
11
Lạc nội mạc tử cung: Cập nhật Chẩn đoán
và Điều trị
Bs Phan Văn Quyền*
Tóm tắt
Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) là một bệnh mạ n tính, gây đau vùng chậu và vô sinh. Đặc trưng
của LNMTC
là sự hiện diện của mô nội mạc tử cung (NMTC) bên ngoài tử cung. Những triệu
chứng này có tác động đáng kể đến chất lượng cuộc sống của những phụ nữ, và gây tốn kém lớn
cho điều trị. LNMTC được ước tính xảy ra ở 10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản và có liên quan đến
đau vùng chậu và vô sinh.
Trước đây tiêu chuẩn vàng chẩn đoán LNMTC là nội soi chẩn đoán bằng hình ảnh các tổn thương
trong quá trình nội soi, lý tưởng nhất là xác nhận mô học dương tính xác định chẩn đoán. Hiện nay
theo Hiệp hội Sinh sản và Phôi thai ở người Châu Âu (ESHRE)1 nội soi chẩn đoán không còn là
tiêu chuẩn vàng nữa, chẩn đoán căn cứ trên bệnh sử và chẩn đoán hình ảnh để phát hiện và điều trị
sớm có lợi cho bệnh nhân hơn.
Những thay đổi quan trọng nhất đối với thực hành lâm sàng bao gồm giảm nội soi ổ bụng không
cần thiết và các thủ thuật không mang lại lợi ích, chẳng hạn như cắt bỏ dây thần kinh tử cung và
cắt bỏ dây thần kinh trước xương cùng, và ức chế GnRH bằng cách sử dụng thuốc đối kháng đường
uống
. Phương pháp điều trị LNMTC hiện nay cá nhân hóa tùy trường hợp với dùng thuốc nội tiết,
phẫu thuật và hỗ trợ sinh sản (ART).
Định nghĩa LNMTC
LNMTC được định nghĩa là sự hiện diện của
mô giống như nội mạc tử cung (các tuyến
và/hoặc mô đệm) bên ngoài tử cung và
thường kèm với phản ứng viêm2 . Các vị trí
cấy ghép thường gặp nhất là nội tạng vùng
chậu và phúc mạc, mặc dù hiếm gặp nhưng
nó cũng có thể được tìm thấy ở màng ngoài
tim, màng phổi, phổi và thậm chí cả não.
LNMTC có nhiều hình thái khác nhau, từ một
vài tổn thương nhỏ nông trên các cơ quan
vùng chậu, đến các nốt thâm nhiễm sâu ở các
nội tạng và u nang LNMTC buồng trứng lớn
với sự kết dính lan rộng liên quan đến ruột,
bàng quang và niệu quản làm biến dạng đáng
kể giải phẫu vùng chậu. Đã có những tiến bộ
đáng kể trong việc tìm hiểu cơ chế bệnh sinh,
diễn biến tự phát, chẩn đoán và điều trị
LNMTC.
Dịch tễ học
Bệnh xuất LNMTC được tìm thấy chủ yếu ở
phụ nữ trong độ tuổi sinh sản nhưng cũng
được báo cáo gặp ở thanh thiếu niên và phụ
_______________________________________________________________________________________________________________________________________
* Bv,Từ Dũ, DĐ: 0908221454,
Email:quyenphvan@gmail.com
nữ sau mãn kinh được điều trị nội tiết thay
thế3. Bệnh được tìm thấy ở phụ nữ thuộc mọi
nhóm dân tộc và xã hội. Độ xuất hiện ở
khoảng 5% đến 10% phụ nữ trong độ tuổi
sinh sản. 50% đến 80% phụ nữ bị đau vùng
chậu có thể bị LNMTC, và có tới 50% phụ nữ
bị vô sinh cũng được cho là do lạc nội mạc tử
cung.4
Các ước tính về tần suất LNMTC rất khác
nhau, nhưng tỷ lệ mắc bệnh được cho là
khoảng 10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản.5,6
Mặc dù không có thông tin nhất quán về tỷ lệ
mắc bệnh, nhưng xu hướng thời gian cho thấy
sự gia tăng ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản.6
Nghiên cứu EndoCost của Tổ chức Nghiên
cứu LNMTC Thế giới (WERF) đã tính toán
chi phí của những phụ nữ bị LNMTC đã được
chứng minh về mặt mô học được điều trị tại
các trung tâm.7
Nghiên cứu cho thấy chi phí
cho phụ nữ bị LNMTC là rất lớn, dẫn đến
gánh nặng kinh tế tương tự như chi phí chăm
sóc sức khỏe ước tính hàng năm cho bệnh đái
tháo đường, bệnh Crohn và viêm khớp dạng
thấp.9
Những phụ nữ đau vùng chậu hoặc vô sinh, tỷ
lệ mắc LNMTC cao (20% - 90%).8,9 Những

12
SỨC KHỎE SINH SẢN
phụ nữ vô sinh không rõ nguyên nhân (chu kỳ
kinh nguyệt đều, hình ảnh vùng chậu bình
thường, bạn tình bình thường) có hoặc không
đau, tỷ lệ LNMTC được báo cáo là cao tới
50%.10-16
Nguyên nhân
LNMTC thường được cho là kết quả của kinh
nguyệt ngược dòng, nhưng có thể có những
con đường khác. Mặc dù các dấu hiệu và triệu
chứng của LNMTC đã được mô tả từ lâu, sự
xuất hiện rộng rãi của nó chỉ được thừa nhận
trong thế kỷ 20.17 LNMTC là bệnh phụ thuộc
vào nội tiết tố estrogen. Ba lý thuyết17 đã
được đề xuất để giải thích cơ chế bệnh sinh
của lạc nội mạc tử cung.
–Cấy mô nội mạc tử cung ngoài tử cung do
trào máu kinh ngược dòng.
–Chuyển sản cấu trúc khoang ở bào thai
(coelomic
m
e
t
ap
l
a
si
a).
–Giả thuyết cảm ứng (induction
t
h
e
o
r
y).
Tuy nhiên không một lý thuyết nào có thể giải
thích được vị trí của LNMTC trong mọi
trường hợp.
Chẩn đoán
Có những thách thức đáng kể trong việc chẩn
đoán lạc nội mạc tử cung, với những tiến bộ
mới trong chẩn đoán hình ảnh, như siêu âm và
chụp cộng hưởng từ (MRI), giúp có thể chẩn
đoán sớm LNMTC tốt hơn, nhưng vẫn còn
một chẩn đoán muộn thường đã xảy ra. Có
trường hợp thời gian ủ bệnh 6 - 11 năm kể từ
khi khởi phát triệu chứng đầu tiên cho đến khi
chẩn đoán và bắt đầu điều trị.18
Trước đây nội soi xác định các tổn thương
LNMTC với xác minh mô học đã được mô tả
là tiêu chuẩn vàng (Dunselman).2 Tuy nhiên,
đã có những tiến bộ về chất lượng của chẩn
đoán hình ảnh đối với một số dạng LNMTC.
Mặt khác do rủi ro của phẫu thuật, hay hạn
chế tiếp cận do đòi hỏi phải có phẫu thuật
viên có trình độ cao và tốn kém nhiều hơn.
Hướng dẫn mới nhất năm 2022 của ESHRE1
khuyến nghị chẩn đoán LNMTC hiện nay dựa
trên tiền sử lâm sàng của bệnh nhân và chẩn
đoán hình ảnh (siêu âm qua âm đạo (TVS)
hoặc MRI), nhưng cần lưu ý rằng kết quả âm
tính không loại trừ LNMTC, đặc biệt là
LNMTC trên bề mặt phúc mạc. Theo Wykes
và cs.19 có khả năng TVS và MRI cũng có thể
thay thế nội soi phẫu thuật cho chẩn đoán u
nang LNMTC buồng trứng và LNMTC sâu
trong hố chậu.1
Ở những bệnh nhân có kết quả hình ảnh âm
tính hoặc điều trị theo kinh nghiệm không
thành công hoặc không phù hợp, nhưng nếu
vẫn nghi ngờ LNMTC có thể cần nội soi ổ
bụng để xác định chẩn đoán và điều trị.
ESHRE khuyến cáo nội soi ổ bụng xác định
các tổn thương LNMTC được xác nhận bởi
mô học mặc dù mô học âm tính không loại trừ
hoàn toàn bệnh.1
C
hẩn đoán không xâm lấn vẫn là một thách
thức đáng kể, ESHRE1 đã đưa ra một khuyến
nghị mạnh mẽ nhấn mạnh việc hỏi bệnh và
đẩy mạnh quá trình chẩn đoán hình ảnh. Hiện
nay, không cần thiết phải thực hiện phẫu
thuật và chẩn đoán mô học của lạc nội mạc
tử cung. Thực hiện chẩn đoán chỉ với hỏi
bệnh và hình ảnh
. Hiện nay có thể kê đơn
điều trị dùng thuốc mà không cần bằng chứng
mô học về lạc nội mạc tử cung.1
1. Lâm sàng
Các triệu chứng lâm sàng có thể dự báo sự
hiện diện của LNMTC.
Có nhiều triệu chứng được cho là có liên quan
đến bệnh LNMTC. Đau bụng và vô sinh là 2
triệu chứng chính, nhưng phụ nữ bị LNMTC
thường mệt mỏi là một trong những triệu
chứng khó chịu nhất gặp phải. LNMTC có thể
dẫn đến viêm nhiễm, bệnh tim mạch, lo âu và
trầm cảm. Ngoài ra cũng có nhiều phụ nữ bị
rối loạn chức năng bàng quang, ruột và có
cảm giác khó chịu đáng kể khi quan hệ tình
dục.4
Thời gian ủ bệnh có khi tới 6 - 11 năm kể từ
khi khởi phát triệu chứng đầu tiên cho đến khi
chẩn đoán và điều trị. Phần lớn là do nhiều
triệu chứng của LNMTC không đặc hiệu và
có thể kèm các rối loạn khác, dẫn đến việc
chẩn đoán khó khăn.4
Khi so sánh với nhóm chứng, phụ nữ bị
LNMTC có tỷ số chênh lệch (OR) cao hơn
đối với các triệu chứng: đau vùng chậu 5,2
(4,7-5,7), đau bụng kinh 8,1 (7,2-9,3), kinh
nhiều 4,0 (khoảng tin cậy (KTC) 95% 3,5-
4,5), vô sinh 8,2 (KTC 95% 6,9-9,9), giao
hợp đau/chảy máu sau giao hợp 6,8 (95%CI
5,7-8,2), triệu chứng đường tiết niệu 1,2 (1,0-
1,3). Tiền sử mắc bệnh u nang buồng trứng

13
7,3 (KTC 95% 5,7-9,4), mắc hội chứng ruột
kích thích 1,6 (KTC 95% 1,3-1,8), mắc bệnh
viêm tiểu khung 3,0 (KTC 95% 2,5-3,6) hoặc
u xơ tuyến vú 1,4 (KTC 95% 1,2-1,7) là
những yếu tố nguy cơ để chẩn đoán LNMTC
sau này. Cuối cùng, càng có nhiều triệu
chứng, tỷ lệ được chẩn đoán mắc LNMTC
càng cao. Với 1 triệu chứng bị LNMTC: OR
5,0; KTC 95% 4,4-5,7; nếu có 7 triệu chứng:
OR 84,7; KTC 95% 58,8-121,8) (Ballard, và
cộng sự, 2008).20
Có đến 50% phụ nữ bị LNMTC bị vô sinh, là
do nhiều yếu tố như viêm nhiễm và các tác
động bất lợi đến tế bào trứng, biểu hiện gen
không bình thường trong NMTC, tế bào gốc
bị biến đổi lạc chỗ, và cũng do dính buồng
trứng, có thể làm biến dạng cấu trúc giải phẫu
và làm suy giảm khả năng giải phóng hoặc
vận chuyển tế bào trứng.4
Ở nhiều phụ nữ bị LNMTC, không phát hiện
bất thường khi khám lâm sàng. Tuy nhiên, âm
hộ, âm đạo và cổ tử cung nên được kiểm tra
xem có bất kỳ dấu hiệu nào của LNMTC hay
không, mặc dù sự xuất hiện của LNMTC ở
những khu vực này là rất hiếm (ví dụ: sẹo
rạch tầng sinh môn). Sự hiện diện của lỗ cổ tử
cung hẹp có thể là một yếu tố nguy cơ gây
LNMTC.21 Các dấu hiệu khác của LNMTC có
thể bao gồm nốt sần ở tử cung hoặc túi cùng,
tử cung bị lệch sang bên hoặc cổ tử cung do
dính sẹo tử cung-cùng, có thể có sưng đau
vách ngăn trực tràng và nang buồng trứng
một/hai bên.22
2. Dấu ấn sinh học
CA125, một glycoprotein từ biểu mô khoang
(coelomic) cao hơn đáng kể ở phụ nữ bị
LNMTC trung bình hoặc nặng nhưng bình
thường ở phụ nữ mắc LNMTC nhẹ.23,24
CẠ125 không đủ bằng chứng để đưa ra kết
luận có ý nghĩa (Nisenblat 2016a).25
Năm 2016 Hirsch và cs.26 tính toán độ đặc
hiệu của CA-125 là 93% (KTC 95% 89-95%),
nhưng độ nhạy chỉ có 52% (KTC 95% 38-
66%) đối với tất cả LNMTC. Trước đây, Mol
và cộng sự, 27 bằng khảo sát trên phụ nữ bị
đau vùng chậu và vô sinh, cũng đã nhận thấy
rằng CA-125 huyết thanh thấp trên LNMTC
nhẹ, và CA-125 cao hơn cho LNMTC giai
đoạn nặng III/IV (Mol và cộng sự, 1998).27
Gần đây, các miRNA được biết đến với vai
trò điều hòa các gen quan trọng đối với các
quá trình liên quan đến cơ chế bệnh sinh của
LNMTC đã được đánh giá về tiềm năng lâm
sàng là dấu ấn sinh học. Một nghiên cứu kiểm
chứng đánh giá việc sử dụng bảng miRNA
như một phương pháp không xâm lấn để chẩn
đoán phát hiện LNMTC, huyết thanh từ phụ
nữ trải qua phẫu thuật vì nghi ngờ có LNMTC
đã được xét nghiệm miR-125b-5p, miR-150-
5p, miR-342-5p và miR-451a. Tuy nhiên các
miRNA đã thất bại trong thử nghiệm xác thực
(Vanhie, và cộng sự, 2019).28
Nhìn chung, hiện tại chưa có dấu hiệu sinh
học nào có thể xác định và loại trừ LNMTC
một cách đáng tin cậy.
3. Chẩn đoán hình ảnh
Các kỹ thuật hình ảnh thường được áp dụng là
TVS và chụp cộng hưởng từ (MRI). Trong
khi TVS là một phần của kiểm tra ban đầu
thông thường trong chăm sóc ban đầu, siêu
âm tiên tiến hơn và MRI thường chỉ có thực
hiện tại các tuyến chăm sóc cấp hai và cấp ba.
Các hướng dẫn ESHRE và Hội Sản phụ khoa
Hoa Kỳ (ACOG)17 khuyến nghị TVS là bước
hình ảnh đầu tiên trong công việc chẩn đoán
phụ nữ bị nghi ngờ LNMTC. Theo tổng quan
Cochrane về các công cụ chẩn đoán LNMTC,
bằng chứng chẩn đoán hình ảnh để chẩn đoán
LNMTC không xâm lấn đã có từ năm 2016
(Nisenblat, và cộng sự, 2016b).29
Độ chính xác chẩn đoán của LNMTC nông,
buồng trứng và sâu được so sánh với chẩn
đoán phẫu thuật như một tiêu chuẩn tham
khảo. Kết quả từ 49 nghiên cứu liên quan đến
4.807 phụ nữ đã được đánh giá dưới đây: 29
LNMTC nông (hình 1):
Kết quả báo cáo là không đồng nhất, TVS cho
thấy độ đặc hiệu tốt 95% (KTC 95% 89-
100%), nhưng độ nhạy thấp 65% (KTC 95%
27%-100%). MRI cho thấy cả độ đặc hiệu và
độ nhạy kém (lần lượt là 72% và 79%).
Nhưng MRI 3.0 tesla đã báo cáo độ đặc hiệu
là 100% và độ nhạy giữa 81-95%
(Manganaro, 2012, Thomeer, 2014).30,31 Các
nghiên cứu sử dụng các kỹ thuật khác như
PET-CT không đáp ứng các tiêu chí đưa vào
chẩn đoán LNMTC (Nisenblat, 2016b).29

14
SỨC KHỎE SINH SẢN
Hình 1. LNMTC nông Hình 2. LNMTC ở BT Hình 3. LNMTC ở trực tràng
LNMTC ở buồng trứng (hình 2):
Đối với u nang LNMTC buồng trứng, các
nghiên cứu đánh giá TVS cho kết quả tốt, độ
đặc hiệu và độ nhạy với khoảng tin cậy hợp
lý, độ đặc hiệu 96% (KTC 95% 92-99%; độ
nhạy 93% (KTC 95% 87-99%) (Nisenblat,
2016b).29
Đối với MRI, độ đặc hiệu và độ nhạy trung
bình tương tự như TVS (tương ứng là 91% và
95%). Một nghiên cứu đã so sánh MRI trực
tiếp với TVS và trực tràng giá trị tương tự
(Bazot, et al., 2009).32
Trong khi siêu âm trực tràng có độ đặc hiệu
và độ nhạy thấp hơn (77% và 89%, tương
ứng), so với kết quả TVS (86% và 94%,
tương ứng) và MRI cũng có kết quả tương tự
(tương ứng là 88% và 92%).
LNMTC sâu:
LNMTC sâu có thể liên quan đến nhiều khu
vực trong khung chậu như các cơ quan nội
tạng (ruột, bàng quang), thành chậu và các
cấu trúc sau phúc mạc (niệu quản, dây thần
kinh, mạch máu, v.v.). Đối với TVS (bao gồm
siêu âm thông thường, siêu âm 3-D) nói
chung ước tính độ đặc hiệu và độ nhạy đã
được báo cáo lần lượt là 94% và 79%, trong
khi độ nhạy có thể được cải thiện một chút
với siêu âm 3-D (87%) (Guerriero, et al.,
2014).33
Tuy nhiên, về kích thước tối thiểu của các tổn
thương có thể phát hiện được chưa có dữ liệu
thống kê. Hơn nữa, ngay cả trong tay chuyên
gia có kinh nghiệm, cả độ nhạy và độ đặc
hiệu có thể khác nhau tùy thuộc vào vị trí của
bệnh trong khung chậu, và độ chính xác kém
nhất với LNMTC sâu liên quan đến dây
chằng tử cung hoặc âm đạo (Bazot, et al.,
2009).32
Các nghiên cứu đánh giá vai trò của MRI
trong chẩn đoán LNMTC sâu của khung chậu
đã báo cáo có đặc hiệu trung bình là 77%
(KTC 95% từ 44-100%) và độ nhạy trung
bình là 94% (KTC 95% từ 90
-97%)
(Nisenblat, và cộng sự, 2016b).29
LNMTC trên trực tràng (hình 3):
Đối với LNMTC trên trực tràng sigma, một
tổng quan hệ thống gần đây với 8 nghiên cứu
so sánh MRI và TVS đã cho thấy đối với MRI
độ đặc hiệu là 96% (KTC 95% 94-97%) và độ
nhạy 90% (KTC 95% 87-92%), và đối với
siêu âm qua âm đạo (TVS) độ đặc hiệu 96%
(KTC 95% 94-97%) và độ nhạy 90% (KTC
95% 87-92%). Không có khác biệt đáng kể
giữa cả 2 phương pháp (Moura, 2019)34
Nhìn chung, những dữ liệu này gợi ý rằng
TVS và MRI có tác dụng tương tự hoặc tốt
hơn một chút. Đ
ộ đặc hiệu và độ nhạy cao
hơn so với phẫu thuật u buồng trứng và
LNMTC sâu.
4. Nội soi phẫu thuật
Phẫu thuật nội soi, mặc dù được sử dụng rộng
rãi, nhưng đắt tiền, xâm lấn và liên quan đến
tỷ lệ mắc bệnh tái phát và nguy cơ tử vong.
Lợi ích của phẫu thuật nội soi cần được cân
nhắc với rủi ro của nó (Bafort, 2020,35 Byrne,
2018b,36 Chapron, 1998).37
Thực tế, nên tiếp cận 2 bước bao gồm TVS
sau đó là điều trị theo kinh nghiệm (trên bệnh
nhân không muốn có thai). Đặc biệt ở cơ sở
chăm sóc ban đầu nếu nghi ngờ LNMTC,
bệnh nhân có triệu chứng thường được điều
trị nội tiết tố với thuốc tránh thai đường uống
hoặc progestin như một biện pháp đầu tay
(Kuznetsov, và cộng sự, 2017).38 Nếu các triệu
chứng được cải thiện, LNMTC được cho là
nguyên nhân chính tình trạng bệnh, mặc dù

15
các nguyên nhân lâm sàng khác có thể cùng
tồn tại. Cách tiếp cận này được sử dụng rộng
rãi được gọi là điều trị theo kinh nghiệm.
Cả nội soi chẩn đoán và chẩn đoán hình ảnh
kết hợp với điều trị theo kinh nghiệm (thuốc
tránh thai nội tiết hoặc progestins) có thể
được xem xét ở những phụ nữ nghi ngờ
LNMTC. không có bằng chứng về tính ưu
việt của một trong hai phương pháp và những
ưu và nhược điểm nên được thảo luận với
bệnh nhân.
ESHRE1 khuyến cáo các bác sĩ lâm sàng nên
lưu ý chẩn đoán LNMTC trên các cá nhân có
các dấu hiệu và triệu chứng theo chu kỳ và
không theo chu kỳ sau đây: đau bụng kinh,
đau khi giao hợp, khó tiểu, khó đại tiện, chảy
máu trực tràng đau đớn hoặc tiểu ra máu, đau
đầu vai, tràn khí màng phổi, ho theo chu kỳ/
ho ra máu/đau ngực, vết sẹo sưng và đau theo
chu kỳ, mệt mỏi và vô sinh.
Điều trị
Bệnh nhân LNMTC có triệu chứng có thể
được điều trị bằng thuốc giảm đau, hormone,
phẫu thuật, hỗ trợ sinh sản (ART) hoặc kết
hợp các phương thức này.2 Việc loại bỏ các
mô LNMTC bằng phẫu thuật hoặc điều trị
bằng thuốc thường chỉ giúp giảm đau tạm
thời. Mục tiêu là điều trị cơn đau, chảy máu
và vô sinh. Với việc điều trị bằng hormon, các
cơn đau vùng chậu và chảy máu vùng chậu sẽ
được giảm thiểu một cách hiệu quả. Với phẫu
thuật, điều trị triệu chứng và sinh sản hỗ trợ
(ART) sẽ nâng cao khả năng có thai.
Dùng thuốc
Điều trị hormon là 1 trong những chọn lựa
điều trị cơ bản cho LNMTC, chọn lựa đầu tay
là dung thuốc tránh thai hay progestin cho
những bệnh nhân chưa muốn mang thai. (hình
4, bảng 1). Nếu không hiệu quả có thể
chuyển sang lựa chọn bậc 2 (bảng 2), với
GnRH đồng vận/kháng vận hoặc ức chế
aromatase. Trường hợp bệnh nhân muốn
mang thai, các thuốc nội tiết không được
dùng, nên áp dụng trợ giúp mang thai (ART),
ngay cả khi bệnh nhân có nang LNMTC sau
đó mới phẫu thuật.
Điều trị nội tiết là 1 trong các chọn lựa để
chữa các cơn đau do LNMTC, có thể dùng
thuốc tránh thai kết hợp, progestin, chất đồng
vận hoặc kháng vận GnRH. Cần phải lưu ý
các tác dụng phụ của hormon.
Điều trị dùng thuốc đối với bệnh LNMTC
luôn phải nhằm mục đích kiểm soát cơn đau
và các triệu chứng khác và nếu có thể thì là
không ngăn cản khả năng sinh sản. Điều trị
bằng hormon là lựa chọn điều trị thích hợp
cho bệnh LNMTC.
Điều trị dùng thuốc phải là phương án điều trị
bậc một cho bệnh nhân đau vùng chậu, trừ
trường hợp họ muốn có thai ngay. Việc chỉ
định điều trị dùng thuốc cũng nhằm ngăn
chặn cơn đau sau phẫu thuật và bệnh tái phát.
Đó là lựa chọn tốt nhất nếu bệnh nhân bị tái
phát thực sự sau cuộc phẫu thuật đầu tiên khả
quan và đầy đủ.1
Hình 4. Điều trị lạc nội mạc tử cung
Bảng 1. Các lựa chọn điều trị bậc một cho lạc nội mạc tử cung
Các kiểu điều trị Các thuốc điều trị Cân nhắc lâm sàng
Thuốc tránh thai tổng hợp Progestin
Kết hợp thuốc tránh thai
với NSAID
(dùng liên tục để ngăn
đau bụng kinh)
-Ethinylestradiol 20 µg
+ drospiprenone 3 mg
-Ethinylestradiol 20 µg
+ norethindrone 1mg
-Ethinylestradiol 20 µg
+ levonorgestrel 0,01mg
-Ethinylestradiol 15 µg
+ gestodene 0,06mg
-Estradiol hemihydate 1,5 mg
+ nomegestrol 2,5 mg
-Medorxyprogesterone 10-
60 mg/ngày,
-Dienogest 2mg/ngày,
-Medorxyprogesterone
150 mg tiêm/3 tháng
-Norethindrone 2,5-15
mg /ngày
-Cryproterone 2-5 mg
/ngày.
-Dydrogesterone 10 mg
x2 /ngày
Sàng lọc bệnh nhân để
không dùng thuốc tránh
thai cho bệnh nhân bị
huyết khối, và hướng
dẫn bn tuân thủ điều trị.
Progestin với NSAID