TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ =====o0o=====

NGUYỄN THỊ TRANG

BỒI DƯỠNG ĐẠO ĐỨC NGƯỜI THẦY CHO SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 HIỆN NAY

THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

HÀ NỘI, 2019

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ =====o0o=====

NGUYỄN THỊ TRANG

BỒI DƯỠNG ĐẠO ĐỨC NGƯỜI THẦY CHO SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 HIỆN NAY

THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

TS. Phạm Thị Thúy Vân

HÀ NỘI, 2019

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn tới TS. Phạm Thị Thúy Vân đã tận

tình hướng dẫn, dặn dò, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi trong

suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này.

Xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô khoa Giáo dục chính trị trường Đại học

Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong suốt thời

gian học tập và nghiên cứu khóa luận.

Cuối cùng, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã luôn ở

bên động viên, khích lệ, hỗ trợ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu

khóa luận.

Hà Nội, ngày.......tháng.......năm 2019

Sinh viên

Nguyễn Thị Trang

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là nghiên cứu do tôi trực tiếp thực hiện cùng với

sự hướng dẫn của TS. Phạm Thị Thúy Vân. Tôi xin cam đoan rằng các số

liệu, thông tin, trích dẫn của luận văn được chỉ dẫn nguồn gốc và nghiên cứu

đầy đủ.

Nếu có bất kì sự gian lận nào tôi xin hoàn chịu trách nhiệm hoàn toàn.

Hà Nội, ngày.......tháng.......năm 2019

Sinh viên

Nguyễn Thị Trang

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI THẦY .. 6

1.1. Một số khái niệm cơ bản ........................................................................ 6

1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức người thầy ..................... 14

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 25

Chương 2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC

NGƯỜI THẦY TRONG BỒI DƯỠNG ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 HIỆN NAY.............................. 26

2.1. Sự cần thiết phải bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh viên trường

Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh .............. 26

2.2. Thực trạng bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh viên trường Đại học

Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh và nguyên nhân ..... 29

2.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng đạo đức người thầy

cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay theo tư tưởng

Hồ Chí Minh ................................................................................................ 35

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 41

KẾT LUẬN .................................................................................................... 42

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 44

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: “Không có thầy

giáo thì không có giáo dục….không có giáo dục, không có cán bộ thì không

nói gì đến kinh tế - văn hóa” [14, tr. 345]. Nghề dạy học là một nghề cao quý

trong những nghề cao quý, những người thầy luôn được tôn vinh và kính

trọng trong xã hội từ trước đến nay, Người đã nói: “Người thầy giáo tốt - thầy

giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không

đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo

tốt là những anh hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang” [18, tr. 402 -

403]. Sự nghiệp trồng người là sự nghiệp chung của toàn Đảng, Nhà nước và

toàn xã hội, nhưng những người trực tiếp tham gia vào quá trình đó là những

nhà giáo. Bởi vì các thầy, cô giáo là những người mang trên mình những

trọng trách to lớn là những người chiến sĩ văn hóa truyền bá cho thế hệ trẻ -

tương lai của đất nước, truyền bá các giá trị tinh hoa văn hóa của dân tộc và

thời đại, góp phần xây dựng nhân cách con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn

đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp giáo dục nói chung và xây dựng đội ngũ

người thầy nói riêng, Người cũng là một người thầy vẻ vang, nhà giáo dục vĩ

đại của dân tộc Việt Nam. Người đã có quan niệm về vai trò, nhiệm vụ, phẩm

chất đạo đức, chuyên môn và phương pháp giảng dạy của người thầy; Người

đặc biệt quan tâm đến phẩm chất đạo đức của người thầy.

Công cuộc đổi mới toàn diện giáo dục ở Việt Nam đã phổ cập rộng rãi

trong cả nước từ giáo dục mầm non, phổ thông, dạy nghề đến cao đẳng, đại

học. Trong sự nghiệp đổi mới giáo dục này, đội ngũ giáo viên mà các sinh

viên sư phạm ở nước ta chính là nền tảng, lực lượng nòng cốt, có vai trò

quan trọng đến sự thành công của công cuộc đổi mới giáo dục. Đội ngũ sinh

viên sư phạm chính là những thế hệ thầy, cô giáo tương lai của đất nước, vì

1

vậy, để công cuộc đổi mới giáo dục thành công cần đặc biệt quan tâm giáo

dục sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học sư phạm trên cả nước đảm bảo

về năng lực, chuyên môn, phương pháp giảng dạy, đặc biệt là giáo dục đạo

đức người thầy.

Một trong hệ thống các trường Sư phạm ở nước ta là trường Đại học Sư

phạm Hà Nội 2 - là một cơ sở đào tạo thế hệ thầy cô giáo tương lai, bồi dưỡng

giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục, cán bộ khoa học trình độ đại học và sau đại

học ở nước ta hiện nay với quy mô là 10000 sinh viên, trường được coi là một

trong bảy trường đại học sư phạm chủ chốt của cả nước ta. Hiện nay đa số

sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 có lối sống đạo đức tốt đẹp, có

lòng yêu quê hương, đất nước, có lối sống lành mạnh, tương thân, tương ái,

đoàn kết với nhau, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Nhưng bên cạnh đó, một bộ phận sinh viên của trường hiện nay còn có những

biểu hiện lệch lạc về đạo đức, sai lầm trong nhận thức, chạy theo lối sống

thực dụng, lười biếng, thiếu hoài bão để lập thân, lập nghiệp vì tương lai của

đất nước, chạy theo những phong trào, học không phải vì muốn trau dồi kiến

thức mà chỉ chạy theo điểm số dẫn đến những biểu hiện tiêu cực như quay

cóp trong giờ thi, nghỉ học thường xuyên..v..v.đây là những vấn đề đáng lo

ngại về sinh viên trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.

Vì vậy để công tác giáo dục đạo đức trong trường đạt hiệu quả cao, cần

phải phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực hiện nay, tăng

cường công tác giáo dục toàn diện, đặc biệt là đạo đức cho sinh viên ở trường

Đại học Sư phạm Hà Nội 2 theo tư tưởng Hồ Chí Minh để đảm bảo chất

lượng giáo dục nhằm đào tạo thế hệ thầy cô giáo tương lai có phẩm chất chính

trị, đạo đức, có kiến thức, năng lực thực hành nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu

xây dựng và phát triển đất nước ta hiện nay. Với những lí do trên, tôi quyết

định chọn đề tài: “Bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh viên trường Đại

2

học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” làm khóa

luận tốt nghiệp của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu đề tài

Bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh viên các trường Đại học Sư

phạm theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một vấn đề được nhiều người quan tâm

đến trong nghiên cứu khoa học. Đã có một số công trình nghiên cứu đề cập

đến vấn đề bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh viên các trường Đại học

Sư phạm theo tư tưởng Hồ Chí Minh như:

-“Ngô Văn Hà (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc xây

dựng đội ngũ giảng viên đại học hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội”

- Thành Duy (chủ biên) (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

- Đinh Xuân Dũng,“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb Giáo

dục,”Hà Nội.

-“Phạm Thị Thúy Vân (2016), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của

người thầy giáo và vấn đề nâng cao đạo đức người thầy cho đội ngũ giảng

viên đại học ở nước ta hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo khoa học sinh viên và cán

bộ trẻ các trường Đại học Sư phạm toàn quốc năm 2016, Nxb Đại học Sư

phạm thành phố Hồ Chí Minh,”tr.383 - 391.

- Phạm Thị Thúy Vân (2017),“Bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho sinh

viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh,

Đề tài Khoa học công nghệ cấp cơ sở,”Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2,

mã số: C2016.20.

Nhìn chung, hiện nay ở mỗi khía cạnh khác nhau, nghiên cứu đạo đức

của sinh viên sư phạm“đã có rất nhiều công trình nghiên cứu tuy nhiên nghiên

cứu tập trung vào bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh viên trường Đại học

Sư phạm Hà Nội 2 theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho đến nay chưa có công

3

trình nào nghiên cứu. Chính vì vậy, dựa trên cơ sở những vấn đề mà các nhà

khoa học đã nghiên cứu, tôi đã lựa chọn đề tài”“Bồi dưỡng đạo đức người

thầy cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay theo tư tưởng

Hồ Chí Minh”.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của đề tài là hệ thống những nội dung cơ bản trong tư tưởng

Hồ Chí Minh về đạo đức người thầy; từ đó, vận dụng vào việc bồi dưỡng đạo

đức người thầy cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay.”

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tìm hiểu,“làm rõ nội dung cơ bản tư tưởng của Hồ Chí Minh”về đạo

đức người thầy.

- Chỉ ra thực trạng bồi dưỡng đạo đức người thầy“cho sinh viên ở trường

Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.”

-“Đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng đạo đức người

thầy cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay theo tư tưởng

Hồ Chí Minh.”

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài

4.1. Đối tượng nghiên cứu đề tài

Khóa luận tập trung nghiên cứu“tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức

người thầy và sự vận dụng tư tưởng đó vào việc bồi dưỡng đạo đức người

thầy cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay.”

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức người thầy và vấn đề bồi

dưỡng các chuẩn mực trên cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

hiện nay, từ năm 2012 đến năm”2019.

4

5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài

Trong suốt quá trình“nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phương pháp luận

của chủ nghĩa”Mác - Lênin, cụ thể là:

-“Phương pháp lịch sử cụ thể”

-“Phương pháp lịch sử”

- Phương pháp luận duy vật biện chứng

Ngoài ra còn kết hợp các phương pháp khác như:“phương pháp phân

tích - tổng hợp, phương pháp logic - lịch sử, phương pháp quan sát, phương

pháp thu thập tài liệu nhằm làm rõ nội dung của đề tài”đã đặt ra.

6. Kết cấu của khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục,

khóa luận gồm 2 chương,”5 tiết.

5

Chƣơng 1

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CỦA NGƢỜI THẦY

1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Khái niệm “đạo đức”

Thuật ngữ “đạo đức” có nguồn gốc từ tiếng Latinh là mos (moris) có

nghĩa là“lề thói (moralis nghĩa là có liên quan với lề thói, đạo nghĩa). Đạo đức

còn có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là ethicos cũng có nghĩa là thói quen, tập

quán. Như vậy, đạo đức là những gì liên quan đến những thói quen, tập quán

sinh hoạt và ứng xử giữa con người với con người trong cộng đồng và xã hội.

Như vậy, ta thấy đạo đức của con người đã được các nhà triết gia nghiên cứu

và bàn luận từ khá sớm.”

-“Quan điểm của một số nhà triết học phương Đông:”

+“Theo các học thuyết của người Trung Quốc cổ đại về đạo đức, đạo

nghĩa là đường đi, con đường, đường sống của con người trong xã hội. Đức

có”ngĩa là nhân đức, đức tính, là biểu hiện của đạo là nguyên tắc của đạo lý.

Như vậy, đạo đức là những nguyên tắc, yêu cầu mà“cuộc sống đặt ra và con

người phải”thực hiện theo.

+“Theo Khổng Tử (thế kỉ VI TCN) đã đưa ra tư tưởng “tiên học lễ, hậu

học văn”, với mong muốn phát triển xã hội ổn định, gia đình hạnh phúc, mọi

người giữ được đạo lý trong cuộc sống. Để hiện thực hóa tư tưởng này,

Khổng Tử đã đề ra nguyên tắc vua tôi, ông bà, cha mẹ, con cháu đều phải

thực hiện theo luật nước, phép nhà. Như vậy, theo ông, đạo đức là ý thức đối

với bản thân và đối với xã hội trong các mối quan hệ của con người trong

cuộc sống hàng ngày, cách xử sự và hành vi của con người, phẩm chất con

người, hạnh phúc con”người.

+ Tư tưởng“triết học Phật giáo do Thích Ca Mâu Ni sáng lập đã nêu ra

các vấn đề về đạo đức, trong đó, nội dung cơ bản nhất trong đạo đức của Phật

6

giáo là khuyên nhủ con người ta sống”thiện, tránh làm điều ác, biết yêu

thương, giúp đỡ nhau.

- Quan điểm của một số nhà triết học phương Tây:

+“Vấn đề đạo đức được nhiều sự quan tâm, bàn luận của những nhà tư

tưởng ở phương Tây. Từ trước đến giờ, mọi người vẫn coi Socrates (469 -

399 TCN) là người đặt nền móng cho khoa học về đạo đức học, còn

Aristoteles (384 - 322 TCN) đã viết 10 cuốn về đạo đức học, trong đó thì ông

đặt biệt quan tâm tới phẩm hạnh của con”người.

+ Theo quan điểm của Mác - Ph.Ăng-ghen“cho rằng, đạo đức là một

hình thái ý thức xã hội phản ánh quy luật phát triển của xã hội dưới hình thức

giá trị - giá trị đạo đức. Trong xã hội có giai cấp, bên cạnh những chuẩn mực

giá trị đạo đức chung của con người, còn có chuẩn mực đạo đức phản ánh lợi

ích, vị trí và vai trò của mỗi giai cấp. Như vậy, từ cơ sở trên, quan điểm Mác

xít khẳng định: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội

về mặt đạo đức.”

-“Quan điểm đạo đức học ở Việt Nam:”

+ Theo“giáo trình Đạo đức học của tác giả Trần Đăng Sinh - Nguyễn

Thị Thọ, tác giả đã đưa ra định nghĩa đạo đức như”sau: “Đạo đức là một hình

thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội

nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với

nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi

truyền thông và sức mạnh của dư luận xã hội” [20, tr. 6].

+ Trong sách giáo khoa“Giáo dục công dân lớp 10 - Nxb Giáo dục cũng

đã đưa ra định nghĩa về đạo đức”như sau: “Đạo đức là hệ thống các nguyên

tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của

mình cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng, xã hội” [2, tr. 63].

+ Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức là cái “gốc” của

người cách mạng: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có

7

nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách

mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không

lãnh đạo được nhân dân” [9, tr. 252 - 253] hay “Có tài mà không có đức là

người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” [9, tr. 255].

Theo Người, có ba tiêu chuẩn“để đánh giá đạo đức của con người là ở hành

động, ở việc làm và ở cách đối nhân xử thế. Người cho rằng đạo đức phải

được đánh giá trong ba mối quan hệ cơ bản: mình đối với mình, mình đối với

người và mình đối với”việc.

Thứ nhất,“đối với mình chớ tự kiêu, tự đại. Tự kiêu, tự đại là khờ dại.

Nếu mình hay, mình giỏi thì còn nhiều người hay, giỏi hơn mình. Tự kiêu, tự

đại tức là thoái bộ, phải luôn luôn cầu tiến bộ vì không tiến bộ thì là dừng lại.

Trong khi mình dừng lại thì người ta cứ tiến bộ, phát triển. Kết quả là mình

thoái bộ, lạc hậu, thụt lùi. Phải luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình những lời

nói, những việc làm để khắc phục những điều xấu, sửa chữa những khuyết

điểm, phát triển điều hay, điều tốt của bản thân mình. Đồng thời cũng phải

hoan nghênh người khác phê bình”mình.

Thứ hai,“đối với người: không nịnh hót người trên, không khinh thường

người dưới. Có thái độ thật thà, chân thành, đoàn kết, khiêm tốn. Phải học tập

những điều hay, điều tốt của người khác và giúp người khác cùng tiến bộ.

Thực hành chữ bác - ái.”

Thứ ba,“đối với việc: phải đặt công việc nước lên trên, lên trước việc

riêng, việc nhà. Đã phụ trách, nhận làm việc gì thì phải cố gắng làm cho kì

được, không sợ khó khăn, không sợ nguy hiểm, phải làm cho đến nơi đến

chốn. Bất kì là việc to hay việc nhỏ, phải có sáng kiến, lập ra kế hoạch, tiến

hành làm cẩn thận, phải cố gắng, quyết tâm làm thành công. Việc thiện thì dù

nhỏ đến mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ đến mấy cũng”tránh.

8

Tóm lại, trong những quan điểm của“Hồ Chí Minh, đạo đức không chỉ là

những lí tưởng cao xa mà còn là những hành động, những việc”làm, những

thái độ của mọi người trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động”hàng

ngày, Bác Hồ đã nói: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời rơi xuống. Nó

do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như

ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [9, tr. 255]. Mặt khác,

Bác còn cho rằng “đạo đức đời thường và đạo đức cách mạng là thống nhất

với nhau, không có đạo đức cách mạng đứng ngoài với đạo đức đời thường và

cũng không có đạo đức đời thường tách rời với đạo đức cách mạng”. Do

đó,“không thể ngụy biện cho khuyết điểm của bản thân mình. Đạo đức chính

là cái riêng mà phù hợp với cái chung (của Đảng, của cách mạng, của Tổ

quốc, của nhân dân). Cái riêng mà đi ngược lại với cái chung là”vi phạm đạo

đức hay nói cách khác là chủ nghĩa cá nhân.

Như vậy, dựa trên kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học thì tác giả

khóa luận“đưa ra khái niệm về đạo đức như sau: đạo đức là một hình thái ý

thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội về mặt đạo đức; là hệ thống những quy

tắc, chuẩn mực xã hội nhằm giúp con người điều chỉnh hành vi của mình cho

phù hợp với lợi ích của xã hội.”

1.1.2. Khái niệm “Đạo đức người thầy”

Trong trước đến nay, người thầy luôn giữ“vị trí đặc biệt quan trọng trong

xã hội, được mọi người tôn vinh và quý trọng. Người thầy là người không chỉ

truyền đạt những tri thức, kĩ năng, kinh nghiệm cho người học mà người thầy

còn giáo dục, truyền đạt cho học sinh của mình những đạo đức, lẽ sống, đạo

làm người. Như vậy, những người thầy chính là những tấm gương sáng để

học sinh noi theo. Người thầy từ xưa đến nay luôn nhận thức được vai trò

“người dẫn đường” của mình và họ đã luôn tuân theo những quy tắc, chuẩn

mực đạo đức để có thể hoàn thành tốt vai trò, nhiệm vụ của một nhà giáo

9

dục.”Đó là đạo đức của người thầy - những quy tắc“về phẩm chất, đạo đức

nghề nghiệp, lối sống, tác phong của nhà giáo.”

Đạo đức người thầy được nhìn nhận, phân tích dựa trên những nội dung

cơ bản như sau:

- Thứ nhất, về phẩm chất chính trị:

+ Gương mẫu trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân, tích

cực, chủ động, hăng hái tham gia các hoạt động chính trị, xã hội.

+“Chấp hành đúng các chính sách, đường lối, chủ trương của Đảng,

pháp luật của Nhà nước; thi hành nhiệm vụ nghiêm chỉnh theo quy định của

pháp luật. Ra sức trau dồi kiến thức, học tập, để rèn luyện, nâng cao trình độ

chuyên môn, chính trị để từ đó áp dụng vào quá trình giáo dục, giảng dạy và

đáp ứng được những yêu cầu của nhiệm vụ được giao.”

+“Có ý thức kỉ luật, nghiêm túc thực hành mọi sự điều động, phân công

của đơn vị; luôn ý thức trong tập thể, không ngừng phấn đấu làm việc vì lợi

ích”của cộng đồng.

- Thứ hai, về đạo đức nghề nghiệp:

+ Tận tuỵ và tâm huyết“với công việc; thực hiện đúng những quy định,

quy chế, điều lệ nội quy của đơn vị, tổ chức, nhà trường, của ngành.”

+“Tâm huyết với nghề, luôn có ý thức giữ gìn danh dự, có lương tâm

người thầy; có tinh thần đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ đồng nghiệp trong

công tác và trong cuộc sống hàng ngày; có lòng bao dung, độ lượng, nhân ái,

đối xử hoà nhã với người học và đồng nghiệp của mình; sẵn sàng giúp đỡ, bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người học, của đồng nghiệp và của cộng

đồng”xã hội.

+ Thường xuyên“thực hiện phê bình và tự phê bình nghiêm túc; có ý

thức học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ,

tin học thường xuyên để hoàn thành”xuất sắc những công việc được giao, đáp

ứng được những yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục.

10

+ Thực hiện công bằng“trong quá trình giáo dục và giảng dạy, nhận xét,

đánh giá đúng năng lực của người học; thực hành tiết kiệm, kiên quyết đấu

tranh chống lại tham nhũng, chống lại” bệnh thành tích.

- Thứ ba, về lối sống, tác phong:

+“Sống có lí tưởng, có mục đích, có ý chí vượt khó vươn lên, có tinh

thần phấn đấu liên tục với động cơ trong sáng và tư duy sáng tạo; thực hành

cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư theo tấm gương đạo đức Hồ Chí”Minh.

+“Có tác phong làm việc nhanh nhẹn, khẩn trương, khoa học; có thái độ

văn minh, lịch sự trong những mối quan hệ xã hội, trong giao tiếp với đồng

nghiệp, với người học; giải quyết công việc khách quan, tận tình, chu đáo,

phù hợp với nghề dạy học, chú ý không gây phản cảm và phân tán đến sự chú

ý của người học.”

+“Sống hoà nhập với cộng đồng, phù hợp với bản sắc dân tộc và thích

ứng với sự tiến bộ của xã hội; ủng hộ, khuyến khích những biểu hiện, việc

làm của lối sống văn minh, tiến bộ và phê phán những biểu hiện, việc làm của

lối sống lạc hậu, ích”kỉ.

+“Xây dựng gia đình văn hoá, trong gia đình và ngoài xã hội thương

yêu, quý trọng lẫn nhau; biết quan tâm đến những người xung quanh; thực

hiện nếp sống văn hoá nơi công”cộng.

+“Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành tốt những nhiệm vụ

được giao, giúp đỡ học sinh học tập tốt; đấu tranh, ngăn chặn những hành vi

vi phạm pháp luật và vi phạm các quy định nghề nghiệp. Có những quan hệ,

ứng xử đúng mực, gần gũi với nhân dân, phụ huynh học sinh, đồng nghiệp và

người học; kiên quyết đấu tranh với các hành vi trái pháp”luật, trái với đạo

đức, trái với thuần phong mỹ tục.

- Thứ tư, về giữ gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo:

+“Không được tổ chức các hoạt động dạy thêm và học thêm trái với quy

định”của pháp luật.

+“Không gây bè phái, cục bộ địa phương, làm mất tinh thần đoàn kết

11

trong tập thể và trong sinh hoạt tại cộng”đồng.

+“Không được lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện những hành vi

trái pháp luật, những quy chế, những quy định; không gây khó khăn, phiền hà

đối với người học, đồng nghiệp và nhân”dân.

+“Không được chèn ép, trù dập và có thái độ thiên vị, phân biệt đối xử,

có thành kiến đối với người học; không tiếp tay, bao che cho những hành vi

tiêu cực trong học tập, giảng dạy, rèn luyện của người học và đồng”nghiệp.

+“Không được xâm phạm, xâm hại đến thân thể, xúc phạm đến danh dự,

nhân phẩm của người học, đồng nghiệp và những người khác. Không làm ảnh

hưởng đến công việc, sinh hoạt của người học, đồng nghiệp và người”khác.

+“Không được uống rượu, bia, hút thuốc lá, trong khu vực công sở,

trong trường học và những nơi không được phép hoặc khi thi hành nhiệm vụ

giảng dạy và tham gia các hoạt động giáo dục của nhà trường.”

+“Không được sử dụng bục giảng làm nơi tuyên truyền, phổ biến những

nội dung trái với những quan điểm, chủ trương, đường lối và chính sách của

Đảng và Nhà nước.”

+“Không trốn tránh trách nhiệm, trốn tránh nhiệm vụ, tự ý bỏ việc;

không được đi muộn về sớm, bỏ giờ, bỏ tiết dạy, cắt xén, dồn ép chương

trình, vi phạm những quy chế về chuyên môn làm ảnh hưởng đến kỉ cương,

nội quy, nề nếp của nhà trường.”

+ Không được sử dụng điện thoại di động và làm việc riêng trong các

cuộc họp, trong khi lên lớp, học tập, coi thi, chấm thi.

+“Không được thiếu trung thực, gian lận trong học tập, nghiên cứu khoa

học và thực hiện những nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục.”

+“Không tổ chức, tham gia những hoạt động liên quan đến tệ nạn xã hội

như: cờ bạc, ma túy, mại dâm, mê tín, dị đoan; không sử dụng, lưu giữ, truyền

bá những văn hoá phẩm đồi truỵ, độc hại.”

12

Tóm lại, có thể hiểu đạo đức người thầy là hệ thống những quy tắc,

chuẩn mực“về phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp, lối sống, tác phong của nhà

giáo”nhằm giúp người thầy giáo điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp

với nghề giáo, với lợi ích của cộng đồng, xã hội.

1.1.3. Khái niệm “Bồi dưỡng đạo đức người thầy”

Theo định nghĩa trong“từ điển Tiếng Việt: Bồi dưỡng là làm tăng thêm

năng lực hoặc phẩm chất.”

“Theo các tài liệu của UNESCO, bồi dưỡng được định nghĩa như sau: Bồi

dưỡng là một quá trình bổ sung, cập nhật thêm kiến thức, kĩ năng, thái độ để

nhằm nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất của người lao động về một lĩnh

vực hoạt động mà trong đó người học đã có một năng lực chuyên môn nhất

định qua một hình thức đào tạo nào đó”từ trước.

Do đó, chủ thể của quá trình bồi dưỡng đã được có hoặc đã được đào tạo

chuyên môn từ trước; thực chất“của quá trình đào tạo đó là quá trình trang bị,

cập nhật, nâng cao kiến thức, kĩ năng, truyền đạt thêm, bổ túc thêm một lượng

kiến thức nhất định cho một đối tượng học tập cụ thể nhưng trong quá trình

truyền đạt này phải là một quy trình khép kín cùng với những chuẩn mực và

những pháp cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định;”và mục đích của

quá trình bồi dưỡng là nâng cao phẩm chất hoặc năng lực chuyên môn để

người học có cơ hội củng cố, trang bị, nâng cao những phẩm chất, những kĩ

năng hoặc những tri thức đã có sẵn để giúp công việc đạt hiểu quả tốt hơn.

Như vậy,“bồi dưỡng đạo đức người thầy là một quá trình trang bị, làm

tăng thêm những phẩm chất đạo đức của người thầy về phẩm chất chính trị;

về đạo đức nghề nghiệp; về lối sống, tác phong; về việc giữ gìn, bảo vệ truyền

thống đạo đức nhà giáo cho đối tượng học tập cụ thể (ở đây là sinh viên sư

phạm) để nhằm mục đích nâng cao những phẩm chất đạo đức của người thầy

13

để người học có những phẩm chất đầy đủ, toàn diện để đáp ứng được công

việc sau này của”mình.

Vì vậy, người thầy cần phải quan tâm, chú trọng thường xuyên bồi

dưỡng những phẩm chất đạo đức đáng quý của nhà giáo, thậm chí đó là việc

cần phải bồi dưỡng suốt đời.

1.2. Nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đạo đức ngƣời thầy

1.2.1. Các chuẩn mực đạo đức của người thầy

1.2.1.1. Phục vụ Tổ quốc gắn liền với phục vụ nhân dân

Trong cuộc sống hàng ngày, con người bao gồm có nhiều mối quan hệ,

nhưng quan hệ với Tổ quốc, quan hệ với nhân dân là rõ nhất, bao trùm nhất,

mà Tổ quốc là của nhân dân, do nhân dân lao động làm chủ dưới sự lãnh đạo

của Đảng. Vì vậy phẩm chất đạo đức của người thầy là phục vụ Tổ quốc gắn

liền với phục vụ nhân dân là quan trọng nhất.

Trong buổi nói chuyện với thầy cô giáo lớp nghiên cứu chính trị khóa 1,

trường Đại học Nhân dân, Người căn dặn: “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ

quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc của nhân dân tức là

không phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục

tùng chân lý” [14, tr. 378]. Giải thích về tính thiện cho các thầy giáo, cô giáo,

Người nói: “Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ lợi ích

của nhân dân” [14, tr. 453].

Thứ nhất, theo quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức người thầy, phục

vụ Tổ quốc của người thầy gồm có những nội dung cơ bản sau:

Người thầy giáo phải đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết.

Trong Hội nghị cán bộ Đảng ngành giáo dục (tháng 6-1957), Chủ tịch Hồ Chí

Minh nói: “Phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Mà lợi ích của Đảng không

có gì riêng tức là lợi ích của giai cấp, của dân tộc” [14, tr. 594].

Trong bất kỳ tình huống nào, người thầy cũng phải thực hiện tốt những

đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước đưa ra là đào tạo con em của nhân

14

dân thành những người công dân có ích cho Tổ quốc, đưa nền giáo dục của

nước nhà đạt đến trình độ tiên tiến của thời đại, đồng thời giải quyết tốt được

những vấn đề thực tiễn của Việt Nam.

Người thầy giáo phải“gương mẫu thực hiện tốt những chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước,”Bác nói: “Các cô, các chú đều là cán bộ, thì phải

thi hành chính sách của Đảng và Chính phủ để phục vụ nhân dân” [16, tr. 267].

Thứ hai, theo“quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức người thầy, phục

vụ nhân dân của người thầy gồm có những nội dung cơ bản”sau:

“Kính trọng nhân dân, tin vào sức mạnh của nhân dân. Theo quan niệm

đạo đức cũ coi người dân phụ thuộc vào giai cấp cầm quyền thì theo Chủ tịch

Hồ Chí Minh người dân được đặt ở vị trí quan trọng nhất. Trong lớp nghiên

cứu chính trị khóa 2, Trường Đại học Nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh”giải

thích: “Nhân nghĩa là nhân dân. Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân

dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”

[14, tr. 453].

Người thầy giáo phải học hỏi nhân dân, tin ở sức mạnh nhân dân, để đi

đến phục vụ lợi ích của nhân dân. Theo Bác Hồ, được“phục vụ nhân dân là lẽ

sống cao đẹp của người thầy giáo. Nhiệm vụ của thầy là xóa nạn mù chữ,

nâng cao dân trí, thực hiện giải phóng con người, phát triển con người toàn

diện về thể chất và tinh thần, gắn liền lí luận với thực tiễn, đem”những tri

thức của trường học áp dụng vào thực tiễn, làm phát triển kinh tế, xã hội

nhằm mục đích nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân.

Người thầy giáo phải học hỏi ở“nhân dân. Quần chúng nhân dân là

những người làm nên lịch sử, là những người làm ra của cải vật chất và sáng

tạo ra giá trị tinh”thần; còn “Về cách dạy thì quần chúng công nhân, nông

dân, trí thức có nhiều kinh nghiệm” [16, tr.269], thầy giáo, cô giáo phải học ở

quần chúng nhân dân, “Không học nhân dân là một thiếu sót lớn” [10, tr.356].

15

1.2.1.2. Phải có phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư

Theo Hồ Chí Minh,“người cách mạng nói chung, người thầy giáo nói

riêng đều cần có phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đây là các

phẩm chất mà người thầy không thể không có. Biểu hiện của các phẩm chất

đạo đức này là”dù khó khăn, gian khổ thế nào cũng cần thi đua dạy tốt. Sự

nghiệp trồng người, nghiên cứu hoa học không hề dễ dàng, mà nó là con

đường rất chông gai. Do đó, vừa phải có quyết tâm, vừa phải biết tổ chức, có

phương pháp làm việc khoa học, đặt ra những kế hoạch rõ ràng để thực hiện

mục tiêu và hoàn thành nhiệm vụ khó khăn. Người thầy giáo phải là tấm

gương sáng về việc rèn luyện những phẩm chất đạo đức trên, từ đó có thể giáo

dục được học sinh và giúp họ noi theo, học tập theo.

Cần, tức là làm việc chăm chỉ, siêng năng, cần cù, cố gắng, dẻo dai; làm

việc với tinh thần không lười biếng, ỷ lại,“phải tự lực cánh sinh. Theo nghĩa

khác, cần là làm việc một cách sáng tạo, có kế hoạch, thông minh và khoa

học. Người cho rằng, người nào mà có đức cần thì dù làm việc gì, dù có khó

khăn đến đâu cũng”sẽ hoàn thành. Người lưu ý, ngược lại của đức Cần là thụ

động, lười biếng, ỷ lại. Vì vậy, người thầy phải chăm chỉ, tận tụy với công

việc, có ý chí vươn lên vượt khó, phấn đấu không ngừng, tư duy sáng tạo, làm

việc có kế hoạch cụ thể, thường xuyên rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên

môn cũng như tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của bản thân; tránh lười biếng, ỷ

lại, thụ động.

Kiệm, tức là tiết kiệm tiền bạc, thời gian, công sức của bản thân, của

nhân dân, của đất nước. Không sử dụng hoang phí, xa xỉ, phô trương hình

thức. Phải tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái lớn. Người giải thích: tiết kiệm đúng

lúc, đúng chỗ chứ không phải là keo kiệt, bủn xỉn. Những việc gì có lợi, đáng

tiêu thì vẫn phải tiêu; còn những việc gì không có lợi, không đáng tiêu“thì

một xu cũng không nên tiêu. Trong cuộc sống hàng ngày, người”thầy phải

16

luôn thực hành tiết kiệm, tiết kiệm thời gian, sức lao động, của công của nhà

trường, lên án chống lại việc xa hoa lãng phí, lợi dụng của công để tư lợi cho

bản thân mình, tham ô, tham nhũng.

Liêm, nghĩa là không tham tiền tài, địa vị. Không tham người tâng bốc

mình, không tham sung sướng. Giữ cho bản thân trong sạch, giữ gìn của công.

Phải ham học hỏi, ham làm và ham tiến bộ. Thực hiện được đức liêm này thì

bản thân sẽ quang minh chính đại, không lạc hậu, thụt lùi, hủ hóa. Người thầy

rất cần có chữ “liêm”, cần giữ được sự trong sạch trong sự nghiệp của mình,

không tham ô, ăn cắp lợi dụng của công của nhà trường. Phải luôn công tư

phân minh giữa việc riêng và việc chung, trong việc đánh giá năng lực, kết

quả của người học.

Chính,“nghĩa là không tà, nghĩa là đúng đắn, thẳng thắn. Điều gì không

đúng đắn, thẳng thắn, tức là tà. Làm việc chính là người thiện. Làm việc tà là

người ác. Con người cần, kiệm, liêm chưa đủ mà cần phải có chính thì con

người mới hoàn toàn văn minh, tiến bộ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người

thầy cần thực hiện “chính” trong ba mặt: đối với mình, chính có nghĩa là luôn

học tập, không tự cao tự đại, cầu tiến bộ, rèn luyện, phát triển những ưu điểm

và tự phê bình, sửa chữa những khuyết điểm của bản thân; đối với mọi người,

chính có nghĩa là yêu thương, quý trọng, tôn trọng, không nịnh hót, không

xem thường người khác; đối với công việc, cần để việc giảng dạy lên trước

việc nhà, việc dù to hay nhỏ đều phải cố gắng hết sức đề hoàn thành, việc

thiện cho dù nhỏ mấy cũng cần phải làm, việc ác dù nhỏ mấy cũng nên”tránh.

Chí công vô tư, là ham làm những việc ích quốc, lợi dân, không màng

công danh, không ham địa vị, vinh hoa phú quý. Chí công vô tư còn là việc

không thiên vị, công tâm trong công việc và trong việc đối xử với người khác,

giải quyết công việc theo lẽ phải, luôn đứng về phía lẽ phải, không làm việc gì

sai trái, có lỗi với ai, chống lại những bất công trong xã hội, phải xuất phát từ

17

lợi ích chung, đặt lợi ích chung lên trước những lợi ích riêng của cá nhân.

Người thầy cần phải công bằng trong việc giảng dạy, không được lợi dụng

chức vị, quyền hạn để làm những hành vi trái pháp luật, không chèn ép, có

thái độ thiên vị, trù dập, phân biệt đối xử đối với người học, không bao che

những hành vi sai trái trong hoạt động giáo dục, học tập của đồng nghiệp và

học sinh.

1.2.1.3. Tình yêu thương học trò, yêu nghề

Phẩm chất đạo đức thương yêu học trò và yêu nghề có mối quan hệ qua

lại, gắn bó với nhau và tương trợ lẫn nhau đối với người thầy giáo. Thương

yêu học trò sẽ dẫn đến yêu nghề và ngược lại, yêu nghề bao nhiêu thì yêu

người bấy nhiêu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, người thầy cần phải quan tâm, chăm sóc học sinh

của mình nhưng thể hiện với từng độ tuổi và bậc học phải có những cách phù

hợp. Tại cấp mẫu giáo và tiểu học, người thầy cần đối xử với học trò của

mình như tình cảm của cha mẹ đối với người con. Người căn dặn: ở mẫu giáo

tức là thay cha mẹ dạy dỗ con em họ. Muốn làm được như vậy thì đầu tiên

phải có tình yêu trẻ, hoặc “Phải thương yêu các cháu như con em ruột thịt của

mình” [13, tr. 499]. Ở cấp đại học và trung học chuyên nghiệp chính là nơi

giáo dục, đào tạo các cán bộ khoa học - kỹ thuật, cán bộ có trình độ chuyên

môn cao cho đất nước thì tình thương của thầy đối với trò được xây dựng trên

những nguyên tắc dân chủ, kỷ cương và trách nhiệm để phát huy tính tự chủ,

sáng tạo của người học. Người nói: “Thầy và trò cùng thảo luận, ai có ý kiến

gì thì thật thà phát biểu. Điều gì chưa hiểu thông suốt thì hỏi, bàn cho thông

suốt. Dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải là

cá đối bằng đầu” [13, tr. 266]. Đó là một mối quan hệ tốt đẹp của người thầy

và học trò của mình trong một xã hội công bằng, dân chủ, có sự kế tục và phát

huy các giá trị đạo lý tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam.

18

Gắn liền với phẩm chất đạo đức“yêu thương học trò chính là phẩm chất

yêu nghề của người thầy giáo. Đây là phẩm chất cần thiết của người”thầy, bởi

vì: “Không có công tác gì vẻ vang bằng việc chăm nom, bồi dưỡng cho các

cháu là những người chủ tương lai của nước nhà” [13, tr. 499].

Phẩm chất yêu nghề của người thầy đầu tiên là sự gắn bó, tận tâm với

nghề giáo trong bất kì tình huống nào. Nghề giáo là một nghề cao quý trong

những nghề cao quý nhưng lao động khó nhọc, đòi hỏi phải đầu tư nhiều cả

về thời gian và về công sức nhưng là một nghề không có thu nhập cao như

những nghề khác. Nên nếu không tha thiết kiên trì yêu nghề thì sẽ khó có thể

làm nghề lâu dài được trong những hoàn cảnh khó khăn. Người thường căn

dặn: “Nên yên tâm công tác không nên đứng núi này trông núi nọ, muốn thay

đổi công tác, kèn cựa vì địa vị” [13, tr. 499]. Vì vậy, trước những hoàn cảnh

khó khăn, người thầy phải có quyết tâm, có ý chí, có tinh thần sẵn sàng hy

sinh gian khổ mới vượt qua được và hoàn thành tốt được nhiệm vụ được giao.

1.2.1.4. Tinh thần đoàn kết

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh sức mạnh của khối đại đoàn kết

dân tộc là nhân tố quyết định đến sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam:

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.

Trong ngành sư phạm, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rất rõ tầm quan trọng của

việc đoàn kết, đoàn kết giữa các thầy cô, giữa thầy cô và học sinh, giữa học

sinh và học sinh ở trong nhà trường. Đoàn kết sẽ giúp mọi người gần gũi, thân

thiết,“tạo ra một bầu không khí thoải mái, làm kích thích được sự khám phá,

sáng tạo trong quá trình giáo dục và nghiên cứu; cùng với đó tinh thần đoàn

kết sẽ tạo ra môi trường thi đua lành mạnh, khơi dậy được những năng lực

tiềm ẩn của bản thân và tạo nên sức mạnh của cộng đồng, từ đó ra sức làm

việc và cống hiến cho sự nghiệp giáo dục. Bởi vậy, Người luôn nhắc nhở

người thầy giáo cần có tinh thần đoàn kết trong tập thể, đây là phẩm chất

Người coi là quan trọng”trong những phẩm chất đạo đức của người thầy.

19

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tinh thần đoàn kết của người thầy bao gồm

tất cả các mối quan hệ xã hội của người thầy, trước hết là mối quan hệ giữa

đồng nghiệp với đồng nghiệp, giữa thầy với học sinh, giữa thế hệ trước và thế

hệ sau, giữa cán bộ giảng dạy và cán bộ phục vụ, giữa thầy giáo và các cấp

chính quyền, nhân dân địa phương. Trong những mối quan hệ đó, Hồ Chí

Minh yêu cầu những cán bộ lãnh đạo và đảng viên trong ngành giáo dục phải

gương mẫu đoàn kết và xem đây là hạt nhân của khối đại đoàn kết trong giáo

dục. Theo Người, tinh thần đoàn kết của người thầy được thể hiện qua việc

trao đổi về chuyên môn, kinh nghiệm giảng dạy, phối hợp trong quản lí, giáo

dục học trò, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống hàng ngày. Tinh thần đoàn kết

của người thầy giáo cần dựa vào những cơ sở sau:

- Các thầy cô giáo đoàn kết vì mục tiêu chung, vì sự nghiệp giáo dục của

nhà trường và của cả nước.

- Phải mạnh dạn tự phê bình và thật thà phê bình. Theo Chủ tịch Hồ Chí

Minh, mỗi giáo viên phải tự đánh giá bản thân mình từ đó xem xét mình có

những ưu điểm và khuyết điểm nào, rồi tự sửa chữa để hoàn thiện bản thân

mình. Tự phê bình là một việc phải thực hiện nhiều lần, thực hiện thường

xuyên và bắt nguồn từ ý muốn hoàn thiện bản thân mình. Phải nghiêm túc,

đánh giá công bằng và khách quan trong việc tự phê bình và phê bình, không

được lợi dụng khuyết điểm của nhau để xuyên tạc, đả phá, công kích nhau,

không được bao che, che giấu khuyết điểm của nhau, không nể nang “Dĩ hòa

vi quý” mà phải xem xét,“đánh giá một cách thật thà, trung thực đối với mình

và đối với người. Tự phê bình và phê bình phải “khéo và tinh tế”, phải có tình

đồng chí, đồng”nghiệp. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra một quan

điểm về văn hóa tự phê bình và phê bình trong xây dựng đoàn kết.

- Đoàn kết phải thực sự, chân thành “Thực sự trăm phần trăm, chứ

không phải chỉ là đoàn kết miệng” [18, tr. 402] và “Đoàn kết giúp đỡ nhau

cùng tiến bộ”.

20

1.2.2. Nguyên tắc rèn luyện đạo đức của người thầy

Một là,“nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức.”

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: nói đi đôi với làm, nêu

gương về đạo đức là nguyên tắc có tầm quan trọng nhất trong việc xây dựng

nền đạo đức mới. Trong mỗi người, đặc biệt là với người thầy giáo phải nhất

quán trong lời nói và hành động, tránh việc “nói một đằng, làm một nẻo” thì

mới đem lại hiệu quả trong mọi công việc.

Người cũng đã đề cao tầm quan trong của việc nêu gương, Người nói:

“Một tấm gương sống có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” [5,

tr. 263], để tạo được niềm tin cho mọi người thì biện pháp hiệu quả nhất đó là

những sự thật, việc làm cụ thể trong cuộc sống hàng ngày; từ đó mọi người

noi gương làm theo. Người thầy chính là những tấm gương sáng đối với học

sinh, nêu gương từ nhỏ nhất đến những việc lớn lao, thể hiện thường xuyên

trong mọi mặt. Trước hết,“Người thầy phải thực hiện gương mẫu những điều

mình dạy học sinhNgười thầy dạy học trò của mình về phụng sự Tổ quốc,

phục vụ nhân dân, thương yêu lẫn nhau, tinh thần đoàn kết, cần, kiệm, liêm,

chính, chí công vô tư”thì trước hết người thầy phải thực hiện đúng và thậm

chí phải cố gắng trở thành tấm gương trong những lĩnh vực đó. Hồ Chí Minh

đã nói: “Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức. Ví như bảo học

sinh phải dậy sớm mà giáo viên thì trưa mới dậy. Cho nên thầy cô giáo phải

gương mẫu” [16, tr. 270]. Người thầy muốn hoàn thiện bản thân mình thì

trước hết phải có ý thức trong việc nêu gương.

Mỗi thế hệ đều có bổn phận của mình trong việc giáo dục, nêu gương

nhưng những thế hệ đi trước có bổn phân to lớn và quan trọng hơn so với thế

hệ sau là giáo dục và bồi dưỡng về đạo đức, kiến thức, kinh nghiệm do đó

những tấm gương của các thế hệ đi trước đối với các thế hệ sau có vai trò rất

quan trọng. Người thầy với tư cách là thế hệ đi trước phải là những tấm

gương sáng về đạo đức để những người sau học tập và làm theo.

21

“Nêu gương người tốt, việc tốt cũng là một cách để giáo dục đạo đức.

Nêu gương người tốt, việc tốt không chỉ là các bậc vĩ nhân, quân tử, những

người quản lí xã hội mà là nêu gương những người đã có việc làm tốt, hành

động đẹp thể hiện những giá trị đạo đức tốt đẹp của xã hội. Trong xã hội, mọi

người đều có thể trở thành tấm gương về đạo đức, đồng thời mọi người”cũng

cần phải noi gương người khác. Hồ Chí Minh đã biểu dương một thầy giáo trẻ

đã xung phong lên vùng cao để công tác, cùng ăn, cùng ở, cùng lao động với

đồng bào nhân dân, xây dựng trường, lớp, đưa văn hóa lên vùng cao; biểu

dương thầy giáo cõng cháu bé bị liệt đến trường học hàng ngày; biểu dương

những thầy cô giáo có lòng yêu nghề, nghị lực, sáng tạo, vượt qua những khó

khăn để vươn lên nâng cao phương pháp và chuyên môn. Những việc làm

giản dị đó chính là những tấm gương người tốt, việc tốt; những điều đó có ý

nghĩa quan trọng về xây dựng đạo đức trong ngành giáo dục.

Hai là, chống chủ nghĩa cá nhân, gắn liền với việc xây dựng ý thức

làm chủ.

Sinh thời,“Hồ Chí Minh đã rất kiên quyết thực hiện những biện páp

chống chủ nghĩa cá nhân vì Người cho rằng chính chủ nghĩa cá nhân là

mầm mống sinh ra hàng trăm các bệnh nguy hiểm khác như: mệnh lệnh,

quan liêu, tham nhũng, bè phái,....những căn bệnh này làm ảnh hưởng xấu

đến công cuộc xây dựng và bảo vệ xã hội chủ”nghĩa. Do đó, phải quyết liệt

trong việc ngăn chặn, đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân. Ngoài ra, Người còn

khẳng định, phải luôn gắn liền xây với chống: xây nghĩa là việc nâng cao

đạo đức cách mạng, còn chống nghĩa là đẩy lùi, ngăn chặn, quét sạch chủ

nghĩa cá nhân.

Theo Người, chủ nghĩa cá nhân trong môi trường sư phạm được thể hiện

ở những căn bệnh như: “Chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không lo cho lợi

ích chung của nước nhà, của dân tộc...tự đại, tự kiêu, tự lợi” [14, tr. 454], coi

22

khinh lao động chân tay, khinh người lao động chân tay. Sợ gian khổ, khó

nhọc, lợi mình hại người, tự do, vô tổ chức, vô kỷ luật, mất đoàn kết, ưa thành

tích. Những tính xấu này là kẻ thù nguy hiểm của nền giáo dục xã hội chủ

nghĩa, do đó phải: “Đấu tranh tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân”. Trong ngành giáo

dục muốn chống chủ nghĩa cá nhân, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đầu tiên phải

cải tạo tư tưởng, “Làm cho những người trí thức chúng ta trở thành những trí

thức của giai cấp công nhân, hết lòng, hết sức phục vụ giai cấp công nông,

góp phần xứng đáng và vẻ vang vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa”

[15, tr. 243]. Muốn cải tạo được tư tưởng,“chống lại chủ nghĩa cá nhân phải

có quyết tâm cao, hiểu rõ và nắm được nền tảng cơ bản là chủ nghĩa Mác-

Lênin và khi làm việc gì phải nghĩ đến đồng bào, đến nhân dân trước. Việc gì

khó thì nên làm trước, đi trước, khi hưởng thụ thì nên đi sau, làm việc gì cũng

nghĩ đến lợi ích chung trước lợi ích riêng sau.”

Việc chống chủ nghĩa cá nhân phải gắn liền với việc xây dựng ý thức

làm chủ theo tinh thần “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”, coi trường

học là nhà, phải chủ động lo toan gánh vác công việc chung. Mỗi thầy cô phải

tự có ý thức trách nhiệm, ý thức sâu sắc về việc bồi dưỡng đạo đức của mình,

coi đó là một việc “vẻ vang - hạnh phúc”. Chống chủ nghĩa cá nhân không

phải chống lại một lần là hết được, phải thường xuyên phê bình, tự phê bình

bản thân mình và đồng nghiệp của mình, phê bình từ cấp trên xuống và từ cấp

dưới lên, kiểm tra trong mọi việc. Muốn chống chủ nghĩa cá nhân, muốn khơi

dậy được đạo đức lành mạnh trong mỗi giáo viên đạt được hiệu quả thì phải

thực hiện những hoạt động rộng rãi trong ngành giáo dục.

Ba là, việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức phải thường xuyên, suốt đời.

Để nâng cao đạo đức của người thầy thì rèn luyện, tu dưỡng đạo đức là

một trong những biện pháp hữu hiệu nhất. Bác Hồ đã nói: “Đạo đức cách

mạng không phải trên trời rơi xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng

23

ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng

càng luyện càng trong” [9, tr. 255]. Theo Người, phải ra sức tu dưỡng, rèn

luyện thường xuyên thì mới hoàn thiện được bản thân, bản thân mới trở nên

tốt hơn được; từ đó mới có thể dạy dỗ được học sinh. Trong mỗi người đều có

những điểm tốt, điểm xấu, những mặt ưu điểm và hạn chế vì vậy việc quan

trọng là phải ra những mặt tốt, xấu đó của bản thân, nguyên nhân của nó từ đó

cần phải tu dưỡng, rèn luyện để giúp phát huy được những điểm tốt, những ưu

điểm; khắc phục những điểm xấu, những hạn chế của bản thân. Nếu không

thường xuyên tu dưỡng thì những mặt xấu trỗi dậy, biến chất thành vào chủ

nghĩa cá nhân. Vì vậy, Người căn dặn thầy giáo phải tu dưỡng, rèn luyện

phẩm chất đạo đức thường xuyên và suốt đời, không được chủ quan, tự mãn,

tự kiêu.

Việc tu dưỡng, rèn luyện“đạo đức như chuyện rửa mặt hàng ngày, đó là

công việc cần phải chăm chỉ, bền bỉ, kiên trì, thường xuyên, suốt đời, dựa trên

tinh thần tự nguyện, tự giác, dựa vào lương tâm và trách nhiệm của mỗi

người. Việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức phải được thực hiện đồng bộ trong

mọi khía cạnh, lĩnh vực của đời sống xã hội và trong mọi mối quan hệ xã hội

như đối với công việc, đồng nghiệp, bạn bè, anh em, học trò, phụ huynh, các

tổ chức, tập thể.... Chủ tịch Hồ Chí Minh” căn dặn: “Phải xây dựng quan hệ

thật tốt, đoàn kết chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò,....giữa cán bộ

các cấp, giữa nhà trường với nhân dân” [19, tr. 508]. Chỉ có việc rèn luyện

thường xuyên, liên tục thì người thầy mới đem lại được những phẩm chất đạo

đức cao đẹp cho những học sinh học tập và noi theo.

“Trên đây là ba nguyên tắc cơ bản để rèn luyện đạo đức của người thầy

cần có. Mỗi người thầy nếu quyết tâm làm theo lời Bác về những nguyên tắc

này thì sẽ hoàn toàn thực hiện tốt được. Vì những điều Bác dạy, không phải

chỉ có vĩ nhân hay lãnh tụ mới làm được mà mọi người”nói chung và người

24

thầy nói riêng đều thực hiện được nó, áp dụng nó vào trong cuộc sống, vào

trong công việc của mình.

Tiểu kết chương 1

“Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức của người thầy là một hệ thống

tư tưởng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đó là hệ thống tư tưởng về các chuẩn

mực đạo đức của người thầy và về các nguyên tắc xây dựng đạo đức của

người thầy. Cho đến nay, hệ thống tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức

người thầy vẫn”còn giữ nguyên giá trị và có ý nghĩa lớn đối với việc xây

dựng, bồi dưỡng đạo đức người thầy trong giai đoạn hiện nay.

25

Chƣơng 2

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC NGƢỜI THẦY

TRONG BỒI DƢỠNG ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 HIỆN NAY

2.1. Sự cần thiết phải bồi dƣỡng đạo đức ngƣời thầy cho sinh viên trƣờng

Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

Trong sự nghiệp đấu tranh giữ nước và dựng nước, Đảng và Nhà nước ta

luôn tôn vinh nghề dạy học và vai trò to lớn của người thầy giáo trong xã hội,

Hồ Chí Minh đã nói: “Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau

này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản?

Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang

nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương,

song những thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh” [18, tr. 402 - 403].

Trong giai đoạn hiện nay, người thầy giáo là những người giáo dục và đào tạo

học sinh – thế hệ tương lai của dân tộc, của đất nước; là lực lượng giữ vai trò

chủ đạo trong công tác giáo dục và đào tạo học sinh trong nhà trường.

“Hệ thống các trường sư phạm là nơi đào tạo ra những thế hệ thầy cô

tương lai, những người quyết định chất lượng của giáo dục và đào tạo trong

tương lai. Hiện nay, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 là một trường có bề

dày lịch sử về đào tạo giáo viên, cán bộ cho nước ta; với quy mô khoảng 600

cán bộ, viên chức và 10000 sinh viên. Ngày 14 tháng 8 năm 1967, trường Đại

học Sư phạm Hà Nội 2 được thành lập theo quyết định 128/CP của Hội đồng

Chính phủ. Hiện nay, trường có 1 bộ môn trực thuộc, 12 khoa, 15 phòng - ban

trực thuộc, 5 trung tâm. Trường đã vinh dự nhận được nhiều huân chương,

giải thưởng cao quý của nhà nước trao tặng, là một trường có tầm quan trọng

trong hệ thống trường đại học sư phạm ở nước ta hiện nay.”

Một số đặc điểm của sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2:

26

- Sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 có tư tưởng chính trị, lập

trường vững vàng, có ý thức tổ chức kỷ luật cao. Nhờ sự giáo dục, rèn luyện từ

trước kết hợp với những khóa học chính trị đầu năm của trường, sinh viên

trong trường đã hiểu được vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,

mục tiêu lý tưởng của Đảng và Nhà nước ta. Do đó, sinh viên đã có ý thức tin

tưởng, chấp hành đúng chính sách, chủ trương và đường lối của Đảng, pháp

luật của Nhà nước. Đồng thời, họ có những nhận thức cảnh giác chống lại âm

mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực xấu trong và ngoài nước.

- Đa số sinh viên trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đang ở trong

tuổi thanh niên, ở độ tuổi này, họ là những con người đang phát triển về tinh

thần và thể chất. Sinh viên thường khá nhanh nhạy trong việc tiếp thu các

thông tin mới; tuy nhiên trong giai đoạn này, những quan điểm về cuộc sống

của sinh viên đang được hình thành do chưa có sự trải nghiệm nhiều trong

cuộc sống, chưa xác định được lý tưởng, mục đích của cuộc sống nên nhận

thức và hành động còn chưa chín chắn, vững vàng nên còn hành động theo

bộc phát, theo bản năng, nhiều khi chưa làm chủ được bản thân. Điều này

khiến nhiều sinh viên dễ bị dao động, dễ bị những thế lực xấu lôi kéo, lợi

dụng vào những hoạt động không lành mạnh, lôi léo tham gia vào các tệ nạn

xã hội, điều này có tác động xấu đến sự phát triển của bản thân, của gia đình,

xã hội và đất nước.

- Phần lớn sinh viên trong trường có nguồn gốc từ nông dân, ở vùng

nông thôn, hạn chế về điều kiện kinh tế nhưng sinh viên đã không ngừng phấn

đấu vượt qua những khó khăn để vươn lên học tập và rèn luyện tốt. Mặc dù có

hoàn cảnh khó khăn phải tiết kiệm trong sinh hoạt và học tập, sinh viên đã có

những biện pháp khắc phục bằng cách ngoài giờ học, các bạn còn tranh thủ đi

làm thêm, dạy thêm để kiếm thêm tiền, cố gắng học tập tốt để giành học bổng,

những sự giúp đỡ từ phía nhà trường, điều này giúp cho sinh viên có ý thức

27

học tập, trau dồi kiến thức tốt hơn, rút ra được nhiều kinh nghiệm, kĩ năng

sống, đồng thời giúp bản thân rèn luyện những phẩm chất đạo đức của bản

thân. Tuy nhiên, một số sinh viên có hiện tượng rơi vào tình trạng học tập còn

tự do, tùy hứng, chưa có kế hoạch học tập cụ thể, rõ ràng nên chưa đạt được

hiệu quả cao học tập. Vì vậy để khắc phục nhược điểm này thì Nhà trường

cần quan tâm đến sinh viên về mọi mặt trong đời sống, nâng cao kiến thức, kĩ

năng cho sinh viên, đặc biệt là việc nâng cao đạo đức người thầy theo tấm

gương Hồ Chí Minh.

Yêu cầu của sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa:

Sự nghiệp đổi mới, Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước và quá

trình hội nhập quốc tế hiện nay đang đặt ra nhiều cơ hội đối với thanh niên

nước ta nói chung và sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 nói riêng.

Đó là việc đem lại hiệu quả to lớn về kinh tế và về mọi mặt của đời sống xã

hội giúp cho đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của sinh viên được

cải thiện; trình độ dân trí được nâng cao giúp cho sinh viên trở nên năng

động, linh hoạt, có tư duy nhạy bén hơn; quá trình toàn cầu hóa là đòn bẩy

quan trọng giúp cho sinh viên có cơ hội tiếp xúc gần và nhanh hơn với các giá

trị tiên tiến của nhân loại,..v...v. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội thì quá

trình này cũng đặt ra nhiều khó khăn với nhiều sinh viên có kiến thức, kĩ năng

kém, thiếu năng lực, lười biếng,... tác động xấu đến quá trình giáo dục và rèn

luyện đạo đức của sinh viên, dẫn đến những hiện tượng xấu như: ích kỉ, vô

đạo đức, chủ nghĩa cá nhân, ham danh, ham lợi ích; do quá trình hội nhập

nhưng chưa biết cách chọn lọc nên xuất hiện những luồng tư tưởng độc hại

ảnh hưởng đến sinh viên hiện nay làm cho sinh viên có lối sống vô cảm, chạy

theo phong trào, hiện tượng sống thử...

Vì vậy, để đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước, đáp ứng

được nhu cầu của thời đại, mỗi sinh viên sư phạm cần phải được giáo dục

28

trong một môi trường hiệu quả, hợp lý, trong đó cần đặc biệt quan tâm tới

khâu bồi dưỡng, nâng cao đạo đức người thầy cho sinh viên sư phạm ngày

nay. Như vậy, việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cho sinh viên một cách sâu

sắc, đầy đủ, và toàn diện hơn ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 là rất cần

thiết trong bối cảnh chịu sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học -

công nghệ, trước những yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội và trong bối

cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.

2.2. Thực trạng bồi dƣỡng đạo đức ngƣời thầy cho sinh viên trƣờng Đại học

Sƣ phạm Hà Nội 2 hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và nguyên nhân

2.2.1. Thực trạng bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh viên trường

Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Một là, việc bồi dưỡng các chuẩn mực đạo đức của người thầy

- Rèn luyện tinh thần phục vụ Tổ quốc, nhân dân

+ Hiện nay, phần lớn sinh viên trong trường có lòng yêu nước, tự hào

dân tộc, tin tưởng vào tương lai của đất nước, học tập và làm theo tấm gương

đạo đức Hồ Chí Minh. Sinh viên trong trường đã thể hiện tình yêu thương gia

đình, bạn bè và thầy cô và mọi người qua việc hăng hái tham gia những hành

động rất thiết thực như: những hoạt động Hiến máu nhân đạo, ủng hộ sinh

viên mắc bệnh hiểm nghèo, sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã đạt

được giải cao trong cuộc thi “Tuổi trẻ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh” lần thứ IV (năm 2018), nhiệt tình tham gia các hoạt

động của trường và địa phương.... Đặc biệt, ngày 15/3/2019, Đoàn trường Đại

học Sư phạm Hà Nội 2 đã dành 40.000.000đ trong quỹ quyên góp từ chương

trình “Mùa đông ấm” để xây dựng 1,5 km đường ống nước và hệ thống bể

chứa nước sạch tại Trường Tiểu học và Trung học cơ sở xã Ngổ Luông, cùng

ngày, đoàn tình nguyện cũng đã di chuyển tới trường Trung học phổ thông

Mường Bi (Tân Lạc, Hòa Bình) trao tặng 10 suất học bổng (mỗi suất 700 nghìn

29

đồng) cho các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn, vươn lên trong học tập. Đây

là những hoạt động, chương trình thực tế tôn vinh được truyền thống yêu

thương, đùm bọc lẫn nhau, giúp sinh viên trong trường càng thêm ý thức và

trách nhiệm để trở thành người giáo viên nhân dân tương lai, đem lại đạo đức

và tri thức lan tỏa đi mọi miền tổ quốc.

+ Tuy nhiên, cùng những ưu điểm trên vẫn còn một số sinh viên còn có ý

thức kém, vô cảm, thờ ơ với các hoạt động chính trị, xã hội, với những hoạt

động của trường, lớp. Họ sống khép mình, không quan tâm đến mọi người

xung quanh, sống không hòa nhập với tập thể, luôn tìm cách trốn tránh nhiệm

vụ chung, nếu có thực hiện thì cũng thực hiện qua loa cho có hình thức, chưa

quan tâm đúng mực hoặc chỉ tham gia khi có lợi cho bản, tham gia vì được

cộng điểm rèn luyện.

- Rèn luyện phẩm chất cần, kiêm, liêm, chính, chí công vô tư

+ Sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã và đang thực hiện tốt

những phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong lĩnh vực học tập

và các lĩnh vực khác trong đời sống hàng ngày. Đa số sinh viên trong trường

có tinh thần tự học, ham học hỏi, chăm chỉ học tập, lao động có kế hoạch;

đồng thời sinh viên luôn thực hành tiết kiệm, không sử dụng hoang phí bừa

bãi các nguồn tài nguyên như sử dụng hợp lí tài nguyên nước, khi ra khỏi

phòng có ý thức tắt hết các thiết bị điện, không phá hoại của công của nhà

trường, sống lành mạnh, trung thực, biết phân biệt công tư phân minh giữa

bạn bè và các mối quan hệ khác. Điển hình là bạn sinh viên Nguyễn Khánh

Vân Hạ (K43 khoa Toán) đã trả lại chiếc ví có 1.500 USD và giấy tờ cho

người làm mất vào ngày 16/3/2019, đây là một hành động đẹp và tử tế thể

hiện được phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong cuộc sống

ngày nay, điều này đáng được tuyên dương để mọi người biết đến, góp phần

lan tỏa những giá trị đẹp đẽ.

30

+ Nhưng, trong trường vẫn còn một số sinh viên còn có thái độ học tập

không đúng, vi phạm kỉ luật, thiếu trung thực trong cuộc sống hàng ngày, gian

lận trong thi cử, lười biếng trong học tập, không rèn luyện, học tập thường

xuyên, chưa tự giác, chủ động chiếm lĩnh tri thức mà thụ động, phụ thuộc nhiều

vào kiến thức của thầy dạy. Nhiều sinh viên còn lãng phí thời gian của mình

vào những thú vui vô bổ; học tập trên lớp chỉ mang tính chất đối phó với thầy

cô, nói chuyện trong lớp, không đầu tư thời gian vào việc tự học.

- Rèn luyện tinh thần đoàn kết

+ Đa số sinh viên trong trường có tinh thần tương thân tương ái, đoàn

kết, gắn bó với nhau, yêu thương, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ trong mọi lĩnh

vực. Các bạn sinh viên trong trường đã thể hiện tinh thần đoàn kết với nhau

thông qua việc trao đổi các kiến thức, kĩ năng, các kinh nghiệm trong cuộc

sống, đoàn kết với nhau trong các hoạt động của lớp, của trường. Từ đó, nhờ

có tinh thần đoàn kết mà sinh viên phát huy được khả năng của bản thân, sức

mạnh của tập thể, của cộng đồng. Cụ thể, trong trường hiện nay hình thành rất

nhiều câu lạc bộ tổ chức nhiều phong trào, chương trình quyên góp, ủng hộ

các bạn sinh viên, học sinh có hoàn cảnh khó khăn, làm tăng tinh thần đoàn

kết cũng như giúp sinh viên trong trường trang bị được nhiều kiến thức, kĩ

năng, phẩm chất đạo đức như: câu lạc bộ Tiếng Anh, câu lạc bộ Kĩ Năng

Mềm, câu lạc bộ Tình Nguyện Xanh, câu lạc bộ Nghiệp Vụ Sư Phạm, câu lạc

bộ Trái Tim Đỏ,... Các câu lạc bộ này đều có đông đảo các bạn sinh viên hăng

hái, nhiệt tình tham gia và ủng hộ.

+ Bên cạnh đó, vẫn còn một số hạn chế như trong trường, lớp vẫn xuất

hiện tình trạng chia bè kéo phái, nói xấu, chia rẽ tính đoàn kết giữa các bạn

sinh viên trong các lớp, các khoa của trường; tình trạng bao che, che giấu lỗi

lầm của nhau. Một số sinh viên vẫn còn thờ ơ với các hoạt động chính trị, văn

hóa, văn nghệ của trường, lớp, không đoàn kết với các bạn trong lớp chỉ lủi

31

thủi một mình, không quan tâm đến mọi người xung quanh, sống ích kỷ, thực

dụng chỉ quan tâm đến lợi ích của bản thân mình, đặt lợi ích của bản thân

mình lên trước hết.

Hai là, về việc nêu gương người tốt, việc tốt

+ Trong trường, các cán bộ, giảng viên đều là những tấm gương sáng

cho sinh viên học tập và noi gương theo, đặc biệt là những tấm gương về tự

học và nghiên cứu. Trong nhiều năm học, đã có nhiều gương người tốt, việc

tốt được tuyên dương như: trong năm học 2018 - 2019, trường Đại học Sư

phạm Hà Nội 2 có 15 giảng viên và 13 sinh viên được nhận giấy khen của

Hiệu trưởng khi đạt thành tích xuất sắc trong các kỳ thi Olympic học sinh,

sinh viên toàn quốc năm 2019; năm 2018, sinh viên Lê Hằng Nga, khoa Ngữ

Văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 vinh dự là một trong 88 thủ khoa

được thành Đoàn Hà Nội vinh danh tại Văn Miếu Quốc Tử Giám; tại Đại hội

thanh niên tiên tiến Thủ đô làm theo lời Bác diễn ra vào ngày 25/3/2019 và

ngày 26/3/2019, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã có 05 đoàn viên vinh

dự được thành Đoàn tuyên dương Trí thức trẻ tiêu biểu và 01 bí thư chi đoàn

giỏi; trong kỳ thi Olympic Toán học sinh viên và học sinh toàn quốc lần thứ

27 năm 2019, Đội tuyển Olympic Toán học trường Đại học Sư phạm Hà Nội

2 đã đạt 01 giải Nhất, 02 giải Nhì, 05 giải Ba....Việc nêu gương người tốt,

việc tốt trong những năm học của trường đã giúp cho những sinh viên học tập,

noi gương theo những tấm gương sáng trong trường, đồng thời đã góp phần

đưa trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 ngày càng phát triển.

+ Tuy nhiên, việc nêu gương người tốt, việc tốt còn một số hạn chế cần

phải khắc phục như: một số sinh viên còn thiếu sự tiên phong, gương mẫu

trong việc tu dưỡng đạo đức, chạy theo lối sống ích kỷ, sa vào chủ nghĩa cá

nhân, nói không đi đôi với làm, còn vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, việc

tuyên truyền, giáo dục cho sinh viên còn nặng về mặt hình thức, chưa đủ sức

32

thuyết phục, có tình trạng làm đúng, thể hiện gương người tốt, việc tốt nhưng

chưa được tuyên dương kịp thời.

Ba là, về việc phát huy tinh thần tự rèn luyện đạo đức người thầy cho

sinh viên

+ Hiện nay, nhà trường đã và đang quan tâm, chú trọng việc bồi dưỡng

đạo đức người thầy cho tất cả sinh viên thông qua các bộ môn khoa học, đặc

biệt là qua bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh - đây là bộ môn thể hiện hệ thống

tư tưởng của Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng về đạo đức. Thông qua đó,

giúp sinh viên hiểu được, nhận thức được những giá trị truyền thống tốt đẹp

của dân tộc ta, nhất là những chuẩn mực đạo đức của người thầy và tầm quan

trọng của nó. Từ đó, sinh viên có ý thức tự rèn luyện, bồi dưỡng đạo đức

người thầy để hoàn thiện bản thân mình.

+ Việc bồi dưỡng đạo đức qua các bộ môn khoa học chỉ có tác dụng,

hiệu quả khi sinh viên có ý thức cao về việc học tập tuy nhiên hiện nay, trong

trường vẫn còn một số bạn sinh viên do chưa xác định được mục tiêu học tập

đúng đắn, chưa có ý chí học tập, lười biếng trong việc học nên chưa hiểu

được, nhận thức được tầm quan trọng của việc học tập và tự rèn luyện đạo

đức người thầy. Từ đó, cho thấy việc phát huy tinh thần tự rèn luyện đạo đức

người thầy cho sinh viên chưa đạt được hiệu quả cao.

2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng bồi dưỡng đạo đức người thầy cho

sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay

2.2.2.1. Nguyên nhân của thành tựu

Thứ nhất, do sự phát triển của khoa học - công nghệ, quá trình toàn cầu

hóa tạo điều kiện thuận lợi giúp sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

tích cực, chủ động, tiếp thu được những cái tốt, cái hay, cái tiến bộ của các

nước khác trên thế giới. Thông qua các trang mạng xã hội sinh viên có thể kết

bạn làm quen với các sinh viên trường khác, đồng thời có thể học hỏi, tìm

33

kiếm được nhiều điều mới mẻ qua các trang thông tin hiện nay. Quá trình toàn

cầu hóa giúp cho sinh viên trong trường năng động, cởi mở hơn, tiếp thu được

những giá trị tốt đẹp đặc biệt là những giá trị đạo đức đồng thời nó cũng tạo ra

môi trường rèn luyện tư duy sáng tạo cho họ, giúp họ có cơ hội khẳng định

bản thân mình.

Thứ hai, do việc học tập, bồi dưỡng đạo đức người thầy theo tư tưởng

Hồ Chí Minh được nhà trường quan tâm, chú trọng thông qua các bộ môn

khoa học và các hoạt động cụ thể. Nhà trường đã tổ chức giảng dạy bộ môn tư

tưởng Hồ Chí Minh cho tất cả các ngành học trong trường, đây là môn học thể

hiện hệ thống tư tưởng của Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng về đạo đức,

điều này có vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng đạo đức người thầy cho

sinh viên. Bên cạnh đó, nhà trường đã phối hợp cùng Đoàn Thanh niên và Hội

Sinh viên tổ chức nhiều hoạt động nhằm mục đích giáo dục đạo đức cho sinh

viên như: chương trình học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,

đài sen dâng Bác, hiến máu nhân đạo, tiếp sức mùa thi,.v...v.

Thứ ba, do sự chủ động, sự tự nhận thức của sinh viên trường Đại học

Sư phạm Hà Nội 2. Sinh viên đã tự ý thức được trách nhiệm của bản thân đối

với gia đình và xã hội, thấy được tầm quan trọng của đạo đức nói chung và

đạo đức người thầy nói riêng đối với bản thân mình, từ đó sinh viên không

ngừng nỗ lực học tập, rèn luyện để hoàn thiện bản thân, gương mẫu trong việc

thực hiện các giá trị đạo đức mới bằng những việc làm, hành động cụ thể.

2.2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế

Thứ nhất, do các thế lực thù địch, phản động tìm mọi cách chống phá,

xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Chúng âm mưu thực hiện

“Diễn biến hòa bình” trên mọi phương diện của đời sống xã hội của thế hệ trẻ,

lợi dụng, lôi kéo một bộ phận sinh viên thiếu hiểu biết để thực hiện các hoạt

động kích động, gây rối trật tự, an toàn xã hội. Chúng dùng mọi thủ đoạn tung

34

những sách báo, thông tin giả mạo, văn hóa phẩm đồi trụy làm cho những

sinh viên thiếu hiểu biết bị lẫn lộn, hoang mang, không phân biệt được đúng

sai, từ đó chúng lại tìm cách mua chuộc, dụ dỗ, lôi kéo sinh viên vào tệ nạn xã

hội, vào những con đường sai trái, ăn chơi vô bổ.

Thứ hai, do đặc điểm tâm sinh lí, đặc điểm lứa tuổi nên nhận thức, hành

động của sinh viên còn thiếu suy nghĩ, nông nổi, bồng bột. Trước nhiều sự tác

động trong cuộc sống hiện nay, không phải sinh viên nào cũng đủ bản lĩnh, đủ

nhận thức để vượt qua những khó khăn, thử thách để vươn lên trong cuộc

sống. Nhiều sinh viên chưa đủ bản lĩnh chính trị, chưa làm chủ được bản thân

mình, còn hoang mang chưa xác định được lý tưởng sống nên còn đang mơ

hồ, lười biếng, suy thoái về mặt đạo đức.

Thứ ba, do xu hướng hội nhập toàn cầu, theo nền kinh tế thị trường đem

lại nhiều mặt hạn chế, tiêu cực ảnh hưởng đến thế hệ trẻ hiện nay. Cùng với

những giá trị tốt đẹp thì cũng xuất hiện không ít những tệ nạn xã hội, luồng tư

tưởng độc hại xâm nhập vào nước ta, làm thay đổi những giá trị truyền thống

tốt đẹp đã có từ trước. Điều này làm cho một bộ phận sinh viên chưa biết cách

chọn lọc những giá trị phù hợp với bản thân, xã hội có lối sống thực dụng, vô

cảm, vô đạo đức, chạy theo phong trào.

2.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bồi dƣỡng đạo đức ngƣời thầy

cho sinh viên trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 hiện nay theo tƣ tƣởng

Hồ Chí Minh

2.3.1. Nâng cao nhận thức của sinh viên trong toàn trường về rèn luyện

đạo đức của người thầy

Thứ nhất, giáo dục đạo đức người thầy cho sinh viên thông qua hoạt

động học tập và nghiên cứu các bộ môn khoa học, đặc biệt là bộ môn khoa

học tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là bộ môn trang bị cho sinh viên đầy đủ và

toàn bộ tư tưởng của Hồ Chí Minh, đặc biệt là những giá trị đạo đức tốt đẹp

35

theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Do đó, để giáo dục đạo đức người thầy cho sinh

viên cần triển khai đổi mới phương pháp giáo dục bộ môn này bằng cách kết

hợp những phương pháp dạy học truyền thống với những phương pháp dạy

học hiện đại, tránh sự áp đặt, giáo dục một chiều để quá trình giáo dục đạt

hiệu quả hơn. Nhà trường cần bổ sung những điều kiện chuyên môn, cơ sở vật

chất phục vụ cho quá trình dạy và học để đáp ứng yêu cầu học của sinh viên.

Thứ hai, phát huy vai trò tích cực của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên

của trường giúp sinh viên nâng cao nhận thức về rèn luyện đạo đức người

thầy. Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên của trường cần tổ chức các hoạt động,

các cuộc thi học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tổ chức đi

tham quan các khu di tích, các địa danh lịch sử...Các hoạt động phải phong

phú, đa dạng, hấp dẫn, thiết thực, chú trọng về cả hình thức và nội dung giáo

dục, tuyên truyền để thu hút đông đảo sinh viên tham gia. Đây là những hoạt

động bổ ích giúp sinh viên có thể vừa giải trí, vừa tiếp thu được những giá trị

đạo đức truyền thống của dân tộc, từ đó tạo nền tảng, cơ sở để sinh viên nâng

cao nhận thức về rèn luyện đạo đức người thầy.

Thứ ba, nhà trường cần đẩy mạnh tổ chức các hội thảo, hội nghị học tập,

diễn đàn mang tính chất chuyên môn nhằm tuyên truyền, giáo dục đạo đức

cho sinh viên. Việc tổ chức các hoạt động này phải chú ý đến đặc điểm tâm

sinh lý lứa tuổi sinh viên, những hiện tượng tiêu cực về đạo đức hiện nay từ

đó đưa ra những định hướng cụ thể giúp sinh viên phát huy những mặt tích

cực và đấu tranh chống lại những mặt tiêu cực về đạo đức. Tránh việc tổ chức

hoạt động chỉ chú trọng bề nổi mà không quan tâm đến bề sâu, hời hợt, lý

thuyết khô cứng theo kiểu tổ chức lấy vui là chính.

2.3.2. Thực hành nêu gương đạo đức cho sinh viên trong toàn trường

Thứ nhất, nêu gương người tốt, việc tốt trong chính đội ngũ sinh viên.

Nhà trường cần thực hiện mở rộng tuyên duơng đúng lúc, kịp thời trên các

36

trang thông tin điện tử của trường các tấm gương người tốt, việc tốt trong đội

ngũ sinh viên như: sinh viên sống hiếu thảo với ông bà, cha mẹ; sinh viên có

lối sống lành mạnh; sinh viên có hành động đẹp; sinh viên đạt kết quả cao

trong học tập... đó chính là những tấm gương người thật, việc thật tuy giản dị

mà rất gần gũi với sinh viên giúp sinh viên có thể tiếp thu, học tập, noi theo

một cách hiệu quả. Ngoài ra, cần đưa ra các chế độ khen thưởng, thi đua để

sinh viên trong trường noi gương các bạn, cố gắng học tập, rèn luyện để được

khen thưởng, tạo nên phong trào thi đua trong trường.

Thứ hai, nêu gương người tốt, việc tốt của mọi người, đặc biệt là sự

gương mẫu của cha mẹ, thầy cô. Việc nêu gương người tốt, việc tốt của mọi

người sẽ góp phần xây dựng một môi trường xã hội lành mạnh, tiến bộ, văn

minh tạo điều kiện thuận lợi giúp sinh viên rèn luyện những phẩm chất đạo

đức của mình. Những người trực tiếp ảnh hưởng đến quá trình giáo dục của

sinh viên chính là ông bà, cha mẹ và thầy cô. Bố mẹ mà bất hiếu với ông bà

thì không thể dạy bảo được con cái hiếu thuận với mình; sống ích kỉ, không

đúng mực thì thầy cô không thể dạy sinh viên sống lành mạnh, sống vì mọi

người. Chính vì vậy, ông bà, cha mẹ và thầy cô phải là những tấm gương sáng

về đạo đức cũng như về mọi mặt trong cuộc sống thì sinh viên mới có thể học

tập và noi theo trở thành một con người tốt, có ích cho xã hội.

Thứ ba, nêu gương các hình mẫu mẫu mực trong xã hội: những lãnh tụ,

những nhà khoa học, những nhà giáo tiêu biểu... Nhà trường kết hợp cùng xã

hội cần giới thiệu, tuyên truyền, nêu gương những lãnh tụ, nhà khoa học, nhà

giáo tiêu biểu....đã có những cống hiến to lớn đối với Tổ quốc, với nhân dân,

có lối sống văn hóa tốt đẹp để sinh viên noi theo, xây dựng hình mẫu lý

tưởng, động cơ phấn đấu, rèn luyện đúng đắn. Đặc biệt là tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh.

Thứ tư, bên cạnh việc nêu những tấm gương sáng, gương tốt để sinh viên

noi theo cần phải kết hợp với việc chỉ ra và phê phán những gương xấu,

37

gương mờ để sinh viên biết mà không mắc phải, tránh đi vào vết xe đổ của

họ. Đặc biệt, cần lên án, có những biện pháp ngăn chặn những biểu hiện suy

thoái về đạo đức, về lối sống của cán bộ, đảng viên để nhằm củng cố lòng tin

của sinh viên vào Đảng, vào Nhà nước, vào con đường Xã hội Chủ nghĩa.

Đồng thời, tổ chức cho sinh viên giao lưu với những người đã một thời lầm lỡ

nhưng đã biết ăn năn, hối cải, hoàn lương làm lại cuộc đời, có ý chí nghị lực

phấn đấu vươn lên để giúp sinh viên cảnh tỉnh, rút ra những bài học kinh

nghiệm thực tế cho chính bản thân mình.

2.3.3. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân trong sinh viên

Thứ nhất, thực hiện công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên.

Nhà trường cần giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên ngay từ khi bước

vào trường. Thực hiện tuần sinh hoạt công dân - học sinh sinh viên đầu năm

nhằm giáo dục, trang bị cho sinh viên các kiến thức về chủ trương, chính

sách, đường lối của Đảng và Nhà nước; cung cấp các thông tin về tình hình

chính trị xã hội trong nước và ngoài nước để sinh viên hiểu rõ và nắm bắt kịp

thời. Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng, tin yêu vào Đảng và Nhà

nước. Giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên trong trường thông qua các

bộ môn khoa học như những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,

pháp luật đại cương...nhằm giúp sinh viên hiểu rõ và nắm được nền tảng cơ

bản là chủ nghĩa Mác-Lênin, có hiểu biết đúng đắn về tình hình chính trị, chủ

trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước, từ đó tin tưởng vào sự dẫn dắt, lãnh

đạo của Đảng tránh bị các thế lực xấu lôi kéo, dụ dỗ.

Thứ hai, đẩy mạnh thực hiện phê bình và tự phê bình trong sinh viên.

Cần giúp cho sinh viên trong việc nhận thức đúng đắn việc phê bình và tự phê

bình là cần làm rõ những ưu, khuyết điểm, những vấn đề đã làm được và chưa

làm được, từ đó rút ra được những kinh nghiệm, nguyên nhân và phương

hướng giải quyết. Nhận thức được ý nghĩa của việc phê bình và tự phê bình là

38

nền tảng để giúp bản thân sinh viên ngày càng tiến bộ, tốt hơn, tập thể ngày

càng vững mạnh, mọi người cùng nhau rút ra những ưu điểm và khuyết điểm

của mình để cùng học tập, rèn luyện và phấn đấu. Việc phê bình và tự phê

bình của sinh viên phải được thực hiện thường xuyên trên cơ sở tinh thần xây

dựng, yêu thương, giúp đỡ nhau ngày càng tiến bộ, phát triển.

Thứ ba, tăng cường công tác quản lí, giám sát, kiểm tra sinh viên. Ban

Giám hiệu nhà trường, các Khoa, Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên cần phải

thu thập thông tin, quản lí hồ sơ, tư vấn cho sinh viên, thực hiện mối liên hệ

thường xuyên giữa nhà trường kết hợp với gia đình, với các đoàn thể xã hội

để quản lí, giám sát sinh viên trong trường. Đồng thời, cần đề ra cơ chế khen

thưởng động viên, khuyến khích kịp thời đối với những sinh viên có kết quả

học tập tốt và lối sống văn hóa; cần có những quy định để xử lí nghiêm minh,

kỉ luật những hành vi vi phạm đạo đức, vi phạm nội quy, vi phạm pháp luật,

chưa có ý thức phấn đấu học tập.

2.3.4. Nâng cao ý thức tự rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời trong

sinh viên

Thứ nhất, xây dựng môi trường học đường, xã hội lành mạnh nhằm tạo

điều kiện tốt cho sinh viên rèn luyện, tu dưỡng đạo đức thường xuyên. Môi

trường học đường, xã hội vừa là nơi sinh viên tiếp thu những giá trị đạo đức,

vừa là nơi sinh viên có thể rèn luyện, thể hiện các giá trị đạo đức. Vì vậy, cần

xây dựng môi trường học đường lành mạnh, có kỷ cương, công bằng, dân

chủ, xây dựng môi trường học đường lành mạnh thông qua các hoạt động

đoàn thể, hoạt động từ thiện, tình nguyện. Môi trường xã hội được coi là lành

mạnh khi có sự phát triển hài hòa, bền vững giữa kinh tế, chính trị, văn hóa và

đạo đức; sự phát triển kinh tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của

các lĩnh vực trong xã hội và ngược lại. Vì vậy, cần phải chú trọng việc xây

dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

39

Xây dựng môi trường xã hội tiến bộ, văn minh, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, phê

phán những hành vi lệch lạc, trái với đạo đức xã hội.

Thứ hai, nâng cao tính tự giác trong học tập, tự rèn luyện đạo đức của

sinh viên. Yếu tố gia đình, nhà trường và xã hội là yếu tố quan trọng trong

quá trình giáo dục sinh viên; tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất quyết định đến

quá trình giáo dục đó chính là bản thân sinh viên. Vì vậy, cần phải khích lệ,

động viên để nhằm phát huy ý thức giáo dục, tự tu dưỡng, rèn luyện của sinh

viên. Muốn tự giáo dục thành công, bản thân sinh viên phải có ý thức tự giác

cao, phải luôn biết tự phấn đấu vươn lên, có ý chí cao; phải biết biến những tri

thức, kiến thức đã học được ở nhà trường, gia đình và xã hội thành sự hiểu

biết bản thân, biểu hiện ở hành vi, thái độ đạo đức của chính bản thân mình;

đồng thời cũng phải tự biết xấu hổ với những thói hư, tật xấu của bản thân từ

đó kiên quyết đấu tranh và tìm cách khắc phục. Để tạo điều kiện thúc đẩy cho

việc tự giáo dục, rèn luyện đạo đức của sinh viên, Nhà trường cần đầu tư về

cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, các sân chơi, hoạt động bổ ích, các câu

lạc bộ....

Thứ ba, cần phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời, thường xuyên.

Bác Hồ đã nói: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời rơi xuống. Nó do

đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như

ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [9, tr. 255]. Qua đó, ta

có thể thấy rằng giáo dục đạo đức là một quá trình lâu dài, khó khăn và phức

tạp vì cái tốt giống như lúa phải vun trồng, chăm sóc qua một thời gian dài

khó nhọc thì mới có thể vươn lên tốt tươi được; còn cái xấu như cỏ dại không

cần tốn thời gian chăm sóc vẫn tự mọc tràn lan. Vì vậy, bản thân sinh viên cần

kiên trì, bền bỉ, tận tâm, tận lực, tiến hành tu dưỡng, rèn luyện đạo đức thường

xuyên, suốt đời, không được xem nhẹ xao nhãng. Nhà trường kết hợp với gia

đình và xã hội tạo mọi điều kiện thuận lợi để sinh viên thường xuyên rèn

40

luyện và tu dưỡng, giám sát, kiểm tra việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của

sinh viên.

Tiểu kết chương 2

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 là một trường có bề dày lịch sử về

đào tạo đội ngũ giáo viên, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ ở nước ta hiện nay.

Trong những năm gần đây, việc bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh viên

trong trường đã được quan tâm, chú trọng thực hiện và đạt được một số thành

tích. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được thì hiện nay vẫn còn

tồn tại một số hạn chế về mặt đạo đức của một bộ phận sinh viên. Vì vậy, để

khắc phục được những mặt hạn chế còn tồn tại, đòi hỏi phải thực hiện đồng

bộ các giải pháp: nâng cao nhận thức của sinh viên trong toàn trường về rèn

luyện đạo đức của người thầy; nêu gương về đạo đức cho sinh viên trong toàn

trường; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân trong sinh viên; nâng cao ý thức tự

rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời trong sinh viên. Việc thực hiện đồng bộ

các giải pháp này sẽ góp phần nâng cao đạo đức người thầy của sinh viên

trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.

41

KẾT LUẬN

1. Đạo đức chính là gốc để con người hoàn thiện nhân cách toàn diện,

tạo nên những con người có thể tiếp tục kế thừa và phát triển sự nghiệp xây

dựng và phát triển đất nước, đưa đất nước sánh vai cùng các cường quốc năm

châu trên thế giới. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng

và có ý nghĩa trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, là nền tảng để giáo dục

đạo đức phát triển con người Việt Nam toàn diện. Do đó, việc bồi dưỡng đạo

đức người thầy cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 là một nhiệm

vụ cần thiết và quan trọng trong bối cảnh chịu sự tác động mạnh mẽ của cuộc

cách mạng khoa học - công nghệ, trước những yêu cầu của sự phát triển kinh

tế - xã hội và hội nhập quốc tế hiện nay.

2. Tư tưởng đạo đức người thầy của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hệ thống

tư tưởng về các chuẩn mực đạo đức của người thầy: lòng trung thành phục vụ

Tổ quốc, phục vụ nhân dân; sự kết hợp hài hòa các phẩm chất cần, kiệm,

liêm, chính, chí công vô tư; tình yêu nghề, yêu học trò; tinh thần đoàn kết.

Cùng với những chuẩn mực đạo đức đó, Người cũng nêu ra những nguyên tắc

rèn luyện đạo đức người thầy: nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức;

chống chủ nghĩa cá nhân; tu dưỡng rèn luyện đạo đức phải thường xuyên,

suốt đời. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đưa ra những tư tưởng đạo đức về

người thầy mà Người còn thực hiện gương mẫu những quan điểm mà mình

đưa ra, Người chính là tấm gương sáng để thế hệ sau học tập và noi theo.

Chính vì vậy, cho đến nay, tư tưởng đạo đức người thầy của Chủ tịch Hồ Chí

Minh vẫn còn giữ nguyên giá trị và có sức lan tỏa lớn.

3. Hiện nay, công tác bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh viên trường

Đại học Sư phạm Hà Nội 2 theo tư tưởng Hồ Chí Minh bên cạnh những thành

tựu đạt được thì còn một số hạn chế nhất định. Để khắc phục những hạn chế

đó và nâng cao hiệu quả của công tác bồi dưỡng đạo đức người thầy cho sinh

42

viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay, cần phải thực hiện đồng bộ

các giải pháp: nâng cao nhận thức của sinh viên trong toàn trường về rèn

luyện đạo đức của người thầy; nêu gương về đạo đức cho sinh viên trong toàn

trường; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân trong sinh viên; nâng cao ý thức tự

rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời trong sinh viên. Việc nâng cao được

hiệu quả của công tác bồi dưỡng sẽ giúp sinh viên trường Đại học Sư phạm

Hà Nội 2 hoàn thiện bản thân mình, có đầy đủ những phẩm chất cần có của

người thầy giáo, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tư tưởng, nhận thức đúng

đắn về các lĩnh vực trong đời sống xã hội, xứng đáng là những người thầy

giáo - chủ nhân tương lai của đất nước.

43

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Bộ giáo dục và đào tạo (2009), Giáo khoa Giáo dục công dân lớp 10, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

3. Thành Duy (2007), Giáo trình Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, Viện

khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

4. Ngô Văn Hà (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc xây

dựng đội ngũ giảng viên đại học hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Trần Đăng Sinh - Nguyễn Thị Thọ (2011), Giáo trình Đạo đức học, Nxb

Đại học Sư phạm, Hà Nội.

44

21. Phạm Thị Thúy Vân (2016), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của người

thầy giáo và vấn đề nâng cao đạo đức người thầy cho đội ngũ giảng viên

đại học ở nước ta hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo khoa học sinh viên và cán bộ

trẻ các trường Đại học Sư phạm toàn quốc năm 2016, Nxb Đại học Sư

phạm thành phố Hồ Chí Minh, tr. 383 - 391.

22. Phạm Thị Thúy Vân (2016), “Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về chống

chủ nghĩa cá nhân cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện

nay”, Tạp chí Giáo dục, (3), tr. 119 - 122.

23. Phạm Thị Thúy Vân (2017), Bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho sinh viên

trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh,

Đề tài Khoa học công nghệ cấp cơ sở, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2,

mã số: C2016.20.

45