TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC ----------------------- NGUYỄN THU TRANG TƢ TƢỞNG VỀ NỮ QUYỀN TRONG TÁC PHẨM

“KIM JI YOUNG – BORN 1982”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2016-X

HÀ NỘI, 2020

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC ----------------------- NGUYỄN THU TRANG

TƢ TƢỞNG VỀ NỮ QUYỀN TRONG TÁC PHẨM

“KIM JI YOUNG – BORN 1982”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2016-X

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS. TS NGUYỄN THANH BÌNH

HÀ NỘI, 2020

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành bài khóa luận này, trước hết em xin gửi lời cảm ơn đến

các quý thầy cô trong khoa Triết học, trường Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn đã trang bị cho em kiến thức trong suốt thời gian em theo học tại

trường.

Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến giảng

viên PGS. TS Nguyễn Thanh Bình người đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo

tận tình, bổ sung kiến thức còn hạn chế của em, giúp em hoàn thành khóa luận

tốt nghiệp này một cách tốt nhất.

Trong giới hạn thực hiện khóa luận mà kiến thức vô cùng rộng lớn nên

bài khóa luận của em không tránh khỏi những sai sót và hạn chế, em rất mong

nhận được sự góp ý tận tình của các quý thầy cô.

Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 24 tháng 05 năm 2020

Người thực hiện

Nguyễn Thu Trang

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết

quả nêu trong khóa luận là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Các

kết luận chưa được công bố ở bất cứ một công trình nào.

Tác giả khóa luận

Nguyễn Thu Trang

MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................................. 1

2. Tình hình nghiên cứu ........................................................................................................... 2

3. Đối tƣợng nghiên cứu ........................................................................................................... 4

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 4

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................ 5

6. Đóng góp của khóa luận ...................................................................................................... 5

7. Kết cấu khóa luận ................................................................................................................ 5

PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................................................... 6

CHƢƠNG 1. BỐI CẢNH HÀN QUỐC CUỐI THẾ KỶ XX – ĐẦU THẾ KỶ XXI VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ RA ĐỜI TƢ TƢỞNG VỀ NỮ QUYỀN TRONG TÁC PHẨM “KIM JI YOUNG – BORN 1982” .................................................................................................................. 6

1.1

Điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị Hàn Quốc cuối thế kỷ XX – đầu thế kỷ XXI ...... 6

1.2

Điều kiện văn hóa, tƣ tƣởng Hàn Quốc cuối thế kỷ XX – đầu thế kỷ XXI ............... 10

1.3

Tác giả Cho Nam Joo và tác phẩm “Kim Ji Young – Born 1982” ............................. 14

1.3.1

Tác giả ..................................................................................................................... 14

1.3.2

Tác phẩm ................................................................................................................. 16

CHƢƠNG 2. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ NỮ QUYỀN TRONG TÁC PHẨM “KIM JI YOUNG – BORN 1982” ............................................................................................................ 19

2.1 Khái lƣợc và lý luận chung .................................................................................................. 19

2.2 Những nội dung cơ bản trong tƣ tƣởng về nữ quyền trong tác phẩm “Kim Ji Young – Born 1982” .................................................................................................................................. 21

2.2.1 Quan điểm về quyền được sống, được đáp ứng những nhu cầu cơ bản về đời sống và được bảo vệ của người phụ nữ ............................................................................................... 21

2.2.2 Quan điểm về quyền được kết nối xã hội, quyền được chia sẻ và lắng nghe của người phụ nữ ...................................................................................................................................... 34

2.2.3 Quan điểm về quyền được đánh giá, tôn trọng và khẳng định mình của người phụ nữ .................................................................................................................................................. 38

2.3 Một số giá trị và hạn chế trong tƣ tƣởng về nữ quyền trong tác phẩm “Kim Ji Young – Born 1982” .................................................................................................................................. 50

2.3.1 Giá trị .............................................................................................................................. 50

2.3.2 Hạn chế ........................................................................................................................... 57

PHẦN KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 62

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 65

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Xã hội đương thời với nhịp sống hiện đại làm cho vị thế và vai trò của

người phụ nữ ngày càng được nâng cao rõ rệt hơn. Nếu như trước đây phụ nữ

“tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” cùng với những hà khắc

xã hội áp đặt, thì ngày nay không khó để tìm được một người phụ nữ độc lập

mạnh mẽ, có tiếng nói trong xã hội và có nhiều quyền lực. Tuy nhiên, với sự

ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo khiến cho đâu đó xung quanh ta vẫn tồn tại

tư tưởng trọng nam, khinh nữ ở các nước mang văn hóa Á Đông, trong đó có

Hàn Quốc, khiến phụ nữ chịu không ít thiệt thòi về cả thể chất lẫn tinh thần.

Trong khi ở Việt Nam và Trung Quốc, chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều

nguyên nhân nằm ngoài Nho giáo đã gây nên tình trạng đáng buồn về nữ

quyền, thì Hàn Quốc là nơi chúng ta có thể thấy rõ nhất những mâu thuẫn xã

hội sau khi Nho giáo bị biến dị và trộn lẫn với tư tưởng hiện đại. Quan niệm

về đàn ông Hàn Quốc cũng rất đa dạng, có người nói rằng họ thật gia trưởng

và ki bo, cũng có người lại kể rằng họ thật ga lăng và tâm lý. Trong khi có rất

nhiều ví dụ về chuyện đàn ông Hàn Quốc ngoại tình ở nước ngoài thì cũng có

rất nhiều ví dụ cho thấy đàn ông Hàn Quốc rất tôn trọng người phụ nữ. Những

ý kiến thực tế trái chiều làm việc đánh giá thực trạng nữ quyền ở Hàn Quốc

trở nên phức tạp hơn. “Trong thời kỳ vương triều Cao Ly và buổi đầu của

vương triều Triều Tiên, địa vị của người phụ nữ Hàn Quốc cũng không hề

thấp kém. Sau này, với sự biến dị của Nho giáo tại Hàn Quốc, người phụ nữ

dần đánh mất đi vị thế của mình. Áp lực sinh con trai để nối dõi tông đường

khiến địa vị người phụ nữ trở nên thấp hơn” [21]. Cho đến thời điểm hiện tại,

văn hóa gia đình và trật tự xã hội của Hàn Quốc vẫn rất nghiêm khắc, có trật

1

tự trên dưới rõ ràng, có các lễ nghi nghiêm ngặt không chỉ là đối với người

phụ nữ. Sự duy trì các quy tắc khắt khe đó chưa hẳn đã là điều dở trong văn

hóa Hàn Quốc. Ngày nay, địa vị người phụ nữ Hàn Quốc không hề thấp, từ

giáo dục, y tế, nghệ thuật, văn học, thể thao cho đến các nghề nghiệp kỹ thuật.

Hàn Quốc cũng có một vị nữ tổng thống đầu tiên vào năm 2013. “Hàn Quốc

có thể là một ví dụ tốt trong việc nhìn lại sự kết hợp giữa quan niệm Nho giáo

đã biến dị với tư tưởng hiện đại, và ảnh hưởng của sự kết hợp đó đối với

người phụ nữ” [21]. Những mâu thuẫn về giá trị của người phụ nữ trong xã

hội Hàn Quốc cho thấy thực tế về việc áp đặt tiêu chuẩn giáo điều và cứng

nhắc mà bỏ qua những tinh hoa như “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” (Điều

mình không muốn thì đừng làm cho người khác) .

Càng ngày các quan niệm về nữ quyền ở Hàn Quốc càng phát triển hơn,

phụ nữ Hàn Quốc không còn bó buộc mình trong các lễ giáo hà khắc trong gia

đình, trong các mối quan hệ xã hội, họ đã biết đấu tranh để lấy lại vị thế của

mình bằng nhiều cách khác nhau, và văn học nghệ thuật chính là một trong

những phương thức họ lựa chọn. Vào đầu thế kỉ XXI văn học đã có hàng loạt

các tựa sách với chủ đề về phụ nữ và mang trong mình tiếng nói bênh vực nửa

kia của thế giới, trong đó có Kim Ji Young – Born 1982 của nhà văn Cho Nam

Joo – tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn của phong trào nữ quyền tại Hàn

Quốc. Vậy trong cuốn sách này, nữ nhà văn Cho đã thể hiện quan điểm của

mình như thế nào mà lại nhận được ấn tượng mạnh mẽ của độc giả đến vậy?

Để làm rõ câu hỏi này, tôi xin mạnh dạn lựa chọn đề tài “Tư tưởng về nữ

quyền trong tác phẩm “Kim Ji Young – Born 1982” làm đề tài khóa luận của

mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Nữ quyền hiện nay luôn được thế giới quan tâm hơn, Hàn Quốc cũng

2

không phải ngoại lệ khi tồn tại trong bản chất xã hội của đất nước đó vẫn là sự

phân biệt đối xử với phụ nữ. Chính vì vậy, chủ nghĩa nữ quyền, các quan

niệm về nữ quyền, cũng như các phương thức đấu tranh của phái nữ tại đất

nước này hiện nay rất được quan tâm, đặc biệt là các nghiên cứu của chính

những người phụ nữ, các tổ chức bênh vực sự yếu thế trong xã hội.

Tác phẩm Kim Ji Young – Born 1982 thực sự thu hút được đông đảo độc

giả biết đến khi trưởng nhóm BTS nhắc đến trong một chương trình truyền

hình tại Nhật Bản. Tại Nhật Bản, nữ quyền đơn giản là quyền được tự do lựa

chọn, đơn giản là quyền được hạnh phúc của người phụ nữ, vì vậy các tác

phẩm văn học bàn về phụ nữ ở đất nước này được đón nhận một cách rộng rãi

và cởi mở hơn. Trong một cuộc phỏng vấn với Kim Seung Bok, CEO của

Kuon Publishers, có trụ sở tại Tokyo, Nhật Bản, qua điện thoại, ông nói rằng

văn học Hàn Quốc rất phổ biến ở Nhật Bản “Tôi điều hành một hiệu sách ở

Jinbo Cho, Tokyo, Nhật Bản, nhưng nhiều người Nhật đang tìm kiếm văn học

Hàn Quốc. Nhiều độc giả đọc chúng qua các ứng dụng của Hàn Quốc” [18].

Được đón nhận như vậy, nhưng vẫn chưa có bài nghiên cứu hoàn chỉnh nào

về tiểu thuyết nữ quyền Kim Ji Young – Born 1982 tại Nhật, chủ yếu ta thấy là

những bài cảm nhận , bài báo hoặc các bình luận trên mạng xã hội, đánh

giá…

Tại Hàn Quốc, không khó để tìm được những bài viết về phong trào nữ

quyền, chủ nghĩa nữ quyền của các tác phẩm văn học. Qua những tìm kiếm về

nữ quyền trên công cụ tìm kiếm Google, những đánh giá về Kim Ji Young –

Born 1982 luôn có lượt tìm kiếm cao, tuy nhiên cũng như đất nước láng giềng

phía Đông, cũng chưa có bài nghiên cứu hoàn chỉnh về tác phẩm văn học của

nữ nhà văn Cho Nam Joo này ngoài các bình luận, bài báo, bình luận... đa

3

chiều.

Tại Việt Nam, cái tên “Kim Ji Young” được biết đến qua bộ phim cùng tên

được khởi chiếu vào ngày 01 tháng 11 năm 2019. Chính vì được biết đến

muộn, tác phẩm cũng không nhận được sự quan tâm từ trước đó, nếu có thì

cũng rất ít người đọc biết đến và quan tâm đến nó. Ở Việt Nam, cho đến nay

cũng chưa có một đề tài nghiên cứu nào về tác phẩm Kim Ji Young – Born

1982 mà chỉ dừng lại ở các bài bình luận, cảm nhận ngắn về tiểu thuyết, chủ

yếu vẫn là các cảm nhận xoay quanh bộ phim chuyển thể từ tác phẩm này.

Điều này có thể lí giải do ở Việt Nam, tuy cũng bị ảnh hưởng bởi Nho giáo,

nhưng trong tư tưởng của người Việt không bị quá nặng nề vấn đề trọng nam

khinh nữ như bên Trung Quốc hay Hàn Quốc, nhất là khi thời đại ngày nay

công nghệ vô cùng phát triển, nhận thức của chúng ta được nâng cao từng

ngày, kể cả ở những người lớn tuổi, rất ít người còn quá coi trọng con trai

trong gia đình, hoặc nếu có, thì họ cũng không quá khắc nghiệt với phái nữ,

nên phong trào nữ quyền hay việc khẳng định chủ nghĩa nữ quyền không

mạnh mẽ bằng các nước cùng bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của Nho giáo.

Nhưng cũng không thể nói rằng ở Việt Nam không có sự khẳng định về vai

trò của nữ giới, bởi vì nếu không thì khi bộ phim Kim Ji Young – Born 1982

chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên được khởi chiếu đã không nhận được sự

quan tâm của đông đảo khán giả trẻ đến vậy.

3. Đối tƣợng nghiên cứu

Tư tưởng về nữ quyền trong tác phẩm Kim Ji Young – Born 1982.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

a. Mục đích: Làm rõ một số khía cạnh nội dung trong tư tưởng về nữ

quyền được thể hiện trong tác phẩm Kim Ji Young – Born 1982, từ đó

chỉ ra giá trị và hạn chế của những quan điểm đó.

4

b. Nhiệm vụ:

- Vạch ra được hoàn cảnh tiền đề dẫn tới quan niệm về nữ quyền của tác

giả Cho Nam Joo, nội dung tóm tắt và sơ lược thông điệp mà tác phẩm

Kim Ji Young – Born 1982 muốn truyền tải.

- Phân tích một số nội dung trong tư tưởng về nữ quyền trong tác phẩm

Kim Ji Young – Born 1982.

- Bước đầu đánh giá về giá trị, hạn chế chủ yếu trong tư tưởng về nữ

quyền trong tác phẩm Kim Ji Young – Born 1982.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

a. Cơ sở lý luận: Kế thừa quan điểm, tư tưởng của các tác giả những bài

cảm nhận, bình luận viên đi trước; dựa trên cơ sở lý luận Mác – Lênin;

những quan điểm tiến bộ, tích cực của triết học phương Tây, tư tưởng

Hồ Chí Minh,…

b. Phương pháp nghiên cứu: Kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa

học như phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp lịch sử và

logic; lịch sử - cụ thể; cùng phương pháp tra cứu, so sánh…

6. Đóng góp của khóa luận

Trên cơ sở trình bày và làm rõ quan niệm về nữ quyền trong tác phẩm Kim

Ji Young – Born 1982, khóa luận có thể làm tài liệu phục vụ cho việc nghiên

cứu, giảng dạy về chủ nghĩa nữ quyền, các phong trào nữ quyền.

7. Kết cấu khóa luận

Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung

của khóa luận bao gồm 2 chương với 8 tiết (Chương 1. Bối cảnh Hàn Quốc

cuối thế kỷ XX – đầu thế kỷ XXI và những tiền đề ra đời tư tưởng về nữ

quyền trong tác phẩm Kim Ji Young – Born 1982; Chương 2. Những quan

5

điểm cơ bản về nữ quyền trong tác phẩm Kim Ji Young – Born 1982.

PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1. BỐI CẢNH HÀN QUỐC CUỐI THẾ KỶ XX – ĐẦU THẾ KỶ XXI VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ RA ĐỜI TƢ TƢỞNG VỀ NỮ QUYỀN TRONG TÁC PHẨM “KIM JI YOUNG – BORN 1982” 1.1 Điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị Hàn Quốc cuối thế kỷ XX – đầu

thế kỷ XXI

Sau khi được quân đội Đồng Minh giải phóng và bị chia cắt vào giai

đoạn cuối của Chiến tranh thế giới thứ hai, quốc gia Triều Tiên cổ trở thành

hai nhà nước với hai hệ tư tưởng và quan điểm chính trị đối lập nhau là Bắc

Triều Tiên và Nam Triều Tiên. Trong khi Bắc Triều Tiên chịu sự ảnh hưởng ý

thức hệ cộng sản và được hậu thuẫn từ phía Liên bang Xô viết thì Nam Triều

Tiên (tức Đại Hàn Dân Quốc) lại chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ về ý thức hệ

quốc gia và tự do dân chủ mà được sự hậu thuẫn, giúp đỡ, viện trợ của Hoa

Kỳ, điều này đã dẫn đến những mâu thuẫn vùng miền và ý thức hệ chính trị -

xã hội giữa hai miền đất nước và dân tộc Triều Tiên ngày càng trở nên

nghiêm trọng và gay gắt. Các mâu thuẫn và xung đột này sau đó đã dẫn đến

kết cục là một giải pháp quân sự nội bộ tàn khốc – cuộc chiến tranh Triều

Tiên (25 tháng 6 năm 1950 – 27 tháng 7 năm 1953), hậu quả làm hơn 3 triệu

người thiệt mạng và hàng chục triệu người khác bị ảnh hưởng, rất nhiều người

dân, binh lính, quân nhân bị thương tật nặng, một số khác thì bị mất nhà cửa

hoặc chia lìa vĩnh viễn những người thân trong gia đình của mình. Chiến

tranh Triều Tiên kết thúc bằng một hiệp định ngừng bắn được ký kết trước sự

chứng kiến của đại diện các bên tham chiến tại làng đình chiến Bàn Môn

Điếm thuộc Khu phi quân sự Triều Tiên. Trong các thập niên từ năm 1950 tới

1990, kinh tế Hàn Quốc đã được khôi phục hoàn toàn, phát triển vượt bậc và

6

trở thành một nền kinh tế lớn, bền vững trên thế giới.

Kim Ji Young – Born 1982 ra đời năm 2016. Trong giai đoạn này Hàn

Quốc vẫn đang là một nước có nền kinh tế rất phát triển. Hàn Quốc là một

quốc gia phát triển có mức sống và chỉ số phát triển con người thuộc vào loại

rất cao, có nền kinh tế phát triển theo phân loại của CIA, Ngân hàng Thế giới

và IMF, và đồng thời là một cường quốc khu vực tại Đông Á cũng như là một

cường quốc tầm trung trên thế giới. Hàn Quốc hiện đang là nền kinh tế lớn

thứ 4 ở châu Á sau nền kinh tế của các quốc gia Trung Quốc, Nhật Bản và Ấn

Độ, xếp thứ 11 trên thế giới theo GDP danh nghĩa, xếp hạng 13 theo sức mua

tương đương (tính đến hết năm 2018 theo các số liệu thống kê của Quỹ Tiền

tệ Quốc tế, Liên Hiệp Quốc, CIA và Ngân hàng Thế giới). Hàn Quốc sở hữu

một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa (được xây dựng trên nền tảng của kinh tế thị

trường), hỗn hợp, tự do, ít có sự can thiệp của chính phủ và phát triển cao bậc

nhất Châu Á. Hiện nay Hàn Quốc đã được xếp vào nhóm những quốc gia có

nền kinh tế phát triển trên thế giới. Cùng với các nền kinh tế của Hoa Kỳ, Anh

Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan và Singapore, kinh tế Hàn Quốc được

các nhà kinh tế học xem như là một ví dụ tiêu biểu về lợi ích của chủ nghĩa tư

bản tự vận hành. Kinh tế Hàn Quốc là một trong những nền kinh tế phát triển

nhanh nhất trên thế giới từ đầu những năm 1960 cho đến cuối những năm

1990, và vẫn tiếp tục tăng trưởng đều đặn trong thập niên 2000, do đó Hàn

Quốc cùng với các quốc gia và Đặc khu hành chính Hồng Kông, Singapore và

Đài Loan thường được ví như "Bốn con Rồng của Châu Á".

Mặc dù là một quốc gia phát triển, tuy nhiên, “xã hội Hàn Quốc hiện

đại cũng đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề phức tạp, nhức nhối và nan

giải như tình trạng lão hóa dân số do tỷ lệ sinh cũng như kết hôn giảm mạnh”

[16], các định kiến xã hội vẫn còn tồn tại, thất nghiệp, áp lực cuộc sống và

nạn tự sát - đặc biệt là trong tầng lớp những người trẻ tuổi và khoảng cách của

7

sự phân hóa giàu nghèo đang ngày một gia tăng.

Về nhân khẩu, vào tháng 4 năm 2016, dân số Hàn Quốc được Văn

phòng Thống kê Quốc gia ước tính là khoảng 50,8 triệu người, với dân số ở

trong độ tuổi lao động và tổng tỷ suất sinh tiếp tục có xu hướng suy giảm.

Hàn Quốc là nước có mật độ dân số rất cao, ước tính lên tới 505 người trên

mỗi ki lô mét vuông vào năm 2015, nhiều hơn 10 lần so với mức trung bình

toàn cầu. Hầu hết người Hàn Quốc sống ở khu vực thành thị, do quá trình di

cư ồ ạt khỏi các vùng nông thôn trong quá trình mở rộng kinh tế nhanh chóng

của đất nước trong những năm 1970, 1980 và 1990. Thành phố thủ đô là

Seoul cũng là thành phố lớn nhất và là trung tâm công nghiệp chính của đất

nước. Theo điều tra dân số năm 2005, khu vực nội thành Seoul có dân số hơn

10 triệu người. Khu vực đô thị Seoul có hơn 30 triệu dân (khoảng hơn một

nửa dân số Hàn Quốc), trở thành khu vực đô thị lớn thứ hai thế giới. Các

thành phố lớn khác bao gồm Busan (3,5 triệu), Incheon (3,0 triệu), Daegu (2,5

triệu), Daejeon (1,4 triệu), Gwangju (1,4 triệu) và Ulsan (1,1 triệu). Tỷ lệ sinh

của Hàn Quốc là thấp nhất thế giới trong năm 2009. Nếu tỷ lệ này tiếp tục

được duy trì, dân số của Hàn Quốc dự kiến sẽ giảm 13% xuống còn 42,3 triệu

người vào năm 2050. Tỷ lệ sinh trung bình hàng năm của Hàn Quốc là

khoảng 9 ca sinh trên 1000 người. Tuy nhiên, tỷ lệ sinh đã tăng 5,7% kể từ

năm 2010 và Hàn Quốc không còn là quốc gia có tỷ lệ sinh thấp nhất thế giới.

Theo báo cáo năm 2011 từ The Chosun Ilbo, tổng tỷ suất sinh của Hàn Quốc

(1,23 trẻ em sinh ra trên mỗi phụ nữ) cao hơn so với Đài Loan (1,15) và Nhật

Bản (1,21). Tuổi thọ trung bình của người dân Hàn Quốc trong năm 2008 là

79,10 tuổi (đứng thứ 34 trên thế giới) nhưng đến năm 2015 đã tăng lên 81 tuổi.

Hàn Quốc là nước có sự sụt giảm mạnh nhất về dân số ở độ tuổi lao động

trong số các quốc gia thuộc OECD. Năm 2015, Cục Thống kê Quốc gia Hàn

8

Quốc ước tính rằng dân số của đất nước sẽ đạt đến đỉnh điểm vào năm 2035.

“Xã hội Hàn Quốc hiện đại tạo nên những áp lực rất lớn trong cuộc

sống, từ học tập, thi cử tới kiếm việc làm, kết hôn...” [22] Do các áp lực này,

tỷ lệ tự sát tại Hàn Quốc thuộc mức rất cao trên thế giới. Năm 2012, tỷ lệ tự

sát tại Hàn Quốc là 28,9 vụ/100.000 dân, cao hơn nhiều so với mức 12,1 vụ

của Mỹ, 7,8 vụ của Trung Quốc và cao hơn 2,5 lần so với mức trung bình trên

toàn thế giới. Tự sát là nguyên nhân số một trong những ca tử vong của thanh

thiếu niên (từ 10 tới 30 tuổi). Hiện nay, ngày càng có nhiều người già Hàn

Quốc đang phải sống và qua đời trong cô độc. Những biến động ở Hàn Quốc

từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á cuối những năm 1990 khiến nhiều

người mất việc, và họ bị tụt lại trong sự cạnh tranh gay gắt trong xã hội.

Nhiều người cao tuổi không có tiền tiết kiệm khi về hưu trong khi con cái lại

không đủ khả năng chu cấp cho họ. Trợ cấp xã hội dành cho những người

ngoài độ tuổi 50 chỉ ở mức tương đối thấp. Chỉ số Hưu trí toàn cầu Mercer

Melbourne 2015 xếp hạng Hàn Quốc đứng thứ 24 trong 25 quốc gia có nền

kinh tế lớn, chỉ cao hơn Ấn Độ. Năm 2014, chỉ 45% người Hàn Quốc trong

độ tuổi từ 55 đến 79 có lương hưu và chi tiêu trung bình hàng tháng của họ là

431 USD, bằng 82% mức chi phí sinh hoạt tối thiểu cho một người. Khoảng

30% người cao tuổi Hàn Quốc có thu nhập hàng tháng dưới mức nghèo tuyệt

đối. Cứ bốn người cao tuổi Hàn Quốc lại có một người mắc chứng trầm cảm,

tỷ lệ tự sát của nhóm người cao tuổi cao gấp đôi so với mức trung bình cả

nước. Hàn Quốc đã thực hiện Chiến lược ngăn ngừa tự tử (STOPS) nhằm

tăng cường nhận thức của cộng đồng và sự hỗ trợ của chính phủ trong vấn đề

phòng chống nạn tự sát. Những biện pháp này đã đem lại hiệu quả rất tích cực,

kể từ năm 2010, tỷ lệ tự tử ở Hàn Quốc đã giảm mạnh, cả hai thành phố lớn

nhất của Hàn Quốc là Busan và Incheon đã thực hiện tích cực các chương

trình ngăn ngừa tự tử. Việc cấm lưu hành một loại thuốc diệt cỏ mang nhiều

thành phần chất chứa độc tính cao có tên gọi là Paraquat được coi là chìa khóa

9

trong việc giảm mạnh tỷ lệ tự sát ở nơi đây. Từ khoảng năm 2011 đến 2015,

tỷ lệ tử vong do tự tử ở Hàn Quốc đã giảm gần 15%, theo báo cáo của Tổ

chức Y tế Thế giới năm 2017 cho biết. Ông Moon Jae In - Tổng thống Hàn

Quốc nhậm chức trong năm 2018, đã cam kết sẽ hạ thấp tỷ lệ tự tử xuống còn

20 vụ trên 100.000 người vào năm 2020.

1.2 Điều kiện văn hóa, tƣ tƣởng Hàn Quốc cuối thế kỷ XX – đầu thế kỷ

XXI

Trong những năm gần đây, Hàn Quốc đã tạo ra và liên tục tăng cường

mạnh mẽ sự phổ biến văn hóa Hàn Quốc trên phạm vi toàn thế giới đặc biệt là

ở khu vực châu Á, hay còn được biết đến với tên gọi “làn sóng Hàn Quốc”

với các hình thức như điện ảnh, âm nhạc, du lịch hay văn học. Hầu hết các

sáng kiến của chính phủ nhằm mở rộng sự phổ biến của âm nhạc Hàn Quốc

(còn được gọi là K - pop) trên toàn thế giới được thực hiện bởi Bộ Văn hóa,

Thể thao và Du lịch, đây là cơ quan chịu trách nhiệm chính cho việc thành lập

các Trung tâm Văn hóa Hàn Quốc trên toàn thế giới. Các đại sứ quán và lãnh

sự quán Hàn Quốc cũng đứng ra tổ chức các buổi hòa nhạc K - pop ở nước

ngoài, và Bộ Ngoại giao thường xuyên mời fan hâm mộ Kpop ở nước ngoài

tham dự Liên hoan Thế giới K - Pop được tổ chức thường niên tại Hàn Quốc.

Ngoài việc gặt hái được những lợi ích kinh tế từ sự phổ biến của K - pop,

chính phủ Hàn Quốc đã và đang tận dụng ảnh hưởng của K - pop trong vấn đề

ngoại giao. Trong thời đại truyền thông đại chúng phát triển vũ bão như ngày

nay, quyền lực mềm được coi là một chiến lược ngoại giao hiệu quả, tiềm

năng và thực dụng hơn tương đối nhiều so với việc chỉ dựa vào quyền lực

cứng truyền thống. Ngoại giao văn hóa thông qua K - pop là một hình thức

của quyền lực mềm đang được chính phủ Hàn Quốc thực hiện rất thành công.

Trong lĩnh vực điện ảnh, Hàn Quốc cũng là một nước gây tiếng vang

10

lớn trong khu vực châu Á và trên toàn thế giới. “Đặc sản” của nền điện ảnh

xứ sở kim chi chính là những bộ phim tình cảm lãng mạn lấy đi nhiều nước

mắt của khán giả. Năm 2004, bộ phim Old Boy giành giải thưởng lớn tại Liên

hoan phim Cannes và được bán cho nhiều nước. Sau khi dự liên hoan phim

này, đạo diễn Hollywood nổi tiếng Quentin Tarantino đã phát biểu: "Những

bộ phim hay, hấp dẫn nhất thế giới hiện đến từ Nhật Bản và Hàn Quốc". Hiện

nay bên cạnh những kịch bản mùi mẫn, các đạo diễn cũng đã khai thác sang

các đề tài khác và cũng có rất nhiều thành công ở những bộ phim như bộ

phim về đề tài xác sống Train to Busan (2016) của đạo diễn Yeon Sang Ho

cũng là một trong những bộ phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại ở quốc

gia này và đã trở thành bộ phim có doanh thu cao thứ hai tại Hồng Kông năm

2016. Trong lần trở lại gần đây nhất vào năm 2019, đạo diễn tài năng Bong

Joon Ho đã cùng với Song Kang Ho tiếp tục giúp cho nền điện ảnh xứ Kim

Chi gây được tiếng vang lớn với bộ phim điện ảnh tâm lý xã hội - hài kịch

đen mang tựa đề Parasite (Ký sinh trùng), tác phẩm này sau đó đã xuất sắc

đoạt giải thưởng Cành cọ vàng (Palme d'Or) tại Liên hoan phim Cannes 2019

(Pháp) và trở thành bộ phim có được nhiều giải thưởng nhất trong kỳ trao giải

Oscar lần thứ 92 được tổ chức tại Mỹ, đây cũng là bộ phim Hàn Quốc đầu

tiên trong lịch sử giành được giải thưởng danh giá này, đặc biệt hơn, thành

công của Ký sinh trùng đến đúng vào dịp kỷ niệm 100 năm nền điện ảnh xứ

Hàn ra đời và phát triển, qua đó tiếp tục khẳng định vị thế vững chắc và tiên

phong của điện ảnh Hàn Quốc trong làng điện ảnh châu Á nói riêng và thế

giới nói chung [1].

Văn học Hàn Quốc có một số lượng lớn độc giả. Những buổi đọc sách

thậm chí còn được tổ chức tại các sân vận động. “Khác với nhiều trường phái

văn học hiện đại trên thế giới, văn chương Hàn Quốc chủ yếu đi sâu khai thác

những góc tối bên cạnh đời sống hào nhoáng, hoa lệ vốn có như nhiều người

11

tưởng tượng. Tiểu thuyết hay truyện ngắn Hàn Quốc hiện đại viết nhiều về

nỗi cô đơn, sự bế tắc và hoang mang trong cuộc sống của một lớp người trẻ

tuổi” [15]. “Hàn Quốc nằm trong danh sách những nước có người tự sát nhiều

nhất thế giới. Và nguyên nhân của tình trạng đáng lo ngại này là sự mất cân

bằng về tăng trưởng kinh tế và đời sống tinh thần, sự rạn nứt của giá trị gia

đình, cạnh tranh khốc liệt về công ăn việc làm...” [22] Điều dễ nhận thấy ở

nhiều tác phẩm văn học Hàn là sự ám ảnh và lay động lòng người. Nỗi cô đơn,

sự bế tắc, cuộc sống đầy khó khăn đeo bám trong một xã hội phát triển chóng

mặt… tất cả được đưa vào văn chương một cách trần trụi, chân thực và chi

tiết nhất. Nhưng đan xen trong đó vẫn là tình cảm ấm áp giữa con người với

nhau, đó mới là cứu cánh để con người vượt qua được những khó khăn trong

cuộc sống

Về giáo dục, Hàn Quốc cũng xếp thứ hai về toán học và văn học, đứng

thứ nhất về giải quyết vấn đề. Mặc dù học sinh và sinh viên Hàn Quốc thường

được xếp hạng cao trong các bài kiểm tra, cuộc thi kiến thức và so sánh quốc

tế, tuy nhiên hệ thống giáo dục đôi khi bị lên án vì tập trung nhấn mạnh vào

việc học thụ động và học thuộc lòng. “Cũng giống như hệ thống giáo dục tại

những quốc gia Đông Á láng giềng khác như Trung Quốc và Nhật Bản, hệ

thống giáo dục, thi cử và tuyển sinh Đại học của Hàn Quốc khắt khe, khắc

nghiệt, cạnh tranh và rập khuôn hơn hệ thống giáo dục ở hầu hết các nước

phương Tây” [22]. “Hàn Quốc thường tự hào vì nền công nghiệp giáo dục của

mình, nhưng rồi đất nước này lại đi hơi quá trớn với nó - với 407 trường cao

đẳng và đại học được thành lập, kết quả là sinh viên tốt nghiệp quá nhiều

khiến tỷ lệ thất nghiệp tăng cao” [17]. Giáo dục đã trở thành một cổng tài

chính làm tê liệt nền kinh tế lớn thứ tư châu Á. Việc học thêm và luyện thi đại

học gây nợ nần cho các gia đình nhiều hơn 3 phần trăm của tổng sản phẩm

trong nước và tất cả chỉ để tạo ra những "thanh niên thất nghiệp tuổi 20".

12

“Chính phủ đã đưa mục tiêu giảm tỷ lệ thất nghiệp cao vào danh sách các ưu

tiên hàng đầu bằng cách đầu tư vào các công trình công cộng, nhưng chương

trình này lại không quan tâm đến những người được đào tạo trẻ. OECD cũng

kêu gọi ngành công nghiệp tham gia đóng một vai trò xây dựng, thiết thực và

hiệu quả hơn trong việc đào tạo trình độ nghề vì việc quá tập trung vào nhóm

sinh viên, cử nhân tốt nghiệp từ các trường đại học đang khiến cho tỷ lệ cạnh

tranh việc làm tăng cao nhưng lại xảy ra tình trạng thiếu hụt lao động trong

lĩnh vực thủ công, gây ra một làn sóng công nhân nhập cư có tay nghề thấp”

[9].

Như vậy, tác phẩm Kim Ji Young – Born 1982 ra đời trong thời kì đất

nước Hàn Quốc đứng trên một nền kinh tế mạnh, phát triển không ngừng. Đi

cùng với sự phát triển cũng chính là những áp lực luôn đè nặng lên vai các

nhà cầm quyền và nhân dân, cùng với sự phát triển cũng là sự phân hóa giàu –

nghèo sâu sắc của một số bộ phận, với sự ảnh hưởng nặng nề của Nho giáo

Khổng Tử, Hàn Quốc cũng là nơi vẫn tồn tại sự phân biệt đối xử giữa các

tầng lớp, đối xử bất bình đẳng giữa đàn ông và phụ nữ, thậm chí là phân biệt

sắc tộc… Có thể nói rằng trong thế kỷ 21, Hàn Quốc là một đất nước tiềm ẩn

bên trong mình những cơn sóng ngầm của sự bất bình đẳng phủ ngoài là vỏ

bọc dân chủ. Chính trong bối cảnh xã hội đó đã tạo nên những bất bình,

những mâu thuẫn nhất là trong bản thân các tầng lớp, con người yếu thế, mà

khi đã có trong bản thân mâu thuẫn con người ta có xu hướng tìm đến sự bày

tỏ, đấu tranh cho nhóm của mình. Nữ nhà văn Cho Nam Joo cũng là người

phụ nữ chịu ảnh hưởng của dòng chảy thời đại đó, nên bà cũng đã nảy sinh

trong bản thân những bất bình, mâu thuẫn, từ đó đã xây dựng nên nhân vật

Kim Ji Young đại diện cho đa số những người phụ nữ Hàn Quốc, trong đó có

bản thân bà để nói lên tiếng nói về nữ quyền, đấu tranh đòi lại quyền bình

13

đẳng và lấy lại cái tôi bản thân. Có lẽ đó chính là lí do khiến cho Kim Ji

Young – Born 1982 nhận được đông đảo sự quan tâm của khán giả Hàn Quốc

cũng như thế giới khi vừa phát hành.

Như vậy, xã hội Hàn Quốc bên cạnh nền kinh tế phát triển vượt bậc là

tiềm ẩn bên trong những mâu thuẫn, xung đột giữa truyền thống và hiện đại,

giữa nền kinh tế Mỹ tự do và truyền thống văn hóa Nho giáo phương Đông.

Chính bối cảnh đó đã tạo nên tư tưởng đấu tranh đòi lại nữ quyền trên đất

nước này.

1.3 Tác giả Cho Nam Joo và tác phẩm “Kim Ji Young – Born 1982”

1.3.1 Tác giả

Sau cuộc chiến tranh Triều Tiên, nền kinh tế của Hàn Quốc phát triển

vượt bậc trong các thập niên từ năm 1950 đến năm 1990, nhất là trong giai

đoạn 1962 – 1994, nền kinh tế Hàn Quốc tăng trưởng trung bình trên 10%

một năm, gọi là “kì tích trên sông Hàn”. Trong thời gian đó, xã hội Hàn Quốc

trọng tư tưởng của Khổng Tử, trọng người học cao cũng đã gặp không ít

những thách thức, khó khăn bên cạnh sự thăng hoa của nền điện ảnh, âm nhạc

và không thể không kể đến là nền văn học với nhiều tác giả nổi tiếng như

Kwon Bo Rae, Shim Jin Gyeong, Jang Young Eun, Ryu Jin Hee, Lee Hye

Ryeong, Heo Yoon, Kang Ji Yoon, Jeong Mi Ji…[18]. Có các cuộc thảo luận

sôi nổi được tổ chức về chủ đề văn học và nữ quyền Hàn Quốc khi những

cuốn sách bàn về lịch sử văn học Hàn Quốc từ góc độ nữ quyền được xuất

bản. Cùng nằm trong dòng chảy văn học về nữ quyền, vào năm 2016, cuốn

tiểu thuyết Kim Ji Young – Born 1982 được viết nên bởi nữ nhà văn Cho Nam

Joo.

Nữ nhà văn Cho Nam Joo sinh ngày 15 tháng 11 năm 1978 tại Seoul,

14

Hàn Quốc. Sau khi tốt nghiệp tại Khoa Xã hội học trường Nữ Ehwa, bà đã

làm việc 10 năm cho các vấn đề thời sự và các chương trình nghệ thuật tự do

như Sổ tay PD, Bất mãn Zero, truyền hình trực tiếp buổi sáng…

Năm 2011, bà đã giành giải thưởng văn học Munbakdongne với tiểu

thuyết Lắng tai nghe của mình. Đến năm 2016, tác phẩm Vì Komaneji của nhà

văn Cho cũng đã mang lại giải thưởng văn học Hwangsanbyeon lần thứ 2 cho

bà.

Từ tháng 9 năm 2015, bà đã dành ba tháng để hoàn thành cuốn sách thứ

ba của mình, Kim Ji Young – Born 1982. Năm 2017, Cho Nam Joo nhận được

giải thưởng Today‟s Artist. Đến tháng 11 năm 2018, cuốn sách này đã có hơn

một triệu bản được bán ra.

Trong sự nghiệp viết sách của mình, nhà văn Cho Nam Joo đã có riêng

mình sáu tác phẩm: Lắng tai nghe (2011), Vì Komaneji (2016), Kim Ji Young

– Born 1982 (2016), Tên cô ấy (2018), Chạy đi (2018) và gần đây nhất là

Saha Mansion (2019) được xuất bản bởi Minumsa.

Ngoài ra bà còn là đồng tác giả của Confession of a Feminist of Korea

(1997 – 2017) (2017), To my older brother (2017), Spring – Summer than

Novel (2018), Melancholy Happy Ending (2019)

Như vậy, hiện nay nhà văn Cho Nam Joo đang có một sự nghiệp văn

học khá thành công với số lượng tác phẩm tuy chưa hẳn là đồ sộ nhưng được

xuất bản liên tục, chứng tỏ sự nỗ lực và nguồn cảm hứng để viết của tác giả

trong những năm này vô cùng dồi dào. Mặc dù thông tin về tiểu sử của nhà

văn Cho chưa nhiều, nhưng thông qua học thức cũng như trải nghiệm thực tế,

nữ nhà văn đã có những nhận thức và quan điểm riêng của mình về nữ quyền

15

qua những cuốn sách viết nên.

1.3.2 Tác phẩm

Cuốn sách Kim Ji Young – Born 1982 kể về cuộc sống của người phụ

nữ Hàn Quốc tên Kim Ji Young, cô sinh năm 1982 – năm mà ở Hàn Quốc cái

tên Ji Young được đặt nhiều nhất – hiện đang trong thời gian nghỉ việc ở nhà

để chăm con khi đã ngoài 30 tuổi thông qua lời kể của vị bác sĩ nam khoa

Thần kinh điều trị cho Kim Ji Young. Vào mùa thu năm 2015, khi con gái cô

được hơn một tuổi, cô bắt đầu có những triệu chứng kì lạ được người chồng

phát hiện như gọi chồng mình – Dae Huyn – là con rể, hóa thân thành người

mẹ của mình – bà Oh Mi Sook; có khi lại trở thành người chị khóa trên – Cha

Seung Yeon – uống bia, nói chuyện với chồng của mình với tư cách là người

bạn thân của anh và sự kì lạ của Ji Young cũng bộc lộ vào đợt về Busan thăm

gia đình chồng khi cô trở thành “bà thông gia” nói lên những mệt mỏi của con

gái, cùng ước muốn được đoàn tụ cùng con gái mình như những gia đình có

con trai mong muốn đoàn tụ với nhau vậy. Điểm chung đó là tất cả các “vai

diễn” của cô đều là phụ nữ, có những người còn sống, có những người đã mất.

Nghi ngờ vợ mình bị trầm cảm sau sinh, Dae Huyn một mình tới khoa Thần

kinh và trình bày với bác sĩ về tình trạng của Ji Young cũng như tìm các

phương pháp để điều trị cho cô. Tuy nhiên để có những chẩn đoán chính xác

và hướng điều trị tốt nhất, bác sĩ cần được gặp trực tiếp Kim Ji Young và từng

trang sách quá khứ cho tới hiện tại của cuộc đời cô hiện lên qua từng lời kể

rành mạch, rõ ràng từng cảm xúc sâu kín nhất. Những gì mà Ji Young đã trải

qua đều ẩn chứa nỗi đau về những kỳ thị, phân biệt đối xử với phụ nữ mà cô

đã từng nghe, chứng kiến và trải nghiệm. Kim Ji Young là con gái thứ hai

sinh ra trong một gia đình trung bình khi bố là công chức nhà nước còn mẹ là

nội trợ, trên cô có một chị gái hơn hai tuổi là Kim Eun Young, dưới cô có em

trai kém năm tuổi. Kí ức đầu tiên và sâu đậm nhất của cô là về việc ăn sữa bột

16

của em trai, tiếp đến là những hình ảnh về người bà nội luôn bảo vệ mọi

quyền lợi cho con trai và cháu nội, bà cũng như những người phụ nữ trước coi

trọng việc có con trai nối dõi ngay cả khi các con bà không nhìn được mặt

nhau, mỗi người một nơi. Mẹ Ji Young cũng gẫn như lặp lại cuộc sống chăm

lo cho gia đình như bà nội cô dù bà Mi Sook cũng được ăn học đàng hoàng,

có tài năng và ước mơ trở thành giáo viên. Quá trình Kim Ji Young lớn lên đã

mang lại cho cô những trải nghiệm và ấn tượng về hình ảnh phái nữ phải chịu

nhiều thiệt thòi, mất nhiều quyền lợi, bị bàn tán kể cả khi lỗi sai không thuộc

về mình như ở trường học nữ sinh không được mặc trang phục thoải mái, bữa

ăn vội vàng, gặp phải tên biến thái, Ji Young bị theo đuôi trên xe bus, sự lựa

chọn trường đại học của phụ nữ bị hạn chế bởi tư tưởng đi trước, thời gian bị

bạn trai cũ lụy tình, nhà vệ sinh nữ tầng ba của chỗ làm bị lắp camera quay

lén, sự thăng tiến của phụ nữ bị hạn chế… Tất cả cứ tích tụ trở thành một vết

thương sâu trong tâm hồn Ji Young khiến tinh thần cô suy sụp và đánh mất

chính mình. Câu chuyện về trọng nam khinh nữ cứ thế được giãi bày khiến vị

bác sĩ lặng người khi nghĩ lại về người vợ âm thầm hi sinh của mình, về nữ

đồng nghiệp xin nghỉ việc vì không có thời gian chăm lo cho gia đình nhỏ.

Kết thúc cuốn sách là suy tư băn khoăn của bác sĩ khi anh càng nghe chuyện

của Kim Ji Young lại càng mơ hồ về chẩn đoán ban đầu của mình và lời tác

giả để lại với niềm hi vọng những lớp phụ nữ đi sau sẽ được khẳng định mình,

thế giới của con gái nhà văn sẽ tốt đẹp hơn, “hi vọng tất cả những bé gái trên

thế gian này sẽ có thể mơ ước nhiều hơn, mơ những giấc mơ lớn lao hơn”.[10,

tr.209]

Nhà văn Cho Nam Joo đã dũng cảm đứng lên nói về nữ quyền, bày tỏ

sâu sắc về điều đó qua đứa con tinh thần của mình. Ngay sau khi cuốn tiểu

thuyết được sản xuất vào năm 2016, nó trở thành một hiện tượng, bán được

hàng triệu bản, được dịch sang 16 thứ tiếng, cuốn sách trở thành best - seller ở

17

các nước láng giềng như Nhật Bản, Trung Quốc - theo nhà xuất bản Minumsa

của Hàn Quốc. Bản quyền xuất bản đã được bán cho 17 quốc gia bao gồm

Anh, Mỹ, Pháp và Tây Ban Nha…

Kết luận chƣơng 1.

Trước những tiền đề kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng của đất nước

Hàn Quốc cuối thế kỷ XX – đầu thế kỷ XXI được miêu tả là một trong những

đất nước có nền kinh tế phát triển nhất thế giới, được ví như một trong “Bốn

con rồng của châu Á” với nền giáo dục, văn hóa tiên tiến nhưng tồn tại trong

nó là một loạt vấn đề trong xã hội như áp lực cuộc sống, học tập thi cử, việc

làm; phân hóa giàu – nghèo sâu sắc của một số bộ phận, nhất là sự ảnh hưởng

nặng nề của Nho giáo Trung Hoa trọng nam khinh nữ, nhà văn Cho Nam Joo

đã viết lên cuốn tiểu thuyết Kim Ji Young – Born 1982 để bày tỏ những quan

điểm về nữ quyền dựa trên mối quan hệ giữa phụ nữ và thực tế xã hội Hàn

Quốc. Cuốn tiểu thuyết là bức tranh chân thực về cuộc sống của đại đa số phụ

nữ Hàn Quốc đương đại và là đại diện cho tiếng nói đòi lại quyền lợi và cái

tôi cá nhân của phụ nữ Hàn Quốc.

Để làm rõ những nội dung của khóa luận ở chương 1 này, tôi đã tham

khảo và có sử dụng các trích dẫn từ các nguồn tư liệu khác nhau như các bài

phân tích về lịch sử, kinh tế, văn hóa, chính trị Hàn Quốc; thân thế tác giả

Cho Nam Joo; cùng các công trình nghiên cứu đi trước về các vấn đề liên

quan đến quyền phụ nữ như “Triết học hiện sinh về thế giới quan của Simon

De Beauvoid” của Bùi Thị Tính, “Giải thích nguồn gốc bất bình đẳng giới”

18

của Eleanor Leacock đăng trong trang triethoc.edu, …

CHƢƠNG 2. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ NỮ QUYỀN TRONG TÁC PHẨM “KIM JI YOUNG – BORN 1982”

2.1 Khái lƣợc và lý luận chung

“Chủ nghĩa nữ quyền là một phong trào xã hội mà mục đích căn bản là

sự bình đẳng giữa phụ nữ và đàn ông. Ở nhiều thời và nhiều nơi trong quá

khứ, người ta từng kiên quyết rằng phụ nữ và đàn ông có những khả năng

tương tự nhau và đã cố gắng cải thiện địa vị xã hội của tất cả phụ nữ, cũng

như các địa vị của những đàn ông. Nó xem xét vai trò của phụ nữ xã hội, kinh

nghiệm, sở thích, công việc, và chính trị nữ quyền trong nhiều lĩnh vực, chẳng

hạn như nhân học và xã hội học, truyền thông, phân tâm học, kinh tế gia đình,

văn học, giáo dục, và triết học. Tuy nhiên, như một phong trào có tổ chức, nữ

quyền trỗi dậy trong thế kỉ XIX ở châu Âu và châu Mĩ để đáp ứng những bất

bình đẳng lớn lao giữa những vị thế pháp lí của những công dân nữ và nam ở

những xứ sở phương Tây đã công nghệ hoá” [20]. Phong trào này đã xuất

hiện ở phương Tây từ thế kỷ XIX với các “đợt sóng” nữ quyền, và đợt sóng

thứ nhất với quan điểm về việc đòi lại quyền bình đẳng về mặt pháp lý đã đặt

nền móng cho các quan điểm nữ quyền về sau. Tuy nhiên, quan điểm nữ

quyền về điều khiến đàn bà và đàn ông bất bình đẳng ngày nay ít thống nhất

so với trong nữ quyền đợt sóng thứ nhất, và có vô vàn giải pháp nữ quyền cho

bất bình đẳng giới. Nếu những tiếng nói nữ quyền dường như mang tính phần

mảnh nhiều hơn ở thế kỉ XIX, nó là kết quả của một sự hiểu biết sâu hơn về

nguồn gốc của bất bình đẳng giới.

Chủ nghĩa nữ quyền Hàn Quốc đã xuất hiện từ những năm 1980. Ở

Hàn Quốc, các nhà nữ quyền học tập trung vào việc mô tả sự bất bình đẳng

giới và nhận thức xã hội của phụ nữ và tình trạng đàn áp phụ nữ. Những

người hoạt động cho phong trào nữ quyền tại đây chủ yếu nói về các khía

cạnh như quyền sinh sản, bạo lực gia đình, nghỉ thai sản, chế độ trả lương

19

bằng nhau giữa đàn ông và phụ nữ, tình trạng quấy rối tình dục, chống quấy

rối tình dục phụ nữ , phân biệt đối xử và bạo lực tình dục. Các lĩnh vực nghiên

cứu của nữ quyền bao gồm chế độ phụ hệ, định kiến, khách quan hóa tình dục

và áp bức.

Các trụ cột chính của nữ quyền trong những năm 1960 và 1970 chỉ

phản ánh những vấn đề của phụ nữ trung lưu da trắng phương Tây, những

người coi mình là đại diện của tất cả phụ nữ. Nhưng kể từ đó, các nhà tư

tưởng nữ quyền từ các nước thuộc “thế giới thứ ba” khác nhau đã đặt câu hỏi

về tiền đề rằng "phụ nữ" là một nhóm các cá nhân có chung một bản sắc đồng

nhất: nữ giới ở cả phương Đông và phương Tây đều vô hình chung bị gán vào

dạng đối tượng bị chi phối bởi thần quyền (tôn giáo), thế quyền (chế độ phong

kiến). Sự chi phối đó phản ánh trong việc coi người phụ nữ như một sự lệ

thuộc, phụ thuộc thân phận và phẩm hạnh đối với người nam (đối tượng được

cho là gắn với sức mạnh, trí tuệ). Sự hình thành, tư duy của người nữ trong

con mắt triết học kinh viện Augustine và Thomas d‟Aquinas hay triết lý Nho

giáo Trung Hoa đã mang dấu ấn sắp đặt nguồn gốc của người nữ ngay từ đầu

phải là phục tùng, chịu đựng một cách mù quáng trong xã hội nam quyền.

Phải đến thời kì Phục hưng và đặc biệt là trào lưu Khai sáng ở Châu Âu cho

đến nay, những di sản tinh thần truyền thống của phụ nữ Đông – Tây mới có

cơ hội phản bác mọi lí lẽ duy ý chí của thiết chế xã hội và tư tưởng cũ. Thông

qua các trào lưu tư tưởng và thay đổi xã hội, phụ nữ đã phản tư về thân phận

của mình và ngày càng tỏ rõ vai trò cống hiến tích cực cho xã hội, phê phán

và thay đổi các loại hình áp bức với tư cách là con người cá nhân như người

nam, không phải tư thế yếu hơn hay cực đoan hơn. Các nhà nữ quyền phát

sinh những quan điểm đó từ nhiều nguồn gốc khác nhau, và các nhà lý luận

nữ quyền tại Hàn Quốc bắt đầu tập trung vào giới tính, tình dục và các bản

20

sắc xã hội khác, chẳng hạn như sự phân biệt chủng tộc hoặc giai cấp. Nó đã đi

vào phong trào dân chủ ở các cơ sở và tìm cách vượt qua các giới hạn dựa

trên tầng lớp xã hội, chủng tộc, văn hóa và tôn giáo.

2.2 Những nội dung cơ bản trong tƣ tƣởng về nữ quyền trong tác phẩm “Kim Ji Young – Born 1982”

2.2.1 Quan điểm về quyền được sống, được đáp ứng những nhu cầu cơ bản về đời sống và được bảo vệ của người phụ nữ

Trong hoàn cảnh từ thập niên 80 của thế kỷ XX, Hàn Quốc có sự tăng

trưởng vượt bậc về kinh tế, tốc độ tăng trưởng GDP cao, đạt đỉnh điểm vào

những năm 1986 - 1988 ở mức 12% mỗi năm và nền kinh tế trong những năm

thập niên đầu thế kỷ XXI của Hàn Quốc vẫn đang rất phát triển, trong Kim Ji

Young – Born 1982, nhà văn Cho Nam Joo cho rằng ở Hàn Quốc, phụ nữ đã

bị xã hội ngầm tước đoạt quyền được sống, bị giới hạn quyền được đáp ứng

nhu cầu cơ bản về đời sống và phụ nữ không được xã hội bảo vệ thông qua

việc vẽ nên cuộc sống của đa số phụ nữ Hàn Quốc đương đại, mà đại diện

chính là cuộc sống của Kim Ji Young và những người phụ nữ xung quanh cô.

Trong Kim Ji Young – Born 1982, nhà văn Cho đã không dưới một lần nhắc

về quyền được sống của phụ nữ đã bị xã hội ngầm tước đoạt, bà đã thể hiện

bằng những số liệu về tỉ lệ sinh mất cân bằng giới tính của Hàn Quốc “Ngay

cả những năm 90, Hàn Quốc vẫn là nước có tỉ lệ mất cân bằng giới tính ở

mức rất cao. Năm 1982 khi Kim Ji Young ra đời, cứ mỗi 100 bé gái thì có tới

106,8 bé trai được sinh ra. Tỉ lệ bé trai được sinh ra ngày một tăng, tới năm

1990 đã đạt mức 116,5 bé. Tỉ lệ sinh tự nhiên là 103 bé gái trên 107 bé trai”

[10, tr.64], suốt những năm 80 của thế kỷ XX ở Hàn Quốc thực hiện chính

sách “Kế hoạch hóa gia đình” và theo Park Jae Heon trong “Gia đình xác suất”

thì “thủ thuật chấm dứt thai kì với lý do y khoa đã được hợp pháp hóa, cũng

giống như việc “con gái” trở thành lý do y khoa, sự phân biệt giới tính và phá

21

thai mang giới tính nữ trở thành việc công khai” [10, tr.39]. Thực trạng đất

nước tồn tại với tư tưởng trọng nam khinh nữ đã ăn sâu vào trong mỗi gia

đình, người phụ nữ trở thành kẻ yếu thế nhất khi quyền được tồn tại và sinh ra

cũng bị tước đoạt: bố Ji Young coi lời nói về việc sinh con gái của vợ là “nói

dại”, “lời xui xẻo”; còn mẹ Ji Young – bà Mi Sook – vì biết được giới tính

của đứa bé trong bụng là nữ nên đã đau lòng một mình phải chịu trách nhiệm

về mọi thứ đến bệnh viện phá bỏ dù trên thực tế, người quyết định giới tính

của đứa con không phải người phụ nữ, quyền được sống của người phụ nữ bị

xã hội ngấm ngầm chối bỏ. Ở xã hội đương thời, mọi người thường không

hiểu được lí do vì sao đàn ông lại đóng vai trò vô cùng quan trọng, “mặc dù

ông nội Ji Young, người đàn ông với gương mặt trắng trẻo và đôi tay đẹp đẽ,

cả đời chưa bao giờ cầm lấy một nắm đất. Thậm chí ông không đủ năng lực

và không bao giờ suy nghĩ về việc lo toan, gánh vác gia đình, với bà nội Ji

Young thì người nấu cơm nóng cho bà ăn, trải đệm cho bà ngủ trên sàn nhà

ấm áp không phải con trai bà mà là con dâu Oh Mi Sook” [10, tr. 36]…

nhưng đàn ông thì tự cho mình cái quyền tồn tại và hưởng tất cả những lợi ích

còn những người phụ nữ như bà nội lại tự an ủi cho sự bất hạnh khốn khổ của

mình với cái triết lý không ai hiểu được: “Ngay cả khi con trai không làm

được gì thì vẫn phải có bốn đứa” [10, tr36]. Và tư tưởng đó được thế hệ trước

truyền lại cho thế hệ sau như cách bà nội kế thừa và truyền đạt lại cho mẹ Ji

Young thành câu cửa miệng: “Phải có con trai”. Quyền được sống của người

phụ nữ được Cho Nam Joo khắc họa từ đầu cho đến gần cuối tác phẩm của

mình. Ban đầu chính là sự bất lực với hình ảnh cuộc đời bà Mi Sook khi tự ra

quyết định bỏ con gái “vật vã trong đau khổ như loài động vật mất đi đứa con

bé nhỏ trong tay mãnh thú” [10, tr39]; và đến gần cuối tác phẩm, tới thế hệ

Kim Ji Young mang thai con gái đầu lòng trong sự dè chừng người lớn nhưng

cô may mắn hơn mẹ là được chồng thông cảm đã cho thấy, quan điểm rằng

phụ nữ cũng là con người, họ có quyền được tồn tại và sinh ra ngày càng

22

được nhận thức đầy đủ hơn, tuy vẫn nằm trong luồng tư tưởng cần có con trai

của thế hệ trước, nhưng ở thế hệ Kim Ji Young đã có sự tự quyết mạnh mẽ

hơn.

Một trong những nhu cầu cơ bản của đời sống khi nền kinh tế phát triển

là nhu cầu được sống trong môi trường trong lành, sạch sẽ; ăn uống đầy đủ

dinh dưỡng và được mặc quần áo đẹp, lành lặn, phụ nữ vởi thể trạng yếu hơn

nam giới càng cần được đáp ứng đầy đủ nhu cầu ăn, mặc, ở hơn nữa. Trong

cuốn sách của mình, nhà văn Cho Nam Joo đã phản ánh tình trạng phân biệt

đối xử giữa nam và nữ ở Hàn Quốc trong vấn đề này, thông qua đó ngầm thể

hiện sự bất bình và mong muốn đòi lại quyền lợi chính đáng đó cho phái nữ.

Để được khỏe mạnh, ai trước hết cũng cần được sống trong môi trường

trong lành, sạch sẽ và an toàn. Xuyên suốt Kim Ji Young – Born 1982 là

không gian sống, học tập và làm việc của người phụ nữ Hàn Quốc, đại diện là

Kim Ji Young. Thuở ấu thơ của Ji Young gắn liền với “ngôi nhà hai phòng

diện tích hơn mười pyeong (khoảng 30 – 40 mét vuông), gồm phòng bếp

kiêm phòng khách và một phòng vệ sinh” [10, tr.32]. Ba thế hệ sống trong

không gian nhỏ như vậy không tránh khỏi những bất tiện, nên khi cả nhà

chuyển sang căn nhà mới rộng gấp đôi căn nhà cũ, chị em Ji Young có phòng

riêng nhờ sự kiên quyết của mẹ thì chị em cô được sống trong thế giới của

riêng mình, mơ những giấc mơ của riêng mình. Không gian riêng của hai chị

em gái được bà Mi Sook mang lại bằng việc bà kiên quyết không đồng ý khi

mẹ chồng và chồng nói muốn để cho con trai út một phòng riêng, lén gom

tiền để sửa phòng cho hai chị em với một loạt đồ dùng mới, đẹp đẽ. Để giải

thích cho quyết định này, chúng ta nhìn lại về cuộc đời bà Mi Sook đã phải

sống “trong thời kì mà người ta quan niệm rằng con gái phải sẵn sàng hỗ trợ

cho anh em trai của họ, họ phải làm việc từ năm mười mấy tuổi trong nhà

máy dệt ở Seoul với nhiệt lượng tỏa ra khiến thần trí mơ hồ, nóng đến mức dù

23

họ có mặc váy ngắn rồi xắn váy lên hết mức mà mồ hôi vẫn chảy ròng ròng,

bụi bay trắng xóa che khuất tầm nhìn tới mức nhiều người bị bệnh về phổi”

[10, tr.46]. Khi lấy chồng, những người phụ nữ phải gánh vác gia đình đều

tìm kiếm “nghề phụ” tại nhà, bà Mi Sook cũng phải lựa chọn công việc cuộn

miếng dán chân cửa, khe cửa dù đó là công việc vừa mùi vừa đầy bụi này ở

nhà có trẻ con như lời bố Ji Young nói vì đây là công việc được trả công cao,

chỉ có như vậy bà mới cùng chồng lo được cho ba đứa con, chăm sóc mẹ

chồng. Thời kì Hàn Quốc bắt đầu chuyển đổi mô hình kinh tế cùng với thực

trạng phụ nữ phải làm việc nuôi sống gia đình như một điều đương nhiên

khiến cho nữ quyền thời kỳ này càng không được coi trọng. Chính vì đã phải

sống và làm việc trong môi trường như vậy nên nhu cầu muốn chính mình,

con gái mình cần được sống thoải mái của mẹ Ji Young, có thể cũng là nhiều

bà mẹ cùng thời, là nhu cầu chính đáng của họ. Thế nên suốt quãng đời mình,

mẹ Ji Young là người tính toán ngân sách gia đình, dành dụm tiền và nghe

ngóng thông tin các căn nhà, căn hộ để từng bước phát triển không gian sống

của mình. Đến những năm Ji Young học đại học, bà đã bàn bạc cùng chồng đi

vay tiền, cộng với lợi nhuận kinh doanh cửa hàng cháo để chuyển về Seoul

sống trong căn chung cư rộng 42 pyeong (khoảng 140 mét vuông). Trong tháp

nhu cầu của Maslow, được đáp ứng các nhu cầu về thể lý thuộc về nhóm

những nhu cầu cơ bản nhất của con người; cũng theo Tuyên ngôn Quốc tế

Nhân quyền của Liên hợp quốc, “Quyền được hưởng một mức sống khả quan

về phương diện sức khỏe và an lạc cho bản thân và gia đình” là một trong

quyền cơ bản của con người, vậy nên phụ nữ trên thế giới nói chung và phụ

nữ Hàn Quốc nói riêng cũng có quyền được sống trong môi trường trong lành,

an toàn để đảm bảo được sức khỏe cũng như sự thoải mái trong sinh hoạt.

Mở đầu những hồi ức của Kim Ji Young chính là hình ảnh cô lén ăn

sữa công thức của em trai. Việc ăn sữa bột của chị em Ji Young bị bà nội ghét

24

cay ghét đắng, sẽ “đánh vào lưng cô cho tới khi nào phun hết sữa ra cả đằng

mũi và miệng mới thôi” [10, tr. 33] mỗi khi cô bị bắt gặp chứng tỏ xã hội Hàn

Quốc khi đó bị ảnh hưởng nặng nề tư tưởng trọng nam khinh nữ như thế nào.

Trong bữa cơm của gia đình Ji Young nói riêng và đại bộ phận gia đình Hàn

Quốc nói chung đương thời, đàn ông bao giờ cũng được đơm cơm trước và

được ăn những miếng thức ăn ngon và không bị vỡ. “Cơm mới nấu nóng hôi

hổi sẽ được đơm theo thứ tự lần lượt là bố, em trai, bà nội. Em trai sẽ được ăn

những miếng đậu phụ và há cảo nguyên vẹn, còn Ji Young và chị gái chỉ được

ăn những miếng bị vỡ”, “nếu đồ ăn vặt chỉ có hai phần thì em trai ăn một

phần còn hai chị em Ji Young chia nhau phần còn lại” [10, tr.34]. Mặc dù bị

ảnh hưởng bởi tư tưởng của Khổng Tử một cách sâu sắc, nhưng dường như

Hàn Quốc không thực sự tiếp thu hết tư tưởng về đạo hiếu được viết trong

Luận ngữ “Khi cha mẹ có việc, con cái phải ra sức khó nhọc để giúp đỡ cha

mẹ, hoặc khi có cơm rượu, mời cha mẹ ăn uống trước” [5, tr.19]. Trong kí ức

của Ji Young khoảng sáu, bảy tuổi thì với bà nội em trai và những gì thuộc về

em là quý giá nhất, không một ai có thể tùy tiện đụng tới bất cứ thứ gì của em,

kể cả hai chị. Bà nội là người bị ảnh hưởng tư tưởng thế hệ trước nặng nề,

nhưng đến mẹ Ji Young – bà Mi Sook – đã có cái nhìn cởi mở hơn và biết suy

nghĩ cho con gái nhiều hơn bằng việc bà thoải mái cho con gái ăn sữa của em

trai. Có thể lý giải điều này là vì bà nội đã sinh ra bốn người con trai – được

coi là sự thành công của người phụ nữ, thêm sự ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng

của thế hệ đi trước, nên bà khắt khe với cháu gái là điều dễ hiểu; còn mẹ Ji

Young vì là người đã có trình độ học vấn, sống trong thời điểm Hàn Quốc

chuyển mình từ đất nước nông nghiệp truyền thống sang nền công nghiệp hóa,

đã tự biết được giá trị của mình, lại có hai đứa con gái là Eun Young và Ji

Young nên bà không muốn con mình sống cuộc đời như mẹ. Không chỉ bất

bình đẳng trong gia đình, ở trường học cũng có sự ưu ái dành cho nam hơn

trong việc xếp số thứ tự ăn trưa, điều đó gây nên những khó khăn khi nữ sinh

25

ăn chậm hơn nên thời gian nghỉ ngơi buổi trưa bị hạn chế, bữa ăn cũng diễn ra

trong sự vội vàng. “Học sinh nam được xếp số từ 1 đến 27, học sinh nữ từ 28

đến 49 theo thứ tự sinh nhật” [10, tr.55]. Thứ tự các bữa ăn trưa là theo thứ tự

số lượng, vì vậy thứ tự các bữa ăn của học sinh nam đến đầu tiên. Mặc dù

việc xếp số thứ tự như vậy có thể chỉ là một loại tiện lợi hành chính, nhưng

không thể tránh khỏi sự khác biệt nằm ở cơ sở của hình thức trong đó sự nhạy

cảm giới được hình thành thông qua văn hóa của học sinh lớn và nhỏ trải qua

trong mùa phát triển khi học sinh nữ có tốc độ ăn chậm hơn học sinh nam

nhưng lại bị xếp ăn sau, khiến thời gian ăn trưa là một cực hình. Có mâu

thuẫn thì sẽ có đấu tranh, mặc dù chỉ học lớp ba nhưng trẻ em nữ sinh cũng đã

có những bất bình và đấu tranh khi quyền lợi của mình bị ảnh hưởng: Đám trẻ

ăn cơm chan nước mắt ấy chẳng ai gọi mà đến giờ dọn dẹp lại tự động cùng

nhau ra phía sau phòng học thông qua những ám hiệu và khi gặp nhau, chúng

nhao nhao lên tiếng bất mãn “Lần nào cũng ăn theo số, thật là không công

bằng. Phải bảo cô giáo đổi lại thứ tự ăn cơm mới được” [10, tr.57]. Có thể nói

ý thức về nữ quyền đã dần được hình thành khi phái nữ nhận thức được

những quyền lợi bị ảnh hưởng một cách vô lý, nhưng thực tế cho thấy, chỉ có

những nữ sinh “vừa học giỏi mà mẹ bạn ấy còn là chủ tịch hội phụ huynh”

[10, tr. 57] mới dám đứng lên đấu tranh, còn đa số nữ sinh khác như Kim Ji

Young thì “không biết có phải vì thói quen của mình không mà […] không hề

nói nửa lời oán trách” mặc dù cũng biết quy định có sự vô lý, nhưng “không

biết điểm nào là chưa được, hoặc cô giáo đã sai ở điểm nào, […] chỉ cảm thấy

khó chịu và ấm ức” [10, tr.57]. Cuối cùng cô giáo cũng đã đồng ý thay đổi số

thứ tự ăn cơm một tháng một lần, “với Yoo Na, với Kim Ji Young và với cả

đám trẻ xếp số cuối ấy, đây là một kinh nghiệm quý báu. Lúc đó họ còn là trẻ

con nên chưa thể hiểu rõ, nhưng cũng đã có nhận thức về sự phê bình và cả sự

tự tin” [10, tr.59]. Đây không phải là vấn đề chỉ xảy ra vào năm 1982, “vào

ngày 09 tháng 08 năm 2018, Ủy ban Nhân quyền Quốc gia Hàn Quốc đã đề

26

nghị cải tiến một trường tiểu học ở Seoul, nơi số lượng học sinh tham gia lớp

học được gán từ nam 1 đến nữ 51. Tổ chức đó đã chỉ ra rằng thực hành phân

biệt đối xử giới tính sẽ cho phép sinh viên trẻ có sự phân biệt đối xử giữa nam

và nữ, việc đánh số trước các học sinh nam trong trường là một hành động

phân biệt đối xử xâm phạm quyền bình đẳng của học sinh nữ” [8]. Như vậy,

trong khi xã hội vẫn có những đối xử phân biệt nam – nữ từ những thiết chế

nhỏ nhất “giống như số chứng minh của con trai thì luôn bắt đầu bằng 1 và

con gái thì bắt đầu bằng 2” [10, tr.59], phái nữ với sự hiểu biết và nhận thức

về giá trị bản thân đã có ý thức lên tiếng bảo vệ quyền của mình, phải có sự tự

nhận thức từ bản thân phái nữ thì dần dần xã hội mới có những chính sách bảo

vệ nữ sinh nói riêng và bảo vệ phụ nữ nói chung. “Đến năm 2019, số trường

xếp hạng số theo giới tính hoặc theo ngày sinh, không phân biệt giới tính, đã

tăng từ 101 lên 357 trường” [8]. Với trẻ em chủ yếu người ta quan tâm đến

vấn đề dinh dưỡng qua những bữa ăn, thì với những người phụ nữ đến kì kinh

nguyệt, họ lại mong muốn được xã hội quan tâm đến sức khỏe khi đến kì.

Quan điểm của Cho Nam Joo cũng như toàn phụ nữ cho rằng họ cần được xã

hội quan tâm đến sức khỏe từ tâm lý đến sinh lý, họ muốn được chúc mừng

dấu mốc quan trọng của cuộc đời, muốn được sử dụng loại băng vệ sinh tốt

hơn và có những viên thuốc giảm đau không có tác dụng phụ. Nhưng thực tế,

“phần lớn các bé gái thì đây chỉ là một bí mật giữa họ và mẹ, chị gái và em

gái mà thôi”, “một bí mật phiền phức, đau đớn và cả xấu hổ” [10, tr.74], như

Ji Young chỉ nhận được muôi nước mì từ mẹ cùng món quà nhỏ từ chị gái

Eun Young. Suy nghĩ về lợi ích to lớn cho các công ty dược nếu sản xuất ra

được các viên thuốc có thể chữa trị được hoàn toàn chứng đau sinh lý mà

không có tác dụng phụ của Ji Young, cùng với lời nói của Eun Young “Thế

giới này người ta còn trị cả ung thư, cấy ghép tim, thế mà một viên thuốc

chữa đau bụng kinh cũng không có là thế nào. Họ làm như có tí thuốc vào tử

cung thì sẽ xảy ra vấn đề gì đó nghiêm trọng không bằng. Chẳng lẽ đây là

27

cấm địa bất khả xâm phạm hay sao?” [10, tr.76], cả những lo sợ của Ji Young

khi xem đoạn phim tài liệu về việc sinh con thuận theo tự nhiên đã chứng tỏ

một điều rằng: quyền được đảm bảo về sức khỏe của phụ nữ chưa thật sự

được xã hội Hàn Quốc coi trọng, và họ mong muốn trong tương lai mọi vấn

đề liên quan đến sức khỏe của phụ nữ sẽ được quan tâm như cách xã hội quan

tâm đến vấn đề sức khỏe của đàn ông, tính mạng phụ nữ khi trải qua cuộc

vượt cạn cũng cần được coi trọng như đứa con sắp chào đời của họ.

Tương tự như việc ăn uống và đảm bảo sức khỏe, nhu cầu được mặc

đẹp của người phụ nữ bị giới hạn cũng được tác giả phản ánh qua sự so sánh

giữa quần áo, giày dép, cặp sách của em trai và hai chị em gái, “đồ của em

trai bao giờ cũng lành lặn và có đôi có cặp, còn của chị gái và Ji Young thì

cọc cạch cũng là chuyện đương nhiên” [10, tr.34], “có ô thì em trai sẽ được

một mình một chiếc, còn Ji Young và chị gái đi chung một chiếc, nếu có hai

tấm chăn thì em trai cũng đắp một chiếc, còn Ji Young cùng chị gái đắp

chung chiếc còn lại” [10, tr.35]. Sống trong hoàn cảnh bị phân biệt đối xử như

vậy, nhưng Ji Young lại chưa bao giờ ghen tị với em, mặc dù đôi lúc cảm thấy

tủi thân, nhưng “cô luôn nghĩ mình là chị nên nhường em cũng được, cô cũng

quen với việc mình và chị gái cùng giới tính nên dùng chung đồ với nhau là

điều hợp lý” [10, tr.35]. Khác với em gái mình luôn ngoan ngoãn nghe theo

sự sắp đặt và suy nghĩ ngây thơ, Eun Young trưởng thành hơn hai tuổi tự cảm

thấy nhục nhã và nhất quyết không bao giờ ăn sữa của em nữa sau một lần bị

bà mắng, tuy nhiên cô vẫn nghe lời người lớn và giúp mẹ trông em. Bà Mi

Sook lý giải cho việc này là vì cách biệt tuổi tác nên hai chị nhường em và

trông em rất tốt, nhưng chính lời khen đó khiến Ji Young vô tình kế thừa tư

tưởng rằng con gái đương nhiên phải chấp nhận những thiệt thòi vô lý từ đời

trước truyền lại, nên Ji Young thực sự không thể tỏ ra ghen tị được. Tư tưởng

đó đã được đời sau kế thừa chính từ những cư xử nhỏ nhặt nhất trong gia đình.

28

Chính vì trưởng thành trong môi trường hà khắc với phụ nữ từ cái ăn cái mặc,

họ không nhận được sự ưu ái từ những nhu cầu cơ bản nhất, nên sau này khi

nhận được thỏi son hợp với mình từ người đồng nghiệp, Ji Young cảm thấy

rất vui trong những ngày tháng chăm con vất vả. Sự bất công trong vấn đề

trang phục của hai giới cũng diễn ra ở trường học khi các trường lần lượt

chuyển đổi thành trường nam nữ học chung, trang phục của nữ sinh bị quản lý

nghiêm ngặt khiến những bất tiện cho nữ sinh khi hoạt động xuất hiện. Để

phản đối lại quy định đó, có nữ sinh đã giải thích với thầy giáo rằng chính

trang phục không thoải mái khiến việc chơi thể thao của nữ sinh bị hạn chế,

thậm chí nữ sinh đó còn dùng hành động để cho thầy cô nhìn cho rõ mặc

trang phục như vậy bất tiện như thế nào. Trong xã hội Hàn Quốc cuối thế kỉ

XX và cho đến tận bây giờ, suy nghĩ rằng phụ nữ ở chốn đông người phải che

chắn cơ thể thật cẩn thận còn nặng nề, thì hành động nhất quyết không chịu

giữ vạt váy khi nhảy cóc quanh sân thể dục của nữ sinh đó chính là sự đấu

tranh đòi lại công bằng trong trang phục đi học. Quan điểm về quyền được

mặc trang phục thoải mái, đẹp đẽ của phụ nữ là một nhu cầu chính đáng

nhưng bị chính xã hội với tư tưởng trọng nam khinh nữ hạn chế được Cho

Nam Joo thể hiện bằng cách vẽ nên bức tranh với sự phân biệt trong cách đối

xử giữa nam với nữ từ gia đình đến trường học và xây dựng nên nhân vật đòi

lại quyền lợi của toàn nữ sinh đại diện cho tiếng nói đòi lại quyền lợi của đa

số phụ nữ Hàn Quốc.

Trong tháp nhu cầu của Maslow, tầng nhu cầu thứ hai chính là nhu cầu

an toàn của con người khi đã được đáp ứng các nhu cầu căn bản nhất thuộc

thể lý: con người cần có cảm giác yên tâm về an toàn thân thể, việc làm, gia

đình, sức khỏe, tài sản được đảm bảo. Hoàn cảnh đất nước Hàn Quốc những

năm 80 tồn tại tư tưởng đặt phụ nữ vào thế yếu, thì nhu cầu được gia đình và

xã hội bảo vệ của phụ nữ càng trở nên mạnh mẽ. Quan điểm về nhu cầu được

29

bảo vệ của người phụ nữ bị xã hội từ chối tiếp tục được nhà văn Cho Nam Joo

thể hiện bằng việc tái hiện sự bất công cùng những đấu tranh của phái nữ cho

thấy đây chính là nhu cầu hết sức chính đáng, cần thiết của họ. Trong Kim Ji

Young – Born 1982, “trò đùa của con trai đối với nữ sinh không phải là trò

đùa thông thường mà giống như trò bắt nạt hoặc bạo lực nhiều hơn” [10,

tr.49], nhưng khi Ji Young về khóc với mẹ và chị, thì “chị gái nói rằng bọn

con trai vốn dĩ trẻ con như vậy và chị cũng không có cách nào khác nên cứ

mặc kệ chúng nó đi” [10, tr.50], còn mẹ Ji Young còn mắng cô vì tội khóc lóc

khi các bạn chỉ đùa thôi. Đến cả cô giáo khi giải quyết việc Ji Young bị đổ

oan cũng giải thích với cô rằng vì bạn nam đó thích Ji Young nên mới bắt nạt

bạn nữ mà mình thích khiến cô vô cùng ấm ức và nhất quyết đòi đổi chỗ ngồi

bằng được. “Thái độ của giáo viên không chỉ phân tích nguyên nhân xung đột

giữa hai người và giúp giải quyết căn bản mà còn đơn giản hóa vấn đề đối với

mối quan hệ giữa nam và nữ, cũng như để thấy vai trò thụ động của phụ nữ

trong mối quan hệ và cố gắng khắc phục các vấn đề” [8]. Cả khi trường cấp

hai của Kim Ji Young xuất hiện tên biến thái, nữ sinh đã tập hợp nhau trói tên

biến thái đến đồn cảnh sát để tự bảo vệ mình, thì động thái của nhà trường

không phải là bảo vệ nữ sinh trường mình mà lại coi việc làm đó là làm mất

mặt nhà trường. Mặc dù đã nhận thức được rằng việc làm của nhà trường là

vô lý, và cho rằng nhà trường hoàn toàn có thể giải quyết theo hướng khác để

bảo vệ học sinh “Sao mấy thầy cô không nghĩ tới việc đi bắt thằng biến thái

đó mà lại bắt chúng mình viết kiểm điểm chứ? Kiểm điểm cái gì mới được

chứ!” [10, tr.70] nhưng nữ sinh ngoài việc tự bất bình với nhau thì cũng

không làm gì được thêm. Tương tự như thế, trên xe buýt và tàu điện ngầm

cũng có không ít những kẻ biến thái dùng ánh mắt hay chân tay quấy rối phụ

nữ, trong học đường cũng xảy ra tình trạng thầy giáo, đàn anh khóa trên, gia

sư dạy kèm cũng có những hành động sàm sỡ nhưng những nạn nhân chỉ có

thể lảng tránh mà không thể kêu lên dù chỉ một tiếng, bởi vì xã hội không hề

30

bảo vệ phụ nữ như họ mong đợi, kể cả họ có tự bảo vệ mình đi chăng nữa, thì

cũng nghiễm nhiên trở thành kẻ làm xấu mặt xã hội và tập thể. Ji Young cũng

là nạn nhân khi cô bị theo đuôi trên xe buýt nhưng điều làm cô thấy tủi thân

hơn cả là lời trách mắng của bố rằng vì sao lại đi học xa, tại sao ai cũng bắt

chuyện, sao lại mặc váy ngắn… Phải chăng chính vì thái độ lảng tránh của

phần lớn con gái cũng như thái độ của người lớn coi nhẹ việc bắt nạt của nam

sinh nói riêng và đàn ông nói chung đã góp phần tạo nên suy nghĩ của con trai

sẽ tự cho mình cái quyền chọc ghẹo các bạn nữ và phần lớn nữ sinh cũng

không có dũng cảm bảo vệ bản thân mình? Thoạt nhìn, đó có thể không được

coi là một cuộc xung đột nghiêm trọng, nhưng những trải nghiệm của Kim Ji

Young nói với chúng ta rằng không chỉ người phụ nữ thụ động, mà cả đàn

ông đã vô tình được xã hội trao cho quyền được bắt nạt phụ nữ. “Ngay từ nhỏ,

đàn ông được dạy rằng ngay cả khi họ không tôn trọng phụ nữ như một con

người, người ta vẫn chấp nhận rằng "biểu hiện của tình cảm" thông qua việc

bắt nạt là chấp nhận được, và phụ nữ với kinh nghiệm tính cách thụ động mà

họ dễ bị đàn ông nhắm đến bất cứ lúc nào chỉ vì họ là phụ nữ” [8]. Tâm lí thụ

động và dễ bị tổn thương của phụ nữ kéo dài từ thời thơ ấu cho đến khi ra

ngoài xã hội, kể cả lúc họ vẫn dựa dẫm vào gia đình đến khi có chỗ đứng

trong một tổ chức. Đó là sự việc camera được gắn trong nhà vệ sinh nữ trong

công ty và các video được phát tán khiến Kang Hye Soo và một loạt đồng

nghiệp nữ khác có người chịu cú sốc tâm lý nặng nề, có người phải xin nghỉ

việc, đến cả trưởng phòng Kim Eun Sil – người phụ nữ quyền lực nhất công

ty – cũng thấy sợ và mệt mỏi. Để đáp trả lời giám đốc muốn cho chuyện này

im ắng qua đi vì lo sợ danh sự của nhân viên nam bị ảnh hưởng, trưởng phòng

Kim Eun Sil đã có quan điểm rằng nếu muốn chấm dứt triệt để chuyện này thì

“trước tiên giám đốc phải thay đổi suy nghĩ của mình đi đã , và công ty cần có

lớp giáo dục để phòng tránh việc quấy rối tình dục một cách tử tế” [10, tr.188]

- điều đó có nghĩa là, để quyền được bảo vệ của phụ nữ được đảm bảo, trước

31

hết xã hội cần phải được thay đổi ngay từ chính tư tưởng trọng nam khinh nữ

vốn dĩ đã ăn sâu vào đời sống từ những thiết chế vô hình nhỏ nhặt nhất. Tác

giả Leanne Atwater chỉ ra: "Đa số nam giới và nữ giới đều biết chính xác đâu

là giới hạn để không phạm phải hành động quấy rối tình dục. Nếu nói rằng tự

bản thân đàn ông không biết đâu là điểm dừng trong giao tiếp với phụ nữ, rồi

vô tình có những hành vi sai lệch, là nói sai. Hoặc nói phụ nữ luôn quan trọng

hóa vấn đề, luôn việc bé xé thành to, thì cũng nói sai luôn" [25]. Có nghĩa là

cả hai giới nam và nữ đều ý thức được chính xác đâu là "quấy rối", đâu là

"giao tiếp xã giao" nhưng với tất cả những trải nghiệm của một loạt nhân vật

nữ trong “Kim Ji Young – Born 1982” đã cho thấy ở Hàn Quốc, phụ nữ cảm

thấy không an toàn hơn nam giới.

Theo thống kê “Nhìn nhận về cuộc sống của phụ nữ từ thống kê năm

2019” của Hàn Quốc, tỷ lệ phụ nữ cảm thấy không yên tâm về khả năng phạm

tội năm 2018 là 57%, cao hơn nam giới (44,5%). Trong các thống kê này, an

toàn xã hội nói chung, tỷ lệ lo lắng cho các vụ tai nạn khác nhau và các vấn đề

an ninh đã giảm cho cả nam và nữ so với 10 năm trước. Tuy nhiên, sự gia

tăng duy nhất là tỷ lệ lo lắng về sự xuất hiện của tội ác của phụ nữ, mức tăng

duy nhất so với năm 1997 (51,5%), trong đó thống kê tồn tại và có thể so sánh

được, trong cùng thời gian, tỷ lệ lo lắng của nam giới giảm từ 48,8% (1997)

xuống còn 44,5% (2018). Sự gia tăng tỷ lệ tội phạm đối với phụ nữ cũng là

nguyên nhân gây tác động đến sự lo lắng đang gia tăng ở phụ nữ. Theo thống

kê của “Xu hướng xã hội tại Hàn Quốc năm 2018”, đã có 1.303 người bị bắt

vì bạo lực hẹn hò vào năm 2017, tăng 23,1% so với 8367 năm 2016. Tỷ lệ bạo

lực hẹn hò trên 100.000 dân tăng từ 16,2% trong năm 2016 lên 19,9% trong

năm 2018. Số lượng các khiếu nại quấy rối tình dục được đệ trình với các cơ

quan công cộng như truy tố và cảnh sát là cao nhất trong năm 2018 trong 5

năm qua. Theo loại tội phạm tình dục, hiếp dâm đã giảm, và tội phạm tấn

32

công hoặc bắn súng bất hợp pháp đã tăng lên. Văn phòng thống kê quốc gia

Hàn Quốc phân tích rằng khi các cơ quan thực thi pháp luật phản ứng với các

vụ việc, số vụ bắt giữ bạo lực hẹn hò tăng lên và số nạn nhân quấy rối tình

dục tăng lên do phong trào “MeToo” [8]. Phong trào Me Too cũng được coi

là một trong những phong trào nữ quyền mạnh mẽ trên thế giới với mục đích

đòi lại quyền được bảo vệ của phụ nữ qua việc kêu gọi các nạn nhân bị quấy

rối, lạm dụng và bạo hành tình dục đặt hashtag #MeToo trên các mạng xã hội

như một cách thể hiện rằng trên thế giới này có rất nhiều nơi xảy ra tình trạng

này mà chưa được phanh phui, thậm chí bị che lấp đi. Cụm từ đã được phổ

biến rộng rãi bởi Alyssa Milano – diễn viên, ca sĩ người Mỹ gốc Ý - khi cô

khuyến khích phụ nữ nói trên mạng xã hội Twitter về nó và cho mọi người ý

thức về tầm quan trọng của vấn đề. Cụm từ “Me Too” được Milano đưa lên

Twitter vào khoảng giữa trưa ngày 15 tháng 10 năm 2017 và đã được sử dụng

hơn 200.000 lần vào cuối ngày, và hơn 500.000 lần cho tới ngày 16 tháng 10.

Trên Facebook, #MeToo được sử dụng bởi hơn 4,7 triệu người trong 12 triệu

bài đăng trong 24 giờ đầu tiên. Trước phong trào Me Too, có một loạt phong

trào cũng là chia sẻ hashtag như #MyHarveyWeinstein, #YouOkSis,

#WhatWereYouWearing và #SurvivorPrivilege, các phong trào này cũng là

để chia sẻ các câu chuyện về bạo lực tình dục. “Mặc dù đã có sự gia tăng

thống kê về số lượng báo cáo và tiếp nhận do nhận thức về tội phạm tình dục

ngày càng tăng, nhưng nghịch lý, số lượng tội phạm không được đưa vào

thống kê đã đạt được vì thực tế là chúng chưa được báo cáo và tiếp nhận” [8].

Như vậy, thông qua câu chuyện về cuộc sống của những người phụ nữ

Hàn Quốc, nhà văn Cho Nam Joo cho rằng phụ nữ có quyền được xã hội bảo

vệ khỏi sự bắt nạt, bạo hành và quấy rối tình dục từ nam giới và đây là quyền

lợi chính đáng. Phương thức bảo vệ chính là sự thay đổi từ nhận thức của

chính phái nam, và cả sự tự bảo vệ mình của phụ nữ, từng tổ chức cần góp

33

phần thay đổi tư tưởng cũ bằng cách tự giáo dục nhận thức cho toàn bộ nhân

viên, mỗi gia đình cần có sự chia sẻ, thông cảm và hiểu cho con gái thay vì

cho rằng tất cả những hành động của đàn ông đều bắt nguồn từ phụ nữ.

2.2.2 Quan điểm về quyền được kết nối xã hội, quyền được chia sẻ và lắng nghe của người phụ nữ

Con người được sinh ra trong xã hội và sống trong xã hội như là một

phần của xã hội, phụ nữ cũng là con người nên họ cũng mong muốn được hòa

mình vào cộng đồng, nhất là khi cuộc sống của họ nằm trong luồng tư tưởng

không coi trọng phụ nữ xuyên suốt nhiều thế hệ thì nhu cầu được kết bạn,

tham gia các câu lạc bộ, tổ chức cộng đồng càng trở nên mạnh mẽ. Trên thực

tế, xã hội Hàn Quốc không cấm phụ nữ làm những điều đó, nhưng phụ nữ

thường bó mình với công việc gia đình nên họ không có thời gian ra ngoài xã

hội, chỉ khi được đi học, đi làm họ mới dần được đặt mình vào trong các mối

quan hệ bên ngoài như bạn bè, câu lạc bộ, các tổ chức đoàn thể… cho thấy

quyền được kết nối xã hội của phụ nữ bị chính họ tự hạn chế bởi công việc

gia đình và tư tưởng truyền thống.

Trong Kim Ji Young – Born 1982, hình ảnh người phụ nữ luôn gắn liền

với các công việc gia đình: bà Go Soon Boon – bà nội Ji Young – đã dành cả

đời để gánh vác gia đình với những công việc nặng nhọc và tiết kiệm từng

chút để lo cho gia đình, cuộc sống của bà không phải là không được ra ngoài

xã hội, nhưng khối lượng công việc nhiều như vậy khiến bà không thể dành

thời gian để suy nghĩ điều gì khác ngoài gia đình, thêm nữa thời đại bà sống

không cho phép phụ nữ được đi học, nên khoảng trời của những người phụ nữ

như bà nội Ji Young lại càng bó hẹp hơn nữa; mẹ Ji Young – bà Oh Mi Sook

– cũng gần như tương tự mẹ chồng mình, nhưng khác một chút là bà được đi

học và cố gắng tốt nghiệp được cấp III, nên bà đã nhận thức được rằng sâu

thẳm trong lòng mình là mong muốn cho con gái mình kết nối với cánh cửa

34

mở ra thế giới bằng tấm bản đồ thế giới thật to ở phòng và cho chị em Ji

Young đi học lên đến đại học; Ji Young hiện lên cũng là người phụ nữ tất bật

với việc chăm con nhỏ, quán xuyến việc nhà. Nếu như với bà nội và mẹ thì

nhu cầu kết nối xã hội còn mờ nhạt thì với Ji Young nhu cầu ấy mạnh mẽ hơn

nhiều, nhất là khi cô là một thiếu nữ: khi vào đại học cô đã chủ động tham gia

các câu lạc bộ trong trường để mở rộng mối quan hệ, hay các trung tâm văn

hóa, kết bạn và “ngạc nhiên thay, cô phát hiện ra mình rất thích có nhiều

người xung quanh, thích sự hòa đồng, thích làm việc nơi đông người” [10,

tr.102]. Suy nghĩ này có thể nói chính là sự mở mang trong nhận thức của

người phụ nữ đương thời khi từ trước đến giờ họ bị bó buộc với suy nghĩ rằng

mình là người sống nội tâm không hề có cơ hội để bộc lộ suy nghĩ, không có

chính kiến, đồng thời rất ít khi nói chuyện. Suy nghĩ đó của người phụ nữ

chính là kết quả của việc xã hội gắn nhiều thế hệ phụ nữ vào khuôn mẫu của

gia đình, rằng người phụ nữ không có quyền được nói lên tiếng nói của chính

mình, không được tham gia vào các hoạt động ngoài xã hội để giữ chuẩn mực.

Nhưng cũng chứng tỏ một điều rằng khi người phụ nữ được kết nối xã hội, họ

sẽ làm rất tốt.

Bên cạnh việc mong muốn được kết nối xã hội, phụ nữ Hàn Quốc cũng

rất mong muốn có được sự chia sẻ, đồng cảm từ gia đình và xã hội. Mong

muốn này thể hiện rõ nhất qua việc Kim Ji Young bị mắc chứng trầm cảm sau

sinh và liên tục hóa thân vào những người phụ nữ thân quen. Đầu tiên là sự

hóa thân vào Cha Seung Yeon – người chị cùng câu lạc bộ leo núi đã mất –

trò chuyện cùng Dae Huyn “Dae Huyn à, dạo này Ji Young mệt mỏi lắm. Có

những lúc cơ thể khá hơn một chút nhưng tâm trạng cô ấy lại bất an. Thế nên

cậu làm ơn hãy thường xuyên động viên rằng cô ấy đã làm rất tốt, cô ấy đã

vất vả nhiều rồi và cảm ơn cô ấy” [10, tr.23]. Đặt mình vào Dae Huyn lúc đó

có thể ta sẽ tưởng đây là vấn đề tâm linh, nhưng thực chất cách nói mượn lời

35

người khác khi ấy chính là lời từ lòng mình mà không có cách nào nói ra của

chính Ji Young đang sống trong một loạt áp lực từ gia đình, từ xã hội. Cách

nói này của Ji Young không chỉ xảy ra trong gia đình nhỏ của mình, mà nó đã

bộc lộ ra cả khi Ji Young đến thăm bố mẹ chồng, trước sự chứng kiến của

toàn thể gia đình khi mẹ chồng bất chợt hỏi cô có vất vả không “Ôi bà thông

gia ạ, thật sự là mỗi lần lễ tết là Ji Young nhà ta lại phát ốm ra đấy”, “Con rể

Jung! Anh cũng thế. Lần nào lễ tết cũng chỉ chăm chăm về Busan, sang nhà

vợ thì vừa đặt mông xuống đã đi rồi, lần này sang sớm một chút đi” [10, tr.29],

“Ông thông gia, tôi xin mạn phép được nói điều này. Chỉ có nhà ông là có gia

đình thôi sao? Chúng tôi cũng có gia đình chứ. Ba đứa nhà tôi cũng chỉ có

ngày lễ tết mới có thể gặp mặt nhau. Bây giờ cuộc sống của đám trẻ đứa nào

chẳng như vậy. Nhưng nếu con gái ông đã về thăm nhà rồi, thì cũng phải cho

con gái chúng tôi về thăm nhà chứ” [10, tr.30]. Cách nói mượn lời người khác

này của Kim Ji Young xuất phát từ thực trạng trong xã hội người phụ nữ

thường không nói ra bất cứ suy nghĩ, cảm xúc, ý kiến nào của mình và cho

rằng cứ giấu trong lòng còn tốt hơn, cho đến khi họ quá áp lực trước cuộc

sống, quá mệt mỏi với những suy nghĩ muốn đòi lại quyền của mình khiến

những lời nói đó như giọt nước tràn ly làm tất cả mọi người bất ngờ. “Đối với

phụ nữ, thời thơ ấu, một mặt được sống trong sự yêu thương che chở của

người thân, nhưng mặt khác họ vẫn được hưởng niềm vui của cuộc sống độc

lập. Đến khi trưởng thành, người phụ nữ lại bị nhốt chặt trong hiện tại, họ có

cảm giác bị trở thành những con hầu hay đồ vật và bi dồn vào trạng thái nội

tại và lặp đi lặp lại. Ngoài ra, những công việc nội trợ, chức năng làm vợ làm

mẹ đã vùi sâu hơn bản thân họ” [26, tr.82]. Điều này trong Kim Ji Young –

Born 1982 có nghĩa: người phụ nữ Hàn Quốc đã bị xã hội kìm kẹp với tư

tưởng trọng nam khinh nữ, khiến họ cảm thấy bị dồn nén và giá trị bản thân,

cái tôi bị vui sâu chôn chặt, cho đến khi đạt đến đỉnh điểm của nỗi cô đơn, sự

đấu tranh trong tâm hồn bộc phát khiến cho họ - đại diện là Kim Ji Young –

36

mới tìm cách gửi gắm tâm tư qua lời nói mang tư cách là người khác.

Trong Kim Ji Young – Born 1982, không phải chỉ đến khi làm vợ làm

mẹ Ji Young mới bộc lộ suy nghĩ mong muốn nhận được sự chia sẻ, mà suy

nghĩ đó đã có từ khi cô còn nhỏ, như việc mong muốn được gia đình quan tâm

đến niềm vui, nỗi lo lắng khi đến tuổi dậy thì cũng như khi mang thai và sinh

con; hay cách Ji Young chọn bạn trai cũng là những người chu đáo, luôn cùng

cô chia sẻ mọi điều trong cuộc sống. Nhà văn Cho Nam Joo đã xây dựng Kim

Ji Young là đại diện cho đa số phụ nữ Hàn Quốc, nên những suy nghĩ này

cũng chính là mong muốn, suy nghĩ của họ. Phụ nữ mong muốn được xã hội

đồng cảm với nỗi lo về sức khỏe khi mang thai chứ không phải ánh nhìn khó

chịu khi gặp phụ nữ gặp khó khăn khi đi tàu điện, lời giễu cợt trước những

“ưu đãi đặc biệt” ở chỗ làm khi phụ nữ mang thai của đồng nghiệp nam…

“Trong thực tế, tình cảm yêu thương giữa những con người luôn tồn tại trên

cơ sở trao đổi giữa hai đối tượng, chủ thể và khách thế, giữa phụ nữ và nam

giới. Với vai trò là chủ thể, phụ nữ luôn cảm thấy mình bị tước đoạt, thậm chí

bị cấm đoán mọi hoạt động, mọi công việc của giới nam” [26, tr.79] Xã hội là

thế giới rộng lớn mà không phải ai cũng dành cho nhau sự quan tâm chia sẻ,

nhưng gia đình là nơi thân thuộc nhất và là nơi người phụ nữ mong chờ hơn

cả, nên bà Mi Sook chờ đợi chồng mình động viên rằng nếu sinh con gái cũng

không sao cả, Ji Young mong chồng cùng chia sẻ việc chăm con như là việc

của người trong nhà chia sẻ với nhau chứ không phải là sự giúp đỡ của người

ngoài “Nhà này không phải nhà anh sao? Không phải cuộc sống của anh sao?

Và nếu em đi làm thì tiền đó mình em tiêu chắc? Vậy tại sao anh cứ nói giúp

giúp như kiểu việc của người ngoài thế?” [10, tr.173]. Rõ ràng người phụ nữ

trong thời đại nào cũng mưu cầu nhận được sự chia sẻ từ gia đình và xã hội,

và sự chia sẻ giúp cho phụ nữ mạnh mẽ hơn rất nhiều: khi đi phá bỏ đứa con

gái của mình, “chính nhờ lời xin lỗi của bà bác sĩ già năm đó mà mẹ Ji Young

mới không trở nên điên dại” [10, tr.39]; Kim Ji Young nếu không nhờ lời nói

37

cuối cùng của người phụ nữ âm thầm bảo vệ cô trên chuyến xe buýt bị theo

đuôi rằng “không phải lỗi của cô. Trên đời này vẫn còn rất nhiều đàn ông tốt”

[10, tr. 84] thì có lẽ phải rất lâu sau cô mới có thể thoát khỏi nỗi khủng hoảng

ấy; hay khi Ji Young nhận được lời chia sẻ, động viên của bạn trai thì “cô cảm

giác như những bông tuyết cũng đang nhẹ nhàng rơi trong lòng mình, vừa

tràn đầy lại vừa trống rỗng, vừa ấm cúng lại vừa mát mẻ” [10, tr. 133] cô như

được tiếp tục động lực tiến về phía trước và sống thật tốt.

Như vậy, trong Kim Ji Young – Born 1982 nhu cầu được chia sẻ và

lắng nghe của phụ nữ xuất phát từ hoàn cảnh họ chịu ảnh hưởng từ tư tưởng

đi trước, có thói quen không bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc, mong muốn của mình

khiến những nhu cầu đó càng có tầm quan trọng trong cuộc sống. Không phải

xã hội không nhận thức được việc con người có nhu cầu chia sẻ và lắng nghe,

họ vẫn yêu cầu tập thể lắng nghe, thông cảm và chia sẻ với nỗi vất vả, trách

nhiệm của đàn ông, mà là chính tư tưởng phân biệt giới tính, “trọng nam

khinh nữ” khiến nhu cầu này của phụ nữ không được xã hội coi trọng.

2.2.3 Quan điểm về quyền được đánh giá, tôn trọng và khẳng định mình của người phụ nữ

Kim Ji Young – Born 1982 cho ta thấy ở Hàn Quốc, người phụ nữ

không được đánh giá đúng về bản thân và thậm chí phủ nhận công sức họ

đóng góp, nhưng dần dần phụ nữ đã tự nhận thức được giá trị công lao mình

bỏ ra, nên họ đã có những suy nghĩ và tiếng nói để khẳng định bản thân, yêu

cầu xã hội có đánh giá đúng về họ.

Trước hết, phụ nữ Hàn Quốc mong muốn gia đình và xã hội đánh giá

đúng về giá trị và năng lực của bản thân trước thực trạng xã hội có những

đánh giá thấp hay phủ nhận họ, thậm chí trước đó, chính người phụ nữ cũng

không có đủ nhận thức để đánh giá được giá trị của mình. Hầu hết các xã hội

đều cho rằng đàn bà sẽ làm công việc về sinh đẻ và chăm sóc con trẻ trong khi

38

đàn ông sẽ làm công việc bảo vệ và hỗ trợ họ về mặt kinh tế, nhưng trên thực

tế ở Hàn Quốc phụ nữ lại là lao động chính trong gia đình và là người hỗ trợ

về mặt kinh tế cho đàn ông. Trong Kim Ji Young – Born 1982, bà nội Ji

Young đã làm việc cật lực chăm sóc cho gia đình mà không hề nhận thức

được giá trị mình tạo ra, việc bà nỗ lực kiếm tiền ở đây chỉ là vì ở thời của bà

người phụ nữ nào cũng vậy, đã trở thành truyền thống được nối tiếp từ đời

này sang đời khác. Đến thế hệ bà Mi Sook, người phụ nữ đã dần nhận thức

được giá trị của bản thân mình được tạo nên bởi năng lực vốn có khi ông chú

lái xe tải khen bà có đôi bàn tay khéo léo nên học mĩ thuật hay một nghề thủ

công nào đó hay vì cuộn giấy dán cửa. Năng lực của mẹ Ji Young được khẳng

định qua việc “người ta truyền tai nhau về mẹ Ji Young […] thực sự có đôi

bàn tay khéo léo cùng tài năng ngoài dự kiến” [10, tr 44], bà Mi Sook cũng tự

khẳng định “Hồi mẹ còn học tiểu học, trong số năm anh chị em thì mẹ học

giỏi nhất đó. Mẹ còn học giỏi hơn cả bác nữa kìa” [10, tr. 47]. Thế hệ phụ nữ

trẻ như Ji Young lại càng có năng lực nhiều hơn nữa: khi bắt đầu đi học tiểu

học – môi trường xã hội đầu tiên – cô đã làm rất tốt, luôn tới trường một cách

bình an, không bao giờ lạc đường hay đi theo đường khác, cô ghi chép cẩn

thận các nội dung cô giáo chép trên bảng vào trong vở, chép chính tả cũng

luôn được 100 điểm; các thầy cô ở trường đều khẳng định rằng học sinh nữ

thì thông minh hơn, học giỏi hơn, nói năng rành mạch và chính xác hơn [10,

tr.60], điều này được chứng minh cụ thể nhất qua lời kể về nữ tiền bối “luôn

là thủ khoa trong khối, điểm ngoại ngữ rất cao, các giải thưởng đã nhận được,

kinh nghiệm thực tập, bằng cấp, hoạt động tình nguyện và hoạt động câu lạc

bộ chị ấy đều không thiếu bất cứ hạng mục nào” [10, tr.118]. Rõ ràng thực tế

phụ nữ hoàn toàn có năng lực cao để hoàn thành tất cả các công việc dù là

công việc chân tay hay công việc trí óc, và xã hội cũng nhìn nhận được điều

đó, thế nhưng “trong xã hội mà giá trị của người phụ nữ không được coi trọng,

thì người phụ nữ bắt đầu chuyển từ vị trí là người tạo ra giá trị, là những

39

người thiết lập các mạng lưới quan hệ trao đổi và có quyền sử dụng những cơ

chế được công bố một cách công khai để điều hòa lợi ích của phụ nữ, sang vị

trí người phục dịch trong gia đình nhà chồng hay trong các nhóm thân tộc của

họ” [19].

Hàn Quốc đi theo nền kinh tế tư bản và đã phát triển vượt bậc, nhưng

“dù bản chất cụ thể của quá trình một dân tộc dính líu đến chủ nghĩa tư bản

như thế nào chăng nữa thì chiều hướng thay đổi cuối cùng cũng đều cùng

chung một kết quả: cá nhân hóa và tha hóa lao động, cá thể hóa gia đình hạt

nhân và việc hạ thấp phụ nữ xuống thành lao động không công trong gia đình

và lao động xã hội với tính cách là lực lượng lao động không ổn định và

không được trả lương thỏa đáng” [19]. “Trong một nghiên cứu về cấu trúc

công việc thay đổi của dịch vụ nội địa ở Hàn Quốc thế kỷ XX của Kang

Yisoo, lao động dịch vụ việc nhà thường đề cập đến lao động ủy nhiệm hỗ trợ

hoặc hỗ trợ việc nhà của các bà nội trợ, đó là một công việc có tính chất tiền

hiện đại, như mức lương thấp và mối quan hệ việc làm xác định tình trạng, và

dự kiến sẽ biến mất khi nó trở nên công nghiệp hóa, tuy nhiên, nó đã tiếp tục

là một công việc chính đối với phụ nữ và gần đây nó đã tăng đáng kể đến mức

được cho là sự hồi sinh của lao động dịch vụ gia đình” [24]. Bất đình đẳng

giới ở Hàn Quốc cũng thể hiện qua chính điều này, khi mà công việc thường

được đàn bà làm nhất, như là dạy con trẻ và nuôi dưỡng chúng, được trả

lương ít hơn các công việc đàn ông thường làm nhất, như là xây dựng và khai

mỏ. Hàn Quốc là nước có tỉ lệ chênh lệch thu nhập giữa nam và nữ lớn nhất

trong số các nước thành viên của OECD. Theo thống kê năm 2014, nếu nam

giới kiếm được 1.000.000 won thì nữ giới chỉ được nhận 844.000 won, đây là

mức bình quân của các nước OECD, nhưng ở Hàn Quốc nữ giới chỉ nhận

được 633.000 won. Theo tờ Economist của Anh, các chỉ số “trần kính” của

Hàn Quốc cũng ở mức thấp nhất trong số các quốc gia được khảo sát, và đây

40

cũng là đất nước có môi trường làm việc mệt mỏi nhất cho phụ nữ [10, tr.154].

“Theo báo cáo, phụ nữ ở độ tuổi 20 tốt nghiệp đại học, ngay cả khi nền tảng

gia đình, trường học, khoa và tín chỉ giống như nam giới, trong khi kiểm soát

tất cả các biến như 370 trường cao đẳng, 205 chuyên ngành, tín chỉ, đào tạo

ngoại ngữ, và chi nhánh trường trung học. Người ta nhận thấy rằng trong

vòng 2 năm, 82,6% tiền lương của nam giới đã được nhận. Bằng cách xếp

hạng, phụ nữ từ các trường đại học xếp hạng cao hơn gặp bất lợi về thu nhập

lớn hơn so với nam giới từ các trường đại học 4 năm hoặc xếp hạng thấp hơn.

Người ta đã lập luận rằng phụ nữ thu nhập thấp ở độ tuổi 20 là do đàn ông tập

trung ở các trường kỹ thuật thu nhập cao, nhưng nghiên cứu chứng minh rằng

phụ nữ, bất kể làm công việc gì, đều có thu nhập thấp hơn nam giới” [8].

Trước tình trạng này, những người phụ nữ đã lên tiếng yêu cầu xã hội

công nhận năng lực và công sức mình bỏ ra, trong Kim Ji Young – Born 1982,

bà Mi Sook không dưới một lần yêu cầu chồng đánh giá đúng công lao “Bố

Eun Young, không phải mình làm em vất vả, mà cả hai chúng ta đều vất vả.

Mình không cần phải nói xin lỗi, và cũng đừng than thở như thể một mình

mình phải gánh vác cái gia đình này vậy. Chưa một ai nói như vậy, và thực tế

thì cũng không phải như vậy” [10, tr.43], “Cuộc đời mình được như bây giờ

cũng đúng là một sự thành công thật, nhưng sự thành công đó không phải là

công sức của một mình mình, nên hãy liệu mà đối xử tốt với tôi và các con đi”

[10, tr.107], công sức của bà bỏ ra cũng được bà đong đếm rành mạch với

chồng “Một nửa thế nào mà một nửa. Ít nhất cũng phải 7/3 chứ? Tôi 7 phần,

mình chỉ 3 thôi” [10, tr.107]. Đa số cuộc đời của người phụ nữ đều như vậy,

làm việc cật lực để chăm sóc cho gia đình, nhưng mấy ai được như bà Mi

Sook? Kim Ji Young lại không được mạnh mẽ như mẹ mình, khi xã hội đánh

giá sai về phụ nữ, suy nghĩ muốn đòi lại công bằng của cô chỉ diễn ra nội tâm

“Trường mình buồn cười thật nhỉ? Hồi nào mới nói là phụ nữ quá thông mình

41

thì khiến người ta mệt mỏi, đến khi người ta tự mình chuẩn bị và thi đỗ mà

chẳng có sự trợ giúp của trường thì lại trở thành niềm tự hào của trường” [10,

tr.120], hay lời tự hỏi bản thân “Liệu có công bằng không khi người ta muốn

lập tức có hiệu quả hữu hình hiện ngay trước mắt. Trong cái thế giới bất công

này, điều gì sẽ tồn tại tới cuối cùng?” [10, tr.153] khi năng lực của mình

không được ghi nhận chỉ vì cô là phụ nữ. Có thể thấy ý nghĩa của việc tái hiện

một môi trường công sở bất công cho phụ nữ là: bản chất nam và nữ không

khác biệt một trời một vực như đa số vẫn luôn nghĩ, thực tế, những khác biệt

đó được hình thành do định kiến và kỳ vọng của xã hội, môi trường sống và

cách giáo dục.

Trong Lời mở đầu của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 có

viết “Xét rằng việc thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và những quyền bình đẳng

bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần tử trong đại gia đình nhân loại là

nền tảng của tự do, công lý và hoà bình thế giới. Xét rằng việc coi thường và

khinh miệt nhân quyền đã đưa tới những hành động dã man làm phẫn nộ

lương tâm nhân loại, và việc đạt tới một thế giới trong đó mọi người được tự

do ngôn luận và tự do tín ngưỡng, được giải thoát khỏi sự sợ hãi và khốn cùng,

được tuyên xưng là nguyện vọng cao cả nhất của con người”. Phụ nữ cũng là

con người, nên họ có quyền được xã hội tôn trọng thông qua lời nói và hành

động đúng mực. Trong Kim Ji Young – Born 1982, quyền được tôn trọng của

phụ nữ thể hiện rõ nhất khi tác giả viết về cuộc sống của Ji Young khi trưởng

thành, nhất là khi đi làm và đối mặt với thực tế rằng xã hội Hàn Quốc đương

thời thực sự không dành nhiều sự tôn trọng đối với phái nữ khiến họ chịu

những thiệt thòi cả về thể xác lẫn tinh thần.

Người đọc Kim Ji Young – Born 1982 và ủng hộ nó đa phần là phụ nữ,

vì tiểu thuyết đã phản ánh mặt tối nhất trong tư tưởng coi thường phụ nữ đã

ăn sâu vào lối sống, lối hành xử của đàn ông. Lần đầu tiên Ji Young cảm thấy

42

mình không được tôn trọng là khi cô vô tình nghe được lời mỉa mai rằng cô là

miếng kẹo cao su người khác đã nhổ đi từ miệng người anh khóa trên bình

thường vẫn luôn giữ thái độ đúng đắn và cư xử đúng mực; sau đó là trải

nghiệm qua các buổi tuyển dụng có những câu hỏi nhạy cảm, “những chỉ trích

về ngoại hình, bị giễu cợt về cách ăn mặc, rồi cả những ánh mắt quỷ quyệt

nhìn vào các bộ phận cơ thể của cô, hoặc đôi khi cả những sự tiếp xúc cơ thể

không cần thiết” [10, tr.126]; khi gặp đối tác, các đối tác là nam giới phần lớn

là những người đàn ông lớn tuổi và có chức vụ cao thường xuyên nói đùa

những câu đùa vô vị, có khi còn nói đùa rằng Ji Young không biết có phải cô

gái đậu tương – chỉ các cô gái thích ăn bám; khi đến những buổi tiệc liên hoan,

“nhân viên nữ thường xuyên bị ép rượu, trêu đùa cả những điều thuộc phạm

trù nhạy cảm khiến người ta không thể cười nổi, như khung thành phải có thủ

môn thì bàn thắng mới vui, rồi thì chỉ có người phụ nữ chưa làm chuyện ấy

bao giờ chứ không có người phụ nữ nào chỉ làm một lần” [10, tr. 143]; đến

gần cuối tác phẩm, Ji Young khi cùng con đi dạo và uống cafe đã nghe được

rằng hóa ra với xã hội, mình – và những người phụ đang ở nhà chăm con – là

“sâu ăn bám”… Tất cả trải nghiệm mà Ji Young cùng các đồng nghiệp nữ trải

qua chứng tỏ rằng ở Hàn Quốc, đàn ông đã vô tình được xã hội trao cho

quyền được bắt nạt và coi thường phụ nữ, tình trạng này cho đến ngày nay

không chỉ Hàn Quốc mà ở một số quốc gia trên thế giới vẫn tồn tại.

Đối mặt với sự khiếm nhã từ những người đàn ông xung quanh, Kim Ji

Young cùng những người phụ nữ bên cô có nhiều cách phản ứng khác nhau.

Ji Young – đại diện cho đa số phụ nữ Hàn Quốc – thường chọn cách im lặng,

chịu đựng trong những suy nghĩ buồn tủi và ấm ức: “Vậy thì tôi phải bẻ cổ tay

thằng cha đó làm hai! Còn cả anh nữa, anh cũng có vấn đề nốt! Phỏng vấn mà

lại hỏi câu hỏi như vậy cũng là quấy rối tình dục đó! Các anh cũng đâu có hỏi

các ứng viên nam câu hỏi đó đúng không?” [10, tr.126], Ji Young tự nói với

43

chính mình trong gương, nhưng trong lòng không thoải mái chút nào, khi ngủ

cũng cảm thấy ấm ức đến bốc hỏa nên đã đạp chăn ra mấy lần liền, đôi khi cô

suy nghĩ đến việc trốn tránh phỏng vấn, trì hoãn tốt nghiệp, hay là mình nghỉ

học luôn, hay là mình đi học ngôn ngữ; trước câu hỏi nhạy cảm khi tuyển

dụng, Ji Young lựa chọn cho mình câu trả lời ở khoảng giữa “Tôi sẽ đi vào

nhà vệ sinh hoặc giả vờ lấy tài liệu để tránh đi một cách tự nhiên” [10, tr. 124];

cười gượng gạo và đổi chủ đề cuộc trò chuyện trước những câu đùa vô vị của

đối tác; đến khi làm vợ làm mẹ, cô chỉ thể hiện cảm xúc buồn tủi của mình

với chồng chứ không thể hiện ở ngoài xã hội. Bên cạnh những người phụ nữ

truyền thống cũng có những tiếng nói mạnh mẽ hơn: nữ ứng viên cuối cùng

đã trả lời tình huống đó “rõ ràng là hành vi quấy rối tình dục, rằng cô sẽ chú ý

và nếu như khách hàng không thay đổi thì cô sẽ nhờ pháp luật can thiệp” [10,

tr124]; trưởng phòng Kim Eun Sil bực bội khi phải đến buổi liên hoan “Họ

cũng biết chúng ta tới những chỗ đó cũng không thoải mái. Muốn cảm ơn mà

bắt người ta đi ăn, đi uống rượu thì không phải hơi quá rồi sao? Rồi lại nợ

người ta một bữa ăn nữa. Ôi, thực sự là đáng ghét mà, tôi sẽ chỉ chịu đựng nốt

hôm nay thôi” [10, tr.141]. Rất nhiều người phụ nữ xung quanh chúng ta cũng

giống như Kim Ji Young, nhắm mắt bỏ qua và không nói điều gì, bởi họ có

thể đoán trước được những điều gì sẽ xảy đến nếu họ nói ra điều mình muốn

nói, và việc đó chỉ khiến họ nhận lại sự mệt mỏi cũng như chán chường. Họ

đều không nói ra bất kì suy nghĩ, cảm xúc, ý kiến nào của mình và cho rằng

cứ giấu trong lòng thì tốt hơn. Dù vậy thì cũng có một số ít phụ nữ dám nói

lên tiếng nói của mình. “Những người phụ nữ này không phải không cảm thấy

mệt mỏi và chán chường. Chỉ là họ đồng cảm vì họ cũng từng trải qua những

việc như vậy và nhận được sự cổ vũ từ một ai đó, nên họ đã lấy hết can đảm

đứng lên vì mình, vì những người khác” [10, tr.13].

Trong Kim Ji Young – Born 1982, người phụ nữ có xu hướng tự khẳng

44

định mình rất mạnh mẽ. Trong thời đại coi trọng giá trị của sự đa dạng và cá

tính thì nhân vật tiêu biểu cho người phụ nữ - Kim Ji Yong – mang một ý

nghĩa nhất định, đó là tìm ra cái tôi của chính mình [10, tr.6]. “Xã hội hiện đại

dựa trên các lý tưởng hoạt động sáng tạo, tính tích cực hoạt động sáng tạo của

cá nhân tự chủ” [2], nhưng xã hội Hàn Quốc cùng tư tưởng phân biệt giới đã

kìm hãm sự năng động sáng tạo của phụ nữ, một mặt khiến phụ nữ không

phát huy hết vai trò, giá trị, một mặt thúc đẩy họ đấu tranh đòi lại quyền được

khẳng định cái tôi và năng lực của mình. “Nếu xét đến cái tôi của nữ giới Hàn

Quốc thì hơn một nửa rất giống nhau, bởi những đặc thù về giới cũng bị ảnh

hưởng mạnh mẽ từ những phạm trù cá nhân như tình yêu, kết hôn, gia đình,

sinh đẻ, nuôi con, già đi hay những phạm trù chung như kinh tế, tôn giáo,

chính trị, thông tin, trường học,…” [10, tr. 6].

Ở phần trên ta đã nói rằng bà Oh Mi Sook – mẹ Ji Young – đã mong

muốn xã hội đánh giá đúng năng lực của mình nhưng không dừng lại ở đó, sự

tự khẳng định mình của bà thể hiện ở việc bà đã giao con trai út cho mẹ chồng

để theo học tại một trung tâm dạy nghề không phải với ý định lấy chứng chỉ

làm mục tiêu hàng đầu, mục tiêu của bà bên cạnh việc có thêm thu nhập thì

mong muốn năng lực của mình có tác dụng, bản thân bà được khẳng định bởi

xã hội có lẽ là điều quan trọng hơn cả. Không phải đến khi ông chú lái xe

khen ngợi về đôi tay thì bà Mi Sook mới có nhu cầu tự khẳng định mình, khi

còn phải làm việc cật lực chăm sóc cho gia đình thì bà và chị gái vẫn nuôi hi

vọng rằng họ có cơ hội trong gia đình, kể cả đến khi họ nhận ra mình không

được gia đình công nhận công sức, họ vẫn quyết định đi học muộn tại một

trường học liên kết với doanh nghiệp, ban ngày thì làm việc, đêm thì học bài,

với nỗ lực của mình, bác gái Ji Young tốt nghiệp được cấp hai còn mẹ Ji

Young cũng tốt nghiệp cấp III. Xã hội Hàn Quốc không trao cho những người

phụ nữ quyền được tự khẳng định mình, nhưng không có nghĩa những người

45

phụ nữ ở đây chấp nhận điều đó. Khi nhìn vào cuốn sổ liên lạc của Ji Young,

bà Mi Sook nói “Mẹ cũng muốn làm giáo viên”, sau đó là chuỗi cảm giác hối

hận vì những quyết định trong quá khứ khiến cho bà không có cơ hội được

làm công việc mình yêu thích. Chính vì cuộc đời bà đã không được làm điều

mình thích, nên đến Eun Young, bà cuối cùng cũng đã đồng ý cho con gái

được đăng kí trường truyền thông sau những tranh cãi với con gái lớn khi có

hai hướng đi: một là theo con đường sư phạm ổn định – một công việc phù

hợp với những người đang nuôi con, công việc người ta cho là phù hợp với

phụ nữ nhất; hai là theo trường truyền thông với ước mơ làm Giám đốc sản

xuất chương trình truyền hình – lại là công việc với tương lai còn mơ hồ. Eun

Young đã thuyết phục mẹ rằng cô đã có công việc mình thích, quan điểm về

nghề giáo viên “đúng là công việc tốt cho người đang nuôi con thật. Nhưng

nếu thế thì ai làm cũng tốt chứ sao lại chỉ là công việc tốt cho phụ nữ?” [10,

tr.86], “Còn nữa, con còn không biết liệu mình có kết hôn hay không, có sinh

con hay không. Chưa biết chừng con còn chết trước khi kịp làm những việc

đó nữa kìa. Vậy vì sao con lại phải sống cuộc sống không thể làm điều mình

muốn làm, chỉ để đối phó với tương lai còn chưa biết sẽ xảy ra những chuyện

gì nữa?” [10, tr.88]. Những câu nói này của Kim Eun Young chính là việc đòi

lại quyền được khẳng định mình của phụ nữ mạnh mẽ nhất, hành động dán

sticker lên những đất nước Bắc Âu với lí do ở đó dường như có ít người Hàn

Quốc sinh sống nói lên một thực trạng rằng Hàn Quốc không có nơi để phụ

nữ tự khẳng định mình, sống cuộc đời của riêng mình, khao khát được quyền

khẳng định mình của những người phụ nữ ở đất nước này vô cùng mạnh mẽ.

Trong câu lạc bộ ở trường đại học, nam sinh thường coi nữ sinh là phái yếu

cần được hỗ trợ nhưng công việc nặng nhọc, chỉ cần tồn tại với vai trò “trở

thành sức mạnh của bọn anh”, nhưng Cha Seung Yeon nói “Em không tới đây

để trở thành sức mạnh cho anh đâu ạ. […] Em thực sự muốn nghỉ từ lâu rồi

nhưng vẫn cố tham gia vì thật sự muốn nhìn thấy nữ hội trưởng” [10, tr.111].

46

Trưởng phòng Kim Eun Sil lựa chọn thay vì ở nhà chăm con nhu bao người

phụ nữ khác, cô trở lại công ty tiếp tục với công việc lãnh đạo. “Nhân tố quan

trọng nhất ảnh hưởng đến lựa chọn thế giới quan của cá nhân là việc đặt ra và

tìm kiếm giải pháp của nó cho những vấn đề có ý nghĩa sinh tồn (lẽ sống) của

cá nhân. Câu hỏi về ý nghĩa (giá trị) của đời sống trần thế là cơ sở căn bản,

quan thiết của tư duy hiện sinh trong bất kỳ thế giới quan nào. Xét trên bình

diện cá nhân, vấn đề này thường thể hiện dưới hình thức câu hỏi: Ta sống để

làm gì?” [2] Kim Ji Young không nằm ngoài xu hướng đề cao cái tôi cùng

năng lực khi cô cố gắng thi đỗ đại học, lựa chọn công việc mình yêu thích, và

nỗ lực trong công việc để được vào phòng kế hoạch. Việc trở thành lãnh đạo

một tổ chức trong Kim Ji Young – Born 1982 đã trở thành phương tiện cao

nhất để người phụ nữ khẳng định mình. Chủ nghĩa Mác đánh giá cao vai trò

của những người lãnh đạo, quản lý – những con người biết vận dụng lực

lượng thực tiễn trong đó có phụ nữ; luôn coi vấn đề giới là vấn đề quan trọng

gắn với các vấn đề cơ bản của đời sống xã hội như phương thức sản xuất,

cách mạng xã hội, giải phóng con người, giải phóng giai cấp… [12, tr.11]

Quyền khẳng định mình của phụ nữ trong tiểu thuyết cũng được Cho Nam

Joo nhắc đến bằng việc tái hiện những suy nghĩ của Kim Ji Young “Có lẽ là

cô phải ngồi xuống và nỗ lực nhiều hơn, còn nếu không được thì phải tự mình

đục tường mà thoát ra” [10, tr.153], sự nhiệt huyết với công việc của Ji Young

trải dài suốt từ lúc cô bắt đầu đi làm cho đến khi cô phải nghỉ làm ở nhà chăm

con: “đó không phải là công việc kiếm được nhiều tiền, có tiếng nói, cũng

không phải một công việc có thể làm được một điều gì đó to tát, nhưng trên

tất cả, đối với Ji Young đó là công việc mang lại niềm vui” [10, tr.175], khi

làm việc ở công ty sự kiện, Kim Ji Young đã luôn muốn trở thành một phóng

viên. Thực tế thì việc trở thành phóng viên của cơ quan ngôn luận nào đó rất

khó, nhưng cô vẫn muốn thử sức làm phóng viên tự do hay một người viết

sách báo tự do, hay suy nghĩ “Việc để người khác chăm con hộ không phải là

47

không yêu con, nghỉ việc ở nhà chăm con cũng không phải là đã hết nhiệt

huyết với công việc” [10, tr.175] cũng chứng tỏ rằng nội tâm bên trong của Ji

Young luôn mong muốn khẳng định mình trong công việc, hơn nữa là khẳng

định cái tôi của mình trong cuộc sống.

Năm 1999, khi Kim Eun Young tròn 20 tuổi, chính phủ đã ban hành

đạo luật cấm phân biệt đối xử giữa nam và nữ, và năm 2001 khi Kim Ji

Young tròn 20 tuổi, Bộ Phụ nữ được thành lập. Thế nhưng vào những thời

khắc quyết định thì cái mác “phụ nữ” lại được ngấm ngầm đưa ra để che lấp

tầm nhìn của họ, chặn những bàn tay cố gắng và kéo họ lùi lại phía sau [10,

tr.88]. Những điều này cho thấy ở Hàn Quốc, sự dân chủ chỉ là vỏ bọc bên

ngoài của cái lõi thực chất là sự phân biệt đối xử giới tính. Người phụ nữ

dường như mất đi cuộc sống của mình, ước mơ và cả chính bản thân mình,

việc chăm sóc con cái, thế hệ tương lai không phải nghĩa vụ riêng của phụ nữ

mà là việc của toàn xã hội, nên nhiều người tỏ ra phẫn nộ khi thực tế rất nhiều

người phụ nữ phải một mình chăm sóc con cái. „Giữa thế giới kì thị phụ nữ

thì tình mẫu tử cũng bị áp đặt như một thứ tôn giáo, việc thần thánh hóa tình

mẫu tử hay kì thị phụ nữ, coi họ là sâu ăn bám thực ra đều là cách để trói buộc,

kìm hãm người phụ nữ. Như vậy thì làm sao phụ nữ có thể giữ được cái tôi

nữa đây?” [10, tr.16]

Như vậy, nữ quyền trong tác phẩm Kim Ji Young – Born 1982 được tác

giả thể hiện thông qua cuộc đời của Kim Ji Young – nhân vật đại diện cho đa

số phụ nữ Hàn Quốc – trong một đất nước mang nặng tư tưởng hạ thấp phụ

nữ: tất cả các quyền được sống, được đáp ứng nhu cầu cơ bản trong cuộc sống,

được bảo vệ, được kết nối xã hội, được chia sẻ, lắng nghe, được đánh giá

đúng, tôn trọng và được khẳng định mình của phụ nữ không được coi trọng

tại Hàn Quốc; nằm trong bối cảnh đó, phụ nữ Hàn Quốc không ngừng đấu

tranh để khẳng định các quyền của mình bằng cả suy nghĩ, lời nói và hành

48

động.

Đánh giá về quan điểm phụ nữ có quyền được đánh giá đúng, được tôn

trọng và tự khẳng định mình, có thể thấy đây là sự đấu tranh không ngừng

nghỉ của những người phụ nữ trong Kim Ji Young – Born 1982 nói riêng và

đó cũng là những con người đại diện cho phụ nữ Hàn Quốc nói chung. Có thể

nhận thấy mặc dù trong xã hội Hàn Quốc, phụ nữ vẫn thường không được tôn

trọng và đánh giá đúng do những tư tưởng từ trước để lại, nhưng thông qua

cuốn tiểu thuyết của mình, nhà văn Cho đã khẳng định rằng phụ nữ hoàn toàn

có thể đảm nhận được những nhiệm vụ lãnh đạo và làm được những công

việc như nam giới. Tất nhiên, trong việc đảm nhận các vai trò chủ chốt trong

một tổ chức, người phụ nữ cũng có những mặt hạn chế về thể lực và sức chịu

đựng, những khó khăn do áp lực công việc tại Hàn Quốc rất nặng nề, căng

thẳng; sự hạn chế về tư duy khái quát, hệ thống, tính quyết đoán mạnh mẽ

trong một số tình huống làm giảm hiệu quả làm công việc lãnh đạo của phụ

nữ (như tình huống trưởng phỏng Kim Eun Sil dù không muốn đi liên hoan

nhưng cũng chỉ biết tức giận nói với nhân viên nữ); “để làm tốt vai trò người

lãnh đạo, người phụ nữ vẫn không và không nên bỏ quên, sao nhãng hay từ bỏ

thiên chức của phái tính – điều này có nghĩa con người chính trị trong phụ nữ

đồng thời còn là con người trong cuộc sống đời thường. Cùng một lúc phải

đóng nhiều vai trò trong cuộc sống, giải quyết nhiều mối quan hệ như vậy sẽ

khiến phụ nữ nhiều khi căng thẳng, xung đột dẫn đến bế tắc, bất hạnh” [12,

tr.24]. Đây cũng có thể là lý do khiến phụ nữ Hàn Quốc nói riêng và xã hội

Hàn Quốc nói chung phải chịu áp lực nặng nề khiến những bất ổn từ thể chất

lẫn tinh thần trở nên đỉnh điểm, khiến Hàn Quốc trở thành một trong những

49

đất nước có tỷ lệ tự sát, trầm cảm cao nhất thế giới.

2.3 Một số giá trị và hạn chế trong tƣ tƣởng về nữ quyền trong tác phẩm “Kim Ji Young – Born 1982”

2.3.1 Giá trị

Tiểu thuyết Kim Ji Young – Born 1982 cho thấy rõ ràng quan điểm về

nữ quyền được đặt trong mối quan hệ với xã hội, cụ thể là mối quan hệ giữa

phụ nữ và xã hội vẫn còn những định kiến về phụ nữ tồn tại trong đất nước

Hàn Quốc. Mặc dù còn nhiều hạn chế và chưa đầy đủ nhưng về cơ bản nó có

nhiều giá trị nổi bật, cần thiết phải bổ sung, phát triển đề phù hợp hơn cũng

như làm sự kế thừa cho những quan điểm nữ quyền tiếp theo, và trở thành

một trong những phương tiện truyền đạt cho phong trào nữ quyền trên thế

giới. Có thể khái quát và đưa ra một số giá trị tích cực chủ yếu sau đây của

vấn đề trong tác phẩm.

Thứ nhất, quan điểm về nữ quyền trong Kim Ji Young – Born 1982 đã

cho thấy nhận thức về nữ quyền của phụ nữ ở Hàn Quốc đã có sự phát triển

mạnh mẽ mặc dù đứng giữa một xã hội với tư tưởng trọng nam khinh nữ vốn

tồn tại qua nhiều thế hệ. Nữ giới ở phương Đông vô hình chung bị gán vào

dạng đối tượng bị chi phối bởi thần quyền (tôn giáo) và thế quyền (chế độ

phong kiến), mà Hàn Quốc là một đất nước mà phụ nữ bị chi phối với lễ giáo

Khổng Tử nặng nề. Sự chi phối đó phản ánh trong việc người phụ nữ như một

sự phụ thuộc, lệ thuộc thân phận, phẩm hạnh đối với nam giới (đối tượng

được cho là gắn với sức mạnh và trí tuệ). Triết lí Nho giáo Trung Hoa đã

mang dấu ấn sắp đặt nguồn gốc của người nữ ngay từ đầu là sự phục tùng,

chịu đựng một cách mù quáng trong xã hội. Phải đến thời kì Phục hưng và

đặc biệt trào lưu khai sáng ở phương Tây cho đến nay, tinh thần truyền thống

của người phụ nữ mới có cơ hội phản bác mọi lí lẽ duy ý chí của thiết chế xã

hội và tư tưởng cũ. Thông qua các trào lưu tư tưởng và thay đổi xã hội, phụ

nữ đã nhận thức được rõ thân phận, giá trị của bản thân mình và ngày càng tỏ

50

rõ cho xã hội thấy vai trò cống hiến tích cực của mình cho xã hội, phê phán và

thay đổi các loại hình áp bức với tư cách là con người cá nhân giống như nam

giới, không phải là phái yếu hơn. Chính xã hội Hàn Quốc với sự bất bình

đẳng giới, đặt nữ giới vào thế bất lợi đã khiến cho nhà văn có cảm hứng viết

lên cuốn tiểu thuyết Kim Ji Young – Born 1982, trong một bài phỏng vấn, Cho

Nam Joo tâm sự: “Tôi muốn trải nghiệm của Kim Ji Young phải được xem

xét là do giới tính của cô ấy chứ không phải do những khó khăn kinh tế hay

hạn chế nảy sinh từ địa phương chủ nghĩa”. Hơn ai hết, tác giả muốn thể hiện

được “một người phụ nữ Hàn Quốc bình thường trong thực tế sống một đời

sống như thế nào”. Quả thật, Kim Ji Young không phải chỉ là một cá thể đơn

lẻ bị cướp mất tiếng nói mà còn là hiện thân của bất kỳ một phụ nữ nào bị

phân biệt đối xử. “Ngột ngạt và thương cảm” là cảm xúc của tác giả khi viết

tiểu thuyết này.

Chủ nghĩa Mác cho rằng “việc giải phóng phụ nữ lao động cũng thế, nó

phải là sự nghiệp của bản thân phụ nữ” [6, tr.130]. Cuốn tiểu thuyết đã giúp

cho phụ nữ Hàn Quốc tự nhận thức được rằng tự vươn lên chính là nhiệm vụ

của chính bản thân mình trong phong trào đòi lại quyền bình đẳng cho giới

mình, nếu không đấu tranh thì những người có thành kiến với phụ nữ sẽ

không tích cực sửa chữa. Với tư cách là công dân, họ được quyền thụ hưởng

những quyền lợi chính sách của đất nước, nhưng nếu muốn khẳng định bản

thân mình, khẳng định cái tôi trong xã hội, chính năng lực và phẩm chất

người phụ nữ quyết định.

Với tư cách là một hiện tượng xã hội, các quan điểm về nữ quyền và sự đấu

tranh đòi lại quyền của phụ nữ ở Việt Nam hình thành và phát triển dưới sự

tác động của toàn bộ những nhân tố kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với tiến trình

lịch sử. Cuốn tiểu thuyết Kim Ji Young – Born 1982 chính thức đến với Việt

Nam và được công chúng đón nhận từ khi phim Kim Ji Young – Born 1982

51

công chiếu trên các rạp phim trên toàn quốc vào năm 2019, từ đó cuốn tiểu

thuyết này đã đến tay người đọc nhiều hơn, đa phần khán giả đều hiểu được

thông điệp mà nó đem lại.

Cho đến nay trong đời sống xã hội, phụ nữ Việt Nam vẫn phải đối mặt

với các rào cản trong việc thực hiện quyền con người nói chung và quyền phụ

nữ nói riêng, quyền và lợi ích của người phụ nữ ngay cả khi đã có những quy

định trong hệ thống pháp luật thì trong thực tế cuộc sống cũng chưa được thực

hiện đầy đủ. Cũng nằm trong luồng tư tưởng Nho giáo Trung Hoa, phụ nữ

Việt Nam cũng là nhóm người yếu thế trong xã hội hơn, dễ bị tổn thương và

vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi, phải chịu đựng và tiếp tục đấu tranh chống lại

những hình thức đối xử phân biệt dựa trên cơ sở giới. Hiện nay kinh tế Việt

Nam đang trên đà phát triển, vị thế, vai trò của phụ nữ đã được nâng cao rất

nhiều nhưng chưa ngang tầm với năng lực, phẩm chất và đóng góp của họ với

gia đình, xã hội, với sự phát triển của đất nước. “Hệ thống chính sách, pháp

luật về quyền của phụ nữ, trong đó nhất là với phụ nữ ở nông thôn với nhận

thức về nữ quyền còn hạn chế, còn chưa thực sự được hoàn thiện, tư tưởng

trọng nam khinh nữ, định kiến giới còn tồn tại khá nặng nề ở nông thôn, phụ

nữ giữ các chức vụ chủ chốt ở các cấp chính quyền nhìn chung chiểm tỷ lệ

thấp và không đồng đều, đặc biệt ở các cấp cơ sở” [12, tr.3].

Kim Ji Young – Born 1982 có cốt truyện giản dị, nhân vật gần gũi đại

diện không chỉ cho phụ nữ Hàn Quốc mà ngay cả chính những độc giả nữ tại

Việt Nam cũng đều thấy bản thân mình có phần trong đó, rất nhiều người thấy

đồng điệu với nhân vật Kim Ji Young. Điểm đặc biệt trong tiểu thuyết của

Cho Nam Joo lại nằm ở cốt truyện hoàn toàn không có gì gay gắt, hay những

tình tiết kịch tính. Bằng giọng văn bình thản, không hề lên gân, song lại đầy

âm hưởng nữ quyền, lối văn hư cấu kết hợp với tư liệu, Kim Ji Young – Born

1982 đã động chạm đến sự kỳ thị nữ giới đã ăn sâu vào nếp nghĩ và cách hành

52

xử của cả một đất nước, một vấn đề đáng lên án của xã hội gia trưởng Hàn

Quốc. Hơn ai hết, Kim Ji Young, có lẽ, mong muốn được một lần tự do cất

tiếng nói của mình trong một môi trường nhiều bình đẳng hơn. Với lợi thế

như vậy, cuốn tiểu thuyết khi đến Việt Nam cũng nhận được rất nhiều sự đón

nhận, người phụ nữ giống như Kim Ji Young sẽ cảm thấy đồng cảm, và hơn

nữa, họ sẽ tự nhận thức thêm về giá trị của bản thân hơn, có những cống hiến

và đấu tranh để khẳng định chính mình, khẳng định cái tôi của mình một cách

mạnh mẽ.

Không chỉ đóng góp vào nhận thức của công dân Việt Nam, cuốn tiểu

thuyết cũng góp phần nói lên tiếng nói của người phụ nữ trong việc đề xuất

hoàn thiện các chính sách, các điều luật bảo vệ phụ nữ. Tại Đại hội X, Đảng

ta đã khẳng định: “Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người công

dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng,

đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động của xã hội, các

cơ quan lãnh đạo, quản lý ở các cấp” [7, tr 120] đã cho thấy sự quan tâm, lãnh

đạo của Đảng, Nhà nước và sự cố gắng nỗ lực của bản thân người phụ nữ

trong việc khẳng định quyền phụ nữ, khẳng định cái tôi của bản thân người

phụ nữ. Để đảm bảo quyền của phụ nữ đòi hỏi phải có sự vào cuộc của hệ

thống chính trị, pháp lý, kinh tế, xã hội, văn hóa… bằng cách biện pháp tuyên

truyền, nâng cao nhận thức của các chủ thể liên quan đến đảm bảo quyền phụ

nữ; thanh tra giám sát và xử lý vi phạm về quyền phụ nữ; hợp tác quốc tế;

thực hiện các hoạt động tố tụng bảo vệ quyền phụ nữ…

Thứ hai, Kim Ji Young – Born 1982 là minh chứng cho thấy hành động

đòi lại nữ quyền của phụ nữ Hàn Quốc không chỉ dừng lại ở những phong

trào nhỏ lẻ, tự phát mà đã xâm nhập thông qua văn học, đem văn học trở

thành phương tiện phản ánh xã hội, nêu lên quan điểm của mình về quyền của

phụ nữ và đòi lại các quyền đó. Cuốn sách đã góp phần không nhỏ đẩy mạnh

53

phong trào nữ quyền tại Hàn Quốc làm cho phong trào đó được thực hiện trên

nhiều phương diện, bằng nhiều phương thức khác nhau. Trước khi cuốn tiểu

thuyết ra đời đã có rất nhiều phong trào nữ quyền diễn ra trên thế giới và ở

Hàn Quốc. Sau khi cuốn tiểu thuyết của Cho Nam Joo ra đời, bên cạnh

hashtag #MeToo trên các diễn đàn xã hội trước đó, “phong trào Me Too thúc

đẩy nhiều hành động mạnh mẽ đòi quyền lợi của nữ giới Hàn Quốc hơn nữa,

ngày 04 tháng 08 năm 2018, bất chấp nắng nóng kỷ lục, hàng chục nghìn phụ

nữ nước này đã xuống đường biểu tình chống nạn quay lén” [25]. Điều đó

chứng minh phụ nữ ngày càng nhận thức rõ hơn việc cần chống lại tư tưởng

phong kiến trọng nam khinh nữ vẫn còn khá nặng nề ở xứ sở kim chi. Trong

năm 2019, ở khu vực ký túc xá nữ của trường đại học Ngoại ngữ Hàn Quốc

đã xuất hiện một loạt biểu ngữ với nội dung tuyên truyền kêu gọi ủng hộ,

nâng cao nữ quyền khiến những người đi qua phải dừng chân đọc và suy

ngẫm. Những hình ảnh này lan sang cả một số nước châu Á như Trung Quốc,

Việt Nam và nhận được nhiều sự ủng hộ. Hàng chục nghìn người, đa số là các

bạn trẻ đã dành lời khen ngợi cho hành động mạnh mẽ của các sinh viên ở đây.

Khi được hỏi tại sao cuốn tiểu thuyết gây được tiếng vang mạnh mẽ với

phụ nữ Hàn Quốc, Lee Na Young - nữ giáo sư xã hội học Đại học Chung-Ang

ở Seoul - nói rằng: “Yếu tố thời gian (của cuốn tiểu thuyết) rất đáng chú ý”.

Cuốn sách xuất hiện vào mùa thu 2016, nhiều tháng trước đó, một phụ nữ trẻ

bị sát hại gần ga tàu điện ngầm Gangnam ở Seoul - một tội ác do thù ghét. Kẻ

giết người đã nói trước tòa rằng “anh ta đã bị phụ nữ ruồng bỏ rất nhiều và

không thể chịu đựng được nữa nên đã phạm tội”. Vụ việc này - cùng với

những cáo buộc bạo lực tình dục chống lại các nhân vật chủ chốt trong văn

học và ngành công nghiệp giải trí - được nhiều người coi là tác nhân chính

đằng sau phong trào Me Too khổng lồ lan rộng khắp Hàn Quốc năm 2018. Nữ

giáo sư Lee nhận định: “Cuốn sách không phải là về một người đặc biệt hay

54

một người phụ nữ đặc biệt đau khổ, mà là về bất kỳ người phụ nữ nào”. Bà

cho biết phong trào nữ quyền ở Hàn Quốc sau vụ giết người ở Gangnam cũng

do “phụ nữ bình thường” lãnh đạo: “Họ không phải là nhà hoạt động vì quyền

của phụ nữ mà chỉ đơn giản là những người phụ nữ đồng cảm với nạn nhân.

Đầu tiên họ thương tiếc cho cô ấy. Và sau đó họ đồng cảm với cô ấy, nghĩ

rằng họ cũng đang gặp nguy hiểm. Và họ nhận ra mối tương quan giữa nguồn

gốc của nỗi sợ hãi và sự phân biệt đối xử mà họ trải qua” .

Đến tháng 9 năm 2018, tiểu thuyết Kim Ji Young – Born 1982 được

chuyển thể thành bộ phim cùng tên lại càng thúc đẩy phong trào nữ quyền tại

Hàn Quốc lên cao trào, cuốn tiểu thuyết lại càng trở nên nổi tiếng và nhận

được nhiều ý kiến xoay quanh vấn đề nữ quyền tại đây. Cuốn sách cũng được

nhiều người nổi tiếng chia sẻ và đồng cảm với nhân vật Kim Ji Young, có thể

kể đến Irene - thành viên nhóm nhạc nữ Red Velvet - cho biết cô đã đọc cuốn

sách này trong một sự kiện gặp gỡ người hâm mộ, Park Shin Hye – diễn viên

điện ảnh – cũng đã có những chia sẻ sau khi đọc cuốn sách, các ca sĩ và diễn

viên nam cũng đã đề cập đến cuốn sách này - bao gồm cả RM (tên thật là Kim

Nam Joon, sinh năm 1994), trưởng nhóm kiêm rapper chính của nhóm K-pop

BTS… Nhà phê bình phim Hwang Jin Mi nói với tờ báo Hàn Quốc Hankook

Ilbo rằng, đối với một số nhà quan sát, những người nổi tiếng nữ đọc cuốn

sách có nghĩa là cách họ làm chứng rằng họ là nạn nhân của bất bình đẳng

giới.

Tóm lại, tác phẩm Kim Ji Young – Born 1982 đã xây dựng quan điểm

về nữ quyền trong mối quan hệ giữa phụ nữ và thực trạng xã hội Hàn Quốc

vẫn tồn tại tư tưởng trọng nam khinh nữ, bất bình đẳng giới, qua đó thể hiện

sự tự nhận thức và đấu tranh bảo vệ lợi ích của phụ nữ Hàn Quốc. Tác phẩm

cũng như một chất xúc tác thổi bùng ngọn lửa đấu tranh nữ quyền tại Hàn

Quốc nói riêng và các nước trên thế giới mà ở đó vẫn tồn tại bất bình đẳng

55

nam nữ nói chung lên cao trào. Có thể nói thành công của tác phẩm Kim Ji

Young – Born 1982 được tạo ra bởi “thời đại” – thời đại mà đất nước Hàn

Quốc tuy có nền kinh tế phát triển nhưng tồn tại bên trong lõi vẫn là tư tưởng

Nho giáo bị biến dị cùng với nếp sống và suy nghĩ hiện đại khiến cho người

phụ nữ vốn đã bi coi thường lại càng bị hạ thấp giá trị. Cuốn tiểu thuyết đã

thay lời những người phụ nữ bình thường đương đại nêu lên những quan điểm

về quyền được sống, được hưởng những quyền lợi về sức khỏe, môi trường

sống trong lành sạch sẽ; tác giả Cho Nam Joo cũng nói lên một thực trạng ở

xã hội Hàn Quốc mặc dù đã có những chính sách, luật pháp nhằm bảo vệ phụ

nữ, nhưng thực tế trong cuộc sống người phụ nữ chưa thật sự được bảo vệ

khỏi trò đùa bắt nạt, bạo hành và quấy rối; những người phụ nữ sống trong xã

hội gò bó với những quy tắc ngầm bất lợi như vậy cũng có khao khát được kết

nối xã hội như những người đàn ông, họ cũng cần được người thân chia sẻ

khó khăn, động viên khi làm việc tốt; hơn nữa, nữ quyền trong Kim Ji Young

– Born 1982 mạnh mẽ nhất và rõ ràng nhất chính là khi tác giả xây dựng nhân

vật Kim Ji Young với mong muốn được xã hội đánh giá, tôn trọng và khẳng

định giá trị bản thân, những người phụ nữ Hàn Quốc nói chung và thế giới nói

riêng đều mong muốn được làm những công việc mình thích, có sự thăng tiến

xứng đáng với năng lực mình bỏ ra. Nói về nữ quyền tác giả đã quan niệm

không phải đòi hỏi một thứ quyền cao xa, mà nữ quyền cần được đấu tranh từ

chính cuộc sống hàng ngày của người phụ nữ, nhất là với những người phụ nữ

mang trên vai trách nhiệm với gia đình nhỏ và hai bên gia đình nội ngoại của

mình. Kim Ji Young – Born 1982 đã vượt ra khỏi một tác phẩm văn học đơn

thuần và trở thành một “hiện tượng” của xã hội. Các vấn đề về bình đẳng giới

đã được trích dẫn tại đây và trở thành động lực thúc đẩy việc sửa đổi đạo luật

về Bình đẳng giới và Hỗ trợ chăm sóc trẻ em. Cái tên “Kim Ji Young” đã nổi

lên như một biểu tượng của những người phụ nữ bị đè nén bởi sự vô lý của

chế độ phụ hệ. Độc giả nữ của tất cả các thế hệ an ủi và khẳng định ý chí của

56

họ để củng cố bằng cách đọc tiểu thuyết cùng nhau. Đối với độc giả nam, mối

quan tâm của phụ nữ về cuộc sống lo lắng và không thoải mái cũng đã được

khơi dậy.

2.3.2 Hạn chế

Mặc dù quan điểm về nữ quyền trong Kim Ji Young – Born 1982 có

những giá trị tích cực và nổi bật như đã trình bày trên đây song vẫn còn

những hạn chế, mà chủ yếu là những hạn chế sau đây.

Thứ nhất, trong hoàn cảnh xã hội Hàn Quốc còn tồn tại những tư tưởng

phân biệt nam nữ, trọng nam khinh nữ với vỏ bọc ngoài là một loạt những

chính sách dân chủ, bảo vệ phụ nữ không thể “trị tận gốc” những tư tưởng

phong kiến vốn đã ăn sâu trong nhận thức từng người, quan điểm nữ quyền

càng ngày càng phát triển, các phong trào nữ quyền đấu tranh trên nhiều

phương diện hơn, phương thức đấu tranh cũng đa dạng hơn. Tuy nhiên trong

Kim Ji Young – Born 1982, quan điểm về nữ quyền vẫn đang chỉ dừng lại là

các quyền cơ bản của con người trong cuộc sống, quan điểm đó chưa thực sự

đầy đủ và bao quát toàn bộ lĩnh vực.

Thứ hai, mặc dù đã có quan điểm đòi lại bình đẳng cho phụ nữ, nhưng

quan điểm nữ quyền trong tiểu thuyết Kim Ji Young – Born 1982 lại có phần

khiên cưỡng, phủ nhận công sức và sự cố gắng của nam giới. Điều này thể

hiện rõ nhất khi Kim Ji Young lấy chồng, trong khi Dae Huyn – chồng cô

cũng là một người đàn ông tâm lý, thương yêu vợ con, sẵn sàng đồng hành

cùng vợ chăm sóc con cái, sẵn sàng mong muốn nghỉ việc để ở nhà chăm con,

cho Ji Young dành thời gian đi làm, thậm chí còn tức giận khi biết Ji Young

định làm part time ở quán kem – công việc anh biết cô không hề yêu thích,

nhưng Kim Ji Young vẫn thấy tủi thân, không hề thấy cảm động trước những

lời động viên của chồng vì theo cô những gì cô phải đánh đổi so với Dae

Huyn nghĩ còn lớn hơn rất nhiều, điều đó khiến cho cô không làm cách nào có

57

thể che giấu được cảm giác ấm ức và mệt mỏi. Mặc dù bản thân Dae Huyn

cũng vô tình chịu ảnh hưởng bởi một thế giới mặc dù đã thay đổi rất nhiều,

“nhưng những quy tắc nhỏ, những giao ước, những phong tục trong thế giới

ấy lại chẳng thay đổi gì mấy” [10, tr.161], tuy nhiên anh đã rất cố gắng để

hiểu vợ thương vợ bằng việc liên tục im lặng lắng nghe vợ nói, lựa thời điểm

thích hợp gật đầu đồng tình, nhẹ nhàng nói để cô không thấy quá khó chịu. Rõ

ràng đã có một số ít những người đàn ông giống như Dae Huyn, như bác sĩ

nam điều trị cho Ji Young, cũng hiểu rõ về một xã hội gây nhiều thiệt thòi cho

phụ nữ, họ đồng cảm và nhẹ nhàng thương yêu từ chính những người phụ nữ

bên cạnh mình, cái mà họ chưa thể dễ dàng chống lại chính là những nếp sống,

lối suy nghĩ không biết từ bao giờ đã hình thành trong đầu họ, điều đó đôi khi

làm những người phụ nữ như Ji Young luôn muốn đấu tranh cho nữ quyền

cảm thấy buồn tủi. Dường như mục tiêu tìm ra cái tôi bản thân quá lớn khiến

Ji Young vô tình phủ nhận những cố gắng của chồng trong nhiều thời điểm.

“Kim Ji Young không hề thấy cảm động trước những lời nói của Jung Dae

Huyn, cô cố để hiểu anh nhưng vẫn không thể hiểu được. So với việc không

biết sẽ đi đâu về đâu của cô thì những thứ chồng cô vừa liệt kê thực sự quá

nhỏ” [10, tr.166]. Không quá khó hiểu khi Kim Ji Young – Born 1982 vừa ra

mắt đã gây nên hai luồng ý kiến trái chiều, mà đa số là từ phía những người

đàn ông, mặc dù có những phản ứng của họ có phần tiêu cực. Họ cho rằng tác

phẩm đã trình bày những quan điểm lệch lạc, chủ quan về chỉ đưa ra cái nhìn

khái quát câu chuyện một cách tiêu cực với mục đích chống lại đàn ông, phủ

nhận đàn ông, khiến cho những người phụ nữ ruồng bỏ họ xa lánh họ. Những

nhà phê bình văn học cũng cho rằng quyển sách đã làm trầm trọng hơn các

xung đột giới tính vốn đã vô cùng căng thẳng trong xã hội Hàn Quốc. Xét trên

phương diện đấu tranh đòi lại quyền lợi cho phụ nữ thì sự buồn tủi, ấm ức đó

hoàn toàn có thể hiểu được, nhưng nếu như chỉ biết đấu tranh giành lại quyền

của mình mà bỏ qua những cố gắng của phái còn lại thì sẽ chưa thực sự hiệu

58

quả, thậm chí còn gây nên tác dụng ngược, ví dụ như các nữ diễn viên sau khi

chia sẻ rằng mình đã đọc cuốn sách đã bị các người hâm mộ nam đốt ảnh,

chửi rủa, quay lưng; hay tệ hơn, có những người bị phụ nữ ruồng bỏ xa lánh

đã gây nên những vụ án hết sức thương tâm… Phải chăng nếu như cuốn tiểu

thuyết bên cạnh việc thể hiện sự bất bình đẳng trong xã hội, thì nó cũng công

nhận những nỗ lực của những người đàn ông như Dae Huyn, như nam bác sĩ

tâm lý, thì liệu những người đàn ông sẽ bớt chịu áp lực tâm lí hơn không, nhất

là khi tại Hàn Quốc, phong trào nữ quyền ngày càng mạnh mẽ, người đàn ông

lại có lối suy nghĩ và hành động cũng thể hiện uy thế “phái mạnh” của mình?

Theo tôi có lẽ câu trả lời là có, bởi vì vào năm 2018, tiểu thuyết Kim Ji Young

– Born 1982 được đạo diễn Kim Do Young chuyển thể thành bộ phim cùng

tên đã nhận được nhiều phản hồi tích cực hơn, khán giả đã có cái nhìn đón

nhận hơn mặc dù vẫn có những phản đối từ trước khi bộ phim khai máy với

kịch bản, với diễn viên đảm nhận vai chính. Lí do là vì bộ phim đã có thêm

nhiều chi tiết thể hiện rằng đàn ông trong xã hội Hàn Quốc cũng đã hiểu và có

những hành động thể hiện sự đồng cảm với những người phụ nữ bên cạnh

mình: bố Ji Young đã gọi điện đặt thêm một thùng thuốc bổ cho con gái, nhân

vật Jung Dae Huyn với Gong Yoo thủ vai đã xuất hiện nhiều hơn, xuyên suốt

cùng đồng hành với nữ chính nhiều hơn, bản thân anh cũng đã thể hiện sự

không đồng tình, tức giận khi đồng nghiệp nói về những người phụ nữ với lời

lẽ khiếm nhã… khiến khán giả thấy rằng quan điểm về nữ quyền đã trở nên

“mềm mại” hơn khi cũng đã nêu được sự nỗ lực cố gắng của những người đàn

ông vì gia đình, vì vợ con. Mặc dù như vậy sẽ không bộc lộ được tất cả những

đấu tranh tìm lại quyền lợi, tìm lại cái tôi cá nhân của Kim Ji Young như

trong tiểu thuyết gốc, nhưng điều tôi muốn nói ở đây là, khi quan điểm về nữ

quyền được bày tỏ khéo léo hơn thì hiệu quả sẽ càng cao hơn, giống như một

sợi dây quyền lực mềm dần sẽ góp phần thay đổi từ cái gốc một xã hội với

những tư tưởng phong kiến bị biến thể và trộn lẫn với tư tưởng hiện đại đã

59

khiến cho phong trào nữ quyền trở nên phức tạp hơn rất nhiều. Phụ nữ nên

hiểu đúng và đầy đủ hơn về phong trào giải phóng phụ nữ, “giải phóng phụ

nữ, tức là không còn tiếp tục nhốt chặt họ trong quan hệ với nam giới chứ

không phải phủ nhận những mối quan hệ đó. Dù có tự khẳng định cho chính

mình thì cũng không phải vì vậy mà họ không tồn tại cho cả người đàn ông.

Tuy thừa nhận nhau là chủ thể, mỗi người vẫn là người khác đối với bên kia”

[4, tr. 441], khẳng định bản thân, khẳng định cái tôi nhưng đồng thời cũng cần

công nhận những nỗ lực của nam giới ngoài xã hội và trong gia đình.

Kết luận chƣơng 2.

Như vậy, ở chương 2 tôi đã phân tích được hoàn cảnh ở Hàn Quốc,

phong trào nữ quyền ngày nay xảy ra mạnh mẽ hơn với những hình thức khác

nhau, tập trung vào việc mô tả bất bình đẳng giới trong chính cuộc sống hàng

ngày như quyền sinh sản, bạo lực gia đình, chế độ nghỉ thai sản, chế độ trả

lương bằng nhau giữa nhân viên nam và nhân viên nữ, tình trạng quấy rối tình

dục,…Trong Kim Ji Young – Born 1982, nhà văn Cho Nam Joo cũng đã thể

hiện sự đấu tranh cả về nội tâm lẫn hành động của các nhân vật để đòi lại

quyền bình đẳng, lấy lại cái tôi cá nhân của mỗi người trong một xã hội Hàn

Quốc còn tồn tại những tư tưởng thiết chế khiến phụ nữ phải chịu nhiều thiệt

thòi.

Một số nội dung cụ thể trong tư tưởng về nữ quyền trong tiểu thuyết

Kim Ji Young – Born 1982 trước tiên là quan niệm về quyền được sống, được

đáp ứng những nhu cầu cơ bản về đời sống và được bảo vệ; quyền được kết

nối xã hội, được chia sẻ lắng nghe từ những người thân trong gia đình; quyền

được xã hội và gia đình đánh giá đúng, tôn trọng và quyền được tự khẳng

định mình của người phụ nữ. Thông qua việc tái hiện nên bức tranh xã hội

Hàn Quốc với những tư tưởng Nho giáo Trung Hoa bị biến dị với những quan

60

điểm xã hội hiện đại khiến cho phụ nữ bị thiệt thòi về nhiều mặt, mặc dù Hàn

Quốc cũng đã có những chính sách nhằm hạn chế những bất công, nhưng suy

cho cùng cũng chỉ là vỏ bọc không che giấu được hết những tư tưởng bất bình

đẳng vốn đã ăn sâu vào nhận thức của cả phụ nữ và đàn ông, tác giả Cho Nam

Joo đã thể hiện sự tự nhận thức về nữ quyền và đấu tranh cho nữ quyền của

những nhân vật mang giới tính nữ - những nhân vật được xây dựng như

những hình tượng đại diện cho phụ nữ Hàn Quốc đương thời. Mặc dù bên

cạnh đó còn có những hạn chế như tư tưởng về nữ quyền trong tác phẩm chưa

thực sự đầy đủ, có phần khiên cưỡng và phủ nhận đàn ông, nhưng ta không

thể không nói đến những giá trị to lớn mà cuốn tiểu thuyết đã để lại: góp phần

đẩy mạnh phong trào nữ quyền tại Hàn Quốc và trên thế giới, đóng góp cho

sự nhận thức về nữ quyền, nó như một chất xúc tác thổi bùng ngọn lửa đấu

tranh nữ quyền tại Hàn Quốc nói riêng và các nước trên thế giới mà ở đó vẫn

61

tồn tại bất bình đẳng giới nói chung lên cao trào.

PHẦN KẾT LUẬN

Như vậy, trong toàn bộ khóa luận, tôi đã vạch ra được tiền đề dẫn tới tư

tưởng về nữ quyền trong tác phẩm Kim Ji Young – Born 1982 là bối cảnh Hàn

Quốc cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI với nền kinh tế, văn hóa phát triển

vượt bậc nhưng tồn tại bên trong vẫn là những áp lực đè nặng lên vai các nhà

cầm quyền, sự phân hóa giàu – nghèo sâu sắc của một số bộ phận và sự ảnh

hưởng nặng nề của Nho giáo Trung Hoa với những bất bình đẳng giới, phân

biệt đối xử với các tầng lớp, phân biệt sắc tộc… gây nên những bất bình, mâu

thuẫn trong chính những con người trong xã hội đó. Nữ nhà văn Cho Nam Joo

cũng là người phụ nữ chịu ảnh hưởng của dòng chảy xã hội đó nên bà đã viết

nên cuốn tiểu thuyết Kim Ji Young – Born 1982 với đại diện là hình tượng

nhân vật Kim Ji Young sống một cuộc đời liên tục có những bất công cùng

những đấu tranh của bản thân cô và những người phụ nữ khác. Qua tác phẩm,

nhà văn muốn nói lên tiếng nói nữ quyền, đấu tranh đòi lại quyền bình đẳng

và lấy lại cái tôi bản thân cho phụ nữ Hàn Quốc nói riêng và phụ nữ trên thế

giới nói chung.

Khóa luận đã đưa ra một số nội dung nội dung cơ bản trong tư tưởng về

nữ quyền trong Kim Ji Young – Born 1982. Đầu tiên là quan điểm về quyền

được sống, được đáp ứng những nhu cầu cơ bản về đời sống và được bảo vệ

của phụ nữ. Tác giả đã vẽ nên cuộc sống của những người phụ nữ tại Hàn

Quốc bị chính tư tưởng Nho giáo biến dị kìm hãm những quyền và nhu cầu cơ

bản nhất là quyền được sống một cách an toàn, thông qua phân tích, khóa luận

đã chỉ ra phương thức đấu tranh và bảo vệ của phụ nữ chính là sự thay đổi về

nhận thức của họ về chính bản thân mình, thay đổi nhận thức của xã hội. Thứ

hai chính là quan điểm về quyền được kết nối xã hội, quyền được chia sẻ và

lắng nghe của người phụ nữ. Khóa luận đã cho thấy phụ nữ trong xã hội Hàn

62

Quốc muốn tìm thấy cái tôi của bản thân qua việc kết nối với các môi trường

xung quanh và khi họ được hòa mình vào xã hội, họ đã làm rất tốt vai trò của

bản thân, những mối quan hệ xã hội nhưng nhu cầu đó bị hạn chế bởi các

công việc gia đình và tư tưởng truyền thống. Bên cạnh đó quyền được chia sẻ

và lắng nghe của người phụ nữ trong cuốn tiểu thuyết nữ quyền này cũng

được khóa luận phân tích đầy đủ từ hoàn cảnh xã hội tạo nên thói quen không

bộc lộ cảm xúc của người phụ nữ dẫn đến nhu cầu được chia sẻ, lắng nghe

của phụ nữ Hàn Quốc trở nên mạnh mẽ. Cuối cùng, một trong những quan

điểm cơ bản nhất về nữ quyền trong Kim Ji Young – Born 1982 là quan điểm

về quyền được đánh giá, tôn trọng và khẳng định mình của người phụ nữ. Tác

phẩm đã cho thấy ở Hàn Quốc, người phụ nữ không được đánh giá đúng, tôn

trọng và quyền được khẳng định mình của họ bị hạn chế. Tác phẩm đã chỉ ra

những bất công trong việc đánh giá về năng lực, trình độ của người phụ nữ, từ

đó có những phân biệt trong cơ chế trả lương khi làm việc, hay cách xã hội

phân công công việc cho phụ nữ chỉ là làm việc nhà và chăm sóc con cái. Sự

bất công cũng được thể hiện qua sự thiếu tôn trọng của đàn ông đối với phụ

nữ, mà cụ thể là qua quá trình Kim Ji Young làm việc tại công ty, từ đó tác

giả thể hiện sự đấu tranh của những người phụ nữ để lấy lại danh dự và sự tôn

trọng của xã hội dành cho mình. Cuối cùng, quyền được khẳng định mình của

những người phụ nữ cũng được tác giả tái hiện qua hình ảnh những người

phụ nữ liên tục nỗ lực để có được công việc tốt, vị trí cao tại tổ chức, nhất là

khi họ có gia đình, gánh trên vai thêm vai trò của người vợ người mẹ thì nhu

cầu được tự khẳng định mình của họ ngày càng cao hơn. Tuy nhiên qua sự

phân tích khóa luận đã cho thấy giữa một xã hội Hàn Quốc vẫn còn những tư

tưởng khiến cho quyền phụ nữ bị hạn chế thì những người phụ nữ ở đó phải

rất khó khăn để giành được quyền lợi vốn dĩ đã thuộc về mình như vậy.

Khóa luận đã phân tích được một số giá trị và hạn chế chủ yếu trong tác

63

phẩm Kim Ji Young – Born 1982. Về giá trị, trước hết tiểu thuyết không chỉ

cho thấy nhận thức về nữ quyền tai Hàn Quốc đã trở nên mạnh mẽ thông qua

cốt truyện giản dị, chân thực mà còn góp phần nâng cao nhận thức của người

Việt Nam về chủ nghĩa nữ quyền, góp phần nói lên tiếng nói của người phụ

nữ trong việc đề xuất, hoàn thiện các chính sách, các điều luật bảo vệ phụ nữ.

Giá trị thứ hai mà tác phẩm mang lại chính là đưa ra một phương thức đấu

tranh đòi lại quyền phụ nữ trên thế giới không chỉ dừng lại ở những cuộc biểu

tình, những phong trào nhỏ lẻ nữa mà còn ở trong văn học, đem văn học trở

thành phương tiện phản ánh xã hội, nêu lên quan điểm về nữ quyền và giúp

phụ nữ đòi lại những quyền lợi của phái mình. Ý nghĩa to lớn nhất mà tác

phẩm đem lại là thông qua tác phẩm, ngọn lửa đấu tranh nữ quyền trên thế

giới được thổi bùng mạnh mẽ hơn. Bên cạnh những giá trị, Kim Ji Young –

Born 1982 cũng tồn tại một số hạn chế chủ yếu như chưa thực sự bao quát

toàn bộ các lĩnh vực mà chỉ đang dừng lại ở các quyền cơ bản; hay mặc dù

nêu lên được quan điểm về sự bất bình đẳng và tiếng nói đòi lại quyền bình

đẳng nhưng tư tưởng nữ quyền trong tiểu thuyết lại có phần khiên cưỡng, phủ

nhận đàn ông. Bài khóa luận đã thể hiện sự đánh giá của cá nhân tôi và đưa ra

những nhận định về quan điểm nữ quyền cần mềm mỏng hơn để vừa đấu

tranh đòi lại quyền phụ nữ lại không gay gắt phủ nhận mọi nỗ lực và công sức

64

của phái nam.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thanh An (2019), “Lý do phim Hàn Quốc Parasite được tôn vinh ở

Cannes”, http://vnexpress.net/.

2. K.J,Alexeevich (2018), “An sinh tinh thần: Các xung đột trên cơ sở thế

giới quan”, http://www.triethoc.edu.vn/.

3. Trần Thị Vân Anh, Lê Ngọc Hùng (2000), Phụ nữ, Giới và phát triển,

Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.

4. Beauvoid. S. de (2006), Giới nữ, tập 2, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.

5. Đoàn Trung Còn (1996), Tứ thư, Nxb. Thuận Hóa, Huế.

6. Chủ nghĩa Mác với vấn đề giải phóng phụ nữ (1977), Nxb. Phụ nữ, TP.

HCM.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

8. Yi Go Eun (2019), “82 년생 김지영>과 한국 여성의 삶 팩트체크”,

http://www.newstof.com/.

9. Hồng Hạnh (2019), “Làn sóng cử nhân thất nghiệp đổ xô ra nước ngoài

của Hàn Quốc”, http://vnexpress.net/.

10. Dương Thanh Hoài (2019), Kim Ji Young – Born 1982, Nxb. Phụ nữ,

Hà Nội.

11. Nguyễn Thị Năm Hoàng (2018), “Thiên tính nữ và góc nhìn giới tính

trong văn chương Việt Nam đương đại”, Tạp chí Khoa học xã hội và

Nhân văn, Hà Nội.

12. Vũ Thị Thu Hằng (2009), Các yếu tố quyết định tỷ lệ phụ nữ trong cán

bộ chủ chốt cấp phường, Luận văn Thạc sỹ Chính trị học, Trường Đại

học KHXH & NV (Đại học Quốc gia Hà Nội), Hà Nội.

13. Phan Khôi (2013), Tư tưởng của Tây phương và Đông phương”,

65

http://www.triethoc.edu.vn/.

14. Phan Khôi (2013), “Tống Nho với phụ nữ”,

http://www.triethoc.edu.vn/.

15. My Lan (2016), “Văn chương Hàn Quốc và cú đột phá trong tư tưởng”,

http://zingnews.vn/.

16. Mai Lâm (2019), “Những cô gái thề chết cũng không lấy chồng”,

http://vnexpress.net/.

17. Thùy Linh (2018), “Mặt tối của nền giáo dục Hàn Quốc”,

http://vnexpress.net/.

18. Lim Mina (2018), “페미니스트 시각으로 읽는 한국 문학사”,

https://www.yna.co.kr/.

19. Eleanor Leacock (2013), “Giải thích nguồn gốc bất bình đẳng giới

(phần 2)”, http://www.triethoc.edu.vn/.

20. Judith Lorber, Hồ Liễu (dịch) (2013), “Sự đa dạng của chủ nghĩa nữ

quyền và những đóng góp vào sự bình đẳng giới”,

http://www.triethoc.edu.vn/.

21. Quang Minh (2020), “Nhìn lại vấn đề nữ quyền ở vài nước mang văn

hóa Á Đông”, http://trithucvn.net/.

22. Đình Ngân (2011), “Hàn Quốc với tự tử ở đại học quý tộc”,

http://vietnamnet.vn/.

23. Nguyễn Thị Thanh Nhàn (2017), Đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông

thôn Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện Hàn lâm

KHXH Việt Nam (Học viện Khoa học xã hội), Hà Nội.

24. Kang Yi Soo (2009), 가사 서비스 노동의 변화의 맥락과 실태,

Korean Private Association, http://www.papersearch.net/.

25. Tường Nguyễn (2019), “Phải chăng #MeToo đang bị tác dụng

66

ngược?”, http://tuoitre.vn/.

26. Bùi Thị Tĩnh (2007), Triết học hiện sinh về giới của Simon De

Beauvoid, Luận án Tiến sĩ Triết học, Trường Đại học KHXH & NV

67

(Đại học Quốc gia Hà Nội), Hà Nội.