intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Liên kết các làng nghề truyền thống - Giải pháp thúc đẩy du lịch sinh thái tỉnh Bình Dương

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

5
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tập trung chủ yếu vào phân tích mức độ quan trọng của sự liên kết, chỉ ra những thuận lợi, khó khăn gặp phải và đưa ra một số kiến nghị giúp các địa phương trong tỉnh làm tốt hơn trong việc liên kết, đưa du lịch sinh thái phát triển.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Liên kết các làng nghề truyền thống - Giải pháp thúc đẩy du lịch sinh thái tỉnh Bình Dương

  1. LIÊN KẾT CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG – GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY DU LỊCH SINH THÁI TỈNH BÌNH DƯƠNG Hà Văn Kiên1 1. Trường Đại Học Thủ Dầu Một; email: kienhv@tdmu.edu.vn TÓM TẮT Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, tính liên kết ngành, liên kết vùng và tính xã hội hóa cao. Hoạt động du lịch được cấu thành bởi nhiều yếu tố, cần liên kết hợp tác nhiều đơn vị để có thể khai thác một cách hiệu quả thế mạnh của từng địa phương. Bình Dương là tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, giàu tiềm năng về tài nguyên tự nhiên, tài nguyên nhân văn. Tỉnh có thể xây dựng các sản phẩm du lịch sinh thái thông qua liên kết các sản phẩm du lịch khác nhau, mà trong đó không thể không nhắc đến các làng nghề truyền thống tại vùng đất này. Tuy nhiên, những năm qua việc khai thác những lợi thế trên chưa thực sự hiệu quả. Nguyên nhân là do các địa phương chưa có sự liên kết, hợp tác. Phát triển chủ yếu dựa vào nội lực của chính địa phương đó. Bài viết tập trung chủ yếu vào phân tích mức độ quan trọng của sự liên kết, chỉ ra những thuận lợi, khó khăn gặp phải và đưa ra một số kiến nghị giúp các địa phương trong tỉnh làm tốt hơn trong việc liên kết, đưa du lịch sinh thái phát triển. Từ khóa: Bình Dương, du lịch sinh thái, liên kết, làng nghề truyền thống Abstract LINKING TRADITIONAL CRAFT VILLAGES – SOLUTIONS TO PROMOTE ECO-TOURISM IN BINH DUONG PROVINCE Tourism is a general economic sector, with industry linkage, regional connectivity, and high socialization. Tourism activities are constituted by many factors, it is necessary to cooperate with many units to effectively exploit the strengths of each locality. Binh Duong is a province in the Southeast region, rich in potential in natural resources and human resources. The province can build eco-tourism products through linking diverse tourism products, which cannot fail to mention the traditional craft villages in this land. However, in recent years, exploiting these advantages has not been effective. The reason is that the localities have not had the link, cooperation, and development mainly based on the internal resources of that locality. The article mainly focuses on analyzing the importance of the association, pointing out the advantages and disadvantages encountered and making some recommendations to help localities do better in linking to bring eco-tourism. development state. Keywords: Links, traditional craft villages, ecotourism, Binh Duong. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Du lịch là hoạt động của du khách di chuyển đến một vùng đất khác ngoài nơi cư trú để thực hiện các chuyến tham quan nghỉ dưỡng. Hoạt động du lịch không chỉ bó hẹp trong phạm vi của một địa phương mà thay vào đó biên giới về du lịch đã gần như không còn hiện hữu. Đó là một điểm đến chung, thống nhất với sự đa dạng về sản phẩm dựa trên sự khác biệt về lợi thế 318
  2. của từng địa phương. Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu gặp nhiều khó khăn và đặc biệt là ảnh hưởng của đại dịch covid-19 thì hoạt động liên kết cần phải được đẩy mạnh hơn nữa, giúp cho các địa phương, các quốc gia, các vùng lãnh thổ có được sức cạnh tranh, xây dựng được thương hiệu, tăng sức hấp dẫn đối với khách du lịch. Liên kết giúp cho hoạt động du lịch sinh thái của các địa phương đạt được những lợi ích lâu dài, bền vững và thúc đẩy du lịch phát triển. Các làm nghề truyền thống là sự kết tinh hàng ngàn năm văn hóa của dân tộc. Trải qua quá trình dựng nước và giữ nước, các nét đẹp của văn hóa được bảo tồn và gìn giữ cho đến ngày hôm nay. Nó được kết tinh và truyền thừa từ những đôi bàn tay tài hoa của những người nghệ nhân cùng với những giá trị truyền thống đặc trưng của địa phương. Các làng nghề sẽ là điểm đến lý tưởng, có sức hút đối với khách du lịch trong và ngoài nước. Trong những năm gần đây, du lịch sinh thái của tỉnh đã đạt được những lợi ích về mặt kinh tế, xã hội và mang tính bền vững lâu dài. Có được những thuận lợi đó là nhờ vào cơ sở hạ tầng được đầu tư tốt của tỉnh nhằm phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, còn thấy được một điều đó chính là việc khai thác tiềm năng du lịch sinh thái để phát triển dựa trên sự liên kết vẫn chưa đạt được hiệu quả, chưa tương xứng với những gì mà địa phương đã có. Việc phát triển còn mang tính đơn lẻ, tự phát, chưa có sự đồng bộ trong việc xây dựng các sản phẩm chung của tỉnh. Bài viết tập trung phân tích thực trạng, tìm ra những nguyên nhân còn hạn chế, đưa ra một số khuyến nghị giúp hình thành nên liên kết các làng nghề truyền thống với phát triển các sản phẩm du lịch sinh thái theo hướng bền vững. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp phân tích tổng hợp và nghiên cứu hệ thống: phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu những đối tượng có mối quan hệ đa chiều, biến động trong không gian và thời gian như ngành du lịch và văn hóa xã hội. Phương pháp điều tra thực địa: kiểm tra bổ sung và kiểm tra lại những thông tin cần thiết cho quá trình phân tích, xử lý số liệu trước khi thực hiện nghiên cứu. Phương pháp thống kê: phương pháp này làm để làm rõ thông tin, số liệu có liên quan đến các hoạt động du lịch ở địa phương trong việc thu thập, thống kê làm cơ sở cho việc xử lý, phân tích và đánh giá của nghiên cứu 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1. Cơ sở lý thuyết 3.1.1. Làng nghề thủ công truyền thống Theo Lê Thị Minh Lý (2003): Làng nghề là một thực thể vật chất và tinh thần được tồn tại cố định về mặt địa lý, ổn định về nghề nghiệp hay một nhóm các nghề có mối liên hệ mật thiết với nhau để làm ra một sản phẩm, có bề dày lịch sử và được tồn tại lưu truyền trong dân gian. Khái niệm về làng nghề theo cách nhìn văn hóa bao gồm các nội dung: là là một địa danh gắn với một cộng đồng dân cư có một nghề truyền thống lâu đời, được lưu truyền và có sức lan tỏa mạnh mẽ; ổn định về một nghề hay một số nghề có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình sản xuất ra một loại sản phẩm; có một đội ngũ nghệ nhân và thợ có tay nghề cao, có bí quyết nghề nghiệp được lưu truyền lại cho con cháu hoặc các thế hệ sau; sản phẩm vừa có ý nghĩa kinh tế để nuôi sống một bộ phận dân cư và quan trọng hơn là nó mang những giá trị vật thể và phi vật thể phản ánh được lịch sử, văn hóa và xã hội liên quan tới chính họ”. Nghề thủ công và làng nghề là một trong những ngành kinh tế có hàng hóa, có tham gia vào thị trường, có lợi nhuận… Nghề thủ công truyền thống còn là lực lượng chủ yếu của thành 319
  3. phần kinh tế hộ gia đình, thực sự góp phần vào phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Về mặt xã hội, nghề thủ công có vai trò góp phần ổn định cơ sở xã hội bằng cách tạo ra công ăn việc làm, giáo dục về tinh thần lao động, ý thức và trách nhiệm, quý trọng về mặt thời gian, bình đẳng về giới, thể hiện qua việc phân công lao động và vai trò của phụ nữ đối với các nghề truyền thống cũng như phát huy năng lực và tạo việc làm đối với nhiều phụ nữ. Giá trị nổi trội nhất của nghề thủ công và làng nghề chính là giá trị về mặt tinh thần. Thể hiện giá trị văn hóa và đời sống dân gian, tạo những dấu ấn và sự phong phú của văn hóa dân tộc. Một phần bản sắc văn hóa của các địa phương được thể hiện thông qua các làng nghề, tinh hoa được truyền thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác. Các sản phẩm thủ công truyền thống không chỉ là hàng hóa thuần túy kinh tế mà còn mang tính sáng tạo và nghệ thuật phản ánh phong tục tập quán tín ngưỡng của các cộng đồng địa phương trong quá trình làm chủ thiên nhiên, vùng đất đó. Nhiều làng nghề còn là nơi ra thai nghén cho nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật và điện ảnh nổi tiếng. Từ những giá to lớn của làng nghề thủ công truyền thống đem lại, chúng ta phải chú trọng nghiên cứu, bảo tồn và phát huy. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay cho thấy mức độ ảnh hưởng của nghề thủ công truyền thống và các làng nghề đang bị ảnh hưởng, dần bị mai một, bí quyết nghề nghiệp bị thất truyền, xu hướng thương mại hóa làm ảnh hưởng không nhỏ đến giá trị văn hóa vốn có của nó. 3.1.2. Du lịch sinh thái Tùy vào đặc trưng riêng của mỗi vùng, quốc gia mà đã có những khái niệm riêng cho du lịch sinh thái. Tại Việt Nam, theo luật du lịch năm 2017: “Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hóa địa phương, có sự tham gia của cộng đồng dân cư, kết hợp giáo dục về bảo vệ môi trường”. Tháng 09/1999, Tổng cục Du lịch Việt Nam đã phối hợp với tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới và Ủy ban kinh tế- Xã hội châu Á- Thái Bình Dương tổ chức hội thảo quốc tế về xây dựng khung chiến lược phát triển du lịch sinh thái làm cơ sở cho việc xây dựng chiến lược phát triển du lịch Việt Nam cũng như đẩy mạnh hợp tác phát triển du lịch sinh thái của Việt Nam với các nước trong khu vực và quốc tế. Hội thảo đã đưa ra được định nghĩa về DLST: “Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào tự nhiên và văn hóa, có giáo dục môi trường, đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, có sự tham gia tích cực cộng đồng địa phương”. Ở định nghĩa này, thể hiện được bảo vệ môi trường tự nhiên, văn hóa bản địa và sự đóng góp lợi ích bền vững cho cộng đồng địa phương. Theo tổ chức bảo vệ thiên nhiên thế giới (IUCN): “Du lịch sinh thái là tham quan và du lịch có trách nhiệm với môi trường tại các điểm tự nhiên không bị tàn phá để thưởng thức thiên nhiên và đặc điểm văn hóa đã tồn tại trong quá khứ hoặc đang hiện hành qua đó khuyến khích hoạt động bảo vệ hạn chế những tác động tiêu cực do khách tham quan gây ra và tạo ra lợi ích cho những người dân địa phương tham gia tích cực”. Theo tác giả Trần Văn Thông: “Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương”. Có nhiều khái niệm về du lịch sinh thái nhưng nhìn chung du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào tự nhiên, gắn liền với văn hóa bản địa, phục vụ cho du khách yêu thiên nhiên. Ngoài ý nghĩa về kinh tế mà du lịch sinh thái đem lại, nó còn thể hiện được là vấn đề về bảo vệ môi trường, cảnh quan, văn hóa bản địa nhằm hướng đến phát triển du lịch bền vững. Sự khác nhau giữa du lịch sinh thái với các loại hình du lịch thiên nhiên khác thể hiện ở các mặt sau: 320
  4. - Mức độ giáo dục cao đối với môi trường và sinh thái. - Du lịch sinh thái tại tạo ra mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên hoang dã cùng với ý thức được giáo dục đã biến bản thân du khách thành những người đi tiên phong trong công tác bảo tồn môi trường. - Giúp giảm thiểu tác động tiêu cực của du khách đến văn hóa và môi trường, đảm bảo cho địa phương được hưởng nguồn lợi tài chính do du lịch mang lại và chú trọng đến những đóng góp tài chính cho việc bảo tồn thiên nhiên và văn hóa bản địa. 3.1.3. Sự cần thiết phải liên kết trong phát triển du lịch Liên kết giúp nâng cao vị thế du lịch cho cả vùng, đẩy mạnh quảng bá thương hiệu du lịch cho vùng và tạo ra những cơ hội để thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào các khu vực có tiềm năng, lợi thế phát triển tạo động lực cho phát triển chung. Liên kết giúp đẩy mạnh và khai thác hiệu quả nguồn vốn từ khu vực đầu tư công, tập trung ngân sách vào các công trình trọng điểm thay vì dàn trải nguồn đầu tư cho nhiều lĩnh vực, nhiều nơi mà hiệu quả đạt được là không cao. Ngoài ra, giúp phát triển hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống giao thông kết nối ngày càng hoàn thiện, tiện lợi, hiện đại và rút ngắn thời gian di chuyển trên tuyến. Liên kết giúp khai thác tốt lợi thế cạnh tranh của mỗi địa phương. Mỗi địa phương có lợi thế vị trí địa lý, tài nguyên, các nguồn lực cho phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, việc thúc đẩy liên kết các địa phương là điều hết sức cần thiết giúp tạo ra các chuỗi giá trị thông qua các sản phẩm du lịch có sức hấp dẫn đối với từng nhóm du khách khác nhau. Các địa phương có những lợi thế riêng vì vậy việc đẩy mạnh liên kết tạo ra những sản phẩm du lịch hấp dẫn hơn, phù hợp hơn với xu thế phát triển của du lịch sinh thái theo hướng bền vững. Thông qua liên kết sẽ xây dựng được một hệ sinh thái du lịch đa dạng, độc đáo, tạo sức hút và được xem như là chìa khóa cho phát triển du lịch trong bối cảnh hiện nay. Liên kết giúp xây dựng các tuyến du lịch và các sản phẩm du lịch có tính liên kết ở quy mô lãnh thổ lớn hơn, giúp gia tăng thời gian lưu trú của khách du lịch. Liên kết không chỉ khai thác được số lượng du khách ghé tham quan, mà còn gia tăng chất lượng cho các chuyến đi của du khách thông qua hoạt động chi tiêu, mua sắm và đặc biệt là thời gian lưu trú lâu hơn của du khách, giúp tăng doanh thu cho du lịch của địa phương. Liên kết cũng giúp mở rộng thị trường khách hàng, tiếp cận với khách hàng, đa dạng hóa các sản phẩm và giúp cho khách du lịch có nhiều sự lựa chọn hơn… Có thể thấy, liên kết sẽ tạo ra được các sản phẩm du lịch tốt hơn, giúp địa phương khai thác tốt hơn các nguồn tài nguyên, tạo ra giá trị kinh tế cao hơn và bền vững hơn. Nhưng ngược lại, nếu như thiếu sự liên kết các nguồn lực giữa các địa phương với nhau thì sẽ dẫn đến tình trạng việc khai thác sẽ kém hiệu quả, lãng phí, không xây dựng được các sản phẩm đặc trưng của mỗi địa phương, sản phẩm du lịch nghèo làm thiếu sức hút, không tạo ra được lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Không liên kết dẫn đến phát triển du lịch ở từng địa phương mang tính tự phát, tạo ra rào cản trong việc khai thác vì phát triển du lịch trong bối cảnh hiện nay không còn bó hẹp trong phạm vi một địa phương mà được xem như là hoạt động không biên giới. 3.2. Kết quả nghiên cứu 3.2.1. Tiềm năng liên kết các làng nghề trong tỉnh để phát triển du lịch sinh thái. So với các tỉnh trong vùng Đông Nam Bộ, Bình Dương có diện tích thuộc loại trung bình (2,69 nghìn km2) chiếm khoảng 11,4% diện tích của vùng; dân số tương đối lớn (2,68 triệu người) chiếm 14,7% dân số của vùng và xếp sau TP.HCM và Đồng Nai. Bình Dương là tỉnh nằm trong top đầu cả nước về đóng góp GDP (0,408 triệu tỷ đồng) cho đất nước, chỉ sau thành phố Hồ Chí Minh (1,299 triệu tỷ đồng) và thành phố Hà Nội (1,067 triệu tỷ đồng). Giá trị đóng góp cho nền 321
  5. kinh tế chủ yếu đến từ công nghiệp, dịch vụ và thương mai. Không chỉ có lợi thế trong các lĩnh vực trên mà còn có một nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn của phong phú, thích hợp cho việc phát triển du lịch sinh thái. Nằm ở cửa ngõ phía Bắc của vùng Đông Nam Bộ, trên các tuyến đường giao thương với vùng Tây Nguyên và tuyến đường kết nối cửa khẩu với Campuchia, có lịch sử khai thác các vùng đất lâu đời. Vì vậy nơi đây có một nền văn hóa đa dạng, đặc sắc, mỗi một địa phương có những nét đặc trưng riêng. Hiện nay tỉnh cũng đã có những chủ trương bảo tồn phát huy và phát triển song song với hoạt động du lịch. Hiện nay, Bình Dương có 63 di tích lịch sử- văn hóa, công trình kiến trúc nghệ thuật, khảo cổ có giá trị đã được công nhận cấp quốc gia và địa phương, trong đó có 1 di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại “Đờn ca tài tử Nam Bộ” đã được tổ chức UNESCO cộng nhận năm 2013; 13 di tích lịch sử được xếp hạng cấp quốc như nhà tù Phú Lợi, địa Đạo Tây Nam Bến Cát, khảo cổ học Dốc Chùa, đình Phú Long, Khảo cổ học Cù Lao Rùa, sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh, chiến khu D, đình Tân An, đình Dĩ An; 50 di tích được xếp hạng cấp tỉnh như đình Phú Cường, nhà tổ Đỗ Cao Thứa, nhà cổ Nguyễn Tri Quang, Miếu Mộc Tổ, chùa Hưng Long, căn cứ cách mạng rừng Kiến An, căn cứ cách mạng Hố Lang, danh thắng núi Cậu- lòng hồ Dầu Tiếng ….; lễ hội văn hóa dân gian gồm: lễ hội Phật giáo, Thiên chúa giáo, Cao Đài Hòa Hảo, lễ hội Chùa Bà Thiên Hậu, lễ hội gắn liền với cộng đồng dân tộc Kinh, người Hoa, người Chăm… Đặc điểm thị trường khách du lịch đến với Bình Dương chủ yếu là hoạt động du lịch nghỉ dưỡng vào cuối tuần kết hợp với tham quan các điểm văn hóa lịch sử, các làng nghề thủ công truyền thống. Nhờ có nguồn tài nguyên nhân văn đa dạng nên du khách không chỉ bị hấp dẫn bởi các sản phẩm thủ công mỹ nghệ mang đậm tính địa phương, mà du khách còn được tham quan một cách trực tiếp, tham gia thử nghiệm thực tế vào một khâu trong quá trình sản xuất. Các sản phẩm mang giá trị về văn hóa truyền thống được truyền tải trong các sản phẩm của làng nghề. Hơn nữa, nguồn tài nguyên này giúp xây dựng các tuyến du lịch kết nối với các tỉnh khác trong vùng, các tỉnh khác ở vùng lân cận thông qua các sản phẩm du lịch sinh thái được thiết kế chứa đựng các giá trị khác biệt. Theo thống kê của Hiệp hội làng nghề Việt Nam hiện có khoảng 5.400 làng nghề, trong đó vùng Đông Nam Bộ có 117 làng nghề, Bình Dương có 32 làng nghề và 9 nghề truyền thống, chiếm 27,3% số làng nghề của vùng. Một số làng nghề có thể kể đến như: làng gốm Bình Dương với ba làng nghề sản xuất gốm Tân Phước Khánh (Tân Uyên), Lái Thiêu (Thuận An) và Chánh Nghĩa (Thị xã Thủ Dầu Một); làng nghề sơn mài (Tương Bình Hiệp và Tân An - Thủ Dầu Một); làng guốc và chày cối thớt (Phú Thọ - Hưng Định - Thuận An); làng chạm trổ điêu khắc gỗ (Phú Thọ, Chánh Nghĩa - Thủ Dầu Một và An Thạnh - Thuận An); nghề mây tre đan (Lạc An - Tân Uyên, Phú An và An Điền - Bến Cát),...Phần lớn các làng nghề đều có thị trường trong nước và tham gia xuất khẩu sản phẩm sang thị trường nước ngoài nên mang lại thu nhập cho các cơ sở sản xuất. Do nằm ngay ở trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước nên các làng nghề có điều kiện áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ để tăng năng suất và nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như chia sẻ kinh nghiệm trong phát triển các sản phẩm của các làng nghề với nhau. Liên kết phát triển du lịch làng nghề gắn với du lịch sinh thái đang là một xu hướng phát triển của vùng bởi những lợi ích đặc thù của ngành mang lại đó là giáo dục môi trường sâu sắc, có sự đóng góp vào nỗ lực bảo tồn và sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương. Giao thông Bình Dương với các tỉnh trong vùng và lân cận. Đặc biệt là các làng nghề đều nằm trên các tuyến giao thông quan trọng và thuận tiện trong việc di chuyển, thiết kế các tuyến du lịch sinh thái. So với một số tỉnh trong vùng, Bình Dương được đánh giá cao hơn về cơ sở hạ tầng giao thông vận tải. Trên bộ có nhiều tuyến giao thông huyết mạch như quốc lộ 1A, quốc lộ 13 kết nối với Campuchia qua cửa khẩu Hoa Lư (Bình Phước), Vành Đai 4 kết nối 5 tỉnh Đông Nam Bộ, các tuyến giao thông tỉnh lộ khá dày đặc kết nối với các tỉnh trong vùng như Tl.741 - Tl.747, tạo lực Bắc Tân Uyên – Phú Giáo – Bàu Bàng, Mỹ Phước- Tân Vạn. Ngoài ra, 322
  6. Bình Dương có nhiều dự án lớn về giao thông sắp được triển khai như cao tốc TP.HCM – Thủ Dầu Một – Chơn Thành, Cao tốc TP. HCM – Lộc Ninh, Metro thành phố mới Bình Dương – Uyên Hưng – Tân Thành, Metro Dĩ An – Tân Uyên, kéo dài metro Bến Thành – Suối Tiên đến thị xã Dĩ An. Về hàng không, tuy không có cảng hàng không nhưng khoảng cách lên đến sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất lớn nhất cả nước không quá xa chỉ 30km. Hệ thống giao thông đường sông thuận tiện nhờ ba mặt giáp các sông lớn như sông Sài Gòn, Đồng Nai, sông Bé, Thị Tính lên việc di chuyển giữa các tỉnh trong vùng dễ dàng và thuận tiện, giảm tải cho giao thông trên bộ. Có thể thấy sự đa dạng về giao thông là điều kiện hết sức thuận lợi cho phát triển kinh tế nói chung và du lịch sinh thái của tỉnh nói riêng Nguồn nhân lực chất lượng cao cho du lịch sinh thái khá dồi dào vì tỉnh nằm trong vùng Đông Nam Bộ với hạt nhân là TP. HCM là nơi đào tạo và thu hút lực lượng lao động lớn nhất cả nước, động lực cho phát triển kinh tế xã hội. Trong 6 tỉnh Đông Nam Bộ, xếp về cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật của dân số thì TP. HCM đứng đầu với khoảng 9,8% dân số có trình độ đại học trở lên, tiếp đó là Bà Rịa - Vũng Tàu với 4,8%, Đồng Nai 3,5%, Bình Dương 2,7%. Bình Dương hiện có 08 trường đại học, 07 trường cao đẳng, 16 trường trung cấp, 46 trung tâm và cơ sở dạy nghề với khả năng đào tạo khoảng 80.000 đến 85.000 học viên/năm, phục vụ nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Bên cạnh đó, nằm ngay cạnh là Tp.HCM có nhiều cơ sở đào tạo nghề du lịch nhất cả nước (với 46 cơ sở đào tạo ở cả 3 cấp độ đại học, cao đẳng và trung cấp). Điều cần làm là làm sao phải có được các khu du lịch xứng tầm và quy hoạch bài bản với môi trường làm việc, chế độ đãi ngộ hấp dẫn giúp thu hút nguồn nhân lực chất lượng cho quá trình phát triển du lịch sinh thái. Hoạt động du lịch sinh thái bước đầu đã đạt được những tín hiệu khả quan từ các dự án du lịch sinh thái đã đầu tư. Tỉnh cũng thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư khai thác hình thành một số khu, điểm du lịch tiêu biểu như: Phương Nam Resort; Du lịch Xanh Dìn Ký; An Lâm Sài Gòn River; Sài Gòn Park Resort; Du lịch Thuỷ Châu; khu di tích cách mạng và du lịch sinh thái Hố Lang, khu du lịch sinh thái Đọt Chăm Pa, làng tre Phú An, Đại Nam, Phim trường Windmill, công viên trung tâm thành phố mới Bình Dương,… Đây là những điểm nghỉ dưỡng hấp dẫn cho người dân, người lao động và du khách trong tỉnh và các tỉnh thành lân cận trong khu vực miền Đông Nam Bộ vào dịp cuối tuần và các ngày lễ. Bên cạnh đó, thời gian qua địa phương tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh du lịch lữ hành, khu điểm du lịch, cơ sở lưu trú, giao lưu ký kết hợp tác xây dựng sản phẩm, sử dụng dịch vụ của nhau thông qua các sự kiện văn hóa du lịch, hội nghị, hội thảo hoặc tổ chức các đoàn Famtrip khảo sát sản phẩm du lịch mới, kết nối tour tuyến để giới thiệu và chào bán cho du khách trong và ngoài nước. Kết quả rõ nét nhất của sự liên kết hợp tác với các tỉnh Đông Nam Bộ chính là đưa thương hiệu du lịch sinh thái Đông Nam Bộ đến với du khách trong và ngoài nước như là điểm đến lý tưởng của Việt Nam với nhiều sản phẩm đa dạng, chất lượng dịch vụ tốt, trong đó kết hợp phát triển du lịch làng nghề là sản phẩm du lịch độc đáo giúp hình thành nên thương hiệu này. Chính sự hợp tác này giúp cho du lịch Bình Dương ngày càng khởi sắc. Theo thống kê của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bình Dương và niên giám thống kê cho thấy tổng lượt khách và doanh thu du lịch tăng đều qua các năm từ 4,2 triệu lượt khách (2015), 5,15 triệu lượt (2019), doanh thu đạt 1.120 tỷ đồng (2015), 1.440 tỷ đồng (2019) cho thấy kết quả của việc đẩy mạnh liên kết, tuy giai đoạn từ năm 2020-2022 tổng số lượt khách và doanh thu sụt giảm nghiêm trọng, nhưng hoàn toàn dễ hiểu vì ảnh hưởng chung của Covid 19 đến kinh tế toàn cầu. 3.2.2. Những hạn chế trong liên kết làng nghề phát triển du lịch sinh thái của Bình Dương Kết quả du lịch của tỉnh những năm qua là hết sức khả quan. Số lượng khách du lịch đến và doanh thu du tăng đều hàng năm. Tuy nhiên, hoạt động du lịch sinh thái của tỉnh vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, vẫn chưa khai thác tốt được tiềm năng vốn có. Qua trao đổi đi sâu với cán bộ quản lý của địa phương, người dân các làng nghề và doanh nghiệp du lịch. Tác giả thấy một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên: 323
  7. + Chưa có sự liên kết các làng nghề với nhau thông qua hiệp hội các làng nghề tại địa phương và các địa phương khác để cùng nhau hỗ trợ trong công tác tìm kiếm nguồn nguyên liệu thấp, giá cả ổn định, đầu ra cho sản phẩm. Đa số các chủ cơ sở tự bỏ vốn để kinh doanh nên việc tiếp cận nguồn vốn vốn tín dụng còn gặp nhiều khó khăn, các nguồn nguyên vật liệu cung cấp tại địa phương chưa đảm bảo, nguồn nguyên vật liệu ngoài tỉnh còn khó trong kết nối như nguồn nguyên liệu về gỗ, cao lanh, mây tre…Bên cạnh đó, các sơ sở sản xuất tự sử dụng mặt bằng của gia đình để sản xuất nên không gian sản xuất còn thiếu quy hoạch tổng thể như nhiều nơi thiếu chỗ đậu xe, chỗ nghỉ ngơi, vệ sinh để đón tiếp phục vụ cho các đoàn khách tới tham quan. + Lao động của các làng nghề thường chưa qua đào tạo trình độ văn hóa còn thấp, phần lớn được truyền thừa từ thế hệ này qua thế hệ khác, vốn sống thì bó hẹp ở địa phương sinh sống, ít có cơ hội giao thương với nước ngoài nên không có điều kiện học hỏi để thiết kế được các mẫu sản phẩm mới, đẹp, phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Kiến thức về quản lý vận hành các cơ sở còn thiếu sự chuyên nghiệp, thiếu những kiến thức chung về giao tiếp, kỹ năng bán sản phẩm… cản trở việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất cũng như việc mở rộng đầu tư quy mô lớn. + Các làng nghề đôi khi còn chứa đựng nhiều tiêu cực trong hoạt động hoạt động kinh doanh, nhiều sản phẩm bị sao chép, chất lượng kém, cạnh tranh một cách tiêu cực thông qua việc hạ giá thành sản phẩm. Nhiều sản phẩm của các làng nghề có trùng lắp, giống nhau, không có sự sáng tạo chưa đủ thu hút khách du lịch để cạnh tranh với các làng nghề ở các địa phương khác. Các sản phẩm du lịch khác như văn hóa- lịch sử, kiến trúc, khảo cổ, danh thắng…cũng thiếu sự liên kết với các sản phẩm khai thác ở các làng nghề. Phần lớn các sản phẩm có tính liên kết cao tập trung ở thành phố Hồ Chí Minh. + Hoạt động du lịch của các làng nghề còn thiếu sự quy hoạch mang tính đồng bộ, sự phối hợp, quan tâm của các ban ngành đoàn thể trong việc xây dựng kế hoạch phát triển chung. Liên kết giữa các địa phương trong việc kết nối phát triển tuyến điểm du lịch với các làng nghề còn rất hạn chế, sự thiếu đồng đều giữa các tuyến điểm như có tuyến du lịch rất đông khách và ngược lại. Các công ty du lịch lữ hành ở trong tỉnh cũng như ngoại tỉnh còn thiếu sự liên kết hợp tác trong việc xây dựng các sản phẩm du lịch mang tính đặc trưng của địa phương. Đặc biệt là hướng đến các sản phẩm du lịch sinh thái kết hợp với các sản phẩm văn hóa, làng nghề. Công tác xúc tiến, quảng bá còn đơn điệu, tồn tại rất nhiều hạn chế. + Có sự nhất quán cao về mục tiêu phát triển của các ngành về giữa các địa phương. Tuy do xung đột về lợi ích nên không phải dự án đầu tư nào cũng được cũng được quan tâm phối hợp và đầu tư để triển khai thực hiện vì mục tiêu chung. Những năm qua phần lớn các địa phương vệ tinh xung quanh thành phố Hồ Chí Minh chủ động kết nối với thành phố Hồ Chí Minh, việc kết nối giữa các tỉnh với nhau chưa thực sự được làm tốt. 3.2.3. Khuyến nghị để liên kết làng nghề cho phát triển du lịch sinh thái. Một là: liên kết, phối hợp các nguồn lực giữa các đơn vị trong tỉnh và các đơn vị ngoài tỉnh để kết nối các làng nghề gắn với phát triển du lịch sinh thái. Nghiên cứu xác định lợi thế so sánh của các làng nghề truyền thống với từng điểm, khu du lịch trong tỉnh. Đây là cơ sở để xác định các sản phẩm du lịch đặc trưng của từng địa phương từ đó định vị các sản phẩm đặc sắc của tỉnh, giúp cho sự liên kết du lịch hiệu quả hơn vì các địa phương đều tìm ra lợi thế sản phẩm riêng để phát huy thế mạnh liên kết. Đó cũng là cơ sở để xác định các sản phẩm du lịch theo chuỗi giá trị tạo thành những sản phẩm du lịch hấp dẫn cho từng nhóm loại hình cung cấp cho du khách mà tỉnh cần tập trung đầu tư. Ví dụ như tuyến du lịch đưa du khách từ thành phố Hồ Chí Minh xuống Bình Dương – Bình Phước- Tây Ninh đã quen thuộc, xong trên những cung đường du khách đi qua có rất nhiều điểm dừng để các công ty du lịch có thể lựa chọn khai thác làm mới sản phẩm du lịch như đến thăm các làng nghề, di tích lịch sử - văn hóa, khảo cổ học… 324
  8. Phối hợp trong đào tạo nguồn nhân lực vì các làng nghề trong vùng đang thiếu hụt đội ngũ nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được chuẩn quốc tế trước những hạn chế trong cách truyền dạy và tổ chức dạy nghề. Các ngành nghề nên liên kết với các trường đại học lớn ở trong tỉnh và khu vực. Hình thức liên kết đào tạo này sẽ phát huy được tiềm năng, thế mạnh của các ngành nghề và trường đại học, viện nghiên cứu. Việc liên kết này giúp cho người học có được những kiến thức thực tế như sự truyền đạt của các nghệ nhân giỏi, có không gian tổ chức lớp học, hội trường, nhà văn hóa, nhà xưởng sản xuất của các gia đình, công ty và phương tiện thực hành nghề thiết thực. Nếu như cách dạy nghề của các làng nghề vốn chỉ chú trọng đến thực hành, kinh nghiệm thì các trường đại học, viện nghiên cứu có thể đẩy mạnh đào tạo khoa học bài bản, luôn cập nhật những vấn đề mang tính thời sự, giúp hoàn thiện nguồn tri thức và hướng phát triển tư duy cần có cho người học. Phối hợp trong hoạt động đầu tư phát triển cơ sở vật chất hạ tầng du lịch. Để huy động vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế khác đầu tư vào sản phẩm du lịch, đặc biệt là nguồn vốn FDI. Nghiên cứu áp dụng các giải pháp như đổi đất lấy hạ tầng đã thành công ở nhiều địa phương khác, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, cấp giấy phép đầu tư, ban hành các ưu đãi về đầu tư như: ưu tiên giải phóng mặt bằng, giảm giá cho thuê đất, miễn giảm thuế, …Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông. Lưu ý các tuyến giao thông quan trọng kết nối các điểm du lịch trọng điểm để hình thành lên các tuyến điểm du lịch phong phú. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến quảng bá các làng nghề truyền thống gắn với thương hiệu du lịch sinh thái của tỉnh để nâng cao tính chuyên nghiệp, chất lượng hiệu quả của công tác này cần phải có sự hợp chặt chẽ của các ban ngành ở quy mô cấp địa phương, rồi cấp vùng sẽ mang lại hiệu quả cao. Các địa phương nên có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp lữ hành xây dựng những tour du lịch mới đến với làng nghề. Cần phối hợp tạo điều kiện để các hãng lữ hành nghiên cứu xây dựng sản phẩm du lịch độc đáo, đặc sắc nhằm nâng cao sức cạnh tranh, thu hút khách quốc tế vì đối tượng này có khả năng chi trả cao, thích tìm hiểu và trải nghiệm văn hóa bản địa. Liên kết quảng bá hình ảnh, thương hiệu bằng đa kênh như kênh ngoại giao, hàng không, các doanh nghiệp du lịch tổ chức các đoàn khảo sát cho báo chí trong nước và ngoài nước để tuyên truyền trên mạng và các phương tiện thông tin đại chúng. Ngoài ra, liên kết chung trong quản lý dữ liệu khách hàng (Big Data) trên nền tảng internet giúp các địa phương tiếp cận thông tin khách hàng thuận tiện, nhanh chóng hơn. Liên kết, chia sẻ kinh nghiệm trong bảo vệ môi trường tại các điểm du lịch nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc phát triển bền vững, ít tác động tiêu cực của con người trong khai thác kinh doanh du lịch tới tài nguyên, văn hóa bản địa, làng nghề truyền thống. Xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế quản lý chung, tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các tổ chức cá nhân, doanh nghiệp du lịch không thực hiện đúng các quy định về vệ sinh môi trường. Nâng cao nhận thức của cộng đồng dân cư trong kinh doanh du lịch. Hai là: Xây dựng cơ chế đồng thuận cho các địa phương qua tăng cường đối thoại Việc phát huy cơ chế đồng thuận và đối thoại giữa các cấp lãnh đạo địa phương trong vùng sẽ giúp xác định các bước đi và hành động cụ thể của từng địa phương trong từng mốc thời gian cụ thể. Việc thực hiện các mục tiêu của vùng sẽ không bị chồng chéo và ảnh hưởng đến lợi ích của các bên tham gia. Để đảm bảo hiệu quả cho công tác này cần thiết lập mạng lưới thông tin nội bộ của vùng, sử dụng chính sách luân chuyển cán bộ để hỗ trợ. Nên thành lập hội đồng tư vấn phát triển và bảo tồn nghề làng nghề thủ công truyền thống của tỉnh, tập trung không chỉ các nhà đại diện lãnh đạo các địa phương trong tỉnh, mà còn thu hút các chuyên gia đầu ngành của lĩnh vực trong và ngoài nước tham gia để hỗ trợ tư vấn và đề xuất các giải pháp phát triển du lịch sinh thái bền vững, khai thác được tiềm năng du lịch của tỉnh. 325
  9. 4. KẾT LUẬN Liên kết phát triển làng nghề truyền thống với hoạt động du lịch sinh thái của tỉnh trong trong thời gian qua đã đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận, mang lại lợi ích to lớn về mặt văn hóa - xã hội góp phần giữ gìn bảo tồn những giá trị văn hóa đặc trưng, thể hiện nỗ lực của cơ quan quản lý ngành du lịch cũng như các địa phương. Tuy nhiên, hoạt động liên kết này vẫn chưa đạt được mức kỳ vọng trên thực tế. Vẫn còn nhiều tồn tại cần khắc phục. Kết quả không như mong muốn bởi nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan như những xung đột lợi ích của từng địa phương trong tỉnh. Cần phải có sự đồng thuận rất lớn từ các địa phương để có những chính sách phát triển hài hòa giữa kinh tế - xã hội của các bên tham gia góp phần xây dựng thương hiệu du lịch sinh thái làng nghề truyền thống ở Bình Dương đến với du khách trong và ngoài nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hà Anh (2019). Phát huy tiềm năng, thế mạnh vùng Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long, báo Điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam. http://dangcongsan.vn/kinh-te/phat-huy-tiem-nang-the- manh-vung-dong-nam-bo-va-dong-bang-song-cuu-long-531821.html, [truy cập ngày 10/05/2023]. 2. Lê Huy Bá (2003). Du lịch sinh thái. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hồ Chí Minh. 3. Nguyễn Như Bình (2017). “Du lịch làng nghề ở Đông Nam Bộ - Thực trạng và một số giải pháp phát triển”. Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Nai, số 07. 4. Phan Đại Doãn (2001), Làng Việt Nam - Một số vấn đề kinh tế - xã hội - văn hóa. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 5. Phạm Xuân Hậu và Trịnh Văn Anh (2012). “Giải pháp phát triển bền vững làng nghề truyền thống ở Viêt Nam phục vụ cho du lịch”. Tạp chí Khoa học Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Số 35 (2012). 6. Nguyễn Đình Hòe (2010). Định hướng phát triển các làng nghề miền Đông Nam Bộ đến năm 2020. Nhà xuất bản Trường Đại học Kinh tế, TP Hồ Chí Minh 7. Nguyễn Tri Nam Khang, Mai Văn Nam và Dương Quế Nhu (2013). “Giải pháp phát triển làng nghề truyền thống kết hợp với du lịch tỉnh Hậu Giang”. Tạp chí Khoa học Đại học Cần Thơ, số 28, 17-25. 8. Lê Thị Minh Lý (2003). “Làng nghề và việc bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể”. Tạp chí Di sản văn hóa, số 4, 69-71. 9. Phạm Thị Lý (2019). Liên kết vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong phát triển du lịch. Nhà xuất bản Đại học Kinh tế, Hồ Chí Minh 10. Nguyễn Thị Minh Nguyệt (2016), “Tổng quan nghiên cứu về Du lịch sinh thái”, Tạp chí văn học nghệ thuật, số 382 (04/2016). 11. Cục Thống kê tỉnh Bình Dương. Niên giám thống kê 2014 đến 2021. Bình Dương. 12. Sở Văn hóa thể thao và Du lịch tỉnh Bình Dương (2023). Trang thông tin điện tử Sở Văn hóa thể thao và Du lịch tỉnh Bình Dương, Địa chỉ: https://sovhttdl.binhduong.gov.vn/tin-tuc/danh-muc-di- tich-quoc-gia-va-cap-tinh-tren-dia-ban-tinh-binh-duong-2100.html., [truy cập ngày 10/05/2023]. 13. Minh Tiến (2022). Top 10 tỉnh, thành có đóng góp lớn nhất vào quy mô GDP cả nước, trang Thông tin điện tử tổng hợp CAFEF, Địa chỉ: https://cafef.vn/top-10-tinh-thanh-co-dong-gop-lon-nhat-vao- quy-mo-gdp-ca-nuoc-20220616100854201.chn, [truy cập ngày 10/105/2023]. 14. Hội Văn học Nghệ thuật Bình Dương (2008). Làng nghề Bình Dương. Nxb Trẻ TP. Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh. 15. Quốc hội (2017). Luật Du lịch Việt Nam năm 2017. Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. 326
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
22=>1