Kinh thành Huế

Kinh thành Huế được xây dựng gần 30 năm (từ 1803 đến 1832), là một dãy thành lũy dài cao

6,60m, dày 21m, với chu vi gần 9.000m. Trên mặt thành ngày xưa có tới 24 pháo đài.Bên ngoài,

dọc theo bờ thành có hào sâu bảo vệ. Kinh thành liên lạc với bên ngoài qua 8 cửa trổ theo 8

hướng: Chính Ðông, Chính Tây, Chính Nam, Chính Bắc, Tây Bắc, Tây Nam, Ðông Bắc, Ðông

Nam. Ngoài ra hai bên Kỳ Ðài còn có hai cửa Thể Nhơn và Quảng Ðức. Ngoài ra còn có hai cửa

bằng đường thủy ở hai đầu sông Ngự Hà là Ðông Thành Thủy Quan và Tây Thành Thủy Quan.

Phía Hoàng Thành ở góc đông bắc có một thành nhỏ, thời Gia Long gọi là Thái Bình, đến thời

Minh Mạng đổi thành Trấn Bình Ðài có chu vi gần 1km, bên ngoài có hào rộng ăn thông với hào

của Hoàng Thành.

Theo nguyên tắc địa lý phong thủy của Ðông Phương và thuyết âm dương-ngũ hành của Dịch

học. Kinh thành quay mặt về hướng Nam, dùng núi Ngự Bình làm tiền án và dùng 2 hòn đảo

nhỏ trên sông Hương (Cồn Hến – Cồn Dã Viên) làm rồng chầu hổ phục (Tả Thanh Long – Hữu

Bạch Hổ) để bảo vệ đế đô. Dòng Sông Hương chảy ngang trước mặt dùng làm Minh Ðường.

Bốn mặt kinh thành đều được bao bọc bởi hệ thống sông ngòi gọi là sông Hộ Thành.

Cửa Hiển Nhơn

Ở trong lòng Kinh thành, Hoàng thành và Tử cấm thành được gọi chung là Ðại Nội. Hoàng

Thành dùng để bảo vệ khu vực các cơ quan lễ nghi, chính trị quan trọng nhất của triều đình và

các điện thờ. Tử Cấm thành bảo vệ nơi làm việc, ăn ở và sinh họat hàng ngày của nhà vua và gia

đình..

Ðược xây dựng từ 1804-1833, Ðại Nội có mặt bằng xây dựng theo hình gần vuông, mặt trước và

mặt sau dài 622m, mặt trái và phải 604m. Thành xung quanh xây bằng gạch (cao 4,16m, dày

1,04m), bên ngoài có hệ thống hộ thành hào, gọi là Kim Thủy Hồ, để bảo vệ thành. Mỗi mặt trổ

một cửa để ra vào: Ngọ Môn (trước), Hòa Bình (sau), Hiển Nhơn (trái), Chương Ðức (phải). Cửa

chính của Ngọ Môn chỉ dành cho vua đi.

Với hơn 100 công trình kiến trúc đẹp, mặt bằng Ðại Nội chia thành nhiều khu vực khác nhau:

- Từ Ngọ Môn đến Ðiện Thái Hòa làm nơi cử hành các lễ lớn của triều đình.

- Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu và Ðiện Phụng Tiên là nơi thờ các vua chúa nhà

Nguyễn.

- Cung Diên Thọ và Cung Trường Sanh là nơi ở của Hoàng Thái Hậu và Thái Hoàng Thái Hậu.

- Phủ Nội Vụ là nhà kho tàng trữ đồ quý, xưởng chế tạo đồ dùng hoàng gia.

- Vườn Cơ Hạ và Ðiện Khâm Văn là nơi các Hoàng tử học tập và chơi đùa.

Tử Cấm Thành: Có mặt bằng cũng gần vuông, cao 3,7m, mặt trước và sau dài 324m; mặt trái và

phải dài 290m. Quanh thành trổ 10 cửa. Ðại Cung Môn là cửa chính ở mặt tiền chỉ dành cho vua

ra vào, hiện nay đã hư hại hòan toàn. Bức bình phong to rộng dăng ngang sau lưng đIện Cần

Chánh (nơi vua làm việc hàng ngày) là dấu hiệu cho biết thế giới sau đó chỉ dành riêng cho vua

và gia đình. Trong đó có hàng trăm cung nữ và hàng chục thái giám thường trú để phục vụ

hoàng gia. Trong khu vực này có gần 50 công trình kiến trúc vàng son lộng lẫy bao gồm: điện

Càn Thành (nơi vua ở), điện Khôn Thái (nơi vợ chính vua ở), Duyệt Thị Ðường (nhà hát),

Thượng Thiện (nơi nấu ăn cho vua), Thái Bình Lâu (nơi vua đọc sách),.điện Quang Minh (nơi ở

các hòang tử), điện Trinh Minh (nơi các hòang hậu ở), điện Kiến trung, vườn Cẩm Uyển…

Hệ thống kiến trúc ở Ðại Nội đã được hoạch định theo những nguyên tắc chặt chẽ, đăng đối:

chia ra các vị trí tiền, hậu, tả, hữu, thượng, hạ, chiêu mục tất cả đều nhất quán. Nó thể hiện

những khái niệm về triết lý chính trị Nho giáo phương đông. Phần lớn các công trình kiến trúc ở

đây đều làm bằng gỗ quý , nhưng cũng không chịu đựng nổi với thiên tai, khí hậu khắc nghiệt

hàng thế kỷ qua và các cuộc chiến tranh tàn phá nặng nề. Cho nên một số công trình đã bị hư

hỏng, các di tích quý này hiện nay đang được Nhà nước quan tâm đầu tư kinh phí để phục hồi,

tôn tạo lại từng bước.

Ngọ Môn

Vừa là cổng chính, vừa là bộ mặt Ðại Nội, được xây dựng vào năm 1833 khi Minh Mạng cho

quy hoạch lại mặt bằng và hoàn chỉnh hóa tổng thể kiến trúc trong Ðại Nội. Ngọ Môn là một

tổng thế kiến trúc đa dạng, phía trên là lầu Ngũ Phụng với chức năng như một lễ đài, dùng để tổ

chức một số lễ nghi trọng thể như duyệt binh, lễ xướng tên những người thi đỗ tiến sĩ, lễ ban sóc

hàng năm và đây cũng là nơi diễn ra lễ thoái vị của vua Bảo Ðại – vị vua cuối cùng của Việt

Nam vào ngày 30/8/1945.

Theo kinh dịch thì các vị vua bao giờ cũng quay mặt về hướng Nam để cai trị thiên hạ, cho nên

ngay từ thời Gia Long (1802-1819), khi xây dựng kinh đô Huế, các nhà kiến trúc đã cho hệ

thống thành quách và cung điện ở vào vị thế tọa càn hướng tốn (Tây Bắc – Ðông Nam) cũng

có nghĩa là hướng Bắc – Nam, thuộc Ngọ trên trục Tý – Ngọ, do đó Minh Mạng đã đặt tên cho

chiếc cổng mới xây ở chính giữa mặt trước hoàng thành là Ngọ Môn, thay cho tên cũ là Nam

Khuyết đài.

Hệ thống nền đài cao gần 5m, xây trên mặt bằng chữ U vuông góc, đáy dài 57,77m và cánh

27,06m. Ở phần giữa của nền đài trổ ba lối đi. Ngọ Môn dành cho vua đi, Tả và Hữu Giáp Môn

dành cho các quan văn võ theo hầu trong đoàn ngự đạo. Tả và Hữu Dịch môn nằm ở hai cánh

của nền đài, dành cho lính tráng và voi ngựa đi.

Hệ thống lầu ngũ phụng có hai tầng, lầu gồm chín bộ mái lợp ngói hoàng lưu ly và thanh lưu ly,

lầu dựng trên nền cao 1,14m xây trên nền đài. Ở tầng trên, mái lầu chia ra thành 9 bộ khác nhau

Tổng thể Ngọ Môn nhìn từ xa như một tòa lâu đài đồ sộ nguy nga, nhưng khi tiếp cận, nó trở

thành một công trình kiến trúc xinh xắn, đáng yêu, gần gũi với phong cảnh thiên nhiên và tâm

hồn, tình cảm của con người xứ Huế.

ÐiỆn Thái Hòa

Trong phạm vị hoàng cung triều Nguyễn, Ðiện Thái Hòa là công trình kiến trúc quan trọng nhất

xét về nhiều mặt: chức năng, vị trí, ý nghĩa lịch sử, giá trị văn hóa nghệ thuật. Ðiện Thái Hòa là

địa điểm sinh hoạt quan trọng nhất của triều đình nhà Nguyễn. Ðây là nơi diễn ra các lễ đại triều

hàng tháng (vào ngày 1 và 15 âm lịch) hoặc các đại lễ khác như lễ Ðăng Quang (vua lên ngôi), lễ

Vạn Thọ (sinh nhật vua), lễ Hưng Quốc Khánh Niệm… với sự tham gia của vua, hoàng thân,

quốc thích và các vị đại thần.

Về lịch sử xây dựng ngôi điện này, có thể chia làm ba thời kỳ chính, trong mỗi thời kỳ đều có

một số thay đổi, cải tiến về kiến trúc trang trí,…

Thời Gia Long Ðiện Thái Hòa được khởi công xây dựng vào 21/2/1805 và hoàn thành vào tháng

10/1805. Thời Minh Mạng, vào tháng Giêng năm Quý Tỵ, tức tháng 3/1833, khi tái quy hoạch

và hoàn chỉnh hóa hệ thống kiến trúc cung đình Ðại Nội, vua Minh Mạng đã cho dời điện Thái

Hòa hơi dé về phía Nam, đồ sộ và rộng lớn. Thời Khải Ðịnh, năm 1923, vua Khải Ðịnh cho đại

tu điện Thái Hòa để chuẩn bị cho lễ Tứ tuần đại khánh tiết. Trong đợt tu sửa lớn này, có một số

bộ phận kiến trúc ngôi điện này được thay đổi và làm mới.

Trên mái điện, người ta đắp nổi 9 con rồng với một nghệ thuật cực kỳ tinh xảo. Cuối gian giữa

của chính điện là ngai vàng được chạm khắc công phu, phía trên là bửu tán được trang trí cực kỳ

lộng lẫy. Tám mươi cây cột gỗ lim khá lớn đều vẽ hình rồng vờn mây, màu vàng son rực rỡ.

Qua kiến trúc và trang trí của Ðiện Thái Hòa, chúng ta thấy người xưa đã gửi gắm vào đó khá

nhiều ý tứ sâu xa đượm màu sắc đạo lý truyền thống phương Ðông. Bên cạnh ngôn ngữ kiến trúc

mang tính triết học, tòa cung điện này còn ghi lại nhiều ngôn ngữ văn học với 297 ô hộc khắc

chạm và đúc nổi thơ chữ Hán, nói lên một trong những nét đặc sắc của văn hóa Phú Xuân đầu

thế kỷ XIX.

Phía trước Ðiện Thái Hoà là sân Ðại Triều, hồ Thái Dịch và cầu Trung Ðạo. Sân Ðại triều chia

làm 3 tầng, là nơi dành cho các quan từ nhất phẩm đến cửu phẩm sắp hàng làm lễ. thứ tự các

quan được đánh dấu bởi hai hàng phẩm sơn (bia đá nhỏ) dựng ở hai bên sân.

Ðiện Thái Hòa là một trong những tòa cung điện tiêu biểu được xây dựng khá sớm ở Huế

(1805), mang phong cách độc đáo của địa phương, cũng là cung điện rộng lớn, uy nghi, tráng lệ

nhất trong hệ thống kiến trúc cung đình còn lại ở Huế.

Thế Miếu

Năm 1804, Gia Long cho xây dựng miếu Hoàng Khảo ở vị trí của Thế Miếu ngày nay để thờ cha

mình là Nguyễn Phúc Luân. Ðến năm 1821 Minh Mạng đã cho dời miếu Hoàng Khảo về phía

sau vài chục mét, đổi thành Hưng Miếu, còn xây Thế Miếu lên vị trí ấy (từ 1821-1822) để thờ

vua Gia Long và các vua kế vị.

Thế Miếu được xây dựng trên mặt bằng 1.500m2, cho đến giữa thế kỷ này (1954) chỉ có 7 án thờ

của các vua: Gia Long (1802-1819); Minh Mạng (1820-1840); Thiệu Trị (1841-1847); Tự Ðức

(1848-1883); Kiến Phúc (1883-1884); Ðồng Khánh (1886-1888); Khải Ðịnh (1916-1925). Ba

ông vua Hàm Nghi (1884-1885); Thành Thái (1889-1907) và Duy Tân (1907-1916) có tinh thần

chống Pháp bị triều đình Huế liệt vào hạng xuất đế nên không được đưa vào thờ ở đây. Ðến

10/1958, ba vị vua này mới được đưa vào thờ phụng ở Thế Miếu.

Phía trước Thế Miếu còn nhiều công trình nghệ thuật khác: Cửu Ðỉnh, Hiển Lâm Các,…

Hiển Lâm Các

xây dựng một lần với Thế Miếu từ 1821-1822 (thời vua Minh Mạng). Hiển Lâm Các xây dựng

ngay phía trước Thế Miếu, trên khối nền cao hình chữ nhật, từ dưới bước lên mặt nền trước sau

có 9 bậc.

Hiển Lâm Các được kiến trúc bằng gỗ theo hình thức cao tầng, chức năng chính được xem như

là đài kỷ niệm ghi nhớ công lao các vua triều Nguyễn thờ ở Thế Miếu và các đại thần có công

thờ ở hai bên Tả Tùng Tự và Hữu Tùng Tự.

Hiển Lâm Các là công trình kiến trúc có giá trị về cả kỹ thuật lẫn thẩm mỹ, kiến trúc thanh tú hài

hòa với khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp.

Cửu Đỉnh

Ðặt tại sân Thế Miếu, là sản phẩm độc đáo, tinh xảo, được Bộ Công đúc tại Huế từ cuối năm

1835-đầu 1837. Cửu Ðỉnh biểu hiện ước mơ về sự trường tồn mãi mãi của triều đinh nhà

Nguyễn và sự giàu đẹp của đất nước. Ðiều đó được thể hiện rất rõ trong việc đặt tên gọi cũng

như tầm vóc và các hoa văn chạm nổi trên Cửu Ðỉnh. Mỗi đỉnh có khắc một tên riêng bằng chữ

Hán, lấy từ miếu hiệu (tên để thờ cúng) của một vị vua nhà Nguyễn. Và cái đỉnh đó được xem là

biểu tượng của vị vua đó. Cao Ðỉnh (vua Gia Long) ở vị trí chính giữa, Ðỉnh hai bên trái phải lần

lượt là: Nhân Ðỉnh (vua Minh Mạng), Chương Ðỉnh ( vua Thiệu Trị), Anh Ðỉnh (vua Tự Ðức),

Nghị Ðỉnh (vua Kiến Phúc), Thuần Ðỉnh (vua Ðồng Khánh), Tuyên Ðỉnh (vua Khải Ðịnh), Dụ

Ðỉnh, Huyền Ðỉnh (chưa tượng trưng cho ông vua nào cả, mặc dù triều Nguyễn còn có 6 vị vua

khác).

Giá trị của 9 Ðỉnh trước hết ở tầm vóc to lớn và trình độ đúc đồng tinh xảo của các nghệ nhân

đúc đồng Huế. Cao Ðỉnh cao 2,5m, nặng 2601kg-là đỉnh cao và nặng nhất. Huyền Ðỉnh cao

2,31m, nặng 1935kg – là đỉnh thấp và nhẹ nhất. Quanh hông đỉnh đều chạm trỗ 17 cảnh vật. Như

vậy có tới 153 cảnh vật được chạm nổi trên Cửu Ðỉnh. Ðó là các hình ảnh: núi, sông, trăng, sao,

cây cối, hoa, súc vật, vũ khí, xe, thuyền…Có thể xem 153 bức chạm khắc ấy là 153 bức tranh.

Ta sẽ thấy sông Hồng trên Tuyên Ðỉnh, sông Cửu Long trên Huyền Ðỉnh, sông Hương trên

Nhân Ðỉnh.

Chín đỉnh được sắp thành một hàng ngang dưới thềm Hiển Lâm Các, nằm theo thứ tự các án thờ

trong Thế Miếu. Riêng Cao Ðỉnh được đặt nhích về phía trước 8 đỉnh kia một khoảng gần 3m, vì

vua Minh Mạng cho rằng Gia Long là vị vua có công lớn nhất đối với triều đại.

Cung Diên Thọ

Là một hệ thống kiến trúc cung điện quy mô nhất còn lại tại cố đô. Cung Diên Thọ gồm có hơn

10 tòa nhà được bố trí trong khuôn viên tường thành bao bọc hình chữ nhật rộng khoảng 100m,

dài gần 150m. Tòa nhà chính nằm giữa dành làm nơi mẹ vua nghỉ và tiếp khách. Ở đây nay chỉ

còn cung Diên Thọ, điện Thọ Ninh, tạ Trường Du, am Phước Thọ và lầu Tịnh Minh. Cung Diên

Thọ được xây dựng từ năm 1804 và qua nhiều lần đổi tên.

Lầu tàng thơ

Là một trong những kho lưu trữ tài liệu mang tính quốc gia của triều đình nhà Nguyễn, được

xây dựng vào 1825 trên hòn đảo hình chữ nhật giữa hồ Ngọc Hải cạnh Hồ Tịnh Tâm. Tòa nhà

được làm bằng đá, tầng dưới 11 gian, tầng trên 7 gian 2 chái. Theo tài liệu thời Nguyễn thì tất cả

sổ sách của sáu bộ và các nha tại kinh đô sau mỗi năm đưa đến đây để lưu giữ.

Sau khi xây dựng xong, lầu Tàng Thơ là một tòa nhà gạch hai tầng đồ sộ, tầng dưới 11 gian, tầng

trên 7 gian, 2 chái. Chung quanh có tương gạch cao 2m bao bọc. Lầu nằm trên một hòn đảo cách

biệt, nối với mặt đường bằng một chiếc cầu xây gạch đá ở phía Tây. Mặt nền lầu bên dưới lớp

gạch Bát Tràng được lát bằng các tấm chì lá để cách ẩm và rải bột lưu huỳnh nhằm chống mối

mọt.

Qua năm tháng và các biến động lịch sử, những tư liệu quý lưu trữ ở lầu Tàng Thơ đã bị thất lạc.

Ngôi lầu bị hư hỏng xuông cấp nghiêm trọng.

Cửu vị thần công

Trong hàng ngàn khẩu súng thần công bằng đồng được đúc dưới thời các chúa Nguyễn và vua

Nguyễn, chín khẩu súng đúc thời Gia Long có kích thước lớn nhất và được trang trí đẹp nhất.

Sau khi đã đánh đổ vương triều Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế, vua Gia Long hạ lệnh tập trung các

mảnh khí bằng đồng tịch thu được của triều đại này đem nấu chảy và đúc thành 9 khẩu súng lớn

để làm kỷ niệm muôn đời . Tên mỗi khẩu đại bác được đặt trước, gọi tên bốn mùa (tứ thời)

trong năm Xuân – Hạ – Thu – Ðông và năm yếu tố tự nhiên (ngũ hành) là Kim – Mộc – Thủy –

Hoả – Thổ rồi khắc thành chữ ở nuốm từng đuôi súng. Năm 1816, chín khẩu súng này còn được

triều đình Gia Long tặng thêm tên mới là Thần oai vô địch thượng tướng quân cửu vị.

Súng có chiều dài 5,10m, đường kính nòng 0,23m, nòng dày 0,105m, trọng lượng khẩu nặng

nhất là 18.400kg, khẩu nhẹ nhất là 17.000kg. Mỗi khẩu súng đặt trên một cái giá bằng gỗ chạm

trỗ rất công phu. Hai bên giá có 4 bánh xe gỗ viền sắt để tiện cho việc di chuyển.

Ngoài giá trị lịch sử, Cửu vị Thần công còn mang giá trị nghệ thuật cao. Kỹ thuật đúc đồng,

nghệ thuật trang trí và chạm khắc trên đồng cũng như trên 9 giá gỗ đều rất điêu luyện, tinh xảo.

Phu Văn Lâu

Ðược xây dựng vào năm 1819 dưới thời vua Gia Long, dùng làm nơi niêm yết những chỉ dụ

quan trọng của nhà vua và triều đình, hoặc kết quả các kỳ thi do triều đình tổ chức. Năm 1829,

vua Minh Mạng dùng nơi đây làm địa điểm tổ chức cuộc đấu giữa voi và hổ, năm 1830 ông lại

tổ chức cuộc vui chơi yến tiệc suốt 3 ngày để mừng sinh nhật của mình.

Phu Văn Lâu là ngôi nhà hai tầng duyên dáng, quay mặt về hường nam. Dưới thời vua Thiệu trị,

triều đình cho dựng ở hai bên hai tấm bia đá khắc 4 chữ “khuynh cái hạ mã”, nghĩa là ai đi qua

đều phải cởi mũ và xuống đi bộ.

Phía trước mặt Phu Văn Lâu là một ngôi nhà nằm kế bên sông Hương gọi là Nghinh Lương

Ðình. Ðây là nơi dùng để các vua tắm sông, hóng gió, ngắm cảnh.

Ký Đài

Kỳ Ðài thường gọi là cột cờ, là một công trình kiến trúc trong tổng thể các công trình thuộc Kinh

thành Huế, nằm ở phía trong mặt tiền Kinh thành, trước Ngọ Môn, theo hướng Nam, trên 1 đoạn

tường thành, cụ thể trên pháo đài Nam Chánh.

Kỳ Ðài được xây dựng năm Gia Long thứ 6 ( Ðinh Mão, 1807 ), đến thời Minh Mạng Kỳ Ðài

được tu sửa vào các năm 1829, 1831 và 1840. Ðài xây bằng gạch, gồm 3 tầng, với 3 hình khối

xếp chồng lên nhau theo thứ tự từ lớn đến nhỏ dần từ phía dưới lên phía trên. Tầng dưới cao

5,60m, tầng giữa cao 5,80m, tầng trên cao 6m. Từ mặt đất lên tầng dưới bằng 1 lối đi nhỏ ở phía

trái Kỳ Ðài, tầng dưới thông với tầng giữa bằng 1 cửa vòm rộng 4m, tầng giữa thông với tầng

trên cùng cũng bằng 1 cửa vòm rộng 2m. Ðỉnh mỗi tầng có xây 1 hệ thống lan can cao 1m được

trang trí bằng gạch hoa đúc rỗng, nền 3 tầng lát gạch vuông và gạch vồ, có hệ thống thoát nước

mưa xuống dưới. Trước đây còn có 2 chòi canh và 8 khẩu đại bác. Cột cờ đầu tiên làm bằng gỗ,

cao 29,50m. Năm 1904, bão năm Thìn làm gãy, cột cờ được thay lại bằng gang. Năm 1947, cột

cờ bị chiến tranh phá hũy, và sau đó được thay thế bằng cột cờ bêtông như hiện nay.

Tại Ngọ Môn chiều 30/8/1945, trước hàng vạn quần chúng tham dự, Bảo Ðại đọc lời thoái vị và

giao nộp ấn, kiếm cho đại diện Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, cờ đỏ sao vàng

đã được kéo lên Kỳ Ðài, đánh dấu chấm hết một chế độ phong kiến đã tồn tại hàng ngàn năm

trên đất nước ta, mở ra một trang sử mới cho dân tộc Việt Nam. Trong cuộc tổng tấn công và nổi

dậy toàn miền Nam, mùa Xuân năm 1968, 8 giờ sáng ngày 31/1/1968 quân giải phóng chiếm

được Kỳ Ðài và lá cờ của Mặt trận liên minh dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam được kéo

lên. Ngọn cờ cách mạng đã được giữ vững suốt 26 ngày đêm.. 5 giờ sáng ngày 21/3/1975 chiến

dịch giải phóng Huế – Ðà Nẵng mở màn, Trung đoàn 6 ( Trung đoàn Phú Xuân ) của Quân khu

Trị Thiên được giao nhiệm vụ cắm cờ chiến thắng ở Thành phố Huế và đến 6 giờ sáng ngày

26/3/1975 lá cờ dài 12m, rộng 8m của MTDTGPMN Việt Nam đã được kéo lên, đánh dấu mốc

lịch sử Thành phố Huế và toàn bộ tỉnh Thừa Thiên Huế ỵ được hoàn toàn giải phóng.

Bảo tàng cổ vật

Thành lập năm 1923 thời vua Khải Ðịnh. Hiện ở tại số 3 Lê Trực, khuôn viên rộng 6.330m2.

Tòa nhà chính nguyên là điện Long An, ngôi điện từng được đánh giá là một trong những ngôi

điện đẹp nhất của kiến trúc cung đình Việt Nam. Rộng 1.200m2, được xây dựng vào năm 1845

thời vua Thiệu Trị. Ðây là một công trình bằng gỗ tuyệt mỹ, có tới 128 cây cột gỗ quý. Trên toàn

bộ các bộ phận bằng gỗ của tòa nhà chạm trổ hàng trăm bức tranh cổ điển, các con vật thiêng:

rồng, lân , rùa, phụng; và trên 1.000 bài thơ bằng chữ Hán. Cùng với kỹ thuật chạm gỗ điêu

luyện, kỹ thuật khảm trai, khảm xà cừ, khảm ngà tinh tế tạo cho điện Long An vẻ đẹp mới lạ,

không lộng lẫy phô trương mà tinh tế, sắc sảo.

Bảo tàng hiện trưng bày khỏang 300 hiện vật cổ quý hiếm bằng vàng, bạc, ngọc, sành sứ,

gỗ…Tất cả những cổ vật được trưng bày tại đây là những tác phẩm nghệ thuật cung đình có giá

trị được các nghệ nhân thực hiện một cách công phu và tài tình. Bản thân điện Long An là hiện

vật lớn nhất mang đậm chất thơ, chất trí tuệ, là một tác phẩm mỹ thuật tuyệt tác.

Văn Miếu

Lập ra để tôn vinh các thánh hiền của đạo Nho, đồng thời là nơi đào tạo nhân tài của đất nước.

Khởi công xây dựng từ 17/4/1808 đến 12/9/1808 tại một ngọn đồi thấp phía trên chùa Thiên Mụ

sát tả ngạn sông Hương. Văn Miếu quay về hướng Nam tọa lạc trên một mô đất hình vuông, mỗi

cạnh chừng 160m, xung quanh có la thành bao bọc. Tất cả chừng 50 công trình kiến trúc lớn

nhỏ, trong đó có 32 tấm bia khắc tên, tuổi, quê quán của 239 vị tiến sĩ của các kỳ thi được tổ

chức dưới triều Nguyễn và 4 tấm bia khác.

Văn Miếu đã nhiều lần được tu sửa, xây dựng thêm các công trình phụ nhất là dưới thời vua

Minh Mạng, Thiệu Trị. Từ thời Minh Mạng về sau mở các khoa thi Hội nên bắt đầu dựng bia

tiến sĩ từ 1831-1919.

Hơn nửa thế kỷ nay, chiến tranh và thiên nhiên đã tàn phá, Văn Miếu trở thành nơi hoang phế,

điêu tàn, vừa qua được tiến hành trùng tu lại với nỗ lực giữ gìn sự tồn tại những di tích có giá trị

về nghệ thuật, văn hóa và lịch sử.

Quốc Tử Giám

Quốc Tử Giám là trường Ðại học quốc gia ngày xưa do triều đình mở ra để đào tạo nhân tài. Ở

nước ta, Quốc Tử Giám đầu tiên đã được thành lập vào năm 1076 tại Kinh đô Thăng Long. Dưới

thời Gia Long, cùng với việc xây dựng Văn Miếu ở vị trí phía trên chùa Thiên Mụ, trường Quốc

Tử Giám cũng được lập ra ở đó. Sang thời Minh Mạng, số lượng người đi học ngày càng đông,

quy mô trường ngày càng được mở rộng. Năm 1821, xây thêm Di Luân đường, giảng đường để

học và xây thêm mỗi bên ba dãy nhà làm nơi ở cho học sinh nội trú. Năm 1825 cho sửa lại, xây

dựng thêm mỗi bên một dãy nhà ở 20 gian, xây tường bao bọc ba mặt của trường.

Năm 1908, thời vua Duy Tân, Quốc Tử Giám được dời vào bên trong Kinh thành, ở vị trí hiện

nay. Qui mô trường gồm tòa nhà Di Luân Ðường ở vị trí chính giữa, hai bên là các dãy phòng

học của giám sinh. Phía sau trường, ở giữa là toà nhà Tân Thơ Viện ( hiện nay là Bảo Tàng Mỹ

Thuật Cung Ðình), hai bên là hai nhà của các quan Tế Tửu, Tư Nghiệp ( Hiệu Trưởng, Hiệu

Phó). Trường Quốc Tử Giám là một trong hai ngôi trường Ðại học của thời quân chủ còn lại trên

đất nước ta. Ðây là một di tích lịch sử và văn hóa rất có giá trị.

Đàn Nam Giao

Ðược xây dựng vào năm 1806 thời vua Gia Long, là nơi triều đình và nhà vua làm lễ tế trời. Ðàn

cách Kinh thành Huế khoảng 4km về phía Nam.

Ðàn gồm 3 tầng, quay mặt về hướng Nam. Tầng thứ nhất hình vuông, màu đỏ, tượng trưng cho

người. Tầng thứ hai gọi là Phương đàn cũng hình vuông, màu vàng, tượng trưng cho đất. Tầng

thứ ba hình tròn, gọi là Viên đàn, màu xanh, tương trưng cho trời. Kiểu kiến trúc này phản ánh

quan niệm về vũ trụ Ðông phương: Trời tròn, Ðất vuông.

Chung quanh đàn Nam Giao, còn nhiều ngôi nhà: Trai Cung (nơi nhà vua ở và chay tịnh khi làm

lễ tế trời), Thần Trù (nhà bếp), Thần Khố (nhà kho)…và trồng nhiều thông.

Lễ tế trời ở Ðàn Nam Giao là một đại lễ, được tổ chức mỗi năm một lần, kéo dài tới 3 ngày ( từ

thời vua Gia Long đến thời vua Ðồng Khánh). Từ sau đời vua Thành Thái (1889-1907) đến năm

1945, 3 năm mới tiến hành lễ tế trời một lần. Thời Bảo Ðại (1926-1945), lễ tế trời rút lại chỉ còn

một ngày.

Hổ Quyền

Xây dựng vào năm 1830. Vòng tường thành cao 5,90m, dày trung bình 4,50m. Mặt tường thành

trở thành khán đài. Vị trí vua ngồi được xây cao hơn, quay mặt về hướng Nam, đối diện với 5

cái chuồng nhốt hổ.

Hổ quyền là nơi tổ chức các cuộc tử chiến giữa voi và hổ, vừa để cho vua quan, dân chúng

thưởng thức, vừa để luyện tập cho voi chiến đấu. Trước khi đấu, hổ đều bị cắt nanh, bẻ vuốt.

Cho nên, trong cuộc tử chiến ấy, voi luôn luôn giết chết và chà nát hổ. Sự chiến thắng của voi

được coi là biểu tượng cho sự vô địch của quyền lực nhà vua và triều đình.