TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
-----------------------
Nguyễn Thị Hồng Tâm
TƯ TƯỞNG DUNG THÔNG TAM GIÁO CỦA
NGUYỄN DỮ TRONG TÁC PHẨM TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thanh Bình
HÀ NỘI, 2019
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết tôi xin chân thành cảm ơn
sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cô giáo trong khoa Triết học, trường Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời gian tôi
học tập tại khoa, tại trường.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Nguyễn Thanh Bình, người
đã trực tiếp hướng dẫn tận tình và chu đáo trong quá trình thực hiện và hoàn thiện
khóa luận tốt nghiệp này. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn khóa luận sẽ
không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của các thầy, các cô, cùng toàn thể các bạn để khóa luận này
được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 29 tháng 5 năm 2019
Nguyễn Thị Hồng Tâm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
NỘI DUNG ............................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CƠ BẢN CHO SỰ HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG DUNG THÔNG TAM GIÁO CỦA NGUYỄN DỮ .................................. 7
1.1. Bối cảnh lịch sử, tình hình kinh tế, chính trị - xã hội và văn hóa thế kỷ XVI .... 7
1.2. Tiền đề cơ bản cho sự hình thành tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn
Dữ ............................................................................................................................ 10
1.3. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Dữ............................................................ 20
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG DUNG THÔNG TAM GIÁO CỦA
NGUYỄN DỮ ......................................................................................................... 24
2.1. Tư tưởng dung thông tam giáo thể hiện trong thế giới quan của Nguyễn Dữ ........... 24
2.2. Tư tưởng dung thông tam giáo thể hiện trong nhân sinh quan của Nguyễn Dữ ........ 31
2.3. Tư tưởng dung thông tam giáo thể hiện trong quan niệm về đạo đức của
Nguyễn Dữ ............................................................................................................... 40
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ TƯ TƯỞNG DUNG
THÔNG TAM GIÁO CỦA NGUYỄN DỮ ........................................................... 50
3.1. Một số đặc điểm chủ yếu trong tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ ....... 50
3.2. Giá trị và hạn chế trong tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ ........ 57
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 65
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo là ba hệ thống học thuyết triết học có vị trí
quan trọng, chi phối mạnh mẽ đến hệ tư tưởng văn hóa Việt Nam suốt một ngàn
năm quân chủ chuyên chế. Sự kết hợp nhuần nhuyễn, dung hợp giữa Nho giáo,
Đạo giáo và Phật giáo đã tạo nên một nền văn hóa Việt Nam rực rỡ và tinh hoa.
Đó là sự kết hợp của gam màu văn hóa dân gian với văn hóa bác học cung đình,
sự hòa hợp giữa chính trị và đời sống tôn giáo tâm linh. Tuy các học thuyết trên
có vị thế khác nhau trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, song chính quá trình tiếp
biến nói trên đã tạo nên mối quan hệ tam giáo với tính chất không đồng nhất với
mối quan hệ tam giáo ở Trung Quốc và các nước đồng văn khác của khu vực.
Xu hướng dung thông tam giáo tại Việt Nam đã có xuất hiện ở Việt Nam
rất sớm nhưng nội dung, đặc điểm và tính chất dung thông Nho, Phật, Đạo ở mỗi
thời kỳ đều có những nét đặc sắc riêng biệt. Có thể nói rằng, thế kỷ XVI mở ra
một giai đoạn lịch sử diễn ra hết sức phức tạp với việc tranh giành quyền lực giữa
các tập đoàn phong kiến và các cuộc nội chiến xảy ra liên tục. Tư tưởng và các giá
trị đạo đức của Nho gia dường như bất lực trước bối cảnh rối ren này và thời kỳ
khủng hoảng chế độ phong kiến Việt Nam trong suốt ba thế kỷ XVI - XVIII. Nho
giáo không đủ sức để thay đổi và cải thiện tình trạng khủng hoảng này, trong bối
cảnh đó các nhà tư tưởng, mà chủ yếu là Nho sĩ đã tìm đến Phật và Đạo như một
lối đi mới để giải quyết sự khủng hoảng trong tư tưởng của chính mình. Và đó là
nguyên nhân khiến lịch sử tư tưởng Việt Nam xuất hiện xu hướng mới trong quan
hệ tam giáo. Nguyễn Dữ là một trong những đại diện của xu hướng này.
Là một nhà Nho tiêu biểu của thế kỷ XVI đầy sóng gió và biến động của xã
hội và chế độ phong kiến Việt Nam, nhưng tiếc rằng các tác phẩm của Nguyễn Dữ
không còn được bảo tồn và lưu giữ, Truyền kỳ mạn lục là tài liệu duy nhất của ông
còn được lưu giữ đến ngày nay. Truyền kỳ mạn lục là một trong những tác phẩm
tiêu biểu của văn học Việt Nam thế kỷ XVI. Vũ Khâm Lân đời nhà Lê khi nói về
tác phẩm này đã khen rằng đây là một “thiên cổ kỳ bút”. Truyền kỳ mạn lục được
đánh giá cao như vậy là bởi nó không chỉ là một tác phẩm văn học thuần túy mà
1
ẩn sâu trong đó còn là những giá trị về mặt tư tưởng, đạo đức, lối sống mà Nguyễn
Dữ muốn gửi gắm đến người đọc. Thế nhưng, cho đến nay, Nguyễn Dữ và tác
phẩm này của ông chỉ được nghiên cứu nhiều dưới góc độ văn học, văn hóa học.
Còn từ góc độ triết học và lịch sử tư tưởng thì nghiên cứu về Nguyễn Dữ và đặc
biệt là tư tưởng dung thông tam giáo của ông chưa dành được quan tâm đúng với
giá trị, ý nghĩa của nó. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng việc nghiên cứu về tư
tưởng triết học, đặc biệt là tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ là một
việc làm cần thiết, có ý nghĩa trong học tập, nghiên cứu về tư tưởng Việt Nam nói
chung và tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVI nói riêng.
Trên cơ sở đó, chúng tôi lựa chọn vấn đề “Tư tưởng dung thông tam giáo
của Nguyễn Dữ trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục” làm đề tài để nghiên cứu
trong khóa luận tốt nghiệp cử nhân ngành Triết học của mình.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Qua những công trình nghiên cứu về tư tưởng Nguyễn Dữ nói chung và tư
tưởng dung thông tam giáo của ông nói riêng từ trước đến nay, có thể khái quát
một số kết quả nghiên cứu chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu về Nguyễn Dữ nói chung
Trong số các công trình nghiên cứu về Nguyễn Dữ thì đáng chú ý nhất là
công trình Truyền kỳ mạn lục (tái bản năm 2018) của tác giả Trúc Khê dịch và
giới thiệu, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. Trong tác phẩm này, ngoài việc Trúc Khê
biên dịch thì ông có giới thiệu khát quát về cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Dữ.
Cuốn sách có viết rằng Nguyễn Dữ là một nhà nho sống dưới đời nhà Lê, ông vốn
hiếu học, thông minh từ nhỏ và là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Ông có làm quan tại huyện Thanh Toàn nhưng chán nản trước thời cuộc nên xin
từ chức, về quê nuôi mẹ. Trong cuốn sách cũng đề cập đến Truyền kỳ mạn lục là
tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ còn lại cho đến ngày nay. Cuốn sách gồm 20
truyện, viết bằng chữ Hán theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện Truyền kỳ mạn lục
chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất
phát từ truyền thuyết các vị thần mà đến thời hiện nay vẫn còn. Trúc Khê cho rằng
Nguyễn Dữ viết bộ truyện này nhằm ghi lại những câu chuyện truyền thuyết linh
2
dị, kì bí từ thời Lý – Trần đến thời ấy. Trúc Khê cũng đánh giá Truyền kỳ mạn lục
là một tuyệt tác, nó vừa có giá trị về mặt văn chương, vừa thể hiện sự đặc sắc về
mặt tư tưởng.
Bên cạnh 20 truyện trong Truyền kỳ mạn lục, nhiều nhà nghiên cứu cũng
đặc biệt quan tâm đến 19 Lời bình trong tác phẩm. Tuy nhiên, về vấn đề này thì
đến nay vẫn có nhiều nhà nghiên cứu tranh cãi về nguồn gốc và tác giả của 19 Lời
bình trên. Trong bản dịch của Ngô Văn Triện và Trúc Khê, họ cho rằng những lời
bình là là những đánh giá, nhận xét của Nguyễn Dữ về những vấn đề trong đời
sống, xã hội đương thời. Tuy nhiên, cũng có nhiều tác giả đưa nhận định trái
ngược, điển hình như trong bài Bàn thêm về tác giả - tác phẩm Truyền kỳ mạn lục
(2002), Lại Văn Hùng lại khẳng định Nguyễn Dữ chỉ là người viết lời bình. Ông
cho rằng giữa phần truyện và lời bình của Truyền kỳ mạn lục có nhiều điểm mâu
thuẫn với nhau, bởi phần lời bình cho thấy rõ những quan điểm, nhận định, lập
trường của một nhà Nho, song trong phần chính truyện, tác giả lại đưa ra nhiều
quan niệm, tư tưởng phi Nho. Từ sự mâu thuẫn trên, Lại Văn Hùng khẳng định
rằng Nguyễn Dữ không phải tác giả của Truyền kỳ mạn lục mà chỉ đưa ra nhận xét
của mình về những truyện ấy thông qua phần Lời bình.
Cũng nhận thấy được những mâu thuẫn về mặt tư tưởng trong chính tác
phẩm Truyền kỳ mạn lục, song Bùi Duy Tân lại cho rằng đây chính là biểu hiệu
rạn nứt của ý thức hệ phong kiến. Ông có nhận xét về Nguyễn Dữ như sau:
“Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong kiến một cách có ý
thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và màu sắc của cuộc sống, phạm vi
phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con người
được đề cập tới. Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia…Tuy
nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể
hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến”
[13,tr.1125].
Trong cuốn “Truyền kỳ mạn lục Giải âm”(2019) do Nguyễn Quang Hồng
phiên âm và chú giải, đã đề cập đến việc so sánh và đối chiếu giữa tác phẩm
Truyền kỳ mạn lục và Tiễn đăng tân thoại, ông có khát quát một số điểm giống
cũng như những nét đặc sắc riêng của từng tác phẩm. Đặc biệt, ở cuốn sách này,
3
trong quá trình phiên âm đã giữ nguyên các cấu trúc, quy tắc dùng từ của người
Việt trong thời kỳ trung đại. Bên cạnh việc phiên âm, tác giả còn tiến hành chú
giải các điển tích, điển cố và từ ngữ trong sách. Bởi vậy, tập truyện có giá trị cao
về học thuật, không giống các bản Truyền kỳ mạn lục đang lưu hành chỉ đơn thuần
là dịch từ Hán văn sang tiếng Việt hiện đại.
Thứ hai, nhóm các công trình nghiên cứu về tư tưởng dung thông tam giáo
của Nguyễn Dữ
Nhìn chung các công trình đề cập đến tư tưởng tam giáo nói chung và tư
tưởng dung thông Nho, Phật, Đạo của Nguyễn Dữ khá ít. Trong đó, Hệ thống tam
giáo trong Truyên kỳ mạn lục (1972) của tác giả Thạnh Trung Giả là một công
trình tiêu biểu, theo tác giả trong số hai mươi truyện ngắn tạo thành tác phẩm
Truyền kỳ mạn lục, thấy được sự ảnh hưởng sâu sắc của Nho, Phật, Đạo trong đời
sống văn hóa, tinh thần của nhân dân Việt Nam. Thạch Trung Giả ở bài viết này,
đã liệt kê những chi tiết truyện mang tư tưởng của tam giáo, đồng thời sắp xếp
chúng một cách hệ thống, logic. Ông cũng chỉ ra những đánh giá, nhận định và lý
giải của mình về những chi tiết truyện ấy. Tuy nhiên, bài viết mới chỉ dừng lại ở
việc phân tích tư tưởng tam giáo trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục, chưa cho thấy
được bối cảnh, tiền đề đã tạo nên sự dung hợp giữa tam giáo và nguyên nhân vì
sao trong tư tưởng của Nguyễn Dữ lại bị ảnh hưởng bởi cả Nho, Phật và Đạo giáo.
Trong Luận án tiến sĩ Tư tưởng dung thông Nho, Phật, Đạo của Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ, tác giả Vũ Phú Dưỡng đã nêu ra
được những điều kiện, bối cảnh kinh tế xã hội và tiền đề tư tưởng tạo nên tư tưởng
triết học nói chung của Nguyễn Dữ. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến sự ảnh
hưởng, tác động của Nguyễn Bỉnh Khiêm đến tư tưởng triết học và cuộc đời của
Nguyễn Dữ. Ông khẳng định, tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ là sự
kế thừa và phát triển những tư tưởng về dung thông tam giáo của Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tuy nhiên, Luận án chưa làm rõ, nổi bật được những nội
dung, đặc điểm riêng biệt trong tư tưởng của Nguyễn Dữ nói chung và tư tưởng
dung thông tam giáo của ông nói riêng.
Ngoài các công trình nói trên đề cập tới tư tưởng dung thông tam giáo của
Nguyễn Dữ, còn có các bài viết của các nhà khoa học trên các tạp chí chuyên
4
ngành, tạp chí triết học như Tam giáo đồng nguyên và tính đa nguyên trong truyền
thống văn hóa Việt Nam của tác giả Nguyễn Tài Đông, Tạp chí Khoa học Xã hội
Việt Nam, số 5; Bàn thêm về vấn đề tác giả - tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Lại
Văn Hùng, Tạp chí Văn học, số 10 hay bài viết Lại bàn về tam giáo đồng nguyên
của Lê Văn Quán được đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 5;… Những bài viết trên
đều khái quát chung về xu hướng dung thông tam giáo trong lịch sử Việt Nam
trong giai đoạn XVI, trong đó chỉ ra nguyên nhân của quá trình dung thông và đặc
điểm của nó, Nguyễn Dữ được nhắc đến với tư cách là một đại diện tiêu biểu cho
xu hướng này. Công trình đáng chú ý nhất là bài viết Vấn đề tam giáo trong
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ của Trần Nguyên Việt. Trong bài viết của
mình tác giả cũng đã làm rõ quan điểm của Nguyễn Dữ về vai trò của từng học
thuyết trong tam giáo đối với ý thức của người Việt nói chung, của giới trí thức
nói riêng trong thế kỷ XVI – XVII.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của khóa luận
Trình bày có hệ thống tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ, thể
hiện trong thế giới quan, nhân sinh quan và quan niệm về đạo đức của ông. Và từ
đó, chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn
Dữ.
3.2. Nhiệm vụ của khóa luận
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của khóa luận là:
- Phân tích, khái quát các điều kiện và tiền đề cho sự hình thành tư tưởng
triết học nói chung và tư tưởng dung thông tam giáo nói riêng của Nguyễn Dữ.
- Phân tích, làm rõ những nội dung và đặc điểm của tư tưởng dung thông
tam giáo của Nguyễn Dữ trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của khóa luận: Nội dung tư tưởng dung thông
tam giáo được thể hiện trong thế giới quan, nhân sinh quan và quan niệm về đạo
đức của Nguyễn Dữ ( qua nghiên cứu tác phẩm Truyền kỳ mạn lục).
4.2. Phạm vi nghiên cứu của khóa luận: Bối cảnh kinh tế, xã hội và lịch
sử tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVI và tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn
5
Dữ trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Khóa luận được thực hiện trên cơ sở vận dụng những
nguyên lý cơ bản của triết học Mác – Lênin và quan điểm của Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam về xã hội và con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận chủ yếu vận dụng phương pháp
biện chứng duy vật trong triết học Mác – Lênin, phương pháp nghiên cứu lịch sử
triết học và kết hợp một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phương
pháp logic kết hợp với phương pháp lịch sử, phân tích và tổng hợp, đối chiếu và
so sánh, v.v.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận
Khóa luận không chỉ làm rõ hơn nội dung, đặc điểm, giá trị và hạn chế
trong tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ mà còn góp phần vào việc
học tập, nghiên cứu tư tưởng của Nguyễn Dữ, tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVI.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
6
gồm 3 chương, 8 tiết.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CƠ BẢN CHO SỰ HÌNH
THÀNH TƯ TƯỞNG DUNG THÔNG TAM GIÁO CỦA NGUYỄN DỮ
1.1. Bối cảnh lịch sử, tình hình kinh tế, chính trị - xã hội và văn hóa thế
kỷ XVI
Sau thời kỳ thịnh trị của Lê Thánh Tông, triều đại phong kiến nhà Lê sơ
bước vào giai đoạn suy thoái. Triều đình phong kiến nhà Lê sơ xuất hiện các ông
“vua quỷ”, “vua lợn” như vua Uy Mục (1505 - 1509), Tương Dực (1509 - 1516),
còn hệ thống quan lại thì ngang ngược hoành hành. Bên cạnh nhà vua hoang dâm
vô độ, cho xây dựng nhiều đền đài, cung điện thì việc các quan trong triều đình lợi
dụng chức quyền, vơ vét tài sản, tham ô công quỹ đã làm gia tăng mâu thuẫn giữa
triều đình phong kiến với nhân dân. Dưới thời Lê Thánh Tông trị vì (1460 – 1497),
nhà nước phong kiến Việt Nam về cơ bản đã tạo ra và duy trì một xã hội tương đối
ổn định và phát triển. Bước sang thế kỷ XVI, bộ máy triều đình không thể cải thiện
tình trạng mâu thuẫn này, đồng thời những mâu thuẫn mới tiếp tục nảy sinh càng
cho thấy rõ sự lạc hậu, bất lực của chế độ. Nhà nước phong kiến đã trở thành đối
tượng đấu tranh của các phong trào nông dân khởi nghĩa. Họ đều là những người bị
bóc lột thậm tệ bởi nhà nước phong kiến đương thời, chính chế độ ấy đã khiến họ
trở nên bần cùng hóa và buộc phải đấu tranh để tự giải thoát chính mình. Ở giai
đoạn này, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra trên khắp cả nước nhưng cuối
cùng đều thất bại. Tuy không thể lật đổ triều đình Lê sơ nhưng những cuộc khởi
nghĩa đó một mặt cho thấy sự suy yếu của nhà nước phong kiến đương thời, mặt
khác thể hiện được nhu cầu, khát khao của nhân dân về một xã hội thái bình, thịnh
trị.
Lợi dụng sự suy yếu, rối loạn của triều đình Lê sơ, Mạc Đăng Dung (1483 –
1541) ủ mưu lật đổ nhà Lê để giành lấy quyền chấp chính. Năm 1526 Mạc Đăng
Dung giết vua Lê Chiêu Tông (1516 – 1522), tháng 6 năm 1527 bắt ép vua Lê Cung
Hoàng (1522 - 1527) nhường ngôi cho mình. Việc Mạc Đăng Dung lật đổ nhà Lê,
thành lập nhà Mạc đã gây nên làn sóng phản đối dữ dội từ đội ngũ trí thức Nho gia,
đặc biệt là những vị công thần và sĩ phu khoa bảng lúc bấy giờ như Nguyễn Thái
7
Bạt, Lê Tuấn Mậu, Đàm Thuận Huy, Nguyễn Duy Tường,... Hình thành trong một
bối cảnh danh không chính, ngôn không thuận đồng thời vấp phải sự phản đối mạnh
mẽ từ đội ngũ nhà Nho, nhà Mạc phải tìm biện pháp để bảo vệ được ngôi vị của
mình. Chính vì thế, triều đình nhà Mạc đã tìm đến nhà Minh (Trung Quốc) để kêu
gọi sự hậu thuẫn đồng thời tìm cách đối phó với những người trung thành với triều
đình cũ. Bên cạnh đó, nhà Mạc cũng chú trọng đến vấn đề giáo dục khoa cử nhằm
đào tạo ra đội ngũ trí thức Nho học để từ đó tìm ra những hiền tài trung thành với
nhà Mạc, trở thành trụ cột cho triều đình. Dù có nhiều sự thay đổi nhưng về cơ bản,
bộ máy chính trị nhà Mạc sử dụng để xây dựng, quản lý xã hội vẫn là mô hình nhà
nước phong kiến trung ương tập quyền giống như triều đại trước.
Sự ra đời của vương triều nhà Mạc đã làm cho các tập đoàn phong kiến khác
lấy danh nghĩa “phù Lê diệt Mạc” để thành lập ra triều đại mới là Lê Trung hưng (ở
Thanh Hóa). Sự xung đột giữa nhà Mạc và nhà Lê Trung hưng là nguyên nhân hình
thành nên Bắc triều (nhà Mạc thống trị ở Bắc Bộ) và Nam triều (họ Trịnh dưới danh
nghĩa phù Lê quản lý vùng đất Thanh Hóa trở vào). Từ năm 1546 đến 1592, trên
lãnh thổ nước ta đã diễn ra 38 chiến dịch lớn nhỏ giữa Lê – Trịnh và Mạc nhằm
tranh giành quyền lực nhưng không bên nào giành được thắng lợi cuối cùng. Mãi
đến năm 1592, Nam triều thắng Bắc triều, nhà Mạc chạy lên Cao Băng và tồn tại ở
đó được khoảng hơn 60 năm thì tan rã. Khi cuộc xung đột giữa nhà Mạc và Lê –
Trịnh kết thúc, thì xã hội Việt Nam lại xuất hiện cuộc xung đột mới Trịnh –
Nguyễn. Sự phân chia và quản lý đất nước do các tập đoàn phong kiến Mạc, Trịnh,
Nguyễn là nét nổi bật nhất trong tình hình chính trị của xã hội Việt Nam lúc bấy
giờ. Tuy nhiên, các tập đoàn phong kiến Đàng Trong và Đàng Ngoài đều có điểm
chung là theo mô hình cũ từ thời Lê sơ – nhà nước quan liêu ngày càng nặng nề và
phức tạp và đang trở thành một lực cản trở sự phát triển của xã hội.
Các nhân tố kinh tế, chính trị thời kỳ này đã góp phần quy định bộ mặt đời
sống văn hóa tư tưởng của xã hội Việt Nam thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII. Thời kỳ
này Nho giáo vẫn được các tập đoàn phong kiến sử dụng là công cụ chính để xây
dựng, củng cố chính quyền và thành lập, củng cố trật tự xã hội. Giáo dục và thi cử
Nho giáo cũng như dưới thời Lê sơ, vẫn lấy nội dung trong Tứ thư và Ngũ Kinh. Sự
củng cố giáo dục khoa cử trong các tập đoàn phong kiến được tăng cường chủ yếu
8
nhằm tạo ra tầng lớp sĩ phu mới để phục vụ cho các tập đoàn phong kiến này. Tuy
nhiên, nếu Nho sĩ - những người trí thức ở thế kỷ XV là những nhà tư tưởng tiêu
biểu của xã hội, thì bước sang thế kỷ XVI và thế kỷ XVII, các nhà Nho sĩ phải đối
diện với đất nước triền miên trong loạn lạc, trong chiến tranh, trong sự chia cắt.
Thực tiễn đó đã đặt ra cho các nhà Nho lúc đó là làm sao đất nước trở về một mối,
xã tắc được yên vui, nhân dân được sống trong cảnh thái bình, thịnh trị, có trật tự,
có kỷ cương, v.v.
Thế kỷ XVI và thế kỷ XVII, do sự suy thoái của chế độ quân chủ chuyên
chế, trung ương tập quyền, sự tranh chấp giữa các thế lực, phe phái phong kiến và
do ảnh hưởng ngày càng tăng của quan hệ hàng hóa – tiền tệ, Nho giáo đã thể hiện
sự bất lực trước các vấn đề của xã hội. Tôn ti trật tự xã hội không còn như trước và
sự suy đồi ấy biểu hiện trong mọi mặt của xã hội, ví như: Giáo dục vốn là một vấn
đề luôn được triều đình coi trọng, đề cao nhưng nay ngày càng xuống cấp. Trong
các kì thi Nho học, các quan chấm thi ở trường thi Hương soạn sẵn 4 – 5 đề thi, ra
đi ra lại; những thầy đồ giỏi cũng dựa vào đó để trục lợi bằng cách soạn sẵn đáp án,
đem đến quan trường bán cho các thí sinh dự thi. Thậm chí, các bộ Ngũ Kinh, Tứ
Thư còn được tóm tắt, người đi thi chỉ cần học thuộc bản tóm tắt đấy là đủ. Nạn
mua quan bán chức cũng là một điển hình tiêu biểu cho sự rối loạn của triều đình
phong kiến. Sự suy đồi của Nho giáo diễn ra trong chính hàng ngũ những người lấy
Nho học làm nền tảng tri thức và có nhiệm vụ truyền bá học thuyết này.
Trước tình hình trên, những nhà Nho chân chính - những người còn trách
nhiệm với đất nước, họ đã nhận thấy được sự bế tắc của Nho giáo trong việc xử lý
các vấn đề thực tiễn xã hội. Do vậy, để khắc phục sự suy yếu, bất lực của Nho giáo,
khôi phục lại địa vị và vai trò của Nho giáo như thời Lê sơ, đồng thời lập lại trật tự,
kỷ cương và sự ổn định của xã hội thì vấn đề đặt ra cho nhiều nhà Nho là theo Nho,
theo Phật hay theo Đạo. Chỉ theo một đạo hay kết hợp các đạo lại với nhau là tốt
nhất chính là một câu hỏi mà đội ngũ tri thức lúc bấy giờ được đặt ra. Nho giáo
không còn là tư tưởng chủ đạo mà khuynh hướng chính lúc này là tư tưởng kết hợp
tam giáo là một xu hướng phát triển trong giai đoạn này. Trong đó, khuynh hướng
kết hợp Nho giáo với Đạo Lão – Trang có Nguyễn Bỉnh Khiêm là một đại diện tiêu
biểu, còn ở một số nhà Nho khác như Nguyễn Dữ thì khuynh hướng kết hợp giữa
9
Nho giáo với Đạo giáo lại được biểu lộ rõ ràng hơn.
Tóm lại, cả Nho, Phật, Đạo đều có một phương diện cần thiết cho con người,
cho xã hội lúc bấy giờ. Sự xuất hiện chủ trương kết hợp Nho, Phật, Đạo như trên
cũng không phải là điều mới mẻ trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Trong giai đoạn
Lý – Trần, sự kết hợp này cũng đã xuất hiện. Tuy nhiên, trong hai thế kỷ XVI và
XVII thì sự kết hợp Nho, Phật, Đạo trong tư tưởng của các nhà Nho Việt Nam có
nội dung và tính chất khác so với các thời kỳ trước đó.
1.2. Tiền đề cơ bản cho sự hình thành tư tưởng dung thông tam giáo của
Nguyễn Dữ
1.2.1. Tam giáo và sự du nhập, phát triển của tam giáo đến thế kỷ XVI
Thứ nhất, Nho giáo và sự du nhập, phát triển của Nho giáo ở Việt Nam đến
thế kỷ XV:
Nho giáo là một học thuyết chính trị, xã hội, đạo đức được Khổng Tử (551 –
479 tr.CN) sáng lập và sau đó được các môn đệ của ông phát triển qua các giai đoạn
phát triển của Nho gia. Những nội dung cơ bản của Nho giáo được thể hiện rõ trong
các tác phẩm kinh điển như: Tứ Thư (gồm: Luận ngữ, Đại học, Trung Dung, Mạnh
Tử) và Ngũ Kinh (gồm Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu).
Nho giáo có nội dung tư tưởng triết học chính về thế giới, con người và xã hội,
trong đó những vấn đề luân lý đạo đức, thể chế và đường lối cai trị, quản lý xã hội
được chú trọng hàng đầu.
Trong Quan niệm về thế giới, Nho giáo có hai khuynh hướng chủ yếu là duy
tâm và duy vật. Với quan điểm duy tâm, xuất phát từ quan niệm trời là gốc của vạn
vật “vạn vật bản hồ thiên”, các nhà Nho cho rằng trời là một thực thể có ý chí, có
sức mạnh tối thượng và có quyền uy tuyệt đối, quy định sự sinh thành, phát triển,
tiêu vong của mọi sự vật, hiện tượng trong xã hội. Vì vậy, cuộc đời con người hay
các hiện tượng trong cuộc sống thì đều chịu sự quy định của mệnh trời. Đến Đổng
Trọng Thư (thời hán), ông còn bổ sung thêm quan niệm này khi cho rằng mọi hiện
tượng của tự nhiên đều biểu lộ cảm xúc của trời hoặc mang ý nghĩa như một lời
cảnh báo của trời đối với nhà vua, đất nước. Nếu nhà vua thực hiện đúng ý trời,
dùng “đức” để cai trị thì trời sẽ cho mùa màng bội thu, còn nếu nhà vua làm trái với
10
ý trời thì trời sẽ giáng thiên tai xuống để cảnh cáo, trừng phạt. Bên cạnh quan điểm
duy tâm, Nho giáo cũng có những quan điểm duy vật để giải thích cho sự vận hành
của thế giới như quan điểm về âm dương, ngũ hành,…
Ở Quan niệm về bản chất, bản tính của của con người. Các nhà Nho chủ yếu
tập trung bàn về vấn đề bản tính của con người. Nếu Khổng Tử và Mạnh Tử cho
rằng con người sinh ra vốn mang tính thiện, tính ngay thẳng thì Tuân Tử lại cho
rằng, bản chất của con người là vô lại, bởi con người luôn bị dục vọng chi phối nên
không có việc ác nào mà con người không làm. Tuy có cách lý giải khác nhau về
bản tính con người nhưng Khổng Tử, Khổng Tử, Tuân Tử đều hướng đến mục đích
hướng thiện cho con người và họ đều đề cao việc tu dưỡng đạo đức của mỗi cá
nhân. Từ Đổng Trọng Thư trở đi, một quan niệm nữa về bản tính của con người
xuất hiện, nhiều nhà Nho cho rằng ở con người tồn tại cả thiện và ác. Họ đưa ra
quan điểm về tính tam bậc, trong đó, toàn thiện chỉ có ở bậc thánh nhân, quân tử -
đây là những người làm nhiệm vụ cai trị xã hội và giáo hóa con người. Vừa thiện
vừa ác thì xuất hiện ở tầng lớp trung gian như tầng lớp trí thức, thương nhân,… Còn
những người toàn ác chính là hạng tiểu nhân, đây là đối tượng của giáo dục, giáo
hóa. Tóm lại, trong quan niệm của Nho giáo, con người con bản tính và tính ấy do
trời quy định, phú cho con người nhưng tính người có thể thay đổi dựa vào việc tự
tu dưỡng đạo đức của mỗi con người.
Từ quan niệm về bản tính của, các nhà Nho đưa ra quan niệm về vai trò của
con người đối với trời và trong các mối quan hệ. Đối với trời, họ cho rằng con
người phải “Tri thiên mệnh, úy thiên mệnh”. Nghĩa là con người trước hết phải
thành tính, tôn thờ và sợ trời để từ đó suy nghĩ, hành động theo ý trời, mệnh trời.
Còn trong những mối quan hệ xã hội, Nho giáo phân chia thành 5 mối quan hệ cơ
bản (ngũ luân), gồm có: vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, anh – em, bạn – bè. Trong
quan hệ vua – tôi thì đề cao “Quân nhân, thần trung”, nhà vua là người có quyền lực
tối thượng, được trời ủy quyền cai quản xã hội nhưng nhà vua ấy phải là người có
đạo đức, là tấm gương và thực hiện các chính sách để kiến tạo ra một xã hội có đạo
đức. Vua phải thương yêu bề tôi như bậc làm cha, làm mẹ. Con bề tôi cũng cần
tuyệt đối trung thành và thực hiện mọi mệnh lệnh của nhà vua đồng thời can gián
những hành vi trái với đạo của nhà vua, giúp vua sửa đức và cai trị xã hội. Trong
11
mối quan hệ cha còn thì coi trọng “Phụ từ, tử hiếu” nghĩa là người cha có trách
nhiệm dạy dỗ con thành người có đạo đức, còn người con có hiếu thì quan trọng
nhất là thái độ thành kính. Trong mối quan hệ vợ chồng thì đề cao trách nhiệm yêu
thương, chăm sóc lẫn nhau nhưng người chồng có vị trí, vai trò cao hơn, còn người
vợ thì phải tuân theo đạo tam tòng, tứ đức. Còn trong mối quan hệ bạn bè thì đề cao
sự tương đồng trong lối sống, giữa bạn bè cần có sự thành thật, thành tâm và giúp
đỡ lẫn nhau để sửa đức. Từ việc chỉ ra vai trò của con người trong những mối quan
hệ xã hội, Nho giáo muốn hướng tới việc xây dựng một xã hội thái bình, thịnh trị.
Nho giáo cũng nhấn mạnh vai trò của con người là vô cùng quan trọng bởi con
người cùng trời hóa sinh vạn vật nhưng con người trước hết phái có đạo đức.
Nho giáo là một hình thức văn hóa ngoại lai được du nhập vào Việt Nam từ
thời Bắc thuộc với hai phương thức chủ yếu, theo gót chân xâm lược của các thế lực
phong kiến phương Bắc và thông qua quá trình giao lưu văn hóa. Từ năm 179
tr.CN, khi nhà nước Âu Lạc rơi vào ách đô hộ của nhà Triệu, mở đầu một thời kỳ
Bắc thuộc. Năm 111 tr.CN, nhà Hán thôn tính Nam Việt và biến Âu Lạc thành
thuộc địa của nhà Hán. Từ thời Tây Hán, chính quyền đô hộ truyền bá Nho giáo vào
nước ta để nô dịch nhân dân ta về mặt tư tưởng. Chúng có âm mưu biến Việt Nam
thành một quận đồng thời Hán hóa dân ta về mặt tư tưởng, nhằm xóa bỏ văn hóa
Việt Nam. Lúc nay, Nho giáo được sử dụng như một công cụ xâm lược nên bị phản
đối gay gắt từ phía nhân dân Việt Nam, chống Nho giáo cũng đồng nghĩa với việc
chống quân xâm lược. Chính vì lý do trên, trong thời Bắc thuộc, Nho giáo chưa có
chỗ đứng trong xã hội Việt Nam. Ngoài con đường áp đặt, “cưỡng bức” văn hóa,
Nho giáo cũng được du nhập thông qua những trí thức, lái buôn, nông dân Trung
Quốc… Những tầng lớp này vì nhiều lý do khác nhau mà chuyển đến định cư tại
nước ta đồng thời đem theo văn hóa của người Hán, trong đó có Nho giáo được biểu
lộ trong lối sống, lối sinh hoạt của họ. So với Nho giáo được truyền tải trong sách
vở thì Nho giáo đã được dân gian hóa này dễ dàng được nhân dân Việt Nam tiếp
nhận hơn. Tuy nhiên, nó cũng không để lại nhiều dấu ấn trong ý thức hệ của nước
ta, mà ngược lại, bộ phận những người phương Bắc định cư tại Việt Nam để thích
nghi với thiên nhiên và xã hội, họ buộc phải thay đổi và tiếp nhận những nét văn
12
hóa, lối sinh hoạt của nhân dân ta.
Từ sau thế kỷ VI, cùng với sự trưởng thành trong ý thức độc lập của dân tộc,
sự tiếp thu những giá trị phù hợp của Nho giáo trở thành một nhu cầu thực tế của
đất nước, tầng lớp trí thức bắt đầu nhận ra được sự cần thiết của tri thức Nho giáo
đối với sự phát triển của xã hội nói chung và con người nói riêng. Lúc này, Nho
giáo được sử dụng như một biện pháp chống quân xâm lược và sau là xây dựng, bảo
vệ bộ máy nhà nước phong kiến Việt Nam. Sau chiến thằng Bạch Đằng, nhà nước
phong kiến Việt Nam về cơ bản là một bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập
quyền. Tuy nhiên, cơ sở kinh tế xã hội chưa tạo điều kiện phát triển thuận lợi cho
Nho giáo. Hơn nữa chế độ thi cử Nho học chưa được áp dụng nên đội ngũ tri thức
Nho giáo cũng chưa xuất hiện trong giai đoạn này. Sau Bắc thuộc, nhiệm vụ chủ
yếu của dân tộc là khôi phục đất nước qua việc phát triển kinh tế nên Nho giáo cũng
không được chú trọng. Đồng thời, trình độ và tầm hiểu biết của các vị vua nhà Ngô
- Đinh - Tiền Lê còn nhiều hạn chế, nên họ chưa hiểu được tầm quan trọng của việc
phát triển Nho giáo đối với bộ máy chính trị đương thời.
Đến thời Lý – Trần, từ những chuyển biến về mặt kinh tế, xã hội, khả năng
đáp ứng những nhu cầu xây dựng, tổ chức, quản lý xã hội và đặc biệt là nhu cầu
phát triển văn hóa, giáo dục, Nho giáo ngày càng thể hiện rõ hơn vai trò mình đối
với triều đình phong kiến và đời sống tinh thần của nhân dân. Để có thể xây dựng,
duy trì sự ổn định, phát triển của đất nước đồng thời đè bẹp những âm mưu xâm
lược từ phía bên ngoài, các triều đình phong kiến buộc phải lựa chọn một lý luận,
một hệ tư tưởng soi đường, làm chỗ dựa trong việc cai trị, quản lý đất nước. So với
Phật và Đạo giáo, Nho giáo là học thuyết phù hợp nhất, có hiệu quả nhất để có thể
đáp ứng những nhu cầu trên. Chính vì vậy mà, các triều đại phong kiến Lý – Trần
và cả các triều đại phong kiến về sau đã lựa chọn Nho giáo với tư cách là học thuyết
chính trị, xã hội để cai trị, quản lý đất nước và phát triển chế độ phong kiến về mọi
mặt. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của Nho giáo đối với đời sống chính trị, xã hội,
phong tục và nếp sống của nhân dân Việt Nam vẫn diễn ra hết sức chậm chạp. Đến
thời nhà Trần, trong điều kiện phải củng cổ quyền lực nhà nước và tổ chức cuộc
khảng chiến chống quân Nguyên – Mông, triều đình đề cao những quan niệm về
đạo cương thường, nghĩa quân thần, trật tự trên dưới,.. nên việc học tập và thi cử
13
Nho học được triển khai khá rầm rộ. Số lượng Nho sĩ gia tăng và chiếm phần đông
trong bộ máy tri thức Việt Nam đương thời. Trái ngược với sự phát triển của Nho
giáo, Phật giáo bắt đầu biểu lộ những mặt hạn chế, nhiều nhà Nho đã đứng lên để
phê phán sự duy đồi về mặt đạo đức của một bộ phận tăng ni, sự xa hoa, lãng phí
tiền của và sức lực của nhân dân trong việc xây dựng nhà chùa và các nghi lễ tôn
giáo. Đến thời nhà Hồ, Hồ Quý Ly đã mạnh tay công kích Phật giáo và suy tôn Nho
giáo. Số lượng trường dạy Nho học gia tăng nhanh chóng và được mở đến tận cấp
châu, huyện trong giai đoạn này. Chính vì thế nên sang đến thế kỷ XV, khi nhà
nước Lê sơ được thành lập thì Nho giáo đã giành được vị trí độc tôn trong đời sống
chính trị và tinh thần của dân tộc ta. Hệ tư tưởng Nho giáo được thể hiện trong
nhiều chủ trương, chính sách của nhà nước phong kiến, qua đó thấm vào mọi lĩnh
vực văn hóa, đạo đức của xã hội đương thời. Nó làm thay đổi cách ứng xử, giao tiếp
và đưa ra những yêu cầu chặt chẽ, quy củ cho các nghi lễ, phong tục của cộng đồng
làng xã Việt Nam.
Thứ hai, Phật giáo và quá trình du nhập, phát triển của Phật giáo ở Việt
Nam đến thế kỷ XVI:
Phật giáo là một trào lưu triết học – tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối thế
kỷ thứ VI TCN ở bắc Ấn Độ. Theo sử sách ghi lại, người sáng lập ra là Tất Đạt Đa,
thái tử của vua Tịnh Phạn thuộc bộ tộc Sakiya. Tư tưởng Phật giáo mang nặng tính
triết lý, đạo đức và nó đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa phương Đông nói chung
và văn hóa Việt Nam nói riêng. Trước hết, trong quan niệm về bản thể của thế giới,
khác với các hệ thống tư tưởng khác, Phật giáo cho rằng bản thể của thế giới chính
là “tâm”. Ban đầu, cái “tâm” của Phật giáo mang trạng thái tĩnh, không có sự vận
động và chính vì cái “tâm” ấy tĩnh nên cũng không có vũ trụ, vạn vật. Sự sinh thành
của mọi sự vật, sự việc và hiện tượng trong thế giới này là do cái “tâm” đã chuyển
sang trạng thái động. Theo quan niệm Phật giáo, thế giới này là luôn vận động,
biến đổi, các biến đổi diễn ra nhanh như chớp mắt, và thế giới thì không có trước,
không có sau, vô thủy, vô chung. Đó chính là lẽ vô thường, tức không có gì là tồn
tại cố định, mọi thứ luôn biến đổi nhanh chóng và không ai có thể lường trước được
những sự biến đổi ấy. Tuy nhiên những biến đổi này không phải tự dưng mà có, nó
14
đều tuân theo luật nhân quả, nghiệp báo.
Nhân sinh quan Phật giáo xuất phát từ quan niệm cho rằng đời là bể khổ, bởi
vì con người có sinh, lão, bệnh, tử. Hơn thế nữa, theo quan niệm luân hồi thì cuộc
đời con người là một vòng tuần hoàn, liên tiếp từ kiếp này sang kiếp khác. Vậy nên,
sau khi con người qua đời thì sẽ tái sinh, trải qua một kiếp sống khác để trả nợ cho
cái nghiệp mà họ tạo ra ở kiếp trước. Sự luân hồi chỉ kết thúc khi con người trả hết
nghiệp nhưng con người lại bị chi phối bởi những ham muốn nhục dục, tham, sân,
si và để thỏa mãn cho những dục vọng đó, con người không ngừng tạo ra nghiệp.
Cuộc đời còn là bể khổ do không biết thỏa mãn với những gì mình đang có, con
người không thể sống thảnh thơi mà luôn bị dằn vặt bởi sự ham muốn, tham lam.
Giáo lý của Phật giáo đã dùng thuyết Tứ Diệu Đế để lý giải về sự khổ trong cuộc
đời con người. Trong đó, Khổ đế là chân lý về sự khổ, Tập đế là chân lý về nguyên
nhân của sự khổ, Diệt đế là chân lý về sự chấm dứt các nỗi khổ và Đạo đế là chân lý
về con đường diệt khổ. Để thoát khỏi sự khổ đau, đạt tới cõi niết bàn thì Phật giáo
khuyên con người tu tập theo Bát chính đạo, gồm có: chính kiến, chính tư duy,
chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tịnh tiến, chính niệm, chính định. Bát
chính đạo là con đường Đức Phật đã chỉ ra để con người có được trí tuệ diệt trừ vô
minh, phá vòng luân hồi sinh tử, vừa thực hành tu tập diệt trừ tham dục, đạt đến sự
giải thoát.
Về thời điểm Phật giáo truyền vào Việt Nam, đến nay tuy chưa có những cứ
liệu chính xác, song hầu hết các học giả đều cho rằng, Phật giáo truyền vào Việt
Nam khá sớm, khoảng thế kỷ II sau Công nguyên. Phật giáo truyền bá vào nước ta
chủ yếu theo hai nguồn: Một, từ các vị sư Trung Hoa sang lánh nạn ở miền Bắc
nước ta khi Hán triều có nội loạn ở thế kỷ thứ II và thế kỷ thứ III; Hai, từ các thiền
sư từ Ấn Độ trực tiếp sang truyền đạo và lập nên các thiền phái ở nước ta từ thế kỷ
thứ II và III kéo dài nhiều đời. Phật giáo bắt đầu xuất hiện ở nước ta trong thời Bắc
thuộc, đây là thời kỳ nhân dân ta phải sống dưới ách đô hộ, áp bức và bóc lột của
nhà nước phong kiến phương Bắc. Vậy nên người dân Việt Nam có ý thức sâu sắc
về nỗi khổ của con trong thế tục, đây chính là điểm tương đồng với nhân sinh quan
Phật giáo. Hơn thế nữa, Phật giáo du nhập vào nước ta với tinh thần từ bi, hỷ xả,
cứu khổ cứu nạn, các nhà sư là người truyền giáo đồng thời làm công việc cứu tế,
15
chữa bệnh cho dân chúng. Chính điều ấy khiến cho Phật giáo nhanh chóng nhận
được thiện cảm từ phía nhân dân Việt Nam và dễ dàng hòa nhập vào đời sống văn
hóa, tinh thần của dân tộc.
Trong thời kỳ Bắc thuộc, Phật giáo dần lan tỏa trong đời sống tinh thần của
nhân dân, được biểu lộ trong các câu chuyện cổ tích về một vị Bụt, người luôn xuất
hiện để cứu giúp những người gặp phải hoàn cảnh đau khổ, bất công. Sang đến triều
đại nhà Đinh và Tiền Lê, khi nền độc lập còn non trẻ, các vị vua tuổi đời và trình độ
học thức cũng không cao đã mời các Thiền sư uyên bác, đạo pháp cao thâm vào
triều làm cố vấn chính trị và ngoại giao. Những thiền sư tiêu biểu của giúp sức cho
các nhà vua Đinh – Tiền Lê gồm có Khuông Việt, Ngô Chân Lưu, Pháp Thuận,…
Phật giáo thời kỳ được suy tôn và truyền bá rộng rãi trên khắp cả nước, nó lan rộng
về mặt không gian cũng như sự thấm sâu trong đời sống tinh thần của người Việt,
bước đầu chiếm được vị trí vững chắc trong xã hội thế kỷ X. Thời kỳ Lý – Trần là
thời kỳ phát triển đỉnh cao của Phật giáo tại Việt Nam tuy nhiên đến cuối thời nhà
Trần, Phật giáo bắt đầu cho thấy sự suy yếu và mặt hạn chế của mình thông qua
những biểu hiện xa hoa, lãng phí và đặc biệt là sự xuống cấp về mặt đạo đức của
một bộ phận nhà sư. Từ đây, Phật giáo dần nhường chỗ cho Nho giáo trong lĩch vực
chính trị và tồn tại với tư cách là một tôn giáo trong đời sống tinh thần, đời sống
tâm linh của nhân dân Việt Nam.
Thứ ba, Đạo giáo và quá trình du nhập, phát triển của Đạo giáo ở Việt Nam
đến thế kỷ XVI:
Đạo giáo là một nhánh triết học và tôn giáo Trung Quốc, nó là một
trong Tam giáo tồn tại từ thời Trung Quốc cổ đại, song song với Nho giáo và Phật
giáo. Cũng như Nho và Phật giáo, Đạo giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến nền tảng văn
hoá dân tộc của nhiều nước phương Đông, tiêu biểu nhất là Trung Quốc, Việt
Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản.
Trong quan niệm của Đạo giáo về vũ trụ, vạn vật thì bản nguyên của vũ trụ
và vạn vật là Đạo. Đạo là thể vô hình vô tướng, không sinh không diệt, hằng hữu
đời đời. Sở dĩ người ta không thấy được Đạo là vì nó là những nguyên tố rời rạc,
chưa kết thành hình tượng. Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật.
Trong đó, một là Thái cực, hai là Âm Dương, ba là Tam Thiên Vị. Âm và Dương
16
vừa xung đột vừa hòa hợp với nhau, tạo thành trời đất, vũ trụ và vạn vật. Vậy nên
trong vạn vật đều có Âm và Dương. Theo Đạo giáo, trước khi vũ trụ thành hình,
trong khoảng không gian hư vô bao la, có một chất sinh rất huyền diệu, gọi là Đạo.
Đạo biến hóa ra Âm – Dương, Âm - Dương tạo ra vũ trụ và vạn vật. Vạn vật được
hóa sinh ra, tác động với nhau, phồn thịnh với nhau, rồi cuối cùng tan rã để trở về
trạng thái không vật không hình, tức là trở về nguồn gốc của nó là Đạo. Về nhân
sinh quan, Đạo giáo cho rằng, đạo trời không thân ai, không sợ ai. Trời Đất sinh ra
muôn vật, cây cỏ, chim muông, nhân loại cốt để các sinh vật khắc chế lẫn nhau,
nuôi dưỡng nhau, bổ trợ nhau để cùng tồn tại. Theo Đạo giáo, con người không nên
ham mê danh lợi, quá coi trọng cái xác thịt của mình mà hãy sống một cách bình
thản, vô lo, vô nghĩ, thuận theo tự nhiên. Chính từ quan niệm đó, Đạo giáo khuyên
con người chọn lối sống vô vi, bất tranh để hòa hợp với thiên nhiên, vạn vật.
Khi nói về sự du nhập của Đạo giáo vào Việt Nam, không có tài liệu nào chỉ
ra thời gian cụ thể tôn giáo này được truyền bá tại nước ta, chỉ có thể biết rằng Đạo
giáo bắt đầu xuất hiện dưới thời Bắc thuộc. Đạo giáo truyền sang Việt Nam, chia
thành hai phái: Đạo giáo Phù thủy dùng pháp thuật trừ tà, trị bệnh giúp người dân
quê khỏe mạnh, và Đạo giáo Thần tiên dạy tu tiên, luyện thuốc trường sinh bất tử
cho giới quí tộc. Ngay từ khi đạo Nho chưa có cơ sở xã hội ở nước ta, thì Đạo Phù
thủy nhờ sự tương đồng với các ma thuật phù phép địa phương, nên đã bắt đầu phát
triển rộng rãi từ đời Tiền Lê. Thời xa xưa, người Việt ta thường dùng bùa chú, họ
tin rằng có thể trị tà ma, chữa bệnh, sai âm binh, tàng hình, v.v. Một số nhà sư cũng
phải học phù phép, chữa bệnh, đuổi tà nhằm tạo uy tín, lòng tin với dân chúng để có
thể truyền bá Phật giáo dễ dàng.
Ở thời Đinh – Tiền Lê, Đạo giáo cũng được tôn trọng và đề cao giống như
Nho giáo. Bên cạnh các thiền sư thì nhà vua cũng cho mời các vị đạo sĩ uyên bác
vào triều đình để giúp sức cho vua. Đến ưới thời Lý - Trần, hình thức khoa thi tam
giáo chứng tỏ rằng các tư tưởng của Đạo giáo cũng được coi trọng như Phật giáo và
Nho giáo. Trong đó, Đạo giáo ảnh hưởng chủ yếu đến các nhà tư tưởng bởi học
thuyết của nó có hàm lượng triết học cao, đó là những vấn đề bản thể luận, nhận
thức luận về “Đạo” và “Đức”, về quy luật vận động và biến đổi của các sự vật hiện
17
tượng trong thế giới. Bên cạnh các quan niệm của Đạo giáo về bản thể luận, vũ trụ
quan thì hai hình thức khác của nó là phù thủy và thần tiên đã gắn bó với những yếu
tố huyền bí bản địa trong đời sống tâm linh và tâm sinh lý của con người Việt Nam.
1.2.2. Mối quan hệ tam giáo trước thế kỷ XVI
Trong thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo được truyền bá và Việt Nam cùng gót
giày của các thế lực phong kiến phương Bắc xâm lược. Chính vì vậy, Nho giáo
ngay từ đầu và từ thời Bắc thuộc đã gặp phải sự bài trừ của nhân dân ta. Bên cạnh
đó, Phật giáo lại nhanh chóng dung nhập và văn hóa của người Việt cổ bởi học
thuyết được truyền bá bởi những nhà sư đến từ Ấn Độ hoặc Trung Quốc với triết lí
cứu khổ cứu nạn, từ bi hỷ xả. Đạo giáo cũng được nhân dân tiếp nhận một cách dễ
dàng bởi quan niệm về một thế giới đa thần gần gũi với tín ngưỡng dân gian vốn có.
Ở giai đoạn này, tam giáo tồn tại một cách khá độc lập và không có sự liên hệ, tác
động nhiều đến nhau. Vai trò của tam giáo đối với đời sống chính trị, văn hóa và
tinh thần của đất nước chưa được thể hiện rõ nét.
Đến thời kỳ Đinh - Tiền Lê, sự tác động của tam giáo đến xã hội Việt Nam
ngày càng trở nên rõ nét hơn. Theo sự trưởng thành trong ý thức độc lập của dân
tộc, nhân dân ta, đặc biệt là tầng lớp trí thức bắt đầu nhìn nhận Nho giáo với một
thái độ khách quan hơn, họ nhận ra được vai trò và hiệu quả của Nho giáo là cần
thiết đối với quá trình xây dựng, phát triển bảo vệ và duy trì độc lập của dân tộc. So
với Phật và Đạo, rõ ràng Nho học phù hợp hơn và có thể đáp ứng nhu cầu cấp thiết
là xây dựng một mô hình nhà nước mới nhằm bảo vệ chủ quyền và phát triển đất
nước. Tuy nhiên sự phát triển của Nho giáo lại phải phụ thuộc vào Phật giáo bởi
những người tham gia truyền bá Nho giáo của giai đoạn này lại chính là những nhà
sư, đạo sĩ vì vậy nên tư tưởng Nho giáo trongnày ít nhiều đều bị ảnh hưởng bởi lăng
kính của Phật và Đạo giáo. Đạo giáo và đặc biệt là Phật giáo có vai trò vô cùng
quan trọng trong thời kỳ này, đội ngũ trí thức – nền tảng trí tuệ cho triều đình phong
kiến nhà Đinh – Tiền Lê đều là những thiền sư, đạo sĩ có kiến thức uyên bác. Một
số thiền sư kiêm nhà chính trị, nhà ngoại giao tiêu biểu như thiền sư Vạn Hạnh,
thiền sư Ngô Chân Lưu, thiền sư Pháp Thuận,… có nhiệm vụ cố vấn cho nhà vua,
giúp cho nhà vua kiến thiết và phát triển nhà nước phong kiến trung ương tập
18
quyền. Không chỉ có vai trò trong lĩnh vực chính trị, Phật giáo và Đạo giáo tiếp tục
tồn tại, phát triển và đi sâu vào đời sống tín ngưỡng, tâm linh của nhân dân Việt
Nam.
Đến thời kỳ nhà Lý, vào những năm 70 của thế kỷ XI, triều đình nhà Lý đã
có những hoạt động nhằm phát triển Nho học lúc bấy giờ như: thành lập Văn Miếu
vào năm 1070, Minh kinh bác học và Nho học tam trường 1075, xây dựng Quốc tử
giám vào năm 1076, mở khoa thi tam giáo đầu tiên năm 1195,… Có thể nói đây là
một tiền đề cho việc Nho giáo từng bước vươn lên xác lập vị thế của nó trên lĩnh
vực chính trị, đáp ứng sự đòi hỏi của xã hội. Hệ thống khoa cử theo lối Nho học
xuất hiện, nó đã sản sinh thêm đội ngũ trí thức Nho học bên cạnh những thiền sư
Phật giáo và đạo sĩ của Đạo giáo. Lúc này, nhà Nho có thể tự đứng ra để truyền bá
và phát triển Nho giáo, chính vì thế những ảnh hưởng của Phật, Đạo đối với Nho
giáo dần mờ nhạt. Ở Việt Nam, xu hướng “sùng Phật ngưỡng Nho” bắt đầu có từ
thời Lý - Trần trở đi, nhà cầm quyền lúc này, họ tôn sùng Phật giáo phần nhiều trên
lĩnh vực đời sống tâm linh. Trong công việc chính sự, khi cần họ đều tham kiến
những thiền sư tài cao học rộng tuy nhiên, Phật giáo không phải học thuyết chính
trị, mà là hệ tư tưởng về tôn giáo, đạo đức nên nó không có hệ thống quan điểm về
luật phát, chính quyền, cơ chế tuyển dụng nhân tài cho đất nước,… chính vì vậy,
các nhà vua đã kết hợp cả những tư tưởng của Nho giáo và sử dụng đội ngũ trí thức
Nho học cho việc cai trị và quản lý bộ máy triều đình. Dưới thời Lý – Trần, về mặt
vị trí, Phật giáo vẫn là hệ tư tưởng chính thống, chiếm vị thế chủ đạo được các vua
đề cao, coi trọng nhưng Nho giáo đã có sự bứt phá, vươn lên và đạt được vị trí gần
như ngang hàng với Phật giáo trong lĩnh vực chính trị. Về mặt vai trò, Phật giáo vẫn
ảnh hưởng đến đường lối cai trị của Nhà nước, biểu hiện qua những chính sách thân
dân, khoan dung và đối trọng với nó là tư tưởng của Nho giáo, nó bổ sung cho sự
thiếu hụt quan niệm về bộ máy nhà nước, chính trị của Phật giáo.
Đến cuối đời nhà Trần, tầng lớp Nho sĩ ngày càng phát triển, họ dần tham
chính, năm giữ các chức vụ, trọng trách mà trước đây chỉ dánh cho tầng lớp quý tộc,
tông thất. Sự phát triển của Nho giáo dần lấn át Phật, Đạo giáo. Hơn thế nữa, Nho
giáo ngày càng chiếm ưu thế trong hệ thống chính trị, mà Phật giáo về bản chất chủ
trương xuất thế, cầu giải thoát, về lâu dài không thể đảm đương, gánh vác các công
19
việc xã hội, xây dựng chế độ quân chủ. Chính vì vậy, bộ phận trí thức Nho học
muốn vươn lên giữ vị trí chính thống, chủ đạo. Đến thế kỷ XIII trở đi, những biểu
hiện lãng phí, xa hoa và sự xuống cấp đạo đức của một bộ phận tăng ni đã trở thành
đối tượng phê phán của nhiều nhà Nho.
Từ thế kỷ XV trở đi, giai cấp thống trị ngày càng chú trọng phát triển Nho
giáo bởi mục đích xây dựng nhà nước phong kiến tập quyền ngày càng cao. Thời Lê
sơ, Nho giáo được đặc biệt coi trọng. Nửa cuối thế kỷ XV, dưới triều đại Lê Thánh
Tông, Nho giáo hoàn toàn chiếm vị trí chủ đạo trên lĩnh vực chính trường. Từ đây
Phật giáo và Đạo giáo lui về địa bàn làng xã và ảnh hưởng chủ yếu trong dân gian
theo nhu cầu tinh thần của nhân dân, trong đó có cả trí thức Nho học. Thời kỳ này,
Phật và Đạo tồn tại như những nhân tố bổ sung trong đời sống tâm linh khiến cho
các nhà Nho thường ít bàn luận về hai học thuyết này.
1.3. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Dữ
Theo sử sách ghi lại, Nguyễn Dữ là người xã Đoàn Lâm, huyện Gia Phúc,
thuộc Hồng Châu xưa nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Dữ
không rõ sinh và mất năm nào. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho
học. Cha Nguyễn Dữ là Nguyễn Tường Phiêu - người đã đỗ tiến sĩ khoa Bính Thìn
niên hiệu Hồng Đức thứ 17 năm 1486, làm quan đến Thừa Tuyên sứ, hàm Thượng
thư. Từ những dữ liệu trên, có thể xác định Nguyễn Dữ sinh ra vào cuối thế kỷ XV
và sống chủ yếu vào nửa đầu thế kỷ XVI. Đây là giai đoạn xã hội Việt Nam có
nhiều sóng gió và biến động. Sau thời Lê Thanh Tông trị vì, triều đại phong kiến
Việt Nam bắt đầu suy yếu, đặc biệt là sự xuống cấp về đạo đức của bộ máy vua
quan triều đình.
Nguyễn Dữ là một trong những học trò xuất sắc của Trạng Trình Nguyễn
Bỉnh Khiêm. Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, hiếu học và có tài văn chương
kiệt xuất. Sau khi đậu kì thi Hương, Nguyễn Dữ được bổ nhiệm làm quan tại huyện
Thanh Thuỷ. Tại nhiệm được một năm, chán nản trước sự xuống cấp của bộ máy
triều đình, ông xin từ chức về quê, phụng dưỡng mẹ già cho toàn đạo hiếu. Từ đó,
Nguyễn Dữ sống xa lánh thế tục, ở ẩn tại vùng núi Thanh Hoá. Ông lựa chọn lối
sống an nhiên, tự tại, hang ngày làm bạn với thiên nhiên, núi rừng. Chính vì lẽ đó
mà Nguyễn Dữ có thể tập trung vào thú vui văn chương, chữ nghĩa. Và Truyền kỳ
20
mạn lục được Nguyễn Dữ sáng tác trong giai đoạn này. Bộ truyện gồm 20 truyện,
sau khi tiếp xúc với tác phẩm Tiễn đăng tân thoại của tác giả Trung Hoa - Cù Tông
Cát (1347 - 1433), Nguyễn Dữ đã trực tiếp chịu ảnh hưởng của tác phẩm truyền kỳ
này.
Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất còn lại của Nguyễn Dữ. Truyền kỳ
mạn lục được nguyễn Dữ viết vào khoảng vào nửa đầu thế kỷ XVI (khoảng những
năm 20 – 30). Thời điểm ra đời của Truyền kỳ mạn lục là vào lúc triều đại nhà Lê
trên đà suy vi với các ông vua nổi tiếng hoang, dâm tàn bạo như Uy Mục (1505 -
1509), Tương Dực (1509 - 1516). Trong một số truyện của Truyền kỳ mạn lục đã in
đậm dấu ấn đau thương của thời đại đó. Cốt truyện Truyền kỳ mạn lục chủ yếu lấy
từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ
truyền thuyết các vị thần mà đến thời hiện nay vẫn còn. Nguyễn Dữ viết bộ truyện
này nhằm ghi lại những câu chuyện truyền thuyết linh dị, kì bí từ thời Lý – Trần
đến thời ấy.
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, được
viết theo thể loại truyền kỳ. Khi viết Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ đã dựa chủ yếu
vào những câu chuyện đã lưu truyền trong dân gian, có nhiều trường hợp lấy từ
truyền thuyết về các vị thần mà hiện nay vẫn còn đền thờ như đền thờ Vũ Thị Thiết
ở Hà Nam, Nhị Khanh ở Hưng Yên và Văn Dĩ Thành ở làng Gối, Hà Nội. Nguyễn
Dữ viết Truyền kỳ mạn lục bằng văn xuôi chữ Hán có xen những bài thơ, ca, từ,
biền văn, cuối mỗi truyện đều có lời bình thể hiện rõ chính kiến của tác giả, trừ
truyện 19 Kim Hoa thi thoại ký là không có lời bình. Hầu hết các truyện trong
Truyền kỳ mạn lục, đều được tác giả lấy bối cảnh ở các thời Lý, Trần, Hồ, thuộc
Minh, Lê sơ và trên địa bàn từ Nghệ An trở ra Bắc. Những câu chuyện kỳ lạ trong
dân gian được Nguyễn Dữ đưa vào trong Truyền kỳ mạn lục thực chất là những câu
chuyện mang tính chất phản ánh xã hội đương thời. Thông qua tác phẩm Truyền kỳ
mạn lục, tác giả đã bộc lộ tâm tư, hoài bão và cả những nhận thức của mình về
nhiều vấn đề trong xã hội đương thời với thái độ nghiêm khắc, khách quan.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Thế kỷ XVI là giai đoạn triều đình phong kiến Việt Nam bắt đầu xuất hiện
những dấu hiệu suy thoái, trì trệ và tình trạng này tiếp tục kéo dài trong suốt ba thế
21
kỷ sau đó. Sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái chính trị và sự xuống cấp của
tầng lớp vua quan đã làm mất đi trật tự xã hội vốn có. Mâu thuẫn giữa nhà nước
phong kiến với nhân dân cũng ngày càng trở nên sâu sắc, hàng loạt các cuộc khởi
nghĩa nông dân nổ ra nhưng đều thất bại. Đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, dưới
ách thống trị của những vị “vua quỷ”, “vua lợn”, họ bị bóc lột thậm tệ và nặng nề.
Trong tình trạng đó, dân chúng và đặc biệt là đội ngũ những nhà tri thức đã đánh
mất niềm tin vào triều đình, rơi vào cuộc khủng hoảng tư tưởng. Những giá trị tốt
đẹp của Nho giáo về chính trị, đạo đức bị sụp đổ bởi cuộc tranh giành quyền lực
giữa các phe phái. Trong xã hội bấy giờ, quan niệm về giá trị đồng tiền bị đề cao
thái quá, thậm chí nhiều người vì danh lợi mà đánh mất cả nhân tính. Trước tình
hình đó, Nho giáo không còn đóng vai trò là hệ tư tưởng đúng đắn, có hiệu quả
trong việc duy trì trật tự, kỷ cương và sự ổn định của xã hội phong kiến, chế độ
phong kiến Việt Nam lúc bấy giờ.
Dung thông tam giáo là một biện pháp nhiều nhà Nho đã lựa chọn trong bối
cảnh xã hội ấy. Nhưng đây không phải lần đầu tiên biện pháp này xuất hiện tại Việt
Nam. Tam giáo Nho, Phật, Đạo là ba học thuyết được du nhập vào Việt Nam từ bên
ngoài, trải qua một quá trình tiếp biến văn hóa giữa tam giáo và với các yếu tố bản
địa đã làm hình thành nên những đặc điểm riêng của tư tưởng dân tộc ta. Ngay từ
thời Bắc thuộc, sự du nhập và tiếp biến của Nho, Phật, Đạo ở Việt Nam mang sắc
thái “cạnh tranh” để giành vị trí ảnh hưởng của mỗi giáo đến đời sống tinh thần của
người Việt. Sang thời kỳ đầu độc lập (từ thế kỷ X – đầu thế kỷ XV), do nhu cầu
xây dựng và củng cố nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, vấn đề quản lý xã
hội cần phải có một học thuyết chủ đạo và phù hợp nên Nho giáo ngày càng trở nên
quan trọng hơn. Với mô hình nhà nước mô phỏng phương Bắc, nhà Lý và tiếp đó
đến Trần và Hồ phải quan tâm đến vấn đề giáo dục, đào tạo con người của Nho
giáo. Chính vì vậy, Phật giáo và Đạo giáo từng bước nhường chỗ cho Nho giáo
trong lĩnh vực giáo dục – khoa cử cũng như quản lý xã hội. Mối quan hệ tam giáo
thời kỳ này là thống nhất trong đa dạng vì mục tiêu xây dựng nhà nước phong kiến
trung ương tập quyền và xây dựng, phát triển đất nước về mọi mặt. Thế kỷ XV, Nho
giáo chiếm lĩnh địa hạt chính trị, Phật giáo và Đạo giáo lui về địa bàn làng xã và
ảnh hưởng tới đời sống tinh thần cư dân ở đây như dưới thời Bắc thuộc. Sang thế kỷ
22
XVI, Nho giáo không còn đủ khả năng để khắc phục tình trạng rối loạn trong xã hội
phong kiến và cũng không thể đủ năng lực để giải quyết có hiệu quả nhiều vấn đề
nảy sinh từ thực tiễn xã hội và chế độ phong kiến đương thời. Vì thế một lần nữa,
mối quan hệ giữa tam giáo đã có sự điều chỉnh để giải quyết những vấn đề trên. Đây
chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn dến sự dung thông tam giáo Nho – Phật – Đạo ở
23
thế kỷ XVI nói chung và ở Nguyễn Dữ nói riêng.
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG DUNG THÔNG TAM GIÁO
CỦA NGUYỄN DỮ
2.1. Tư tưởng dung thông tam giáo thể hiện trong thế giới quan của
Nguyễn Dữ
Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nho giáo là một trong những hệ tư tưởng
đầu tiên du nhập vào nước ta. Theo gót chân xâm lược của các triều đại phong kiến
phương Bắc, Nho giáo được truyền vào Việt Nam và sau này, trong quá trình giao
lưu văn hóa, Nho giáo đã có những sự biến đổi để phù hợp, thích nghi và có vai trò
trong đời sống xã hội mà từ đó tồn tại, ăn sâu, bám rễ và trở thành một trong những
nét văn hóa đặc trưng của dân tộc ta. Ban đầu, Nho giáo được giai cấp phong kiến
Việt Nam sử dụng vào quá trình xây dựng nhà nước phong kiến với vai trò của một
hệ thống tư tưởng chính trị. Chính từ nguyên nhân này mà Nho giáo nhanh chóng
có một vị trí đặc biệt quan trọng trong kiến trúc thượng tầng của xã hội phong kiến
Việt Nam. Những nội dung, tư tưởng về đạo đức của nó thâm nhập và tác động vào
mọi tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là đội ngũ các nhà Nho – những người có uy tín
và có vai trò nhất định trong chế độ phong kiến Việt Nam. Với tư cách là một hệ
thống tư tưởng về chính trị và đạo đức, Nho giáo không chỉ tác động mạnh mẽ vào
tư duy chính trị, triết lý nhân sinh, đạo đức mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới
quan của đội ngũ tri thức Việt Nam, đặc biệt trong quan niệm về trời đất, về mệnh
trời, con người và mối quan hệ giữa con người với trời đất.
Quan niệm xem “trời” như là một lực lượng siêu nhiên thần bí, là nguồn gốc
sinh thành ra mọi sự vật, hiện tượng là một điểm chung dễ thấy trong quan niệm của
đa số các nhà Nho Việt Nam thời phong kiến. Điển hình như: nhà Nho Nguyễn Phi
Khanh (1335-1428) đời Trần đã viết: “Trời là gì? Là cái chí thanh, chí hư, chí đại
đó thôi, bốn mùa thành năm mà không tỏ ra có công, vạn vật chịu ơn mà không lộ
rõ dấu vết” [38, tr.496 – 497] hay Nguyễn Trãi (1380 -1442) từng khẳng định rằng,
“trên có trời đất quỷ thần” [36, tr.122] và vạn vật sinh sôi là do ơn tạo hóa của trời
đất.
Nguyễn Bỉnh Khiêm – thầy của Nguyễn Dữ cũng đưa ra quan điểm trời sinh
ra vạn vật, đồng thời tạo nên nguyên tắc tồn tại của vạn vật một cách đương nhiên:
24
“Trời nẻo có sinh thì có dưỡng. Dễ hầu nằm giữa mất phần chăn?” [28, tr.1565].
Trong thế giới quan của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta thấy ông có sự nghiên cứu sâu về
các nguyên lý của Kinh Dịch. Các quan điểm thế giới quan của ông xuất hiện rất
nhiều trong thơ ca về đề tài tự nhiên, thế sự và cuộc đời. Trong các bài thơ của
Nguyễn Bỉnh Khiêm, quá trình hình thành vũ trụ và các hiện tượng, nguyên tắc của
đời sống xã hội đều được lý giải dựa trên các quy luật của tự nhiên. Nguyễn Bỉnh
Khiêm viết “Thái cực sơ triệu phân, Tam tài định quyết vị. Khinh thanh thướng vi
thiên, Địa trọc há vi địa. Trung tụ nhi vi nhân, Bẩm thụ thị nhất khí.” (Dịch nghĩa:
Thái cực lúc mới phân chia, Vị trí của tam tài đã định. Trong và nhẹ bay lên thành
trời, Đục và nặng lắng xuống thành đất. Tụ hội ở giữa thì thành người, Bẩm thụ đều
là một khí) [28, tr.1344-1354]. Trong quan niệm của Nguyễn Bình Khiêm,thái cực
là bản thể của vũ trụ tồn tại dưới dạng “khí”. Mọi sự vật, hiện tượng vận động,
chuyển hóa, biến đổi là kết quả của sự kết hợp giữa hai loại khí âm và dương [7,
tr.90].
Trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục, tuy Nguyễn Dữ rất hiếm khi đưa ra luận
giải của mình về thế giới nhưng qua những phần đối đáp giữa các nhân vật, ta có thể
thấy được phần nào quan điểm của ông về trời đất, về sự hình thành nên vũ trụ.
Qua các tư tưởng đó của Nguyễn Dữ, ta thấy ông đã có sự tiếp thu quan điểm của
Nho giáo Trung Quốc và nhiều nhà Nho đi trước, đặc biệt chịu ảnh hưởng trực tiếp
từ người thầy của mình – Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong Truyền kỳ mạn lục có viết
“Phục văn huyền hoàng triệu phán, phân dương thanh âm trọc chi hình” (Dịch
nghĩa: Trời, đất gây dựng, chia ra thành âm đục dương trong). Đến đây, ta có thể
khẳng định rằng, Nguyễn Dữ có chung quan điểm với Nguyễn Bỉnh Khiêm khi cho
rằng “khí” là bản thể của vũ trụ. Trong đó, loại khí trong và nhẹ (khí dương) bay
lên cao tạo nên trời, còn loại khí nặng đục (khí âm) lắng xuống tạo nên đất. Nhờ hai
loại khí tác động với nhau mà vũ trụ không ngừng vận động, biến đổi, các sự vật,
hiện tượng cũng từ đó mà sinh thành. Và hiển nhiên, sự sinh thành đó mang tính
khách quan và không phụ thuộc vào mong muốn của con người, nó thuận theo quy
luật sẵn có của tự nhiên. Hơn thế nữa, âm dương không chỉ tạo ra trời mà còn quy
định sự vận động của “đạo trời”, bởi vậy trong Truyền kỳ mạn lục mới có câu:
“Thiên hữu âm dương, thiên đạo dĩ chi nhi bị,
25
Nhân hữu phu phụ, nhân đạo dĩ chi nhi thành” [5, tr.215]
Có nghĩa là:
“Trời có khí âm dương, đạo trời lấy đấy mà đủ
Người có nghĩa vợ chồng, đạo người lấy đấy mà nên” [5, tr.360]
Như vậy, trong quan niệm của Nguyễn Dữ, âm dương kết hợp tạo nên lẽ vận
hành của trời đất, của giới tự nhiên và xã hội, trong đó có cả con người, ấy chính là
cái được gọi là “đạo trời”. Âm và dương vốn là hai mặt trái ngược, đối lập nhau
nhưng chính sự đối lập ấy lại tạo nên chu trình vận động tuần hoàn và sự cân bằng
cho vạn vật. Và trong quá trình ấy thì vạn vật biến đổi khôn lường. Trong thế giới
quan Phật giáo cũng khẳng định rất rõ ràng rằng, thế giới này luôn nằm trong trạng
thái biến chuyển không ngừng và vì vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới trở
nên “vô thường”. Ngoài ra, Nguyễn Dữ cũng chịu ảnh hưởng của Đạo giáo, đó là
luật thừa trừ đắp đổi, là trong sự vận động gồm hai mặt đối lập thì cái thừa sẽ bù
vào cái thiếu, cái thái quá sẽ san sẻ cho cái bất cập để tạo nên một thế cân bằng cần
thiết. Ở đây, có thể thấy rằng Nguyễn Dữ đã sử dụng quy luật của tự nhiên tạo hóa
để giải thích cho “đạo trời”, “đạo người”. Và không chỉ Nguyễn Dữ mà còn nhiều
nhà Nho khác như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan (1528 -1613) cũng có
cái nhìn tương tự. Tuy nhiên, chính vì đồng nhất quy luật tự nhiên với quy luật xã
hội nên họ không thể giải thích cặn kẽ các hiện tượng trái ngược với “cương
thường” trong xã hội Việt Nam đương thời.
Cùng với quan niệm xem trời như là đấng tạo hóa của muôn vật, các nhà
Nho trong xã hội phong kiến Việt Nam còn nhìn nhận “trời” như một vị thần tối
cao, có ý chí, có tình cảm, có thể có thể phù hộ, giám sát và trừng phạt con
người. Trong Truyện tướng Dạ Xoa có viết: “Trời dùng đức chứ không dùng uy, ưa
sinh chứ không ưa giết” [5, tr.247]. Như vậy, chịu ảnh hưởng của Nho giáo,
Nguyễn Dữ tin ông trời cũng có nhân cách, tình cảm hơn nữa nhân cách ấy còn cao
đẹp vô cùng. Trong Truyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, có nàng Nhị Khanh vì
muốn giữ tấm lòng son sắt mà tuẫn tiết, Nguyễn Dữ cho rằng: “trời thương là oan
uổng bèn ra ân chỉ”, cho nàng “lệ thuộc vào tòa đền và coi giữ sớ văn tấu đối” cho
quan ở thiên đình [5, tr.33]. Có lẽ, vì “trời” sinh ra vạn vật nên “trời” cũng yêu
thương vạn vật như tấm lòng của cha mẹ trong thiên hạ dành cho con cái. Nhưng
26
không vì thương mà trời mất đi sự chí công và vô tư, mà theo Nguyễn Dữ “đạo trời
công minh như cái cân cái gương, có thần minh để gây dấu vết, có tạo hóa để giữ
công bằng” [5, tr.51]. Cái gương thì không soi riêng ai và “đạo trời” không bỏ sót
người nào cũng như lưới trời tuy thưa mà khó lọt. Bất kể là ai, lứa tuổi nào, giới
tính ra sao thì đứng dưới “đạo trời” đều sẽ được phân xử thiện ác rõ ràng. Thế nên
“trời giúp người lành, ban cho phúc trạch” [5; tr195] còn kẻ làm điều ác thì sẽ bị
phạt nghiêm, ấy chính là sự công bằng của trời đất. Ở phần Chuyện gã Trà đồng
giáng sinh có viết: “làm thiện ở người, giáng phúc cho người thiện ở trời, sự cảm
ứng ở giữa khoảng trời và người thật là sâu mờ vậy thay” [5, tr.53].
Xuất phát từ quan niệm xem trời như là vị thần tối cao có ý chí, có nhân
cách, như nhiều nhà Nho khác trong xã hội phong kiến Việt Nam, Nguyễn Dữ đã đi
đến tư tưởng về mệnh, mệnh trời. Theo ông, mệnh hay mệnh trời chính là ý chí, sức
mạnh của trời chi phối trật tự xã hội, tự nhiên và số phận của con người. Trong phần
Truyện người con gái Nam Xương có ghi, khi Vũ Nương buồn khổ vì bệnh tình của
mẹ chồng, bà có khuyên nàng rằng: “Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời”, “song tuổi
thọ có chừng, số trời khó tránh. Dầu khan bức hết, số tận mình cùng”. Ở đoạn này,
Nguyễn Dữ mượn lời người mẹ để thể hiện quan niệm của nhân dân đương thời về
số mệnh, họ tin tưởng mãnh liệt vào mệnh trời, ý trời và hiểu rõ được quy luật sinh
tử là không thể tránh khỏi. Chính vì điều ấy mà thái độ trước cái chết của họ không
bi quan, ủ rũ mà bình tĩnh, thản nhiên. Và đây cũng chính là quan niệm của Phật
giáo về sự sinh – tử của con người.
Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, cục diện nội chiến, chia cắt, chiến tranh
loạn lạc của đất nước đã ảnh hưởng mạnh đến tư tưởng của các nhà Nho. Sự thay
thế của các vương triều và sự biến đổi nhanh chóng của số phận con người làm cho
các nhà Nho thời kỳ này, như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Phùng Khắc
Khoan, Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780), Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803)… cảm thấy bất lực
trước thời cuộc và do đó, họ càng tin tưởng vào ý trời, mệnh trời và sự phụ thuộc
của con người vào mệnh trời. Họ còn dựa vào các luật biến dịch, tuần hoàn trong
Kinh Dịch - cơ sở của Lý học thời Tống - để giải thích sự biến đổi xã hội, sự thịnh
suy của thời cuộc. Trong quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tất cả là do số, do
mệnh, do trời chi phối, con người không thể làm gì được: “Được thua phú quý đều
27
thiên mệnh. Chen lấn làm chi cho nhọc nhằn” [38, tr.132].
Sống dưới triều Mạc và Lê Trung Hưng, Nguyễn Dữ vừa chịu ảnh hưởng từ
thầy, vừa chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo, nên thế giới quan của ông thể
hiện rõ nét tính chất duy tâm thần bí. Theo Nguyễn Dữ, trong cuộc đời của mỗi con
người, mệnh trời quy định cả sự thành hay bại, sang giàu hay đói rách của con
người, vì vậy nên “Phú quý không thể cầu, nghèo cùng do tự số” [5, tr.251].
Nguyễn Dữ còn cho rằng, “cái gì không làm mà nên là do trời, không vời mà đến là
do mệnh” [5, tr.252] nên con người phải biết thuận thiên, hiểu được vị trí vốn có
của mình và làm tròn cái bổn phận ấy.
Không chỉ có quan điểm về sinh tử, sang hèn mà đối với các nhà Nho, mọi
việc diễn ra từ việc lớn đến việc nhỏ, từ việc xã hội, của đất nước đến việc của mỗi
người đều là do trời chi phối. Cũng như các bậc tiền bối, Nguyễn Dữ cũng tin vào
mệnh trời, vào uy quyền của trời. Với ông, sự biến đổi của một triều đại, sự thịnh
suy của một đất nước đều liên hệ đến trời. Nguyễn Dữ đưa ra quan điểm về việc nhà
vua phải biết tuân theo “mệnh trời”, nghĩa là phải tuân theo đường lối nhân nghĩa –
dung đức để trị dân. Và do vậy, theo ông, nếu kẻ cầm quyền biết tuân theo mệnh
trời thì đất nước thịnh, làm trái mệnh trời thì đất nước suy. Xét đến cùng thì sự hưng
thịnh của xã tắc đều từ ý trời mà ra cả. Như Chuyện ở đền Hạng vương, khi trò
chuyện cùng Hồ Tôn Thốc thì Hạng Vương có nói: “Đứng đầu Chư hầu là quân
nước Sở, làm chúa Tam Tần là tướng nước Sở. Thiên hạ theo về nước Sở, có thể
ngồi mà sai khiến được. Nhưng rồi Sở đến phải chết vì Hán, há chẳng phải là bởi
trời ư? Vậy thì khi trời định giúp Hán, dù kẻ thổi kèn, dệt chiếu, cũng đủ để thành
công; khi trời định diệt Sở, dù người cất vạc, nhổ núi cũng không hề nói giỏi” [5,
tr.15] và “sự hưng vong của Hán, Sở, chỉ là do sự may rủi của trời mà thôi, há nên
lấy thành bại mà so bì” [5, tr.16].
Tin vào mệnh trời, tin vào tiền định nhưng niềm tin của Nguyễn Dữ không
phải một niềm tin mù quáng, thiếu lý trí, như khi ông lý giải về chữ “mệnh” như
sau: Tuân theo mệnh trời nghĩa là thực hiện năm điều Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín.
Vậy nên đối với bậc quân vương, phải theo con đường vương đạo – nghĩa là dùng
đức để cai trị dân chúng: “Phàm xoay cái thế thiên hạ, ở trí chứ không phải ở sức,
thu tấm lòng thiên hạ, ở nhân chứ không phải ở bạo” [5, tr.17]. Ở đây còn cho
28
chúng ta thấy rằng, trong quan điểm của Nguyễn Dữ, bởi kẻ cai trị không chỉ trên
thuận theo mệnh trời mà còn phải dưới hợp lòng người. Như vậy, mệnh trời và lòng
người dường như có sự dung hợp, thuận thiên cũng chính là thuận theo ý dân mà đi
ngược lại với nguyện vọng của dân cũng tức là nghịch lại mệnh trời. Từ quan điểm
đó, Nguyễn Dữ đã viết lời bình ở cuối Chuyện ở đền Hạng vương để lý giải về
chuyện sụp đổ của nhà Sở như sau: “So Sở với Hán thì Hán hơn, sánh Hán với bậc
vương đạo, Hán còn xa lắm. Sao vậy? Hồng Môn nổi giận, Thái công tha về, những
việc ấy, Sở không phải là bất nhân; nhưng nhân nông mà ác sâu. Làm cỏ Dĩnh
Xuyên, giết hại công thần, những việc ấy, Hán không phải là không có lỗi, nhưng
lỗi ít, tốt nhiều. Sở đã đành trái với nhân nghĩa, nhưng Hán cũng chỉ là giống với
nhân nghĩa” [5, tr.21]. Theo Nguyễn Dữ, bậc quân vương chỉ có nhân nghĩa thì
chưa đủ. Ngoài nhân nghĩa với tính cách là phẩm chất tất yếu, bậc quân vương cần
phải duy trì vương nghiệp sao cho thể chế của nhà nước phong kiến được bền vững,
trị bình, phải học lối trị nước – hành đạo của các ông vua huyền thoại Nghiêu
Thuấn. Cuối cùng, ông cho rằng, “Kẻ trị thiên hạ nên tiến lên đến đạo thuần vương”
[5, tr.15].
Bên cạnh các quan niệm trên, cũng như Nguyễn Bỉnh Khiêm và nhiều nhà
Nho đương thời, thế giới quan triết học của Nguyễn Dữ cũng chịu nhiều ảnh hưởng
của thế giới quan Phật giáo. Trước hết, có thể nói đến quan điểm về “vô thường” .
Trong Phật giáo, vô thường là một trong ba pháp ấn và nó tồn tại ở mọi sự vật, hiện
tượng, đây được xem là một đặc tính chung của mọi sự. Giáo lý vô thường rất quan
trọng cho toàn bộ cơ sở triết lý và thực hành trong Phật giáo. Có thể hiểu vô thường
là sự hợp thành và mất đi của các sự vật, hiện tượng diễn ra theo một quy luật nhất
định của giới tự nhiên, của xã hội, chúng có thể đến bất kì lúc nào và ra đi khi
chúng ta không thể ngờ đến. Không có một sự vật hay sự việc nào tồn tại bất biến,
mà tất cả đều luôn luôn chuyển động, nó như là đặc tính cố hữu hiện diện trong các
sự vật, hiện tượng. Và quan niệm vô thường của Phật giáo xuất hiện với tần suất
dày đặc trong các câu chuyện ngắn của Truyền kỳ mạn lục. Như trong Truyện người
con gái Nam Xương, nàng Vũ Thị Thiết cùng chồng là Trương Sinh vốn cảnh đoàn
viên sum họp nhưng bất ngờ lại xảy ra binh biến, Trương Sinh bị ghi tên trong sổ
trai tráng nên đành phải ra chiến trường. Vũ Nương nết na, thùy mị, trên chăm mẹ
29
già dưới dưỡng con nhỏ, một lòng son sắt chờ chồng. Vốn tưởng khi Trương về,
nàng sẽ có một mái ấm trọn vẹn nhưng ngờ đâu vì một hiểu lầm không đáng có mà
nhà tan cửa nát, nàng phải trầm mình tại sông Hoàng Giang.
Nguyễn Dữ cho rằng sự kết hợp giữa âm dương tạo nên sự hình thành và vận
động của mọi sự vật hiện tượng trên thế gian. Nhưng đồng thời, ông cũng ít nhiều
chịu ảnh hưởng bởi quan niệm về “duyên khởi” trong Phật giáo. Vạn vật đều vô
thường. Theo đó, vạn vật đều được tập hợp lại mà thành, đều do nhân duyên chi
phối tạo thành. Duyên hợp thì vạn vật tồn tại, hiện hữu, duyên tan thì vạn vật không
tồn tại, không hiện hữu, vạn vật bị huỷ hoại. Tiếp thu và chịu ảnh hưởng của quan
điểm ấy, Nguyễn Dữ lý giải các mối quan hệ trong cuộc sống đều được tạo nên bởi
chữ “duyên”. Chẳng hạn như trong Truyện Từ Thức lấy vợ tiên, chàng Từ Thức vì
có duyên nên mới được gặp Giáng Hương tại tòa chùa, lại vì có duyên nên vô tình
lạc vào động tiên rồi cùng Giáng Hương nên nghĩa vợ chồng. Nhưng thời khắc
chàng ngỏ ý muốn về thăm quê thì cũng là lúc duyên đã cạn, chính vì vậy mà trong
bức thư của Giáng Hương có viết: “Kết lứa phượng ở trong mây, duyên xưa đã hết,
tìm non tiên ở trên bể, dịp khác còn đâu” [5, tr.126].
Ngoài những tư tưởng trên thì quan niệm của Phật giáo về luân hồi, nghiệp
báo, nhân quả… cũng được đề cập nhiều lần trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ. Bên cạnh hệ tư tưởng Nho, Phật, ta thấy được Nguyễn Dữ cũng chịu
ảnh hưởng của thế giới quan Đạo giáo (chủ yếu là trường phái Đạo phù thủy và Tu
tiên). Trong đó, Nguyễn Dữ thừa nhận sự tồn tại của ba thế giới (giới trời, giới
người và giới âm), các vị thần đạo giáo và phép thuật. Điều này được đề cập đến
nhiều lần trong các câu chuyện của Truyền kỳ mạn lục, ví như trong Truyện tướng
Dạ Xoa, Dĩ Thành tính tình hào hiệp, cương nghị nên sau khi qua đời, được Diêm
Vương tin tưởng phong cho làm tướng lĩnh coi quản bọn quân ôn dịch. Hay như
trong Truyện cây gạo, Trung Ngộ và Nhị Khanh sau khi chết còn tác oai tác quái,
làm hại người dân vì vậy nên bị vị đạo nhân lập một đàn tràng cúng tế, làm phép
nhờ các thần linh đến bắt giữ và trừng trị.
Tuy trong truyện Truyền kỳ mạn lục, có thể thấy rằng thế giới mà Nguyễn
Dữ miêu tả có nhiều tình tiết linh dị, huyền bí nhưng thực chất thì Đạo giáo không
phải yếu tố đóng vai trò chủ đạo trong tư tưởng triết học nói chung và thế giới quan
30
nói riêng của ông. Xét đến cùng, Nguyễn Dữ có xuất phát điểm là một nhà Nho nên
ông dùng nhãn quan của Nho giáo để nhìn nhận, đánh giá mọi vấn đề trong cuộc
sống. Và tư tưởng của Nho giáo mới là yếu tố quan trọng nhất để hình thành nên thế
giới quan của Nguyễn Dữ cũng như định hướng cho lối sống, lối suy nghĩ của ông.
Có thể thấy rằng, trong tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ, các tư tưởng
của Phật hay Đạo chỉ mang tính chất bổ sung cho những điểm còn thiếu sót mà Nho
giáo chưa có cách lý giải đầy đủ và phù hợp. Như đã trình bày, Nguyễn Dữ là một
nhà Nho sinh sống vào giai đoạn cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, đây là một giai
đoạn vô cùng đặc biệt. Bởi từ khi được du nhập vào Việt Nam và trở thành hệ thống
tư tưởng trụ cột cho triều đình phong kiến thì từ thế kỷ XVI trở đi, Nho giáo dần
bộc lộ rõ yếu kém, lạc hậu so với trước đó và bất lực trong việc giải quyết những
yêu cầu của thời đại lúc bấy giờ. Các quan niệm về chính trị, đạo đức của nhà Nho
đã không còn đủ sức duy trì trật tự, kỷ cương trong triều đình đến ngoài xã hội.
Cuộc tranh giành lợi ích giữa các tập đoàn phong kiến đã làm sụp đổ niềm tin về
“cương thường”, “chính danh” của các nhà Nho. Và chính trong bối cảnh đó, cuộc
khủng hoảng chính trị đã đẩy các nhà Nho vào cuộc khủng hoảng tư tưởng của
chính mình. Bất lực trước một xã hội trái ngược với lý tưởng tu - tề - trị - bình, đầy
rẫy sự thối nát và mục rữa, Nho giáo lại không đủ sức để lý giải về các hiện tượng
bất ổn trong đời sống thực tại, Nguyễn Dữ đã tìm đến Phật, Đạo để phần nào giải
tỏa đi sự bối rối và khỏa lấp đi những điểm còn thiếu sót trong tư tưởng của Nho
gia.
2.2. Tư tưởng dung thông tam giáo thể hiện trong nhân sinh quan của
Nguyễn Dữ
Cùng với các quan niệm về trời, mệnh trời và bản thể của thế giới thì vấn đề
về con người là lĩnh vực mà các nhà Nho trong xã hội phong kiến Việt Nam hết sức
quan tâm. Theo họ, sự sinh thành, biến đổi của con người và xã hội loài người cũng
không nằm ngoài sự biến hóa của trời, đất. Thầy của Nguyễn Dữ - Nguyễn Bỉnh
Khiêm trong bài “Cảm hứng” có viết như sau: “Thái cực sơ triệu phân, Tam tài định
quyết vị. Khinh thanh thướng vi thiên, Địa trọc há vi địa. Trung tụ nhi vi nhân, Bẩm
thụ thị nhất khí.” (Dịch nghĩa: Thái cực lúc mới phân chia, Vị trí của tam tài đã
định. Trong và nhẹ bay lên thành trời, Đục và nặng lắng xuống thành đất. Tụ hội ở
31
giữa thì thành người) [28, tr.1344-1345]. Như vậy, cũng như Nho giáo và quan
niệm của nhiều nhà Nho, theo Nguyễn Bỉnh Khiêm, con người được sinh ra do sự
giao hòa của trời và đất, sự xuất hiện của con người được xem như là sự kết tinh tại
một vị trí trung gian giữa trời và đất.
Tiếp thu nhiều quan điểm của Nho giáo nói chung và Nguyễn Bỉnh Khiêm
nói riêng, Nguyễn Dữ cũng cho rằng, trời đất là nguồn gốc sinh ra mọi sự sống trên
thế gian, trong đó có cả con người. Nhưng địa vị của con người không phải tương
đồng với các loài vật khác và địa vị đó lại vô cùng đặc biệt và quan trọng. Nếu ví
trời đất là cha mẹ thì chắc hẳn con người chính là đứa con cưng của trời. Bởi con
người là “giống khôn thiêng”, được trời ưu ái phú cho suy nghĩ và tình cảm. Về vấn
đề này, ở phần Lời bình của Truyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang, Nguyễn Dữ có viết:
“Than ôi! Trời đất sinh ra mọi loài mà riêng hậu đối với loài người, cho nên con
người ta là giống khôn thiêng hơn muôn vật. Tuy phượng hoàng là giống chim
thiêng, kỳ lân là giống thú nhân, cũng chỉ là loài vật mà thôi” [5, tr.162]. So với các
loài khác, kể cả phượng hoàng hay kì lân, dù là giống vật thiêng nhưng vẫn xếp ở vị
trí sau con người bởi theo Nguyễn Dữ là do trời phú cho con người trí khôn để biết
phân biệt phải trái đúng sai. Còn các loài vậy khác dù hiếm như kì lân, phượng
hoàng thì cũng “chỉ là loài vậy mà thôi” [5, tr.192]. Hơn thế nữa, trong Truyện kỳ
ngộ ở trại Tây, nàng Nhu Nương và Hồng Nương vốn là hai loài cây, sau khi tu
luyện thì mới có dáng vẻ của con người. Hay trong Truyện bữa tiệc đêm ở Đà
Giang, loài vượn và loài cáo thành tinh cũng hóa thành hai tú tài để vào hành cung.
Những chi tiết này cho thấy được, trong quan niệm của Nguyễn Dữ, con người
đứng đầu trong muôn loài hơn nữa còn trở thành một chuẩn mực chung, là hình
tượng mà muôn loài ao ước muốn có được. Tuy các loài khác phải tu hành khổ
luyện nhưng chúng cũng không thể trở thành con người thật sự mà chỉ khoác lên
trên mình dáng vẻ giống con người mà thôi.
Chịu ảnh hưởng của Nho giáo cho rằng, con người được sinh ra từ trời đất, là
phần kết tinh, phần trung gian giữa trời và đất nên giữa chúng có một mối liên hệ
chặt chẽ với nhau, nhiều nhà Nho trong xã hội phong kiến Việt Nam đều khẳng
định, trời và người không phải tách rời nhau như hai thực thể đối lập mà có liên hệ
mật thiết với nhau, có thể thấu hiểu, giúp đỡ hoặc hóa giải tai ương cho con người
32
nếu con người thật sự có thành ý và chân thành khấn xin làm cho trời cảm động.
Trong Lời bình của Truyện gã Trà đồng giáng sinh viết: “Làm thiện ở người, giáng
phúc cho người thiện ở trời, sự cảm ứng ở giữa khoảng trời và người thật là sâu mờ
vậy thay” [5, tr.53]. Về thực chất, đây cũng chính là nội dung của các thuyết “thiên
nhân tương đồng”, “thiên nhân cảm ứng”, "thiên nhân hợp nhất" mà Hán Nho đã
đưa ra. Trong Câu chuyện đối đáp với người tiều phu ở núi Na, Nguyễn Dữ một lần
nữa khẳng định về mối liên hệ trời và người, ông nói về sự táng bại của nhà Hồ
“chẳng qua là nghiệm với lẽ trời, chứng với lòng người” [5, tr.161] mà thôi.
Cũng như nhiều nhà Nho Việt Nam, Nguyễn Dữ quan niệm rằng quyền lực
của nhà vua là do trời trao cho để thực hiện ý chí của trời, vị vua ấy phải thường
xuyên chăm lo công việc trị nước, cai quản muôn dân và quan sát những biến đổi
của trời đất để xem việc mình làm có thuận theo ý trời hay không. Nếu việc làm của
nhà vua trái với ý trời, trời sẽ hiện ra những điềm tai biến để cảnh báo và vua phải
theo đó mà điều chỉnh việc làm của mình. Ví như trong Câu chuyện ở đền Hạng
Vương, nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của nhà Tần là do: “Giữ thói tiết kiệm là
đức tốt của người làm vua. Thủy hoàng thì không thế, xây cung ở bên sông, mở
đường ở ven núi, đắp nền cho cao bằng những hờn oán của dân, chứa kho cho đầy
bằng những máu mỡ của dân” [5, tr.18]. Trong quan niệm về nhân sinh của Nguyễn
Dữ, ông cho rằng trời cai quản và quyết định tất cả mọi việc trên thế gian, còn nhà
vua là người được giao quyền thực thi ý chí của trời. Trời giám sát mọi hành động
của vua thông qua việc đánh giá lòng người, nếu nhà vua có đức thì lòng dân an ổn,
còn nếu nhà vua bất nhân thì lòng dân phẫn nộ. Vì thế, người làm vua phải biết
quan sát các hiện tượng tự nhiên mà hiểu được ý trời, quan sát cuộc sống của dân và
thái độ của dân chúng đối với nhà vua, với triều đại để hiểu được lòng dân. Đây
cũng chính là quan điểm về sự tương thông giữa trời đất và con người, giữa mệnh
trời và lòng dân trong Nho giáo nói chung mà Nguyễn Dữ đã tiếp thu và chịu ảnh
hưởng.
Như đã trình bày, Nguyễn Dữ tin tưởng vào mệnh trời và khuyên con người
nên tuân theo mệnh trời, sống đúng với bổn phận của mình. Tuy nhiên, thuận mệnh
trời trong quan điểm của Nguyễn Dữ không có nghĩa là con người buông thả và
không cần phải cố gắng. Ông đặc biệt phê phán việc con người dùng số mệnh để
33
giải thích cho sự thất bại trong cuộc sống của chính mình. Vì thế nên khi khi Hạng
Vương nói chuyện thắng thua của Hán, Sở chỉ do sự may rủi của trời mà thôi thì bị
Hồ Tôn Thốc phản bác lại rằng: “Lẽ trời việc người, cùng là đầu cuối lẫn nhau. Bảo
mệnh ở trời, Thương Trụ vì thế mà mất nước; bảo trời sinh đức, Tân Mãng vì thế
mà bỏ mình. Nay nhà vua bỏ việc người mà đi bàn lẽ trời, thì thế đã đến táng bại
vẫn không tỉnh ngộ” [5, tr.17]. Trời quyết định số mệnh của con người nhưng đó là
việc của trời. Còn sống ra sao và sống như thế nào thì đó còn là việc của con người.
Với Nguyễn Dữ, dù tin vào số mệnh nhưng con người vẫn phải sống có trách
nhiệm, trách nhiệm ấy được thể hiện qua từng hành động và suy nghĩ của con
người. Con người trong quan niệm ông cũng cần có chứng kiến riêng, kiên định và
quyết đoán trong hành động. Chính vì thế, cho nên Nguyễn Dữ mới ca ngợi Ngô Tử
Văn trong truyện chức phán sự đền Tản Viên: “Người ta vẫn nói: “Cứng quá thì
gãy”. Kẻ sĩ chỉ lo không cứng được, còn gãy hay không là việc của trời. Sao nên
đoán trước là sẽ gãy mà chịu đổi cứng ra mềm ru!” [5, tr.111].
Nhưng bên cạnh đó, ông cũng khuyên mỗi người không nên vượt quá khuôn
khổ, không nên có những suy nghĩ, hành động vượt quá bổn phận của mình. Đều là
những học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm nhưng Phùng Khắc Khoan lại có cách nhìn
nhận khác về vai trò của con người. Dù cũng thừa nhận có mệnh trời nhưng theo
Phùng Khắc Khoan, không phải vì thế mà con người hoàn toàn phải chịu phục tùng
ý trời. Ở đây Phùng Khắc Khoan khác với Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Dữ cũng
như nhiều nhà Nho đương thời lúc đó. Ông không vì thừa nhận mệnh trời mà bi
quan chán nản rồi từ quan về ở ẩn như thầy dạy Nguyễn Bỉnh Khiêm và bạn học
Nguyễn Dữ, trái lại Phùng Khắc Khoan vẫn lạc quan và tin tưởng vào con đường
dấn thân của mình. Từ quan điểm cho rằng hoạt động của con người có thể làm thay
đổi sự tiền định, ông đi tới việc khẳng định tính tích cực sáng tạo của con người để
xoay chuyển tình thế. Cho nên mỗi khi đề cập đến mệnh trời thì đằng sau đó không
phải là lời than thở, mà là một nghị lực, một niềm tin xoay chuyển. Chẳng hạn hai
câu: “Phú quý vinh hoa mệnh trời đã định sẵn. Xưa nay vẫn có xuất thân nghèo hèn
mà làm đến công khanh” (Vinh tiến an bài thiên mệnh định, Cổ lai bạch ốc khởi
công danh - Bệnh trung thư hoài) [Dẫn theo: 7, tr.95].
Bên cạnh quan niệm về vai trò của con người thì trong quan niệm của Nho
34
gia, trời không chỉ phú cho con người dáng hình đẹp đẽ mà ngay cả bản tính của
con người cũng đã được quy định từ khi mới sinh ra. Vấn đề bản tính của con người
cũng là một vấn đề được các Nho sĩ xem trọng và thường xuyên bàn tới. Dù đều có
mục đích là giáo hóa con người hướng thiện nhưng chính các bậc thánh nhân như
Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử cũng có những sự lý giải khác nhau về bản tính của
con người. Trong quan niệm của Khổng Tử thì bản tính của con người là lành, là
ngay thằng (dã trực) và nó gần giống nhau ở tất cả mọi người, như sách Luận ngữ
có viết: "Tính tương cận giã; tập tương viễn giã" [24, tr.269]. Nghĩa là, con người
khi mới sinh ra đều có cái tính trời phú cho là gần giống nhau, đó là lành và ngay
thẳng nhưng do quá trình tiếp xúc, học hành mà làm cho họ có sự khác nhau, có kẻ
trí, người ngu. Phẩm chất của con người là chất phác, chân thực và đó là điều kiện
thuận lợi để trau dồi đức nhân và tất cả các đức khác cũng từ đức nhân mà ra. Bản
tính của con người là lành, là ngay thẳng nhưng vì con người quen thói đời, mê vật
dục nên mới thấy điều nhân xa mình. Vì vậy, khi con người đã có nhân thì phải luôn
giữ lấy điều nhân, đừng bao giờ xa rời nó, dù chỉ trong một khoảnh khắc thời gian.
Cũng giống như Khổng Tử, khi bàn về bản tính con người, Mạnh Tử cho
rằng, bản tính con người là thiện và tính thiện của con người được thể hiện qua bốn
đức lớn: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí. Bốn đức lớn đó bắt nguồn từ tứ đoan là: Lòng trắc ẩn
(biết thương xót), lòng tu ố (biết thẹn ghét), lòng từ nhượng (biết cung kính) và lòng
thị phi (biết phân biệt phải trái). Vì vậy, theo Mạnh Tử, không có lòng trắc ẩn thì
không phải là người, không có lòng từ nhượng không phải là người, không có lòng
thị phi không phải là người. Tứ đoan là bốn cái đầu mối của điều thiện nên còn gọi
là tứ thiện đoan. Bên cạnh đó, theo Mạnh Tử, bản tính con người là thiện còn vì các
lương năng mà trời phú cho con người. Tuy nhiên, mặc dù cho rằng con người sinh
ra sẵn có tính thiện, nhưng theo Mạnh Tử, tính thiện đó không phải là bất biến mà
con người có thể đánh mất đi và sa vào con đường bất thiện khi có ngoại cảnh xấu
tác động và bị chi phối bởi những ham muốn, dục vọng. Thế nhưng tác động của
ngoại cảnh cũng có giới hạn của nó. Khi tâm của con người thật vững vàng không
bị chi phối bởi vật dục và luôn học tập, tu dưỡng đạo đức thì con người luôn thiện,
luôn có đạo đức.
Khác với quan điểm của Khổng Tử và Mạnh Tử, Tuân Tử lại đi từ cái ác để
35
lý giải bản tính của con người. Ông cho rằng con người khi mới sinh ra vốn đã có
sẵn lòng ham lợi và dục vọng nên để thoả mãn những ham muốn và dục vọng đó,
con người phải hành động thuận theo tính tự nhiên, bản năng của mình. Và, điều đó
tất phải dẫn đến sự tranh giành, xâu xé, cướp bóc, chiếm đoạt của nhau. Như Tuân
Tử nói: "tính con người, sinh ra là hiếu lợi, thuận theo tính đó thì thành ra tranh đoạt
lẫn nhau mà sự từ nhượng không có; sinh ra là đố kỵ, thuận theo tính đó thì thành ra
tàn tặc, mà lòng trung tín không có; sinh ra có lòng muốn của tai mắt, có lòng thích
về thanh sắc, thuận theo tính đó thì thành ra dâm loạn mà lễ nghĩa, văn lý không có.
Như thế thì theo cái tính của người ta, thuận cái tính của người ta, tất sinh ra tranh
đoạt, phạm vào cái phận (tức là quyền lợi của nhau), làm loạn cái lý mà phải mắc
lỗi tàn bạo. Cho nên phải có thầy, có phép để cải hoá (cái tính) đi, có lễ nghĩa để
dẫn dắt nó, rồi sau mới có từ nhượng, hợp văn lý và thành ra trị" [Dẫn theo: 4,
tr.86]. Như vậy, với Tuân Tử thì cái tính ban đầu của con người là ác, còn tính thiện
là do con người học tập, tu dưỡng đạo đức sau này mới có được.
Kế thừa những quan điểm trên, Nguyễn Dữ cho rằng, con người sinh ra là
thiện bởi con người được trời phú bẩm cho “thiên lý”. Trong Chuyện Lý tướng
quân, ông viết: “Trời, đất gây dựng, chia ra hình âm đục, dương trong, Dân vật bẩm
sinh, khác ở chỗ duyên lành, nghiệp dữ. Biết bao sự trạng, khôn xiết kể bày. Bởi
trời lấy lý phú cho người, sao được người đều hiển thánh, Người đem mình noi theo
tính, khỏi đâu tính hoặc sáng mờ. Cho nên thiên lệch có người, hư tồi lắm kẻ” [5,
tr.209 - 210]. Như vậy, giống như Khổng Mạnh, Nguyễn Dữ cũng cho rằng, con
người mang tính thiện tiên thiên. Nhưng tính thiện ấy không phải bất biến mà có thể
thay đổi được. Thông qua Truyền kỳ mạn lục, có thể thấy rằng, con người được
miêu tả dưới ngòi bút của ông gồm có hai phần linh hồn và thể xác. Nếu phần linh
hồn đã được trời phú cho lý thì thể xác gồm cơ thể và những giác quan giúp con
người có thể cảm thụ thế giới. Các nhà Nho gọi đó là cái mà từ đó hình thành “nhân
dục” với ý nghĩa đối lập với “thiên lý”. Nó cũng là toàn bộ nguồn gốc của tham,
sân, si, dục vọng của con người. Đó chính là lý do mà tuy con người có tính thiện
tiên thiên nhưng theo Nguyễn Dữ thì không phải ai cũng có thể trở thành hiển thánh
mà trong xã hội cũng tồn tại nhiều kẻ hư tồi. Như vậy con người trong tư tưởng của
Nguyễn Dữ vừa mang tính thiện tiên thiên vừa có cả tính bản năng như động vật.
36
Tính thiện, tính người chính là các yếu tố khiến cho con người khác biệt giữa muôn
loài. Nhưng nếu “tâm thuật không chính” thì con người sẽ ngày càng rời xa tính
thiện quý giá ấy và bị mê hoặc, lôi kéo, quyến rũ vào những dục vọng cá nhân.
Như vậy theo Nguyễn Dữ, “lý” mà trời phú cho con người là tính thiện, mà
“tâm” là nơi để con người có thể mở rộng tính thiện ấy. Theo quan niệm của Phật
giáo, tính ở đây được gọi là Phật tính. Phật tính là thiện, là trạng thái giác ngộ mà
con người nhận thức được sự vật một cách chân thực và đúng đắn nhất. Tại thời
điểm đó con người không bị tham, sân, si chi phối làm cho lầm lạc, vô minh. Ảnh
hưởng của Phật giáo đối với Nguyễn Dữ được thể hiện thông qua quan niệm về mối
quan hệ giữa “Tâm” và “Tính”. “Tâm” theo quan niệm của Phật giáo là cái mang
tính bản thể bởi thế giới này vốn là tĩnh, thế giới vận động do cái tâm của con người
không tĩnh. Nghĩa là mọi sự vật, hiện tượng trên thế gian này được sinh ra đều từ
cái tâm vọng động, trong đó có cả tham, sân, si. Mà tam độc (tham, sân, si) chính là
nguồn gốc gây nên việc con người đánh mất đi bản chất thiện vốn có của mình.
Trong Nho giáo, Tâm là nơi đạt đến chí, trong Phật giáo, Tâm là trạng thái hư
không. Như vậy Nguyễn Dữ đã tìm thấy sự thống nhất của Phật, Nho trong quan
niệm về Tâm tính.
Bên cạnh quan niệm về vai trò của con người trong thế giới, Nguyễn Dữ
cũng đưa ra các quan điểm về cuộc đời. Trước hết, cũng như nhiều nhà Nho khác,
Nguyễn Dữ nhận ra rằng, sinh tử là quy luật của cuộc đời. Ông đã sử dụng các quy
luật của tự nhiên để lý giải về sinh mệnh con người, như trong Truyện kỳ ngộ ở trại
Tây có viết “Người sinh ở đời như cái hoa trên cây, tươi héo có kỳ” [5, tr.67]. Ở đây
Nguyễn Dữ đã ví cuộc sống trong người cũng giống như loài cây, cũng sẽ có quá
trình sinh thành, phát triển và cuối cùng là tiêu vong. Quy luật sinh tử là quy luật
của đời người thế nhưng Nguyễn Dữ tin rằng cái chết không có nghĩa là sự kết thúc
mà sau khi chết thì con người lại tiếp tục tái sinh và bắt nguồn một kiếp sống mới.
Ở đây, Nguyễn Dữ đã tiếp thu quan điểm về luân hồi của Phật giáo và quan niệm về
ba thế giới của Đạo giáo. Thông qua các truyện trong Truyền kỳ mạn lục, cho thấy
rằng, trong tư tưởng của Nguyễn Dữ, con người sau khi chết đi thì phần linh hồn
vẫn còn tồi tại, sau đó linh hồn của con người sẽ phải tham gia một “tòa án lương
tâm”. Tại đây, các vị thần linh sẽ làm nhiệm vụ chỉ ra những điều thiện - ác mà con
37
người đã làm trong cuộc đời, từ đó quyết định thưởng phạt cho người đó.
Một điểm đặc biệt nữa mà không thể không nhắc tới trong nhân sinh quan
của Nguyễn Dữ chính là tư tưởng về nhu cầu được giải phóng cá nhân, giải phóng
các nhu cầu của con người được thể hiện trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục. Theo
các tài liệu còn lưu lại, có thể thấy, Nguyễn Dữ sinh sống vào khoảng cuối thế kỷ
XV – đầu thế kỷ XVI, đây là thời kỳ đất nước bị chia cắt thành Đàng Trong và
Đàng Ngoài, và để đủ sức cạnh tranh mà hai thế lực Trịnh – Nguyễn rất chú trọng
vào vấn đề phát triển kinh tế. Nếu Đàng Ngoài có Thăng Long, Phố Hiến thì Đàng
Trong có Hội An, Gia Định. Đây đều là những trung tâm kinh tế hết sức nhộn nhịp
và phát triển mạnh mẽ của Việt Nam ở giai đoạn này. Dấu hiệu của một nền kinh tế
mới mang màu sắc thị dân đang dần được hình thành và xuất hiện. Nó đã thổi một
làn gió mới vào đời sống tinh thần nhân dân cùng những ảnh hưởng đến nền văn
hóa lâu đời của xã hội phong kiến. Sự giao, lưu buôn bán là một trong những tác
nhân thúc đẩy các nét văn hóa phương Tây truyền bá vào Việt Nam trong giai đoạn
này. Một cánh cửa mới được mở ra khiến cho một bộ phận nhân dân đương thời
không còn hoàn toàn gò bó vào các lễ giáo, quan điểm đạo đức Nho gia mà thay vào
đó là lối sống phóng khoáng và tự do hơn. Những điểm mới trong quan niệm về lối
sống này vừa tác động tích cực vừa tác động tiêu cực đến nước ta trong thế kỷ XVI.
Quan niệm về khát vọng, nhu cầu được sống đúng với bản năng và hạnh
phúc cá nhân chính là một điểm mới trong lịch sử tư tưởng Việt Nam ở giai đoạn
này. Trước hết, trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục, ta thấy có một điểm khác biệt
trong tư tưởng của Nguyễn Dữ với các nhà Nho của thế hệ trước. Nếu như ở giai
đoạn trước, các nhà Nho hiếm khi đề cập đến các vấn đề về nhu cầu tâm sinh lý của
con người thì ngược lại, trong tác phẩm của mình Nguyễn Dữ lại tập trung vào việc
phác họa vào những khát khao, những nhu cầu cá nhân cần được thỏa mãn một cách
vô cùng táo bạo. Trong 20 truyện của ông còn xuất hiện những nhân vật đã vượt
khỏi quy phạm về đạo đức của xã hội phong kiến, thậm chí là mất đi cả nhân tính.
Giả như người chồng trong Người nghĩa phụ ở Khoái Châu, chỉ vì ham tiền và thói
ham mê cờ bạc mà sẵn sàng phá bỏ đạo nghĩa vợ chồng. Hay gã phú thương Trình
Trung Ngộ trong Chuyện cây gạo vì ái tình mà phải chết. Hoặc như trong Truyện kỳ
ngộ ở trại Tây, Hà Nhân vì đắm mình trong sắc dục mà bỏ đi con đường công danh
38
rộng mở. Tất cả những nhân vật trên đều là đại biểu cho một nhóm người trong xã
hội, họ muốn hưởng lạc từ thú vui vật chất hoặc sắc dục, sẵn sàng phá bỏ đạo đức
luân lý thông thường, không tin tưởng vào đạo nhân nghĩa của Nho gia, cũng không
sợ nghiệp báo, nhân quả. Họ chỉ mong muốn được hưởng thụ và đạt được tự do,
thoát khỏi sự gò bó của lễ giáo phong kiến trong cuộc sống đời thường.
Quan niệm về hạnh phúc cá nhân, tình yêu đôi lứa cũng là một trong những
vấn đề nhân sinh được Nguyễn Dữ tập trung khai thác trong tác phẩm Truyền kỳ
mạn lục. Khác với những nhà Nho trước đó chỉ đề cập đến vấn đề gia đình dưới góc
độ tình nghĩa, trách nhiệm giữa vợ và chồng, cha mẹ với con cái, anh với em.
Nguyễn Dữ cũng đặc biệt quan tâm đến chủ đề về gia đình nhưng lại tập trung vào
khát vọng về tình yêu và hạnh phúc. Đây là nội dung tư tưởng mới mẻ mang tính
nhân đạo, nhân văn so với các giai đoạn trước đó. Trong Truyền kỳ mạn lục,
Nguyễn Dữ đã cho ta thấy được khát vọng của nhân dân trong cuộc sống đời
thường, tiêu biểu có Chuyện người con gái Nam Xương, Truyện Lệ Nương. Trong
hai câu chuyện trên, Nguyễn Dữ đã miêu tả những mối tình thuỷ chung, son sắt và
khát vọng về tình yêu lứa đôi của các cặp nam nữ. Như trong Truyện Lệ Nương,
Nguyễn Dữ thể hiện thái độ trân trọng trước tình yêu của Lệ Nương và Phật Sinh,
đó là một tình yêu trong sáng và họ sẵn sàng vượt qua các khó khăn để đến được
với nhau. Nhưng mặt khác, ông cũng không đồng tình với việc con người bất chấp
tất cả để theo đuổi tình yêu, ông viết về sự sinh tình của Phật Sinh như sau: “Như
chàng họ Lý kia, vì mối ân tình giữ bền ước cũ, lưu ly hoạn nạn, vẫn chẳng quên
lời, tình thật đáng thương, mà lẽ phải thì chưa ổn. Bởi sao? Cảm tình mà đi tìm thì
nên, liều chết mà đi tìm thì không nên, liều chết để đi tìm đã không nên, huống nữa
lại thôi không lấy vợ, để đứt dòng giống của tiên nhân phỏng có nên không?” [5,
tr.231].
Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục đã manh nha xuất hiện những quan niệm mới
về nhân sinh quan trong tư tưởng của Nguyễn Dữ. Ở đây, ta cũng thấy được sự mâu
thuẫn trong chính tư tưởng của ông. Sự mâu thuẫn này một mặt phản ánh sự mâu
thuẫn trong đời sống hiện thực, mặt khác cho thấy sự dao động trong lập trường của
một nhà Nho. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và thực tế của cuộc sống, phạm
vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con
39
người được đề cập tới. Bất mãn với thời cuộc và bất lực trước hiện trạng, Nguyễn
Dữ ẩn dật và đã thể hiện quan niệm sống của kẻ sĩ lánh đục về trong qua Câu
chuyện đối đáp của người Tiều phu trong núi Na ở ẩn mà nhà văn vẫn quan tâm đến
thế sự, vẫn không quên đời, vẫn nuôi hy vọng ở sự phục hồi của chế độ phong kiến.
Đúng như giáo sư Bùi Duy Tân đã nói: “Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư
tưởng Nho gia. Ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong
mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều đại mục nát
đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá
giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh
quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương
những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không
phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà Nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy
trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến” [13,tr.1125].
2.3. Tư tưởng dung thông tam giáo thể hiện trong quan niệm về đạo đức
của Nguyễn Dữ
Truyền kỳ mạn lục là một trong những tác phẩm văn học đặc sắc nhất của thế
kỷ XVI. Thế nhưng nó được khen là “thiên cổ kỳ bút” không chỉ vì những giá trị
văn chương, mà còn bởi những giá trị về mặt tư tưởng, đạo đức mà Nguyễn Dữ đã
truyền tải trong bộ truyện này. Trong bản dịch Truyền kỳ mạn lục của mình, Trúc
Khê có nhận xét rằng: “Trong tất cả hai mươi truyện, tuy đều có phần quái hoang
đường cả. Song phần nhiều các truyện, tác giả tuy trong khi muốn được thỏa cái ý
thích múa mênh ngòi bút phun hoa nhả gấm, nhưng vẫn dụng ý ký thác vào đó một
cái ý nghĩa về đạo đức luân lý, hay một lời châm biếm về những chính tục của
đương thời” [5, tr.7].
Thật vậy, trong tác phẩm của mình, Nguyễn Dữ tuy rằng không trực tiếp bàn
về vấn đề đạo đức, nhưng trong các câu chuyện của ông đều ẩn dấu một triết lý, một
bài học về giáo dục đạo làm người. Một mặt, Nguyễn Dữ phê phán xã hội vì coi
trọng đồng tiền đã dẫn đến các thói hư, tật xấu và đội ngũ vua quan, trí thức với
những biểu hiện trái với luân lý, đạo đức đương thời. Mặc khác, ông biểu dương và
thể hiện sự tôn kính với những nhân cách cao cả, lối sống nhân nghĩa và tấm lòng từ
40
bi, yêu thương con người.
Trong Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ đã nhiều lần phê phán sự suy thoái
đạo đức trong xã hội thông qua nhiều trường hợp và với nhiều đối tượng thuộc các
tầng lớp khác nhau. Thế nhưng, một nguyên nhân chung dẫn đến tình trạng ấy, đó là
sự tham lam, lòng dục vọng về danh lợi, tiền tài, sắc dục,v.v. đã sai khiến con người
làm những điều tội lỗi, phi đạo đức. Họ đã đánh đổi tính thiện mà trời phú cho mình
để lấy lòng tham lam và thậm chí là đánh mất cả nhân tính chỉ để thỏa mãn dục
vọng cá nhân trước mắt, thấp hèn.
Quan phần ghi chép trong Truyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu cho chúng
ta biết, Đỗ Tam là một tay lái buôn, dù biết rõ Nhị Khanh là vợ của Trọng Quỳ
nhưng hắn vẫn tìm mọi cách để chiếm đoạt được nàng. Hiểu được Trọng Quỳ yêu
thích tiền bạc lại hay sa đà cờ bạc nên hắn liền lập mưu, lừa Trọng Quỳ đem vợ
mình trả nợ. Thông qua nhân vật tay lái buôn Đỗ Tam, Nguyễn Dữ đã miêu tả hạng
gian thương lòng dạ bất chính, chúng có thể sử dụng mọi mánh khóe tinh vi để lừa
đảo nhằm thỏa mãn tư dục của bản thân. Hơn thế nữa, thương nhân trong cách nhìn
nhận của Nguyễn Dữ chỉ là những kẻ xấu xa, không chỉ làm việc bất nghĩa mà còn
sử dụng tiền bạc để mua chuộc lòng người, dụ dỗ người ta làm những việc sai trái.
Ở đây, chúng ta có thể thấy được, Nguyễn Dữ thể hiện một thái độ vô cùng khắt
khe, chán ghét đối với tầng lớp những người làm thương nhân. Có lẽ, ông chịu ảnh
hưởng sâu sắc của Nho giáo khi cho rằng những người làm nghề buôn bán đều là
người hèn hạ. Cũng theo Nho giáo, trong tứ dân (sĩ, nông, công, thương) thì thương
nhân là hạng người được xếp cuối cùng và trong xã hội phong kiến, họ cũng không
nhận được sự đánh giá cao, coi trọng. Dù rằng thương nhân là những người đóng
góp cho sự giàu mạnh của nước nhà nhưng trong quan niệm người dân Việt Nam
thời xưa thì nghề buôn chính là nghề lừa gạt, bất nhân. Vậy nên mới có câu “Phi
thương bất phú, vi phú bất nhân”.
Ở truyện này, nhân vật Trọng Quỳ vì ham mê tiền bạc mà coi rẻ tình nghĩa
vợ chồng, đem vợ mình ra đánh bạc. Từ chi tiết ấy, Nguyễn Dữ muốn miêu tả, vạch
trần bộ mặt đáng khinh của một xã hội coi trọng đồng tiền và phê phán những hành
vi mất nhân tính, phi đạo đức của một nhóm người trong xã hội nước ta lúc bấy giờ.
Sự suy đồi ấy có thể diễn ra ở mọi nơi, trong mọi mối quan hệ kể cả tình nghĩa vợ
41
chồng sâu nặng. Cũng giống như Nguyễn Dữ, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã không
ít lần bày tỏ sự thất vọng của mình trước bối cảnh xã hội đương thời. Ôngng viết về
thói đời lúc bấu giờ như sau:
“Thế gian biến đổi vũng nên đồi
Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi
Còn bạc, còn tiền còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu hết ông tôi”
Rõ ràng, có thể thấy được rằng, đối với tình hình xã hội nước ta lúc bấy giờ,
các nhà Nho đều thể hiện một thái độ vô cùng chán nản và thất vọng. Là những nhà
Nho được sinh thành, lớn lên và đào tạo trong cái nôi của Khổng giáo, họ không thể
chấp nhận được việc con người đánh mất đi nhân nghĩa vì danh lợi, phú quý. Đó là
hành động bất nhân, bất nghĩa và trái với đạo trời, trái với luân lý và đạo đứcmà
những nhà Nho hết sức trân trọng, đề cao và gìn giữ.
Trong Truyền kỳ mạn lục, giống như quan điểm của đa số các nhà Nho khác
khi nói về đạo đức, Nguyễn Dữ đưa ra quan niệm về đạo đức của mình thông qua
các mối quan hệ trong xã hội, gồm có: Mối quan hệ giữa quân thần, mối quan hệ
giữa chồng vợ, mối quan hệ giữa cha con, mối quan hệ giữa anh em và mối quan hệ
giữa bè bạn. Trong khóa luận này, chúng tôi sẽ tập trung phân tích quan niệm đạo
đức của Nguyễn Dữ khi ông đề cập đến hai mối quan hệ đầu tiên, đó là mối quan hệ
vua – tôi và mối quan hệ chồng – vợ.
Về mối quan hệ quân thần. Trước hết, như bao nhà Nho khác, Nguyễn Dữ
cho rằng, con người không thể sống ngoài quy luật của trời đất và nhà vua thì phải
dựa vào đạo cương thường để trị nước. Trong Chuyện ở Đền Hạng Vương có viết:
“Tôi nghe làm người ta không ngoài trời đất để mà sống, làm chính trị không ngoài
cương thường để dựng nước” [5, tr.13]. Tuy nhiên, quan niệm của Nguyễn Dữ cũng
có điểm khác biệt với quan niệm về cương thương của phái Tống Nho. Nếu như
trong quan niệm về quan hệ vua tôi, phái Tống Nho tập trung chú trọng vào nghĩa
vụ, thái độ của người làm bề tôi đối với nhà vua thì Nguyễn Dữ lại có xu hướng
ngược lại. Ông tập trung nhiều hơn vào thái độ và cách hành xử của bậc quân
vương đối với người dưới. Chính vì thế trong Chuyện ở Đền Hạng Vương, khi ông
42
Hồ phê phán Hạng Vương, lão thần họ Phạm mới hỏi ngược lại ông Hồ rằng: “Bầy
tôi của Đại vương đây có người tên là Cao1 tiết cứng như tùng, lòng bền tựa đá, sa
cơ không chịu sống nhục, liều mình để được thác mà vinh; nếu không phải nhà vua
biết cách chống ngự thì sao có sự tử trung ấy!” [5, tr.19]. Đoạn này cho thấy, sự
“trung”, sự “lương” của bề tôi phải xuất phát từ cái “lễ”, cái “đức”, cái “nhân” của
bậc làm quân vương. Chính vì thế mà những người càng có địa vị cao, càng cần tu
sửa mình và cai trị đất nước bằng cái tâm, cái đức ấy.
Đó là trong quan hệ quân thần, còn trong quan hệ chồng vợ thì Nguyễn Dữ
cũng có đề cập đến như việc Hạng Võ “biết lẽ cư xử với bà họ Ngu” chính vì thế
mà vợ của HạngVương là Ngu Cơ mới tuẫn tiết theo chồng, do đó “Dạy vợ nhà
trước, sẽ trị nhà nước sau” [5, tr.13-14]. Còn trong quan hệ cha con thì người cha
phải biết yêu thương, giáo dục và làm gương cho con thì mới đúng với cái đạo làm
cha. Như vậy trong đạo làm người Nguyễn Dữ cũng giống như giống như các nhà
Nho khác, đó là đề cao cương thường đạo lý xã hội quan hệ quân thần, chồng vợ
được lấy làm tiêu chuẩn để điều chỉnh hành vi của con người.
Quan niệm về đạo đức còn được Nguyễn Dữ bộc lộ rõ nét ở hai phần truyện
Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu và Chuyện người con gái Nam Xương. Hai
phần này đều đề cập đến tình nghĩa vợ chồng – một trong năm luân thường của Nho
gia. Trước hết, trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu kể về một cặp vợ
chồng tên là Trọng Quỳnh và Nhị Khanh. Trọng Quỳnh là người ham mê cờ bạc lại
gặp phải một anh lái buôn thèm muốn vợ của mình. Vì thế bị đặt bẫy, nghe lời dụ
dỗ của kẻ gian mà lấy vợ mình ra đánh bạc, thua cược, Trọng Quỳnh phải đem Nhị
Khanh trao đổi với tay lái buôn. Khi biết phải từ giã chồng con, Nhị Khanh có ôm
con mà khóc, nàng nói: “Cha con bạc tình, mẹ đau lòng lắm. Ly biệt là việc thường
thiên hạ, một cái chết với mẹ có khó khăn gì. Nhưng mẹ chỉ nghĩ thương các con
mà thôi” [5, tr.30]. Nói xong, nàng lấy đoạn dây tơ thắt cổ tử tự. Ở chi tiết này, việc
làm của nàng Nhị Khanh là một hành động chính nghĩa, nàng làm vậy không hẳn vì
giữ trọn cái đạo tam tòng, tứ đức mà hơn cả là vì không muốn phải nghe theo sự sắp
đặt của người bất chính, phi đạo đức. Cái chết của nàng là để bảo vệ đạo làm người,
1 Tào Cao làm Đại tư mã nước Sở, Hạng Vương sai giữ thành ở Thành Cao. Sau vì bại trận, thua quân Hán nên tự vẫn.
43
đạo làm vợ. Chính Nguyễn Dữ cũng đã viết rằng: “Than ôi, người con gái có ba đạo
theo, theo chồng là một. Nàng Nhị Khanh chết, có quả là đã theo chồng không?
Thưa rằng không, Đời xưa bảo theo, là theo chính nghĩa chứ không theo tà dục.
Chết hợp với nghĩa, có hại gì cho cái đạo theo” [5, tr.34].
Sau khi vợ chết, Trọng Quỳ mới hối hận làm lễ an táng cho vợ mình, chàng
đọc văn tế và hy vọng vào phép thuật diệu màu của Phật giáo sẽ giúp Nhị Khanh
siêu độ. Sau đấy Trọng Quỳ ở vậy một mình nuôi con khôn lớn, còn Nhị Khanh vì
tấm lòng son sắt mà sau khi chết hóa thành Thần nữ, nàng cũng không oán hận
chồng mình. Cái kết của câu chuyện trên cho thấy mối quan hệ phu xướng phụ tùy
trong quan điểm của Nho giáo nhưng nó không chỉ đề cập đến mỗi việc người vợ
tôn trọng, nghe theo chồng mà còn thể hiện được phần nào thái độ của người làm
chồng đối với vợ. Nguyễn Dữ đã lý giải cho cái nghĩa vợ chồng với lăng kính của
Nho giáo nhưng trong đó có sự ảnh hưởng, đan xen của Phật giáo và Đạo giáo.
Còn thông qua Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ ca ngợi cử
chỉ cao thượng của người vợ đã coi trinh tiết (tiết hạnh) có giá trị hơn tính mạng,
khi chết đi được hóa thành Thần Tiên bất tử. Câu chuyện kể về Vũ Nương là một
người con gái nết na, thùy mị. Nàng vốn có một gia đình yên ấm hạnh phúc nhưng
thời thế loạn lạc, chồng này là Trương Sinh phải nhập ngũ đi chiến trường. Vũ
Nương một lòng phụng dưỡng mẹ, nuôi dạy con nhỏ nhưng khi Trương Sinh trở về
nàng lại bị hiểu lầm là không chung thủy. Để chứng minh sự sắt son, Vũ Nương
nhảy xuống sông tự vẫn, trước khi chết nàng có nói: “Kẻ bạc mệnh này, duyên phận
hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có
linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào
nước xin làm ngọc Mỵ nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mỹ. Nhược bằng lòng
chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho
diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ. Nói xong gieo mình xuống
sông mà chết” [5, tr.179]. Ở đây Nguyễn Dữ đã trở về nguồn tín ngưỡng dân tộc,
lấy Thần đạo cổ truyền với Thể Mật Luận, ba cõi: Thủy phủ; Địa phủ; Thiên phủ,
tương đương với ba giới: Dục giới; Sắc giới; Vô sắc giới của Phật giáo để tiếp nối
với Nho, Đạo, thờ Trời Phật. Những quan niệm trên của Nguyễn Dữ đã nói lên khát
44
vọng về dân chủ và dân quyền trong khuôn khổ của chế độ phong kiến lúc bấy giờ.
Bên cạnh những hình tượng người phụ nữ tiết hạnh như Nhị Khanh, Vũ
Nương thì Nguyễn Dữ còn ca ngợi nhiều nhân vật khác với những phẩm cách tốt
đẹp, như: trong Truyện gã Trà đồng giáng sinh có Dương Đức Công là một vị quan
chính trực, công bằng; Truyện chức Phán sự đền Tản Viên có Ngô Tử Văn làm
người khảng khái cương trực, vì dân chúng mà sẵn sàng tranh đấu với quỷ thần để
đòi lại công bằng; Phạm Tử Hư trong Truyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên tào nổi
bật với đức tính tôn sư trọng đạo; hay Văn Dĩ Thành trong Truyện tướng Dạ Xoa là
người cương nghị, hết lòng hết sức làm việc nghĩa; v.v..
Có thể thấy rằng, thông qua 20 truyện của Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ đã
lấy những chuẩn mực đạo đức của Nho gia làm tiêu chuẩn để xây dựng con người
lý tưởng trong quan niệm của mình. Trong quan niệm của Nguyễn Dữ, con người
có đạo đức là người chính lòng, chính lòng có nghĩa là kiên định làm việc, không sợ
hãi trước cường quyền, không lung lay trước những thế lực tà ác, không bị thay đổi
trước danh lợi, tiền tài. Tuy rằng cương quá thì dễ thất bại nhưng Nguyễn Dữ khẳng
định rằng, làm kẻ sĩ thì trước hết phải cứng cỏi, kiên định trong cả suy nghĩ và hành
động. Chính vì vậy nên ông mới ca ngợi Ngô Tử Văn trong Truyện chức Phán sự
đền Tản Viên: “Vì cứng cỏi nên dám đốt cháy đền tà, chống cãi yêu quỷ, làm một
việc rửa hờn được cho cả thần và người. Nhân thế nức tiếng mà được giữ một chức
vị ở Minh tào, thật là xứng đáng. Vậy làm kẻ sĩ, không nên sợ sự cứng cỏi” [5,
tr.111]. Con người lý tưởng trong quan niệm của Nguyễn Dữ còn là người sẵn sàng
làm việc nghĩa mà không cần sự công nhận, tán dương, hậu đãi từ phía người đời
như vị đạo nhân trong Truyện cây gạo. Người nhân đức còn phải có cả đức tính
thẳng thắn, thật thà ghét dối trá, không màng danh lợi, sẵn sàng dốc tâm dốc sức
mình vì dân chúng. Nguyễn Dữ phê phán gay gắt những kẻ “thường dối trá, tính
nhiều tham dục, đem hết sức dân để dựng cung, dốc cạn của khi để mở phố, phao
phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn” [5,
tr.158]. Quân tử trong quan điểm của Nguyễn Dữ còn phải là người biết lắng nghe
sự phê bình, rồi lấy đó làm tiêu chuẩn để sửa mình. Ông cho rằng, những kẻ chỉ ưa
lời nịnh nọt, rồi lấy đó làm hay thì không thể nào trở thành tấm gương đạo đức cho
người khác được. Những hành vi đạo đức của con người chính là phương pháp con
45
người thực hiện đạo người, mà đạo người chẳng qua cũng chỉ là ứng nghiệm với lẽ
trời, đấy chính là đạo lý sống mà Nguyễn Dữ coi trọng. Nguyễn Dữ khuyên con
người phải biết giữ gìn được cái “tâm” trong sạch, thiện lương của mình. Chỉ như
thế thì họ mới không bị những vật dục bên ngoài sai khiến, bị “yêu quái trong loài
vật đùa cợt” để từ đó đánh mất đi tính thiện – điều quý giá nhất mà con người có
được.
Bên cạnh những quan niệm đạo đức của Nho giáo, Nguyễn Dữ cũng đưa vào
trong Truyền kỳ mạn lục những tư tưởng đạo đức của Phật giáo với những đặc tính
tiêu biểu như từ bi, hỷ xả, vị tha… Chịu ảnh hưởng với triết lý Phật giáo, Nguyễn
Dữ cho rằng, cuộc đời con người là luân hồi, do kiếp trước chúng ta sống tạo nghiệp
nên kiếp này phải sống để trả lại món nợ từ kiếp trước của mình. Muốn hết nghiệp,
ông khuyên con người phải sống thiện. Bởi vì “đức là nền từ thiện, của là kho tranh
giành. Tích đức như mầm non rỏ một giọt nước, sẽ nảy nở lên, tích của như lửa đỏ
gieo một giọt bang, sẽ tàn lụi xuống” [5, tr.51] nên con người không nên đắm đuối
vào tiền tài. Sống thì phải lấy cái đức để đối nhân xử thế, con người cũng phải biết
tha thứ và buông bỏ lỗi lầm cho người khác. Nguyễn Dữ nhận ra rằng sự ích kỷ và
thù hận sẽ che đậy đôi mắt sáng trong của con người nên ông khuyên ta hãy chọn
cách sống vị tha, khoan dung kể cả với những người thù ghét mình bởi “oan oan nối
tiếp, biết thuở nào thôi”. Sống thì nên buông bỏ “đắm đuối, nghiệp chướng nặng
nề”, “rửa ruột đổi lòng, biết quay về chính đạo” [5, tr.53].
Thấm nhuần tư tưởng nhân quả, hiểu được việc gieo nhân nào gặt quả ấy
theo triết lý Phật giáo, Nguyễn Dữ quan niệm rằng, “Trồng dưa được dưa, trồng đậu
được đậu. Lưới trời tuy thưa mà khó lọt. Chỉ rằng thời gian chưa đến mà thôi” [5,
tr.131]. Ông nhận thấy, đến cùng thì trên đời chỉ có thiện và ác, nếu chăm làm việc
thiện thì dù sớm hay muộn cũng sẽ nhận được những điều may mắn, còn “người
hay làm ác, không đợi đến chết, án đã thành ở Địa phủ” vậy nên hãy “cố gắng, đừng
gieo cái nghiệp báo ở kiếp sau này” [5, tr.131]. Trong Truyện Lý Tướng quân,
Nguyễn Dữ đã lý giải về luật nhân quả một cách bình dân, dễ hiểu thông qua một
buổi xử án ở điện Diêm La. Trong buổi án ấy có phân xử rằng: “Viên quan kia tên
là mỗ ở đời cứng vuông, không kiêng sợ kẻ quyền quý, tước vị càng cao, càng biết
khiêm nhường, rồi lại biết quên mình để chết vì việc nước, làm rạng rỡ cho nước
46
nhà. Thần xin tâu lên Đế đình, cho người ấy được làm tiên” [5, tr.206]. Và ngược
lại “Ở châu kia có gã họ Đinh, bất mục với anh em, chẳng hòa với tông tộc, thừa dịp
các cháu bé dại chữa lại chúc thư để chiếm cướp lấy cả ruộng nương, khiến họ
không có miếng đất cắm dùi, Thần muốn bắt người ấy phải thác sinh vào nhà kẻ
hèn, đói khát, nằm vật vạ ở ngòi rãnh, để bỏ sự đã đi tranh cướp của người” [5,
tr.206]. Trong truyện đã nhiều lần Nguyễn Dữ mượn các tư tưởng Phật, Đạo để lý
giải các vấn đề trong cuộc sống với những quan niệm về nhân quả, báo ứng, nghiện
chướng, luân hồi. Ví dụ như trong Chuyện người con gái Nam Xương có nhắc đến
chuyện Phan Lang vì một lần vô tình cứu được Linh Phi, sau này gặp phải đại họa
sát thân thì lại được Linh Phi báo ân cứu về một mạng. Ở đay, ta thấy rằng, Nguyễn
Dữ đã sử dụng những quan niệm của Phật giáo để bổ sung cho quan niệm về đạo
đức của Nho gia. Đồng thời khuyên nhủ, nhắc nhở về luật nhân quả từ những hành
vi thiện ác mà con người gây ra.
Bên cạnh tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo, chúng ta cũng nhận thấy sự ảnh
hưởng của Đạo giáo phù thủy trong quan niệm về đạo đức của Nguyễn Dữ. Đó là tư
tưởng âm công, âm đức, có trừng phạt nơi âm phủ, có lưới trời, là tin ở lời đạo sĩ,
tin lời đồng bóng,… Cụ thể trong Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên có viết rằng, “có âm
đức thì tất có dương báo” [5, tr.113], trong Chuyện phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào
“Lưới trời thênh thang, thưa nhưng chẳng lọt” [5, tr.117], như cho đốt đền thì bị
thần phạt, có tội thì Diêm vương xét hỏi… trong Chuyện chức phán sự đền Tản
Viên. Còn Đạo giáo Thần tiên chỉ được ông trình bày lướt qua trong Truyền kỳ mạn
lục, như trong Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên ông có viết: “đừng nên cho chuyện thần
tiên là câu chuyện hoang đường” [5, tr.104]. Ở đây Nguyễn Dữ đã kết hợp chủ
nghĩa thần bí của Nho giáo với Đạo giáo trong quan niệm về đạo nhân đức của ông.
Ông sử dụng Đạo giáo như một hệ thống chế tài có tác dụng răn đe, cảnh cáo và
trừng phạt những hành vi bất thiện, phi đạo đức của con người.
Tuy rằng, cách thức, phương tiện Nguyễn Dữ sử dụng tư tưởng của tam giáo
trong quan niệm về đạo đức là khác nhau nhưng có một điểm chung đó là tam giáo
đều hướng cho con người hành thiện, có đạo đức. Nếu mỗi con người trong xã hội
đều nhận biết được đúng sai, phải trái, biết khuyến thiện trừ ác thì xã hội sẽ trở nên
tốt đẹp hơn. Xét đến cùng thì theo Nguyễn Dữ, tình trạng rối loạn của xã hội hiện
47
thời đều xuất phát từ lòng tham và hành vi bất thiện của từng cá nhân. Chỉ khi con
người chế thắng dục vọng, tu thân sửa đức, biết yêu thương và sống hòa hợp với
nhau thì mới không có chiến tranh và loạn lạc. Nói tóm lại, khi lựa chọn dung thông
tam giáo, Nguyễn Dữ muốn tìm ra một hệ tư tưởng mới có thể khôi phục lại trật tự,
kỷ cương của xã hội và chế độ phong kiến theo đúng quan niệm “cương thường”
của Nho gia.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Trong nội dung chương 2 của khóa luận này, tư tưởng dung thông tam giáo
của Nguyễn Dữ được thể hiện trong ba nội dung chính gồm có thế giới quan, nhân
sinh quan và quan niệm về đạo đức trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục. Trước hết,
thông qua tác phẩm này, có thể thấy rằng thế giới quan của Nguyễn Dữ là kết quả
của tư tưởng dung thông giữa Nho, Phật và Đạo. Một mặt, ông thừa nhận sự tồn tại
của trời, mệnh trời và đặc biệt là uy quyền của nó. Ông cho rằng con người không
thể vượt ra khỏi được mệnh trời và muốn tồn tại thì chỉ có thể sống thuận theo ý
trời. Mặt khác, yếu tố tín ngưỡng dân gian truyền thống với thế giới quan của Đạo
giáo và Phật giáo cũng ảnh hưởng đến thế giới quan của Nguyễn Dữ. Chính vì vậy
mà thế giới quan của ông là một thế giới quan huyền bí, trong đó thừa nhận sự tồn
tại của mệnh trời, của các vị thần và uy quyền của những thế lực siêu nhiên đó.
Trong quan niệm về nhân sinh của Nguyễn Dữ, con người cũng giống như
các loài vật khác đều được sinh ra từ trời. Thế nhưng con người là giống khôn
thiêng bởi trời còn phú cho con người tính đạo đức. Nhờ có tính đạo đức ấy mà con
người biết phân biệt phải trái đúng sai, rồi từ đó khuyến thiện trừng ác. Con người
mang tính thiện tiên thiên song tính thiện ấy không phải bất biến mà cũng có thể bị
biến đổi bởi những tác động từ phía bên ngoài. Trong Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn
Dữ đã phê phán xã hội đương thời – một xã hội coi trọng đồng tiền, chính xã hội đó
đã khiến con người lương thiện bị tha hóa và sa vào lối sống hưởng lạc. Một điểm
đặc biệt nữa mà ta không thể không nhắc tới khi nói về nhân sinh quan của Nguyễn
Dữ chính là quan điểm về nhu cầu được giải phóng cá nhân, giải phóng các nhu cầu
của con người. Quan niệm về hạnh phúc cá nhân, tình yêu đôi lứa cũng là một trong
những khía cạnh được Nguyễn Dữ tập trung khai thác trong tác phẩm Truyền kỳ
48
mạn lục.
Bên cạnh những quan điểm về thế giới, về nhân sinh, Nguyễn Dữ cũng đưa
ra các quan niệm về đạo đức của con người trong xã hội. Cũng như các nhà Nho
khác, Nguyễn Dữ đề cao cương thường, đạo đức xã hội mà quan hệ quân thần,
chồng vợ được lấy làm tiêu chuẩn để điều chỉnh hành vi của con người. Ngoài các
tư tưởng của Nho giáo, tư tưởng về đạo đức của Phật, Đạo cũng được đề cập đến
thông qua các câu chuyện về luân hồi, nghiệp báo, nhân quả và các yếu tố linh dị,
huyền bí. Nhìn chung, Nguyễn Dữ đứng trên lập trường Nho giáo để đưa ra những
quan điểm đạo đức, đưa ra những chuẩn mực về lối sống cho người trong xã hội.
Bên cạnh những tư tưởng ấy, ông cũng vô cùng khéo léo khi đan xen những triết lý
như nhân quả, nghiệp báo, lòng từ bi, hỷ sả và thái độ khoan dung của nhà Phật vào
trong tác phẩm của mình. Những chi tiết truyện linh dị, huyền bí cũng xuất hiện dày
đặc trong Truyền kỳ mạn lục. Ở đây, Nguyễn Dữ đã sử dụng những yếu tố của Đạo
giáo như các vị thần, tòa án Địa phủ,… như một công cụ để răn đe, trừng phạt
những hành vi sai trái, từ đó giáo dục và khuyến khích con người hướng thiện, hành
49
thiện.
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ TƯ TƯỞNG DUNG
THÔNG TAM GIÁO CỦA NGUYỄN DỮ
3.1. Một số đặc điểm chủ yếu trong tư tưởng dung thông tam giáo của
Nguyễn Dữ
Thứ nhất, tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ là một nhu cầu tất
yếu trong lịch sử tư tưởng Việt Nam ở thế kỷ XVI.
Như đã trình bày ở chương 1, tư tưởng triết học nói chung của Nguyễn Dữ bị
quy định một phần bởi bối cảnh, điều kiện về chính trị, kinh tế và văn hóa Việt Nam
đương thời. Mặt khác, tư tưởng của ông cũng phần nào phản ánh được hiện thực
của xã hội đó. Về chính trị, thế kỷ XVI là thời kỳ chính trị nước ta có nhiều biến
động và khủng hoảng to lớn, các thế lực và tập đoàn phong kiến tranh giành quyền
lực lẫn nhau dẫn đến tình cảnh rối ren, bế tắc trong xã hội, dân chúng bị đẩy vào
cảnh lầm than, khổ cực. Trong bối cảnh đầy biến động đó, Nho giáo không thể hiện
được vai trò của mình trong việc duy trì, bảo vệ sự ổn định của triều đình phong
kiến và duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội. Về mặt kinh tế, những biểu hiện của
một nền kinh tế mới bắt đầu xuất hiện, đó là nền sản xuất hàng hóa thủ công và sự
giao lưu, trao đổi buôn bán với nước ngoài đã thổi một làn gió mới và đời sống
nước ta lúc bấy giờ. Nền kinh tế nước ta lúc bấy giờ là một nền nông nghiệp lạc hậu
và nó đang trở thành một lực cản đối với quá trình phát triển của xã hội. Về mặt đời
sống văn hóa – tư tưởng, các tư tưởng của Nho giáo ngày càng trở nên hà khắc và
giáo điều, nó trở thành gánh nặng, xiềng xích gò bó con người trong những khuôn
mẫu khắt khe. Bên cạnh đó, thông qua con đường giao thương, văn hóa phương Tây
dần được truyền bá vào Việt Nam trong giai đoạn này. Nhu cầu giải phóng tâm tư,
tình cảm và lối sống phóng khoáng, tự tại hơn, thoát khỏi những khuôn mẫu cũ là
một điểm mới trong lịch sử tư tưởng của Việt Nam thời kỳ này.
Nguyễn Dữ là một người xuất thân từ Nho học, ông thấm nhuần và khắc sâu
đạo thánh hiền. Tuy nhiên thời đại của ông lại là một trong những giai đoạn vô cùng
phức tạp với nhiều biến động xuất hiện ngay trong triều đại phong kiến Việt Nam.
Sự phức tạp đó được biểu hiện ở chỗ, là một nhà Nho Nguyễn Dữ luôn khắc khoải
và khao khát được đem trí tuệ của mình cống hiến cho quốc gia, dân tộc. Nhưng xã
50
hội đương thời lại đầy rẫy những con người, sự kiện, hiện tượng đi trái với luân
thường, đạo lý. Sự trái ngược ấy không chỉ biểu hiện trong đời sống nhân dân mà
còn trong chính nội bộ triều đình phong kiến đương thời. Đặc biệt, sự tranh giành
quyền lực của các tập đoàn phong kiến đã đẩy Nguyễn Dữ và nhiều nhà Nho khác
và tình cảnh không biết phải “trung” với ai. Nguyễn Dữ là một nhà Nho có lý
tưởng, có hoài bão và ông mong muốn được góp sức mình xây dựng nên một đất
nước thái bình, thịnh trị, song bối cảnh xã hội thực tế lại mâu thuẫn với lý tưởng của
ông. Điều này tạo nên sự mâu thuẫn trong chính nội tâm của nhà Nho này. Một mặt,
ông khao khát được cống hiến xã hội, bảo vệ chế độ phong kiến đương thời và lập
lại trật tự, kỷ cương cho xã hội. Mặt khác, sự suy đồi của nhà nước phong kiến đặc
biệt là vua quan triều đình khiến ông nản chí và bất lực. Nguyễn Dữ buộc phải tìm
đến một triết lý sống mới để phần nào xoa dịu lòng mình và ứng xử với thời cuộc
trước mắt. Trước bối cảnh Nho giáo không còn đủ vai trò và hiệu lực để trấn an
nhân tâm thì việc Nguyễn Dữ lựa chọn triết lý dung thông tam giáo vừa là một nhu
cầu tất yếu, vừa một cách ứng xử khôn ngoan. Đây là triết lý vừa mang tính bác
học, vừa mang tính dân gian được đúc rút từ lý luận của tam giáo cũng như của tập
quán, lối sống đã được hình thành từ ngàn đời của con người Việt Nam trong lịch
sử. Triết lý ấy được thực hành trong điều kiện lịch sử cụ thể và được thống nhất với
logic nội tại của dân tộc, giúp cho các sĩ phu như họ vừa bảo toàn được thanh danh
của nhà Nho, vừa có một đóng góp tối thiểu nào đó cho đời.
Tuy nhiên, dù đều là những đại diện tiêu biểu của xu hướng lựa chọn triết lý
dung thông tam giáo nhưng sự biểu hiện của dung thông tam giáo ở Nguyễn Dữ
cũng có những điểm khác biệt so với các nhà Nho khác. Cùng là học trò và chịu ảnh
hưởng trực tiếp từ Nguyễn Bỉnh Khiêm, song ở Nguyễn Dữ và Phùng Khắc Khoan,
sự biểu hiện của dung thông tam giáo lại có nhiều điểm khác biệt. Ở Phùng Khắc
Khoan, sự phấn đấu vì danh của một nhà Nho dấn thân vì dân, vì nước luôn nổi trội
hơn cả, do đó yếu tố Nho giáo mang tính quyết định. Còn ở Nguyễn Dữ, yếu tố Đạo
giáo thần bí lại xuất hiện trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục với tần suất khá cao,
tuy nhiên nó cũng không vượt được “quy củ” của Nho giáo. Sự khác nhau đó không
chỉ do bối cảnh xã hội quy định, mà còn ở tâm thế, cá tính riêng của mỗi nhà Nho.
Thứ hai, trong quan điểm dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ bao giờ yếu
51
tố Nho giáo cũng đóng vai trò chủ đạo.
Xét đến cùng, Nguyễn Dữ xuất phát điểm là một nhà Nho, vì vậy ông tiếp
thu các quan điểm, tư tưởng của Phật giáo, Đạo giáo với lăng kính của Nho gia.
Chính vì thế Nho giáo vẫn đóng vai trò nền tảng trong tư tưởng của ông nói chung
và tư tưởng dung thông tam giáo của ông nói riêng. Sự kết hợp Nho giáo với Phật
giáo và Đạo giáo trên cơ sở chủ đạo của Nho giáo trong tư tưởng Nguyễn Dữ không
phải hướng tới mục đích là giải thoát theo tinh thần của Phật giáo hay chỉ để hòa
đồng với tự nhiên theo tinh thần của Đạo giáo, mà ở đây nó mang tinh thần nhập thế
sâu sắc nhằm thực hiện trách nhiệm xã hội của Nho giáo trong hoàn cảnh xã hội
đang có những diễn biến phức tạp. Sự kết hợp, dung thông giữa Nho giáo với Phật
giáo và Đạo giáo ở ông chủ yếu dựa trên những điểm tương đồng, phù hợp giữa tam
giáo và đồng thời chỉ ra các yếu tố có thể và cần phải bổ sung cho những mặt còn
thiếu hụt của Nho giáo như vấn đề về tâm linh của Phật giáo hay phương pháp tu
tập hòa đồng với tự nhiên của Đạo giáo.
Trong Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na, hình ảnh người tiều
phu thực ra cũng là hình ảnh ẩn dụ về chính con người của Nguyễn Dữ. Trong hiện
thực, đứng trước bối cảnh của xã hội đương thời, Nguyễn Dữ đã lựa chọn việc lui
về ở ẩn, tìm đến trốn hoang vu để sống tự tại, hòa đồng với thiên nhiên. Nhưng có
thể nhận thấy rằng việc lựa chọn lối sống như Lão Tử, Lão Trang của Nguyễn Dữ
không phải nhằm mục đích để hưởng thụ cuộc sống tiêu dao, tự nhiên, tự tại, đó là
biện pháp mà ông dùng để bảo toàn cái “tâm” của mình. Tuy nhiên, cái “tâm” mà
Nguyễn Dữ muốn gìn giữ không phải cái “tâm” theo tinh thần Phật giáo mà là cái
“tâm” của một nhà Nho chân chính. Bởi cái “tâm” mà Phật giáo hướng đến là một
cái “tâm tịnh diệt”. Trong quan điểm của Phật giáo, bản thể của vũ trụ đều bắt
nguồn từ “tâm”, mọi sự sinh thành, phát triển hay vận động đều từ “tâm” mà ra.
Trạng thái động của “tâm” khiến cho mọi sự vật, hiện tượng hình thành từ đó mới
có thất tình (hỷ, nộ, ái, ố, thâm, sân, si), lục dục (sắc dục, thanh dục, hương dục, vị
dục, xúc dục, pháp dục). Vậy nên, để thoát khỏi thất tình, lục dục và đạt được giải
thoát thì con người phải đưa cái “tâm” của mình về trạng thái tĩnh. Ở trạng thái tĩnh
thì “tâm tịnh diệt”, đó là trạng thái con người không bị chi phối, tác động bởi các sự
vật, hiện tượng từ bên ngoài và giải thoát khỏi vòng luân hồi, bể khổ để đạt đến niết
52
bàn.
Dĩ nhiên, Nguyễn Dữ không phải một thiền sư, ông là một nhà Nho nên điều
ông hướng đến không phải việc được giải thoát theo quan điểm của Phật giáo mà là
nhằm góp sức xây dựng đất nước thái bình, nhân dân ấm no. Để làm được điều ấy
thì trước hết nhà Nho cần phải tu sửa đức của bản thân mình, trở thành tấm gương
cho người khác noi theo. Cách tối ưu nhất để tu dưỡng đạo đức chính là bảo vệ
được tính thiện mà trời đã phú sẵn cho con người, dùng cái “tâm” minh và lương để
mở rộng tính thiện ấy. Cái “tâm” của một nhà Nho khác biệt so với cái “tâm” của
một thiền sư. Đó là một cái “tâm” sáng và trong, mà dựa vào cái “tâm” ấy, Nguyễn
Dữ có thể kiên định, giữ vững lập trường trước những phong ba bão táp của cuộc
đời. Nó giúp ông nhận biết rõ phải trái đúng sai, từ đó có thể tránh xa cái ác và tìm
lấy những điều thiện. Hơn thế nữa, dù Nguyễn Dữ có đi ở ẩn, tìm chốn hoang vu
lánh đời nhưng thật ra lòng ông vẫn luôn hướng về nhân dân, khắc khoải với việc
làm sao để góp sức giúp đời. Cũng giống như nhân vật người tiều phu trong Câu
chuyện đối đáp với người tiều phu ở núi Na, tuy “chân không bước đến thành thị,
mình không vào đến cung đình, nhưng vẫn thường được nghe tiếng ông vua bây giờ
người thế nào” [5,tr.158].
Thứ ba, Nguyễn Dữ lựa chọn triết lý dung thông tam giáo nhằm mục đích
bảo vệ, củng cố, chấn hưng và phát triển Nho học.
Ở mỗi giai đoạn cụ thể thì dung thông tam giáo đều được tiến hành theo
những cách thức và hướng tới mục đích khác nhau. Thời kỳ Lý - Trần, việc dung
thông tam giáo được tiến hành trên cơ sở lấy Phật giáo làm hệ tư tưởng chủ đạo.
Giai đoạn này lấy những nhiệm vụ chính trị xã hội của dân tộc làm điểm quy kết
của tam giáo. Tinh thần bồ tát cứu thế, tinh thần nhập thế hoà quang đồng trần của
Phật giáo đời Trần và lý tưởng tu, tề, trị, bình của Nho gia gặp nhau, tạo ra trạng
thái khoan dung, hợp nhất của tam giáo, là cơ sở cho Phật giáo chấp nhận Nho giáo.
Nếu trong thời kỳ đầu của triều Lý, các nhà thiền sư chiếm đa số trong bộ phận trí
thức và họ cũng chính là những chủ thể tiến hành việc dung thông tam giáo thì đến
giai đoạn sau, phần lớn của đội ngũ trí thức là các nhà Nho – sản phẩm của nền
khoa cử Nho học, còn các vị thiền sư dần rút khỏi cục diện chính trị khiến cho địa
vị của Nho giáo ngày càng phát triển hơn. Hệ tư tưởng Nho giáo trở thành trụ cột
53
cho đời sống chính trị đã làm thay đổi mối quan hệ của tam giáo. Sang đến thế kỷ
XV, Nho giáo đã chiếm được địa vị độc tôn, nổi bật so với Phật và Đạo giáo. “Từ
đây, Phật và Ðạo tồn tại như những nhân tố bổ sung trong đời sống tâm linh bởi
trong thời điểm đó, Nho gia về cơ bản đã đủ sức đáp ứng những nhu cầu tinh thần
của thế hệ Nho sĩ dấn thân yêu đời, triều đình tạo cho họ những cơ hội thoả mãn
nhu cầu kinh thế, vì vậy việc tìm sang Phật, Ðạo về tư tưởng ít có dịp biểu hiện”
[31, tr.14].
Thế kỷ XVI là sự bắt đầu của môỵ giai đoạn hết sức phức tạp, Nho giáo dần
bộc lộ những hạn chế và bất lực trong việc duy trì trật tự, kỷ cương xã hội và kiềm
toả được nhân tâm. Nhà Nho chủ động tìm tới tư tưởng Phật, Ðạo như sự điều chỉnh
cần thiết để tự thoả mãn. Mục đích của việc hội nhập tam giáo thời kỳ này là chỉnh
đốn nhân tâm, giảm bớt sự bế tắc, mâu thuẫn trong nội tâm của nhà Nho. Vấn đề
nhân tâm là mối quan tâm chung, nó là nhịp nối để Nho giáo tiến gần tới Phật giaó
và chấp nhận lẫn nhau. Các câu chuyện truyền kỳ của Nguyễn Dữ đã vượt bỏ truyền
thống “bất ngữ quái, lực, loạn, quỷ, thần” của nhà Nho từ thời Khổng Tử để nói về
nghiệp chướng, luân hồi, quả báo, hoạ phúc, sinh tử. Việc dẫn các vấn đề tư tưởng
của nhà Phật là sự mở rộng về tư tưởng, nhằm tới mục đích ngăn ngừa nhân tâm,
khuyến thiện trừ ác. Nguyễn Dữ và nhiều Nho sĩ khác đều cho rằng, tam giáo đều
có chung mục đích ra đời là cứu thế, chống loạn, đề cao cuộc sống và giá trị sinh
mệnh con người. Xuất phát điểm đó là chung, là giống nhau. Từ gốc chung đó, tam
giáo có con đường thực hiện, phương pháp thực hiện, cách thức tu dưỡng khác
nhau, nhưng điểm cuối cùng hướng tới lại giống nhau. Ðiểm chung đó khiến tâm
tính con người hướng thiện, làm thiện.
Trong quá trình tiến hành dung thông tam giáo, Nguyễn Dữ và nhiều nhà
Nho khác ngoài việc thỏa mãn nhu cầu tư tưởng thì họ sử dụng Phật, Đạo một cách
tự giác và có tính toán, họ coi đây là một hình thức để tự bảo vệ vị trí chủ cán của
Nho giáo. “Ngăn chặn ảnh hưởng bằng cách thu nhập nó vào mình, không để chúng
thành lực lượng đối lập là điều nhiều nhà Nho thời kỳ này ý thức đến. Nhà Nho nói
nhiều về hội nhập, về hòa đồng, nhưng là sự hội nhập và hòa đồng có chính phụ, có
thứ bậc và dĩ nhiên Nho giáo phải là chủ đạo” [31 tr.18-19].
Thứ tư, Tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ là sự kế thừa và phát
54
triển một số nội dung trong tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Tư tưởng triết học nói chung và tư tưởng về dung thông tam giáo của
Nguyễn Dữ nói riêng là kết quả của một quá trình dài trong lịch sử tư tưởng Việt
Nam. Đó là kết quả của sự du nhập, giao thoa, kết hợp giữa các hệ tư tưởng từ bên
ngoài cùng với các nét văn hóa bản địa, sau đó được chắt lọc, biến đổi và phát triển
tùy theo bối cảnh và những nhiệm vụ thực tiễn đặt ra cho dân tộc ở từng giai đoạn.
Tư tưởng dung thông tam giáo là sự kế thừa, tiếp thu và phát triển một số nội dung
trong tư tưởng dung thông tam giáo của những vị tiền bối đi trước, trong đó Nguyễn
Bỉnh Khiêm là người có ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến tư tưởng của Nguyễn
Dữ.
Từ giữa thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, Nho giáo đã thực sự chiếm được vị trí
độc tôn trong tư tưởng chính trị Việt Nam, Phật và Đạo giáo chủ yếu tồn tại trong
đời sống tinh thần, đời sống tâm linh của nhân dân ta. Nho giáo với tính chất là một
học thuyết chính trị và đạo đức đã được nhiều triều đại phong kiến Việt Nam tiếp
thu và sử dụng làm phương tiện để cai trị, quản lý xã hội. Trong tư tưởng của Tống
Nho, xuất hiện những phạm trù tiêu biểu như phạm trù “thiên lý”, “nhân dục”,v.v..
Trong đó, quan niệm về “thiên lý” đối lập “nhân dục” được biểu hiện một cách rõ
nét trong hầu hết các trào lưu của Tống – Minh Nho. Chẳng hạn, Trình Di (1033-
1155) đòi diệt dục một cách triệt để nhằm mục đích phục hồi “thiên lý”. Chu Hy
(1130-1200) cho rằng, nếu dục vọng của con người mà thắng thì “thiên lý” ắt phải
tiêu vong. Vương Dương Minh đồng nhất “thiên lý” với “lương tri” bẩm sinh và
cho rằng, trong tâm của thánh nhân chỉ có “thiên lý thuần túy” chứ không có chỗ
cho “nhân dục”. Nhà lý học nổi tiếng thế kỷ XVI của nước ta là Nguyễn Bỉnh
Khiêm cũng thường kêu gọi phải làm thế nào để tính tham dục của con người giảm
một cách tối đa, mở đường cho tính thiện bẩm sinh “thiên lý” được phục hồi, bởi vì
theo ông “Dục thắng lý tự tiêu. Khí kiêu chí tùy dật” (Dịch nghĩa: Dục vọng mà
thắng thì lòng thiện tự nó phải mất. Tính khí mà kiêu thì ý chí trôi đi hết) [Dẫn theo:
7, tr.128].
Thông qua Truyền kỳ mạn lục, có thể thấy được Nguyễn Dữ kế thừa và tiếp
thu những quan điểm về “thiên lý”, “nhân dục” của các bậc tiền bối, đặc biệt là
Nguyễn Bỉnh Khiêm trong quan niệm về “tính”. Cũng giống như người thầy của
55
mình, Nguyễn Dữ đồng thuận với quan niệm trời phú cho con người cái “tính”, mà
“tính” ở đây cũng chính là “Lý”: “Nhân, lễ, nghĩa, trí đó là Tính vậy. Tính không
có hình ảnh nên không thể chạm được; trong nó chỉ có Lý. Chỉ có Tình là nhìn thấy
được, đó là lòng trắc ẩn, lòng từ nhượng, và phân biệt thị phi” [22, tr.619]. Nhưng
trong thực tế hành động của mình, cái Tính được biểu hiện thông qua tình, nên nó
chịu sự chi phối của ngoại vật và “đường lối của nó thì khúc khuỷu tùy theo vật”
[22, tr.618].
Trước đây, Chu Hy cho rằng: “Tính đứng yên như sự yên tĩnh của nước;
Tình thì hành như sự xao động của nước. Lòng dục là cái làm cho nước chẩy đến
mức tràn bờ” [28, tr.618]. Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm thì viết “Xét lẽ, con người ta
tính vốn thiện, do tự bị câu thúc vào khí chất bẩm thụ, bị che lấp vì vật dục, hoặc có
người không bảo toàn được cái tính ban đầu; vì thế, kiêu căng, bỉ lận, tà vạy, thiên
lệch ... không điều gì không làm” [28, tr.123]. Kế thừa quan điểm đó, Nguyễn Dữ
cho rằng, con người sinh ra là thiện bởi con người được trời phú bẩm cho “thiên lý”.
Trong Chuyện Lý tướng quân có viết: “Trời, đất gây dựng, chia ra hình âm đục,
dương trong, Dân vật bẩm sinh, khác ở chỗ duyên lành, nghiệp dữ. Biết bao sự
trạng, khôn xiết kể bày. Bởi trời lấy lý phú cho người, sao được người đều hiển
thánh, Người đem mình noi theo tính, khỏi đâu tính hoặc sáng mờ. Cho nên thiên
lệch có người, hư tồi lắm kẻ” [5, tr.190-191].
Tuy nhiên thông qua Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ cũng nhấn mạnh sức
tàn phá của “nhân dục” đối với cái thiện khi con người không được định hướng
hành động bởi sự chỉ dẫn của lương tri hay tính thiện ban đầu. Ví dụ điển hình của
điều ấy chính là hình ảnh chàng Hà Nhân trong Truyện kỳ ngộ ở trại Tây. Theo đó,
trong truyện này, một khi “Lòng dục thả ra thì khe ngòi không đủ lấp, thói ác giở ra
thì hùm sói chưa là dữ. Hễ lợi mình được, dù tấm áo mảnh giấy cũng không từ, hễ
no lòng được, dù ống giập chậu vỡ cũng không thẹn. Hì hục đi tìm chai lọ, hăm hở
đi kiếm cháo cơm. Gieo tai rắc vạ, trộm quyền của Hóa công, kêu nóc dòm buồng,
rối lòng của dân chúng” [5, tr.247]. Mặc dù kế thừa và tiếp thu các quan điểm của
Tống Nho và đặc biệt là từ Nguyễn Bỉnh Khiêm về “thiên lý”, “nhân dục”, “tính”,
nhưng ở Nguyễn Dữ cũng có những điểm khác biệt. Trong quan niệm của ông, con
người cũng có quyền lựa chọn hành động của mình, như trong Chuyện bữa tiệc đêm
56
ở Đà Giang có viết: “Chao ôi! nước sông Thương Lương, trong thì để giặt dải mũ,
đục thì để rửa chân, đều do tự mình cả đó thôi” [5, tr.193]. Có lẽ chính vì lý ấy nên
trong thực tế, Nguyễn Dữ mới chọn con đường ở ẩn mà không ra làm quan trong
bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Nho giáo là học thuyết hướng con người tới hành động
thiện thông qua hệ thống nguyên tắc, chuẩn mực xã hội với đạo lý luân thường.
Nhưng trong Truyền kỳ mạn lục, cho thấy rằng những chuẩn mực trên đều bị phá vỡ
và rạn nứt nghiêm trọng. Thực tế đó phản ánh sự khủng hoảng ý thức hệ Nho giáo
trong xã hội Việt Nam thế kỷ XVI. Ở giai đoạn đó, những nhà trí thức nói riêng và
nhân dân nói chung bị rơi vào tình trạng mất phương hướng khi không tìm được
một chuẩn mực, nguyên tắc sống phù hợp với tồn tại xã hội đương thời.
3.2. Giá trị và hạn chế trong tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn
Dữ
3.2.1. Một số giá trị nổi bật
Nguyễn Dữ là một trong những nhà tư tưởng tiêu biểu trong lịch sử tư tưởng
triết học Việt Nam thế kỷ XVI. Tư tưởng của ông có giá trị cả về mặt lý luận và mặt
thực tiễn. Nguyễn Dữ đã đưa ra một số quan niệm khá sâu sắc về thế giới tự nhiên,
xã hội và con người, trên cơ sở đó gợi mở cho con người một thế ứng xử phù hợp
với thế giới xung quanh mình. Trong quan niệm của Nguyễn Dữ, ông đã lý giải về
nguồn gốc của thế giới, con người ít nhiều dựa trên quan điểm duy vật chất phác
cùng với sự vận động, tương tác của các sự vật trong thế giới hiện thực mang tính
trực quan, về cơ bản mang tinh thần của triết học tự nhiên. Nguyễn Dữ nhận thấy
được việc thế giới liên tục biến đổi, vận động là quy luật tất yếu của tự nhiên.
Thông qua Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ miêu tả được hiện thực xã hội đương
thời, nơi mà ở đó đồng tiền với mặt trái của nó đã chi phối đáng kể các mối quan hệ
của con người. Các mối quan hệ đó dường như bị đảo lộn, không còn tuân thủ các
nguyên tắc mà thánh hiền đời xưa vạch ra. Nguyễn Dữ đã thấy được những biến đổi
của xã hội, đặc biệt là giá trị đồng tiền, sự vận động của nền kinh thương đã ảnh
hưởng nghiêm trọng đến bản chất của con người.
Bên cạnh việc phê phán những biến đổi tiêu cực của xã hội, Nguyễn Dữ còn
đưa ra những tư tưởng để xây dựng xã hội lý tưởng theo những chuẩn mực nhất
định: đường lối vương đạo, đạo làm người, v.v.. Tư tưởng về đạo đức Nguyễn Dữ
57
mang giá trị nhân văn sâu sắc. Nội dung về những chuẩn mực tuy được ông thể hiện
thông qua nhiều câu chuyện linh dị, thần bí và trong nhiều mối quan hệ khác nhau
nhưng nó đều chân thực và hướng tới mục đích cao đẹp. Đó là lí tưởng theo chuẩn
mực đạo đức của người quân tử, lý tưởng như nhân nghĩa, chí thiện, nhân để xây
dựng một xã hội thịnh trị phát triển. Hơn nữa, chính bản thân Nguyễn Dữ cũng là
tấm gương trong việc thực hiện những tiêu chí của đạo làm người, những chuẩn
mực đạo đức xã hội mà ông đưa ra.
So với quan niệm về thế giới, Nguyễn Dữ chú trọng nhiều hơn đến những
vấn đề nhân sinh, xử thế của con người trong xã hội. Thông qua Truyền kỳ mạn lục,
Nguyễn Dữ muốn cảnh tỉnh con người, nhắc nhở họ phải có trách nhiệm trong mọi
hành vi của mình. Ông cho rằng mọi sự việc trên đời đời này đều có nguyên nhân
hình thành, con người phải biết rằng “quả báo” không phải bỗng dưng mà có, đó là
kết quả chính những hành vi mà họ đã, đang và sẽ làm. Nếu hành thiện thì sẽ nhận
được sự ban thưởng và ngược lại, nếu hành vi đó là ác thì nhất định phải nhận lấy
hậu quả khôn lường, bởi “lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt”. Sự tương đồng
giữa thuyết nhân quả của Phật giáo, sự “giám sát” của thế lực siêu nhiên (trời) và
tòa án âm phủ trong Đạo giáo đã có tác dụng răn đe con người vô tình hoặc cố ý
làm những điều ác, đồng thời khuyến nghị họ nên có hành vi hướng thiện.
Việc sử dụng linh hoạt những nguyên lý của tư tưởng Nho, Phật, Đạo trong
tư tưởng của Nguyễn Dữ đã tạo nên những nét độc đáo trong quan niệm nhân sinh
của ông và đó cũng là nét chung của văn hóa Việt Nam. Nguyễn Dữ đã biến quan
niệm tam cương, ngũ thường kết hợp với chữ “hiếu”, chữ “nhân” hài hòa với thuyết
tính thiện của đạo Nho thành phẩm chất, đạo lý tốt đẹp của người Việt Nam. Bên
cạnh đó, tư tưởng thiên mệnh của Khổng Tử cũng chỉ là cách nói, là chỗ dựa tinh
thần để Nguyễn Dữ vừa vạch cho mình hướng đi phù hợp trong cuộc đời, vừa tự an
ủi bản thân không rơi vào trạng thái bi quan chán nản, vừa cảnh báo, răn đe người
đời. Hơn nữa, Nguyễn Dữ lại sống trong một thời đại đầy biến động nên ông đã
dùng triết lý Phật giáo để vừa phê phán, vừa khuyên răn người đời về đạo đức, lối
sống. Dùng triết lý vô thường để lý giải cho quy luật xã hội, quy luật cuộc sống.
Dùng tinh thần Lão – Trang đã tìm đến lối sống vô vi, bất tranh như một con đường
giải thoát trong tư tưởng của những nhà tri thức đang bế tắc, mâu thuẫn giữa một
58
bên là lý tưởng cao đẹp và một bên là hiện thực xã hội mục nát.
Nguyễn Dữ bế tắc, không tìm được phương pháp có thể khắc phục được tình
trạng rối loạn của xã hội và triều đình phong kiến, trước bối cảnh đó ông buộc phải
lựa chọn cuộc sống ở ẩn nơi rừng núi. Nhưng lúc nào trong ông cũng trăn trở về
giang sơn, xã tắc. Điều ấy được thể hiện rõ ở tâm trạng ưu tư trước tình cảnh nhân
dân đói nghèo, khổ cực, gia đình tan vỡ vì chiến tranh như trong Chuyện người con
gái Nam Xương hay Truyện Lệ Nương. Ở Nguyễn Dữ, ta cũng thấy được lối sống
“quả dục”, không màng tới danh lợi mà sống một cách giản dị, an nhiên , tự tại. Đó
chính là phong cách sống của những nhà Nho chân chính, đồng thời là mẫu hình
của những con người đạo đức để chúng ta noi theo.
3.2.2. Một số hạn chế chủ yếu
Bên cạnh những giá trị tích cực trong tư tưởng về thế giới quan, nhân sinh
quan và quan niệm về đạo đức thì ở Nguyễn Dữ vẫn còn tồn tại nhiều điểm hạn chế
do bị quy định bởi bối cảnh thời đại lúc bấy giờ. Trước hết, trong thế giới quan của
Nguyễn Dữ thiếu tính nhất quán, không đứng hẳn và phía chủ nghĩa duy vật hay
chủ nghĩa duy tâm. Một mặt, ông trình bày về bản thế của thế giới và con người
thông qua các quy luật của tự nhiên, song có đôi chỗ lại tiếp thu quan điểm của Phật
giáo khi lý giải cuộc sống con người được tạo nên từ “duyên” hay phủ nhận sự tồn
tại khách quan của thế giới, cho rằng kiếp người là giả, là tạm. Hơn thế nữa, quan
niệm “trời” như một đấng siêu nhiêu có quyền năng tuyệt đối đã chi phối mạnh mẽ
đến tư tưởng của Nguyễn Dữ, nó làm hạn chế đi tính sáng tạo và chủ động của ông
trong mọi suy nghĩ và hành động thực tiễn. Dù đã phát hiện ra sự phát triển của vạn
vật, và cũng đã nắm bắt được các quy luật cuộc sống nhưng trong quan niệm của
Nguyễn Dữ, tự nhiên phát triển trong một cái thế tuần hoàn bế tắc, xã hội vận động
trong vòng tròn luẩn quẩn của chế độ phong kiến. Ông đã không nhận thức được tác
dụng mạnh mẽ của hoạt động của con người và cũng không nhận ra vai trò to lớn
của con người, là có thể tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn thế giới hiện hữu.
Việc đồng nhất quy luật của tự nhiên với quy luật của xã hội đã khiến cho
Nguyễn Dữ không thể đưa ra lý giải hợp lý về các hiện tượng xã hội, các hành vi
trái với luân lý thông thường của con người. Hơn thế nữa, ông cũng chưa thấy được
quá trình vận động của xã hội là một quá trình phát triển để ngày càng trở nên hoàn
59
thiện hơn. Chính vì thế, dù bất mãn và nhận thấy sự mục nát, trì trệ của nhà nước
phong kiến đương thời nhưng Nguyễn Dữ chưa thấy được nhu cầu về một hệ thống
chính trị mới thay thế cho hệ thống cũ đã lạc hậu. Vì vậy nên ông không ủng hộ
những cuộc nổi dậy của nhân dân khi mâu thuẫn giữa triều đình và quần chúng trở
nên gay gắt mà lựa chọn ở ẩn, chờ đợi đến thời cơ phù hợp hơn. Tuy rằng Nguyễn
Dữ là một nhà Nho yêu nước chân chính nhưng ông lại không chỉ ra được con
đường hữu hiệu để cứu nước, cứu dân.
Tiếp theo, là một người trưởng thành trong cái nôi của Nho gia, vì vậy
Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng sâu sắc và bị ràng buộc nhiều bởi các tư tưởng truyền
thống của Nho giáo. Dù đã có sự tiếp thu tư tưởng của Phật, Đạo nhưng Nguyễn
Dự vẫn bị ràng buộc với chữ “trung” với nhà Lê – Trịnh, chính vì thế nên đối mặt
với bối cảnh xã hội bấy giờ, Nguyễn Dữ cũng như nhiều nhà Nho sống cùng thời
với ông đã rơi vào tư tưởng thủ tiêu đấu tranh, đã trở nên yếu đuối, bất lực. Bên
cạnh đó, tư tưởng trọng nông khinh thương của Nho gia đã ăn sâu vào tiềm thức của
những nhà Nho, đồng thời Nguyễn Dữ lại sinh ra trong một thời kỳ mà giá trị của
đồng tiền, vật chất đã khiến con người bị biến chất và thậm chí mất đi nhân tính.
Tất cả những yếu tố đó đã khiến cho Nguyễn Dữ không có được cái nhìn khách
quan về ưu điểm của kinh tế và sự phát triển kinh tế đối với sự phát triển của xã hội
nói chung. Ông mới nhận thấy được mặt hạn chế của việc phát triển sản xuất và trao
đổi hàng hóa nhưng lại phủ nhận những mặt tích cực của nó.
Hạn chế trong tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ còn được biểu
hiện ở chỗ ông nhận ra sự suy thoái, trì trệ của xã hội đương thời nhưng chỉ nhìn nó
với vẻ tiêu cực, hủ bại chứ chưa nhận ra được rằng, đây cũng chính là những dấu
hiệu của việc phát triển, khi mà ý thức xã hội đã lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội.
Hơn nữa, xã hội trong quan điểm của ông vận động theo vòng tuần hoàn, lặp đi lặp
lại nên Nguyễn Dữ mắc phải nhược điểm trong tư duy như đa số nhà Nho khác khi
đánh giá thời của vua Nghiêu, vua Thuấn là đỉnh cao của một xã hội thái bình, thịnh
trị. Do đó, ông mong muốn xây dựng lại xã hội lúc bấy giờ nhưng không phải bằng
việc thay đổi nền chính trị hiện tại trở nên phù hợp hơn mà là đưa trở về thời kỳ
thịnh trị cũ trong quá khứ. Đây rõ ràng là một sự thụt lùi về mặt tư tưởng của
Nguyễn Dữ và nhiều nhà Nho khác như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc
60
Khoan,v.v. Họ đều là những nhà Nho xót thương cho tình cảnh của dân tộc và nỗi
khổ của nhân dân nhưng lại không hiểu được những hiện tượng như con người “lầm
lạc, mất đạo” đó là một tất yếu của lịch sử ở xã hội Việt Nam thế kỷ XVI.
Lối sống ẩn dật, xa lánh thế sự là phương pháp Nguyễn Dữ đã lựa chọn để
có thể giải tỏa nội tâm của chính mình. Nhưng đồng thời nó cũng cho thấy sự bất
lực, vô vọng của Nguyễn Dữ trong việc đưa ra giải pháp cho sự mất trật tự của xã
hội bấy giờ. Nguyễn Dữ đã từ bỏ con đường công danh sự nghiệp để trở về vùng
núi Thanh Hóa ở ẩn song thực chất, ông cũng đã từ bỏ con đường đấu tranh trước
thưc trạng phi đạo của đời sống hiện thực. Thái độ này của Nguyễn Dữ có thể dẫn
tới tình trạng thủ tiêu tư tưởng đấu tranh, giành lấy những quyền lợi nên có của
quần chúng nhân dân. Trong 20 truyện của Truyền kỳ mạn lục, tuy phê phán những
thói hư tật xấu ở đời nhưng Nguyễn Dữ không thể hiện được thái độ quyết tâm đấu
tranh để xóa bỏ hoàn toàn những điều bất thiện mà con người gây ra. Thậm chí,
trong tư tưởng và hành xử, còn biểu hiện thái độ thỏa hiệp, phó mặc số phận cho
trời của ông. Những tư tưởng này của ông có thể khiến nhân dân rơi vào cách nghĩ
“an phận thủ thường”, không có tinh thần cầu tiến, cúi đầu chấp nhận sự an bài của
mệnh trời mà không đấu tranh để thay đổi số phận nghèo đói, đầy bất công của
mình.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Dung thông tam giáo đã xuất hiện ở Việt Nam từ rất sớm nhưng tùy vào từng
điều kiện kinh tế, xã hội và bối cảnh lịch sử nhất định mà ở mỗi thời kỳ, dung thông
tam giáo đều có những đặc điểm, tính chất riêng. Và ở chính Nguyễn Dữ, tư tưởng
dung thông tam giáo của ông cũng ít nhiều có sự khác biệt so với những nhà Nho
cùng thời. Đến thế kỷ XVI, Nho giáo đã chiếm giữ vị trí độc tôn trong hệ thống
chính trị, trái lại Phật và Đạo lại đi gắn bó nhiều hơn với đời sống tâm linh và tín
ngưỡng của nhân dân. Việc Nguyễn Dữ kết hợp các tư tưởng Phật, Đạo cùng với
Nho giáo là một việc làm chủ động, có mục đích nhằm giải toả tâm trạng và nó
cũng là lối hành xử khéo léo của nhà Nho trước thực trạng xã hội lúc bấy giờ. Xét
đến cùng, Nguyễn Dữ xuất phát điểm là một nhà Nho, vì vậy ông tiếp thu các quan
điểm, tư tưởng của Phật giáo, Đạo giáo với lăng kính của Nho gia. Chính vì thế Nho
giáo vẫn đóng vai trò nền tảng trong tư tưởng của ông. Hơn nữa, ngoài việc thỏa
61
mãn nhu cầu tư tưởng thì việc Nguyễn Dữ tiến hành dung thông tam giáo một cách
tự giác và có tính toán cũng cho thấy đây là một hình thức để tự bảo vệ vị trí chủ
cán của Nho gia trong tam giáo.
Tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ và nhiều nhà Nho khác cùng
thời với ông là một nhu cầu tất yếu của lịch sử. Những tư tưởng đó đều được xuất
phát từ xã hội hiện thực, nó cũng là kết quả của sự kế thừa và phát huy tư tưởng
dung thông tam giáo của những thế kỷ trước, đồng thời cũng thể hiện được sự tiến
bộ về mặt nhận thức của Nguyễn Dữ nói riêng và những nhà trí thức Việt Nam giai
đoạn này nói chung. Dù còn nhiều hạn chế do bị quy định bởi thời đại nhưng chúng
ta không thể phủ nhận rằng, so với thế hệ của Nguyễn Dữ thì những tư tưởng của
ông ít nhiều đã có sự đột phá và tiến bộ vượt trước thời đại. Nó có cả ý nghĩa về mặt
lý luận và giá trị về mặt thực tiễn. Nguyễn Dữ và những tư tưởng của ông đã để lại
những đóng góp sâu sắc cho lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam và những ý nghĩa
62
đó vẫn còn giá trị cho đến ngày nay.
KẾT LUẬN
Trong giai đoạn thế kỷ XVI-XVII, sự khủng hoảng chính trị - xã hội hay cụ
thể hơn là sự tranh giành lợi ích của các tập đoàn phong kiến đã gây nên một cuộc
đại khủng hoảng trong nội bộ phong kiến Việt Nam. Trước bối cảnh ấy, Nho giáo
với vai trò là hệ thống tư tưởng chính trị - đạo đức đã không đủ khả năng duy trì trật
tự xã hội và bảo vệ được sự an ổn của triều đình phong kiến. Dung thông tam giáo
là một xu hướng được nhiều nhà Nho lựa chọn trong bối cảnh khủng hoảng này,
quá trình dung thông tam giáo được các nhà nho thực hiện một cách chủ động nhằm
mục đích xây dựng một hệ tư tưởng mới, có khả năng lập lại trật tự, kỷ cương cho
xã hội phong kiến đương thời. Và Nguyễn Dữ là một đại diện tiêu biểu cho đội ngũ
Nho sĩ đó.
Tư tưởng dung thông tam giáo ở Nguyễn Dữ là kết quả của một quá trình
lịch sử lâu dài, một mặt, nó thể hiện những nhu cầu thực tiễn và cấp bách của xã hội
đương thời, mặt khác, cho thấy sự kế thừa, tiếp thu và phát triển những tư tưởng
dung thông tam giáo ở Việt Nam trước thế kỷ XVI. Chương đầu của khóa luận đã
trình bày về mối quan hệ của tam giáo tại Việt Nam từ khi tam giáo du nhập vào
nước ta đến cuối thế kỷ XV. Trong khoảng thời gian đó, vai trò và vị trí của tam
giáo liên tục có những sự biến đổi phụ thuộc vào điều kiện thực tiễn. Và đến giai
đoạn cuối của nhà Lê sơ, mối quan hệ đó một lần nữa có sự điều chỉnh, Nho giáo
chấp nhận lùi lại, tiếp nhận những tư tưởng của Phật, Đạo giáo để bổ sung những
điểm còn thiếu sót và hoàn thiện chính mình.
Quan điểm dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ lấy hệ tư tưởng Nho giáo
làm chủ đạo bởi ông là một Nhà nho, được sinh ra và nuôi dưỡng trong cái nôi của
Nho giáo. Tuy nhiên, đến thời của Nguyễn Dữ, những giáo lý của Nho giáo ngày
càng trở nên hà khắc và lạc hậu nên Nguyễn Dữ cũng như nhiều nhà Nho khác tìm
đến Phật, Đạo để tự làm mới hệ tư tưởng Nho gia. Về mặt thế giới quan, ông đã tiếp
thu các vấn đề về bản thể của thế giới để giải thích sự hình thành và vận động khách
quan của vũ trụ và vạn vật. Về nhân sinh quan, Nguyễn Dữ đã nhìn cuộc sống với
thái độ cởi mở hơn, những vấn đề về giải phóng con người cá nhân, tình yêu, hạnh
phúc và nhu cầu hưởng thụ cuộc sống là điểm mới trong quan niệm nhân sinh của
63
Nguyễn Dữ so với nhiều nhà Nho đương thời. Bên cạnh việc đề cao những chuẩn
mực đạo đức của Nho giáo, Nguyễn Dữ cũng đề cao tinh thần từ bi, hỷ xả, cứu khổ
cứu nạn của Phật giáo. Ông sử dụng những triết lý Phật giáo về luân hồi, nghiệp
báo, nhân quả,… kết hợp với tư tưởng âm công, âm đức, tòa án Địa phủ để khuyến
khích hành thiện đồng thời răn đe, cảnh cáo những hành vi phi đạo của con người.
Thực chất, nội dung của tư tưởng dung thông tam giáo ở Nguyễn Dữ la sự kết hợp
giữa tư tưởng của tam giáo trong việc giải quyết những vấn đề cấp bách, thực tiễn
của thời đại.
Tư tưởng của Nguyễn Dữ nói chung và tư tưởng dung thông tam giáo của
ông nói riêng chịu ảnh hưởng, chi phối bởi cả những điều kiện chủ quan và khách
quan nên nó cũng có những đặc điểm, tính chất riêng, khác với tư tưởng của những
nhà Nho khác. Thứ nhất, tư tưởng dung thông tam giáo của ông là một nhu cầu tất
yếu của lịch sử tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVI. Thứ hai, Nguyễn Dữ lựa chọn dung
thông tam giáo nhằm mục đích bảo vệ, chấn hưng và phát triển Nho học. Thứ ba, tư
tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ là sự kế thừa và phát triển một số nội
dung tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tuy nhiên, ở Trạng
Trình thì khuynh hướng kết hợp Nho giáo với Đạo Lão – Trang là chủ đạo, còn ở
Nguyễn Dữ thì khuynh hướng kết hợp giữa Nho giáo với Đạo giáo lại được biểu lộ
rõ ràng hơn.
Những tư tưởng của Nguyễn Dữ có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn đối
với lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam. Thông qua tác phẩm Truyền kỳ mạn lục,
Nguyễn Dữ đã đưa ra những quan điểm khá sâu sắc về thế giới tự nhiên, con người
và xã hội, từ đó gợi mở một lối ứng xử phù hợp của con người đối với thế giới xung
quanh. Những tư tưởng này mang đậm tính nhân văn sâu sắc và nó cũng đã cho
thấy sự vượt trước về mặt tư tưởng của Nguyễn Dữ so với thời đại bấy giờ. Bên
cạnh những giá trị tích cực về thế giới quan, nhân sinh quan và quan niệm về đạo
đức thì ông vẫn con tồn tại nhiều điểm hạn chế do bị quy định bởi bối cảnh xã hội
đương thời. Song tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Dữ vẫn phản ánh bước
64
phát triển mới trong lịch sử tư tưởng Việt Nam so với những giai đoạn trước đó.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1994), Đất nước Việt Nam qua các đời, NXB Thuận
Hóa.
2. Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
3. Nguyễn Thanh Bình (2005), Học thuyết chính trị - xã hội của Nho
giáo và sự thể hiện của nó ở Việt Nam từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX, Luận án
Tiến sĩ, ĐHQG Hà Nội.
4. Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê (2004), Đại cương triết học Trung Quốc,
tập 2. NXB Thanh Niên, Hà Nội.
5. Nguyễn Dữ (2018), Truyền kỳ mạn lục, bản dịch của Trúc Khê, NXB
Hội nhà văn, Hà Nội
6. Nguyễn Dữ (2019), Truyền kỳ mạn lục Giải âm, bản dịch và chú giải
của Nguyễn Thế Nghi, Nguyễn Quang Hồng, NXB Khoa học Xã Hội, Hà Nội.
7. Vũ Phú Dưỡng (2018), Tư tưởng dung thông Nho, Phật, Đạo của
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ, Luận án Tiến sĩ Triết học,
Viện Triết học, Hà Nội.
8. Nguyễn Tài Đông (2013), “Tam giáo đồng nguyên và tính đa nguyên
trong truyền thống văn hóa Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5
(66), tr.35-43.
9. Đại Việt sử ký toàn thư (1993), tập 2, Bản in Nội Các Quan Bản, Mộc
Bản Khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
10. Đại Việt sử ký toàn thư, tập IV (1968), Cao Huy Giu dịch và Đào
Duy Anh hiệu đính, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
11. Thạch Trung Giả (1972), Hệ thống tam giáo trong Truyền kỳ mạn lục,
http://vnbet.vn/tu-tuong-so-3-nam-1972/5-he-thong-tam-giao-trong-truyen-ky-man-
luc-10168.html, [Truy cập ngày 20/4/2019]
12. Lê Mậu Hãn, Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh (chủ biên 2010),
Đại cương lịch sử Việt Nam toàn tập, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
13. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (chủ
65
biên 2004), Từ điển Văn học (Bộ mới), NXB Thế giới, Hà Nội.
14. Tạ Thị Hoa (2014), Thế giới quan của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua tác
phẩm “Bạch Vân Am thi tập” và “Bạch Vân Quốc ngữ thi tập”, Luận văn thạc sĩ
Triết học, ĐHQG HN.
15. Đỗ Minh Hợp (2010), Lịch sử triết học đại cương, NXB Giáo dục
Việt Nam, Hà Nội.
16. Lại Văn Hùng (2002), “Bàn thêm về vấn đề tác giả - tác phẩm Truyền
kỳ mạn lục”, Tạp chí Văn học, số 10(368), tr.49-60
17. Nguyễn Quang Hương, Lương Gia Tĩnh, Nguyễn Thanh Bình (Chủ
biên 2012), Triết học phương Đông và phương Tây Vấn đề và cách tiếp cận, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18. Phạm Thị Huyên (2009), Một số nội dung tư tưởng của Nguyễn Dữ
qua tác phẩm Truyền kỳ mạn lục, Khóa luận tốt nghiệp ngành Triết học, ĐHQG Hà
Nội.
19. Trúc Khê, Ngô Văn Triện dịch (1988), Nguyễn Dữ Truyền kỳ mạn lục,
NXB Văn nghệ, Hội Nghiên cứu giảng dạy văn học TP. Hồ Chí Minh.
20. Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và sự phát triển ở Việt Nam, NXB Khoa
học Xã hội.
Trần Trọng Kim (1998), Nho giáo, NXB Văn hóa Thôn tin, Hà Nội. 21.
Phùng Hữu Lan (1999), Đại cương triết học sử Trung Quốc, NXB 22.
Thanh Niên, Hà Nội.
23. Nguyễn Lang (2010), Việt Nam Phật giáo sử luận tập 3, NXB Tri
thức, Hà Nội.
24. Luận ngữ (1950), Đoàn Trung Còn dịch, Trí đức Tòng thơ xuất bản,
Sài Gòn.
25. Trần Nghĩa (2010), “Quá trình hội nhập Nho - Phật - Lão hay sự hình
thành tư tưởng “Tam giáo đồng nguyên” ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học, số 1
(244), tr.23-30.
26. Nguyễn Quang Ngọc (2002), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
27. Bùi Thanh Phương (2009), “Mối quan hệ tam giáo trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ quốc gia độc lập thời Lý – Trần”, Tạp chí Triết học, số 1 (212),
66
tr.67-73.
28. Phòng Văn học Việt Nam cổ trung đại, Viện Văn học & Hội đồng
Lịch sử Hải Phòng (2015), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (tổng tập), NXB Văn học,
Hà Nội
29. Lê Văn Quán (2004), “Lại bàn về tam giáo đồng nguyên”, Tạp chí
Hán Nôm, số 5(66), tr.15-21
30. Bùi Thanh Quất (chủ biên 1999), Lịch sử triết học, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
31. Nguyễn Kim Sơn (2007), “Xu hướng hội nhập tam giáo trong tư
tưởng Việt nam thế kỷ XVIII”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 8, tr.14-20.
32. Vũ Thị Thơ (2007), Thế giới quan Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở
Việt Nam thế kỷ XVI – XVIII, Khóa luận tốt nghiệp Triết học, ĐHQG Hà Nội.
33. Nguyễn Khắc Thuần (2002), Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
34. Nguyễn Đăng Thục (2004), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 6 và 7,
NXB Tri thức, Hà Nội.
35. Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
36. Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
37. Viện Khoa học xã hội Việt Nam dịch và giới thiệu (1998), Đại Việt sử
ký toàn thư, tập 2, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
38. Viện Văn học (1978), Thơ văn Lý - Trần, Tập 3. NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
39. Nguyễn Khắc Viện (2000), Bàn về đạo Nho, NXB Thế giới, Hà Nội.
40. Nguyễn Văn Vịnh (2004), Thế giới quan triết học Trung Quốc cổ
đại, Luận án Tiến sĩ triết học, Viện Triết học.
41. Trần Nguyên Việt (2000), “Vấn đề tam giáo trong Truyền kỳ mạn lục
của Nguyễn Dữ”, Tạp chí Triết học, số 5(117), 5/2003, tr.50-52
42. Nguyễn Hữu Vui (chủ biên 2007), Lịch sử Triết học, NXB Chính trị
67
Quốc gia, Hà Nội.