảy ra trong thực tế khác xa xo với những gì mà con ngƣời tƣởng tƣợng ra, nhƣ

trong các “nhà nƣớc lí tƣởng” mà một số triết gia và giáo hội đƣa ra.

Machavelli có cái nhìn bi quan về con ngƣời, ông nhận định trong tác

phẩm quân vƣơng “con ngƣời nói chung thƣờng vô ơn, bất nhất, giảo trá, hèn

nhát, tham lam” [11; tr.89]. Theo ông con ngƣời tự thân nó là không tốt, không

xấu nhƣng con ngƣời lại có thiên hƣớng là trở nên xấu xa. Con ngƣời quan tâm

đến tài sản của mình hơn là quan tâm đến danh dự, lƣơng tâm của mình. Do thói

ích kỉ của con ngƣời nên việc thành lập nhà nƣớc là điều tất yếu, nhà nƣớc

thành lập, ban hành ra luật pháp, một phần cũng là để kìm hãm thói ích kỉ đó

của con ngƣời, đƣa con ngƣời về những chuẩn mực cần thiết. Machiavelli chỉ ra

rằng nhà nƣớc thực chất do con ngƣời tạo ra và không có bàn tay của Chúa

trong việc hình thành nó. Ông đã tách nhà nƣớc ra khỏi thần học. Machiavelli

không chối bỏ những luân lí trong tôn giáo. Nhƣng ở phƣơng diện đạo đức của

Kitô giáo, khi nó nằm trong những tăng lữ tham mê quyền lực thì nó không còn

đóng vai trò kích thích đạo đức của quần chúng nhân dân nữa. Ông cũng cho

42

rằng những tƣ tƣởng đạo đức đó đã lỗi thời không còn hù hợp với hiện tại nữa.

Nó khuyên ngƣời ta sống nhẫn nhục, né tránh cuộc sống nơi trần thế, luôn

hƣớng đến một cuộc sống trên thiên đàng, một cuộc sống mà chƣa ai đƣợc nhìn

thấy.

Con ngƣời là ích kỉ, tham lam, hám lợi, hèn nhát, vô ơn. “Chừng nào ta

còn thành công thì họ hoàn toàn thuộc về ta, họ sẵn sàng dâng xƣơng máu, tài

sản, tính mệnh, và con cái cho ta, nhƣ đã nói trên, khi ta không có nhu cầu cần

kíp. Nhƣng đến lúc ta thực sự cần tới, họ lại quay lƣng” [11; tr.89]. Trong chính

trị thì Machiavelli nhấn mạnh quân vƣơng không nên ngại mang tiếng độc ác, vì

“lòng sợ hãi của họ thì lại bảo vệ đƣợc quân vƣơng vì ai ai cũng lo sẽ bị trừng

phạt” [11; tr.89], và theo ông con ngƣời ta nên để ngƣời khác sợ hơn là đƣợc

mọi ngƣời yêu mến, vì nó sẽ làm cho ta an toàn hơn. Vì vậy machiavelli luôn

đặt quyền lực và an ninh lên hàng đầu. Ông viết: “Quân vƣơng thì chỉ có một

mục đích, một quan tâm, một chuyên chú duy nhất là binh pháp và kỉ cƣơng

quân ngũ; đó là thuật trị quốc và chính là năng lực không những giúp cho các

quân vƣơng dòng dõi bảo vệ quyền lực, mà còn có thể giúp cho kẻ thƣờng dân

lên ngôi vua chúa” [11; tr.78].

Do bản tính con ngƣời là xấu xa do vậy con ngƣời vì để đạt đƣợc mục

đích của mình, các quân vƣơng không đƣợc ngại trở nên xấu xa, độc ác, hay

không ngần ngại sử dụng các biến pháp cực đoan, độc ác. Miễn là quân vƣơng

phải làm khéo léo, tô màu cho bản thân trở thành một ngƣời có tất cả những

phẩm chất nên có của một quân vƣơng, quân vƣơng cần phải tráo trở khi cần

thiết. Machiavelli nhấn mạnh: “việc sống thế nào khác xa với việc sống phải thế

nào, do đó ai xao lãng những việc cần làm vì những việc phải làm thì chả mấy

chốc sẽ tự tiêu vong chứ không thể vững bền trƣờng cửu. Nếu ngƣời ta cứ

khăng khăng luôn luôn giữ cách cƣ xử hoàn toàn đạo đức thì chẳng mấy chốc ta

sẽ bị tiêu diệt giữa đám đông mà đa số đều bất hảo.Vua chúa nào muốn giữ

vững địa vị thì cần phải biết cách làm điều sai trái; và có sử dụng những phƣơng

43

cách đó hay không là tùy theo nhu cầu” [11; tr.80].

Machavelli đƣa ra các quan điểm về con ngƣời trên cơ sở thực tế. Chính

các dữ liệu lịch sử cùng với bối cảnh Italia lúc bấy giờ đã làm cho ông có cái

nhìn bi quan về con ngƣời. Ông xuất phát từ cuộc sống hiện thực của con ngƣời,

xem con ngƣời tự thân nó là không tốt, không xấu, nhƣng con ngƣời có thiên

hƣớng trở nên xấu xa. Vì vậy quân vƣơng không thể dựa vào điều tốt đẹp trong

con ngƣời mà phải dựa vào sự xấu xa của con ngƣời để có những hành động,

biện pháp cho phù hợp.

2.3. Bản tính ngƣời thể hiện trong phẩm chất quân vƣơng

Nhận thức đƣợc tình hình chính trị lúc bấy giờ Machiavelli cho rằng con

ngƣời phải hội đủ sức mạnh của cả cáo và sƣ tử thì mới có thể thay đổi đƣợc xã

hội, mở ra một tƣơng lai tƣơi sáng cho Italia. Ông nhìn thấy đƣợc hình mẫu ấy

trong Cesare Borgia. Trong tác phẩm “Quân vƣơng” ông đã ca ngợi Cesare

Borgia hết lời, lấy nhiều minh chứng và xem Cesare Borgia là tấm gƣơng mà

các bậc quân vƣơng nên học tập. “Năm 1502, N.Machavelli đƣợc cử đi sứ tại

triều đình của Cesare Borgia, và đúng nhƣ Nevins đã bình luận, N.Machiavelli

“đã thán phục Borgia hết sức khi thấy nhà độc tài này đã khéo léo áp dụng sự

thận trọng và sự táo bạo, lời nói ngọt ngào mà hành động lại đẫm máu, lạnh

lùng trí trá nhƣ thế nào và giả dối ra sao, lúc khủng bố để khuất phục thiên hạ

thì tàn nhẫn đến mức độ nào, cả khi áp dụng chế độ độc tài để kìm kẹp một tiểu

quốc thì hiệu quả ra sao”. Nhờ sử dụng sự phản trắc, độc ác và bội tín, Cesare

đã thành công rực rỡ” [8; tr.58]. Ở Cesare, Machiavelli đã thấy đƣợc một con

ngƣời hội tụ đủ sức mạnh của cáo và sƣ tử. Cesare khôn ngoan nhƣ cáo và dũng

mãnh nhƣ sƣ tử vì vậy ông sẽ là ngƣời thành công nhất. Một ngƣời nhƣ Cesare

có thể làm cho tình hình Italia trở nên ổn định hơn.

Việc đƣa Cerase Borgia trở thành hình mẫu lí tƣởng cho các bậc quân

vƣơng học tập của Machiavelli khác hẳn với những hình mẫu quân vƣơng trƣớc

đó. Trƣớc đây hình mẫu của một quân vƣơng luôn phải nhân từ, đức độ, chứ

không phải là một vị quân vƣơng tàn bạo nhƣ Cesare Borgia. Nhƣng

44

Machiavelli không mong muốn một chế độ quân phiệt, hay tạo ra một bạo quân

tàn ác mà theo ông một vị quân vƣơng nhân từ không còn phù hợp với tình hình

hiện nay. Bản tính con ngƣời vốn là tham lam, ích kỉ vì vậy với tình hình hiện

nay một vị quân vƣơng nhân từ thì khó có thể kiểm soát đƣợc họ, vì vậy cần

phải có một hình mẫu quân vƣơng mới có đủ sức mạnh có thể thay đổi xã hội

tiến tới giải phóng Italia. Để có thể giải phóng đƣợc Italia thì cần có một hình

tƣợng quân vƣơng mới và cần xác định những chuẩn mực, luân lí mới cho hình

tƣợng này. Để có thể xác định đƣợc những chuẩn mực mới, đầu tiên

Machiavelli tách chính trị ra độc lập và khi nó độc lập thì nó cũng có những

chuẩn mực riêng của mình.

Đức hạnh mà một quốc vƣơng cần có chính là sức mạnh, ý chí kiên

cƣờng vƣợt qua mọi thử thách, mọi đàm tiếu, sự tinh ranh mà nhƣ loài cáo.

Quân vƣơng muốn giữ đƣợc quyền lực cần phải biết khƣớc từ cái thiện, sử dụng

những kĩ năng ấy khi cần thiết. “Quân vƣơng luôn phải đấu tranh với những

căng thẳng của nội tâm. Đối với đời sống công, nếu các phẩm chất công dân

không phát triển trong nhân dân và tình trạng vô chính phủ gia tăng thì quân

vƣơng có quyền sử dụng mọi phƣơng tiện kể cả các phƣơng tiện vô đạo đức, để

giải thoát xã hội. Nhƣng trong cuộc sống riêng tƣ quân vƣơng phải có nghĩa vụ

phục tùng những chuẩn tắc phổ biến. Nó chính là cái điều tiết đời sống riêng tƣ

của các chính khách cũng nhƣ mục đích tốt đẹp biện minh cho những phƣơng

tiện vô đạo đức để đạt tới nó” [8; tr60]. Machiavelli không tách rời hoàn toàn

chính trị ra khỏi đạo đức mà ông chỉ tách chính trị ra độc lập. Các bậc quân

vƣơng xƣa nay đều bị ràng buộc với các chuẩn mực đạo đức, nhƣng với tình

hình xã hội hiện nay ông muốn các quân vƣơng có thể hành động mà không cần

quan tâm đến các chuẩn mực ấy mà chỉ cần quan tâm đến mục tiêu cuối cùng là

bảo vệ đƣợc quốc gia. Vì mục đích này nên quân vƣơng có thể sử dụng mọi

phƣơng pháp để thực hiện. Machiavelli viết: “Không ai phán xử công bằng hành

động của con ngƣời, nhất là của bậc quân vƣơng, nên chỉ kết quả cuối cùng mới

45

là đáng quan tâm” [10; tr.139].

Machiavelli luôn cho rằng mục đích biện minh cho phƣơng tiện. Ông cho

rằng để thực hiện một mục đích tốt đẹp thì dù quá trình có sử dụng bất cứ

phƣơng tiện gì, kể cả các phƣơng tiện vô đạo đức thì cũng có thể, cái ta cần

quan tâm chính là kết quả chứ không phải quá trình. Quân vƣơng không cần

quan tâm đến những lời chỉ trích về sự tàn bạo của mình vì “chỉ cần một vài

điển hình ra tay tàn bạo, bậc quân vƣơng thực chất đã nhân từ hơn những kẻ

bằng những hành động quá mức khoan dung lại để cho trật tự rối loạn rồi sau đó

nạn cƣớp của giết ngƣời xảy ra. Những biến cố này thƣờng gây thiệt hại cho

toàn thể dân chúng, còn những cuộc hành hình theo lệnh quân vƣơng chỉ đụng

chạm đến những cá nhân mà thôi” [11; tr.88]. Vì vậy theo ông dù cho quân

vƣơng sử dụng bất cứ phƣơng tiện tàn ác nào thì cũng chỉ nhằm mục đích giữ

ổn định cho cộng đồng mà thôi.

Quân vƣơng là ngƣời ở địa vị cao vì vậy bất cứ việc làm gì của họ cũng

bị mọi ngƣời chú ý và đánh giá. Vì vậy “ngƣời này nổi danh hào phóng, kẻ khác

lại khét tiếng hà tiện, theo cách nói của ngƣời Tusscany (theo ngôn ngữ của

chúng tôi ngƣời tham lam là ngƣời muốn sở hữu bằng cách cƣớp đoạt, còn

ngƣời hà tiện là kẻ tự tƣớc đoạt quyền sử dụng tài sản của chính mình); có

ngƣời rộng lƣợng, có kẻ tham tàn; rồi độc ác và nhân từ; rồi phản bội và trung

thành, rồi nhu nhƣợc đớn hèn và gan lì dũng cảm; rồi nhã nhặn và kiêu căng; rồi

dâm tà và thanh bạch; rồi chân thành và xảo trá; rồi khắt khe và mềm mỏng; rồi

nghiêm nghị và bông lơn; rồi sùng đạo và vô thần, và những tính cách tƣơng tự”

[11; tr.80]. Tuy nhiên một quân vƣơng rất khó để có đủ tất cả những đức tính tốt

đẹp trên vì vậy ông chỉ cần khôn ngoan để tránh những điều làm cho nƣớc mất

nhà tan là đƣợc. Còn những tật xấu chƣa chắc đã là có hại, nhiều điều xấu lại có

thể làm cho quốc gia an toàn. Một quân vƣơng cũng nhƣ một ngƣời nào đó

không thể có đủ tất cả những phẩm chất tốt đƣợc vì vậy chúng ta chỉ cần thể

hiện rằng có đầy đủ những phẩm chất tốt là đƣợc, điều này có thể tránh những

46

đánh giá không hay từ mọi ngƣời.

2.3.1. Hào phóng và hà tiện

Với những phẩm chất quân vƣơng nên có mà Machiavelli đã liệt kê thì

một quân vƣơng nên nổi tiếng là hà tiện hơn là hào phóng. Nếu một quân vƣơng

muốn mình nổi tiếng là một ngƣời hào phóng thì quân vƣơng đó phải có cuộc

sống xa hoa, những bữa tiệc linh đình, phô trƣơng sự giàu có của mình. Nhƣng

nếu vậy thì tài sản một thời gian dài cũng sẽ hết, lúc đó quân vƣơng chỉ còn

cách lấy từ dân chúng bằng cách sử dụng sƣu cao thuế nặng. Lâu ngày sẽ khiến

dân chúng kinh ghét bất mãn, có thể dẫn đến mất nƣớc. Vì vậy một quân vƣơng

hào phóng thì kẻ đƣợc hƣởng thì ít mà ngƣời thiệt hại thì nhiều. Cũng nhƣ con

ngƣời nếu hào phóng, hoang phí thì dù giàu có thì cũng có lúc tiêu hết tài sản,

sau đó sẽ nghĩ đến những việc trộm cắp, cƣớp đoạt để thỏa mãn thói quen của

mình.

Nếu một ngƣời hay một quân vƣơng khôn ngoan thì sẽ không ngại mang

tiếng hà tiện. Bởi vì hà tiện thì sẽ làm cho tài sản của mình dồi dào hơn, không

bóc lột ngƣời khác, lâu dần mọi ngƣời sẽ trở nên yêu quý mình. Machiavelli đã

đƣa ra những minh chứng cho sự thất bại của quân vƣơng nổi tiếng là hào

phóng, đó là giáo hoàng Julius II. Giáo hoàng Julius nổi danh là hào phóng, mọi

điều không có quá nhiều tác hại cho đến khi ngài gây chiến với vua Pháp thì

mọi chuyện lại đi theo một chiều hƣớng khác. Vì không có đủ tiền để chi trả cho

chiến tranh ông đã bắt nhân dân mình phải chịu thêm nhiều loại thuế, điều đó

gây bất mãn trong lòng nhân dân có thể dẫn đến việc mất nƣớc. Vì vậy hào

phóng không giúp nhà vua có thể giữ đƣợc nƣớc. Là một quân vƣơng thì không

nên ngại mang tiếng hà tiện, hà tiện nhƣng không bóc lột nhân dân, không lâm

vào cảnh túng thiếu, có khả năng tự vệ thì đây là một tật xấu giúp vua trị nƣớc.

Nhƣng cũng có vị quân vƣơng giành đƣợc quốc gia nhờ tiếng hào phóng

của mình. Tuy nhiên đây chỉ là trƣờng hợp khi ngƣời đó đã là vua hoặc sắp lên

ngôi vua mà thôi. Với những ngƣời đã lên ngôi vua mà vẫn muốn giữa tiếng hào

phóng thì theo Machiavelli còn là nguy hiểm, vị vua nay rất có thể sẽ lâm vào

47

cảnh túng thiếu, bóc lột nhân dân. Còn những ngƣời sắp lên ngôi vua thì cần

phải gây tiếng tăm hào phóng nhƣng nếu sau này vẫn luôn giữa tiếng hào phóng

đấy thì đây cũng sẽ là điều nguy hiểm.

Cũng có trƣờng hợp quân vƣơng cần phải hào phóng. Đó là những ngƣời

đi theo nghiệp binh. Một là họ sẽ sử dụng tiền của mình hoặc của những ngƣời

ủng hộ mình, với trƣờng hợp này thì quân vƣơng cần phải hà tiện nếu không

muốn tài sản cạn kiệt đi. Hai là tài sản có đƣợc trong quá trính chinh phạt nhờ

cƣớp bóc, tịch thu tài sản của kẻ khác, trƣờng hợp này quân vƣơng cần hào

phóng chia chiến lợi phẩm của mình cho cận thần thì mới đƣợc họ tin phục, hết

lòng vì mình. Điều này sẽ tạo nên danh tiếng cho quân vƣơng. Là bậc quân

vƣơng thì không bao giờ để mình bị khinh miệt và oán ghét, mà tính hào phóng

dễ dàng đƣa ta tới sự khinh miệt và oán ghét hơn. Vì vậy là một quân vƣơng

khôn ngoan thì nên giữa cho mình tính hà tiện “vậy khôn ngoan hơn hết thì cứ

chịu mang tính bần tiện để bị chê bai mà không bị oán ghét, còn hơn buộc phải

kiếm danh hào phóng để rồi phải mang tiếng nhục tham tàn khiến mọi ngƣời

oán ghét chê bai” [11; tr.87].

2.3.2. Độc ác và nhân từ

Bất cứ vị quân vƣơng nào cũng mong đƣợc nổi danh là nhân từ. Nhƣng

không lên nhân từ ở mọi thời điểm. Có trƣờng hợp bao dung là tốt nhƣng có khi

bao dung lại gây ra nhiều hậu quả khôn lƣờng. Nhiều khi sự tàn bạo lại là tốt

hơn vì nhờ nó mà khôi phục trật tự cho xã hội. Vì vậy quân vƣơng không nên

ngại mang tiếng độc ác, chỉ cần giữ cho đất nƣớc ổn định. Bản tính con ngƣời

vốn sợ kẻ ác vì vậy quân vƣơng chỉ cần một vài hành động ra tay tàn bạo là có

thể giữ ổn định cho xã hội còn hơn những vị vua nổi tiếng nhân từ nhƣng lại để

cho xã hội rối ren, nhân dân sống trong khổ cực, nạn cƣớp bóc, giết ngƣời xảy

ra gây ảnh hƣởng cho toàn bộ dân chúng. Còn những vị vua ra tay tàn bạo thì

những hình phạt đó chỉ dành cho một số ngƣời mà thôi. Nhƣng đối với những vị

tân vƣơng thì nên tránh mang tiếng độc ác, vì những quốc gia mới lập luôn đầy

nguy hiểm, nếu tân vƣơng mang tiếng độc ác thì các thế lực thù địch rất dễ sẽ

48

lấy cớ đó để xâm chiếm vƣơng quốc.

Quân vƣơng nên khiến dân yêu mến hay sợ hãi. Machiavelli cho rằng

quân vƣơng nên có cả hai. Nhƣng rất khó có thể dung hòa đƣợc cả hai điều này,

vì vậy quân vƣơng vẫn nên khiến mọi ngƣời sợ hãi hơn là yêu mến vì điều này

sẽ an toàn cho quân vƣơng hơn.

Tuy nhiên vua chúa phải biết gây sợ hãi một cách đúng mức để cho mình

dù không đƣợc nhân dân yêu mến thì cũng không bị nhân dân oán ghét. Để làm

đƣợc điều đó thì có hai thứ mà quân vƣơng tuyệt đối không đƣợc động đến, đó

là tài sản và thế thiếp của nhân dân. Con ngƣời “có thể mau quên cái chết của

cha mình chứ không quên tài sản đã mất mát” [11; tr.91]. Là quân vƣơng nếu

không độc ác thì có bao nhiêu năng lực khác cũng không đủ. Đặc biệt đối với

quân đội của nhà vua. Nếu quá nhân từ thì binh lính sẽ phá vỡ kỉ luật, mà đối

với quân lính thì kỉ luật chính là thứ quan trọng nhất. Quân vƣơng phải độc ác

mới có thể khiến mọi ngƣời sợ không phá vỡ kỉ luật, làm cho mọi thứ ổn định

theo ý muốn của mình. Con ngƣời “chỉ có thể đãi ngộ hoặc trấn áp, bởi họ chỉ

biết rửa hận nhỏ mà không dám báo thù lớn; cho nên một khi phải gây hại cho

ai thì phải ra tay tàn bạo cho sợ không dám đáp trả” [11; tr.25].

Machiavelli cho rằng: “Con ngƣời yêu mến vua là do ý muốn của họ, còn

sợ vua là do ý muốn của vua”, tuy vậy quân vƣơng chỉ cần khiến ngƣời khác e

sợ mình chứ tuyệt đối không nên để ngƣời khác thù ghét mình. Để sự tàn bạo

của quân vƣơng không bị nhân dân thù ghét thì ngƣời cầm quyền cũng phải có

biện pháp “Sự tàn bạo mà vận dụng tốt, nếu nhƣ ta có thể nói nhƣ thế về những

điều ác, là những thủ đoạn chỉ cần ra tay một lần đúng lúc cần thiết cho sự an

toàn của mình chứ không tái diễn trừ phi việc này có thể mang lại lợi ích cho

thần dân. Sự tàn bạo mà vận dụng kém là những thủ đoạn khi bắt đầu ra tay thì

thƣa thớt nhƣng theo thời gian trở nên khốc liệt chứ không giảm bớt. Ngƣời biết

vận dụng tốt sự tàn bạo có thể sẽ đƣợc nhƣ Agathocles, cải thiện phần nào uy

danh trƣớc Chúa trời và thiên hạ. Còn ngƣời vận dụng kém sự tàn bạo vô

phƣơng giữ đƣợc vị thế” [11; tr.58]. Cần phải thực hiện hết những biện pháp răn

49

đe tàn bạo một lƣợt để tránh việc phải lặp lại từng ngày. “Làm nhƣ vậy mới

không gây xáo trộn, trấn an đƣợc dân chúng, và thu phục họ theo mình bằng ân

huệ ban phát. Ai làm khác đi, do e dè hay do nghe lời quân sƣ kém, thì buộc

phải luôn thủ sẵn dao găm; kẻ ấy chẳng thể nào tin cậy đƣợc thần dân mà thần

dân cũng không thể hết lòng phò vua vì họ phải chịu đối xử bất công triền miên.

Bởi đã dùng đên các kế sách hãm hại thì phải ra tay tàn độc luôn một lần cho

xong, để dân chúng phải nếm trải sự tàn bạo càng chóng vánh thì càng ít phẫn

uất; còn ân huệ thì phải ban phát từng chút một để dƣ vị còn đọng lại lâu dài”

[11; tr.58]. Khi bậc quân vƣơng muốn trừng phạt một ai đó để răn đe thì phải

thật nhanh chóng, quyết liệt, để cho dân chúng có thể sợ mình, nhƣng cũng

không nên thƣờng xuyên sử sụng kế sách tàn độc này. Vì nếu sử dụng thƣờng

xuyên quân vƣơng sẽ bị mang tiếng là tàn nhẫn độc ác, sẽ bị dân chúng khinh

ghét. Còn khi quân vƣơng muốn ban ân huệ cho một ai đó thì phải ban phát

từng chút từng chút một để cho dân chúng có thể thƣờng xuyên nhớ đến ân huệ

của mình, cảm thấy quân vƣơng là một ngƣời nhân từ, độ lƣợng. Sự tàn bạo nhƣ

một con dao hai lƣỡi, nó có thể khiến cho quân vƣơng giữa đƣợc địa vị của

mình nhƣng nó cũng có thể khiến quân vƣơng đánh mất địa vị mà mình đã có

đƣợc. Vì vậy khi sử dụng quân vƣơng luôn phải nhất quán trong chính sách của

mình và khôn ngoan khi sử dụng những chính sách này để không bị dân chúng

thù ghét.

2.3.3. Chữ tín của quân vƣơng

Trong những phẩm chất tốt đẹp mà một quân vƣơng nên có Machiavelli

cho rằng một quân vƣơng có thể giữa chữ tín thất là tốt đẹp, đáng đƣợc ngợi ca.

Tuy nhiên với những gì ông thấy đƣợc trong chính trong thời đại, chính xã hội

mà ông đang sống lại cho thấy một điều hoàn toàn khác. Những ngƣời thành

công, giành đƣợc thắng lợi, có đƣợc địa vị, giành đƣợc mọi thứ lại là những

ngƣời không xem trọng lời hứa, đều là những ngƣời mƣu mô. Giữ chữ tín là

một điều đáng khen ngợi nhƣng ông cho rằng trong chính trị việc bội tín lại là

điều có thể tha thứ, “vua chúa nào khôn ngoan thì không thể mà cũng không nên

50

giữa chữ tín khi việc làm đúng lời hứa có hại cho mình, hoặc khi lí do để hứa

hẹn không còn tồn tại. Nếu con ngƣời hoàn toàn tốt đẹp thì lời khuyên bảo này

không có giá trị, nhƣng vì thiên hạ vốn xấu xa và họ đâu có giữ chữ tín với

mình, vậy ta đâu bắt buộc phải giữa chữ tín với họ. Mà đã là vua chúa thì không

thiếu lí do để biện bạch cho những lời thất hứa” [11; tr.92]. Một trong những lí

do có thể tha thứ cho việc thất hứa của nhà vua đó là do bản tính vốn xấu xa, ích

kỉ của con ngƣời. Con ngƣời cũng không giữ lời hứa của mình vì vậy nếu quân

vƣơng cứ cố giữ lời hứa của mình thì điều bất lợi có thể đến với quân vƣơng.

Điều đó chƣa đủ để quân vƣơng giành quyền lực: “Quân vƣơng ắt phải

biết có hai cách tranh đoạt, một dựa vào luật pháp, một dựa vào sức mạnh; cách

thứ nhất hợp với con ngƣời, cách thứ hai hợp với thú vật, nhƣng vì cách thứ

nhất thƣờng không đủ hiệu lực nên phải dùng đến cách thứ hai. Cho nên là vua

chúa thì phải biết tận dụng cả hai cách… khi đã buộc phải hành xử nhƣ thú vật

thì vua chúa phải vừa là cáo vừa là sƣ tử” [11; tr.92]. Machiavelli luôn nhấn

mạnh quân vƣơng phải vừa nhƣ cáo và sƣ tử. Phải vận dụng đƣợc sự dũng

mạnh của sƣ tử để chiến thắng những kẻ nhƣ loài sói luôn “nhăm nhe” địa vị

của mình và phải nhƣ cáo để có thể tinh ranh tránh đƣợc mọi cạm bẫy của kẻ

thù. Nếu ai chỉ muốn làm sƣ tử hay chỉ muốn làm loài cáo thì không đủ để giữ

địa vị của mình.

Tuy nhiên nhà vua cần phải khéo léo che dấu tính cách này của mình,

phải giả vờ nhƣ mình không có tính cách này thì mới có thể làm cho dân chúng

yêu mến. Con ngƣời luôn ngây thơ tin vào những diều mình thấy đƣợc vì thế

muốn lừa gạt là rất đơn giản. Ngƣời càng thất hứa nhiều thì có thể thành công

càng nhiều nhƣ giáo hoàng Alexander VI chỉ toàn lừa thiên hạ, “Alexander nói

mà không làm – Cesare làm mà không nói”. Chính vì Alexander VI chỉ toàn lừa

thiên hạ, ông hứa những lời hứa hùng hồn và cũng thất hứa rất nhều lần nên ông

rất thành công có thể lữa đƣợc rất nhiều ngƣời và lời lừa gạt của ông cũng luôn

thành công.

Bậc quân vƣơng luôn phải giả vờ là mình có đủ các đức tính nhƣ rộng

51

lƣợng, nhân từ, dũng cảm, giữ lời hứa,… Tuy nhiên họ cần phải tráo trở bất cứ

lúc nào. Còn với những ngƣời có đủ tất cả những đức tính đó thì chỉ có hại cho

chính bản thân họ. Machiavelli nhận thấy “đã là bậc quân vƣơng thì không đƣợc

lỡ lời nói những điều không bao hàm năm phẩm chất đã nều trên, phải làm cho

ngƣời nghe kẻ thấy luôn tƣởng mình rất mực khoan dung, trung nghĩa, nhân từ,

liêm chính và ngoan đạo” [11; tr.98]. Machiavelli luôn nhấn mạnh các bậc quân

vƣơng phải tỏ ra mình là ngƣơi sùng đạo, bởi lẽ con ngƣời thƣờng phán xét

bằng mắt và họ chỉ nhìn thấy vua nhƣng ít ai có thể tiếp xúc gần với vua nên ít

ngƣời có thể hiểu rõ vua là ngƣời nhƣ thế nào. Vì vậy nếu vua tỏ ra là một ngời

sùng đạo sẽ dễ đƣợc nhân dân yêu mến hơn. Machiavelli đã nhận thấy sức mạnh

của tôn giáo trong các hoạt động chính trị và đã sử dụng tôn giáo nhƣ phƣơng

tiện của chính trị.

Mục đích cuối cùng của Quân vƣơng là giữa đƣợc địa vị, ngai vàng của

mình, vì thế bất cứ phƣơng tiện nào có thể sử dụng đƣợc để hoàn thành mục

đích đấy thì quân vƣơng đều có thể sử dụng đƣợc kể là sự tráo trở.

2.3.4 Tránh để ngƣời khinh miệt và oán ghét

Ngoài những tính cách của quân vƣơng nêu ở phần trên, Machiavelli còn

nói đến các tính cách khác. Đối với quân vƣơng, ngài cần tránh đừng để cho

ngƣời khinh miệt, tránh đƣợc điều đó thì quân vƣơng sẽ không sợ bị chê tránh

gì. Điều khiến quân vƣơng bị oán ghét và chê trách nhất là chiếm đoạt vợ của

thần tử, chiếm đoạt tài sản của ngƣời khác, đó là hai việc mà vua chúa cần tránh

nhất để khộng bị oán ghét.

Điều khiến vua chúa trở nên bị khinh miệt là “kẻ thất thƣờng, nhẹ dạ, nhu

nhƣợc, hèn hạ, không quả quyết; bậc quân vƣơng phải tránh xa những điều đó

nhƣ [con tàu] tránh đá ngầm; và trong hành động nên cố gắng thể hiện sự cao

cả, can trƣờng, uy phong, và kiên cƣờng” [11; tr.97]. Nếu quân vƣơng có thể

tránh đƣợc sự nhẹ dạ, nhu nhƣợc,… và có thể tạo đƣợc hình ảnh tốt nhƣ vậy thì

sẽ đƣợc mọi ngƣời quý trọng, mà đã đƣợc mọi ngƣời quý trọng thì sẽ có thể

52

giũa đƣợc địa vị của mình.

Để giữa đƣợc địa vị của mình thì vua chúa luôn có hai nỗi sợ. Trong nƣớc

thì sợ phản loạn, bên ngoài thì sợ các thế lực ngoại xâm. Muốn chống đƣợc

ngoại xâm thì cần có quân đội mạnh, giữ đƣợc ổn định biên cƣơng thì trong

nƣớc mới đƣợc yên ổn. Khi biên cƣơng bất ổn vua chúa chỉ sợ trong nƣớc mƣu

phản. Vì vậy để tránh đƣợc điều đó nhà vua làm sao để đùng bị khinh ghét. Nếu

nhà vua giữ đƣợc lòng của dân chúng thì kẻ rắp tâm mƣu phản sẽ gặp nhiều khó

khăn. Kẻ mƣu phản chỉ có thể thành công nếu có nhiều ngƣời có cũng bất mãn

với họ vì vậy vua đừng để cho nhân dân bất mãn, thù địch với mình. Các quốc

gia có trật tự ổn định là các quốc gia mà nhà vua luôn biết thỏa mãn nguyện

vọng của dân chúng và không đẩy giới quý tộc vào đƣờng cùng.

Nhƣng để thỏa mãn tất cả mọi ngƣời là điều vô cùng khó khăn đối với

nhà vua “dân chúng thì yêu chuộng hòa bình và vì thế họ quý mến những vị vua

không tham vọng, trong khi binh sĩ lại thích những vị vua hiếu chiến, gan lì, độc

ác, và tham tàn – những tính chất mà đám binh sĩ rất muốn vua thể hiện với dân

chúng để đám này đƣợc hƣởng lợi và thỏa lòng tham lam, độc ác” [11; tr.101].

Nhà vua không thể thoa mãn cả hai thế lực này. Nhƣng vì thƣờng chỉ có thể

chọn một trong hai vì vậy nhà vua thƣờng chọn thỏa mãn binh lính vì họ là

những thế lực quan trọng của quốc gia. Làm vua thì không thể tránh đƣợc việc

sẽ có ngƣời oán ghét mình, vua chúa vì thế ngay từ đầu cố gắng để cho mọi

ngƣời không oán ghét mình, và nếu không đƣợc thì quân vƣơng phải cố gắng

không để cho phe cánh hùng mạnh nhất ghét mình. Machiavelli khẳng định:

“bậc quân vƣơng mà muốn giữa vững vƣơng quyền thì nhiều khi buộc phải làm

điều ác” [11; tr.102].

2.4. Thời cơ và vận mệnh

Trong tác phẩm Quân vƣơng Machiavelli đề cập rất nhiều đến chính trị,

đến việc giành chính quyền, đặc biệt là ông đề cập đến vận mệnh của mỗi

ngƣời. Theo ông vận mệnh rất quan trọng đối với mỗi ngƣời. Theo Machiavelli

thì một ngƣời dân thƣờng nếu trở thành vua thì cũng nhờ năng lực hay vận

53

mệnh cả. Tuy nhiên nếu một quân vƣơng lên ngôi bằng vận mệnh tuy thăng tiến

nhanh, nhƣng khi nên đến đỉnh cao rồi thì sẽ có nhiều nan đề cần giải quyết, và

lúc bấy giờ thì vận mệnh lại không giúp đƣợc nhiều mà lại cần nhờ đến năng

lực của quân vƣơng. Ngƣời lên ngôi nhờ năng lực thì sẽ dễ dàng giữ đƣợc địa vị

của mình hơn ngƣời lên ngôi bằng vận mệnh.

Ngoài ra quân vƣơng còn có thể lên ngôi nhờ sự ủng hộ của thƣờng dân

hoặc của giới quý tộc. Tùy theo thời cơ mà vƣơng quyền sẽ do nhóm thƣờng

dân hay nhóm quý tộc thiết lập. “Khi thấy không kháng cự đƣợc áp lực của dân

chúng, giới quý tộc chọn lấy một ngƣời trong bọn, ca tụng tâng bốc rồi tôn lên

làm vua để về sau núp bóng mà thỏa mãn tham vọng. Còn giới thƣờng dân khi

thấy không kháng cự đƣợc giới quý tộc, họ cũng chọn lấy một ngƣời trong bọn,

ca tụng tâng bốc rồi tôn lên làm vua để đƣợc bảo vệ dƣới quyền” [11; tr.59].

Những quân vƣơng lên ngôi bằng sự hậu thuẫn của giới quý tộc sẽ khó giữ đƣợc

địa vị hơn là quân vƣơng lên ngôi do sự ủng hộ của dân chúng. Vì khi có biến

cố xảy ra quân vƣơng không thể giữ đƣợc ngôi báu trƣớc sự thù đich của đông

đảo dân chúng, nhƣng quân vƣơng lại có thể bảo toàn trƣớc số quý tộc ít ỏi. Khi

bị dân chúng thù nghịch thì điều tệ hại nhất là toàn dân từ bỏ vua nhƣng với vị

vua lên ngôi báu nhờ quý tộc thì khác điều tệ hại nhất lại là giới quý tộc sẽ đƣa

một ngƣời khác lên thay vị vua đó. Cho nên ai có thể lên ngôi nhờ dân chúng thì

phải biết duy trì lòng dân, tránh bị dân chúng thù ghét. Còn ai lên ngôi nhờ quý

tộc thì phải biết thu phục lòng dân để dân chúng ủng hộ mình, bởi vì “con ngƣời

một khi đƣợc hƣởng ân huệ từ những kẻ mình cho là ác nghiệt thì lại càng cảm

kích kẻ ban ơn hơn nhiều, và sẽ càng nhanh chóng phò vua này hết lòng hơn cả

một vị vua đƣợc dân cử” [11; tr.60].

Machiavelli nhận rõ niềm tin của con ngƣời thời kì này vào Chúa và số

mệnh, không ai có thể thay đổi đƣợc vận mệnh. Do đó nhiều ngƣời buông bỏ

cho số phận mặc may rủi. Tuy nhiên Machiavelli lại cho rằng: “Vận mệnh chỉ

làm chủ một nửa các hành động của chúng ta, nửa còn lại – hay có lẽ ít hơn một

chút – là do ta định đoạt” [11; tr.122]. Ông không phủ nhận sự tồn tại của vận

54

mệnh, nhƣng vận mệnh không quyết định tất cả cuộc sống của con ngƣời, mà

vận mệnh chỉ quyết định một nửa cuộc sống và một phần còn lại là do sự cố

gắng, nỗ lực của con ngƣời quyết định.

Machiavelli ví vận mệnh nhƣ “một dòng sông cuồng nộ, gặp mùa lũ sẽ

tràn ngập đồng bằng, cuốn phăng nhà cửa cây cối, mang đất từ nơi này sang nơi

khác; tất cả đều cuốn chạy trƣớc dòng nƣớc, tất cả đều buông xuôi trƣớc sức

mạnh dữ dội của nó, không thể nào chống cự. Do tính chất của con sông là vậy,

cho nên khi thời tiết tốt đẹp trở lại, con ngƣời ai lại không dự phòng mà không

xây đê điều; để đến mùa nƣớc dâng cao, dòng sông sẽ theo đê điều ấy mà chảy,

không còn mặc sức gây nguy hiểm nữa” [11; tr.122]. Vận mệnh đến và không ai

có quyền kháng cự, nhƣng con ngƣời có thể chuẩn bị cho các tình hƣớng bất

ngờ mà vận mệnh mang đến sau. Còn nếu cứ buông xuôi theo vận mệnh thì con

ngƣời sẽ bị vận mệnh cuốn đi, không biết sẽ nhƣ thế nào và đi về đâu. Nếu có

sự chuẩn bị con ngƣời có thể chống lại phần nào đó vận mệnh. Con ngƣời phải

biết thay đổi theo tình hình biến đổi, nếu không có thể dẫn đến sự tiêu vong.

Con ngƣời xƣa nay làm bất cứ việc gì cũng vì lợi và danh nhƣng mỗi

ngƣời lại đạt đƣợc mục đích bằng nhiều phƣơng pháp khác nhau. Tuy nhiên lại

có ngƣời thành công, có ngƣời thất bại. Điều đó phụ thuộc vào phƣơng pháp mà

họ sử dụng có hợp thời thế không. Vận mệnh biến đổi không ngừng nhƣng con

ngƣời lại không thay đổi phƣơng pháp, phƣơng tiện trƣớc thời thế. Vì vậy khi

thời thế và phƣơng pháp, phƣơng tiện của con ngƣời phù hợp thì họ sẽ thành

công nhƣng nếu hai điều này không phù hợp với nhau thì con ngƣời sẽ thất bại.

Cũng nhƣ một vị quân vƣơng cai trị đất nƣớc bằng sự nhân từ, trong thời kì đất

nƣớc còn thái bình thì mọi chuyện diễn ra đều ổn thỏa, mọi ngƣời đều yên vui.

Nhƣng khi có chiến tranh xảy ra nếu vị vua ấy không thay đổi, không trở nên

độc ác hơn thì đất nƣớc sẽ có thể gặp nguy nan, ảnh hƣởng đến dân chúng và

quân vƣơng khi này có thể bị mọi ngƣời khinh ghét.

Các quân vƣơng thƣờng noi theo các tấm gƣơng của nhƣng ngƣời đi

trƣớc. Nhƣng nếu hoàn toàn đi theo đƣờng lối cũ thì các bậc quân vƣơng cũng

55

không thể đi đúng đƣờng lối mà các bậc tiền nhân đã đi theo để giành thắng lợi.

Cho nên “ngƣời khôn ngoan thì sẽ noi theo những tấm gƣơng xuất sắc nhất, để

ngộ nhỡ năng lực của mình không bằng bậc tiền nhân thì chí ít cũng nếm trải ít

uy danh” [11; tr.40]. Machiavelli có nhắc đến “ngƣời khôn ngoan”, ta có thể

hiểu ở đây ông muốn nói đến những ngƣời tài trí, ngƣời có năng lực. Theo ông,

ngƣời khôn ngoan là ngƣời có tài trí, có tầm nhìn xa, có thể nắm bắt đƣợc thời

cơ; “thời cơ đem đến cho họ những chất liệu cần thiết để có thể hiện thực hóa

các ƣớc vọng. Nếu không có thời cơ, tài trí của họ có thể đã bị uổng phí nhƣng

nếu không có tài trí thì thời cơ cũng chỉ là vô nghĩa” [10; tr.64]. Machiavelli

xem xét thời cơ trong mối quan hệ biện chứng với tài trí, tài trí là cơ sở để nhận

biết thời cơ, có thể hành động hợp với thời cơ, tài trí cũng có thể giúp quân

vƣơng thận trọng, kiên nhẫn chờ thời cơ đến.

Con ngƣời xƣa nay làm gì cũng đều nhắm đến kết quả là lợi và danh

nhƣng lại đạt mục đích bằng nhiều phƣơng cách khác nhau: ngƣời thận trọng,

kẻ hấp tấp, ngƣời dùng vũ lực, kẻ dùng tài khéo; có ngƣời kiên nhẫn, có kẻ nóng

nảy; mỗi ngƣời thành công mỗi cách. Ta cũng thấy có hai ngƣời đều cẩn trọng

cả nhƣng một ngƣời đạt mục đích, một ngƣời lại thất bại; có khi một ngƣời cẩn

trọng, một ngƣời nóng vội, hai cách hành động khác nhau thế mà cả hai đều

thành công. Tất cả đều là do phƣơng cách của họ có hợp thời thế hay không.

Con ngƣời muốn thành công thì phải biết nắm bắt thời thế, dù là ngƣời có tài trí

mà hành động không hợp thời thì cũng sẽ thất bại. Mỗi thời cơ cũng có những

phƣơng pháp sử dụng khác nhau để thành công. Ngƣời tài trí có thể tiên đoán

đƣợc nguy cơ có thể ập đến, họ sẽ biết làm gì để chỉnh đốn lại, để xóa bỏ nguy

cơ, còn với những ngƣời không dự đoán tai họa đƣợc để cho nguy cơ trở nên

ngày càng lớn, nó sẽ lớn tới mức mà ai cũng biết thì lúc đó sẽ hết đƣờng vãn

hồi. “Nhƣng chúng ta cũng không thể tìm đƣợc một ngƣời thận trọng đến mức

có thể tự điều chỉnh bản thân phù hợp với thời thế, bởi ông không thể đi chệch

khỏi thiên hƣớng bẩm sinh cũng nhƣ không thể bị thuyết phục rời bỏ con đƣờng

vẫn luôn đem lại danh vọng và của cải. Và bởi vậy, ngƣời cẩn trọng, khi thời cơ

56

đòi hỏi phải hành động một cách táo bạo mà không dám quyết đoán, tất yếu sẽ

bị hủy diệt, nhƣng nếu ông thay đổi theo thời thế thì số phận cũng sẽ chẳng đổi

thay” [10; tr.182].

Tuy nhiên ngƣời có vài trò quyết định trong việc quyết định đó là thời cơ

hay nguy cơ là chính quần chúng nhân dân. Vì vậy quân vƣơng nếu đƣợc quần

chúng yêu mến thì sẽ không sợ những âm mƣu. Nhƣng nếu quân vƣơng lại để

cho dân chúng thù ghét mình thì ông luôn phải dè chừng mọi ngƣời vì ông sẽ

không biết bất cứ lúc nào nguy cơ sẽ ập đến lúc nào, và sẽ không có ai có thể

giúp mình.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

Thông qua tác phẩm Quân vƣơng, Machiavelli đã cho ngƣời đọc thấy

đƣợc tƣ tƣởng khác biệt của ông. Tuy là một tác phẩm thiên về chính trị nhƣng

trong tác phẩm cũng có một phần không nhỏ những tử tƣởng đạo đức của

Machiavelli. Qua tác phẩm ngƣời đọc có thể thấy quan điểm vƣợt thời đại của

Machiavelli về mối quan hệ giữa chính trị và đạo đức, hay cách nhìn của ông về

phẩm chất cần có của một ngƣời quân vƣơng. Quân vƣơng cần phải có phẩm

chất đạo đức tốt nhƣng để làm đƣợc điều này thì rất khó. Vì vậy quân vƣơng chỉ

cần giả vờ nhƣ mình có đủ các phẩm chất đó là đƣợc. Machiavelli nêu ra các

đức tính mà quân vƣơng nên có theo các cặp phẩm chất trái ngƣợc nhau. Qua đó

Machiavelli đƣa ra quan niệm là một quân vƣơng thì cần phải khôn khéo nhƣ

loài cáo và dũng mãnh nhƣ sƣ tử. Tuy đây chỉ là các phẩm chất cần có của một

quân vƣơng nhƣng ta cũng có thể hiểu rộng ra đó là quan niệm của Machiavelli

về đạo đức của mỗi ngƣời trong xã hội. Ông nhận thấy bản tính con ngƣời là

tham lam, ích kỉ, bội tín,… vì vậy là con ngƣời phải cƣ xử với nhau khôn khéo

nhƣ loài cáo và dũng mãnh nhƣ sƣ tử nếu không muốn trở thành kẻ thua cuộc,

mất đi mọi thứ. Mỗi ngƣời đều có vận mệnh của riêng minh, nhƣng vận mệnh

không quyết đinh toàn bộ cuộc sống của con ngƣời. Con ngƣời có thể thay đổi

57

vận mệnh của mình dựa vào sự nỗ lực của bản thân.

KẾT LUẬN

Machiavelli là một nhà tử tƣởng điển hình cho thời kì Phục hƣng. Một

con ngƣời đầy hoài bão, một nhà chính trị tài năng. Bối cảnh phức tạp của châu

Âu thời kì Phục hƣng, của giai đoạn chuyển tiếp từ chế độ phong kiến lên chế

độ tƣ bản chủ nghĩa đã đặt ra nhiều vấn đề về cả thực tiễn lẫn lý luận. Với thực

trạng xã hội đƣơng thời khi mà giáo hội vẫn còn hạn chế nhiều hoạt động của

con ngƣời, một xã hội ảm đạm u tối, Machiavelli đã có cái nhìn hết sức bi quan

về con ngƣời và xã hội. Khi đất nƣớc Italia đang bị nhiều thế lực chia cắt, ông

nhân thấy cần có một ngƣời thủ lĩnh tài giỏi có thể thống nhất đƣợc đất nƣớc,

đƣa Italia trở thành một nhà nƣớc tập quyền thế tục mạnh mẽ, thủ tiêu chế độ

phong kiến.

Các tƣ tƣởng đạo đức không giữ vai trò trung tâm trong tác phẩm Quân

vƣơng nhƣng N.Machiavelli đã có nhƣng đóng góp nhất đinh về vấn đề này.

Tác phẩm viết ra vì một mục đích là giúp cho một ngƣời hùng dùng phƣơng

sách cứu dân Italia thoát khỏi tình hình chính trị thối nát lúc bấy giờ.

Machiavelli đã tách việc nghiên cứu lý luận chính trị khỏi các giáo điều là luân

lý tôn giáo dẫn đến sự hình thành khoa học chính trị.

Machiavelli nghiên cứu con ngƣời là con ngƣời hiện thực chứ không phải

là con ngƣời tƣởng tƣợng. Khi đặt con ngƣời trong cuộc sống hiện thực

Machiavelli nhận thấy các yếu tố lợi ích đặc biệt là lợi ích vật chất là yếu tố ảnh

hƣởng đến bản tính con ngƣời. N.Machiavelli đã xây dựng một khái niệm tƣơng

đối toàn diện về bản tính ngƣời “Con ngƣời thƣờng là hay vô ơn, hay thay đổi,

giả tạo, lừa dối, tránh né hiểm nguy, và hám lợi”. Cái nhìn bi quan về con ngƣời

khi cho rằng con ngƣời không tốt, không xấu nhƣng con ngƣời lại có xu hƣớng

58

trở nên xấu xa.

N.Machiavelli phát hiện ra rằng các phẩm chất đạo đức cần có của con

ngƣời thể hiện rõ nhất qua những phẩm chất của quân vƣơng. Ông đƣa ra hình

ảnh của một quân vƣơng mạnh mẽ, can đảm, thủ đoạn, mƣu mô, giả đạo đức,

tráo trở, ƣa bạo lực. Và cứu cánh duy nhất của quân vƣơng là mục đích biện

minh cho phƣơng tiện, chỉ cần quốc gia có thể ổn định, thịnh vƣợng thì quân

vƣơng có thể dùng mọi phƣơng tiện. Cai trị không thể dựa vào điều tốt đẹp

trong con ngƣời mà cần thừa nhận sự chiếm ƣu thế của điều xấu xa và hành

động phù hợp với thực tế ấy. Machiavelli đã “giảm tải” cho ngƣời lãnh đạo khỏi

việc phải xây dựng những đức tính đạo đức chuẩn mực vì nó tạo thành khó khăn

trong việc trị nƣớc. Trị nƣớc vốn rất khó khăn phức tạp trong khi đó thần dân thì

đày lòng tham, nhiều yêu cầu, khát vọng khác nhau, ngƣời lãnh đạo không thể

đáp ứng đƣợc hết nhu cầu của mọi ngƣời, vì vậy ngƣời quân vƣơng buộc phải

sử dụng những thủ đoạn để cho thần dân kìm hãm những nhu cầu này lại, để

cho đât nƣớc ổn định.

Tính chất thù địch của học thuyết Machiavelli đối với hệ tƣ tƣởng tôn

giáo - phong kiến đã làm cho học thuyết này đƣợc hƣởng ứng rộng rãi trong xã

hội lúc bấy giờ. Chính vì vậy Quân vƣơng đã nằm trong danh mục sách cấm của

giáo hội một thời gian dài. Những ngƣời theo Dòng tên đã nỗ lực bịa đặt ra

thuyết của Machiavelli là thuyết vô đạo đức. Một số học giả khác do không hiểu

rõ về các học thuyết của Machiavelli nên cũng có ý nghĩ nhƣ vậy. Vì vậy mà

một thời gian dài trong tâm trí mọi ngƣời trên khắp thế giới, tên tuổi của

Machiavelli đồng nghĩa với một con ngƣời thủ đoạn, phản phúc, xấu xa, độc ác

và đồi trụy. Ông bị coi là một chính khách đầy mƣu mô quỷ quyệt, đạo đức giả,

tráo trở, bất nhân. Machavelli không những tách chính trị ra độc lập với tôn giáo

mà thậm chí ông còn bắt tôn giáo phục vụ cho lợi ích chính trị, qua đó có thể

thấy rõ vai trò của chính trị trong đời sống. Có thể nói chính trị là nơi thể hiện

59

rõ nhất bản tính con ngƣời.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Arixtốt (2013), Chính trị luận, Nông Duy Trƣờng dịch và chú giải, Nxb

Thế giới, Hà Nội.

2. Robert B.Downs (2003), Những tác phẩm biến đổi thế giới, Hoài Châu và

Từ Huệ (dịch), Nxb Lao động Hà Nội .

3. Ngô Thị Mỹ Dung (2007), Mối quan hệ giữa triết học đạo đức và triết học

pháp quyền trong triết học Immanuel Kant, Tạp chí khoa học xã hội, Viện

khoa học xã hội vùng Nam Bộ, 05.

4. Nguyễn Tiến Dũng (2006), Lịch sử triết học Phƣơng Tây, Nxb Thành phố

Hồ Chí Minh.

5. Johannes Hischberger, Lịch sử triết học, tập 1, Nguyễn Quang Hƣng,

Nguyễn Chí Hiếu dịch.

6. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học phƣơng Tây, tập 1, Nxb Chính trị

Quốc gia.

7. Trần Quốc Huy (2013), Tƣ tƣởng triết học chính trị của Niccolò

Machiavelli trong tác phẩn Quân vƣơng, Luận văn Thạc sĩ, Trƣờng đại

học Đà Nẵng, Đà Nẵng.

8. Vũ Linh (2013), Quan niệm về con ngƣời của N.Machiavelli trong tác

phẩm quân vƣơng, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Đại học Quốc gia Hà Nội,

Trƣờng đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.

9. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

10. Niccolò Machiavelli (2010), Quân vƣơng thuật trị nƣớc, Vũ Mạnh Hồng,

Nguyễn Hiền Chi (dịch), Nxb Tri thức.

60

11. Niccolò Machiavelli (2017), Quân vƣơng, Đặng Thƣ (dịch), Nxb Dân Trí

12. Vũ Dƣơng Ninh (chủ biên) (2008), Lịch sử văn minh thế giới, Nxb giáo

dục Hà Nội.

13. Đặng Hữu Toàn, Các nền văn hóa thế giới, Nxb Từ điển bách khoa.

14. Phạm Quỳnh Trang (2019), Tƣ tƣởng đạo đức của Arixtốt và ý nghĩa của

nó đối với việc hoàn thiện đạo đức con ngƣời Việt Nam hiện nay, Luận án

Tiến sỹ Triết học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trƣờng đại học khoa học xã

61

hội và nhân văn, Hà Nội.