01
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
THÁI NGỌC CHÂU
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU
QUỐC HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Nghệ An, 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
THÁI NGỌC CHÂU
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU
QUỐC HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 9310201
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Cán bộ hướng dẫn: 1. PGS.TS Đinh Thế Định
2. PGS.TS Đinh Trung Thành
Nghệ An, 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng cá nhân tôi.
Các kết quả số liệu khảo sát nêu trong luận án này là trung thực, khách quan và chưa
từng được công bố ở bất cứ một công trình nghiên cứu khoa học nào. Nếu có gì sai sót,
tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Nghệ An, ngày tháng 03 năm 2021
Tác giả
Thái Ngọc Châu
LỜI CẢM ƠN
Luận án hoàn thành là do sự phấn đấu, nỗ lực của bản thân, đồng thời có sự
hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện của các nhà khoa học và các cơ quan, đơn vị.
Với tình cảm chân thành và lòng kính trọng, tác giả luận án xin trân trọng cảm
ơn tập thể lãnh đạo và quý thầy cô Trường Đại học Vinh, Viện Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Phòng Đào tạo Sau đại học. Đặc biệt, xin cảm ơn PGS.TS Đinh Thế Định
và PGS.TS Đinh Trung Thành đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tác giả hoàn thành
luận án.
Tác giả cũng chân thành cảm ơn sự quan tâm tạo điều kiện của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội, gia đình, cùng sự động viên, giúp đỡ có hiệu quả của bạn bè và các đồng
nghiệp trong suốt quá trình học tập và viết luận án.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả
Thái Ngọc Châu
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Chữ cái viết tắt Chữ viết
Công nghiệp hóa 1. CNH
Chủ nghĩa xã hội 2. CNXH
Đại biểu Quốc hội 3. ĐBQH
Hiện đại hóa 4. HĐH
Hoạt động giám sát 5. HĐGS
Hội đồng dân tộc 6. HĐDT
Hội đồng nhân dân 7. HĐND
8. KH&CN Khoa học và công nghệ
Mặt trận Tổ quốc 9. MTTQ
Nghị quyết đại hội 10. NQĐH
Nghị quyết Trung ương 11. NQTW
Ủy ban nhân dân 12. UBND
Uỷ ban thường vụ quốc hội 13. UBTVQH
Văn bản quy phạm pháp luật 14. VBQPPL
Xã hội chủ nghĩa 15. XHCN
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU
Sơ đồ 2.1: Quy trình chất vấn của ĐBQH tại phiên họp toàn thể 49
Sơ đồ 2.2: Quy trình chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội 50
Sơ đồ 2.3: Quy trình chất vấn bằng văn bản 51
Sơ đồ 2.4: Quy trình giám sát văn bản quy phạm pháp luật 52
Sơ đồ 2.5: Quy trình giám sát việc thi hành pháp luật 53
Sơ đồ 2.6: Quy trình giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của 54
công dân
Sơ đồ 3.1: Cơ cấu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 80
Bảng 3.1: Cơ cấu đại biểu Quốc hội Việt Nam các khóa 83
Biểu 3.1: Mức độ thường xuyên sử dụng hình thức chất vấn 90
Biểu 3.2: Phân loại ngành nghề ĐBQH kiêm nhiệm thực hiện quyền chất 91
vấn
Biểu 3.3: Chỉ số tín nhiệm của Bộ trưởng Bộ Công thương và Bộ trưởng Bộ 93
Nội vụ trong nhiệm kỳ khóa XIII
Biểu 3.4: Mức độ thường xuyên giám sát văn bản QPPL 97
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU 1
B. NỘI DUNG 8
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN 8
ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài được công bố trong 8
nước và ngoài nước
1.2. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố liên 20
quan đến đề tài và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Kết luận chương 1 26
Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC 27
TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC
HỘI VIỆT NAM
2.1. Khái niệm và vai trò hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội 27
2.2. Nội dung, quy trình và điều kiện bảo đảm hoạt động giám sát của 40
đại biểu Quốc hội
2.3. Hoạt động giám sát của nghị sĩ một số nước trên thế giới và kinh 67
nghiệm cho Việt Nam
Kết luận chương 2 78
Chương 3. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU 79
QUỐC HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Khái quát về cơ cấu tổ chức của Quốc hội và đại biểu Quốc hội 79
Việt Nam hiện nay
3.2. Kết quả đạt được và hạn chế trong hoạt động giám sát của đại biểu 85
Quốc hội Việt Nam hiện nay
3.3. Những vấn đề đặt ra trong hoạt động giám sát của đại biểu Quốc 110
hội hiện nay
Kết luận chương 3 123
Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG 124 GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VIỆT NAM
4.1. Quan điểm tăng cường hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội 124
Việt Nam
4.2. Giải pháp tăng cường hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội 128
Việt Nam
Kết luận chương 4 152
C. KẾT LUẬN 153
D. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC 155
GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
E DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 156
F PHỤ LỤC 167
1
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Điều 69, Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khẳng định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện
quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và
giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Quốc hội có ba chức năng cơ bản
là: chức năng lập hiến, lập pháp, chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước và chức năng giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Trong đó, chức
năng giám sát đóng vai trò quan trọng nhằm đảm bảo cho Hiến pháp và pháp luật được
thực thi nghiêm minh; đảm bảo cho các cơ quan nhà nước thực hiện đúng và có hiệu
quả nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Thực tiễn 75 năm hoạt động của Quốc hội cho
thấy, việc thực hiện có hiệu quả chức năng giám sát là vấn đề có ý nghĩa to lớn, góp
phần quan trọng nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan trong hệ
thống bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, hạn chế những biểu hiện “tha
hóa” quyền lực, tham nhũng, quan liêu.
Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) là những công dân tiêu biểu trong các lĩnh vực hoạt
động của nhà nước và xã hội được nhân dân tín nhiệm trực tiếp bầu ra thông qua tổng
tuyển cử tự do - hình thức bầu cử được đánh giá có tính phổ biến, hiện đại và dân chủ
nhất trong các hình thức bầu cử. ĐBQH là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng
của nhân dân, thay mặt cho nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước trong Quốc hội.
Cùng với việc tham gia thảo luận và quyết định các vấn đề về lập hiến, lập pháp, quyết
định các chính sách quan trọng phát triển kinh tế, xã hội, ĐBQH thay mặt nhân dân
thực hiện giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Hoạt động giám sát (HĐGS)
của ĐBQH có ý nghĩa hết sức quan trọng, không chỉ thực hiện vai trò là người đại diện
cho nhân dân mà còn góp phần kiểm soát quyền lực của nhà nước, kiểm soát quản lý
công và bổ sung cho lập pháp. Từ đó đảm bảo cho các cơ quan nhà nước thực thi chức
năng và nhiệm vụ của mình theo khuôn khổ của pháp luật.
2
Sau 35 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới (1986 - 2021), đặc biệt là từ khi Luật
hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003, tiếp đến Luật hoạt động giám sát của
Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 có hiệu lực, HĐGS của Quốc hội, của
ĐBQH đã có sự đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động, có nhiều chuyển
biến tích cực, tập trung vào những vấn đề mà cử tri và dư luận xã hội quan tâm. Nhờ
đó góp phần ổn định chính trị, thúc đẩy kinh tế, xã hội ngày càng phát triển. Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn HĐGS của ĐBQH thời gian qua
vẫn còn một số hạn chế cần được tiếp tục nghiên cứu và giải quyết triệt để. Việc thực
hiện HĐGS của từng đại biểu chưa được thực hiện nhiều do còn thiếu những quy định
cụ thể và cơ chế hỗ trợ về mặt chuyên môn, do năng lực cũng như kinh nghiệm giám
sát của ĐBQH, nhất là ĐBQH kiêm nhiệm chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu ngày
càng cao của hoạt động này. Hoạt động giám sát chưa đi sâu, phát hiện và đề xuất giải
quyết kịp thời những vấn đề nảy sinh của xã hội. Điều kiện về thời gian, vật chất,
thông tin cho hoạt động giám sát chưa đảm bảo...
Trong giai đoạn hiện nay, với tốc độ phát triển nhanh chóng của cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0, quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa và hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng đã tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn,
thách thức cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Bối cảnh mới của
thế giới và đất nước đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của
Quốc hội nhằm đảm bảo cho Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân, thực hiện tốt các chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng và giám
sát tối cao. Theo đó, cần chú trọng tăng cường hoạt động của ĐBQH, nhất là HĐGS
nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, góp phần củng
cố, tăng cường niềm tin của cử tri, nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Việc nghiên
cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp tăng cường HĐGS của
ĐBQH góp phần vào việc đổi mới và nâng cao hiệu quả HĐGS của Quốc hội nói
chung và ĐBQH nói riêng.
3
Với những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn vấn đề “Hoạt động giám sát của
đại biểu Quốc hội Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án Tiến sĩ chuyên ngành Chính
trị học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tổng quan tình hình nghiên cứu, phân tích, làm rõ những vấn đề
lý luận, thực trạng HĐGS của ĐBQH, luận án đề xuất quan điểm và giải pháp tăng
cường HĐGS của ĐBQH Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất: Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên
quan đến hoạt động giám sát của ĐBQH, rút ra những vấn đề tiếp tục nghiên cứu.
Thứ hai: Làm rõ cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về hoạt động giám sát
của ĐBQH Việt Nam.
Thứ ba: Đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam.
Thứ tư: Đề xuất quan điểm và giải pháp tăng cường hoạt động giám sát của
ĐBQH Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là HĐGS của ĐBQH Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về phạm vi nội dung:
Luận án nghiên cứu hoạt động giám sát của ĐBQH với tư cách là một chủ thể
giám sát độc lập, bao gồm các hoạt động chất vấn, giám sát văn bản quy phạm pháp
luật, giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương, giám sát việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo của công dân.
4
- Về phạm vi thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu hoạt động giám sát của
ĐBQH Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt tập trung vào giai đoạn từ khi Luật
hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 (Luật số
87/2015/QH13) được thực hiện (từ 1/7/2016) cho đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
- Cơ sở lý luận của luận án là các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước, về tổ chức
và hoạt động của Nhà nước nói chung và về HĐGS của ĐBQH nói riêng.
- Tham khảo các lý thuyết chính trị về tổ chức nhà nước và về HĐGS. Đặc biệt
là tham khảo mô hình, phương thức giám sát của nghị viện một số nước như
Singapore, Ba Lan, Thụy Ðiển, Nhật Bản.
4.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận án vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
Trong luận án, tác giả sử dụng hai nhóm phương pháp nghiên cứu chính:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Luận án chủ yếu sử dụng phương
pháp phân tích hệ thống chính trị, phương pháp phân tích cấu trúc chức năng... Ngoài
ra luận án còn sử dụng các phương pháp chung, liên ngành và chuyên ngành khác như
các phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử và lôgíc, phương pháp thống kê, so
sánh, định tính, định lượng. Phương pháp tổng hợp được sử dụng để tổng hợp các tài
liệu nghiên cứu, các số liệu liên quan đến đề tài. Phương pháp phân tích được sử dụng
trong toàn bộ các phần của luận án như phân tích tài liệu để rút ra những mặt được và
những nội dung còn thiếu trong nghiên cứu vấn đề hoạt động giám sát của ĐBQH,
phân tích những vấn đề lý luận về hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam, phân tích
thực trạng hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam... Phương pháp thống kê, so sánh
được sử dụng trong đánh giá hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam.
5
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phương pháp khảo sát thực tế và
điều tra xã hội học, phương pháp thống kê, so sánh; phương pháp phân tích mô
hình thực tiễn... Nhóm phương pháp nghiên cứu này được sử dụng trong chương 2
và chương 3, nhất là trong phần nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn hoạt động giám
sát của nghị sĩ một số nước trên thế giới và đánh giá thực trạng hoạt động giám sát
của ĐBQH.
Phương pháp thu thập và xử lý số liệu: Luận án sử dụng các số liệu thứ cấp từ
các nguồn: Văn phòng Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc
hội, Cổng thông tin Quốc hội... Tác giả theo dõi một số phiên chất vấn của ĐBQH tại
các kỳ họp Quốc hội, các phiên họp UBTVQH và các phiên giải trình tại HĐDT, Uỷ
ban của Quốc hội để đánh giá tình hình thảo luận, tranh luận, nội dung câu hỏi, câu trả
lời và thống kê số liệu chất vấn của ĐBQH. Tác giả thực hiện gửi phiếu điều tra đến
các ĐBQH. Thời điểm tiến hành khảo sát là tháng 6/2018, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội
khóa XIV. Trên cơ sở các nguồn số liệu đó, tác giả tiến hành phân tích, tính toán thông
qua công cụ là phần mềm Excel trên máy tính. Phương pháp này được sử dụng chủ
yếu ở chương 3.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình,
phương pháp nghiên cứu dự báo, đưa ra những kiến nghị, giải pháp có tính khả thi.
5. Đóng góp mới của luận án
5.1. Về mặt lý luận
Thứ nhất, luận án góp phần bổ sung lý luận về HĐGS của ĐBQH Việt Nam,
làm rõ khái niệm HĐGS, vai trò, nội dung, quy trình HĐGS của ĐBQH cũng như các
điều kiện bảo đảm HĐGS của ĐBQH.
Thứ hai, qua nghiên cứu HĐGS của nghị sĩ một số nước trên thế giới, rút ra một
số kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho HĐGS của ĐBQH Việt Nam.
6
5.2. Về mặt thực tiễn
Thứ nhất, luận án đánh giá khách quan thực trạng hoạt động giám sát của
ĐBQH Việt Nam, nhất là giai đoạn từ khi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và
Hội đồng nhân dân (Luật số 87/2015/QH13) được thực hiện cho đến nay.
Thứ hai, luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp tăng cường HĐGS,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả HĐGS của ĐBQH Việt Nam.
Thứ ba, luận án phục vụ cho việc tham khảo, nghiên cứu lý luận và giảng dạy về
tổ chức hoạt động giám sát của ĐBQH. Đồng thời, rút ra kinh nghiệm trong việc tổ
chức hoạt động giám sát của Quốc hội, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả HĐGS
của ĐBQH Việt Nam.
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
6.1. Câu hỏi nghiên cứu
Thứ nhất: Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội Việt Nam dựa trên cơ sở lý
luận nào?
Thứ hai: Thực trạng hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam hiện nay như
thế nào?
Thứ ba: Yêu cầu đối với hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam trong thời
gian tới như thế nào?
Thứ tư: Giải pháp nào để tăng cường hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam?
6.2. Giả thuyết nghiên cứu
ĐBQH là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất cấu thành Quốc hội. Tất cả các
nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội đều do ĐBQH thực hiện. Chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của Quốc hội, ĐBQH trong HĐGS được Hiến pháp và pháp luật qui định
khá cụ thể. Tuy nhiên, thực trạng hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam hiện nay
còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cuộc sống và
mong muốn của cử tri. Các giải pháp mà luận án đưa ra nếu được nhận thức và vận
7
dụng vào thực tiễn một cách phù hợp sẽ góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả
HĐGS của ĐBQH Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các công trình
khoa học của tác giả, luận án được kết cấu gồm 4 chương, 10 tiết.
8
B. NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài được công bố trong
nước và ngoài nước
1.1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài về hoạt động giám sát của
Quốc hội và đại biểu Quốc hội
Cuốn sách The public and it's problems (Công chúng và các vấn đề liên
quan) xuất bản năm 1927 là công trình nghiên cứu lớn đầu tiên của nhà triết học
người Mỹ John Dewey về triết học và chính trị. Trong cuốn sách này, tác giả phân
tích tính khả thi của việc xây dựng một xã hội dân chủ thực sự trước sự phát triển
mạnh mẽ của công nghệ và sự biến đổi của xã hội trong thế kỷ XX; phân tích mối
liên hệ giữa “công chúng” và “nhà nước”, chỉ ra những điểm hạn chế trong thực
hiện lợi ích cá nhân và lợi ích công cộng. Trong Công chúng và các vấn đề liên
quan, John Dewey bác bỏ quan niệm phổ biến về kỷ trị chính trị như là một hệ
thống thay thế để quản lý xã hội ngày càng phức tạp. Ông khẳng định: dân chủ
mới thực sự là phương tiện hữu hiệu và bền vững nhất để quản lý xã hội nhằm đạt
được lợi ích công cộng. Tuy nhiên, để dân chủ phát huy hiệu quả đòi hỏi phải có
sự tham gia và giám sát thường xuyên của công chúng. Cũng trong Công chúng và
các vấn đề liên quan, John Dewey làm rõ các khái niệm như “công chúng”, “nhà
nước”, “chính phủ” và “dân chủ chính trị”; cho rằng nhà nước là cơ quan phục vụ
công chúng nhưng quyền lực của nhà nước thường bị lạm dụng để phục vụ lợi ích
của một nhóm người trong xã hội. Sở dĩ có tình trạng đó là do thiếu sự giám sát
của công chúng đối với nhà nước. Để khắc phục tình trạng đó cần phát huy dân
chủ, công chúng cần chủ động tham gia vào quá trình làm chủ của mình. Vì vậy,
cần phải có sự kiểm soát quyền lực, và do đó công chúng cần phải giám sát quyền
lực của nhà nước [114].
9
Cuốn sách Democracy and Critics (Dân chủ và các nhà bình luận) xuất bản
năm 1981 bởi Nhà xuất bản St.Martin, New York, Robert A.Dahl (1915–2014) cho
rằng, chưa có quốc gia hiện đại nào đáp ứng được lý tưởng về dân chủ. Theo
ông, để đạt được lý tưởng dân chủ, cần phải đáp ứng các tiêu chí sau:
Sự tham gia hiệu quả: Trước khi một chính sách được thông qua, tất cả thành
viên phải có cơ hội bình đẳng và hiệu quả để bày tỏ ý kiến của mình về chính sách
đó. Nói cách khác, công dân phải có cơ hội đầy đủ và bình đẳng bày tỏ nguyện vọng
của mình, đồng thời được thảo luận về các chương trình nghị sự, các chính sách của
nhà nước.
Sự bình đẳng trong bầu cử (bỏ phiếu): Khi quyết định thông qua các chính
sách, tất cả thành viên phải có quyền bình đẳng và hiệu quả để bỏ phiếu, và các lá
phiếu phải có giá trị như nhau.
Sự hiểu biết tập thể: tất cả thành viên phải có cơ hội bình đẳng và hiệu quả để
tìm hiểu về những chính sách thay thế liên quan, từ đó quyết định lựa chọn chính
sách sẽ đem lại lợi ích tốt nhất cho họ.
Kiểm soát chương trình nghị sự: Các thành viên phải có cơ hội độc lập nhằm
quyết định lựa chọn và giải quyết các vấn đề sẽ đưa ra trong chương trình nghị sự.
Các chính sách của quốc gia phải được sự đóng góp ý kiến của các thành viên và
chính sách có thể thay đổi khi các thành viên tán thành. Như vậy, tiến trình dân chủ
đáp ứng theo yêu cầu của ba tiêu chuẩn trên sẽ không bao giờ khép lại.
Bao gồm sự bình đẳng của người trưởng thành: Tất cả hoặc ít nhất phần
lớn cư dân thường trú trưởng thành phải có đầy đủ các quyền công dân đã nêu
trong bốn tiêu chí trên [112].
Cuốn sách The Sources of Social Power (Các nguồn sức mạnh của xã hội),
xuất bản năm 1986 của tác giả Michael Mann, đã phân biệt bốn nguồn sức mạnh
của xã hội và nhà nước, đồng thời chỉ ra mối liên hệ giữa chúng trong quá trình phát
triển lịch sử nhân loại, đó là: tư tưởng, kinh tế, quân sự và chính trị. Michael Mann
xác định nguồn gốc, cơ chế và kết quả của quyền lực mà nhà nước sở hữu liên quan
10
đến bốn nhóm quyền lực đó trong xã hội. Trong cuốn sách này, Michael Mann đã
khái quát quá trình xuất hiện của nhà nước và sự phân tầng xã hội, đưa ra định nghĩa
nhà nước, phân tích nội hàm của định nghĩa đó. Tác giả cũng đã phân tích hai phần
quan trọng của định nghĩa liên quan đến hai loại quyền lực nhà nước, được gọi là
sức mạnh phi thường và cơ sở hạ tầng [117].
Trong cuốn Managing Parliament in the 21st Century: EGPA Yearbook (Quản
trị nghị viện trong thế kỷ 21: Niên giám Egpa), các tác giả đã bàn luận về khái niệm
giám sát của nghị viện, đồng thời chỉ rõ: giám sát thực thi luật là hệ quả tất yếu của
chức năng lập pháp. Chỉ thông qua hoạt động giám sát quá trình thực thi pháp luật,
các thành viên nghị viện mới có thể phát hiện được các hạn chế của pháp luật, trên
cơ sở đó mới có thể sửa chữa những sai lầm và việc áp dụng pháp luật không đúng
đắn của cơ quan hành pháp. Theo đó, giám sát của nghị viện được xem là những
hoạt động tất yếu tiếp theo hoạt động lập pháp nhằm xem xét các đạo luật đã được
ban hành có được thực thi hiệu quả hay không và trên thực tế các đạo luật đó có
giải quyết được các vấn đề như dự định của các nhà soạn thảo hay không. Để đạt
được điều này, hoạt động giám sát của quốc hội đòi hỏi phải thực hiện hiệu quả các kỹ
thuật và cơ chế quản lý hành chính công [115].
Ricardo Pelizzo - Rick Stapenhurst trong Các công cụ giám sát của nghị
viện: Báo cáo điều tra thực chứng đã phân tích các công cụ giám sát của nghị viện ở
82 quốc gia, đánh giá về mối quan hệ giữa công cụ giám sát và những khía cạnh
khác nhau trong đời sống chính trị quốc gia. Các tác giả đi sâu phân tích mối quan
hệ giữa công cụ giám sát và hình thức chính thể quốc gia, mối quan hệ giữa công cụ
giám sát và mức độ dân chủ. Họ cho rằng ở hệ thống chính thể đại nghị, cơ quan lập
pháp có nhiều công cụ giám sát để lựa chọn hơn so với các cơ quan lập pháp ở mô
hình tổng thống và mô hình bán tổng thống. Các tác giả cũng chỉ ra mối quan hệ
tuyến tính giữa mức độ dân chủ và số lượng các công cụ giám sát [120].
Trong Congressional Investigations and Oversight: Case Studies and Analysis
(Điều tra và Giám sát của Quốc hội: Nghiên cứu điển hình và phân tích), các tác giả
Stanley M. Brand & Lance Cole xem xét các vấn đề pháp lý và chính sách xung quanh
11
các cuộc điều tra của quốc hội thông qua một loạt các nghiên cứu điển hình tập trung
vào giai đoạn từ nửa sau thế kỷ XX cho đến nay. Các tác giả khẳng định tầm quan
trọng của các hoạt động điều tra và giám sát hiệu quả của Quốc hội trong hệ thống
chính phủ dân chủ Hoa Kỳ, cũng như các cơ sở cho quyền lập hiến, lập pháp của nghị
viện. Cũng trong Case Studies and Analysis (Điều tra và Giám sát của Quốc hội:
Nghiên cứu điển hình và Phân tích) các tác giả phân tích cơ cấu và các chức năng của
chính phủ, trong đó nhấn mạnh đến vấn đề kiểm soát quyền lực của chính phủ [121].
Sách Changes in Congressional Oversight (Những sự thay đổi trong lĩnh vực
giám sát Quốc hội Mỹ) của tác giả Joel D. Aberbach. Cuốn sách tập trung nghiên cứu
chức năng giám sát của Quốc hội Mỹ đối với đối với hoạt động của các bộ, cơ quan và
ủy ban, và các chương trình, chính sách do họ quản lý. Tác giả cũng cho rằng hành vi
của các nhà lập pháp sẽ tạo ra tác động đối với hành vi của cơ quan hành chính quan
liêu; giám sát hành chính là cần thiết bởi nó tạo ra cơ chế mà những nhà quản lý hành
chính có thể ảnh hưởng đến chúng ta theo những cách cơ bản. Cũng trong Changes in
Congressional Oversight tác giả chú trọng phân tích các nhân tố thúc đẩy và tăng cường
chất lượng giám sát, các xu hướng cách thức giám sát ủy ban của Quốc hội: sự kiểm
soát của đảng phái với vị trí Tổng thống và Quốc hội; nhóm chịu sự tác động; nhóm lợi
ích; tổ chức cơ quan của Quốc hội; tăng cường chất lượng và số lượng nghị sĩ; sự công
khai trong hoạt động [110].
Trong cuốn Political Negotiation (Đàm phán chính trị), các tác giả Jane
Mansbridge-Cathie Jo Martin chia sẻ bài học từ những câu chuyện thành công và đưa
ra lời khuyên thiết thực để khắc phục sự phân cực đảng phái gay gắt và tạo sự đồng
thuận giữa các đại diện lập pháp về các vấn đề chính sách thông qua các hoạt động
đàm phán. Cũng trong cuốn sách này, các tác giả cho rằng: ba cơ quan nhà nước
không nên hoạt động quá tách biệt mà phải chịu sự giám sát lẫn nhau ở mức độ cần
thiết theo cơ chế kiềm chế và đối trọng. Việc kiểm soát lẫn nhau giữa ba cơ quan nhà
nước sẽ tạo ra sự cân bằng quyền lực, hạn chế tình trạng các cơ quan đó tuỳ tiện sử
dụng quyền lực trong quá trình thực thi các hoạt động chức năng của mình, tránh tình
trạng chuyên quyền, độc đoán. Chức năng giám sát của nghị viện chính là công cụ để
12
cơ quan lập pháp thực hiện quyền kiểm soát đối với các hệ thống cơ quan khác trong
bộ máy nhà nước [118].
Tác giả Walter Oleszek trong bài viết “Congressional Oversight: An
overview” (Giám sát quốc hội: Tổng quan) khẳng định: mục tiêu cơ bản của giám sát
quốc hội là để các quan chức hành pháp có trách nhiệm trong thực thi quyền hạn được
giao. Trong thời kỳ hiện đại, mục tiêu này càng trở nên đặc biệt quan trọng do sự mở
rộng của ảnh hưởng hành pháp. Walter Oleszek cũng đã phân tích khái niệm giám sát
và mục đích của HĐGS. Tác giả khẳng định, giám sát là một hoạt động phổ biến ở
Capitol Hill dưới nhiều hình thức khác nhau, được thực hiện trong các phiên điều
trần, các cuộc họp, hoặc thậm chí trong cả các hoạt động khác như trong các cuộc
họp ủy ban về xây dựng pháp luật, trong các cuộc làm việc của các đại biểu, chuyên
gia và nhân viên của Quốc hội với các quan chức hành pháp, các nhà lãnh đạo hành
chính…[119].
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước về hoạt động giám sát của
Quốc hội và đại biểu Quốc hội
1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu về quyền giám sát và hoạt động giám sát
của Quốc hội và đại biểu Quốc hội
Liên quan đến quyền và hoạt động giám sát của của Quốc hội có những nghiên
cứu có giá trị khoa học sau:
Trong ấn phẩm Quốc hội Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn đã đưa ra
khái niệm giám sát tối cao của Quốc hội, phạm vi của quyền giám sát tối cao của Quốc
hội là các cơ quan nhà nước ở trung ương và đối tượng của hoạt động giám sát tối cao là
hoạt động của các cơ quan, cá nhân do Quốc hội thành lập, bầu hoặc phê chuẩn. Đồng
thời, trong ấn phẩm khẳng định, giám sát của Quốc hội là quyền hạn và nhiệm vụ của
Quốc hội, là xem xét hoạt động của các cơ quan, cá nhân đứng đầu các cơ quan nhà
nước ở trung ương trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong tổ chức và
thực hiện Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội được tiến hành tại các kỳ họp của
Quốc hội. Căn cứ vào kết quả giám sát, Quốc hội xác định các hiệu quả pháp lý phù hợp
với nội dung giám sát thể hiện bằng hình thức văn bản là nghị quyết [62].
13
Sách Kiểm soát quyền lực nhà nước của PGS, TS Nguyễn Đăng Dung. Nội
dung cuốn sách gồm có 2 phần. Trong phần 1, tác giả tập trung phân tích quyền lực
nhà nước, tính tất yếu khách quan của việc kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm bảo
đảm nhà nước hoạt động tuân thủ đúng pháp luật, đạt hiệu quả cao, từ đó bảo đảm
được quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân - chủ thể cao nhất của quyền lực nhà
nước. Cũng trong phần 1, tác giả trình bày các nội dung của lý thuyết về nhà nước
pháp quyền và chủ nghĩa hiến pháp, khẳng định công cụ quan trọng nhất, mang tính
quyết định để kiểm soát quyền lực nhà nước chính là Hiến pháp. Trong phần 2, tác giả
đi sâu phân tích nội dung, hình thức và công cụ kiểm soát quyền lực nhà nước. Qua
đó, tác giả khẳng định: kiểm soát quyền lực nhà nước để bảo đảm quyền lực của nhân
dân không bị vi phạm; việc bầu cử các chức danh quan trọng của bộ máy nhà nước với
một nhiệm kỳ nhất định chính là một hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước; quyền
lực nhà nước được kiểm soát từ bên trong bằng việc phân công, phân nhiệm và tăng
cường kiểm tra, kiểm soát giữa các thành tố cấu thành quyền lực nhà nước, giữa lập
pháp, hành pháp, tư pháp và giữa quyền lực nhà nước ở Trung ương và địa phương.
Đồng thời, quyền lực nhà nước phải được kiểm soát, giám sát từ bên ngoài, từ phía
nhân dân, từ phía các ĐBQH - người đại diện cho cử tri thực hiện quyền lực nhà nước
[11].
Sách Hoạt động giám sát của cơ quan dân cử ở Việt Nam - vấn đề và giải pháp
của TS Nguyễn Sỹ Dũng và PGS.TS Vũ Công Giao đồng chủ biên. Các tác giả đã khái
quát sự hình thành chức năng giám sát của nghị viện các nước trên thế giới, trong đó
cho rằng chức năng giám sát được sinh ra muộn hơn so với chức năng lập pháp và
không tuân theo bất cứ một lý thuyết nào có trước, kể cả các học thuyết phân quyền.
Trong cuốn sách này, các tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận về giám sát của cơ
quan dân cử như: quan niệm về hoạt động giám sát, đối tượng giám sát. Đồng thời các
tác giả tập trung phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát thông qua xét báo
cáo, giám sát chuyên đề và hoạt động chất vấn, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm
của các cơ quan dân cử ở Việt Nam. Tuy nhiên các tác giả lại chưa đề cập đến hoạt
động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Trên cơ sở đó các tác giả
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của
14
các cơ quan dân cử ở Việt Nam như: thu hẹp đối tượng chịu sự giám sát; giám sát cần
có trọng tâm, trọng điểm; việc thực hiện kết luận, kiến nghị giám sát và hệ quả pháp lý
sau giám sát [13].
Tác giả Nguyễn Thái Phúc trong bài “Về hoạt động giám sát của Quốc hội”
khẳng định: chỉ có Quốc hội tại các phiên họp toàn thể mới có thẩm quyền giám sát tối
cao. Còn hoạt động của các chủ thể khác thuộc hệ thống các cơ quan của Quốc hội
(UBTVQH, HĐDT, các UB, Đoàn ĐBQH và ĐBQH) có tính chất phái sinh từ quyền
giám sát của Quốc hội nên không có quyền giám sát tối cao. Hoạt động chất vấn
ĐBQH cũng không phải là HĐGS tối cao, bởi vì đó chỉ là việc thu thập, tổng hợp,
kiểm tra, xác minh thông tin giám sát; đại biểu nêu ý kiến cá nhân về những thông tin
đó và kết luận cuối cùng vẫn thuộc về thẩm quyền của Quốc hội. Quốc hội dùng quyền
giám sát tối cao để tìm hiểu xem các cơ quan hành pháp đã thực thi pháp luật như thế
nào; giám sát của Quốc hội bao gồm các phương pháp mà Quốc hội sử dụng để biết
được, kiểm tra và đánh giá được về hoạt động của các cơ quan hành pháp, từ đó đưa ra
những chế tài áp đặt lên cơ quan hành pháp dựa trên kết quả kiểm tra, đánh giá…[49].
Liên quan đến quyền và hoạt động giám sát của ĐBQH có những nghiên cứu có
giá trị khoa học như: Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới của tác giả Đặng Đình Tân [66]; “Giám sát xã hội trong Nhà nước pháp
quyền” của tác giả Vũ Anh Tuấn [72]; “Nâng cao hiệu quả giám sát là đòi hỏi của cử
tri” của tác giả Nguyên Nhung [46]. Những nghiên cứu này đã tập trung phân tích vai
trò, ý nghĩa của hoạt động giám sát của nhân dân thông qua ĐBQH nhằm kiểm soát
quyền lực của nhà nước, kiểm soát quản lý công và bổ sung cho lập pháp. Các tác giả
khẳng định: ĐBQH đóng vai trò quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội,
là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của
nhân dân cả nước. Vì vậy, ĐBQH phải có quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu
sự giám sát của nhân dân địa phương và nhân dân cả nước, chịu trách nhiệm trước
nhân dân. ĐBQH là cầu nối liên kết chặt chẽ mối quan hệ bền vững giữa chính quyền
nhà nước với nhân dân. Do đó, đại biểu Quốc hội phải đủ khả năng tham gia xây dựng
luật pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và có mối quan hệ mật thiết
15
với cử tri để phản ánh tâm tư, nguyện vọng của cử tri. Từ đó các tác giả nhấn mạnh:
hoạt động giám sát của ĐBQH cần phải được coi trọng nhất, cần phải được đặt đúng
tầm quan trọng của nó.
Trong bài viết: “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong kiểm soát, giám
sát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay”, tác giả Nguyễn Thế Trung chỉ rõ, nhằm
xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh, quản lý, điều hành hiệu lực, hiệu
quả, đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, yêu cầu đặt ra là phải tăng
cường giám sát quyền lực nhà nước, giám sát hoạt động của Nhà nước trên tất cả cả
các lĩnh vực. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh quyền giám sát của nhân dân đối với việc
thực thi quyền lực nhà nước, đồng thời cho rằng ở nước ta, nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nước của mình thông qua việc lập ra Quốc hội và Hội đồng nhân nhân để bảo
vệ, thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Do vậy, nhân dân có quyền giám
sát các đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân nhân. Đại biểu Quốc hội là người
đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của nhân
dân cả nước. Đại biểu Quốc hội liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri;
thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ
quan, tổ chức hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động
của đại biểu và của Quốc hội; trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn đốc
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và hướng dẫn, giúp đỡ việc thực hiện quyền khiếu nại,
tố cáo [71].
Liên quan đến nội dung của HĐGS của ĐBQH có các công trình tiêu biểu như:
Quyền giám sát của Quốc hội, nội dung và thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu, Nguyễn
Sỹ Dũng (chủ biên) [12]; “Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động chất vấn của
ĐBQH”, tham luận của tác giả Đinh Xuân Thảo tại Hội thảo Pháp luật về ĐBQH
trong giai đoạn hiện nay - Những vấn đề lý luận và thực tiễn [68]. Các nghiên cứu này
đã hệ thống hoá các vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động của ĐBQH. Trong đó tập
trung phân tích hoạt động: chất vấn, giám sát văn bản quy phạm pháp luật; giám sát
việc thi hành pháp luật, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công
dân. Trong Quyền giám sát của Quốc hội, nội dung và thực tiễn từ góc nhìn tham
16
chiếu, Nguyễn Sỹ Dũng làm rõ nội dung quy trình hoạt động giám sát của gồm: Quy
trình hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội tại kỳ họp; Quy trình hoạt động giám sát
của UBTVQH; Quy trình hoạt động giám sát của HĐDT, các Uỷ ban của Quốc hội;
Quy trình hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội và ĐBQH… Từ đó tác giả
đi sâu phân tích quy trình giám sát của ĐBQH như: chất vấn và trả lời chất vấn; giám
sát văn bản quy phạm pháp luật; giám sát việc thi hành pháp luật, giám sát việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân [12].
Theo tác giả Đinh Xuân Thảo trong tham luận “Cơ sở lý luận và thực tiễn về
hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội”, chất vấn là hoạt động do cá nhân ĐBQH
thực hiện nhưng khi tiến hành tại kỳ họp Quốc hội trở thành một trong những hoạt
động giám sát tối cao của Quốc hội. Khi thực hiện quyền chất vấn thì ĐBQH không
còn nhân danh cá nhân nữa mà là nhân danh quyền lực tối cao của nhân dân, thay mặt
nhân dân yêu cầu người bị chất vấn phải trả lời về những vấn đề liên quan đến trách
nhiệm pháp lý của mình, quy trách nhiệm pháp lý đối với người bị chất vấn. Vì vậy,
nội dung mà ĐBQH chất vấn phải tập trung tới những vấn đề quan trọng nhân dân
quan tâm và liên quan trách nhiệm các cơ quan nhà nước. Thực hiện chất vấn, trả lời
chất vấn chính là thực hiện quyền dân chủ của nhân dân [68].
Tác giả Trần Đình Huề trong công trình nghiên cứu “Mấy vấn đề về vai trò hoạt
động giám sát của Hội đồng nhân dân và bước đầu xây dựng quy trình một cuộc giám
sát” đã đề xuất quy trình tiến hành hoạt động giám sát. Nội dung của quy trình hoạt
động giám sát của Quốc hội gồm: quy trình hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội
tại kỳ họp; quy trình hoạt động giám sát của UBTVQH; quy trình hoạt động giám sát
của HĐDT, các Uỷ ban của Quốc hội; quy trình hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu
Quốc hội và ĐBQH [29].
Theo hướng nghiên cứu trên, tác giả Bùi Ngọc Thanh trong bài viết “Những
vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện về điều kiện hoạt động của ĐBQH” đã khẳng định: để
nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của ĐBQH, cần đảm bảo được các điều kiện
như: năng lực của ĐBQH, thời gian, cung cấp thông tin kịp thời cũng như các điều
kiện vật chất … [67].
17
1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu về thực tiễn hoạt động giám sát của Quốc
hội và đại biểu Quốc hội
Liên quan đến cơ chế kiểm soát quyền lực của nhà nước có các nghiên cứu
khoa học như: Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước
ta hiện nay của Đào Trí Úc - Võ Khánh Vinh [77]; Kiểm soát quyền lực nhà nước:
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay của Trịnh Thị Xuyến [102];
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về chất vấn và trả lời chất vấn của ĐBQH của
Lê Thanh Vân [98]; Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà
nước ở Việt Nam của Nguyễn Quang Anh [1]. Những nghiên cứu này đã hệ thống hoá
làm rõ cơ sở lý luận về cơ chế pháp lý của hoạt động giám sát của Quốc hội, ĐBQH
trong kiểm soát quyền lực nhà nước. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng hoạt
động giám sát việc thực hiện quyền lực của nhà nước, các tác giả cũng đã đề xuất
phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực
nhà nước ở nước ta hiện nay.
Trong cuốn Kiểm soát quyền lực nhà nước: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở
Việt Nam hiện nay, Trịnh Thị Xuyến đã phân tích: kiểm soát quyền lực nhà nước là
một hệ thống những cơ chế được thực hiện bởi nhà nước và xã hội nhằm giữ cho việc
thực thi quyền lực nhà nước đúng mục đích, hiệu quả. Kiểm soát quyền lực nhà nước
bao gồm kiểm soát phạm vi hoạt động của quyền lực nhà nước; kiểm soát quá trình
thông qua và sửa đổi Hiến pháp; kiểm soát tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước; kiểm soát những người thực thi quyền lực nhà nước và có thể kiểm soát từ bên
ngoài và bên trong nhà nước. Ở Việt Nam, những mâu thuẫn, bất cập trong kiểm soát
quyền lực nhà nước mà Việt Nam đang và sẽ phải giải quyết trong tiến trình phát
triển; phương hướng và những giải pháp chủ yếu cho kiểm soát quyền lực nhà nước
ở Việt Nam [102].
Trong cuốn Hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam trong cơ chế giám sát
quyền lực nhà nước, Trương Thị Hồng Hà cùng nhóm tác giả đã luận giải các vấn đề
về quyền lực nhà nước, khẳng định ở nước ta tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa
18
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Các tác giả đã phân tích tính tất yếu tăng cường giám sát quyền lực nhà nước theo yêu
cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, để khắc phục biểu
hiện “tha hóa” quyền lực nhà nước với nguy cơ chuyên quyền, lạm quyền, tham
nhũng… Từ những cơ sở lý luận, thực tiễn, các tác giả đã tập trung luận giải cơ chế
giám sát quyền lực nhà nước ở nước ta và hoạt động giám sát của Quốc hội, đại biểu
Quốc hội trong cơ chế giám sát quyền lực nhà nước [24].
Nghiên cứu Giám sát và đánh giá chính sách công của Lê Văn Hòa đã phân
tích thực tiễn hoạt động giám sát của Quốc hội, trong đó tập trung vào hoạt động đánh
giá Chính sách công. Tác giả đã chỉ ra những thành tựu đạt được và những hạn chế,
bất cập cần khắc phục, trên cơ sở đó đưa ra những định hướng nhằm nâng cao hiệu
quả của hoạt động giám sát trong hoạt động này [28].
Luận án Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở
Việt Nam của Nguyễn Quang Anh: trên cơ sở những vấn đề lý luận, luận án tập trung
nghiên cứu phân tích lịch sử hình thành và phát triển cơ chế pháp lý nhân dân kiểm
soát quyền lực nhà nướ ở Việt Nam. Đồng thời đi sâu đánh giá thực trạng tổ chức, hoạt
động của các thiết chế và các yếu tố bảo đảm cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền
lực nhà nước ở Việt Nam, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của
những hạn chế. Từ đó luận án đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện cơ chế
pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước [1].
Luận án Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại
biểu quốc hội ở Việt Nam hiện nay của Vũ Thị Hồng Trang. Luận án khẳng định: kiểm
soát quyền lực là một nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Ở Việt Nam Quốc hội là thể chế rất quan trọng mang tính
chất quyết định trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Quốc hội có quyền kiểm
soát tối cao mọi hoạt động của nhà nước thông qua các hình thức cơ bản, trong đó hoạt
động chất vấn của ĐBQH là một trong những phương thức kiểm soát có hiệu quả nhất.
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về kiểm soát quyền lực nhà
nước thông qua hoạt động chất vấn của ĐBQH, luận án tập trung nghiên cứu phân tích
19
thực trạng hoạt động chất vấn của ĐBQH ở Việt Nam với tư cách là phương thức kiểm
soát quyền lực nhà nước trên các mặt: nội dung chất vấn, trả lời chất vấn, tổ chức hoạt
động chất vấn, năng lực của ĐBQH. Từ đó chỉ ra những thành tựu đạt được, những
hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong kiểm soát quyền lực nhà nước thông
qua hoạt động chất vấn của ĐBQH. Trên cơ sở đó luận án đề xuất các quan điểm và
giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt
động chất vấn của ĐBQH [70].
Trên cơ sở phân tích, đánh giá hoạt động giám sát tại các kỳ họp Hội đồng nhân
dân, Tác giả Nguyễn Khắc Bộ trong “Công tác giám sát tại kỳ họp Hội đồng nhân
dân- Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Hội
đồng nhân dân” đã chỉ ra một số vấn đề hạn chế cần giải quyết, từ đó đề xuất một số
giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động giám sát, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động của Hội đồng nhân dân [7].
Tăng cường giám sát quyền lực nhà nước là một đòi hỏi khách quan và cấp
thiết, một giải pháp quan trọng nhằm đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở Việt
Nam. Tác giả Trần Đình Nghiêm với bài viết “Đổi mới và tăng cường giám sát
quyền lực nhà nước” trong cuốn Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta
đã phân tích tính tất yếu tăng cường giám sát quyền lực nhà nước một cách toàn
diện, bao gồm: giám sát việc ban hành pháp luật, tổ chức quản lý xã hội bằng pháp
luật và tăng cường pháp chế XHCN; giám sát quan hệ giữa các cơ quan lập pháp,
hành pháp và tư pháp trong thực thi quyền lực của nhân dân; giám sát đội ngũ cán
bộ, công chức trong thực thi quyền lực nhà nước. Theo tác giả, những hạn chế
trong thực thi quyền lực nhà nước hiện nay có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu
là do những bất cập về cơ chế, tổ chức và phương thức giám sát đối vối việc thực
hiện quyền lực nhà nước. Do vậy, để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa trong sạch, vững mạnh, quản lý, điều hành hiệu lực, hiệu quả, một yêu cầu
quan trọng đặt ra là phải tăng cường và đổi mới một cách cơ bản, đồng bộ cơ chế,
tổ chức và phương thức giám sát đối vối việc thực hiện quyền lực nhà nước, kết
20
hợp công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, giám sát của bộ máy nhà nước với giám
sát của nhân dân [35].
Với bài viết “Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đối với việc thực
hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay – thực trạng và vấn đề đặt ra” trong cuốn Đổi
mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta Trương Thị Hồng Hà đã phân tích làm rõ cơ sở
pháp lý về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, vai trò hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân. Từ việc phân tích, đánh giá thực trạng, những vấn đề đặt ra trong
hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đối việc thực hiên quyền lực nhà nước,
tác giả đã đề xuất một số giải pháp tăng cường hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh [35].
1.2. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố liên quan
đến đề tài và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
1.2.1. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố liên quan
đến đề tài
Thứ nhất: Các công trình nghiên cứu của các tác giả đã phân tích, làm rõ
chức năng giám sát của cơ quan dân cử, cho rằng giám sát được sinh ra muộn hơn
so với chức năng lập pháp và không tuân theo bất cứ một lý thuyết nào. Hoạt động
giám sát của cơ quan dân cử tập trung vào những vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đòi
hỏi, xã hội quan tâm và ngày càng trở nên công khai, minh bạch hơn. Chính vì vậy,
nhân dân đã đánh giá cao HĐGS của các cơ quan dân cử, nhờ đó góp phần nâng cao
vai trò, uy tín của các cơ quan này. Các công trình nghiên cứu đã góp phần làm rõ
những vấn đề lý luận về HĐGS, đánh giá thực trạng HĐGS của cơ quan dân cử, đề
xuất giải các pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện chức năng quan trọng này.
Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học nêu trên ở những mức độ
khác nhau đã trình bày khái quát về tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội,
tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước của hệ
thống chính trị, luận giải được vai trò, vị trí của Quốc hội Việt Nam trong đời sống
chính trị của đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
21
Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu về HĐGS của ĐBQH chủ yếu
được tiếp cận từ khía cạnh pháp lý - chính trị. Do đó, đối tượng nghiên cứu chủ yếu
của các công trình nghiên cứu này là các quy định của pháp luật về giám sát. Vì
vậy, các giải pháp đề ra để tăng cường hiệu lực, hiệu quả của HĐGS của ĐBQH chủ
yếu tập trung vào các yếu tố như cơ chế pháp lý, tổ chức bộ máy. Các cơ chế hỗ trợ
mới chỉ được đề cập sơ bộ, còn khá chung chung với tính chất như là những giải
pháp thứ yếu, chưa cụ thể, chuẩn xác đối với từng nhóm đại biểu khác nhau. HĐGS
của ĐBQH chưa được tiếp cận nghiên cứu và đánh giá dưới góc độ chính trị học,
theo hướng xác định năng lực chủ thể của HĐGS để từ đó đề ra các giải pháp mang
tính khả thi, nâng cao năng lực giám sát, hiệu lực và hiệu quả HĐGS của ĐBQH.
Thứ hai: Các công trình nghiên cứu của các tác giả về HĐGS của Quốc hội,
của ĐBQH khẳng định: Quyền lực nhà nước là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng;
kiểm soát quyền lực nhà nước là toàn bộ những phương thức, quy trình, quy định mà
dựa vào đó, Nhà nước và xã hội có thể ngăn chặn, loại bỏ những hạn chế, tiêu cực trong
hoạt động của các thiết chế quyền lực nhà nước, phát hiện và điều chỉnh được việc thực
thi quyền lực nhà nước, đảm bảo cho quyền lực nhà nước thực thi đúng mục đích chung
và đạt được hiệu quả cao nhất. Kiểm soát quyền lực nhà nước bao gồm kiểm soát
phạm vi hoạt động của quyền lực nhà nước; kiểm soát quá trình thông qua và sửa
đổi Hiến pháp, luật; kiểm soát tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; kiểm soát
những người thực thi quyền lực nhà nước và có thể kiểm soát từ bên ngoài và bên
trong nhà nước.
Việc thực hiện HĐGS của ĐBQH là vấn đề hết sức có ý nghĩa, góp phần
quan trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan trong hệ thống bộ
máy nhà nước từ trung ương đến địa phương. Hiệu quả HĐGS của ĐBQH phụ thuộc
rất lớn vào năng lực của của các đại biểu, bao gồm các yếu tố trình độ, uy tín, kỹ
năng, động lực trong hoạt động giám sát. Tuy nhiên, trong các công trình nghiên
cứu thì vấn đề này chưa được phân tích cụ thể, sâu sắc dựa trên những số liệu,
bằng chứng xác thực. Do đó, các công trình nghiên cứu cũng chưa đề xuất được
những kiến nghị cụ thể, chính xác nhất về tiêu chuẩn của ĐBQH; về phương thức,
22
nội dung bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho ĐBQH, chưa đưa ra được các giải
pháp toàn diện về: cơ sở pháp lý - bản lĩnh chính trị - năng lực chủ thể bảo đảm để
ĐBQH có thể thực hiện HĐGS đạt hiệu quả cao.
Thứ ba: Các công trình nghiên cứu đã đánh giá: HĐGS của ĐBQH, các cơ
quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng
nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân đạt được nhiều kết quả quan trọng. Nội dung
giám sát khá phong phú, toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đã tập
trung vào những vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đòi hỏi, được dư luận xã hội đồng
tình ủng hộ… Hình thức giám sát, biện pháp tổ chức HĐGS được cải tiến theo hướng
phát huy dân chủ, nâng cao tính công khai, minh bạch, tăng tính chủ động, tích cực
của các cơ quan thực hiện giám sát và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng
chịu sự giám sát. Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội được tăng cường; hoạt
động chất vấn và trả lời chất vấn trước Quốc hội, Hội đồng nhân dân, được truyền
hình trực tiếp, đã và đang phát huy hiệu quả tốt; việc Quốc hội, Hội đồng nhân dân
thông qua nghị quyết về chương trình hoạt động giám sát hằng năm, trong đó lựa
chọn được những vấn đề trọng tâm, bức xúc, phù hợp với yêu cầu của thực tế đã làm
cho HĐGS đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của cuộc sống. Tuy nhiên, các nghiên
cứu chưa có những phân tích, đánh giá các kết quả đạt được cũng như những hạn
chế trong HĐGS của từng đối tượng đại biểu khác nhau để có thể rút ra kết luận về
những điều kiện cần thiết giúp đại biểu nâng cao được vị thế, bản lĩnh chính trị
của mình để HĐGS đạt được hiệu lực, hiệu quả cao hơn. Hiệu quả HĐGS của
ĐBQH trong tương quan so sánh giữa HĐGS của đại biểu chuyên trách và đại biểu
kiêm nhiệm; giữa đại biểu trung ương và đại biểu địa phương; giữa đại biểu hoạt
động độc lập và đại biểu thuộc các cơ quan, tổ chức khác nhau chưa được quan
tâm nghiên cứu, đánh giá.
Thứ tư: Các công trình nghiên cứu khẳng định, HĐGS của ĐBQH thời gian
qua đã phát hiện và khắc phục kịp thời những thiếu sót, hạn chế cả về chính sách
pháp luật và tổ chức quản lý điều hành. Qua giám sát đã đưa ra nhiều kiến nghị đóng
góp vào hoạt động lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và của
23
địa phương. Những kết quả đạt được của HĐGS của Quốc hội, Hội đồng nhân dân,
của ĐBQH đã có tác động tích cực trong thực tế, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước. Những kết quả đạt được chứng minh Luật hoạt động giám sát
của Quốc hội, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân đã thể chế hóa
kịp thời đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quốc hội, Hội đồng nhân dân cũng
như các ĐBQH đã phát huy nội lực, tìm tòi, sáng tạo và áp dụng nhiều biện pháp
trong thực hiện hoạt động giám sát. Các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân,
các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân đã không ngừng nỗ lực, cố gắng
trong việc thực hiện giám sát. Đồng thời có sự tham gia cộng tác, phối hợp chặt chẽ
của Chủ tịch nước, Chính phủ, các cơ quan tư pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
cơ quan, tổ chức hữu quan và nhân dân.
Có thể nói, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm thực
hiện ngày càng có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội đã góp phần tạo
ra nguồn sinh lực mới cho cả hệ thống chính trị và mở rộng không khí dân chủ ở
nước ta. Các kỳ họp hằng năm của Quốc hội đã thực sự trở thành những đợt sinh
hoạt chính trị rộng khắp trong cả nước. Những phiên thảo luận công khai về xây
dựng các dự án luật cũng như về tình hình kinh tế, xã hội, những buổi chất vấn tại
hội trường diễn ra sôi nổi, tập trung vào đúng những vấn đề quan trọng, bức xúc
được nhân dân rất quan tâm. Chính không khí dân chủ trong hoạt động của Quốc
hội đã có tác dụng không nhỏ đến hoạt động của các cơ quan nhà nước khác như
Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan tư pháp và cả hoạt động của các cơ quan dân cử
ở các địa phương; làm tăng thêm trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan nhà
nước; đồng thời nâng cao tinh thần làm chủ và ý thức trách nhiệm của người dân.
Nói cách khác, thông qua các hoạt động của Quốc hội, các yếu tố của nền dân chủ
đại diện đang được phát huy, sự gắn bó giữa nhân dân với Nhà nước được tăng
cường, lôi cuốn nhân dân tham gia các hoạt động quản lý nhà nước, góp phần tạo
hình ảnh về sự đổi mới, năng động, dân chủ của hệ thống chính trị Việt Nam.
24
Thứ năm: Các công trình nghiên cứu đã bước đầu đề cập đến những vấn đề lý
luận và thực tiễn trong hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam, nêu những khái
niệm và các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động giám sát của ĐBQH. Các công
trình nghiên cứu đã xác định được vai trò quan trọng của hoạt động giám sát của Quốc
hội và ĐBQH là nhằm thực thi quyền lực của nhân dân, làm cho cán bộ, công chức,
đảng viên thực hiện đúng pháp luật, bộ máy nhà nước, tổ chức của Đảng trong sạch,
vững mạnh, hoạt động hiệu quả hơn. Đa số các nghiên cứu đều nhất trí ở luận điểm
khoa học là: hoạt động giám sát là yêu cầu tất yếu của quá trình thực thi dân chủ
hiện đại và ĐBQH Việt Nam giữ vai trò quan trọng then chốt trong giám sát quyền
lực nhà nước của Quốc hội. Bên cạnh đó các công trình nghiên cứu nhất là ở trong
nước đã đưa ra nhiều đề xuất về quan điểm, giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt
động giám sát của ĐBQH Việt Nam mà giá trị của những quan điểm, lý luận này
đối với quá trình thực hiện luận án là hết sức ý nghĩa, gợi mở cho tác giả có thêm
những định hướng quan trọng trong việc đưa ra giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam.
Tuy nhiên, yêu cầu đổi mới HĐGS của ĐBQH trong giai đoạn phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước của dân,
do dân và vì dân đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế hiện nay vẫn chưa được nghiên
cứu một cách toàn diện để có thể thấy rõ tính tất yếu của việc tăng cường hiệu lực,
hiệu quả HĐGS của ĐBQH trong thời gian tới. Các công trình nghiên cứu mới chỉ
dừng lại ở những cách tiếp cận khác nhau về tổ chức của Quốc hội, HĐGS của Quốc
hội và ĐBQH. Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện và
đầy đủ về HĐGS của ĐBQH Việt Nam hiện nay dưới góc độ chính trị học.
1.2.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Qua nghiên cứu các công trình trong nước và nước ngoài, tác giả nhận thấy
các nhà khoa học rất quan tâm đến vấn đề HĐGS của Quốc hội và đại biểu Quốc
hội. Từ những kết quả đạt được cũng như những hạn chế, “khoảng trống” trong các
nghiên cứu đã công bố, luận án “Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội Việt
Nam hiện nay” tiếp tục giải quyết những vấn đề sau:
25
Thứ nhất, luận án cần phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và cơ sở
pháp lý về HĐGS của ĐBQH Việt Nam; làm rõ vai trò, ý nghĩa của HĐGS của ĐBQH;
xác định đối tượng, nội dung, quy trình HĐGS của ĐBQH; phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của ĐBQH trong quá trình thực hiện chức năng giám sát; các điều kiện bảo đảm
HĐGS của ĐBQH. Luận án cần nghiên cứu HĐGS của nghị sĩ một số nước trên thế
giới, từ đó rút ra những kinh nghiệm cần thiết cho HĐGS của ĐBQH Việt Nam.
Thứ hai, luận án có nhiệm vụ nghiên cứu các HĐGS của ĐBQH Việt Nam từ
khi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 được thực hiện, trong đó tập
trung vào giai đoạn từ khi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân
dân năm 2015 (Luật số 87/2015/QH13) có hiệu lực. Qua điều tra, khảo sát thực
trạng HĐGS của ĐBQH Việt Nam thời gian qua, luận án phân tích, đánh giá những
kết quả đạt được và hạn chế, bất cập trong HĐGS của ĐBQH, đồng thời phân tích, chỉ
ra nguyên nhân của những hạn chế, bất cập.
Thứ ba, trên cơ sở lý luận và từ thực trạng HĐGS của ĐBQH Việt Nam hiện
nay với những kết quả đạt được, cũng như những hạn chế, bất cập, những vấn đề đặt
ra, luận án đề xuất quan điểm và giải pháp tăng cường HĐGS, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của HĐGS của ĐBQH Việt Nam trong thời gian tới.
26
Kết luận chương 1
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài đi từ cái chung đến cái
riêng, từ ngoài nước đến trong nước, từ hoạt động thực tiễn đến các công trình
nghiên cứu trong chuyên ngành, trong đó, có cập nhật các công trình khoa học được
công bố gần đây, chúng tôi nhận thấy, nhiều công trình, đề tài của các tác giả đã
nghiên cứu khá toàn diện về hoạt động giám sát của Quốc hội và ĐBQH nói riêng từ
các góc độ tiếp cận khác nhau. Những công trình đó đã đưa ra một số phương
hướng, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của cơ quan dân
cử, đại biểu dân cử.
Với các góc độ tiếp cận khác nhau, một số công trình bước đầu đã trình
bày được lý luận chung về cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về vai trò hoạt động
giám sát của ĐBQH Việt Nam; xác định đối tượng, nội dung, quy trình thực hiện
hoạt động giám sát của ĐBQH, cũng như phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
ĐBQH trong quá trình thực hiện chức năng giám sát.
Một số tác giả đã nghiên cứu đánh giá so sánh về thực trạng hoạt động giám
sát của nghị sỹ một số nước trên thế giới và ĐBQH Việt Nam, đề xuất các giải pháp
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của ĐBQH. Đây là những tư liệu
quý giá, đáng trân trọng để tác giả kế thừa, bổ sung và phát triển trong quá trình
thực hiện đề tài luận án của mình. Tuy vậy, hoạt động giám sát của ĐBQH - trung
tâm, hạt nhân trong cơ cấu tổ chức của Quốc hội chưa được các tác giả nghiên cứu
sâu cả về lý luận, thực tiễn và đề xuất các giải pháp đổi mới. Việc nghiên cứu, đánh
giá khái quát những kết quả đạt được, những vấn đề lý luận và thực tiễn các công
trình nghiên cứu đã làm rõ và nghiên cứu sinh có thể tiếp tục kế thừa là những căn
cứ cần thiết để đưa ra những nhận định về một số nội dung các công trình nghiên
cứu trước đây còn bỏ ngỏ, cần được tiếp tục nghiên cứu và hệ thống những vấn đề
luận án cần tiếp tục giải quyết.
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu trên đây, nghiên cứu sinh đã xác định
được định hướng nghiên cứu cho luận án, bảo đảm tính mới, không trùng lắp với
các công trình trước đây dưới góc độ chính trị học cả về lý luận và thực tiễn.
27
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ HOẠT
ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VIỆT NAM
2.1. Khái niệm và vai trò hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội
2.1.1. Khái niệm giám sát và hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội
2.1.1.1. Khái niệm giám sát
Thuật ngữ “giám sát” được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau tùy thuộc vào góc
độ tiếp cận. Giám sát là thuật ngữ dùng để chỉ một hoạt động xem xét có tính bao quát
của chủ thể bên ngoài hệ thống đối với khách thể thuộc hệ thống khác (trong những
trường hợp cụ thể có thể là không trực thuộc).
Có quan niệm cho rằng giám sát là nhiệm vụ của một nhóm hoặc một tổ chức
chuyên theo dõi một hoạt động nào đó. Quan niệm khác lại cho rằng giám sát là xem xét,
kiểm tra và nhận định về một việc làm nào đó đúng hay sai với những điều đã quy định.
Theo Từ điển Tiếng Việt, giám sát là “theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện
đúng những quy định không” [101, tr.389].
Theo Từ điển Luật Học, giám sát “là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang
tính chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích
cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo,
quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác định từ trước, đảm bảo cho
pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh” [99, tr.292].
Mặc dù cách diễn đạt có khác nhau, nhưng các quan niệm trên đều đề cập đến
nội dung cơ bản của “giám sát”: đó là việc theo dõi, xem xét và kiểm tra của một chủ
thể nào đó đối với một đối tượng về một việc làm đã thực hiện đúng hoặc chưa đúng
những quy định đã đề ra, trên cơ sở đó có biện pháp điều chỉnh hoặc xử lý đối với việc
làm sai, nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra một cách có hiệu quả nhất, bảo đảm
cho các quy định được thực thi đúng đắn và đầy đủ. Như vậy giám sát là hoạt động có
mục đích, luôn gắn với một chủ thể và một đối tượng nhất định, được tiến hành theo
các quy định đặt ra. Do đó, để có một khái niệm cụ thể thì HĐGS hoạt động giám sát
28
bao giờ cũng gắn với một chủ thể xác định như: giám sát của Quốc hội, giám sát của
HĐND, giám sát của nhân dân…
Joel D. Aberbach trong Changes in Congressional Oversight (Những thay đổi
trong giám sát Quốc hội) đã đưa ra quan niệm giám sát, đó “là sự kiểm soát sự thật và
bao gồm các cuộc điều tra về chính sách đang và sẽ được triển khai; điều tra về hoạt
động hành chính và việc kêu gọi cơ quan hành pháp phải chịu trách nhiệm với hoạt
động của họ” [110, tr.133].
Theo Walter Oleszek trong “Congressional Oversight: An overview” (Giám sát
quốc hội: Tổng quan): giám sát là một hoạt động phổ biến dưới nhiều hình thức khác
nhau, được thực hiện trong các phiên điều trần, các cuộc họp, hoặc thậm chí trong cả
các hoạt động khác [119].
Điểm lưu ý là cần phân biệt giám sát với kiểm tra, kiểm sát. Giám sát khác với
kiểm tra ở chỗ: giám sát là hành vi độc lập, từ bên ngoài, còn kiểm tra là hoạt động
thường xuyên từ bên trong tổ chức. Giám sát khác với kiểm sát, vì kiểm sát mặc dù
cũng là hành vi giám sát từ bên ngoài của một cơ quan độc lập nhưng kiểm sát gắn với
thẩm quyền tố tụng.
Tại Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003, khái niệm “giám
sát” được giải thích: “Giám sát là việc Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội
đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Đại biểu Quốc hội
theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát
trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội” [52].
Tại khoản 1, Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân
dân năm 2015 đã ghi: “Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá
hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến
pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm
quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý” [58].
29
Tại khoản 2, Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân
dân năm 2015 khẳng định: “Chủ thể giám sát bao gồm Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại
biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của
Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân” [58]
Như vậy, cả Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 và Luật hoạt
động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 đều khẳng định rõ
ĐBQH là một trong những chủ thể của HĐGS của Quốc hội. So với Luật hoạt động
giám sát của Quốc hội năm 2003, khái niệm “giám sát” theo Luật hoạt động giám sát
của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 đã được bổ sung theo hướng không
chỉ là hoạt động “theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân
chịu sự giám sát” mà còn bao gồm cả việc “xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến
nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý”.
2.1.1.2. Hoạt động giám sát và quyền giám sát của đại biểu Quốc hội
Đại biểu Quốc hội là những công dân tiêu biểu trong các lĩnh vực hoạt động
của nhà nước và xã hội được nhân dân tín nhiệm trực tiếp bầu ra thông qua tổng tuyển
cử tự do. ĐBQH là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thay mặt
cho nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội. Cùng với việc tham gia
thảo luận và quyết định các vấn đề về lập hiến, lập pháp, quyết định các chính sách
quan trọng phát triển kinh tế, xã hội, ĐBQH thay mặt nhân dân thực hiện giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước.
* Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội
Tại khoản 5, Điều 2, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân
dân năm 2015 quy định: “Giám sát của Quốc hội bao gồm giám sát tối cao của Quốc
hội, giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc
hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội” [58].
Điều 47 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm
2015 xác định:
30
“1. Đại biểu Quốc hội giám sát thông qua các hoạt động sau đây:
a) Chất vấn những người bị chất vấn quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 4 của
Luật này;
b) Giám sát văn bản quy phạm pháp luật; giám sát việc thi hành pháp luật;
c) Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân.
2. Đại biểu Quốc hội tự mình tiến hành hoạt động giám sát hoặc tham gia hoạt
động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội; tham gia Đoàn giám sát của Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội tại địa phương khi
có yêu cầu” [58].
Trong HĐGS, ĐBQH là một chủ thể giám sát độc lập, đối tượng giám sát là
các cơ quan, cá nhân trong bộ máy nhà nước và khách thể giám sát là các hành vi thực
thi nhiệm vụ và việc thi hành pháp luật của đối tượng giám sát. Mục tiêu của HĐGS
của ĐBQH là theo dõi, xem xét, đánh giá việc thực thi nhiệm vụ của các cơ quan nhà
nước ở trung ương và các cá nhân do Quốc hội bầu, phê chuẩn, nhằm bảo đảm hoạt
động của các cơ quan nhà nước tuân thủ những nguyên tắc, quy định do Quốc hội đề
ra từ đó lợi ích công, lợi ích của nhân dân được thực hiện.
Theo Điều 47, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân
năm 2015, ĐBQH thực hiện HĐGS thông qua các hình thức: tiến hành chất vấn, giám
sát văn bản quy phạm pháp luật, giám sát việc thi hành pháp luật tại địa phương và
giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân. HĐGS của ĐBQH
nhằm góp phần đảm bảo cho những quy định của Hiến pháp và pháp luật được thực thi
nghiêm minh và thống nhất, bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu lực và
hiệu quả, từ đó hạn chế, loại bỏ những biểu hiện tham nhũng, quan liêu.
ĐBQH là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất cấu thành Quốc hội. Tất cả các
nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội đều do ĐBQH thực hiện. HĐGS của ĐBQH tuy
không phải là hoạt động giám sát tối cao nhưng thông qua những HĐGS do các đại
biểu tiến hành đã cung cấp nguồn thông tin quan trọng, là cơ sở cho HĐGS tối cao của
Quốc hội.
31
* Quyền giám sát của đại biểu Quốc hội
Có nhiều nhà nghiên cứu đã luận giải về quyền giám sát của ĐBQH. Các tác giả
cho rằng, ĐBQH thực hiện giám sát là nhằm đảm bảo cho các chính sách, pháp luật do
Quốc hội ban hành được thực thi nghiêm minh trên thực tế và bảo vệ lợi ích của cử tri
[12, tr.9-16]. Quan niệm đó cho thấy giữa hoạt động lập pháp và HĐGS của Quốc hội
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu quyền lập pháp được thực hiện tốt sẽ là điều
kiện để thực hiện tốt hơn quyền giám sát. Ngược lại, thông qua HĐGS sẽ đánh giá
được kết quả của hoạt động lập pháp có phù hợp với thực tiễn hay không, từ đó để bổ
sung, hoàn thiện và phát huy vai trò của quyền lập pháp.
Có ý kiến cho rằng: giám sát là một hoạt động phổ biến được thực hiện bằng
nhiều hình thức khác nhau trong các phiên điều trần, các cuộc họp của nghị viện.
Ngay cả những thảo luận của nghị sĩ tại các phiên điều trần, các cuộc họp ủy ban về
xây dựng pháp luật, trong các cuộc làm việc của các đại biểu, chuyên gia và nhân viên
của Quốc hội với các quan chức hành pháp, các nhà lãnh đạo hành chính… mặc dù
không được gọi tên là HĐGS nhưng cũng chính là giám sát [119].
Lúc sinh thời, Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng đến vấn đề kiểm soát quyền
lực nhà nước nhằm đảm bảo cho tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân. Chính vì vậy,
ngay trong phiên họp Hội đồng Chính phủ ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề
nghị tiến hành Tổng tuyển cử. Người khẳng định: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn
thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước
nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có
quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì có quyền đi bầu cử… Do Tổng tuyển cử mà toàn
dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của
toàn dân” [41, tr.153]. Quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân, do nhân dân ủy
thác cho các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Vì vậy, nhân dân có quyền kiểm soát
quyền lực nhà nước thông qua đại biểu mà mình đã bầu ra. Đó là sự kiểm soát của cơ
quan đại diện (cơ quan dân cử như Quốc hội, Hội đồng nhân dân) đối với cơ quan
chấp hành Chính phủ, Ủy ban nhân dân. Trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi
(năm 1959), Người viết: “Tất cả các cơ quan Nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ
32
chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân”; “Hội
đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành pháp luật và nghị quyết của Quốc hội, là cơ
quan hành chính cao nhất của Nhà nước, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
Quốc hội. Trong thời gian Quốc hội không họp thì Hội đồng Chính phủ chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội”; “Hội đông nhân dân
bầu ra Ủy ban hành chính các cấp. Ủy ban hành chính các cấp là cơ quan chấp hành
của Hội đồng nhân dân, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Hội đồng nhân dân, đồng
thời chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Ủy ban hành chính cấp trên và sự lãnh đạo thống
nhất của Hội đồng chính phủ” [44, tr.375-376]. Như vậy, ngay trong dự thảo Hiến
pháp sửa đổi (năm 1959), Hồ Chí Minh đã bàn về kiểm soát quyền lực của cơ quan
cấp trên với cơ quan cấp thấp hơn.
ĐBQH là những người do nhân dân tín nhiệm trực tiếp bầu ra thông qua tổng
tuyển cử tự do, là những người đại diện cho cử tri, thay mặt cử tri thực hiện quyền lực
nhà nước trong Quốc hội. Sau khi được cử tri tín nhiệm bầu chọn, ĐBQH phải chịu
trách nhiệm trước cử tri về việc xây dựng, ban hành và giám sát việc thực hiện các
chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của nhân dân. Vì vậy, cùng với việc tham gia thảo luận và quyết định các vấn đề về lập
hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, ĐBQH phải thay
mặt nhân dân thực hiện giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Hiến pháp 1946 là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên quy định quyền giám
sát của ĐBQH ở Việt Nam. Đến Hiến pháp 1959, quyền giám sát của ĐBQH được cụ
thể hóa bằng quy định: “Các đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Hội đồng Chính phủ
và các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ”. (Điều 59, Hiến pháp 1959) và “Đại biểu
Quốc hội có quyền chất vấn Hội đồng Chính phủ và các cơ quan thuộc Hội đồng
Chính phủ” (Điều 42 Luật tổ chức Quốc hội năm 1960). Quy định này tiếp tục được kế
thừa trong các văn bản pháp luật liên quan được ban hành sau đó như Luật Tổ chức
Quốc hội, Luật HĐGS của Quốc hội... Tại khoản 1, Điều 2 của Luật hoạt động giám
sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 quy định: “Giám sát là việc chủ thể
giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự
33
giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm
quyền xử lý”[58]. Theo đó, có thể hiểu quyền giám sát của ĐBQH là quyền được theo
dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thi hành
Hiến pháp, luật, nghị quyết, pháp lệnh, nhằm bảo đảm lợi ích của nhân dân, của xã hội
và đất nước. Quyền giám sát của ĐBQH có phạm vi bao trùm toàn bộ hoạt động của
bộ máy nhà nước bao gồm cả các cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp.
Hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi về quyền giám sát tư pháp bởi sự mâu thuẫn
của quyền này với nguyên tắc xét xử độc lập của Tòa án. Tuy nhiên, việc xác định
quyền giám sát của ĐBQH bao gồm cả quyền kiểm soát hành pháp và tư pháp theo
Hiến pháp năm 2013 là phù hợp với cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan duy nhất
có quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, mà còn
có chức năng giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Do đó, cơ quan tư
pháp và các cá nhân được Quốc hội bầu và phê chuẩn thuộc hệ thống cơ quan này vẫn
thuộc đối tượng giám sát của Quốc hội và ĐBQH.
Từ những quan niệm trên, luận án thống nhất với quan điểm: quyền giám sát
của ĐBQH là quyền được theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết, pháp lệnh và việc xử lý
các vấn đề liên quan theo thẩm quyền nhằm bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của
người dân, của xã hội và của đất nước.
2.1.2. Vai trò hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội
2.1.2.1. Giám sát để thực hiện vai trò đại diện quyền lực của nhân dân
Sự tồn tại của Quốc hội dựa trên cơ sở nhân dân cần tổ chức ra một cơ quan để
thay mặt và thực thi quyền lực của nhân dân trong việc quản lý nhà nước, biến nguyện
vọng, ý chí của nhân dân thành pháp luật để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội và quyết
định những vấn đề quan trọng của đất nước. Như vậy, quyền lực của Quốc hội có
nguồn gốc ở nhân dân, ở tính đại diện cho nhân dân. Từ đó có thể khẳng định: tính đại
34
diện nhân dân là tính chất cơ bản nhất, đặc trưng nhất và quan trọng nhất của Quốc hội
Việt Nam. Trên cơ sở đó, ĐBQH có một địa vị pháp lý đặc biệt, vừa là đại biểu nhân
dân, vừa là thành viên của cơ quan quyền lực tối cao đó là Quốc hội. Thông qua bầu
cử, nhân dân thể hiện ý chí của mình, chọn người đại diện, thay mặt cho nhân dân thực
hiện quyền lực của mình. Thông qua ĐBQH, nhân dân sử dụng quyền lực của mình để
định đoạt các vấn đề quan trọng của đất nước. Bàn về tính đại diện nhân dân của Quốc
hội, ĐBQH, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Các đại biểu trong Quốc hội này
không phải đại diện cho một đảng phái nào mà là đại biểu cho toàn thể quốc dân Việt
Nam. Đó là một sự đoàn kết tỏ ra rằng lực lượng của toàn dân Việt Nam đã kết lại
thành một khối” [41, tr.217]. Như vậy, điểm xuất phát đầu tiên, tiêu chuẩn đầu tiên của
người ĐBQH Việt Nam là yếu tố đại diện cho ý chí thống nhất của nhân dân, vì nhân
dân. Do đó, HĐGS của ĐBQH có cơ sở chính trị quan trọng xuất phát từ sự ủy quyền
của nhân dân. Với vai trò là người đại diện của nhân dân đã tạo động lực thúc đẩy
ĐBQH thực hiện HĐGS kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo “mọi quyền lực
nhà nước thuộc về Nhân dân”. ĐBQH thực hiện HĐGS không phải vì mục đích tự
thân mà là vì mục tiêu thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của nhân dân.
Với vai trò là người đại diện của nhân dân, thông qua tiếp xúc cử tri, ĐBQH có
điều kiện gần gũi, lắng nghe ý kiến của nhân dân, nắm bắt được những tâm tư, nguyện
vọng thực sự của nhân dân. Mặt khác, thông qua thực hiện các HĐGS như: chất vấn,
giám sát văn bản quy phạm pháp luật, giám sát việc thi hành pháp luật, giám sát việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân sẽ bảo đảm hoạt động của các cơ
quan nhà nước tuân thủ đầy đủ những nguyên tắc, quy định do Quốc hội đề ra; các
quyết định của Quốc hội được thực thi nghiêm minh, phù hợp với các mục tiêu đã
định; kiểm soát sự độc đoán và không công bằng trong quản lý, đồng thời, chống lại sự
lãng phí, tham ô và bảo đảm tính hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan chịu sự
giám sát. Như vậy, thông qua HĐGS của Quốc hội, của ĐBQH thì ý chí, nguyện vọng
của nhân dân được gửi gắm qua những đại biểu của mình mới có thể được thực hiện
và trở thành hiện thực trong cuộc sống. Trong giai đoạn hiện nay với sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học, công nghệ, sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, khu vực
35
hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, yêu cầu đặt ra đối với ĐBQH là phải
nâng cao năng lực của mình để đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, để xứng với vai trò đại
diện của nhân dân.
2.1.2.2. Giám sát để góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước
Ở Việt Nam “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, nhưng nhân dân
không trực tiếp thực hiện quyền lực của mình mà lại giao cho Nhà nước thực hiện.
Quyền lực nhà nước là của nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước suy cho cùng là
giao cho những con người cụ thể thực thi nên thường bị chi phối bởi yếu tố chủ quan.
Chính vì vậy, cần phải có sự kiểm soát quyền lực một cách chặt chẽ, nếu không thì nó
sẽ là tác nhân chính làm tha hóa cán bộ, tha hóa những con người được trao quyền lực,
từ đó làm tha hóa, thoái hóa, biến chất cả bộ máy, thể chế. Vì vậy, kiểm soát quyền lực
nhà nước là một nhu cầu khách quan từ phía người ủy quyền là nhân dân đối với người
được ủy quyền là Nhà nước, là vấn đề cơ bản và cấp thiết trong quá trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay.
Theo quy định của luật pháp Việt Nam, Quốc hội có quyền giám sát tối cao tất
cả hoạt động của nhà nước, quyết định trong kiểm soát quyền lực nói chung và kiểm
soát quyền lực nhà nước nói riêng. Trong đó, HĐGS của ĐBQH là một trong những
phương thức kiểm soát quyền lực có hiệu quả nhất của Quốc hội.
Quyền lực nhà nước là hình thức biểu hiện tập trung của quyền lực chính trị,
được tổ chức thành bộ máy nhà nước, có nguồn gốc từ quyền lực công và thuộc về
người chủ đích thực của nó chính là nhân dân. Theo đó, kiểm soát quyền lực nhà nước
được hiểu: “là một quá trình hoạt động có mục đích bằng cách sử dụng các biện pháp
giám sát phù hợp tác động vào các cơ quan nắm giữ các quyền lực nhà nước, nhằm
bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan nhà nước tuân thủ đúng pháp luật trong khuôn
khổ phạm vi, quyền hạn được trao” [24, tr.27].
Quốc hội thực hiện việc kiểm soát quyền lực nhà nước, theo dõi, xem xét và
kiểm tra việc thực hiện quyền lực của các cơ quan trong bộ máy nhà nước nhằm bảo
đảm cho quyền lực và việc sử dụng quyền lực của các cơ quan đó tuân thủ đúng quy
36
định của Hiến pháp. Quốc hội thực hiện quyền kiểm soát quyền lực nhà nước bằng
nhiều hình thức và biện pháp khác nhau, trong đó quan trọng nhất là việc thực hiện
quyền giám sát. Ngay từ Hiến pháp năm 1946, tại Điều 36 đã quy định quyền của
Quốc hội trong việc “kiểm soát và phê bình Chính phủ”. Đến Hiến pháp năm 1959,
chức năng giám sát của Quốc hội được đề cập tại Điều 50 và Điều 53 với quy định:
“Quốc hội có quyền giám sát việc thi hành Hiến pháp”; “UBTVQH có quyền giám sát
công tác của Hội đồng Chính phủ, của Toà án nhân dân tối cao và của VKSND tối
cao”. Điều 82, Hiến pháp năm 1980, việc “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao
đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước” được quy định như là quyền giám sát tối cao
đối với mọi hoạt động của bộ máy từ lập pháp, hành pháp và tư pháp, từ các cơ quan
nhà nước ở trung ương đến địa phương. Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013
tiếp tục khẳng định “QH thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động
của Nhà nước” trong việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội.
Tất cả HĐGS của Quốc hội nói chung, UBTVQH, HĐDT, các Ủy ban của
Quốc hội nói riêng suy cho cùng đều do các ĐBQH thực hiện. Mặc dù HĐGS của cá
nhân các ĐBQH không phải là HĐGS tối cao của Quốc hội nhưng chính thông qua các
HĐGS sát này đã cung cấp nguồn thông tin quan trọng cho HĐGS tối cao của Quốc
hội. Ngoài ra, ĐBQH là một chủ thể giám sát độc lập, thực hiện việc giám sát đối với
các đối tượng, vấn đề cụ thể, với những hình thức giám sát cụ thể theo quy định của
pháp luật. Thông qua HĐGS, ĐBQH thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước, từ đó
góp phần rất quan trọng vào xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân.
2.1.2.3. Giám sát để góp phần kiểm soát quản lý công
Kiểm soát đối với quản lý công là tổng thể những phương tiện tổ chức - pháp lý
được các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân sử dụng để theo dõi, xem
xét, đánh giá hoạt động của các cá nhân, tổ chức thuộc bộ máy hành chính nhằm mục
đích phát hiện, ngăn chặn những hoạt động trái pháp luật hướng tới hoàn thiện nền
hành chính nhà nước, đảm bảo thực hiện các mục tiêu đề ra.
37
Mục tiêu hoạt động kiểm soát quản lý công là nhằm đảm bảo các chủ thể hành
chính nhà nước thực hiện đúng chức năng và thẩm quyền, tránh tình trạng lạm quyền,
đảm bảo thu chi ngân sách nhà nước của chủ thể quản lý hành chính nhà nước theo
đúng quy định của pháp luật, thiết lập trật tự kỷ cương trong quản lý công. Trên cơ sở
đó bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội,
giữ vững bản chất của nhà nước; giữ vững bản chất chế độ chính trị.
Chủ thể thực hiện quyền kiểm soát quản lý công bao gồm: (1) Các chủ thể thực
hiện kiểm soát từ bên ngoài: Quốc hội, HĐND, các tổ chức chính trị- xã hội, Mặt trận
Tổ quốc, công dân, Tòa án, cộng đồng quốc tế, báo chí, mạng xã hội, xã hội dân sự…
(2) các chủ thể thực hiện kiểm soát trong nội bộ nền hành chính: các cơ quan thanh tra
(bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành). Như vậy, Quốc hội, là một
trong những chủ thể quan trọng trong thực hiện kiểm soát quản lý công. Theo đó
ĐBQH cũng là một trong những chủ thể kiểm soát quản lý công bởi lẽ ĐBQH là yếu
tố cơ bản và quan trọng nhất cấu thành Quốc hội, tất cả các nhiệm vụ, quyền hạn của
Quốc hội đều do ĐBQH thực hiện.
Đối tượng của kiểm soát quản lý công, theo quy định của pháp luật không chỉ
chỉ là các cơ quan hành pháp mà còn áp dụng đối với Chủ tịch nước, Tòa án nhân dân
tối cao, Viện kiểm soát nhân dân tối cao. Theo Hiến pháp và pháp luật, Chính phủ,
Chủ tịch nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm soát nhân dân tối cao và những
người lãnh đạo các cơ quan đó đều do Quốc hội thành lập, bầu và phải chịu trách
nhiệm trước Quốc hội. Những quy định này cũng là sự cụ thể hóa của nguyên tắc hiến
định “Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Tuy nhiên, trong phạm
vi của “cơ chế kiểm soát quản lý công”, HĐGS của Quốc hội cũng như của các cơ cấu
bên trong của Quốc hội chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động của các cơ quan, cá nhân
trong bộ máy hành pháp.
Với vai trò là một chủ thể kiểm soát quản lý công, HĐGS của ĐBQH sẽ bao
quát toàn bộ quá trình quản lý, từ việc xây dựng chính sách quản lý cho đến kiểm tra
việc triển khai thực hiện chính sách công. Ở một góc độ tiếp cận khác, HĐGS của
38
ĐBQH với tư cách là một chủ thể kiểm soát quản lý công sẽ kiểm soát hoạt động của
cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương (chính phủ) và chính quyền địa phương
(gồm HĐND và UBND). Hoạt động kiểm soát của ĐBQH ý nghĩa quan trọng đối với
quản lý công. Với vai trò là người đại diện cho nhân dân, ĐBQH có thể tiếp nhận được
nhiều loại thông tin và tri thức từ nhân dân để làm cơ sở cho việc lựa chọn, hoạch định
chính sách, hạn chế những bất cập của chính sách, qua đó nâng cao chất lượng, hiệu
quả của các chính sách công, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, xã
hội, bảo đảm quyền lợi của nhân dân.
2.1.2.4. Giám sát để bổ sung cho hoạt động lập pháp
Lập pháp là một trong những chức năng cơ bản của Quốc hội và là hoạt động
thực hiện quyền lực nhà nước - quyền lập pháp. Hoạt động lập pháp là hoạt động mang
tính sáng tạo, là quá trình nhận thức các quy luật xã hội, đặc biệt là vấn đề lợi ích, xác
định tầm quan trọng của các quan hệ xã hội, từ đó xác định phạm vi và phương pháp
điều chỉnh đúng đắn đối với chúng.
Theo quy định của Hiến pháp, quá trình làm luật, sửa đổi luật được thực hiện
chặt chẽ, cụ thể theo quy trình sau: hằng năm, trên cơ sở đề nghị của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có quyền trình dự án luật, pháp lệnh, UBTVQH lập và trình Quốc hội
xem xét, quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Trên cơ sở chương trình
đó, UBTVQH phân công, chỉ đạo, đôn đốc và giám sát các cơ quan, tổ chức, cá nhân
có liên quan thực hiện chương trình này. Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc
hội có trách nhiệm thẩm tra, chỉnh lý, hoàn thiện các dự án luật trên cơ sở ý kiến của
các ĐBQH, ý kiến của nhân dân, các chuyên gia, đối tượng chịu tác động, các cơ quan,
tổ chức hữu quan. UBTVQH với tư cách là cơ quan chuẩn bị và chủ trì kỳ họp Quốc
hội có trách nhiệm cho ý kiến đối với các dự án luật. Giữa hai kỳ họp, các đoàn
ĐBQH cũng tổ chức các hội nghị để trao đổi, thảo luận và lấy ý kiến của các đối tượng
có liên quan. Với một số dự án luật quan trọng, phức tạp, UBTVQH còn tổ chức hội
nghị các ĐBQH chuyên trách và các chuyên gia đóng góp. Trong quá trình đó, ĐBQH
có thẩm quyền trình dự án luật, kiến nghị về luật; nghiên cứu, góp ý kiến, phát biểu
thảo luận tại Đoàn ĐBQH, HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội, tại các kỳ họp Quốc hội
39
và biểu quyết thông qua. Như vậy, ý kiến của ĐBQH là cơ sở quan trọng mang tính
quyết định trong việc hoạch định chính sách, chỉnh lý và hoàn thiện từng nội dung của
dự án luật. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc ĐBQH biểu quyết thông qua luật không
phải dựa trên ý muốn chủ quan cá nhân mà là trên cơ sở ý chí, nguyện vọng của cử tri
mà họ đại diện.
Để thực hiện có hiệu quả thẩm quyền của mình cũng như có đủ cơ sở khi biểu
quyết thông qua các dự án luật đòi hỏi ĐBQH phải có đầy đủ thông tin về dự án,
những tác động tích cực và tiêu cực mà dự kiến chính sách mới sẽ mang lại cho người
dân, cho doanh nghiệp, cho các nhóm lợi ích khác nhau trong xã hội. Một trong những
nguồn thông tin giá trị, hỗ trợ hữu ích nhất cho ĐBQH hoạt động lập pháp chính là
thông tin từ các HĐGS của mình. Mặt khác, thông qua HĐGS, ĐBQH có thể đánh giá
được kết quả kiểm nghiệm thực tiễn của các quy định pháp luật, từ đó, xác định những
hạn chế, những lỗ hổng, thiếu sót, những tác động không mong muốn của hệ thống
pháp luật để kịp thời kiến nghị việc sửa đổi, bổ sung.
Trong thực hiện quyền lập pháp, Quốc hội còn thực hiện ủy quyền lập pháp. Ủy
quyền lập pháp là việc Quốc hội giao cho Chính phủ quy định chi tiết hướng dẫn thi
hành một số điều, khoản, điểm trong các đạo luật, bộ luật dưới hình thức nghị định và
ban hành nghị định để quy định vấn đề cần thiết thuộc thẩm quyền của Quốc hội,
UBTVQH nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh và giao cho
UBTVQH ban hành pháp lệnh quy định những vấn đề được Quốc hội giao. Ủy quyền
lập pháp thực chất là hoạt động lập pháp nhưng không do Quốc hội ban hành mà lại
được Quốc hội ủy quyền cho cơ quan nhà nước khác ban hành. Điều đó đòi hỏi ủy
quyền lập pháp phải được giám sát chặt chẽ nhằm đảm bảo phân quyền một cách đúng
đắn giữa lập pháp và hành pháp, bảo đảm quyền lập pháp thuộc về Quốc hội. Vì vậy,
ĐBQH cũng như các chủ thể giám sát khác của Quốc hội cần tăng cường giám sát các
hoạt động lập pháp được ủy quyền để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống
nhất của toàn bộ hệ thống pháp luật ở nước ta.
Từ sự phân tích trên cho thấy, giữa hoạt động lập pháp và HĐGS của Quốc hội
nói chung, của ĐBQH nói riêng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu quyền lập
40
pháp được thực hiện tốt sẽ là điều kiện để thực hiện tốt hơn quyền giám sát. Ngược lại,
thông qua HĐGS sẽ đánh giá được kết quả của hoạt động lập pháp có phù hợp với
thực tiễn hay không, từ đó để bổ sung, hoàn thiện và phát huy vai trò của quyền lập
pháp.
2.2. Nội dung, quy trình và điều kiện bảo đảm hoạt động giám sát của đại biểu
Quốc hội
2.2.1. Nội dung hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội
2.2.1.1. Chất vấn
Chất vấn là quyền quan trọng và cơ bản của ĐBQH được quy định tại Hiến
pháp, là hình thức giám sát trực tiếp, quan trọng của Quốc hội Việt Nam. Chất vấn tuy
là quyền cá nhân của đại biểu Quốc hội nhưng khi thực hiện quyền này thì được xem
là một trong những hoạt động giám sát của Quốc hội.
Khoản 1, Điều 80, Hiến pháp 2013 khẳng định: “Đại biểu Quốc hội có quyền
chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các
thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước” [56].
Điều 32 Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 quy định: ĐBQH có quyền chất vấn
Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên
khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng VKSNDTC,
Tổng Kiểm toán nhà nước. Người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp
Quốc hội hoặc tại phiên họp UBTVQH trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội;
trường hợp cần thiết, Quốc hội, UBTVQH cho trả lời bằng văn bản. Trường hợp
ĐBQH chưa đồng ý với nội dung trả lời chất vấn thì có quyền chất vấn lại tại phiên
họp của Quốc hội, của UBTVQH hoặc gửi chất vấn bằng văn bản đến người bị chất
vấn [57].
Theo khoản 7, Điều 2, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân
dân năm 2015 quy định: “Chất vấn là việc đại biểu Quốc hội nêu vấn đề thuộc trách
nhiệm của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, thành
41
viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước; đại biểu Hội đồng nhân dân nêu vấn
đề thuộc trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân, thành viên khác của Ủy ban nhân
dân, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Thủ trưởng cơ
quan thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp và yêu cầu những người này trả lời về trách
nhiệm của mình đối với vấn đề được nêu” [58].
Theo quy định thời gian tổ chức chất vấn ít nhất là 03 ngày tại kỳ họp hằng
năm, ít nhất là 04 ngày tại kỳ họp cuối năm của năm giữa nhiệm kỳ và năm cuối nhiệm
kỳ Quốc hội. Thời gian cho mỗi lần chất vấn mà ĐBQH tiến hành một câu hỏi chất
vấn trong phiên họp toàn thể của Quốc hội không quá 02 phút. Người bị chất vấn trả
lời chất vấn của một đại biểu không quá 05 phút. Trường hợp cần thiết, Chủ tọa phiên
họp sẽ quyết định việc kéo dài thời gian trả lời chất vấn. Việc quy định về thời gian
nêu câu hỏi chất vấn và trả lời chất vấn nhằm mục đích tăng số lượng ĐBQH tham gia
chất vấn và bố trí được nhiều người trả lời chất vấn hơn. Ngoài ra, quy định này cũng
nhằm bảo đảm nâng cao chất lượng các câu hỏi và câu trả lời chất vấn, bởi vì với thời
gian ngắn như vậy sẽ buộc người hỏi và người trả lời một cách hiệu quả thì phải có sự
nghiên cứu, nắm chắc tình hình, đi vào trọng tâm, trọng điểm, hạn chế vòng vo.
Về hình thức chất vấn, bên cạnh hoạt động chất vấn trực tiếp tại kỳ họp Quốc
hội, ĐBQH còn thực hiện chất vấn tại các phiên họp UBTVQH, các phiên giải trình
của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội. Ngoài ra, theo Điều 50 Luật Hoạt động giám sát
của Quốc hội và HĐND 2015, ĐBQH còn có quyền thực hiện “gửi chất vấn bằng văn
bản đến người bị chất vấn” [58]. Trong những kỳ họp gần đây, chất vấn tiếp tục được
đổi mới theo hướng: người được chất vấn sẽ không biết trước câu hỏi, không được
chuẩn bị trước, các thành viên Chính phủ nhận được chất vấn sẽ phải trả lời tại chỗ.
Điều này đòi hỏi người bị chất vấn phải thực hiện tốt hơn chức trách quản lý của mình
để có thể bao quát, nắm chắc tình hình lĩnh vực thuộc trách nhiệm quản lý.
Về nội dung chất vấn, theo tinh thần của Hiến pháp, đại biểu Quốc hội có thể
chất vấn tất cả những vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Theo quy định tại khoản
2 Điều 15 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND 2015: trước phiên chất
42
vấn, ĐBQH ghi vấn đề chất vấn, người bị chất vấn vào phiếu chất vấn và gửi đến Ủy
ban thường vụ Quốc hội. Căn cứ vào chương trình kỳ họp, kiến nghị của cử tri, vấn đề
xã hội quan tâm và phiếu chất vấn của ĐBQH, UBTVQH trình Quốc hội quyết định
nhóm vấn đề chất vấn và người bị chất vấn [58]. Việc lấy nhóm vấn đề chất vấn làm
trọng tâm sẽ là cơ sở để Quốc hội quyết định người bị chất vấn phù hợp hơn, đồng
thời, có thể yêu cầu những người có trách nhiệm liên quan cùng tham gia trả lời làm
sáng tỏ hơn vấn đề chất vấn. Việc lựa chọn nhóm vấn đề chất vấn dựa trên lựa chọn
theo ba tiêu chí: (1) vấn đề bức xúc, nổi lên trong đời sống kinh tế - xã hội của đất
nước, được nhiều ĐBQH, cử tri quan tâm, vấn đề có dấu hiệu vi phạm pháp luật, vấn
đề đã được người bị chất vấn trả lời bằng văn bản nhưng ĐBQH không đồng ý, được
UBTVQH đồng ý trình Quốc hội xem xét cho trả lời tại kỳ họp Quốc hội; (2) không
chất vấn những vấn đề đã có trong nghị quyết về chất vấn và nghị quyết giám sát
chuyên đề của Quốc hội, UBTVQH trong thời gian 12 tháng tính đến thời điểm chất
vấn; (3) phù hợp với tổng thời gian tổ chức phiên họp chất vấn.
Để có thể tiến hành hoạt động chất vấn, những thông tin mà ĐBQH đưa ra làm
cơ sở cho câu hỏi chất vấn phải chính xác, tin cậy, cụ thể, không thể từ dư luận xã hội
chung chung hoặc do cảm quan nhìn nhận của đại biểu. Từ đó, đòi hỏi ĐBQH cần có
những kỹ năng cần thiết như: kỹ năng phân tích, tổng hợp, lựa chọn vấn đề chất vấn;
kỹ năng thuyết trình, sử dụng ngôn ngữ, diễn giải vấn đề cần hỏi; kỹ năng trình bày ý
kiến một cách rõ ràng, có sức thuyết phục; kỹ năng tham gia thảo luận, tranh luận tại
nghị trường, v.v..
Chất vấn là nội dung quan trọng trong HĐGS của ĐBQH, thông qua đó đại biểu
thực hiện giám sát hoạt động của Chính phủ, quy trách nhiệm chính trị đối với người
trả lời chất vấn. Đồng thời thông qua hoạt động chất vấn cũng là dịp để cử tri giám sát,
đánh giá các đại biểu mà họ đã bầu chọn. Do đó, để hoàn thành tốt vai trò, nhiệm vụ
của người đại diện cho nhân dân, đòi hỏi ĐBQH không thể đứng ngoài, làm ngơ trước
những bức xúc, những vấn đề của đời sống liên quan đến lợi ích thiết thực của người
dân, mà phải gần gũi, lắng nghe ý kiến của nhân dân, nắm bắt được những tâm tư,
nguyện vọng thực sự của nhân dân. Chính vì vậy, chất vấn có thể coi là công cụ giám
43
sát mạnh nhất, phù hợp với điều kiện hoạt động của ĐBQH trong kiểm soát nhà nước
nhằm đảm bảo “mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”.
2.2.1.2. Giám sát văn bản quy phạm pháp luật
Giám sát văn bản quy phạm pháp luật được hiểu là hình thức giám sát mà thông
qua đó, các chủ thể giám sát xem xét các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành
có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội hay không, để từ đó có
các biện pháp cụ thể như: “quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó”.
Mục tiêu của hoạt động giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật là
nhằm bảo đảm các văn bản pháp luật được ban hành kịp thời, phù hợp với Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
phát hiện những nội dung sai trái của văn bản để kịp thời điều chỉnh việc thi hành, sửa
đổi, hủy bỏ hoặc bãi bỏ văn bản nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống
nhất của hệ thống văn bản pháp luật, đồng thời phát hiện những văn bản chưa rõ ràng,
được hiểu và áp dụng không thống nhất, làm cơ sở cho việc bãi bỏ, đình chỉ hoặc kiến
nghị bãi bỏ, đình chỉ văn bản hoặc làm căn cứ cho hoạt động giải thích hiến pháp, luật,
pháp lệnh.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, Quốc hội không phải là chủ thể duy
nhất có quyền thực hiện các hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật mà cả
UBTVQH, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban, các Đoàn đại biểu Quốc hội và ĐBQH cũng
là những chủ thể có thẩm quyền và nhiệm vụ tiến hành hoạt động này.
Về thẩm quyền, ĐBQH có trách nhiệm nghiên cứu, xem xét nội dung các văn
bản quy phạm pháp luật. Trường hợp phát hiện văn bản quy phạm pháp luật có dấu
hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
UBTVQH thì đại ĐBQH có quyền kiến nghị cơ quan, cá nhân có thẩm quyền sửa đổi,
bổ sung, đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp
luật đó. Nếu cơ quan, cá nhân đã ban hành văn bản không thực hiện kiến nghị hoặc
44
thực hiện không đáp ứng với yêu cầu thì ĐBQH báo cáo UBTVQH xem xét, xử lý
theo quy định của pháp luật.
Về nội dung giám sát văn bản pháp luật:
Một là, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản quy phạm
pháp luật. Việc giám sát văn bản quy phạm pháp luật nhằm ngăn ngừa các vi phạm, sai
sót, thiếu tính thống nhất trong quá trình ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng
dẫn thi hành các quy định của Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; bảo đảm cho
các văn bản này phù hợp với Hiến pháp, các luật, nghị quyết của Quốc hội, bảo đảm
tính chất thứ bậc, thống nhất của hệ thống pháp luật. Do đó việc giám sát văn bản phải
được quán triệt các nguyên tắc sau đây:
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Các văn bản pháp luật khác được ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội; phải bảo đảm đúng trật tự, thứ bậc hiệu lực pháp lý trong hệ
thống pháp luật.
Văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp
với văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên.
Hai là, giám sát những sơ hở, thiếu sót của văn bản quy phạm pháp luật trong
quá trình áp dụng. Thông qua giám sát nhằm phát hiện những sơ hở, thiếu sót của văn
bản quy phạm pháp luật mà các cá nhân, tổ chức có thể lợi dụng; hoặc tính không
thống nhất, “vênh”, “chồng chéo” giữa các văn bản pháp luật. Ngoài ra, hoạt động
giám sát còn hướng tới việc xem xét tính hiệu quả của các văn bản, tính phù hợp của
các pháp lệnh, nghị định độc lập để nâng lên thành luật. Như vậy, thông qua giám sát
những sơ hở, thiếu sót của văn bản quy phạm pháp luật trong quá trình áp dụng sẽ đảm
bảo về nội dung điều chỉnh các quan hệ xã hội, bảo đảm tính toàn diện, đầy đủ các quy
định cần hướng dẫn, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ đồng thời, bảo đảm tính khả
thi, hiệu quả cho văn bản pháp luật được ban hành.
45
2.2.1.3. Giám sát việc thi hành pháp luật
Xét về khía cạnh ngôn ngữ, “giám sát việc thi hành pháp luật” là một hình thức
giám sát có phạm vi đối tượng, nội dung rộng lớn, khó xác định một cách cụ thể, rõ
ràng và có thể bao trùm lên tất cả các hình thức giám sát khác. Bởi xét cho đến cùng
thì chất vấn, giám sát văn bản pháp luật hay giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị của công dân cũng chính là giám sát việc thi hành pháp luật của các đối
tượng thuộc phạm vi, thẩm quyền giám sát của các chủ thể giám sát. Từ cách tiếp cận
đó, có thể hiểu hoạt động giám sát việc thi hành pháp luật của đại biểu Quốc hội là một
hoạt động giám sát chuyên đề, tức là việc đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh
giá vấn đề hoặc hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc
tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương.
Như vậy, ĐBQH có quyền giám sát mọi vấn đề liên quan đến việc thực thi Hiến
pháp, luật, nghị quyết và hoạt động của bất kỳ cơ quan nhà nước, tổ chức, công dân
nào ở địa phương. ĐBQH có thể thực hiện hoạt động giám sát trong một số lĩnh vực và
đối với những trường hợp cần thiết. Hoạt động giám sát chuyên đề về những vấn đề
bức xúc nổi lên ở địa phương chính là hoạt động giám sát việc thi hành pháp luật được
quy định trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Mục đích
của hoạt động này là nhằm xem xét, đánh giá việc thi hành pháp luật trong một lĩnh
vực cụ thể, của một cơ quan cụ thể (nhất là về những vấn đề nổi cộm, bức xúc, được
dư luận quan tâm), từ đó có những biện pháp cần thiết để thúc đẩy việc thực hiện pháp
luật của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực đó.
Hoạt động giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương của ĐBQH có một số
đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, là hoạt động mang tính kế hoạch, được định trước và đưa vào
Chương trình giám sát hàng năm của ĐBQH, Đoàn đại biểu Quốc hội. Theo quy định
của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân 2015, căn cứ vào
chương trình giám sát của Quốc hội và thực tiễn ở địa phương, ĐBQH và Đoàn đại
biểu Quốc hội phải lập chương trình giám sát hàng năm làm căn cứ để tiến hành thực
hiện giám sát.
46
Thứ hai, là hoạt động được tiến hành bởi một chủ thể giám sát độc lập là
ĐBQH. ĐBQH được tự quyết định về nội dung, kế hoạch giám sát, cơ quan, tổ chức,
cá nhân chịu sự giám sát nhưng được hỗ trợ tổ chức bởi Đoàn đại biểu Quốc hội. Đoàn
đại biểu Quốc hội vừa là một chủ thể giám sát độc lập theo Luật hoạt động giám sát,
cũng đồng thời được giao trách nhiệm tổ chức để ĐBQH thực hiện HĐGS việc thi
hành pháp luật ở địa phương, bảo đảm các điều kiện cần thiết để đại biểu có thể tiến
hành giám sát thuận lợi.
Thứ ba, HĐGS việc thi hành pháp luật của ĐBQH được thực hiện trong phạm
vi ở các địa phương. Theo Luật tổ chức chính quyền địa phương hiện hành, chính
quyền địa phương ở nước ta được tổ chức theo bốn cấp hành chính, cấp trung ương,
cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Như vậy, HĐGS của đại biểu có thể bao trùm lên cả
bốn cấp chính quyền nói trên. Bên cạnh đó, theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ
chức Quốc hội, ĐBQH không chỉ đại diện cho cử tri nơi bầu ra mình mà còn đại diện
cho cử tri cả nước. Do đó, hoạt động giám sát của ĐBQH không chỉ có phạm vi không
gian là chính quyền địa phương ở đơn vị bầu cử của mình, ở tỉnh nơi đại biểu sinh hoạt
mà có thể là chính quyền của tất cả các địa phương trong cả nước.
Thứ tư, HĐGS việc thi hành pháp luật của ĐBQH được pháp luật quy định đầy
đủ cả về nội dung, quy trình thực hiện và các biện pháp xử lý sai phạm. Những quy
định đó là hành lang pháp lý để các đại biểu tuân thủ trong quá trình thực hiện HĐGS
nhằm đảm bảo cho HĐGS được thực thi nghiêm minh, đạt hiệu quả cao.
2.2.1.4. Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân
Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân được hiểu
là việc các cơ quan, tố chức, cá nhân có thẩm quyền theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt
động của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trong ban hành văn bản quy phạm
pháp luật, quản lý nhà nước về khiếu nại, tố cáo; trong tiếp công dân, xử lý đơn thư
khiếu nại, tố cáo; trong kiểm tra, xác minh, kết luận về nội dung khiếu nại, tố cáo và
quyết định giải quyết, xử lý của người giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền.
47
Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân là một
trong những chức năng, nhiệm vụ quan trọng của cơ quan dân cử nói chung và của
ĐBQH nói riêng. Thông qua giám sát kịp thời phát hiện những tồn tại, bất cập trong
việc thực hiện chính sách, pháp luật, từ đó kiến nghị các cơ quan chức năng giải quyết
đảm bảo đúng quy định pháp luật, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Bên
cạnh đó, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân còn là một
phương thức bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần hoàn thiện pháp luật và
dân chủ trong đời sống xã hội.
Điều 54, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm
2015 xác định: “Đoàn đại biểu Quốc hội có trách nhiệm tổ chức để đại biểu Quốc hội
tiếp công dân, giám sát cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân”, “Khi nhận được khiếu nại, tố cáo, kiến nghị
của công dân, đại biểu Quốc hội có trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị biết; đôn đốc, theo dõi và giám sát việc giải quyết”; “Đại biểu Quốc hội
có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan hoặc người khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị đến trình bày và cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan; xem xét, xác minh
vấn đề mà đại biểu Quốc hội quan tâm”[58]. Như vậy, ĐBQH không tự mình giải
quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân mà là địa chỉ tin cậy để người dân gửi
gắm tâm tư, nguyện vọng, chuyển tải chúng đến các cơ quan có thẩm quyền giải quyết
và được giải quyết đúng pháp luật. Sau khi chuyển đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của
công dân, ĐBQH có trách nhiệm giám sát việc xử lý, giải quyết và thông báo để người
dân được biết.
Hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân
của ĐBQH có đặc điểm sau:
- Phản ánh ở mức độ cao nhất sự tin tưởng và kỳ vọng của người dân vào vai
trò đại diện của đại biểu Quốc hội nói riêng và của Quốc hội nói chung.
48
- Là hoạt động giám sát theo sát những diễn biến thực tế của cuộc sống, những
vấn đề bức xúc, mới nảy sinh trong thực tiễn cuộc sống, qua đó phản ánh sự phản ứng
tích cực, nhanh nhạy của Quốc hội và ĐBQH.
- Khác với các HĐGS khác, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị
của công dân không có quy định cụ thể về phạm vi, nội dung của mà phụ thuộc chủ yếu
vào nội dung những khiếu nại, tố cáo, kiến nghị cụ thể của công dân.
- Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân là tiền đề
quan trọng để thực hiện các HĐGS khác của ĐBQH như chất vấn, giám sát văn bản
quy phạm pháp luật, giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương.
2.2.2. Quy trình hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội
Theo quy định của pháp luật, ĐBQH có thể tự mình tiến hành HĐGS hoặc tham
gia HĐGS của Đoàn đại biểu Quốc hội; tham gia Đoàn giám sát của Quốc hội,
UBTVQH, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội tại địa phương khi có yêu cầu.
ĐBQH thực hiện giám sát thông qua các hoạt động: chất vấn những người bị chất vấn
tại kỳ họp Quốc hội hoặc phiên họp của UBTVQH trong khoảng thời gian giữa hai kỳ
họp, giám sát văn bản quy phạm pháp luật, giám sát việc thi hành pháp luật và giám
sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân. Mỗi HĐGS đó đều có
những quy định về quy trình, thủ tục tiến hành cụ thể buộc ĐBQH phải tuân thủ khi
triển khai và thực hiện.
* Quy trình tiến hành các hoạt động giám sát của ĐBQH với tư cách một chủ
thể giám sát độc lập được pháp luật quy định.
- Quy trình chất vấn của ĐBQH tại phiên họp toàn thể: gồm các bước sau:
Bước 1: ĐBQH gửi câu hỏi chất vấn.
Bước 2: Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định nhóm vấn đề và người trả lời
chất vấn.
Bước 3: ĐBQH nêu câu hỏi tại phiên họp toàn thể về chất vấn và trả lời chất vấn.
Bước 4: Người được chất vấn trả lời câu hỏi chất vấn.
49
Bước 5: ĐBQH chất vấn lại người trả lời câu hỏi chất vấn (nếu có).
Bước 6: Quốc hội ban hành nghị quyết.
Bước 7: ĐBQH giám sát việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội (xem Sơ đồ 2.1)
Câu hỏi chất vấn của đại biểu QH UBTVQH quyết định nhóm vấn đề và người trả lời chất vấn
Trả lời câu hỏi chất vấn Nêu câu hỏi tại phiên họp toàn thể về chất vấn và trả lời chất vấn
Quốc hội ban hành Chất vấn lại (nếu có) nghị quyết
Giám sát việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội
Sơ đồ 2.1: Quy trình chất vấn của ĐBQH tại phiên họp toàn thể
- Quy trình chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội
Bước 1: ĐBQH gửi câu hỏi chất vấn giữa hai kỳ họp; Câu hỏi chất vấn của
ĐBQH được Quốc hội cho trả lời tại phiên họp UBTVQH.
Bước 2: UBTVQH quyết định nhóm vấn đề, người trả lời và thời gian phiên họp.
Bước 3: ĐBQH đặt câu hỏi chất vấn trực tiếp tại phiên họp UBTVQH.
Bước 4: Trả lời chất vấn; ĐBQH chất vấn lại người trả lời chất vấn (nếu có).
Bước 5: Ban hành nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn (nếu có) (Sơ đồ 2.2)
50
Câu hỏi chất vấn của ĐBQH giữa hai kỳ họp
Câu hỏi chất vấn của ĐBQH được Quốc hội cho trả lời tại phiên họp UBTVQH
UBTVQH quyết định nhóm vấn đề, người trả lời và thời gian phiên họp chất vấn
ĐBQH đặt câu hỏi chất vấn trực tiếp tại phiên họp UBTVQH
Trả lời chất vấn
Chất vấn lại (nếu có) Ban hành nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn (nếu có)
Sơ đồ 2.2: Quy trình chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội
- Quy trình chất vấn bằng văn bản:
Bước 1: ĐBQH gửi câu hỏi chất vấn bằng văn bản đối với những nội dung:
không thuộc nhóm vấn đề chất vấn tại kỳ họp Quốc hội, phiên họp UBTVQH; chất
vấn cần được điều tra, xác minh; thuộc nhóm vấn đề chất vấn nhưng chưa được trả lời
tại kỳ họp Quốc hội, phiên họp UBTVQH.
Bước 2: Người trả lời chất vấn gửi văn bản trả lời chất vấn đến ĐBQH,
UBTVQH, Đoàn Đại biểu Quốc hội, cổng thông tin điện tử Quốc hội.
51
Bước 3: Trường hợp không đồng ý với văn bản trả lời chất vấn, ĐBQH đề nghị
UBTV Quốc hội đưa ra thảo luận tại phiên họp UBTVQH, kỳ họp Quốc hội hoặc kiến
nghị Quốc hội xem xét trách nhiệm của người trả lời chất vấn. (Sơ đồ 2.3)
Không thuộc nhóm vấn đề chất vấn tại kỳ họp Quốc hội, phiên họp UBTVQH
Thuộc nhóm vấn đề chất vấn chưa được trả lời tại kỳ họp QH, phiên họp UBTVQH Câu hỏi chất vấn của ĐBQH
Chất vấn cần được điều tra, xác minh
Đại biểu quốc hội
Ủy ban thường vụ Quốc hội
Văn bản trả lời chất vấn
Đoàn đại biểu Quốc hội
Cổng thông tin điện tử Quốc hội
Đề nghị UBTVQH đưa ra thảo luận tại phiên họp UBTVQH, kỳ họp QH
Trường hợp ĐBQH không đồng ý với văn bản trả lời chất vấn
Kiến nghị Quốc hội xem xét trách nhiệm của người trả lời chất vấn
Sơ đồ 2.3: Quy trình chất vấn bằng văn bản
- Quy trình giám sát văn bản quy phạm pháp luật
Quy trình này được tiến hành thông qua các bước cơ bản sau:
Bước 1: Đại biểu Quốc hội tiến hành khảo sát, đánh giá văn bản quy phạm pháp luật.
Bước 2: Kiến nghị nếu phát hiện văn bản quy phạm pháp luật có sai phạm.
Đối với văn bản trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết thì đề nghị UBTVQH xử lý.
52
Đối với văn bản trái pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH thì kiến nghị cơ quan,
cá nhân có thẩm quyền xử lý, hoặc báo cáo UBTVQH xem xét, xử lý.
Đối với văn bản trái nghị quyết của UBTVQH, nghị quyết liên tịch của
UBTVQH – UBTƯMTTQVN thì đề nghị Chủ tịch nước trình Quốc hội xem xét.
Bước 3: Xử lý sai phạm. Căn cứ vào mức độ sai phạm, UBTVQH xử lý sai
phạm theo các hình thức: hủy bỏ một phần hặc toàn bộ văn bản; Đình chỉ thi hành một
phần hoặc toàn bộ văn bản; trình Quốc hội xem xét. Căn cứ vào mức độ sai phạm
Quốc hội bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản. (Sơ đồ 2.4)
Khảo sát, đánh giá
Đề nghị UBTVQH xử lý
Văn bản trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của QH
Văn bản trái pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH
Kiến nghị nếu phát hiện văn bản có sai phạm - Kiến nghị cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xử lý - Báo cáo UBTVQH xem xét, xử lý
Đề nghị Chủ tịch nước trình QH xem xét
- NQ UBTVQH - NQ liên tịch của UBTVQH- UBTƯMTTQ
Ủy ban thường vụ Quốc hội
- Hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản - Đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản - Trình quốc hội Xử lý sai phạm
Quốc hội Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản
Sơ đồ 2.4: Quy trình giám sát văn bản quy phạm pháp luật văn bản
53
- Quy trình giám sát việc thi hành pháp luật
Bước 1: ĐBQH lập chương trình giám sát với nội dung giám sát việc thi hành
pháp luật.
Bước 2: ĐBQH xây dựng kế hoạch giám sát cụ thể.
Bước 3: ĐBQH thông báo kế hoạch tới đối tượng giám sát.
Bước 4: ĐBQH tiến hành giám sát.
Bước 5: ĐBQH thông báo kết luận giám sát.
Bước 6: ĐBQH theo dõi việc thực hiện giám sát.
Bước 7: Kiến nghị tới Quốc hội hoặc UBTVQH. (Sơ đồ 2.5)
Xây dựng kế hoạch
giám sát cụ thể Lập chương trình giám sát với nội dung giám sát việc thi hành pháp luật
Thông báo kế hoạch tới
Tiến hành giám sát đối tượng giám sát
Theo dõi việc thực hiện Thông báo kết luận
kết luận giám sát giám sát
Kiến nghị tới Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội
Sơ đồ 2.5: Quy trình giám sát việc thi hành pháp luật
54
- Quy trình giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân
Bước 1: ĐBQH nhận đơn khiếu nại tố cáo của công dân.
Bước 2: ĐBQH chuyển đơn khiếu nại tố cáo của công dân lên các cơ quan, cấp
có thẩm quyền giải quyết.
Bước 3: ĐBQH giám sát việc giải quyết: thời hạn, nội dung giải quyết. Nếu
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân sai phạm pháp luật thì ĐBQH
gặp người đứng đầu cơ quan giải quyết yêu cầu xem xét lại; hoặc yêu cầu người đứng
đầu cơ quan cấp trên trực tiếp xem xét; hoặc yêu cầu cung cấp thông tin; xem xét xác
minh vấn đề. (Sơ đồ 2.6)
Nhận đơn
Chuyển đơn
Giám sát việc giải quyết: thời hạn giải quyết và nội dung giải quyết, nếu sai pháp luật
Yêu cầu cung cấp thông tin
Xem xét, xác minh vấn đề
Gặp người đứng đầu cơ quan giải quyết yêu cầu xem xét lại
Yêu cầu người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp xem xét
Sơ đồ 2.6: Quy trình giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân
55
* Quy trình kiến nghị thành lập Ủy ban lâm thời của Quốc hội điều tra về một
vấn đề nhất định
Quy định về Ủy ban lâm thời của Quốc hội để điều tra về một vấn đề nhất định
là một sự dự liệu cho trường hợp đặc biệt khi Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội
không thể tiến hành HĐGS với các hình thức thông thường khác. Đây là thẩm quyền
mở cho ĐBQH và Quốc hội trong việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ do luật định.
Thẩm quyền thành lập Ủy ban lâm thời của Quốc hội để điều tra về một vấn đề nhất
định đã được pháp luật ghi nhận từ trước, tuy nhiên, quy trình ĐBQH kiến nghị thành
lập Ủy ban lâm thời lần đầu tiên được pháp luật quy định tại Luật tổ chức Quốc hội
năm 2014, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
Theo quy định tại Điều 33, Điều 88, 89 của Luật tổ chức Quốc hội năm 2014, Điều 17
của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015, ĐBQH
kiến nghị thành lập Ủy ban lâm thời của Quốc hội để điều tra về một vấn đề nhất định
theo quy trình sau:
Bước 1: Đại biểu Quốc hội gửi kiến nghị bằng văn bản đến UBTVQH, trong đó
nêu rõ lý do, nội dung kiến nghị.
Bước 2: UBTVQH tổng hợp, xử lý kiến nghị của đại biểu. Trường hợp có từ
một phần ba tổng số ĐBQH trở lên kiến nghị Quốc hội thành lập Ủy ban lâm thời thì
UBTVQH báo cáo để Quốc hội xem xét, quyết định.
Số lượng kiến nghị cần thiết là tổng số kiến nghị mà UBTVQH tiếp nhận được
trong khoảng thời gian từ ngày khai mạc kỳ họp này đến trước ngày khai mạc kỳ họp
tiếp theo. Thành phần, số lượng thành viên, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Ủy ban
lâm thời do Quốc hội quyết định theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Bước 3: Quốc hội xem xét đề nghị thành lập Ủy ban lâm thời theo trình tự sau
đây: UBTVQH trình Quốc hội đề nghị thành lập Ủy ban lâm thời, theo đó, Tờ trình
phải nêu rõ lý do, nội dung, đối tượng điều tra, dự kiến thành phần, nhiệm vụ, quyền
hạn của Ủy ban lâm thời;
Quốc hội thảo luận, ra nghị quyết thành lập Ủy ban lâm thời.
56
Bước 4: Ủy ban lâm thời tổ chức hoạt động và báo cáo kết quả điều tra với
UBTUQH và Quốc hội.
* Quy trình kiến nghị về việc bỏ phiếu tín nhiệm
Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm là một hình thức giám sát đặc biệt hay
là một công cụ đặc biệt trong HĐGS nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám
sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân; giúp người được lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu
tín nhiệm thấy được mức độ tín nhiệm của mình để phấn đấu, rèn luyện, nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động; làm cơ sở để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét
đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ. Quốc hội thực hiện bỏ phiếu tín nhiệm đối với người
giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn trong các trường hợp: UBTVQH đề
nghị; có kiến nghị của ít nhất hai mươi phần trăm tổng số ĐBQH; có kiến nghị của
Hội đồng Dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội; hoặc người được lấy phiếu tín nhiệm có
từ hai phần ba tổng số ĐBQH trở lên đánh giá tín nhiệm thấp.
Sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, quy trình ĐBQH kiến nghị việc
lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu, phê
chuẩn được cụ thể hóa trong Luật tổ chức Quốc hội năm 2014, Luật hoạt động giám
sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015. Theo quy định tại Điều 13, Điều 33
của Luật tổ chức Quốc hội năm 2014, Điều 19 của Luật hoạt động giám sát của Quốc
hội và Hội đồng nhân dân năm 2015, Quy trình kiến nghị về việc bỏ phiếu tín nhiệm
của ĐBQH thực hiện như sau:
Bước 1: Đại biểu Quốc hội gửi kiến nghị bằng văn bản đến UBTVQH, trong đó
nêu rõ lý do, nội dung kiến nghị về việc bỏ phiếu tín nhiệm.
Bước 2: UBTVQH tổng hợp, xử lý kiến nghị của ĐBQH. Trường hợp có từ hai
mươi phần trăm tổng số ĐBQH trở lên kiến nghị Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với
một người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn thì UBTVQH báo cáo để
Quốc hội xem xét, quyết định. Số lượng kiến nghị cần thiết là tổng số kiến nghị mà
UBTVQH tiếp nhận được trong khoảng thời gian từ ngày khai mạc kỳ họp này đến
trước ngày khai mạc kỳ họp tiếp theo.
57
Bước 3: Quốc hội thực hiện việc bỏ phiếu tín nhiệm. Người được đưa ra bỏ
phiếu tín nhiệm có quá nửa tổng số ĐBQH bỏ phiếu không tín nhiệm có thể xin từ
chức. Trường hợp người đó không từ chức thì cơ quan hoặc người có thẩm quyền giới
thiệu để Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn chức vụ đó có trách nhiệm trình Quốc hội xem
xét, quyết định việc miễn nhiệm hoặc phê chuẩn đề nghị miễn nhiệm.
Từ những quy định về trình tự, thủ tục hoạt động giám sát của ĐBQH nêu trên
cho thấy:
Thứ nhất, pháp luật đã có những quy định cơ bản, đầy đủ về quy trình thực hiện
các HĐGS của ĐBQH như: chất vấn, giám sát văn bản quy phạm pháp luật, giám sát
thi hành luật, giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân, kiến
nghị thành lập Ủy ban lâm thời của Quốc hội điều tra về một vấn đề nhất định và kiến
nghị về việc bỏ phiếu tín nhiệm. Tất cả các HĐGS của ĐBQH đã được cụ thể hóa
thành các bước thực hiện và cách thức sử dụng chặt chẽ, chi tiết, nhờ đó các đại biểu
có thể thực hiện hiệu quả toàn bộ thẩm quyền giám sát của mình trên thực tế chứ
không phải là thẩm quyền về mặt hình thức, danh nghĩa.
Thứ hai, việc quy định đầy đủ, chặt chẽ quy trình của các HĐGS của ĐBQH có
ý nghĩa rất quan trọng. Một mặt, tạo điện kiện thuận lợi cho ĐBQH, cũng như bộ máy
giúp việc, các cơ quan, cá nhân hữu quan, trong đó có đối tượng chịu sự giám sát trong
quá trình tiến hành, phục vụ HĐGS thực hiện các công việc một cách hợp lý, khoa
học. Việc tuân thủ đúng các quy trình đó sẽ bảo đảm tính hợp pháp của các quyết định
của ĐBQH; bảo đảm tính ổn định, tính kỷ luật và sự công bằng giữa các ĐBQH trong
quá trình thực hiện các HĐGS. Mặt khác, việc quy định đầy đủ, chặt chẽ quy trình của
các HĐGS cũng bảo đảm sự minh bạch trong hoạt động của Quốc hội, của ĐBQH, tạo
điều kiện thuận lợi để Nhân dân, cử tri theo dõi, giám sát, đánh giá hoạt động của
ĐBQH, từ đó nâng cao sự tín nhiệm đối với người đại diện của mình.
Thứ ba, lần đầu tiên, pháp luật đã quy định cụ thể, chi tiết về quy trình thực
hiện quyền chất vấn của ĐBQH, nhất là việc tổ chức chất vấn tại các phiên họp
UBTVQH và chất vấn bằng văn bản, trong đó bao gồm các quy định về thời gian, hạn
58
định đã tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể có liên quan áp dụng trong quá trình
thực hiện và nâng cao chất lượng cũng như hiệu quả hoạt động chất vấn.
Thứ tư, pháp luật đã quy định đầy đủ các bước tiến hành HĐGS của ĐBQH đối
với việc thi hành pháp luật ở địa phương, trong đó, có cả quy trình tiến hành các hoạt
động cụ thể, sự kết nối giữa kết quả giám sát của của ĐBQH với các HĐGS của Quốc
hội và UBTVQH. Điều này cho thấy vai trò và tầm quan trọng của HĐGS của ĐBQH
đối với các HĐGS của Quốc hội và UBTVQH.
Thứ năm, quy trình giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của
công dân là cơ sở pháp lý đảm bảo cho ĐBQH tiến hành HĐGS của mình một cách
hiệu quả. Quy trình được quy định cũng cho thấy sự tương tác cần thiết giữa đại biểu
và cử tri từ khi tiếp nhận, chuyển đơn cho đến quá trình theo dõi, giám sát việc giải
quyết đơn của người dân, qua đó tạo điều liện thuận lợi cho ĐBQH kịp thời phát hiện
những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, từ đó kiến nghị các
cơ quan chức năng giải quyết, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Thứ sáu, lần đầu tiên quy trình ĐBQH kiến nghị thành lập Ủy ban lâm thời
được pháp luật quy định. Đây là một trong những điểm mới quan trọng của pháp luật
về tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong quá trình thể chế hóa Hiến pháp năm
2013. Quy trình này bảo đảm thẩm quyền mở cho ĐBQH và Quốc hội trong quá trình
việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ theo luật định.
2.2.3. Điều kiện bảo đảm hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội
Đại biểu Quốc hội thực hiện HĐGS nhằm đảm bảo cho Hiến pháp và pháp luật
được thực thi nghiêm minh, các cơ quan nhà nước thực hiện đúng và có hiệu quả
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, trên cơ sở đó bảo đảm quyền lợi của nhân dân. Để
Quốc hội và ĐBQH thực hiện được vai trò, sứ mệnh của mình, thực hiện được những
quyền năng do pháp luật quy định, trong đó có quyền giám sát, cần phải có những điều
kiện cần thiết bảo đảm cho HĐGS của ĐBQH thực thi hiệu quả.
Điều kiện bảo đảm HĐGS của ĐBQH là tổng thể những nhân tố mà nhờ đó
ĐBQH có thể tiến hành HĐGS đạt được mục đích đã đề ra. Nếu không bảo đảm được
59
các điều kiện đó thì HĐGS của ĐBQH khó có thể được tiến hành hoặc có thể tiến
hành nhưng không đạt được hiệu quả như mong muốn. Do đó, việc bảo đảm các điều
kiện cho HĐGS của ĐBQH là vấn đề hết sức quan trọng cần phải được thực hiện trên
thực tế. Những điều kiện đảm bảo HĐGS của ĐBQH thực thi có hiệu quả bao gồm:
- Bảo đảm về chính trị:
Chính trị là tổng hợp các điều kiện, các lĩnh vực hoạt động phản ánh kết cấu xã
hội - giai cấp, tính chất của các mối quan hệ giai cấp, nhất là quan hệ giữa giai cấp
lãnh đạo với giai cấp khác trong một chế độ xã hội nhất định. Ở Việt Nam, chính trị
trước hết là bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hiệu lực quản lý của Nhà
nước, quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng Cộng
sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, đồng thời,
việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng trước hết và chủ yếu phải bằng
Nhà nước, thông qua Nhà nước. Bảo đảm về chính trị, về sự lãnh đạo của Đảng trong
tổ chức và hoạt động của Quốc hội cũng như các cơ quan nhà nước là nguyên tắc cơ
bản, đặt ở vị trí quan trọng hàng đầu. Theo đó, HĐGS của ĐBQH trước hết cũng phải
tuân theo nguyên tắc này. Mặt khác, hoạt động của ĐBQH mang tính định hướng
chính trị rõ nét, thể hiện cụ thể qua việc: thông qua hoạt động của mình, ĐBQH góp
phần thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật.
Vì vậy, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả HĐGS của ĐBQH, trước hết cần bảo
đảm, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, đổi mới nội dung và phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Quốc hội nói chung và
HĐGS của ĐBQH nói riêng. Đây là yếu tố cơ bản, trước tiên bảo đảm để ĐBQH có đủ
vị thế chính trị để từ đó có được bản lĩnh chính trị để thực hiện được thẩm quyền của
mình, thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài và từ bên trên hệ thống
hành pháp.
- Về chế độ bầu cử:
Bầu cử ĐBQH là việc cử tri tham gia bỏ phiếu theo các nguyên tắc phổ thông,
bình đẳng, trực tiếp và kín để bầu những đại biểu mà mình tín nhiệm vào Quốc hội.
60
Bầu cử ĐBQH là hoạt động chính trị liên quan đến việc hình thành Quốc hội - cơ quan
đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc bầu cử được tiến hành khi kết thúc nhiệm kỳ của
Quốc hội. Thông qua bầu cử nhân dân đưa ra quyết định chọn và trao quyền cho các
đại biểu thay mặt mình quản lý xã hội. Đây là cách thức dân chủ nhất để hình thành bộ
máy nhà nước của một quốc gia, vì thế nó mang ý nghĩa pháp lý - xã hội đặc biệt quan
trọng. Đồng thời, quá trình này cũng mang lại địa vị chính trị - pháp lý đặc biệt vững
chắc cho ĐBQH - người đại diện cho cử tri, có thể đại diện cho cử tri ở từng khu vực
địa lý, có thể đại diện cho cử tri theo các dân tộc, giai cấp, tầng lớp xã hội, có thể đại
diện cho cử tri theo lĩnh vực hoạt động, theo giới…
Việc thiết kế chế độ bầu cử có ảnh hưởng khá lớn đến vị thế của ĐBQH bởi lẽ
cách thức tổ chức bầu cử như: phân chia đơn vị bầu cử, cơ cấu đại biểu, đề cử, ứng
cử… sẽ xác định ĐBQH đại diện cho ai, cho giai cấp, tầng lớp xã hội và đại diện như
thế nào; đại diện cho lợi ích của các địa phương hay đại diện cho lợi ích của Trung
ương. Đồng thời, cơ chế bầu cử là yếu tố quan trọng để bảo đảm thực hiện nguyên tắc
hiến định “mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Chế độ bầu cử cho phép sự
tham gia càng đa dạng của đại diện các tầng lớp dân cư, giới, ngành nghề, tư tưởng…
thì càng khuyến khích những ý kiến phản biện xã hội trên các diễn đàn nghị trường, từ
đó làm tăng cường sức mạnh của nền dân chủ. Những ý kiến phản biện, phê bình, ý
kiến của các nhóm lợi ích khác nhau trong Quốc hội sẽ góp phần quan trọng trong việc
quyết định hiệu quả của HĐGS của Quốc hội nói chung, của ĐBQH nói riêng trong
kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Bảo đảm về pháp lý:
Bảo đảm về pháp lý là điều kiện quan trọng quyết định hiệu quả hoạt động của
ĐBQH, là cơ sở hình thành nên địa vị pháp lý của ĐBQH trong hệ thống quyền lực xã
hội - đại diện cho nhân dân và là chủ thể quan trọng của Quốc hội. Gắn liền với địa vị
pháp lý đó là những quy định và cụ thể hóa của pháp luật về vị trí, vai trò, nhiệm vụ,
quyền hạn cũng như nội dung, quy trình, các phương thức, biện pháp tiến hành của
ĐBQH. Những quy định pháp luật về HĐGS của ĐBQH là sự thể chế hóa các quan
61
điểm của Đảng về phát huy dân chủ đại diện, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt
động của Quốc hội; đổi mới cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà
nước trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền “của dân, do dân,
vì dân”. Đồng thời, những quy định này tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện có
hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn của ĐBQH, phát huy vai trò, trách nhiệm, tính độc
lập, sáng tạo trong HĐGS, từ đó góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu lực của
Quốc hội. Mặt khác, hệ thống pháp luật đồng bộ, khoa học về ĐBQH, nhất là những
quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của ĐBQH chính là những căn cứ,
tiêu chí quan trọng để Quốc hội xem xét, đánh giá hiệu quả hoạt động của ĐBQH một
cách khách quan và chính xác, đồng thời cũng là cơ sở để các cơ quan nhà nước bảo
đảm các điều kiện cho ĐBQH hoạt động hiệu quả hơn.
- Về cách thức thiết kế tổ chức bộ máy nhà nước:
Những nước theo chế độ cộng hòa tổng thống như Mỹ, thường áp dụng triệt để
nguyên tắc phân quyền theo quan điểm của tam quyền phân lập, các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp được trao cho các hệ thống cơ quan độc lập nhau. Theo đó, nghị
viện và nghị sĩ giám sát hành pháp là một nhánh quyền lực độc lập, ngang hàng, bình
đẳng với cơ quan hành pháp và tư pháp, đồng thời họ cũng sẽ chịu sự kiềm chế, đối
trọng từ những thẩm quyền khác nhau của những cơ quan hành này trên cơ sở quy
định của Hiến pháp. Trong khi đó các nước theo chính thể cộng hòa đại nghị hoặc
quân chủ đại nghị như Anh, Đức tuy cũng dựa trên lý thuyết tam quyền phân lập, giữa
các cơ quan quyền lực nhà nước có sự phân công và kiểm soát lẫn nhau nhưng sự phân
quyền giữa các nhánh được tổ chức theo hình thức mềm dẻo hơn.
Ở Việt Nam, theo Điều 69 Hiến pháp năm 2013: “Quốc hội là cơ quan đại biểu
cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam”[56]. Như vậy, Quốc hội là cơ quan có vị trí chính trị - pháp
lý đặc biệt quan trọng trong bộ máy nhà nước ta, thể hiện quan điểm nhất quán về tổ
chức quyền lực nhà nước bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Cũng
chính vì địa vị chính trị - pháp lý đặc biệt đó, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và
ĐBQH thực hiện quyền giám sát để kiểm soát quyền lực nhà nước từ vị trí của “cơ
62
quan quyền lực nhà nước cao nhất” hay là giám sát “từ trên xuống”. Đây là điều khác
biệt về bản chất của Quốc hội Việt Nam so với nghị viện các nước theo chế độ tam
quyền phân lập.
Tại khoản 3, Điều 2, Hiến pháp năm 2013 chỉ rõ nguyên tắc tổ chức quyền lực
nhà nước ở Việt Nam là: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp”[56]. Với nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước đó thì dẫu là quyền
lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là của nhân
dân, do nhân dân ủy quyền, giao quyền. Do vậy, nói quyền lực nhà nước là thống nhất
trước tiên là sự thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội dung chính trị của nhà nước. Cả ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác
nhau nhưng đều thống nhất ở mục tiêu chính trị chung là xây dựng một nhà nước “của
dân, do dân, vì dân”, hướng tới xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
ĐBQH có một địa vị pháp lý đặc biệt, vừa là đại biểu nhân dân, vừa là thành
viên của cơ quan quyền lực tối cao đó là Quốc hội. Với vai trò là người đại diện của
nhân dân đã tạo điều kiện thuận lợi cho ĐBQH thực hiện HĐGS kiểm soát quyền lực
nhà nước, giám sát đối với mọi hoạt động của bộ máy từ lập pháp, hành pháp và tư
pháp, từ các cơ quan nhà nước ở Trung ương đến địa phương nhằm đảm bảo “mọi
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Với vai trò là thành viên của Quốc hội,
ĐBQH trở thành cầu nối gắn kết chặt chẽ chính quyền nhà nước với nhân dân, là
người chuyển tải ý kiến, nguyện vọng của nhân dân mình đối với Quốc hội, các cơ
quan và tổ chức hữu quan qua đó kịp thời phát hiện những tồn tại, bất cập trong hoạt
động hành pháp và tư pháp, từ đó kiến nghị các cơ quan chức năng giải quyết bảo đảm
đúng quy định pháp luật, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
- Về bảo đảm tính độc lập của đại biểu Quốc hội:
HĐGS của ĐBQH là hoạt động của chủ thể đặc biệt, vừa mang tính xã hội, vừa
mang tính nhà nước bởi tính chất đại diện và địa vị pháp lý của mình. ĐBQH được
nhân dân trao quyền thông qua bầu cử, là người đại diện cho ý chí của nhân dân, cùng
63
với Quốc hội lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và
thực hiện giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Với tầm quan trọng của
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, với trọng trách từ sự ủy quyền, giao trách nhiệm từ
nhân dân, để thực hiện có hiệu quả HĐGS đòi hỏi ĐBQH phải được đảm bảo điều kiện
độc lập trong hoạt động. Đặc điểm chung của Quốc hội Việt Nam là có khoảng 70%
đại biểu kiêm nhiệm, khoảng thời gian dành cho hoạt động đại biểu ít (khoảng 30%),
thường bị chi phối bởi hoạt động nghề nghiệp của bản thân, mối quan hệ chồng chéo
giữa chủ thể giám sát và đối tượng giám sát. Bởi vậy, ĐBQH cũng cần phải có vị thế
độc lập cần thiết, ít nhất là không có quan hệ về lợi ích với đối tượng giám sát.
Sự độc lập ĐBQH trong thực hiện HĐGS thể hiện ở một số khía cạnh sau: (1)
không có sự phụ thuộc, ràng buộc về quan hệ lợi ích với đối tượng chịu sự giám sát;
(2) có quyền tự quyết định về nội dung, chương trình, cách thức tiến hành giám sát; (3)
có quyền tự quyết định phương pháp, nội dung, thời điểm công bố kết quả giám sát,
việc sử dụng các biện pháp tiếp theo trong việc xử lý kết quả giám sát. Việc đảm bảo
những nội dung trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi để ĐBQH thực hiện HĐGS một cách
khách quan, công bằng, hiệu quả.
- Bảo đảm về năng lực giám sát của đại biểu Quốc hội:
Xuất phát từ vị thế là thành viên của Quốc hội nên hoạt động của ĐBQH có ý
nghĩa quan trọng, có thể tác động trực tiếp, toàn diện đến hầu hết các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Do đó, đòi hỏi ĐBQH phải có bản lĩnh chính trị, tinh thần trách nhiệm,
nhất là năng lực giám sát với trình độ và các kỹ năng đặc biệt phù hợp với đặc thù hoạt
động của cơ quan dân cử. Năng lực giám sát là yếu tố quan trọng, góp phần không nhỏ
trong việc bảo đảm sự thành công cho HĐGS của ĐBQH. Năng lực giám sát của
ĐBQH với tư cách là một chủ thể độc lập được tạo dựng bởi trình độ, kỹ năng và uy
tín của đại biểu.
Về trình độ của ĐBQH: Trình độ của một ĐBQH được đánh giá dựa trên trình
độ chuyên môn và năng lực thể chế. Về trình độ chuyên môn, ĐBQH phải là chuyên
gia về một hoặc một số lĩnh vực và hoạt động tập trung vào lĩnh vực mà mình am hiểu
nhất, từ đó mới có thể xem xét, đánh giá đúng việc ban hành, thi hành pháp luật cũng
64
xem xét giải quyết khiếu nại, tố cáo kiến nghị của công dân liên quan trong lĩnh vực
đó và đạt được hiệu quả tối đa. Về năng lực thể chế, ĐBQH cần phải hiểu và nắm
vững những quy định của luật pháp, nhất là những quy định của luật pháp để vận hành
Quốc hội, của ĐBQH và có khả năng áp dụng những quy định đó trong HĐGS của
mình. Việc đáp ứng những tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn và năng lực thể chế, đặc
biệt là đối với đại biểu kiêm nhiệm của Quốc hội là điều kiện cần thiết để ĐBQH thực
hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, đáp ứng mong đợi của cử ttri.
Về kỹ năng của ĐBQH: Kỹ năng là năng lực hay khả năng chuyên biệt của một
cá nhân về một hoặc nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng để giải quyết tình huống
hay công việc nào đó phát sinh trong cuộc sống. Kỹ năng nghề nghiệp có vai trò quan
trọng đối với thành công của cá nhân ở các loại nghề nghiệp khác nhau, trong đó có
nghề ĐBQH. Hoạt động của ĐBQH liên quan đến nhân dân, quyền lực nhà nước, do
đó, nó là một nghề đặc biệt: lao động quyền lực, gắn với phân công và thực hiện quyền
lực nhà nước - thứ quyền lực chi phối các quyền lực khác; là hoạt động đặc thù vì có
thể chi phối các hoạt động nghề nghiệp khác. Vì vậy, trước hết đòi hỏi ĐBQH cần phải
có những kỹ năng cơ bản phù hợp hoạt động nghị trường: kỹ năng đàm phán; kỹ năng
phân tích và đánh giá thông tin; kỹ năng giao tiếp, kỹ năng phát biểu và tranh luận; kỹ
năng ra quyết định; kỹ năng tổ chức công việc. Đặc biệt, một trong những yêu cầu đặt
ra đối với ĐBQH là phải có tư duy phản biện, chính kiến độc lập để góp phần nâng
cao chất lượng hoạt động của Quốc hội. Mặt khác, HĐGS của ĐBQH với những đặc
thù riêng của mình đòi hỏi đại biểu cần những kỹ năng cơ bản phù hợp như: kỹ năng
tranh luận và sử dụng thành thạo các thủ tục làm việc tại nghị trường trong thực hiện
hoạt động chất vấn; kỹ năng xây dựng và phân tích chính sách, điều trần, tham vấn các
dự án luật; kỹ năng điều tra trong thực hiện HĐGS ban hành văn bản pháp luật, thi
hành luật; kỹ năng tiếp xúc cử tri, tiếp xúc với các phương tiện truyền thông, kỹ năng
như phân tích, tổng hợp thông tin trong HĐGS khiếu nại tố cáo và kiến nghị của công
dân.
Về uy tín của ĐBQH: Uy tín là khả năng tác động, ảnh hưởng của một người
đến người khác, cảm hóa, làm cho người đó tin tưởng, phục tùng và tuân theo mình.
65
Uy tín của ĐBQH trong HĐGS được tạo ra từ niềm tin, sự tín nhiệm của cử tri và đối
tượng chịu sự giám sát đối với ĐBQH. Uy tín của ĐBQH có thể được tạo dựng bằng
nhiều cách khác nhau, trước hết là bằng trình độ, kiến thức chuyên sâu về công việc
mà mình đảm nhận, bằng sự am hiểu những quy định của luật pháp về hoạt động của
Quốc hội, của ĐBQH, trên cơ sở đó có khả năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong
quá trình thực hiện HĐGS của mình. Uy tín của ĐBQH được tạo dựng bằng khả năng
tổ chức lập kế hoạch, dự đoán chính xác kết quả đạt được để từ đó tiến hành thực hiện
HĐGS đạt hiệu quả cao. Uy tín của ĐBQH được tạo dựng bằng sự công tâm trong
thực hiện nhiệm vụ, biết giữ lời hứa và thực hiện lời hứa đối với cử tri, đối với nhân
dân. Ngoài ra, việc tu dưỡng đạo đức, lối sống cũng góp phần rất lớn trong việc tạo
nên uy tín và những ảnh hưởng về mặt xã hội của ĐBQH. Như vậy, uy tín của ĐBQH
không phải được tạo nên bởi quyền lực được trao, mà phải được tạo nên bởi phẩm chất
chính trị, đạo đức, trình độ chuyên môn, năng lực tổ chức thực hiện chức năng nhiệm
vụ của người đại biểu, bằng hiệu quả đạt được trong thực hiện HĐGS, đáp ứng nguyện
vọng của nhân dân.
- Các yếu tố ảnh hưởng khác:
Đội ngũ chuyên gia, bộ máy giúp việc: Với đặc điểm chung của Quốc hội Việt
Nam là có khoảng 70% là đại biểu kiêm nhiệm thì các chuyên gia và bộ máy giúp việc
có vai trò hết sức quan trọng. Để tiến hành HĐGS, ĐBQH cần có đầy đủ luận cứ và
chứng cứ nhưng do thời gian dành cho hoạt động chỉ khoảng 30% nên các đại biểu
không thể đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy, để có đủ cả luận cứ và chứng cứ buộc
ĐBQH cần phải có sự hỗ trợ của đội ngũ chuyên gia và bộ máy giúp việc. Sự tham gia
của chuyên gia là các nhà khoa học trong các lĩnh vực chuyên môn là sự hỗ trợ quan
trọng nhằm bảo đảm tính khoa học trong việc giải quyết các vấn đề thuộc nội dung
giám sát, nhất là những văn bản pháp luật, các hoạt động có liên quan đến các vấn đề
chuyên môn sâu thuộc các lĩnh vực khoa học khác nhau.
Với đặc điểm của Quốc hội Việt Nam là ĐBQH hoạt động theo nhiệm kỳ, số
ĐBQH tái cử chiếm tỷ lệ thấp nên bộ máy giúp việc cũng đóng vai trò quan trọng, vừa
thực hiện nhiệm vụ của cơ quan tham mưu, vừa thực hiện nhiệm vụ cơ quan giúp việc
66
cho Quốc hội, cho HĐGS của ĐBQH. Với vị trí là cơ quan tham mưu cho ĐBQH
trong HĐGS, bộ máy giúp việc có trách nhiệm thực hiện việc thu thập, phân tích và
cung cấp thông tin về nội dung các vấn đề dự kiến tiến hành giám sát; tham mưu về
quy trình, thủ tục giám sát. Với vị trí là cơ quan giúp việc của ĐBQH, bộ máy giúp
việc có trách nhiệm tổ chức để ĐBQH thực hiện chương trình công tác của mình; tổ
chức, tập hợp các chuyên gia, cộng tác viên theo từng nội dung, chuyên đề; bảo đảm
các nguồn lực phục vụ hoạt động giám sát.
Nguồn thông tin: Trong HĐGS, thông tin đóng vai trò rất quan trọng, ảnh
hưởng trực tiếp đến khả năng dự báo, chất lượng hoạt động của mỗi ĐBQH. Một khi
chưa rõ và chưa đủ thông tin thì các quyết định của của ĐBQH sẽ là hình thức, mang
tính chủ quan và có thể dẫn tới sai lầm. Vì vậy, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả HĐGS
đòi hỏi ĐBQH cần phải có thông tin đầy đủ, chính xác, khách quan, đồng thời, những
thông tin, con số phải được xử lý, phân tích, đánh giá dưới góc độ chuyên môn, khoa
học, thực tiễn, kịp thời. Theo quy định của pháp luật, ĐBQH một cơ chế đặc thù, đó là
quyền được cung cấp thông tin, đồng thời, cũng quy định trách nhiệm cung cấp thông
tin phục vụ ĐBQH của các cơ quan hữu quan khi có yêu cầu.
Yếu tố kinh tế: Hiệu quả của HĐGS của ĐBQH liên quan trực tiếp đến việc đáp
ứng đầy đủ về cơ sở vật chất, nhất là chế độ tài chính cho hoạt động này. Bảo đảm về
cơ sở vật chất, chế độ tài chính cho ĐBQH trong HĐGS bao gồm: bảo đảm về phương
tiện làm việc, kinh phí tổ chức thực hiện các hoạt động trong quy trình giám sát, kinh
phí thuê chuyên gia, kinh phí để bồi dưỡng, đào tạo nâng cao năng lực giám sát, chế
độ bồi dưỡng sức lao động của ĐBQH. Trong quá trình thực hiện HĐGS, nếu như chế
độ tài chính và các cơ sở vật chất, kỹ thuật khác được đảm bảo thì ĐBQH sẽ có đủ
phương tiện để thực hiện HĐGS một cách độc lập, chủ động, bài bản và hiệu quả hơn.
Nếu như chế độ lương, phụ cấp cho ĐBQH đủ để đảm bảo cuộc sống của gia đình, tái
tạo sức lao động sẽ tạo điều kiện giải phóng đại biểu thoát khỏi những toan tính đời
sống kinh tế, giúp họ tập trung thời gian, sức lực, trí tuệ cho việc thực hiện HĐGS
cũng như làm tốt chức năng là người đại diện của nhân dân, quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước.
67
2.3. Hoạt động giám sát của nghị sĩ một số nước trên thế giới và kinh
nghiệm cho Việt Nam
2.3.1. Hoạt động giám sát của nghị sĩ một số nước trên thế giới
2.3.1.1. Quan niệm về vai trò của giám sát và quy định về hoạt động giám sát
của nghị sĩ
Các nước trên thế giới nhìn chung rất coi trọng vai trò, ý nghĩa của hoạt động
lập pháp nói chung và HĐGS nói riêng, trong đó có HĐGS của các nghị sĩ. Ở Trung
Quốc, quyền lập pháp, quyền giám sát được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với các
quyền hành pháp và tư pháp; chú trọng đến việc thiết lập cơ chế vận hành quyền lực
đảm bảo sự phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa ba quyền: quyền quyết định, quyền
thực thi và quyền giám sát; coi trọng việc thiết lập và kiện toàn cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước. Việc phân phối hợp lý quyền quyết định, quyền thực thi và quyền
giám sát nhằm bảo đảm việc thực thi một cách độc lập các chức năng của bộ phận
khác nhau; hình thành kết cấu quyền lực vừa có sự phân công, vừa có sự phối hợp và
kiểm soát chặt chẽ lẫn nhau. Điều này làm cho các quyết định được đề ra trở nên khoa
học, hợp lý hơn, việc thực thi các quyết định hiệu quả hơn và giám sát hiệu lực hơn,
hạn chế đến mức thấp nhất hiện tượng lạm dụng quyền lực.
Ở các nước dân chủ Bắc Âu (Thuỵ Điển, Phần lan, Đan Mạch, Na Uy…), để
Quốc hội thực hiện vai trò là cơ quan đại diện của nhân dân và thực hiện nền dân chủ
xã hội, hoạt động kiểm tra, giám sát việc Chính phủ và thành viên của Chính phủ có
cản trở quyền tự do của nhân dân hay không được đánh giá rất cao. Chức năng kiểm
tra, giám sát của Quốc hội được thực hiện bởi một số Uỷ ban là các cơ quan quan
trọng của nhà nước do Quốc hội bầu, các Uỷ ban khác được Quốc hội giao theo
chương trình nghị sự và một số cơ quan thường trực là thanh tra Quốc hội. Theo xu
hướng này, hoạt động kiểm tra, giám sát không còn là hoạt động chung trên diễn đàn
chất vấn mà được thực hiện bởi các tổ chức cụ thể. Các tổ chức này phải chịu trách
nhiệm trước Quốc hội, báo cáo thường xuyên trước Quốc hội về hoạt động của mình.
68
Theo mô hình tổ chức của Mỹ, giám sát được coi là một hoạt động quan trọng
của Quốc hội và nghị sĩ Quốc hội, nhưng không độc lập với lập pháp. HĐGS được
hiểu là quyền kiểm soát của Quốc hội đối với hoạt động của Chính phủ, kể cả Tổng
thống, nhằm tránh việc lạm dụng quyền lực và thực hiện cán cân chính trị giữa các
đảng phái, các lực lượng lãnh đạo xã hội.
Đối với các quy định về HĐGS của nghị sĩ, ở một số nước, các quy định này
được ghi nhận trong Hiến pháp, luật của Quốc hội và cả những văn bản dưới luật. Các
quy định về nghị viện và nghị sĩ trở thành một bộ phận trong hệ thống các quy định về
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Ngoài ra, ở các nước có truyền thống nghị
viện lâu đời, nghị viện có vị trí độc lập đối với các nhánh quyền lực khác, hoạt động
của nghị sĩ được coi là vấn đề nội bộ nên thường do nghị viện tự quyết định bằng các
văn bản dưới luật, có tính nội bộ, thủ tục đơn giản, không có sự tác động của các
nhánh quyền lực khác (như việc ban hành các đạo luật thông thường) [88].
Ở các nước, đều có các quy định chung về HĐGS của nghị viện và giám sát của
các chủ thể trong hệ thống tổ chức bộ máy của nghị viện, bao gồm các ủy ban và nghị
sĩ. Ở một số nước, HĐGS của nghị viện chủ yếu dựa vào HĐGS của một Ủy ban
(thường là Ủy ban tài chính công hoặc Ủy ban giám sát tài chính - như ở Singapore và
Ba Lan) [93] và hoạt động chất vấn của nghị sĩ (có thể khác nhau về hình thức tổ chức
nhưng nghị sĩ của tất cả các nước đều được sử dụng công cụ này - theo PARLINE,
IPU website). Bên cạnh đó, HĐGS việc giải quyết đơn, thư, kiến nghị của cử tri của
nghị sĩ các nước thường không được quan niệm như là một hình thức giám sát nhưng
lại là một hoạt động được nghị sĩ thực hiện khá thường xuyên và là một phần tất yếu
trong hoạt động của nghị sĩ bởi sự gắn kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa cử tri - nghị sĩ là
khá chặt chẽ.
Đối với việc nghị sĩ hoạt động kiêm nhiệm, pháp luật nhiều nước tuy cho phép
nghị sĩ có thể hoạt động kiêm nhiệm các ngành nghề khác, tuy nhiên quy định khá chặt
chẽ các điều kiện kèm theo để bảo đảm các nghị sĩ tiến hành các HĐGS một cách
khách quan, không bị chi phối bởi những áp lực hay lợi ích. Theo điều 48, Hiến pháp
Nhật Bản và Điều 39, Luật Quốc hội Nhật Bản, nghị sĩ không được kiêm nhiệm ở cả
69
hai viện và kiêm nhiệm công chức [76]. Bộ quy tắc ứng xử của nghị viện Nhật Bản (là
các quy định mang tính khuyến cáo nhưng được tuân thủ nghiêm túc) có quy định về
nghĩa vụ của nghị sĩ, trong đó có “nghĩa vụ thông báo với Chủ tịch nghị viện nếu nghị
sĩ giữ vị trí quan trọng trong doanh nghiệp”, kể cả có nhận thù lao hay không. Chủ tịch
hoặc Phó chủ tịch nghị viện không được giữ các vị trí quan trọng trong doanh nghiệp
hay tổ chức mà có nhận thù lao.
Theo quy định của pháp luật Singapore, nghị sĩ có thể thực hiện công việc
chuyên môn của mình trong quá trình làm nghị sĩ. Dĩ nhiên, quy định này không áp
dụng đối với công chức nhà nước hoặc người làm việc ở các doanh nghiệp có vốn đầu
tư từ ngân sách nhà nước. Thu nhập của nghị sĩ thường không chỉ đến từ lương, họ còn
có nguồn thu nhập khác và pháp luật cho phép điều đó. Điều cốt lõi là các nghị sĩ phải
tự bảo đảm bố trí được thời gian để tham gia các hoạt động của nghị viện cũng như giữ
mối liên hệ với cử tri.
2.3.1.2. Các hoạt động giám sát của nghị sĩ
- Hoạt động chất vấn
Hoạt động chất vấn của nghị sĩ xuất hiện sớm và khá phổ biến trong hoạt động
của Quốc hội nhiều nước trên thế giới. Vào đầu thế kỷ thứ XVIII, Quốc hội Anh mang
tính chất là diễn đàn để các dân biểu phát biểu ý kiến của mình và phản ánh ý kiến của
cử tri. Các phát biểu, ý kiến tập trung chủ yếu vào việc đánh giá hay chỉ trích hoạt
động của Chính phủ, biểu lộ sự tín nhiệm hoặc không tín nhiệm đối với Chính phủ,
cho ý kiến về thực hiện các chính sách quốc gia. Trong hình thức cổ điển này, HĐGS
của Quốc hội chỉ dừng ở hình thức chất vấn miệng và Nghị viện Anh quốc là Nghị
viện đầu tiên đặt ra các “giờ câu hỏi” (tương tự như chất vấn của Quốc hội Việt Nam
hiện nay). Kết quả của chất vấn có thể là một tuyên bố không tín nhiệm của Quốc hội
đối với một thành viên hoặc toàn thể Chính phủ.
Chất vấn hay hỏi đáp hoặc cả hai để tranh luận về hoạt động của Chính phủ
được quy định bởi Nghị viện của những nước theo hệ thống dân chủ nghị viện. Ðối
với cá nhân các nghị sĩ, hỏi và chất vấn là những cách thức quan trọng để giám sát
70
hoạt động hành pháp, nhưng chỉ có ở những nước theo chính thể đại nghị mới thực
hiện, còn ở những nước theo chính thể cộng hòa tổng thống thì lại không thực hiện
hình thức giám sát này. Hầu hết nghị viện các nước ở Bắc Âu đều thực hiện nhiều cách
thức hỏi và trả lời. Đối với câu hỏi chất vấn bằng văn bản thì các Bộ trưởng sẽ trả lời
bằng văn bản; đối với câu hỏi chất vấn trực tiếp tại các phiên họp toàn thể sẽ được trả
lời ngay tại chỗ trong các phiên hỏi đáp như ở Hạ viện Anh. Qua nghiên cứu cho thấy,
ở Anh, các Hạ nghị sĩ có thể đặt câu hỏi chất vấn các thành viên Chính phủ trong “giờ
câu hỏi” được ấn định vào đầu giờ mỗi phiên họp của Hạ viện. Đồng thời, vào thứ ba
và thứ năm hàng tuần, Hạ viện dành 55 phút để các Bộ trưởng trả lời các câu hỏi đó.
Đối với câu hỏi miệng, Bộ trưởng phải trả lời sau đó hai ngày, hoặc trả lời ngay. Mỗi
Bộ trưởng mỗi tháng một lần phải trả lời câu hỏi trước trước Hạ viện, Thủ tướng phải
trả lời hai lần trong một tuần. Đối với câu hỏi viết, Bộ trường được chuẩn bị 7 ngày và
công bố trong báo cáo chính thức. Đây là “kênh” quan trọng để Hạ viện và cử tri biết
được thực chất và hiệu quả hoạt động của Chính phủ và trách nhiệm của Chính phủ
đối với cử tri của mình. Bằng việc đưa ra các câu hỏi và chất vấn, các nghị sỹ có thể
yêu cầu các Bộ trưởng chia sẻ thông tin các chính sách, sự việc cụ thể nhất định.
Thông thường một câu hỏi hoặc một chất vấn có thể xuất phát từ một bài viết trên các
phương tiện thông tin đại chúng, hoặc thông tin nhận được từ người dân hoặc các tổ
chức lợi ích. Thông tin này có thể giúp nghị sĩ đưa ra nhiều câu hỏi hoặc chất vấn sắc
bén và mang tính chỉ trích. Như vậy, các câu hỏi và chất vấn của Quốc hội có ít nhất
hai chức năng: cung cấp thông tin và là một cơ hội để các nghị sĩ phản biện, chỉ trích
các hoạt động của các cơ quan hành pháp.
Theo quy định của Hiến pháp Ba Lan, nghị sĩ có quyền đặt câu hỏi và chất vấn
đối với Thủ tướng và các thành viên khác của Chính phủ. Ngoài các câu hỏi viết sẽ
được trả lời trong vòng 21 ngày, Thủ tướng và các thành viên khác của Chính phủ còn
phải trả lời các câu hỏi trực tiếp tại các phiên họp toàn thể của Hạ viện. Các nội dung
được thảo luận, chất vấn là những vấn đề quan trọng đối với sự ổn định về an ninh,
chính trị, sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước [93].
71
Ở Cộng hòa Liên bang Đức, các chất vấn của Nghị viện được chia làm ba loại:
chất vấn “lớn”, chất vấn “nhỏ” và vấn đề “riêng lẻ”. Chất vấn “lớn” là chất vấn được
đưa ra khi thảo luận các chương trình của Chính phủ và các dự án quan trọng như ngân
sách nhà nước, chính sách đối ngoại… Việc trả lời những chất vấn này phải được thảo
luận ở nghị trường và được gọi là “thảo luận lớn”. Những chất vấn liên quan đến dự án
luật và các loại văn bản khác là những chất vấn “nhỏ”, được gọi là thảo luận “nhỏ”,
trong đó các đảng phải được phát biểu không quá hai người. Chất vấn “lớn” và “nhỏ”
về nguyên tắc phải được đưa ra sớm để người được chất vấn chuẩn bị trả lời. Những
chất vấn khác là chất vấn riêng lẻ, phải được đưa vào một thời gian quy định trước.
Ở Pháp, Chính phủ phải giải thích và chứng minh những quyết định hành động
của mình trước Quốc hội. Chất vấn bao gồm các hình thức trao đổi để bảo đảm chức
năng giám sát và đảm bảo thông tin cho đại biểu Quốc hội về hoạt động của Chính phủ
và bộ máy hành chính. Chất vấn miệng được tiến hành theo hai hình thức: chất vấn có
thảo luận và chất vấn không thảo luận. Các câu hỏi được mang tính tự phát, ngắn gọn
và có nhiều tính chất thời sự.
Ở Trung Quốc, chất vấn là một trong các HĐGS của Đại hội đại biểu Nhân dân
toàn quốc buộc các cơ quan, cá nhân chịu giám sát trả lời những câu hỏi của đại biểu.
Căn cứ nội dung trả lời chất vấn, Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc có thể áp dụng
biện pháp cần thiết để thực hiện mục đích giám sát nhất định. Mỗi Đoàn đại biểu, 30
đại biểu trở lên, 10 Ủy viên Ủy ban Thường vụ có quyền đưa văn bản chất vấn đối với
Chính phủ và các bộ, ngành, Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát Nhân dân Tối
cao. Văn bản chất vấn phải ghi rõ đối tượng, vấn đề và nội dung chất vấn. Đoàn Chủ
tịch Quốc hội, Hội nghị Ủy viên trưởng quyết định các cơ quan bị chất vấn trả lời các
văn bản chất vấn bằng văn bản hoặc lãnh đạo cơ quan đó trả lời trực tiếp tại Hội nghị
Đoàn Chủ tịch, Hội nghị Ủy ban chuyên môn, Hội nghị Đoàn đại biểu hoặc Hội nghị
Ủy ban Thường vụ. Trong thời gian Hội nghị Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc,
nếu các đại biểu, Đoàn đại biểu nêu chất vấn chưa hài lòng về việc trả lời chất vấn thì
có thể yêu cầu cơ quan bị chất vấn trả lời lại.
72
Ở Ấn Độ, các nghị sĩ thường xuyên giám sát Chính phủ bằng chất vấn. Trong
phiên họp, Nghị viện dành thời gian đầu giờ buổi sáng để thảo luận các chất vấn, sau
đó mới xem xét các vấn đề khác. Nếu là chất vấn bằng văn bản thì được công bố trong
các ấn phẩm của Nghị viện.
Cũng như nghị sĩ ở tất cả các nước, nghị sĩ Singapore có quyền đặt câu hỏi chất
vấn các Bộ trưởng. Có hai hình thức đặt câu hỏi: câu hỏi viết và câu hỏi miệng trực
tiếp tại các phiên họp. Trên thực tế, tại các kỳ họp của nghị viện Singapore, không chỉ
có các nghị sĩ thuộc đảng đối lập, các nghị sĩ chỉ định đặt câu hỏi chất vấn tới Thủ
tướng chính phủ và các Bộ trưởng, mà ngay cả các nghị sĩ thuộc đảng cầm quyền cũng
thường xuyên chất vấn và họ thường sử dụng quyền chất vấn của mình để đặt các câu
hỏi nhằm giúp các Bộ trưởng có điều kiện báo cáo, làm rõ những thành tích của ngành
mình phụ trách [93].
- Giám sát văn bản
Quốc hội nhiều nước như Mỹ, Canada, Pháp và Quốc hội các nước Bắc Âu có
quy định cụ thể về sửa đổi, huỷ bỏ các văn bản dưới luật trái với luật của Quốc hội và
quy định trách nhiệm rà soát, hệ thống hóa, kiểm soát tính thống nhất của các văn bản
dưới luật trong hệ thống pháp luật chung. Giám sát văn bản không được coi là một
hoạt động đặc thù của Quốc hội vì chức năng này thường được giao cho tòa án. Tuy
nhiên, kết quả hoạt động giám sát văn bản của tòa án thường được Chính phủ thông
qua cơ quan chức năng đề nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung hoặc hợp pháp hóa việc
chỉnh lý, hợp nhất, hệ thống hóa văn bản pháp luật.
Giám sát các văn bản luật được ban hành theo uỷ quyền ở Anh. Các luật gốc
thường quy định cho phép các Bộ trưởng và các cơ quan có thẩm quyền ban hành các
quy định có tính chất điều hành cụ thể, chi tiết về mặt hành chính. Đây là nguồn văn
bản luật thứ hai hay còn gọi là ban hành văn bản luật theo thẩm quyền. Nhằm giảm bớt
những rủi ro do việc uỷ quyền cho các cơ quan điều hành, những quyền hạn như vậy
chỉ được giao lại cho những cơ quan trực tiếp chịu trách nhiệm trước Quốc hội, đồng
thời, Quốc hội đưa ra các quy định và có những biện pháp giám sát trực tiếp đối với
các văn bản luật được ban hành theo uỷ quyền.
73
- Việc xử lý đơn thư kiến nghị của công dân và theo dõi, giám sát việc xử lý đơn
thư của công dân.
Công việc tiếp nhận, xử lý đơn thư của công dân và theo dõi việc xử lý đơn thư
của công dân là một phần quan trọng trong hoạt động của nghị sĩ nhiều nước. Việc
theo dõi quá trình xử lý đơn thư và trả lời công dân về quá trình cũng như kết quả xử
lý được các nghị sĩ các nước hết sức coi trọng bởi họ luôn mong muốn làm hài lòng cử
tri, những người đã bầu ra nghị sĩ và tin tưởng gửi gắm vào nghị sĩ những mong muốn,
nguyện vọng của mình đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Ở Nhật Bản có thể có ba loại đơn thư được gửi tới nghị viện sau:
Đơn thỉnh nguyện là đơn của công dân trình bày mong muốn hoặc than phiền
về hoạt động của các cơ quan công quyền hoặc đoàn thể tại địa phương. Việc xử lý
đơn thỉnh nguyện của công dân được quy định tại Luật nghị viện và Quy chế hoạt
động của Thượng viện. Theo đó, các đơn thỉnh nguyện của công dân muốn được
Thượng viện xử lý cần phải được một nghị sĩ chấp nhận giới thiệu. Trong trường hợp
đơn được gửi tới Chính phủ, Chính phủ sẽ phải báo cáo Thượng viện quá trình xử lý.
Đơn kiến nghị là đơn của các đoàn thể ở địa phương về việc tổ chức các sự kiện
công ích của họ gửi tới nghị viện. Thượng viện tiếp nhận toàn bộ các đơn này, đăng
trên công báo của Thượng viện và gửi tới các Ủy ban liên quan để tham khảo. Tuy
nhiên, Thượng viện không có trách nhiệm phải trả lời và các Ủy ban nhận được đơn
cũng không phải tổ chức thẩm tra nội dung.
Đơn trần tình là đơn của cá nhân công dân về các vấn đề khác nhau, có thể gửi
trực tiếp đến Chủ tịch Thượng viện mà không cần một nghị sĩ giới thiệu. Đơn này sẽ
do thư ký của Chủ tịch Thượng viện trực tiếp giúp Chủ tịch trả lời công dân.
Tại Ba Lan, đơn, thư, kiến nghị của cử tri đều được nghị sĩ trả. Đối với những
vấn đề có thể trực tiếp giải thích, xử lý, nghị sĩ sẽ trả lời ngay cho cử tri. Nghị sĩ cũng
có thể hướng dẫn hoặc giới thiệu người có đơn, thư, kiến nghị đến đúng địa chỉ người
có thẩm quyền giải quyết, đồng thời cùng với người có kiến nghị theo dõi, xem xét
74
việc trả lời, xử lý của người có thẩm quyền. Trong trường hợp cho rằng việc xử lý
không thỏa đáng hoặc không đúng pháp luật, nghị sĩ có thể kiện ra tòa án [93].
Nghị viện Đức và Đan Mạch thành lập các ủy ban thanh tra để giải quyế khiếu
nại, tố cáo của công dân. Những ủy ban này giải quyết các khiếu nại của người dân
đối với những cơ quan của Chính phủ về những quyết định không đúng hoặc không
công bằng, nhưng đôi khi cũng giải quyết cả những đề xuất của người dân. Những ủy
ban này có vai trò rất quan trọng đối với HĐGS, đặc biệt giúp tìm ra những giải pháp
đối với những vấn đề mà người dân khiếu nại hoặc yêu cầu các cơ quan liên quan
giải quyết và trả lời người dân.
2.3.1.3. Về tỷ lệ đảng viên trong Quốc hội
Đối với những nước mà ở đó Đảng là lực lượng duy nhất lãnh xã hội, việc bảo
đảm số ĐBQH là đảng viên luôn chiếm đa số là vấn đề mang tính nguyên tắc. Tuy
vậy, để HĐGS của ĐBQH trở nên chủ động, tiến hành công việc một cách khách quan,
độc lập, hiệu quả, nhiều nước rất chú trọng vấn đề tỷ lệ đảng viên trong Quốc hội. Lịch
sử đất nước Singapore cho thấy, Đảng Nhân Dân Hành Động (People Action Party,
PAP) nắm quyền ở Singapore từ khi nước này được thành lập cho đến nay. Trong
hàng thập kỷ, Đảng này là Đảng duy nhất lãnh đạo đất nước và cũng là đảng duy nhất
trong Quốc hội. Để bảo đảm có được các ý kiến đa chiều, mang tính phản biện đối với
đảng cầm quyền, Hiến pháp Singapore quy định, trong mỗi nhiệm kỳ, cho phép chỉ
định không quá 09 nghị sĩ là các chuyên gia hoặc thành viên của các đảng nhỏ không
đủ phiếu bầu để tham gia Quốc hội [76].
2.3.1.4. Về xem xét, xử lý việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của nghị sĩ
Ở các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore… rất coi trọng xem xét,
đánh giá HĐGS của các cơ quan và cá nhân nghị sĩ, đặt biệt xử lý nghiêm trách nhiệm
đối với cơ quan hay cá nhân thực hiện chức năng giám sát. Theo đó, đối với cơ quan,
cá nhân có trách nhiệm giám sát nhưng không thực hiện tốt hoạt động giám sát hoặc
thiếu trách nhiệm sẽ bị truy cứu và xử lý trách nhiệm; ở mức độ nhẹ thì phê bình, nhắc
nhở, ở mức độ nặng thì xử lý theo kỷ luật và có thể truy cứu trách nhiệm pháp luật.
75
Ngược lại, nếu thực hiện tốt HĐGS, các nghị sĩ được ghi nhận, biểu dương, khen
thưởng xứng đáng cả về vật chất và tinh thần.
2.3.1.5. Về việc giáo dục, nâng cao trình độ, hiểu biết về Quốc hội
Nâng cao năng lực thể chế cho ĐBQH là một trong những nội dung quan trọng
tạo nên năng lực giám sát của ĐBQH. Để có được năng lực thể chế cho người dân nói
chung và ĐBQH nói riêng, nhiều nước có chiến lược giáo dục, truyền thông thông qua
việc giảng giải cho giới trẻ về các vấn đề liên quan tới chính trị, nhà nước, pháp luật,
giúp thanh thiếu niên ở các lứa tuổi khác nhau đều có những hiểu biết nhất định về nền
dân chủ, về quyền, nghĩa vụ của công dân. Nghị viện Nhật Bản tổ chức biên soạn các
tài liệu nhằm giới thiệu về vị trí của Nghị viện, thể chế đại nghị, cơ cấu, quyền hạn của
nghị viện, địa vị của nghị sĩ nghị viện, triệu tập và kỳ họp Nghị viện, khai mạc kỳ họp
Nghị viện; các nguyên tắc cơ bản và nội dung nghị sự chính trong phiên họp toàn thể;
quy trình xem xét, thẩm tra dự án luật. Vụ Thông tin công chúng của Hạ viện Nhật
Bản tổ chức các chương trình trải nghiệm dành cho đối tượng là sinh viên đại học, học
sinh tiểu học để giới thiệu về tổ chức và hoạt động của Nghị viên.
2.3.2. Kinh nghiệm quốc tế về hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội
Từ thực tiễn HĐGS của nghị sỹ một số quốc gia trên thế giới cho thấy, HĐGS
của Quốc hội và các nghị sĩ rất được coi trọng. Bằng những thiết chế khác nhau, các
quốc gia luôn nỗ lực thực hiện và nâng cao hiệu quả việc giám sát hoạt động của các cơ
quan nhà nước. Mặc dù HĐGS của Quốc hội ở các quốc gia đó có những điểm khác biệt
so với Việt Nam nhưng những kinh nghiệm của họ vẫn có giá trị tham khảo cho HĐGS
của ĐBQH nước ta. Nghiên cứu HĐGS của Quốc hội và các nghị sĩ ở các nước, có thể
rút ra một số kinh nghiệm mà Việt Nam có thể tham khảo như sau:
Thứ nhất, về các quy định liên quan đến HĐGS, cần xác định rõ, giám sát là
một chức năng cơ bản của Quốc hội, thực hiện quyền lực lập pháp kiểm soát quyền lực
hành pháp. Giám sát là công cụ của Quốc hội để bảo đảm trách nhiệm giải trình của
Chính phủ và để bảo đảm rằng Chính phủ triển khai các chính sách phù hợp với luật và
các quyết định được Quốc hội thông qua. Cần đưa ra các quy định chặt chẽ liên quan
76
đến HĐGS của các nghị sĩ. Đó là các quy định về: địa vị chính trị - pháp lý của nghị sĩ;
quy trình, cách thức giám sát; hoạt động của nghị sĩ kiêm nhiệm; các điều kiện bảo
đảm hiệu quả giám sát và các quy định khác.
Thứ hai, về nội dung và phương thức thực hiện HĐGS, các HĐGS như chất
vấn, giám sát văn bản, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân có thể thực
hiện với nhiều hình thức, biện pháp khác nhau để thu thập thông tin, đưa ra những kiến
nghị, phản biện đối với Chính phủ. Nhiều nghị sĩ sử dụng công cụ tương tác trong
trang web của mình, sử dụng mạng xã hội để giữ liên hệ với cử tri, qua đó tìm hiểu,
nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của cử tri. Quy trình tiếp nhận, xử lý và phản hồi đơn,
thư, kiến nghị của người dân được các nghị sĩ tuân thủ nghiêm túc, chặt chẽ. Nghị sĩ
các nước thường xuyên hướng dẫn người dân về cách thức và quy trình gửi kiến nghị
đến các cơ quan có thẩm quyền xử lý trong những tình huống khác nhau.
Thứ ba, về hoạt động của nghị sĩ kiêm nhiệm, các nghị sĩ có thể duy trì nghề
nghiệp riêng của mình, nhưng phải chủ động sắp xếp quỹ thời gian hợp lý để vừa bảo
đảm thực hiện trách nhiệm nghị sĩ và công việc khác. Đồng thời, để tránh xung đột về
lợi ích trong HĐGS, nghị sĩ không được kiêm nhiệm các vị trí trong bộ máy hành
pháp, tư pháp hoặc các cơ quan, doanh nghiệp có sử dụng vốn ngân sách nhà nước, trừ
các chính khách như Bộ trưởng, Thủ tướng.
Thứ tư, về sử dụng đội ngũ giúp việc của nghị sĩ và các phương tiện thông tin,
truyền thông, ngoài thư ký làm việc toàn thời gian tại các văn phòng nghị sĩ, nghị sĩ có
thể thuê các luật sư với hình thức làm việc bán thời gian để giúp nghị sĩ xem xét các
kiến nghị của cử tri, theo dõi việc giải quyết các kiến nghị của cử tri và tham mưu cho
nghị sĩ về tính hợp pháp, sự thỏa đáng của việc xử lý các kiến nghị đó của các cơ quan
hữu quan. Báo chí, truyền hình và mạng xã hội… là các phương tiện hữu hiệu, cần
được thường xuyên sử dụng để nêu lên những vấn đề cử tri quan tâm, đồng thời, gây
sức ép đối với các cơ quan nhà nước trong việc giải quyết, xử lý vụ việc.
Thứ năm, về xem xét, đánh giá HĐGS của nghị sĩ, nhiều nước thực hiện thường
xuyên việc xem xét, đánh giá HĐGS của nghị sĩ, xác định rõ trách nhiệm của các cơ
77
quan và cá nhân nghị sĩ, đặt biệt xử lý nghiêm việc các cơ quan hay cá nhân không
làm tròn bổn phận, trách nhiệm của mình.
Thứ sáu, về giáo dục, nâng cao trình độ, hiểu biết về Quốc hội, các hoạt động
nhằm nâng cao năng lực thể chế, năng lực giám sát cho ĐBQH bằng các chương trình
giáo dục đặc biệt, các chương trình truyền thông của các cơ quan nhà nước, trong đó
có Quốc hội cũng là kinh nghiệm rất bổ ích đối với Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, các nội dung khác như tỷ lệ đảng viên trong Quốc hội ở Singapore,
việc kết hợp thực hiện giám sát của các cơ quan nhà nước với giám sát của các cơ
quan đảng và giám sát của nhân dân ở Trung Quốc… đều có giá trị tham khảo cho
Quốc hội Việt Nam. Đối với việc kết hợp thực hiện giám sát, vấn đề mấu chốt là thực
hiện tốt “quyền được biết”, được giám sát của đảng viên cũng như “quyền được biết”,
được giám sát của nhân dân, của ĐBQH về việc triển khai thực hiện, thực thi các chủ
trương, chính sách, pháp luật; coi trọng việc kết hợp giám sát của các cơ quan nhà
nước với giám sát của nhân dân, khẳng định vai trò mang tính quyết định của “ý dân”
trong giám sát; phát huy sức mạnh giám sát của nhân dân trên tất cả lĩnh vực hoạt
động của nhà nước.
78
Kết luận chương 2
Hoạt động giám sát của ĐBQH là việc ĐBQH tiến hành các hoạt động cụ thể
để theo dõi, xem xét, đánh giá việc thực thi nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước ở
Trung ương và các cá nhân do Quốc hội bầu, phê chuẩn. Giám sát của ĐBQH, tập
trung trước hết và chủ yếu vào giám sát Chính phủ, góp phần xây dựng một Chính phủ
mạnh, thúc đẩy hiệu quả của công tác chấp hành và điều hành. HĐGS của ĐBQH có
vai trò rất quan trọng, thực hiện vai trò đại diện cho quyền lực nhà nước của nhân dân;
góp phần thực hiện việc kiểm soát quyền lực nhà nước, kiểm soát quản lý công và hỗ
trợ tích cực cho hoạt động hoạch định và thực thi chính sách.
Với tư cách là một trong những chủ thể của HĐGS, ĐBQH tham gia vào HĐGS
cùng với các thủ thể khác hoặc tiến hành các HĐGS độc lập, làm tiền đề cho HĐGS tối
cao của Quốc hội. Với tư cách cá nhân, theo quy định của pháp luật hiện hành, ĐBQH có
thể tiến hành các HĐGS gồm: chất vấn, giám sát văn bản quy phạm pháp luật, giám sát
việc thi hành pháp luật tại địa phương; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị
của công dân.
Để ĐBQH thực hiện được vai trò, sứ mệnh, quyền năng của mình, trong đó có
quyền giám sát, cần phải có những điều kiện bảo đảm cần thiết. Đây là những điều
kiện cần và đủ để ĐBQH giám sát một cách “thực quyền” chứ không phải chỉ là một
quyền năng trên danh nghĩa, nhờ đó ĐBQH có thể tiến hành được HĐGS đạt được
mục đích đã đề ra. Những điều kiện bảo đảm cho HĐGS của ĐBQH được xác định
bao gồm: bảo đảm về chính trị, bảo đảm về pháp lý, bảo đảm về năng lực chủ thể và
một số yếu tố ảnh hưởng khác.
Qua nghiên cứu HĐGS của Quốc hội và các nghị sĩ ở một số nước cho thấy, mặc
dù HĐGS của Quốc hội, của nghị sĩ các nước có những điểm khác biệt so với Việt Nam,
nhưng những kinh nghiệm của các quốc gia đó vẫn có giá trị tham khảo cho HĐGS của
ĐBQH Việt Nam.
79
Chương 3
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Khái quát về cơ cấu tổ chức của Quốc hội và đại biểu Quốc hội Việt Nam
hiện nay
3.1.1. Cơ cấu tổ chức của Quốc hội Việt Nam
Ngày 16 tháng 8 năm 1945, tại đình Tân Trào (Tuyên Quang), Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Tổng bộ Việt Minh (Việt Nam độc lập Đồng minh hội) đã khai mạc Đại hội
đại biểu quốc dân (còn gọi là Quốc dân Đại hội Tân Trào). Quốc dân Đại hội Tân Trào
là mốc son trong lịch sử vẻ vang của cách mạng Việt Nam, là tiền thân của Quốc hội
Việt Nam. Ngày 9 tháng 11 năm 1946, Hiến pháp năm 1946 được thông qua tại kỳ họp
thứ 2 (Quốc hội khoá I) đã xác định tên Quốc hội là “Nghị viện nhân dân”. Ngày 31
tháng 12 năm 1959, Hiến pháp năm 1959 được thông qua tại kỳ họp thứ 11 (Quốc hội
khóa I) và được Chủ tịch nước ký lệnh công bố vào ngày 01 tháng 01 năm 1960 - hiến
định tên chính thức của cơ quan này là Quốc hội. Cho đến nay, trải qua các bản Hiến
pháp sửa đổi sau này, Quốc hội là tên gọi cố định cho “cơ quan đại biểu cao nhất của
Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam” (Điều 69, Hiến pháp năm 2013)
Điều 3, Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 quy định: Quốc hội làm việc theo chế
độ hội nghị và quyết định theo đa số. Hiệu quả hoạt động của Quốc hội được bảo đảm
bằng hiệu quả của các kỳ họp của Quốc hội, hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, các đại biểu
Quốc hội và hiệu quả của sự phối hợp hoạt động với Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các cơ quan, tổ chức khác.
Các cơ quan của Quốc hội gồm có: Ủy ban thường vụ Quốc hội; Hội đồng Dân
tộc; Ủy ban Pháp luật; Ủy ban Tư pháp; Ủy ban Kinh tế; Ủy ban Tài chính, Ngân sách;
Ủy ban Quốc phòng và An ninh; Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên
80
và Nhi đồng; Ủy ban về các Vấn đề Xã hội; Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi
trường; Ủy ban Đối ngoại; Đoàn đại biểu Quốc hội; Tổng thư ký Quốc hội; Văn phòng
Quốc hội; Các cơ quan thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội (Ban công tác đại biểu, Ban
dân nguyện, Viện Nghiên cứu lập pháp).
QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
U B K H
,
U B K I N H T Ế
U B T Ư P H Á P
U B Đ Ố I N G O Ạ I
U B P H Á P L U Ậ T
C N & M T
B A N D Â N N G U Y Ệ N
B A N C Ô N G T Á C Đ Ạ I B I Ể U
Sơ đồ 3.1: Cơ cấu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhiệm kỳ của mỗi khóa Quốc hội là 5 năm, kể từ ngày khai mạc kỳ họp thứ
nhất của Quốc hội khóa đó đến ngày khai mạc kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa sau.
Sáu mươi ngày trước khi Quốc hội hết nhiệm kì, Quốc hội khóa mới phải được bầu
xong. Trong trường hợp đặc biệt, nếu được ít nhất hai phần ba tổng số ĐBQH biểu
81
quyết tán thành thì Quốc hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của mình theo
đề nghị của UBTVQH.
Quốc hội Việt Nam họp thường lệ mỗi năm 2 kỳ do UBTVQH triệu tập.
UBTVQH có thể triệu tập phiên họp bất thường theo quyết định của mình, hoặc khi
Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc khi có ít nhất 1/3 tổng số ĐBQH yêu cầu.
Các cuộc họp của Quốc hội đều công khai, một số được truyền hình trực tiếp, phát
sóng toàn quốc và ra nước ngoài. Quốc hội Việt Nam cũng có thể họp kín theo đề nghị
của UBTVQH, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc của ít nhất 1/3 tổng số
ĐBQH. Thành viên của Chính phủ không phải là ĐBQH được mời tham dự các phiên
họp toàn thể của Quốc hội. Đại diện cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh
tế, đơn vị vũ trang, cơ quan báo chí, công dân và khách quốc tế có thể được mời dự
các phiên họp công khai của Quốc hội.
3.1.2. Đại biểu Quốc hội Việt Nam
Theo điều 21, Luật tổ chức Quốc hội năm 2014: “1. Đại biểu Quốc hội là người
được cử tri trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu
kín để đại diện nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước. 2. Đại biểu Quốc hội là người
đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền và lợi ích của nhân dân để định đoạt các vấn
đề quan trọng của đất nước và chịu trách nhiệm trước nhân dân. 3. Đại biểu Quốc hội
bình đẳng trong thảo luận và quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ và quyền hạn của
Quốc hội” [57].
Theo luật định, công dân Việt Nam, từ đủ 21 tuổi trở lên, bảo đảm được các
tiêu chuẩn của ĐBQH theo quy định của Luật tổ chức Quốc hội có quyền ứng cử,
được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam qua hiệp thương nhân dân đưa vào danh sách ứng cử
ĐBQH, có đủ số phiếu cần thiết để trở thành ĐBQH trong cuộc tổng tuyển cử, và được
Ủy ban thẩm tra tư cách ĐBQH xác định là đủ tư cách làm ĐBQH.
Nhiệm kỳ của ĐBQH mỗi khóa Quốc hội bắt đầu từ kỳ họp thứ nhất của khóa
Quốc hội đó đến kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa sau. ĐBQH hội chịu trách nhiệm
82
trước cử tri, đồng thời chịu trách nhiệm trước Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ đại
biểu của mình.
ĐBQH có trách nhiệm tham gia đầy đủ các kỳ họp, phiên họp toàn thể của
Quốc hội, tham gia các hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội, thảo luận và biểu quyết
các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. ĐBQH phải có liên hệ chặt chẽ
và chịu sự giám sát của cử tri, thường xuyên tiếp xúc để tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng
của cử tri và phản ánh trung thực với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan, phổ
biến và vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật. ĐBQH có trách nhiệm
tiếp công dân theo quy định của pháp luật. Khi nhận được khiếu nại, tố cáo, kiến nghị
của công dân thì ĐBQH có trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người có
thẩm quyền giải quyết và thông báo cho công dân.
ĐBQH có các quyền hạn cơ bản như: quyền trình dự án luật: quyền trình kiến
nghị về luật, pháp lệnh; trình dự án luật, pháp lệnh theo trình tự do pháp luật quy định;
quyền tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội;
quyền ứng cử hoặc giới thiệu người ứng cử vào các chức danh do Quốc hội bầu.
ĐBQH có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính
phủ và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Người bị chất vấn có trách nhiệm trả lời về
những vấn đề mà đại biểu Quốc hội chất vấn. Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, ĐBQH có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu
liên quan đến nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó.
Quyền bất khả xâm phạm và miễn truy tố: Đại biểu Quốc hội được pháp
luật bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Những hành vi cản trở đại biểu
Quốc hội thực hiện nhiệm vụ sẽ bị xử lý theo pháp luật. Không có sự đồng ý của Quốc
hội và trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội và không được khám
xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu Quốc hội. Quyền được cung cấp thông tin: Đại
biểu Quốc hội được cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động của Quốc hội và được
quyền yêu cầu các cơ quan chức năng cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động của
83
mình. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có trách nhiệm trả lời những vấn
đề mà ĐBQH yêu cầu theo quy định của pháp luật.
ĐBQH là nhân tố quan trọng cấu thành nên các thiết chế của Quốc hội, các hoạt
động của ĐBQH tạo nên kết quả hoạt động chung của Quốc hội. Với vị trí đặc biệt
quan trọng như vậy, các nhiệm kỳ của Quốc hội Việt Nam luôn chú trọng phát huy
mạnh mẽ vị trí, vai trò trung tâm của ĐBQH, nâng cao chất lượng đại biểu, thực hiện
đa dạng cơ cấu thành phần đại biểu và tăng cường số lượng ĐBQH chuyên trách (xem
bản 3.1).
Bảng 3.1. Cơ cấu đại biểu Quốc hội Việt Nam các khóa
Người Người % Người % Người % Người % Người % Người %
ĐB tái cử ĐB là dân tộc thiểu số ĐB là phụ nữ Tổng số ĐB ĐB là người ngoài Đảng ĐB trẻ (dưới 40 tuổi) ĐB Quốc hội khóa ĐB có trình độ ĐH, trên ĐH
XI 498 17,3 136 27,3 10,2 56 11,2 465 93,4 135 27,1 50 86
XII 493 17,7 127 25,8 13,8 473 96,0 136 27,6 43 8,7 68 87
XIII 500 15,6 122 24,4 12,4 491 98,2 167 33,4 42 8,4 62 78
XIV 494 17,3 133 26,8 14,3 488 98,8 160 32,3 21 4,2 71 86
Nguồn: [63]
Từ số liệu bảng 3.1 cho thấy: cơ cấu ĐBQH của các nhiệm kỳ Quốc hội đã bảo
đảm được yêu cầu theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, có sự kế thừa giữa các
khóa, bảo đảm sự hợp lý hơn về tỷ lệ, thành phần: đại biểu ở trung ương, địa phương,
đại biểu là người dân tộc thiểu số, đại biểu nữ, đại biểu trẻ, đại biểu là người ngoài
Đảng, đại biểu tái cử..., phản ánh được tính đại diện rộng rãi cho các tầng lớp nhân dân
tham gia các cơ quan dân cử. Về trình độ học vấn của ĐBQH nhìn chung nhiệm kỳ
khóa sau cao hơn so với các nhiệm kỳ khóa trước. Cùng với việc nâng cao trình độ học
vấn, năng lực thể chế của ĐBQH cũng ngày càng cao hơn. Chất lượng của ĐBQH
ngày càng được nâng lên đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả của
HĐGS nói riêng, của Quốc hội nói chung.
84
Nâng cao năng lực hoạt động của ĐBQH nói chung, của ĐBQH chuyên trách
nói riêng là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng mang tính cấp thiết trước mắt cũng
như lâu dài nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn tổ chức và hoạt động của Quốc hội: xây
dựng Quốc hội hoạt động hiệu lực, hiệu quả, thực hiện đúng, đầy đủ chức năng và
nhiệm vụ là “cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Đáp ứng yêu cầu thực tiễn đó,
trong thời gian qua, Quốc hội nước ta đã chú trọng tăng cường số lượng cũng như chất
lượng đại biểu chuyên trách. Số lượng đại biểu Quốc hội làm việc theo chế độ chuyên
trách do Quốc hội quyết định. Đại biểu chuyên trách dành toàn bộ thời gian làm việc
để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu của mình. Cùng với việc đổi mới, cải tiến
quy trình xây dựng luật, pháp lệnh thì trình độ cũng như năng lực của ĐBQH ngày
càng được nâng lên. Tỷ lệ đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách nhiệm kỳ Quốc
hội sau cao hơn nhiệm kỳ trước. Nếu như Quốc hội khóa X có 45 đại biểu chuyên
trách chiếm 10% tổng số ĐBQH. Đến Quốc hội khóa XI đã có nhiều đổi mới cả về tổ
chức và hoạt động, số đại biểu chuyên trách tăng lên 121 người, chiếm tỷ lệ 24,3%.
Quốc hội khóa XII, con số này là 145 người, chiếm tỷ lệ 29,4%. Quốc hội khóa XIII
có 164 ĐB chuyên rách, chiểm 32,8%. Theo cơ cấu Quốc hội khóa XIV, đại biểu
chuyên trách gồm có 114 đại biểu chuyên trách trung ương (thuộc các cơ quan
của Quốc hội) và 67 đại biểu chuyên trách địa phương, trong đó Hà Nội, Thành phố
Hồ Chí Minh, Thanh Hóa, Nghệ An mỗi đoàn có 2 đại biểu, các tỉnh hoặc thành phố
trực thuộc Trung ương còn lại mỗi tỉnh có một đại biểu chuyên trách địa phương tỉnh
đó [63]. Việc tăng số lượng đại biểu chuyên trách, nhất là tăng tỷ lệ đại biểu có trình
độ chuyên môn về luật đồng nghĩa với việc tăng cường tính chuyên chuyên nghiệp và
tính chuyên môn của ĐBQH đã tạo điều kiện thuận lợi nâng cao hiệu quả của HĐGS.
Các ĐBQH chuyên trách đã ngày càng khẳng định vị trí, vai trò nòng cốt trong các
hoạt động của Quốc hội. Như vậy, Quốc hội Việt Nam phát triển theo hướng tăng
cường chất lượng đại biểu, tăng cường đại biểu chuyên trách. Điều này đã góp phần
nâng cao chất lượng HĐGS của ĐBQH cũng như hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
Quốc hội.
85
3.2. Kết quả đạt được và hạn chế trong hoạt động giám sát của đại biểu
Quốc hội Việt Nam hiện nay
3.2.1. Việc thực hiện chất vấn
Thời gian qua, HĐGS của ĐBQH dưới hình thức chất vấn không ngừng được
đổi mới và hoàn thiện, trở thành hình thức kiểm soát quyền lực có hiệu quả. Ngoài
việc chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội như trước đây, ĐBQH còn tham gia chất vấn tại
các phiên họp UBTVQH, các phiên giải trình của HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội và
chất vấn bằng văn bản. Trong hoạt động chất vấn, các vấn đề mà ĐBQH thực hiện
chất vấn ngày càng đa dạng, phong phú, đi sâu vào các vấn đề bức xúc của đời sống
kinh tế - xã hội. Theo đó, số lượng câu hỏi chất vấn đặt ra ngày càng nhiều hơn, thời
lượng của các phiên họp chất vấn ngày càng dài, tính tranh luận trong hoạt động chất
vấn cũng ngày càng tăng.
Nội dung chất vấn của ĐBQH thời gian qua đã tập trung vào các vấn đề bức
xúc của đời sống kinh tế, xã hội mà nhân dân, cử tri cả nước quan tâm. Đồng thời
thông qua chất vấn, đã yêu cầu các thành viên Chính phủ và những người trả lời chất
vấn khác phải giải trình làm rõ nguyên nhân của những vấn đó, đề xuất giải pháp và
cam kết thực hiện. Nhiều chất vấn của ĐBQH cũng đề cập thẳng thắn hơn tới việc xác
định trách nhiệm của thành viên Chính phủ và người phải trả lời chất vấn khác trong
việc để xảy ra những yếu kém, bất cập trong lĩnh vực hoạt động của mình. Những vấn
đề được đưa ra chất vấn hầu hết là các vấn đề bức xúc, “nóng” trong xã hội, được dư
luận rất quan tâm liên quan đến quốc kế dân, đến kinh tế vĩ mô như: đầu tư, quy hoạch
đất đai, cải cách hành chính, y tế, giáo dục, giải quyết các vấn đề xã hội, tình trạng
tham nhũng, lãng phí… Cùng với việc nội dung chất vấn ngày càng đi vào trọng
tâm, trọng điểm hơn, thì số lượng câu hỏi mà các ĐBQH đưa ra trong các các kỳ
họp Quốc hội cũng ngày càng tăng. Trong các phiên chất vấn nhiệm kỳ Quốc hội khóa
XI có từ 150 đến 210 câu hỏi, nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII có từ 220 đến 300 câu,
khóa XIII từ 155 đến 238 câu. Đến nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV, hoạt động chất vấn
và trả lời chất vấn có nhiều đổi mới. Thời gian hỏi và đáp được rút ngắn, nội dung đi
thẳng vào các vấn đề mà ĐBQH chất vấn. Việc tổ chức chất vấn được thực hiện một
86
cách công khai thông qua truyền hình trực tiếp đã tạo điều kiện cho nhân dân nắm bắt
đầy đủ các vấn đề chất vấn, đồng thời cũng có thể đánh giá được vai trò, năng lực của
người bị chất vấn. Tại Kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XIV (10-11/2016), tổng cộng có
214 lượt ĐBQH đặt câu hỏi chất vấn trực tiếp trên nghị trường, trong đó hơn 36 lượt
ĐBQH đặt câu hỏi đối với Thủ tướng Chính phủ, hơn 30 lượt ĐBQH đặt câu hỏi tranh
luận. Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIV (5-6/2018) với việc đổi mới chất vấn nên số
lượng câu hỏi và trả lời tăng lên. Tổng cộng có trên 260 đại biểu đặt câu hỏi, trên 400
lượt chất vấn và tham gia tranh luận. Phiên chất vấn và trả lời chất vấn diễn ra trong
không khí dân chủ, thẳng thắn, mang tính xây dựng cao [108]. Tại phiên chất vấn Kỳ
họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV (10-11/2018), tổng cộng có 135 đại biểu đặt câu hỏi
chất vấn và 82 lượt đại biểu tranh luận. Các thành viên Chính phủ, trong đó 02 Phó
Thủ tướng Chính phủ, 19 Bộ trưởng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước đã trực tiếp trả lời chất vấn
các vấn đề thuộc trách nhiệm quản lý, điều hành [107]. Đặc biệt, tại phiên chất vấn Kỳ
họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV (10-11/2019), ĐBQH đã đã lựa chọn nhóm vấn đề
thông qua phần mền ứng dụng trên thiết bị di động nên đã vừa đảm bảo sự kịp thời,
thuận tiện lại vừa chính xác và khách quan. Tại kỳ họp này, tổng cộng có 250 lượt đại
biểu tham gia chất vấn và tranh luận. ĐBQH đã chất vấn Thủ tướng Chính phủ, 2 Phó
thủ tướng Chính phủ Trương Hòa Bình và Trịnh Đình Dũng cùng 4 Bộ trưởng: Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương, Nội vụ, Thông tin và Truyền thông.
Nội dung chất vấn mà các ĐBQH lựa chọn là chính xác, sát thực và bao quát các lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội [106]. Chỉ tính riêng tại phiên chất vấn (ngày 8-
10/11/2020) kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV tổng cộng có 121 lượt ĐBQH chất
vấn, trong đó 41 lượt ĐBQH tranh luận. Các thành viên chính phủ, trong đó có 3 Phó
Thủ tướng Chính phủ và 15 Bộ trưởng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã trực tiếp trả lời chất vấn về các vấn đề thuộc trách
nhiệm quản lý, điều hành của mình [104].
Thời gian Quốc hội dành cho hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn đã tăng
đáng kể. Trước đây, thời gian dành cho việc chất vấn và trả lời chất vấn ở các kỳ họp
chỉ khoảng 2 buổi, thời lượng trả lời chất vấn trực tiếp tại hội trường từ khoảng 20
87
phút cho một người bị chất vấn. Sau khi Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội có
hiệu lực thời gian cho các phiên chất vấn thường từ 2,5 đến 3 ngày và thời lượng trả
lời chất vấn trực tiếp tại hội trường đã tăng lên khoảng 2 giờ tại các nhiệm kỳ gần đây,
riêng phần chất vấn và trả lời chất vấn của Thủ tướng Chính phủ có thể đến 3 giờ.
Trong thời gian đó, mỗi người bị chất vấn thường phải trả lời trên dưới 25 câu chất
vấn trực tiếp, cá biệt có trường hợp lên đến 40 câu. Như vậy, qua các kỳ họp Quốc hội
cho thấy số lượng, thời lượng dành cho hoạt động chất vấn tăng lên, điều đó chứng tỏ
đây là hoạt động được đánh giá cao từ nhiều phía. Từ Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa
XIV tiếp tục có những cải tiến, đổi mới về hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn.
Điểm mới nổi bật tại các phiên chất vấn là thời gian để mỗi ĐBQH nêu câu hỏi chất
vấn là 1 phút và sau khi 3 ĐBQH nêu câu hỏi, người bị chất vấn phải trả lời ngay; thời
gian dành cho mỗi lần trả lời là 3 phút. Phó Tổng Thư ký Quốc hội, Phó Chủ nhiệm
Văn phòng Quốc hội Lê Bộ Lĩnh cho rằng: Việc cải tiến, đổi mới này nhằm mục đích
tăng cường tính đối thoại, tranh luận trong hoạt động của Quốc hội. Sự điều chỉnh này
sẽ tạo điều kiện cho nhiều đại biểu được chất vấn và được trả lời. Đặc biệt, tại kỳ họp
thứ 8 Quốc hội khóa XIV, ĐBQH đã lựa chọn nhóm vấn đề chất vấn thông qua phần
mềm trên ứng dụng thiết bị di động vừa đảm bảo kịp thời, thuận tiện, vừa chinh xác,
khách quan, góp phần nâng cao chất lượng HĐGS. Tính đến kỳ họp thứ 10 Quốc hội
khóa XIV đã tiến hành chất vấn tại 8 kỳ họp với hàng nghìn lượt đại biểu đặt câu hỏi,
tham gia tranh luận và sự đăng đàn của hầu hết các thành viên Chính phủ. Việc rút
ngắn thời gian hỏi và đáp vừa tạo điều kiện đồng thời buộc người chất vấn và người
trả lời chất vấn phải đi thẳng vào vấn đề.
Các phiên chất vấn diễn ra trong không khí dân chủ, sôi nổi và có tính xây dựng
cao, làm rõ được trách nhiệm của người chất vấn, đồng thời cho thấy năng lực của
ĐBQH và của người trả lời chất vấn được phát huy. Tại các kỳ họp Quốc hội khóa
XIII, hoạt động chất vấn được tổ chức theo hướng toàn bộ các câu hỏi được ĐBQH
nêu trực tiếp, không báo trước về nội dung và đối tượng chất vấn. Các thành viên
Chính phủ nhận được chất vấn sẽ phải trả lời tại chỗ mà không có sự chuẩn bị. Lần
đầu tiên trong lịch sử hoạt động của cơ quan lập pháp, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng
Chính phủ, các Phó thủ tướng Chính phủ và 16 Bộ trưởng, trưởng ngành, Chánh án
88
Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm soát nhân dân tối cao đều cùng trả lời
chất vấn của ĐBQH. Việc đổi mới chất vấn và trả lời chất vấn đã tạo sự thoải mái, dân
chủ đối với các ĐBQH và những người trả lời chất vấn. Cách thức tổ chức chất vấn ở
Quốc hội khóa XIV tiếp tục đổi mới theo hướng tăng cường tranh luận, đối thoại với
tinh thần xây dựng, trách nhiệm, bảo đảm dân chủ, công khai. Trong các phiên chất
vấn, những ĐBQH muốn tranh luận với người trả lời chất vấn về nội dung câu hỏi và
câu trả lời sẽ giơ thẻ ĐBQH của mình thay cho việc đăng ký qua hệ thống điện tử và
chủ tọa gọi phát biểu theo trình tự đăng ký như trước đây. Như vậy là chủ tọa phiên
họp đã cho phép tất cả các ĐBQH có ý kiến tranh luận đều được phát biểu. Nếu
ĐBQH chưa hài lòng với câu trả lời, có thể tiếp tục chất vấn, tranh luận để làm sáng tỏ
vấn đề, đi đến cùng các vấn đề “nóng” từ thực tiễn đời sống.
Hoạt động “hậu” chất vấn cũng ngày càng được ĐBQH quan tâm hơn. Sau khi
tranh luận với các Bộ trưởng, nhiều ĐBQH đã thực hiện quyền kiến nghị sau giám sát
để kiến nghị với UBTVQH về việc thành lập Ủy ban lâm thời điều tra về việc thực
hiện các nội dung đã được chất vấn trên nghị trường, đã được Bộ trưởng trả lời về
hướng giải quyết hoặc hứa hẹn sẽ giải quyết.giải quyết vấn đề chất vấn. Điều đó cho
thấy HĐGS của nhiều ĐBQH là “hết sức hiệu năng”, họ là những người có bản lĩnh và
đeo bám đến cùng. Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, Quốc hội cũng đã tiến hành
một loạt các hoạt động “giám sát lại”, “chất vấn lại” các nội dung đã được giám sát,
chất vấn trước đó. Nổi bật nhất là hoạt động chất vấn tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa
XIII khi Chính phủ phải tiến hành rà soát, báo cáo cu ̣thể về những nội dung ĐBQH đã
chất vấn trước đây, liên hê ̣với trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan. Theo Báo
cáo Kết quả giám sát chuyên đề 10 năm (2009-2018) thực hiện Nghị quyết số
18/2008/QH12 ngày 03/6/2008 của Quốc hội khóa XII về đẩy mạnh thực hiện chính
sách, pháp luật xã hội hóa để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân (Số:
2381/BC-UBVĐXH14): Có 17/23 đề án, văn bản quy phạm pháp luật để triển khai
thực hiện Nghị quyết số 18 đã được ban hành, trong đó có 12/17 đề án, văn bản quy
phạm pháp luật đã được xây dựng có thời gian ban hành chậm hơn so với kế hoạch
ban hành theo Quyết định số 402/QĐ-TTg; 06/23 đề án, văn bản quy phạm pháp luật
chưa được ban hành [64]. Những dẫn chứng nêu trên cho thấy hậu giám sát, hậu chất
89
vấn ngày càng được ĐBQH quan tâm hơn, không chỉ là sự thể hiện trên diễn đàn Quốc
hội mà quan trọng hơn là sự chuyển biến của thực tiễn cuộc sống.
Với những cải tiến, đổi mới cả về nội dung, cách thức chất vấn cũng như việc
nâng cao năng lực của các đại biểu, hoạt động chất vấn của ĐBQH thời gian qua đã có
những tác động trực tiếp, mạnh mẽ đến thực tiễn cuộc sống. Những vấn đề được
ĐBQH chất vấn trên nghị trường đã tác động đến quá trình chỉ đạo, điều hành của
Chính phủ. Các nghị quyết của các phiên chất vấn đã được triển khai nghiêm túc,
nhiều cam kết, lới hứa của các các Bộ trưởng đã được thực hiện va mang lại kết quả
tích cực, tạo ra sự chuyển biến nmạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực, góp phần thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội, được cử tri và Nhân dân đánh giá cao. Bên cạnh đó, hoạt
động chất vấn của ĐBQH còn có ý nghĩa cảnh báo đối với các cơ quan hành pháp, đối
với cử tri và toàn xã hội về những hiện tượng, hành vi vi phạm pháp luật cần phải
được quan tâm xem xét, giải quyết. Hoạt động chất vấn của ĐBQH cũng cảnh báo về
những lỗ hổng của cơ chế, pháp luật có thể dẫn đến lạm quyền, tham nhũng, cảnh báo
việc một số người có chức, có quyền “thường tăng tốc tham nhũng cả về cường độ và
tần suất để thực hiện chuyến tàu vét cuối cùng trước khi hạ cánh”. Nhìn chung, hoạt
động chất vấn của ĐBQH thời gian qua đã đạt được những kết quả tích cực. Thông
qua chất vấn của đại biểu, Quốc hội nắm bắt thông tin, làm rõ trách nhiệm cũng như
tìm ra phương hướng, giải pháp để xử lý, giải quyết những vấn đề mà đại biểu và cử tri
quan tâm, Đồng thời đó cũng là một công cụ để kiểm tra, đánh giá năng lực trong nắm
bắt tình hình và quản lý, điều hành công việc của người trả lời chất vấn, góp phần
không nhỏ trong việc thúc đẩy Chính phủ và các thành viên Chính phủ thực hiện tốt
hơn chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Hoạt động chất vấn của ĐBQH
được tổ chức ngày càng chuyên nghiệp, hiệu quả hơn, có sức thu hút sự quan tâm của
toàn xã hội. Chính vì vậy, chất vấn có thể coi là công cụ giám sát mạnh nhất, thuận
tiện, dễ sử dụng và rất phù hợp với điều kiện hoạt động của ĐBQH trong giai đoạn
hiện nay.
Mặc dù hoạt động chất vấn của ĐBQH đã có những tiến bộ đáng ghi nhận, song
vẫn còn những hạn chế, bất cập nhất định như:
90
Một là, còn có sự chênh lệch về tính tích cực trong hoạt động chất vấn giữa
ĐBQH chuyên trách và ĐBQH kiêm nhiệm; giữa các ĐBQH kiêm nhiệm thuộc các
ngành nghề, lĩnh vực khác nhau. Tại các kỳ họp Quốc hội khóa XI, một tỷ lệ khá lớn
ĐBQH chưa thực thi quyền chất vấn (67,1% số ĐBQH kiêm nhiệm và 38,1% số ĐBQH
chuyên trách). Theo kết quả điều tra, tại các kỳ họp Quốc hội khóa XIII, có 31,6% ĐBQH
thường xuyên sử dụng hình thức chất vấn, 63,0% thỉnh thoảng chất vấn tại các kỳ họp
Quốc hội và phiên họp của UBTVQH, có 5% ĐBQH chưa bao giờ thực hiện quyền chất
vấn của mình và 0,4% có ý kiến khác (Biểu 3.1).
Biểu 3.1: Mức độ thường xuyên sử dụng hình thức chất vấn
Quốc hội Khóa XIII
5.00% 0.40%
31.60%
63.00%
Thường xuyên thực hiện Thỉnh thoảng thực hiện Chưa bao giờ thực hiện Ý kiến khác
Nguồn: Tổng hợp từ [103], [104]
Qua khảo sát các kỳ họp thứ 3, 5, 8, Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 5, 8 Quốc
hội khóa XIII cho thấy: có tất cả 430 lượt ĐBQH thực hiện quyền chất vấn, trong đó
số ĐBQH kiêm nhiệm là 148 người, chiếm 34,4%; số ĐBQH chuyên trách là 282
người, chiếm 65,6% (trong đó, có 147 ĐBQH chuyên trách ở địa phương và 135
ĐBQH chuyên trách ở trung ương) [103]. Số liệu trên cho thấy sự áp đảo về số lượng
đại biểu chuyên trách thực hiện quyền chất vấn so với các đại biểu kiêm nhiệm trong
khi số đại biểu chuyên trách chỉ chiếm khoảng 30% trên tổng số ĐBQH.
91
Chỉ tính riêng tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV vừa qua, trong số ĐBQH
tranh luận, có 22 ĐBQH chuyên trách (17 đại biểu chuyên trách ở Trung ương, 5 đại
biểu chuyên trách ở địa phương), chiếm 59,5% (trong khi tổng số ĐBQH hoạt động
chuyên trách của Quốc hội khóa XIV chỉ chiếm 34,3% trên tổng số ĐBQH). Điều đó
cho thấy vai trò quan trọng và tính tích cực của ĐBQH hoạt động chuyên trách, nhất là
các ĐBQH chuyên trách ở Trung ương trong chất vấn và tranh luận tại các phiên họp
Quốc hội.
Phân tích kỹ hơn về cơ cấu ngành nghề của các ĐBQH kiêm nhiệm thực hiện
quyền chất vấn cho thấy, trong số 148 đại biểu thực hiện quyền chất vấn có 20 đại biểu
là các doanh nhân, chiếm 13,5%; 47 đại biểu thuộc các cơ quan Mặt trận Tổ quốc, hội,
đoàn thể, chiếm 31,7%; 25 đại biểu thuộc các sở, ngành địa phương, chiếm 16,8%; 32
đại biểu thuộc các trường đại học, phổ thông, cơ sở giáo dục, đào tạo, bệnh viện,
chiếm 21,6%; 12 đại biểu đến từ các ngành tư pháp, quân đội, chiếm 8,1%; 12 đại biểu
đến từ các cơ quan đảng và các ngành nghề khác, chiếm 8,1% (xem biểu 3.2).
(%)
31.8
35
30
21.6
25
16.9
20
13.5
8.1
15
8.1
10
5
0
Doanh nhân MTTQ, hội,
Sở, ngành
GDĐT, y tế
Tư pháp, quân đội
đoàn thể
CQ đảng, ngành nghề khác
Biểu 3.2: Phân loại ngành nghề ĐBQH kiêm nhiệm thực hiện quyền chất vấn
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ [103], [104]
92
Từ biểu 3.2 cho thấy, số ĐBQH công tác tại Mặt trận Tổ quốc các cấp, các hội,
đoàn thể có xu hướng chất vấn nhiều hơn cả, tiếp đó là đại biểu đến từ các trường đại
học, cơ sở đào tạo, bệnh viện, số lượng doanh nhân thực hiện quyền chất vấn cũng khá
lớn so sánh với tương quan lực lượng này trong thành phần ĐBQH. ĐBQH thuộc các
ngành quân đội, tư pháp, các cơ quan Đảng trung ương và địa phương có số lượng chất
vấn khá ít. Đặc biệt, số ĐBQH làm việc tại các cơ quan hành chính các cấp (trừ các bộ
trưởng) chiếm tỷ lệ khá lớn trong Quốc hội nhưng số lượng đại biểu thực hiện quyền
chất vấn còn ít, chỉ chiếm 16,8% số ĐBQH kiêm nhiệm thực hiện quyền chất vấn và
chiếm 5,8% trên tổng số đại biểu thực hiện quyền chất vấn.
Hai là, nội dung nhiều chất vấn của ĐBQH còn hạn chế. Vẫn còn có hiện tượng
ĐBQH hỏi ngoài phạm vi chất vấn; câu hỏi còn trùng lặp về nội dung, không đi thẳng
vào trọng tâm. Đó là những câu hỏi không rõ vấn đề cần chất vấn, câu hỏi để biết
thông tin, câu hỏi mang tính chất “mồi” để người trả lời kể thành tích, câu hỏi dẫn
chuyện vòng vo, không nêu rõ được nội dung cốt lõi của vấn đề cần chất vấn. Có khá
nhiều câu hỏi thể hiện rõ tính chất “gợi mở câu trả lời” hay “hỏi để biết”. Còn tồn tại
những chất vấn không đúng chủ thể có thẩm quyền, không đúng đối tượng chịu sự
chất vấn hoặc nêu chất vấn cho một đối tượng nhưng lại liên quan đến nhiều đối tượng
khác nhau. Về trả lời chất vấn: có thành viên Chính phủ, trưởng ngành đang tập trung
vào báo cáo thực trạng, chưa xác định rõ trách nhiệm cá nhân đối với những hạn chế,
bất cập; còn có biểu hiện né tránh trách nhiệm hoặc thanh minh đổ lỗi cho khách quan.
Nhiều vấn đề thực tiễn bức xúc của ĐBQH đặt ra chưa có được câu trả lời thích đáng.
Ba là, vấn đề “hậu chất vấn” còn nhiều “khoảng trống”. Đây là vấn đề quan
trọng, thiết thực nhất mà ĐBQH, cử tri và nhân dân cả nước mong mỏi, đòi hỏi sự
“đeo bám” của ĐBQH theo những lời hứa, cam kết, giải trình của người trả lời chất
vấn đối với những vấn đề mình đã nêu lên. Việc đeo bám đó không chỉ để tìm ra sự
chuyển biến của thực tiễn mà còn để xác định trách nhiệm chính trị của người trả lời
chất vấn, để vấn đề chất vấn không bị bỏ quên, hay nói cách khác là rơi vào tình trạng
“lời nói gió bay”.
93
Hoạt động giám sát của ĐBQH và việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các Bộ
trưởng chưa có sự thống nhất. Trong 02 lần lấy phiếu tín nhiệm trong nhiệm kỳ Quốc
hội khóa XIII, Bộ trưởng Công thương và Bộ trưởng Nội vụ đều đạt mức tín nhiệm để
tiếp tục thực hiện nhiệm vụ Bộ trưởng, thành viên Chính phủ, trong đó, số phiếu tín
nhiệm cao của Bộ trưởng Bộ Công thương năm 2014 còn cao hơn năm 2013. Bộ
trưởng Bộ Nội vụ có số phiếu tín nhiệm thấp năm 2014 cao hơn năm 2013 nhưng chỉ
chiếm 30,9% trên tổng số 497 ĐBQH (xem biểu 3.3).
Biểu 3.3: Chỉ số tín nhiệm của Bộ trưởng Bộ Công thương và Bộ trưởng Bộ Nội
300
274
251
250
233
224
200
156
154
Tín nhiệm cao
150
128
Tín nhiệm
126
112
102
Tín nhiệm thấp
98
92
100
50
0
BT Bộ CT - 2013
BT Bộ CT - 2014
BT Bộ NV - 2013
BT Bộ NV - 2014
vụ trong nhiệm kỳ khóa XIII
Đơn vị tính: phiếu
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ [103], [104]
Tuy nhiên, tại phiên họp thứ 5, Quốc hội XIV (tháng 12/2016), UBTVQH đã
xem xét về việc xử lý kỷ luật đối với nguyên Bộ trưởng Bộ Công thương về những sai
phạm trong thời gian giữ chức vụ Bộ trưởng. Còn Bộ trưởng Bộ Nội vụ cũng không
thể là người ngoài cuộc với trách nhiệm của người đứng đầu khi có tới 02 Thứ trưởng
của Bộ bị kỷ luật về những vi phạm trong công tác cán bộ. Từ thực tiễn đó cho thấy,
94
tính liên kết giữa các hoạt động giám sát của ĐBQH và hoạt động lấy phiếu tín nhiệm,
bỏ phiếu tín nhiệm chưa cao.
Những hạn chế trên xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Năng lực thực hiện hoạt động chất vấn của ĐBQH nhất là đại biểu kiêm
nhiệm còn hạn chế. Kỹ năng tranh luận và sử dụng thành thạo các thủ tục làm việc tại
nghị trường chưa cao, chưa đáp ứng kịp yêu cầu của hoạt động chất vấn. Nhiều đại
biểu chưa nghiên cứu kỹ các văn bản, các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động
chất vấn, chưa nắm rõ chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền giải quyết của từng ngành,
từng cấp nên câu hỏi chất vấn, kiến nghị chưa sát thực, đúng đối tượng. Mặt khác, do
trình độ chuyên môn của một số đại biểu chưa đồng đều nên trong hoạt động chất vấn
cũng chỉ tập trung ở một số đại biểu có trình độ sâu, có đủ thông tin về lĩnh vực chất
vấn. Những hạn chế về năng lực thực hiện hoạt động chất vấn của ĐBQH dẫn đến tính
tích cực cũng như chất lượng chất vấn chưa đạt như kỳ vọng.
- Quy định pháp luật về hoạt động chất vấn đang còn có những bất cập cũng là
nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong hoạt động chất vấn của ĐHBQH. Việc đổi
mới chất vấn cũng như tăng thời lượng chất vấn và trả lời chất vấn trong nhiệm kỳ
Quốc hội XIV đã mang lại những kết quả tích cực, tuy nhiên vẫn chưa đủ để đáp ứng
yêu cầu chất vấn của đại biểu. Do số lượng ĐBQH đăng ký đặt câu hỏi chất vấn khá
lớn, trong khi quỹ thời gian dành cho hoạt động này trong chương trình kỳ họp còn
khiêm tốn, nên đôi lúc vẫn có một số đại biểu chưa được thực hiện quyền chất vấn của
mình trực tiếp tại Hội trường. Một số nội dung trong Nghị quyết về hoạt động chất vấn
còn chung chung, chưa có mốc thời hạn, định lượng cụ thể, chưa chỉ rõ trách nhiệm
của cơ quan, cá nhân liên quan. Việc thực hiện các nghị quyết chất vấn trong một số
trường hợp chưa nghiêm túc do chưa xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể liên quan
mà đang dừng lại ở trách nhiệm chính trị, chưa có chế tài xử lý phù hợp. Vì vậy, có
những vấn đề thực tiễn bức xúc của ĐBQH đặt ra chưa có câu trả lời thỏa đáng, vấn đề
“hậu chất vấn” còn nhiều “khoảng trống”.
- ĐBQH chưa được cung cấp thông tin một cách đầy đủ, toàn diện và kịp thời
về những vấn đề mà đại biểu quan tâm chất vấn cũng như những thông tin liên quan
95
đến vấn đề đó, nhất là những thông tin từ từ các cơ quan tham mưu giúp việc của Quốc
hội ở trung ương và địa phương. Trong thời gian vừa qua, các cơ quan hữu quan đã cố
gắng cải tiến việc cung cấp thông tin cho ĐBQH, với khối lượng nhiều hơn, hình thức
đa dạng hơn, chất lượng thông tin có phần tốt hơn, góp phần hỗ trợ ĐBQH thực hiện
vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, vẫn còn những khoảng cách khá
lớn giữa nhu cầu của ĐBQH về thông tin với thông tin mà đại biểu nhận được. Vì vậy
mà tính tích cực trong hoạt động chất vấn giữa ĐBQH đang còn có sự chênh lệch, nội
dung nhiều câu hỏi chất vấn còn hạn chế.
3.2.2. Giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Giám sát văn bản quy phạm pháp luật, trong đó giám sát cả trước và sau khi văn
bản quy phạm pháp luật đã được ban hành là một trong những HÐGS quan trọng của
Quốc hội và ĐBQH cần được thực hiện thường xuyên, liên tục nhằm đảm bảo các văn
bản pháp luật được ban hành kịp thời, hợp hiến, hợp pháp và thống nhất. Qua giám sát,
đại biểu đã phát hiện ra nhiều văn bản luật, pháp lệnh của Quốc hội, UBTVQH chưa
được hướng dẫn thi hành đúng tiến độ, nhiều văn bản dưới luật có chứa các quy định
chưa phù hợp với quy định của luật gốc hoặc của Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật. Cũng thông qua HĐGS đã phát hiện vẫn còn có hiện tượng VBQPPL hết
hiệu lực thi hành vẫn được kiến nghị sửa đổi. Trên cơ sở đó, chủ thể giám sát - ĐBQH
đã kịp thời yêu cầu các cơ quan ban hành văn bản có biện pháp xử lý và tiếp tục theo
dõi, đôn đốc việc thực hiện các kiến nghị giám sát, đồng thời tiến hành các quy trình
tiếp theo là đề nghị, kiến nghị với UBTVQH, Quốc hội xem xét, xử lý văn bản theo
thẩm quyền.
Trong thời gian qua, nhất là từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV cho đến nay,
ĐBQH thông qua các ủy ban của Quốc hội đã tập trung giám sát việc ban hành văn
bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các luật đã được Quốc hội ban hành. Tại
phiên họp thứ 48 (9/2020), Ủy ban Thường vụ Quốc hội nghe báo cáo tổng hợp kết
quả giám sát của các ủy ban của Quốc hội về viện ban hành văn bản quy phạm pháp
luật trong nhiệm kỳ. Qua giám sát cho thấy, HÐGS văn bản được thực hiện nghiêm túc
theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và
96
Hội đồng nhân dân, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; các cơ quan của
Quốc hội chủ động đưa vào Chương trình công tác HÐGS văn bản quy phạm pháp luật
thuộc lĩnh vực phụ trách. Thông qua HÐGS chuyên đề, thẩm tra báo cáo, tổ chức hoạt
động giải trình, các ủy ban đã kết hợp giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp
luật, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh trong các lĩnh vực được giám sát. Kết quả cho
thấy: không có văn bản nào có dấu hiệu trái Hiến pháp; về cơ bản là phù hợp, thống
nhất với nội dung được luật giao; tình trạng nội dung văn bản quy định chung chung
đã giảm một cách đáng kể. Các văn bản quy định chi tiết được ban hành có hiệu lực
cùng thời điểm với luật đã có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng của nhiều văn
bản được nâng cao. Một điểm mới trong công tác ban hành văn bản quy định chi tiết
là việc ban hành một văn bản để quy định nhiều nội dung được giao.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đạt được thì HĐGS văn bản pháp
luật của ĐBQH thời gian qua vẫn còn một số hạn chế sau:
Một là, ĐBQH chưa thực hiện thường xuyên HĐGS VBQPPL với tư cách là
một hoạt động độc lập. Theo luật định, giám sát VBQPPL là một trong những nội
dung cơ bản của HĐGS mà ĐBQH phải thực hiên, trong đó đại biểu có trách nhiệm
nghiên cứu, xem xét nội dung các văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm tính hợp
hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật. Trong thời gian qua,
hầu như các ĐBQH không tổ chức thực hiện giám sát VBQPPL thường xuyên với
cách thức là một hoạt động độc lập, mà chủ yếu được thực hiện lồng ghép cùng với
các HĐGS khác. Hoạt động này cũng chưa được ĐBQH thực hiện thường xuyên và có
hiệu quả ngay cả khi ĐBQH tham gia HĐGS VBQPPL với các chủ thể khác (là thành
viên của Đoàn ĐBQH, các Uỷ ban của Quốc hội, UBTVQH). Qua khảo sát ý kiến của
ĐBQH tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII về mức độ thường xuyên giám sát văn
bản QPPL thu được kết quả sau (Biểu 3.4):
97
0.40%
10.60%
21.30%
67.70%
Thường xuyên giám sát
Thỉnh thoảng giám sát
Chưa bao giờ giám sát
Ý kiến khác
Biểu 3.4: Mức độ thường xuyên giám sát văn bản QPPL
Nguồn: Tổng hợp của tác giả [62], [103], [104]
Như vậy, trong số các ĐBQH trả lời phiếu khảo sát tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội
khóa XIII, chỉ có 21,3% đại biểu thường xuyên giám sát văn bản quy phạm pháp luật,
trong khi đó có 10,6% đại biểu chưa bao giờ thực hiện hình thức giám sát này. Đa số
ĐBQH (67,7%) chỉ thỉnh thoảng giám sát VBQPPL.
Hai là, Hiệu quả HĐGS ban hành VBQPPL của ĐBQH còn thấp. Theo đánh
giá của đa số (66,7%) chuyên gia được hỏi trong một cuộc khảo sát thì HĐGS
VBQPPL của ĐBQH chưa đạt yêu cầu. Trong suốt nhiệm kỳ khóa XIII, HĐGS văn
bản quy pháp luật của UBTVQH chưa được chú trọng thực hiện. Chính vì vậy trong
Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ khóa XIII của UBTVQH hoàn toàn không đề cập đến nội
dung giám sát này. Trong Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ khóa XIII của Ủy ban pháp tuật
không đưa ra một đánh giá cụ thể nào về kết quả HĐGS VBQPPL mà chỉ đưa ra
những nhận định sau đây về hạn chế trong lĩnh vực này. Cụ thể: thời gian dành cho
HĐGS của Ủy ban còn hạn chế, nhất là đối với các thành viên Ủy ban pháp luật đang
công tác tại địa phương và hoạt động kiêm nhiệm. Ngay trong Thường trực Ủy ban,
việc thành lập các đoàn để tiến hành giám sát cũng gặp không ít khó khăn vì nhiều
98
đồng chí trong Thường trực Ủy ban còn phải tập trung cho công tác xây dựng pháp
luật và các công việc khác; Việc giám sát VBQPPL của Chính phủ, các cơ quan hữu
quan để quy định chi tiết các điều, khoản được giao trong luật, pháp lệnh còn hạn chế;
nhiều khi mới chỉ tập trung được vào giám sát tiến độ ban hành và số lượng văn bản
quy định chi tiết, chứ chưa đi sâu vào nội dung cụ thể của từng văn bản, chưa được
tiến hành thường xuyên, kết quả giám sát chưa cao [79]. Trong nhiệm kỳ Quốc hội
khóa XIV, mặc dù giám sát VBQPPL được quy định là nội dung quan trọng, là nhiệm
vụ thường xuyên của ĐBQH nhưng trên thực tế các đại biểu chưa thực sự coi giám sát
VBQPPL là trách nhiệm nặng nề phải thi hành trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của
mình, Trong cả trường hợp giám sát độc lập và tham gia HĐGS của các tập thể Ủy
ban, ĐBQH đều chưa tích cực hoặc chưa có đủ điều kiện để triển khai có hiệu quả
HĐGS văn bản quy phạm pháp luật.
Ba là, quy định của pháp luật về HĐGS VBQPPL của ĐBQH chưa thực sự phù
hợp. Quy định của pháp luật là tiền đề quan trọng, là cơ sở pháp lý cho HĐGS
VBQPPL của ĐBQH. Tuy vậy, bản thân những tiền đề này vẫn tồn tại những hạn chế
nhất định như: Pháp luật quy định thẩm quyền và phạm vi giám sát văn bản của cá
nhân ĐBQH quá rộng, bao gồm tất cả các loại văn bản quy phạm pháp luật, trùng lắp
với các chủ thể giám sát khác như UBTVQH, HĐDT, các Ủy ban, các Đoàn ĐBQH.
Quy định như vậy vừa thể hiện sự chồng chéo của pháp luật vừa khó có thể xác định
được trách nhiệm của cơ quan giám sát khi có văn bản vi phạm bị bỏ lọt; đồng thời,
tạo điều kiện để các cơ quan có thể ỷ lại hoặc dựa dẫm, không thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình. Hơn nữa, thẩm quyền của ĐBQH chưa được quy định thống nhất
với trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc gửi văn bản đến ĐBQH để
thực hiện HĐGS. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, ĐBQH không có đủ điều kiện cơ
bản nhất để thực hiện việc giám sát của mình. Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn HĐGS
VBQPPL của ĐBQH cho thấy việc giao thẩm quyền, trách nhiệm giám sát VBQPPL
cho ĐBQH chưa thực sự phù hợp, giám sát văn bản là công việc mang tính chất kỹ
thuật của chuyên gia, nên được thực hiện bởi bộ máy giúp việc hoặc các cơ quan
chuyên môn, chất vấn hoặc kiến nghị việc xử lý văn bản sai phạm mới thực sự là
HĐGS của ĐBQH.
99
Những hạn chế trong HĐGS ban hành văn bản pháp luật của ĐBQH trong thời
gian qua là bắt nguồn từ những nguyên nhân cơ bản sau:
- Trong thời gian qua số lượng VBQPPL được Quốc hội ban hành quá lớn đòi
hỏi phải được kiểm soát bởi một bộ máy chuyên nghiệp, bao gồm các chuyên gia về
lĩnh vực liên quan được bố trí từ trung ương (phụ trách văn bản của các bộ, ngành) đến
địa phương (phụ trách văn bản của chính quyền địa phương các cấp) mới bảo đảm
được tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của các văn bản. Nhiệm vụ này giao
cho ĐBQH là quá nặng nề. Mặt khác, việc tiến hành HĐGS, nhất là giám sát ban hành
văn bản pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào năng lực, uy tín và tâm huyết của ĐBQH,
đòi hỏi ĐBQH có sự am hiểu sâu sắc khá toàn diện về pháp luật và nhiều lĩnh vực mà
các văn bản pháp luật đó điều chỉnh. Với đặc điểm tỷ lệ ĐBQH mới tham gia, tỷ lệ
ĐBQH kiêm nhiệm của Quốc hội cao nên năng lực giám sát ban hành văn bản pháp
luật của đại biểu chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của hoạt động này. Theo đó, việc
phát hiện các VBQPPL có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
UBTVQH là rất khó khăn, nên ĐBQH cũng chưa thực hiện đúng với mục đích, yêu
cầu của hoạt động, theo đúng quy trình pháp luật quy định.
- Khối lượng tài liệu, báo cáo dự án luật phải xem xét trong một kỳ họp quá
nhiều trong khi các cơ quan soạn thảo, cơ quan có trách nhiệm trình các dự án luật gửi
tài liệu thường chưa đầy đủ, kịp thời. Điều này dẫn đến hệ quả là các ủy ban thẩm tra
dự án luật cũng như ĐBQH, nhất là đối với những đại biểu kiêm nhiệm, đại biểu mới
ứng cử lần đầu chưa có hoặc không có chuyên môn sâu về kỹ năng lập pháp, về lĩnh
vực chuyên môn thuộc phạm vi điều chỉnh của dự án luật, đặc biệt đối với những luật
chuyên ngành rơi vào thế bị động, không có đủ thời gian nghiên cứu, thảo luận, xem
xét đánh giá để thông qua. Từ đó làm hạn chế đến chất lượng lập pháp của Quốc hội.
3.2.3. Giám sát việc thi hành pháp luật
Thời gian qua, giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương của ĐBQH là một
trong những HĐGS được ĐBQH thực hiện với tư cách một chủ thể giám sát độc lập.
Thông qua HĐGS việc thi hành pháp luật cho thấy: nội dung các văn bản pháp luật có
tính bao quát, phạm vi điều chỉnh rộng, chất lượng văn bản được hoàn thiện và không
100
ngừng nâng lên. Từ đó góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và
từng bước đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Việc thực thi pháp luật trong tổ chức và
hoạt động của Nhà nước, trong quản lý xã hội ngày càng được đề cao. Chính phủ và
các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ đã và đang tập trung hơn vào quản
lý, điều hành vĩ mô và năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng; cải cách
hành chính tiếp tục được chú trọng; nhiều chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách
pháp luật, cải cách tư pháp được thể chế trong Hiến pháp, pháp luật và được triển khai
thực hiện nghiêm túc, hiệu quả.
Tuy vậy, hoạt động này cũng gặp nhiều khó khăn và HĐGS của cá nhân ĐBQH
ở địa phương không phải là một hoạt động phổ biến và có nhiều hạn chế, cụ thể là:
Thứ nhất, ĐBQH chưa chủ động, tích cực xây dựng và triển khai thực hiện
chương trình giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương. Khảo sát 63 báo cáo tổng
kết nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII của 63 Đoàn ĐBQH các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương (là nơi tổng kết hoạt động của các Đoàn ĐBQH và các vị ĐBQH) cho
thấy, có tới 47 báo cáo cùng có chung nhận định về hạn chế trong HĐGS việc thi hành
pháp luật ở địa phương như sau: HĐGS việc thi hành pháp luật ở địa phương thường
được tổ chức theo hình thức Đoàn giám sát chuyên đề của Đoàn ĐBQH; việc ĐBQH
xây dựng và triển khai thực hiện chương trình giám sát riêng theo quy định của Luật
hoạtt động giám sát chưa được thực hiện. Nhiều ĐBQH kiêm nhiệm cũng không bố trí
được thời gian tham gia các Đoàn giám sát của Đoàn ĐBQH. Một số Đoàn ĐBQH
đánh giá: các HĐGS tại địa phương còn phụ thuộc nhiều vào chương trình giám sát
chung của Quốc hội, UBTVQH, nội dung giám sát còn ít, chưa theo kịp với yêu cầu
thực tế đặt ra; việc phối hợp giữa Đoàn ĐBQH với Thường trực HĐND còn hạn chế.
Đây cũng là thực trạng chung trong HĐGS của ĐBQH tại địa phương. Kết quả khảo
sát ý kiến ĐBQH về mức độ thường xuyên tham gia HĐGS việc thi hành pháp luật
ở địa phương tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII thể hiện ở biểu 3.5:
Biểu 3.5: Mức độ thường xuyên ĐBQH giám sát thi hành pháp luật ở địa
phương
101
10.20%
41.20%
48.60%
Thường xuyên tham gia Thỉnh thoảng giám sát Chưa bao giờ giám sát
Nguồn: Tổng hợp của tác giả [62], [103], [104]
Từ biểu 3.5, cho thấy có 41,2% ĐBQH thường xuyên tham gia giám sát việc thi
hành pháp luật ở địa phương, nhưng có tới 10,2% ĐBQH chưa bao giờ thực hiện
quyền này và 48,6% chỉ thỉnh thoảng thực hiện giám sát việc thi hành pháp luật ở địa
phương. Nếu tính cả các cuộc giám sát của Đoàn ĐBQH, các cuộc giám sát tại địa
phương của UBTVQH, HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội thì số lượng các cuộc giám
sát về việc thi hành pháp luật tại mỗi địa phương là khá lớn, nhưng với số liệu khảo sát
như trên cho thấy chưa xem xét về chất lượng, hiệu quả của hoạt động, chỉ tính về sự
tham gia của ĐBQH còn hết sức hạn chế. Theo báo cáo tổng kết nhiệm kỳ Quốc hội
khóa XIII của các Đoàn ĐBQH, số cuộc giám sát của Đoàn ĐBQH một số tỉnh trong
nhiệm kỳ như sau (bao gồm cả các Đoàn giám sát do Đoàn ĐBQH chủ trì tổ chức và
việc tham gia các Đoàn giám sát của UBTVQH, HĐDT, các Ủy ban tổ chức tại địa
phương): Tỉnh Hải Dương 59 cuộc, Đà Nẵng 53 cuộc, Hải phòng 102 cuộc, tỉnh Trà
Vinh 35 cuộc, tỉnh Kon Tum 15 cuộc, tỉnh Sơn La 36 cuộc, tỉnh Sóc Trăng 43 cuộc,
Thừa Thiên Huế 41 cuộc, Khánh Hòa 19 cuộc...)
Thứ hai, HĐGS việc thi hành pháp luật tại địa phương của ĐBQH trùng lắp về
phạm vi giám sát, nội dung giám sát, hình thức giám sát với Đoàn ĐBQH, HĐND các
cấp và đại biểu HĐND các cấp.
102
Pháp luật chưa “khoanh vùng” phạm vi giám sát của ĐBQH ở địa phương với
HĐND các cấp và đại biểu HĐND các cấp dẫn tới tình trạng quy định thẩm quyền
chồng chéo và thiếu tính khả thi, không có cơ quan nào đứng ra chịu trách nhiệm khi
có vấn đề xảy ra. Tại điểm b, khoản 1 điều 47 và khoản 1 điều 53 Luật hoạt động giám
sát của Quốc hội và Hội động nhân dân 2015 quy định: ĐBQH “Giám sát văn bản quy
phạm pháp luật; giám sát việc thi hành pháp luật”; “Căn cứ vào chương trình giám sát
của mình, đại biểu Quốc hội tiến hành giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương”.
Trong khi đó tại điểm c, khoản 1 Điều 83 và khoản 1 Điều 86 cũng quy định: Đại biểu
Hội đồng nhân dân “Giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương” , “ Đại biểu Hội
đồng nhân dân thường xuyên theo dõi, xem xét việc thi hành pháp luật tại địa
phương”. Sự trùng lặp đó cho thấy chưa có sự phân cấp rõ ràng trong hoạt động giám
sát của cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương và cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương trên cùng một địa bàn.
Thứ ba, pháp luật mới quy định thẩm quyền của ĐBQH mà chưa quy định các
điều kiện bảo đảm thực hiện thẩm quyền một cách hiệu quả và thuận lợi.
Luật HĐGS của Quốc hội và HĐND quy định, khi phát hiện có hành vi vi
phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc công dân, ĐBQH có
quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan thi hành những biện pháp
cần thiết để kịp thời chấm dứt hành vi trái pháp luật đó. Tuy nhiên, quy định này có
tính khả thi không cao vì tuy quy định đối tượng giám sát có trách nhiệm thực hiện
kiến nghị giám sát nhưng còn thiếu quy định trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức,
đơn vị hữu quan không thực hiện kiến nghị của ĐBQH, nên việc chấp hành của cá
nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan thường không nghiêm túc hoặc tùy thuộc
vào chức vụ trong bộ máy nhà nước mà ĐBQH nắm giữ. Chẳng hạn, nếu là ý kiến
của ĐBQH là Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng,
Thứ trưởng… thì có thể sẽ được các cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan nghiêm chỉnh
chấp hành; nhưng nếu chỉ là ý kiến của một ĐBQH, nhất là đại biểu không nắm giữ
chức vụ gì thì ít có trọng lượng, ít được quan tâm.
103
Như vậy, thực tiễn cho thấy, trong HĐGS của ĐBQH về thi hành pháp luật ở
địa phương, ĐBQH chưa chủ động, tích cực thực hiện thẩm quyền của mình trong lĩnh
vực này, phạm vi giám sát chồng chéo với các chủ thể có thẩm quyền khác, các quy
định của pháp luật còn thiếu tính khả thi.
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế trong HĐGS thi hành pháp luật ở
địa phương của ĐBQH là:
- Với việc thiết kế cơ cấu, thành phần và phân bổ ĐBQH nên tỷ lệ đại biểu
kiêm nhiệm của Quốc hội còn khá cao, do đó việc đảm bảo tính độc lập ĐBQH trong
thực hiện HĐGS nói chung, giám sát thi hành pháp luật nói riêng còn hạn chế. Tình
trạng một số ĐBQH kiêm nhiệm, là cấp dưới (trong cơ quan đang công tác) phải thực
hiện quyền giám sát của mình đối với cấp trên trong hệ thống cơ quan nhà nước đã ảnh
hưởng đến tâm lý, phải cân nhắc khi chất vấn, giám sát lãnh đạo cấp trên của mình. Đa
số ĐBQH hoạt động không chuyên trách, phải đảm nhiệm nhiều công việc quan trọng
khác, nên thực chất thời gian dành cho hoạt động giám sát là chưa thỏa đáng. Bên cạnh
đó, một số đại biểu chưa có nhiều kỹ năng, kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn sâu để
tiến hành giám sát hoặc tham gia hoạt động giám sát nên hiệu quả giám sát thi hành
pháp luật của ĐBQH khó đạt được như mong muốn.
- Chất lượng của hoạt động giám sát còn có những hạn chế, chưa đi sâu, chưa
phát hiện và đề xuất giải quyết kịp thời những tồn tại trong thi hành pháp luật ở địa
phương một phần là do tâm lý còn nể nang, né tránh của ĐBQH. Theo quy định của
Hiến pháp và pháp luật, ĐBQH phải đại diện cho ý chí và nguyện vọng của cử tri đã
bầu ra mình và cử tri cả nước. Do đó, ĐBQH có xu thế gắn bó với địa phương, một số
ĐBQH ngại chất vấn do sợ đụng chạm quyền lợi của địa phương. Như vậy, tâm lý e
ngại ảnh hưởng đến quyền lợi của địa phương mình ứng cử cũng làm ảnh hưởng đến
sự tích cực của một số ĐBQH trong hoạt động giám sát thi hành pháp luật ở địa
phương.
- Một trong những nguyên nhân hạn chế hiệu quả hoạt động của ĐBQH trong
hoạt động giám sát thi hành luật ở địa phương là do chưa có cơ chế cho việc xây dựng
chương trình giám sát của cá nhân ĐBQH mà vẫn phụ thuộc chủ yếu vào Đoàn đại
104
biểu Quốc hội. Vì thế nên dẫn tới tình trạng là khi Đoàn đại biểu Quốc hội tiến hành
giám sát những vấn đề ở tầm quốc gia thì lại dễ trùng lặp với chương trình giám sát
của UBTVQH, các cơ quan của Quốc hội. Khi Đoàn đại biểu Quốc hội tiến hành giám
sát những vấn đề của địa phương thì lại dễ trùng lặp, chồng chéo với hoạt động giám
sát của Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Điều này ảnh hưởng
không nhỏ đến tính tích cực, chủ động và tính độc lập của ĐBQH trong thực hiện thẩm
quyền của mình.
3.2.4. Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định rõ việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm các quyền con người, quyền công dân. Điều 30 Hiến pháp năm 2013 đã quy định
quyền khiếu nại, quyền tố cáo của công dân: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo
với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ
quan, tổ chức, cá nhân.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại,
tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi
danh dự theo quy định của pháp luật.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại,
tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác” [56].
Trong quy định về HĐGS việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, Hiến
pháp năm 2013 có bổ sung hình thức giám sát mới, đó là lấy phiếu tín nhiệm và bỏ
phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn. Các quy định mới
này đã góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân. Bởi vì kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân của các thành
viên Chính phủ, người đứng đầu các bộ, ngành có thể ảnh hưởng đến mức độ tín
nhiệm của ĐBQH đối với họ khi Quốc hội tiến hành lấy phiếu tín nhiệm, và bỏ phiếu
tín nhiệm.
Theo quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát
của Quốc hội và HĐND, Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc
105
hội, của ĐBQH và Đoàn ĐBQH thì trách nhiệm giám sát về giải quyết khiếu nại, tố
cáo được giao cho nhiều chủ thể khác nhau thực hiện, bao gồm: Quốc hội, UBTVQH,
Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, ĐBQH. Các chủ thể
này được giao thẩm quyền và các phương thức giám sát khác nhau để thực hiện chức
năng giám sát.
Thực chất, HĐGS của ĐBQH đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân là việc theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của mình. Giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là một
trong các nội dung được đặc biệt quan tâm trong hoạt động giám sát của Quốc hội nói
chung, của ĐBQH nói riêng. Thực hiện các quy định Luật tổ chức Quốc hội năm 2014
cũng như Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015,
trong thời gian ĐBQH đã có nhiều cố gắng, nỗ lực trong giám sát việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo kiến nghị của công dân và đã đạt được những kết quả tích cực.
Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo tại các ĐBQH cũng có sự đổi mới,
sáng tạo như ĐBQH đã tham gia các buổi làm việc, đối thoại với công dân do UBND
tỉnh chủ trì để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người dân về nội dung khiếu nại, tố
cáo và theo dõi việc giải quyết; đối với các vụ việc có tính chất phức tạp, kéo dài, bức
xúc. ĐBQH đã chủ động làm việc với các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền giải
quyết, tiến hành khảo sát thực tế, thu thập thông tin để có thêm căn cứ chuyển đơn,
theo dõi, đôn đốc và giám sát việc giải quyết.
Qua công tác tiếp công dân, ĐBQH nói riêng, Quốc hội nói chung đã tiếp nhận,
phân loại, xử lý, kịp thời chuyển đơn thư khiếu nại, tố cáo đến cơ quan có thẩm quyền
giải quyết; giám sát việc giải quyết nên nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo được các cơ quan
giải quyết triệt để, khắc phục, phục hồi quyền và lợi ích của nhân dân, được dư luận
đồng tình, ủng hộ. Đồng thời, thông qua ĐBQH, Quốc hội cũng đã tuyên truyền, giải
thích, thuyết phục để người dân hiểu rõ hơn và chấp hành theo đúng các quy định của
pháp luật về khiếu nại, về tố cáo, qua đó từng bước hạn chế tình hình khiếu nại bức xúc
kéo dài, khiếu nại vượt cấp. Kết quả cụ thể: Trong giai đoạn từ năm 2016 đến nay, việc
106
xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân được thực hiện theo Nghị quyết
1156/2016/UBTVQH13, năm 2016 các Đoàn ĐBQH đã tiếp nhận được 12.366 đơn,
thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; đã chuyển 4.557 đơn đến cơ quan có thẩm
quyền đề nghị xem xét, giải quyết và nhận được 2.762 văn bản trả lời. Cùng với việc
chuyển đơn đến cơ quan có thẩm quyền; các Đoàn ĐBQH, ĐBQH đã nghiên cứu hướng
dẫn, giải thích và trả lời cho công dân đối với 1.445 đơn, thư khiếu nại, tố cáo [82]. Năm
2017 các Đoàn ĐBQH đã tiếp nhận 13.970 đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh (số đơn đủ điều kiện xử lý là 8.022 đơn); đã chuyển 5.944 đơn đến cơ quan có
thẩm quyền giải quyếtvà nhận được 3.170 văn bản trả lời. Ngoài ra, các Đoàn ĐBQH đã
nghiên cứu, hướng dẫn và trả lời công dân đối với nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo khác.
[83]. Năm 2018 các Đoàn ĐBQH đã tiếp nhận tổng số 15.795 đơn thư (có 8.691 đơn
thư đủ điều kiện xử lý); đã chuyển 6.133 đơn đến cơ quan có thẩm quyền đề nghị xem
xét, giải quyết và nhận được 3.647 văn bản trả lời; các Đoàn ĐBQH đã nghiên cứu
hướng dẫn, giải thích và trả lời công dân đối với 1.584 đơn khiếu nại, tố cáo khác [84].
Theo báo cáo tại phiên họp thứ 38 Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV
(14/10/2019), các cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc UBTVQH, các Đoàn ĐBQH
và ĐBQH đã tiếp nhận 39.793 đơn thư khiếu nại, tố cáo, giảm 3.531 đơn so với cùng
kỳ. Trong đó UBTVQH tiếp nhận 17.340 đơn (chiếm 43,57%); Hội đồng Dân tộc, các
Ủy ban tiếp nhận 8.690 đơn (chiếm 22%); Đoàn ĐBQH và các ĐBQH tiếp nhận
13.763 đơn (chiếm 34,58%). Trong tổng số 39.793 đơn gửi Quốc hội có 25.434 đơn
nặc danh, trùng nội dung, đơn không đủ điều kiện được xếp lưu theo dõi (chiếm
63,91%); 14.359 đơn đủ điều kiện (chiếm 36,08%). Sau khi nghiên cứu, Quốc hội đã
chuyển 6.008/14.359 đơn đến các cơ quan có thẩm quyền giải quyết (chiếm 41,84%);
ban hành 2.182 văn bản hướng dẫn, trả lời công dân (chiếm 15,19%), còn lại 6.169
đơn tiếp tục nghiên cứu, lưu theo dõi (chiếm 42,69%). Đến nay đã nhận được 3.412
văn bản trả lời (đạt tỷ lệ 56,79% tổng số đơn chuyển), còn 2.596 văn bản chưa nhận
được trả lời (chiếm 43,21%). Trong kỳ họp, Quốc hội đã chuyển đến một số cơ quan ở
Trung ương 787 đơn, chiếm 13,09% tổng số đơn chuyển. Các cơ quan đã xem xét giải
quyết, đồng thời tham mưu cho cấp có thẩm quyền giải quyết theo quy định; đã giải
quyết và thông tin về việc giải quyết đối với 500 đơn (đạt 63,53%); đối với một số vụ
107
việc phức tạp, theo kiến nghị của cơ quan giám sát, một số đơn vị đã tổ chức đoàn liên
ngành thẩm tra, xác minh việc giải quyết theo quy định của pháp luật. [103]
Thông qua hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân,
những vi phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo của một số cơ quan, tổ chức, cá nhân đã
được phát hiện và chấn chỉnh kịp thời. Nhiều vụ việc đã được ĐBQH nêu ra những khó
khăn, vướng mắc, bật cập trong việc giải quyết của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền,
trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức này và kiến nghị giải pháp khắc phục. Nhiều kiến
nghị đã được các cơ quan, người có thẩm quyền tiếp thu và kịp thời có biện pháp khắc
phục các sai phạm.
Qua kết quả giám sát của Uỷ ban, các ĐBQH đã có các chất vấn với người
đứng đầu các bộ, nghành và Quốc hội đã có các nghị quyết về các nội dung có liên
quan, từ đó đã bước đầu tạo ra các chuyển biến rõ nét hơn trong công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp. Đồng thời, hoạt động giám sát của Ủy ban
cũng đã góp phần quan trọng vào việc đánh giá tính hiệu quả của các văn bản pháp
luật có liên quan, qua đó phục vụ tích cực cho việc sửa đổi, bổ sung các văn bản bản
pháp luật về tổ chức các cơ quan tư pháp, về tố tụng, về khiếu nại, tố cáo.
Nhìn chung, công tác xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân đã được Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH, ĐBQH quan tâm, chủ động nghiên cứu, xử lý
theo quy định của pháp luật, qua đó vừa kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân để phục vụ công tác xây dựng pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước và hoạt động giám sát; vừa đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng và thể hiện sự gắn kết
giữa Quốc hội, ĐBQH với nhân dân.
Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, trên thực tế, HĐGS việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của cử tri còn những hạn chế nhất định, cụ thể là:
Thứ nhất, đa số ĐBQH mới chỉ chuyển đơn và gửi công văn đôn đốc việc xử lý,
còn việc theo đến cùng một vụ việc ít được thực hiện. Các ĐBQH còn chưa dành thời
gian tương xứng cho hoạt động tiếp công dân, nhất là các ĐBQH công tác ở các cơ
quan trung ương, việc tiếp công dân mới chủ yếu do ĐBQH chuyên trách ở địa
108
phương đảm nhiệm. Việc tiếp công dân của ĐBQH còn hình thức, chủ yếu ghi nhận ý
kiến, nhận đơn và ký phiếu chuyển đơn; nhiều nơi chưa gắn việc xử lý đơn thư khiếu
nại, tố cáo với hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Nói
cách khác, một số không nhỏ ĐBQH thực sự chỉ là “bưu tá của bưu điện” bởi họ chỉ
nhận đơn và chuyển tới các cơ quan có thẩm quyền và “buông xuôi”. Một số trường
hợp công dân có ý kiến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trên nhiều lĩnh vực,
trong khi cán bộ tiếp công dân chỉ am hiểu một số lĩnh vực nên lúng túng khi trả lời,
giải thích hướng dẫn cho công dân, dẫn đến công dân khiếu nại, tố cáo kéo dài, gửi
đơn đến cơ quan không có thẩm quyền, gửi nhiều nơi không cần thiết... Trong nhiệm
kỳ Quốc hội khóa XIII (2011-2015), Ban dân nguyện của UBTVQH đã tiếp 50.339
lượt công dân, nhận 91.386 đơn, thư của công dân nhưng chỉ chuyển được 1.546 vụ
việc, trong đó 576 vụ việc được trả lời. Khoảng cách khá xa giữa những con số nêu
trên cho thấy sự kỳ vọng của người dân vào ĐBQH và các cơ quan của Quốc hội là
khá lớn nhưng khả năng đáp ứng còn hạn chế [26].
Thứ hai, cách thức triển khai thực hiện HĐGS việc giải quyết khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị của công dân còn bất cập. Thực tế cho thấy, chưa có sự phân biệt rạch ròi
giữa HĐGS việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân theo Luật HĐGS
của Quốc hội và HĐND và việc “theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền” theo quy định của Nghị quyết 228/1999/NQ-
UBTVQH10 về việc ĐBQH tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân. Hai hoạt động này tuy
được quy định tách biệt ở các văn bản khác nhau và được hiểu thành những hoạt động
khác nhau nhưng trên thực tế thực hiện hoàn toàn tương tự nhau và đều được đánh giá
là chưa bài bản, thường xuyên và đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. HĐGS việc giải
quyết các vụ việc cụ thể thực hiện chưa được nhiều, vẫn còn mang tính hình thức, chủ
yếu vẫn là qua hình thức nghe báo cáo mà chưa đi sâu tìm hiểu vụ việc đó xem cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đã giải quyết đúng hay chưa đúng pháp luật; rất ít vụ
việc được xem xét, đánh giá, kiến nghị, đeo bám đến cùng để làm rõ trách nhiệm của
cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo để trên cơ sở đó kiến nghị xác đáng
nhằm bảo vệ cho được quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân.
109
Thứ ba, các quy định pháp luật về hoạt động giám sát khiếu nại tố cáo, kiến
nghị của công dân đề này cũng chưa phân định rõ ràng thẩm quyền của ĐBQH trong
giám sát đối với từng loại việc; ví dụ, chia nhóm đối tượng có khiếu nại, tố cáo; đối
tượng nào thuộc thẩm quyền giám sát của UBTVQH, HĐDT, các Ủy ban, các Đoàn
ĐBQH và đối tượng nào thuộc thẩm quyền giám sát của ĐBQH. Có như vậy mới ràng
buộc được trách nhiệm của các chủ thể có thẩm quyền giám sát việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo; chưa quy định cơ chế bắt buộc chủ thể có thẩm quyền giám sát phải theo
đến cùng các vụ việc khiếu nại, tố cáo của công dân, giải thích, hướng dẫn để người
dân hiểu rõ hơn về các quy định của pháp luật liên quan đến vụ việc của họ.
Thứ tư, một số kiến nghị sau giám sát chưa được các cơ quan hữu quan nghiêm
túc thực hiện, trong khi đó các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH và ĐBQH cũng lại
chưa thật tích cực đôn đốc, kiến nghị xử lý trách nhiệm đối với người có trách nhiệm
nên hiệu quả giám sát chưa cao; chưa tạo được chuyển biến mạnh mẽ trong việc nâng
cao trách nhiệm và chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Chính vì vậy,
có tới 40,0% ĐBQH, 41,1% đối tượng bị giám sát và 63% chuyên gia được phỏng vấn
đánh giá hoạt động “Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo” là “chưa đạt yêu cầu”.
Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân là một trong
những hoạt động cơ bản ĐBQH. Vì vậy, ĐBQH cần phải xác định rõ việc giám sát
công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân theo chức trách, thẩm
quyền của các cơ quan dân cử là một trong những nhiệm quan trọng phải thực hiện
thường xuyên và ngày càng thực hiện tốt hơn để làm tròn vai trò là người đại diện của
cử tri. ĐBQH phải nâng cao trách nhiệm của mình trong thực hiện hoạt động này, cần
phải có sự lựa chọn những vụ việc phù hợp với thẩm quyền và trong khả năng của
mình để chủ động, tích cực đeo bám, giúp cử tri thực hiện được mong muốn, nguyện
vọng của mình, đồng thời, thúc đẩy việc thi hành pháp luật một cách nghiêm minh của
các cơ quan công quyền ở cả trung ương và địa phương.
Những hạn chế trên xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân là rất lớn
trong khi ĐBQH còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn, thiếu cơ chế hỗ trợ về mặt chuyên
110
môn trong việc nghiên cứu cũng như giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố. Cơ sở vật
chất đảm bảo cho HĐGS chưa thực sự đầy đủ về phương tiện đi lại, điều kiện làm việc
và thông tin. Bên cạnh đó, năng lực, trình độ của cán bộ giúp việc tại các cơ quan của
Quốc hội, Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn của công tác tiếp công dân và việc nghiên cứu, tham mưu xử lý đơn khiếu
nại, tố cáo kiến nghị của công dân. Điều này ảnh hưởng đến cách thức triển khai thực
hiện HĐGS, đến tính tích cực, chủ động của ĐBQH trong việc giám sát khiếu nại, tố
cáo, nhất là việc đeo bám đến cùng việc giải quyết một vụ việc của công dân.
Hai là, chưa có văn bản pháp luật quy định ràng buộc về trách nhiệm hay chế
tài xử lý cụ thể đối với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của
công dân khi không thực hiện hoặc thực hiện chậm, thực hiện không đầy đủ các kết
luận, kiến nghị giám sát về tố cáo của cơ quan tiến hành giám sát nên hiệu quả của
HĐGS này chưa cao. Vì vậy, cần có cần quy định cụ thể về trách nhiệm, thời hạn của
các cơ quan hữu quan trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân do ĐBQH
chuyển đến. Trong trường hợp cơ quan hữu quan thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc cố
tình không giải quyết theo đúng quy định của pháp luật thì có cơ chế để ĐBQH yêu
cầu cấp có thẩm quyền xử lý.
Ba là, vẫn chưa có cơ chế cho việc xây dựng chương trình giám sát đối với cá
nhân ĐBQH mà chủ yếu vẫn phụ thuộc vào Đoàn đại biểu Quốc hội. Các Đoàn đại
biểu Quốc hội chủ yếu do đại biểu chuyên trách tại địa phương đảm nhiệm nên điều
kiện đi sâu nghiên cứu, giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo kiến nghị của công dân
còn hạn chế. Ngoài ra, một số ĐBQH lại là người đứng đầu cơ quan ở địa phương, là
cơ quan bị giám sát nên đôi khi cũng ảnh hưởng đến tính độc lập, khách quan trong
việc xác định các nội dung giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội.
3.3. Những vấn đề đặt ra trong hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội
hiện nay
3.3.1. Thẩm quyền, quy trình, thủ tục giám sát của đại biểu Quốc hội có mặt
chưa thực sự phù hợp với đặc điểm của Quốc hội Việt Nam
111
Thời gian qua, cùng với tiến trình hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ
chức và hoạt động của Quốc hội, các quy định pháp luật về HĐGS của ĐBQH được
sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Dấu mốc quan trọng nhất trong quá trình xây dựng nền
tảng pháp lý cho HĐGS của ĐBQH là việc Quốc hội ban hành Luật hoạt động giám
sát của Quốc hội năm 2003, theo đó, các thẩm quyền của ĐBQH trong lĩnh vực giám
sát, các hình thức giám sát, quy trình, thủ tục tiến hành giám sát... lần đầu tiên được hệ
thống hóa và quy định cụ thể, chi tiết. Những quy định này một lần nữa được nhắc lại
và làm rõ hơn trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân
được Quốc hội ban hành năm 2015. Về cơ bản, pháp luật hiện hành đã quy định khá
đầy đủ về HĐGS của ĐBQH, tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện có hiệu quả
các nhiệm vụ, quyền hạn của ĐBQH. Tuy vậy, các quy định của pháp luật liên quan
đến HĐGS của ĐBQH còn có những hạn chế, bất cập nhất định, nhất là các quy định
về thẩm quyền giám sát cũng như về quy trình, thủ tục giám sát.
Thứ nhất, về pháp lý trong thẩm quyền giám sát, Hiến pháp năm 2013, Luật tổ
chức Quốc hội năm 2014 và Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân
dân năm 2015 quy định ĐBQH có các thẩm quyền liên quan đến các HĐGS như:
Về đối tượng chất vấn, ĐBQH có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch
Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ,
Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao, Tổng Kiểm toán nhà
nước. ĐBQH chất vấn trực tiếp tại kỳ họp Quốc hội, phiên họp UBTVQH hoặc gửi
chất vấn bằng văn bản đến người bị chất vấn.
ĐBQH có quyền giám sát VBQPPL do tất cả các chủ thể có thẩm quyền ban
hành. Trong trường hợp phát hiện sai phạm, đại biểu có quyền kiến nghị cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một phần hoặc
toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật.
ĐBQH có quyền yêu cầu đối tượng giám sát báo cáo bằng văn bản, cung cấp
thông tin, tài liệu có liên quan đến nội dung giám sát; giải trình vấn đề mà ĐBQH
quan tâm; xem xét, giải quyết vấn đề có liên quan đến việc thi hành pháp luật hoặc
liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội của địa phương.
112
Đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, khi nhận
được khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, ĐBQH nghiên cứu, kịp thời chuyển
đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết; đôn đốc, theo dõi và giám sát
việc giải quyết.
Từ các kết quả giám sát theo nội dung trên, ĐBQH có quyền đề nghị Uỷ ban
thường vụ Quốc hội trình Quốc hội quyết định thành lập Uỷ ban lâm thời để điều tra
về một vấn đề nhất định; có quyền kiến nghị UBTVQH xem xét trình Quốc hội bỏ
phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; kiến
nghị Quốc hội làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp; trình dự án luật, pháp lệnh và kiến
nghị về luật, pháp lệnh.
Các quy định pháp luật về thẩm quyền giám sát đã tạo điều kiện để ĐBQH có
thể chủ động thực hiện quyền giám sát của mình. Tuy nhiên, quy định về thẩm
quyền giám sát của ĐBQH còn một số hạn chế sau:
Một là, thẩm quyền giám sát của ĐBQH được quy định quá rộng, chưa thực sự
phù hợp với đặc điểm của Quốc hội Việt Nam, một Quốc hội có số đại biểu kiêm
nhiệm chiếm 70% tổng số ĐBQH. Bên cạnh đó, lượng thời gian mà các đại biểu kiêm
nhiệm phải dành cho hoạt động ĐBQH là 30% chỉ đủ để đại biểu tham dự 2 kỳ họp, 4
kỳ tiếp xúc cử tri mỗi năm. Một số ĐBQH là thành viên HĐDT, các Ủy ban của Quốc
hội còn phải tham dự các phiên họp Hội đồng, Ủy ban, các hội nghị, hội thảo và một
số hoạt động khác do UBTVQH tổ chức, do đó, thời gian mà các đại biểu dành cho
các HĐGS với tư cách một chủ thể giám sát độc lập là rất hạn chế.
Hai là, việc phân loại các HĐGS của ĐBQH chưa thực sự hợp lý dẫn tới việc
ĐBQH khó có thể thực hiện hết thẩm quyền, hết trách nhiệm của mình. Thực tế cho
thấy, một số HĐGS như giám sát VBQPPL, giám sát việc thi hành pháp luật ở địa
phương khó có thể đứng riêng thành một loại hình giám sát của ĐBQH. HĐGS việc
thi hành pháp luật ở địa phương và HĐGS VBQPPL là tiền đề của hoạt động chất vấn
hoặc HĐGS VBQPPL có thể được quy định là một công đoạn trong HĐGS việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân... HĐGS việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị của cử tri về tính chất có thể được coi như HĐGS, tuy nhiên nếu phân
113
loại thành một HĐGS độc lập thì chưa thật sự phù hợp. Cách phân loại như hiện nay
dẫn tới việc ĐBQH khó có thể thực hiện hết thẩm quyền, hết trách nhiệm của mình.
HĐGS việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của cử tri HĐGS này nên đặt trong
phạm vi các hoạt động của đại biểu nhằm giữ mối liên hệ với cử tri, thực hiện chức
năng đại diện.
Thứ hai, về quy trình, thủ tục giám sát, các văn bản pháp luật hiện nay như
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015, Nội quy kỳ
họp Quốc hội, Luật tổ chức Quốc hội và một số văn bản khác, về cơ bản đã quy định
đầy đủ quy trình thực hiện các HĐGS của ĐBQH, cụ thể hóa các bước tiến hành các
HĐGS của ĐBQH, bao gồm quy trình chất vấn, quy trình giám sát văn bản quy phạm
pháp luật, quy trình giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương, quy trình giám sát
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân; với trình tự các bước: từ việc
khởi đầu một HĐGS (đặt câu hỏi đối với hoạt động chất vấn; đưa nội dung giám sát
vào chương trình giám sát đối với HĐGS việc thi hành pháp luật; nhận đơn, thư đối
với HĐGS việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cử tri...) đến các bước tiến hành và kết
thúc HĐGS (đưa kiến nghị tới cơ quan, cá nhân có thẩm quyền...).
Đối với hoạt động chất vấn của ĐBQH, pháp luật quy định cụ thể, chi tiết quy
trình thực hiện, đặc biệt là việc tổ chức chất vấn tại các phiên họp UBTVQH và chất
vấn bằng văn bản. Các quy định về các mốc thời gian, hạn định được cụ thể hóa đầy
đủ tạo thuận lợi cho ĐBQH nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động chất vấn. Về
HĐGS của ĐBQH đối với việc thi hành pháp luật ở địa phương, cũng được pháp luật
quy định quy trình tiến hành các hoạt động cụ thể.
Nhờ có sự cụ thể hóa các thẩm quyền giám sát của ĐBQH thành các bước thực
hiện trong những trường hợp cụ thể và cách thức sử dụng thẩm quyền đó, ĐBQH có
thể thực hiện được thẩm quyền của mình một cách thực chất và hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, những bảo đảm về pháp lý cho HĐGS của ĐBQH hiện nay vẫn còn
có những bất cập, hạn chế, cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện. Quy định về quy trình,
thủ tục giám sát của ĐBQH cần xác định đầy đủ, cụ thể hơn. Các quy định pháp luật
về HĐGS của ĐBQH cần tăng thêm giá trị hiệu lực pháp lý, thể hiện nhất quán, thống
114
nhất về nhiều vấn đề, phù hợp với các quy định của Hiến pháp. Giải quyết tốt các vấn
đề nêu trên là một yêu cầu cấp thiết, nhằm bảo đảm thực hiện có hiệu quả HĐGS của
Quốc hội và ĐBQH trong thời gian tới.
3.3.2. Bất cập giữa năng lực giám sát của đại biểu Quốc hội với yêu cầu,
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội
3.3.2.1. Về trình độ của đại biểu Quốc hội
Để thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình, ĐBQH cần có trình độ văn hóa,
chuyên môn, có đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín, trong đó trình
độ là yếu tố quan trọng hàng đầu. Đánh giá trình độ của ĐBQH không thể chỉ dựa trên
“trình độ học vấn”, cho dù đây là tiêu chí duy nhất có thể định lượng được. Thực tế
cho thấy, có những ĐBQH không có học hàm, học vị nào nhưng rất tích cực trong
hoạt động. Trong các phiên họp Quốc hội thường xuyên phát biểu, tranh biện, dám
đối thoại trực tiếp với những người đứng đầu các cơ quan nhà nước. Những vấn đề
mà các đại biểu này đưa ra phản ảnh đúng tình hình thực tế và nguyện vọng chính
đáng của cử tri với Quốc hội. Ngược lại, có ĐBQH học hàm, học vị cao nhưng phát
biểu đôi khi còn mang tính kinh viện, chưa đi sâu vào những vấn đề “bức xúc” mà cử
tri quan tâm, hiệu quả hoạt động chưa cao.
Yêu cầu về trình độ của ĐBQH là họ phải có những hiểu biết cơ bản về thể chế
nhà nước, về những nguyên tắc của pháp luật nói chung và về quy trình, thủ tục hoạt
động của Quốc hội. ĐBQH không nhất thiết phải là chuyên gia về pháp lý nhưng họ
phải nắm được những nguyên tắc chung về tổ chức bộ máy nhà nước và hệ thống
pháp luật, đặc biệt, nắm rõ và sử dụng linh hoạt, hiệu quả quy trình, thủ tục hoạt động
của Quốc hội trong phát biểu, tranh luận, kiến nghị, v.v..
Thực tế cho thấy, trình độ của các ĐBQH hiện nay nhìn chung bảo đảm được
yêu cầu theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, có sự kế thừa giữa các khóa, bảo
đảm sự hợp lý hơn về tỷ lệ, thành phần. Tuy vậy, còn rất nhiều ĐBQH mắc phải
những lỗi khá sơ đẳng trên các diễn đàn Quốc hội. Qua theo dõi các kỳ họp của Quốc
hội cho thấy, có những ĐBQH chất vấn về trách nhiệm của Bộ trưởng trong việc thu
115
gom, xử lý rác thải ở nông thôn mà không quan tâm lĩnh vực công việc đó thuộc trách
nhiệm của chính quyền Trung ương hay đã được phân cấp cho chính quyền địa
phương. Hoặc những ĐBQH xin thêm 1, 2 phút để phát biểu nốt những vấn đề còn
dang dở khi đã hết thời gian phát biểu… Với các ĐBQH trẻ, ĐBQH là người dân tộc
thiểu số là những đại biểu thường “bị ấn tượng” là “đại biểu cơ cấu”, và trong thực tế
thì tỷ lệ, tần suất tham gia ý kiến đề xuất của những người này cũng chưa cao.
Hạn chế về trình độ của một số đại biểu còn thể hiện qua việc lựa chọn nội
dung giám sát, phương pháp giám sát, lựa chọn kiến nghị và cơ quan để gửi kiến nghị
giám sát, lựa chọn những cách thức hữu hiệu nhất trong số các phương tiện truyền
thông khác nhau để công bố, công khai HĐGS của mình... Việc lựa chọn chất vấn ai,
chất vấn về vấn đề gì, chất vấn như thế nào... là kỹ năng nhưng cũng thể hiện trình độ
của mỗi ĐBQH.
3.3.2.2. Về kỹ năng giám sát của đại biểu Quốc hội
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả HĐGS của ĐBQH, bên cạnh bồi dưỡng,
nâng cao trình độ, nhất thiết phải bồi dưỡng kỹ năng giám sát cho đại biểu. Hoạt động
của đại biểu nói chung và HĐGS nói riêng sẽ hiệu quả và thành công hơn nếu họ được
những kỹ năng nghề nghiệp cần thiết. Những kỹ năng nghề nghiệp của ĐBQH không
phải là những cái tự nhiên, bẩm sinh, mà do sự bồi dưỡng, rèn luyện, tích lũy trong
quá trình thực thi nhiệm vụ và trong cuộc sống. Trước và trong khi làm nghề đại biểu,
các ứng cử viên cần được đào tạo, bồi dưỡng bài bản và thành thạo các kỹ năng nghề
nghiệp của mình.
Thời gian qua, Quốc hội rất quan tâm đến hoạt động bồi dưỡng kỹ năng cho
ĐBQH. Văn phòng Quốc hội đã thành lập Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cử có
chức năng nghiên cứu, tham mưu, tổ chức phục vụ công tác trao đổi kinh nghiệm, bồi
dưỡng kiến thức, kỹ năng cho đại biểu dân cử. Trung tâm đã xây dựng các chủ đề bồi
dưỡng trên cơ sở nhu cầu bồi dưỡng của ĐBQH và phát triển các chương trình bồi
dưỡng kiến thức cũng như kỹ năng theo đối tượng ĐBQH, gồm: Chương trình giới
thiệu đối với người trúng cử ĐBQH trước khi dự phiên họp thứ nhất của Quốc hội;
các chương trình chuyên đề cơ bản về kỹ năng lập pháp, kỹ năng giám sát, kỹ năng
116
tiếp xúc cử tri; tiếp theo đó là các chương trình về kỹ năng tiếp xúc với báo chí, kỹ
năng chuẩn bị và phát biểu, kỹ năng chất vấn, kỹ năng dân nguyện, kỹ năng phân tích
chính sách, điều trần, tham vấn chính sách và các dự án luật,… Văn phòng Quốc hội
cũng tổ chức các khóa học về kỹ năng lập pháp, quy trình lập pháp, kỹ năng soạn thảo
VBQPPL.
Ban công tác đại biểu đã tổ chức nhiều hội nghị bồi dưỡng cho các đại biểu dân
cử và cán bộ phục vụ, trong đó có các hội nghị dành cho ĐBQH. Chỉ riêng năm 2019,
Ban Công tác đại biểu đã chỉ đạo Trung tâm Bồi dưỡng đại biểu dân cử, Ban Công tác
đại biểu đã chỉ đạo Trung tâm Bồi dưỡng đại biểu dân cử tổ chức các hội nghị “Công
tác báo cáo viên, cộng tác viên trong hoạt động bồi dưỡng đại biểu dân cử”; hội nghị
bồi dưỡng “Kỹ năng xây dựng chính sách và giám sát trong lĩnh vực giáo dục”; hội
nghị “Phân tích chính sách và giám sát thực hiện chính sách, pháp luật đối với người
lao động”... Các hội nghị này có sự tham dự của gần 500 đại biểu, bao gồm các đại
biểu Quốc hội, đại biểu HĐND và cán bộ Văn phòng Đoàn ĐBQH, Văn phòng
HĐND các tỉnh, thành phố trong cả nước [103]. Những hoạt động trên giúp các
ĐBQH có điều kiện để bồi dưỡng, rèn luyện, thực hành các kỹ năng, nghiệp vụ, qua
đó, nâng cao dần chất lượng, hiệu quả HĐGS.
Tuy nhiên, trên thực tế, tình trạng ĐBQH còn thiếu kỹ năng giám sát còn khá
phổ biến. Tình trạng “thiếu vắng” các kỹ năng, kinh nghiệm hoạt động ĐBQH là một
trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của đại
biểu. Với số lượng khoảng 70% ĐBQH hoạt động kiêm nhiệm tức là có khoảng 70%
thời gian vật chất dành cho một ngành nghề, công việc khác thì việc những ĐBQH
này thành thạo các kỹ năng nghề nghiệp chính của mình và ít thành thạo kỹ năng hoạt
động đại biểu dân cử là tình trạng khá phổ biến. Nhiều ĐBQH chưa thực sự nắm rõ để
thực hiện một HĐGS thì phải bắt đầu từ đâu; còn lúng túng trong tiếp xúc với báo
giới, trong việc thể hiện chính kiến của mình tại diễn đàn Quốc hội, cũng như các diễn
đàn khác như mạng xã hội, để lại những dư âm trái chiều về trình độ cũng như kỹ
năng nghề nghiệp của ĐBQH.
117
Thực tế cho thấy, các ĐBQH mới tham gia nghị trường cũng phải dành khá
nhiều thời gian để làm quen, tìm hiểu và rèn luyện kỹ năng, khoảng thời gian này
cũng không hề ngắn, đến khi thành thạo cũng là lúc nhiệm kỳ sắp sửa kết thúc. Bản
thân các vị ĐBQH cũng cho rằng, họ “ngày càng trưởng thành, tiến bộ qua từng kỳ
họp, không ngừng tự bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, kỹ năng hoạt động. Từ đó, Quốc
hội trở thành “trường học” lớn nhất, giúp ĐBQH nâng cao nhận thức về lý luận cũng
như về thực tiễn”[2]. Trong khi đó, số ĐBQH tái cử thường rất thấp (số ĐBQH khóa
XII tái cử khóa XIII là 167 người, chiểm tỷ lệ 33,4%; số ĐBQH khóa XIII tái cử khóa
XIV chỉ có 160 người, chiếm tỷ lệ 32,30%), do đó, sự tích lũy về kinh nghiệm, kỹ
năng hoạt động nghị trường của ĐBQH qua một nhiệm kỳ hoạt động cũng dần bị mai
một, không được sử dụng cho các nhiệm kỳ tiếp theo.
Về bồi dưỡng kỹ năng của ĐBQH, mặc dù được cung cấp dịch vụ bồi dưỡng
miễn phí và các khóa học được thiết kế cơ bản dựa trên nhu cầu chung của đại biểu,
nhưng sự tham gia của đại biểu vào các khóa học còn hạn chế. Nhiều đại biểu có nhu
cầu bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng hoạt động của đại biểu Quốc hội, đặc biệt là đại
biểu mới tham gia Quốc hội lần đầu, nhưng do hoạt động kiêm nhiệm, nên một số đại
biểu đã đăng ký nhu cầu tham dự các chương trình bồi dưỡng nhưng sau đó lại không
bố trí được thời gian để tham dự được do bận công việc chuyên môn.
Bên cạnh đó, các chương trình bồi dưỡng mà các đại biểu tham dự thường
được thiết kế chung cho tất cả các đại biểu, chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của
các nhóm đại biểu khác nhau. Công tác bồi dưỡng đại biểu chưa thực sự chú trọng đến
việc điều tra nhu cầu để thiết kế các chương trình riêng cho các nhóm đại biểu khác
nhau như đại biểu dân tộc ít người; đại biểu chuyên trách; đại biểu kiêm nhiệm ở địa
phương, không giữ các chức vụ lãnh đạo; đại biểu giữ các chức vụ lãnh đạo cao cấp ở
trung ương và địa phương; đại biểu trẻ, v.v..
3.3.2.3. Về uy tín của đại biểu Quốc hội
Uy tín của các ĐBQH là rất quan trọng, góp phần làm nên uy tín của Quốc hội,
Có thể thấy, trình độ, kỹ năng và uy tín của ĐBQH có mối quan hệ chặt chẽ, biện
chứng với nhau. Đại biểu có trình độ, phương pháp, kỹ năng tốt sẽ sớm có được uy tín
118
trong Quốc hội cũng như trong nhân dân, qua đó, làm tăng thêm hiệu lực, hiệu quả
của HĐGS.
Ở nước ta hiện nay, phần nhiều đại biểu có uy tín và tạo dựng được niềm tin
trong nhân dân, ghi dấu ấn không nhỏ trong lòng cử tri. Có những đại biểu khi phát
biểu ý kiến tại phiên họp thảo luận về kinh tế - xã hội hay các phiên chất vấn… nhận
được sự quan tâm rất lớn của đông đảo phóng viên báo chí, tạo hiệu ứng và ảnh hưởng
lớn trong xã hội. Dĩ nhiên, để có thể có được danh tiếng, uy tín đó, các vị ĐBQH phải
có năng lực, trình độ, bản lĩnh và tâm huyết, có những phát biểu sắc sảo, đúng trọng
tâm những vấn đề xã hội quan tâm, cách thể hiện chính kiến rõ ràng, phản biện có văn
hóa, lịch sự, khiến người nghe thấy rõ tính chất xây dựng, ý thức trách nhiệm cao
trước đất nước, trước nhân dân.
Tuy nhiên, số ĐBQH thực sự có uy tín, nổi bật cũng không có nhiều. Bên cạnh
những ĐBQH tự hủy hoại hình ảnh, uy tín của mình với những hành vi vi phạm pháp
luật, còn nhiều đại biểu chưa thực sự quan tâm, chú trọng đến việc bồi đắp uy tín của
mình trước nhân dân. Qua thăm dò ý kiến cử tri cho thấy, rất nhiều người dân không
biết đến tên cũng như các công việc, hoạt động của ĐBQH, do đó, việc đưa ra các ý
kiến, kiến nghị của người dân đến Quốc hội và ĐBQH còn hạn chế. Nếu xem xét số
lượng ý kiến, kiến nghị của cử tri gửi đến Quốc hội, đến Mặt trận Tổ quốc các cấp và
số lượng khiếu nại, tố cáo của nhân dân gửi đến Chính phủ có thể thấy sự khác biệt
khá lớn. Tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XIV (tháng 10/2016), Đoàn Chủ tịch Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với UBTVQH đã tổng hợp
được 2.986 ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân cả nước gửi tới Quốc hội, trong đó
có 1.174 ý kiến, kiến nghị của cử tri được phản ánh qua Đoàn ĐBQH của các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương và 1.812 ý kiến, kiến nghị của nhân dân qua hệ
thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp [86]. Trong khi đó, theo Báo cáo của Chính
phủ, năm 2016, cả nước phát sinh 63.492 đơn khiếu nại và 17.233 đơn tố cáo gửi đến
các cơ quan hành chính [9].
119
Những số liệu trên có thể cho thấy, uy tín của nhiều ĐBQH trong nhân dân
nhìn chung chưa cao, do đó, sự tin tưởng, gửi gắm của người dân, sự ủy quyền của
người dân cho ĐBQH còn hạn chế.
3.3.3. Bất cập trong các quy định liên quan đến đội ngũ chuyên gia và bộ
máy giúp việc, điều kiện cơ sở vật chất phục vụ hoạt động giám sát của đại biểu
Quốc hội
3.3.3.1. Về đội ngũ chuyên gia và bộ máy giúp việc của đại biểu Quốc hội
Liên quan đến đội ngũ chuyên gia và bộ máy giúp việc, có các quy định về
việc ĐBQH có thể thuê thư ký giúp việc và hiện nay, ĐBQH đang được cung cấp tài
chính để thuê chuyên gia giúp việc cho các hoạt động của mình, trong đó có HĐGS.
Tuy nhiên, các quy định này chưa được cụ thể hóa và tổ chức thực hiện.
Bộ máy giúp việc của Quốc hội và các đoàn ĐBQH hiện nay chủ yếu để giúp
việc hoạt động của các cơ cấu tập thể trong Quốc hội, bao gồm: Văn phòng Quốc hội,
Ban thư ký giúp việc cho Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; Văn phòng Đoàn
ĐBQH giúp việc cho Đoàn ĐBQH, còn thiếu bộ máy giúp việc cho các hoạt động của
cá nhân ĐBQH, nhất là HĐGS.
Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 đã bổ sung trách nhiệm của Tổng thư ký
Quốc hội và Văn phòng Quốc hội (tại Điều 98 và Điều 99 của Luật) trong việc tham
mưu tổng hợp, phục vụ hoạt động của ĐBQH. Tuy vậy, cho đến nay, quy định này
triển khai thực hiện chưa thật sự hiệu quả, cơ chế tổ chức bộ máy giúp việc cho cá
nhân ĐBQH, kể cả ĐBQH chuyên trách và kiêm nhiệm vẫn chưa được xác định rõ
ràng, cụ thể. Đây cũng là nguyên nhân làm cho chất lượng, hiệu quả hoạt động nói
chung và HĐGS của ĐBQH chưa cao.
3.3.3.2. Về nguồn thông tin
Theo quy định, ĐBQH được cung cấp thông tin; có quyền yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nhiệm vụ của cơ quan, tổ
chức, cá nhân đó. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có trách nhiệm trả
lời những vấn đề mà ĐBQH yêu cầu. Cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát phải
thực hiện đầy đủ kế hoạch, nội dung, yêu cầu giám sát của chủ thể giám sát; cung cấp
120
thông tin liên quan đến nhiệm vụ của mình, trừ thông tin thuộc danh mục bí mật nhà
nước; báo cáo trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp thời theo yêu cầu của cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền giám sát. Ngoài ra, ĐBQH được cấp Công báo, báo Nhân dân,
báo địa phương, Báo Đại biểu nhân dân, báo Kiểm toán, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
phí khai thác internet, v.v..
Hiện nay, Văn phòng Quốc hội và Viện nghiên cứu lập pháp đã và đang tổ
chức các dịch vụ cung cấp thông tin theo yêu cầu của ĐBQH. Ở những mức độ khác
nhau, tại các kỳ họp Quốc hội cũng như giữa hai kỳ họp Quốc hội hai cơ quan này đã
cung cấp cho ĐBQH thông tin nghiên cứu, tham khảo và các thông tin khác theo yêu
cầu cụ thể của từng ĐBQH phục vụ hoạt động của đại biểu nói chung, không chỉ bao
gồm HĐGS mà còn phục vụ hoạt động lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng
của đất nước.
Bên cạnh đó, nội dung thông tin được cung cấp từ các cơ quan tham mưu, giúp
việc của Quốc hội chủ yếu vẫn sử dụng nguồn nghiên cứu của Chính phủ, các cơ
quan, tổ chức khác. Cơ quan thông tin, nghiên cứu của Quốc hội chủ yếu vẫn chỉ giữ
vai trò đầu mối tổ chức cung cấp thông tin mà chưa thực sự nghiên cứu và xuất bản,
cung cấp các tài liệu nghiên cứu bảo đảm tính khách quan, độc lập của Quốc hội, giúp
các ĐBQH có được những thông tin chính xác, kịp thời.
Để phục vụ cho HĐGS, nhất là giám sát việc thi hành pháp luật tại địa phương,
ĐBQH còn được quy định thẩm quyền “tham dự kỳ họp HĐND”. Điều 36 của Luật tổ
chức Quốc hội năm 2015 quy định: ĐBQH có quyền tham dự kỳ họp HĐND các cấp
nơi mình được bầu, có quyền tham gia ý kiến vào các vấn đề quản lý nhà nước, vấn đề
liên quan đến đời sống của nhân dân và các vấn đề khác mà ĐBQH quan tâm. Chủ
tịch HĐND các cấp thông báo cho ĐBQH ứng cử tại địa phương biết thời gian, nội
dung, chương trình kỳ họp HĐND cấp mình, cung cấp tài liệu cần thiết và mời ĐBQH
đến dự.
3.3.3.3. Về điều kiện tài chính
Theo quy định, ĐBQH chuyên trách được hưởng phụ cấp và các chế độ khác;
ĐBQH nói chung được hưởng hoạt động phí hằng tháng, kinh phí để thực hiện chế độ
thuê khoán chuyên gia, thư ký giúp việc và các hoạt động khác để phục vụ cho hoạt
121
động của đại biểu; ĐBQH không hưởng lương từ ngân sách nhà nước được hưởng phụ
cấp hoạt động. Theo quy định tại Điều 42 của Luật tổ chức Quốc hội năm 2015 và
Nghị quyết số 524/2012/UBTVQH13 của UBTVQH ngày 20 tháng 9 năm 2012 về
một số chế độ chi tiêu bảo đảm hoạt động của Quốc hội, HĐGS của ĐBQH đã quy
định về chế độ tài chính cho các HĐGS của ĐBQH bao gồm: công tác phí, bồi dưỡng,
bảo đảm điều kiện đi lại cho HĐGS, khảo sát thực tiễn; HĐGS văn bản quy phạm
pháp luật; HĐGS việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; mời chuyên gia nghiên cứu. Ngoài
ra, ĐBQH hoạt động chuyên trách được bố trí nơi làm việc, trang bị các phương tiện
vật chất, kỹ thuật cần thiết phục vụ cho hoạt động của mình. Mỗi nhiệm kỳ Quốc hội,
ĐBQH được trang cấp một máy vi tính xách tay. Các phương tiện khác phục vụ công
tác của ĐBQH được trang bị, quản lý theo quy định hiện hành của Nhà nước. ĐBQH
được ưu tiên trong việc mua vé tàu hỏa, ô tô, tàu thủy, máy bay; được ưu tiên khi qua
cầu, phà. Đây là những bảo đảm quan trọng để ĐBQH có được sự hỗ trợ cần thiết về
điều kiện vật chất phục vụ công tác giám sát. Thực tế, trong hơn 10 năm thực hiện
Luật HĐGS của Quốc hội, hỗ trợ về tài chính cho HĐGS của Quốc hội, cơ quan của
Quốc hội và ĐBQH đã ngày càng được tăng cường và có chế độ, định mức cao hơn.
Mặc dù pháp luật đã quy định khá đầy đủ các chế độ tài chính của ĐBQH trong
HĐGS, tuy nhiên, trên thực tiễn áp dụng còn có một số hạn chế như: chế độ tài chính
phục vụ HĐGS của ĐBQH chưa cụ thể; chưa có quy định về chế độ chi dành cho
HĐGS của ĐBQH với tư cách chủ thể giám sát độc lập; tiền thù lao cho chuyên gia và
bộ máy giúp việc chưa đáp ứng được yêu cầu.
Những hạn chế nhất định của chế độ tài chính hiện nay đã ảnh hưởng trực tiếp
đến việc đảm bảo cuộc sống và tái tạo sức lao động của đại biểu. Mức lương phù hợp
để ĐBQH và gia đình được giải phóng khỏi những toan tính kinh tế sẽ giúp cho họ tập
trung thời gian, sức lực, trí tuệ cho công tác đại biểu. Có như vậy, ĐBQH mới có thể
làm tốt chức năng là người đại diện của nhân dân, quyết định những vấn đề quan trọng
của đất nước và thực hiện quyền giám sát theo quy định của pháp luật. Chế độ tài
chính cho hoạt động của ĐBQH không những ảnh hưởng đến cuộc sống, tái tạo sức
lao động mà còn là điều kiện đảm bảo cho đại biểu có được vị trí độc lập trong HĐGS
122
của mình. Vì vậy, thời gian tới, cần cải thiện điều kiện về tài chính nhằm nâng cao đời
sống, tái tạo sức lao động và nâng cao chất lượng, hiệu quả HĐGS của ĐBQH.
123
Kết luận chương 3
Từ các số liệu, dẫn chứng thực tế cho thấy, HĐGS của Quốc hội và ĐBQH trong
thời gian qua có nhiều chuyển biến tích cực. Cùng với tiến trình hoàn thiện các quy định
của pháp luật về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các quy định pháp luật về HĐGS
của ĐBQH tiếp tục được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện. Hệ thống các quy định của
pháp luật điều chỉnh các nội dung liên quan đến HĐGS của ĐBQH đã tạo hành lang
pháp lý cho việc thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn của ĐBQH trong
HĐGS. Trong HĐGS có nhiều đổi mới cả về nội dung lẫn quy trình, phương thức thực
hiện, nhờ đó, hiệu lực, hiệu quả HĐGS của ĐBQH từng bước được nâng lên.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn hoạt động giám sát
của ĐBQH thời gian qua vẫn còn một số hạn chế, bất cập cần tiếp tục khắc phục,
giải quyết. HĐGS chưa đi sâu, phát hiện và đề xuất giải quyết kịp thời những vấn
đề nảy sinh trong đời sống xã hội; các hoạt động chất vấn, giám sát văn bản quy phạm
pháp luật, giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương và giám sát việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị của công dân còn có những hạn chế.
HĐGS của ĐBQH hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi phải nghiên cứu và
tìm cách giải quyết, tháo gỡ nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của ĐBQH, trước hết là
vấn đề về tính pháp lý, về năng lực giám sát của đại biểu Quốc hội, nhất là ĐBQH
kiêm nhiệm chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của HĐGS. Thực
trạng các yếu tố bảo đảm cho HĐGS của ĐBQH cũng là nguyên nhân cơ bản dẫn đến
những hạn chế, bất cập trong HĐGS của ĐBQH.
Cùng với những nghiên cứu về lý luận HĐGS của ĐBQH, kết quả nghiên cứu
thực tiễn là tiền đề quan trọng để đề xuất quan điểm và giải pháp cụ thể để khắc phục
những hạn chế, bất cập, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả HĐGS của ĐBQH trong
thời gian tới.
124
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VIỆT NAM
4.1. Quan điểm tăng cường hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội
Việt Nam
4.1.1. Tăng cường hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội dựa trên quan điểm
của Đảng về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước của dân, do dân, vì dân
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định:
“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” [56]. Đồng thời, Điều 6 Hiến pháp
năm 2013 xác định rõ: “Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng các hình thức
dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông
qua các cơ quan khác của Nhà nước”.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành
lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội. Trải qua quá trình hình thành và phát triển của Nhà nước ta, sự lãnh
đạo của Đảng là điều kiện chính trị tiên quyết bảo đảm cho Nhà nước, Quốc hoạt động
đúng theo đường lối, quan điểm của Đảng, thể hiện bản chất cách mạng và khoa học
của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Quan điểm của Đảng về việc tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân đã đưa ra định hướng chung trong đổi mới về tổ chức, hoạt động của Quốc hội và
HĐGS của ĐBQH.
Đại hội lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi
mới hệ thống chính trị” [19, tr.173]. Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành
đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ
125
thống chính trị, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với Nhà nước. Đại hội chỉ rõ việc
“tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất… Hoàn
thiện cơ chế để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan dân cử, nhất là
hoạt động lập pháp của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, cơ chế giám sát, đánh giá đối với
người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Tăng cường
hơn nữa sự gắn kết giữa giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và giám sát của nhân dân” [19, tr.177 -178].
Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra hệ thống các nhiệm vụ, giải pháp để đưa đất
nước ta bước vào một giai đoạn phát triển mới, trong đó khẳng định: “Tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống
chính trị” [20, tr.174]; “Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền
lực nhà nước” [20, tr.174-175]; “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội,
bảo đảm quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất” [20, tr.175].
Vì vậy, đổi mới về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc
và ĐBQH, trong đó có HĐGS của ĐBQH trước hết phải dựa trên quan điểm của Đảng
về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
4.1.2. Tăng cường hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội gắn với quá
trình thể chế hóa, hoàn thiện Hiến pháp, pháp luật
Hiến pháp, pháp luật là cơ sở pháp lý nền tảng cho hoạt động giám sát của
Quốc hội và ĐBQH. Hoạt động giám sát của ĐBQH phải tuân thủ theo quy định của
Hiến pháp và pháp luật, đặc biệt quy định của Hiến pháp năm 2013 về Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, cũng như quy định của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội
và Hội đồng nhân dân năm 2015 về hoạt động giám sát của ĐBQH.
126
Hiến pháp năm 2013 được sửa đổi trên cơ sở tổng kết thực tiễn gần 30 năm đổi
mới, kết tinh ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đúc kết kinh nghiệm của cả quá trình xây
dựng, phát triển đất nước; là đạo luật gốc và là cơ sở, nền tảng pháp lý quan trọng cho tổ
chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, trong đó có tổ chức và hoạt động của Quốc hội.
Hiến pháp xác định rõ cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước, tạo cơ sở cho việc xây
dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền. Hiến pháp tiếp tục dành một chương riêng để quy định về
Quốc hội và tiếp tục khẳng định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân,
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Hiến pháp quy định ĐBQH
là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của
nhân dân cả nước; quy định quyền hạn và trách nhiệm của ĐBQH đối với cử tri và
nhân dân.
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 được
Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 10, năm 2015, có hiệu lực thi hành từ 01-
7/2016. Thực tế bước đầu triển khai thi hành Luật cho thấy, một số quy định của Luật
vẫn dừng ở mức nguyên tắc, thiếu quy định chi tiết, cụ thể về quy trình, thủ tục tiến
hành những hoạt động giám sát, về công tác phối hợp, trách nhiệm của các cơ quan
hữu quan… Do vậy, trước mắt, bên cạnh việc thực hiện nghiêm túc các quy định tại
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã và đang tiếp tục ban hành quy chế hướng dẫn thực hiện một
số hoạt động còn bất cập để nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả của
HĐGS.
Chính vì vậy, việc tăng cường HĐGS của ĐBQH, nâng chất lượng, hiệu quả
HĐGS của ĐBQH cần phải bảo đảm tinh thần chung của Hiến pháp, pháp luật, gắn
với quá trình bổ sung, sửa đổi các quy định pháp luật, thể chế hóa, hoàn thiện Hiến
pháp, pháp luật.
127
4.1.3. Tăng cường hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội phải dựa trên cơ
sở thực tiễn Việt Nam kết hợp với tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước
trên thế giới
Sau 35 năm đổi mới đất nước, Việt Nam ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử, đang tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới và chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế. Trong xu thế hòa bình, hội nhập và phát triển, hoạt động đối ngoại
và hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam với quốc hội các nước trên thế giới ngày càng
được mở rộng. Cho đến nay, Quốc hội Việt Nam đã xây dựng quan hệ chính thức với
trên 140 nghị viện, Quốc hội các nước là thành viên của Liên minh Nghị viện thế giới
(IPU). Quốc hội Việt Nam đã tham gia tích cực vào các hoạt động ngoại giao nghị
viện đa phương như Liên minh Nghị viện thế giới (IPU), Hội đồng liên Nghị viện Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (AIPA), Liên minh Nghị viện Cộng đồng Pháp ngữ
(APF), Diễn đàn Nghị viện châu Á - Thái Bình Dương (APPF), Diễn đàn đối tác Nghị
viện Á-Âu (ASEP)...
Hoạt động đối ngoại và hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam với quốc hội các nước
trên thế giới có tầm quan trọng đặc biệt, góp phần tạo sự chuyển biến tích cực trong
quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt với các nước trong khu vực và thế giới, đưa các
mối quan hệ này đi vào thực chất, phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Hoạt động đối
ngoại và hợp tác đóng góp tích cực vào công cuộc đổi mới đất nước, góp phần giữ
vững độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Về
phương diện kinh tế, hoạt động đối ngoại và hợp tác của Quốc hội Việt Nam đã góp
phần quan trọng vào việc phát huy sức mạnh tổng hợp của ngoại giao Việt Nam để
phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế trên cả bình diện song phương và đa phương; xây
dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại và
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, góp phần đẩy nhanh việc thực hiện các cam
kết về lộ trình hội nhập kinh tế khu vực và phát triển các quan hệ kinh tế song phương.
Bên cạnh đó, hoạt động hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam với Quốc hội các nước trên
thế giới cũng góp phần vào việc thông tin, quảng bá các giá trị văn hóa truyền thống,
128
hình ảnh đất nưóc và con người Việt Nam, cũng như những thành tựu quan trọng trong
xây dựng Quốc hội hiện đại, dân chủ, hiệu lực, hiệu quả.
Hoạt động đối ngoại và hợp tác của Quốc hội Việt Nam với Quốc hội các nước
trên thế giới không những có những đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế
- xã hội mà còn giúp Việt Nam rút ra những kinh nghiệm cần thiết trong hoạt động của
Quốc hội, và qua đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, nâng cao
chất lượng HĐGS của ĐBQH. Thực tế cho thấy, lịch sử xây dựng và phát triển nghị
viện các nước trên thế giới rất khác nhau, có những nghị viện của các nước phát triển,
có truyền thống, lâu đời, với hệ thống luật lệ và quy trình, thủ tục chặt chẽ, ổn định,
nhưng cũng có những nghị viện của các nước đang phát triển, mới được thành lập,
hoạt động còn kém hiệu quả. Tuy vậy, nghị viện các nước trên thế giới có những điểm
tương đồng về vai trò, chức năng, nhiệm vụ, có những chuẩn mực chung của một nghị
viện hiện đại, dân chủ, giám sát hiệu lực, hiệu quả. Các quốc gia trên thế giới cần
nghiên cứu những chuẩn mực chung để vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với điều
kiện cụ thể của mỗi nước.
Đối với Việt Nam, HĐGS của quốc hội các quốc gia trên thế giới có những
điểm khác biệt, nhưng những kinh nghiệm của các quốc gia có giá trị tham khảo
cho HĐGS của ĐBQH nước ta. Vì vậy, tăng cường HĐGS của ĐBQH phải dựa trên
cơ sở thực tiễn Việt Nam kết hợp với tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các
nước trên thế giới.
4.2. Giải pháp tăng cường hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội
Việt Nam
4.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động giám sát của đại
biểu Quốc hội
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng trong quá trình bảo vệ, xây dựng đất nước trước đây cũng như trong
công cuộc đổi mới hiện nay. Đảng ta là cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và
xã hội, đồng thời, việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng trước hết và
129
chủ yếu phải bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước. Trong hệ thống tổ chức bộ máy
nhà nước, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan
nhà nước là nguyên tắc luôn được đặt ở vị trí quan trọng nhất. Theo đó, HĐGS tối cao
của Quốc hội nói chung và HĐGS của các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH nói riêng
phải tuân thủ nguyên tắc này.
So với thời gian trước đây, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
tổ chức và hoạt động của Quốc hội nói chung và HĐGS của ĐBQH nói riêng đã có
nhiều đổi mới. Để HĐGS của ĐBQH được tăng cường, phát huy hiệu lực, hiệu quả,
cần tiếp tục tăng cường, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng theo hướng:
Thứ nhất, nâng cao vai trò, trách nhiệm của Đảng đoàn Quốc hội.
Để nâng cao vai trò, trách nhiệm của Đảng đoàn Quốc hội, trước hết cần phân
cấp, xác định vị trí lãnh đạo của Đảng đoàn Quốc hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ
chức và hoạt động của Quốc hội được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau.
Đảng ban hành chủ trương, đường lối đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội, cho ý
kiến và chỉ đạo định hướng các nội dung quan trọng trong công tác lập pháp, giám sát,
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Đồng thời, Đảng giới thiệu đảng viên
vào các vị trí chủ chốt, lãnh đạo Quốc hội, lãnh đạo các ủy ban của Quốc hội, thành
lập Đảng đoàn Quốc hội. Các thành viên của Đảng đoàn Quốc hội cũng chính là các
ủy viên của UBTVQH. Để bảo đảm tính chủ động trong việc thực hiện các nhiệm vụ
theo quy định của pháp luật, Đảng đoàn Quốc hội cần được ủy quyền trong lãnh đạo,
chỉ đạo việc tổ chức và hoạt động của Quốc hội, quyết định những vấn đề quan trọng
của Quốc hội. Như vậy, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội nói chung
và HĐGS của ĐBQH nói riêng cần được đổi mới theo hướng: thay vì Đảng lãnh đạo
Quốc hội “từ bên ngoài vào” hoặc “từ trên xuống”, Đảng cần lãnh đạo “từ bên trong”
Quốc hội.
Cần xác định thẩm quyền quyết định của Đảng đoàn Quốc hội đối với các kiến
nghị liên quan đến hoạt động chất vấn của ĐBQH. Những cá nhân thuộc đối tượng
giám sát, chất vấn của ĐBQH là những đảng viên chủ chốt của Đảng, nắm giữ những
trọng trách cao nhất trong bộ máy nhà nước. Việc xác định trách nhiệm chính trị của
130
các đối tượng này trong thực thi nhiệm vụ, triển khai thi hành luật, pháp lệnh, nghị
quyết là hết sức quan trọng đối với sự phát triển của các ngành, lĩnh vực cũng như
của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy, hoạt động chất vấn của
ĐBQH phải hết sức cẩn trọng, bảo đảm khách quan, minh bạch. Sau các hoạt động
chất vấn, ĐBQH có thể đưa ra các kiến nghị về việc thành lập ủy ban điều tra, bỏ
phiếu tín nhiệm đối với các đối tượng giám sát, chất vấn. Những hoạt động giám sát,
chất vấn, điều tra, bỏ phiếu tín nhiệm phải tuân thủ quy trình, thủ tục làm việc của
Quốc hội. Đồng thời, Đảng đoàn Quốc hội cần phải là cơ quan có thẩm quyền quyết
định có đủ căn cứ để hiện thực hóa kiến nghị của ĐBQH.
Thứ hai, bố trí hợp lý số ĐBQH là đảng viên.
Ở nước ta, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, do đó, Đảng cần hóa thân vào bộ
máy nhà nước, hóa thân vào Quốc hội để tạo nên sự thống nhất trong hoạt động của
Đảng và hoạt động của Quốc hội. Bên cạnh việc ban hành chủ trương, đường lối,
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, cũng như định hướng, chỉ đạo các nội
dung quan trọng trong công tác lập pháp, giám sát, Đảng còn giới thiệu các đảng viên
tham gia công việc của Quốc hội, ứng cử ĐBQH, giữ các vị trí chủ chốt, lãnh đạo
Quốc hội.
Việc bảo đảm số ĐBQH là đảng viên luôn chiếm đa số là vấn đề mang tính
nguyên tắc, nhưng không nhất thiết phải đa số tuyệt đối (hiện nay, tỷ lệ ĐBQH là đảng
viên thường chiếm đa số tuyệt đối, trên 90%). Để HĐGS của ĐBQH trở nên chủ động,
tiến hành công việc một cách khách quan, độc lập, hiệu quả, cần bố trí hợp lý số
ĐBQH là đảng viên trong Quốc hội. Việc bố trí hợp lý số ĐBQH là đảng viên rất cần
thiết để Quốc hội có điều kiện thể hiện đầy đủ các ý kiến trong thảo luận, tranh luận,
phản biện đối với hoạt động chấp hành, điều hành của Chính phủ, đồng thời bảo đảm
việc hiện thực hóa chủ trương của Đảng và hoạt động của Chính phủ. Điều này sẽ bảo
đảm thuận lợi trong quá trình thể chế hóa các quyết định của Đảng tại Quốc hội, đồng
thời nâng cao hiệu quả HĐGS của ĐBQH; tạo ra sự thống nhất giữa việc đề ra chủ
trương, đường lối với thể chế hóa chủ trương, đường lối thành chính sách, pháp luật và
giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật.
131
4.2.2. Bổ sung, hoàn thiện các quy định về hoạt động giám sát của đại biểu
Quốc hội
Những quy định của pháp luật là cơ sở cho HĐGS của ĐBQH, bảo đảm tính
hiệu lực, hiệu quả trong HĐGS của ĐBQH. Vì vậy, việc bổ sung, hoàn thiện các quy
định về HĐGS của đại biểu Quốc hội yêu cầu tất yếu, thường xuyên. Cần xác định rõ
phạm vi, nội dung, quy trình HĐGS của ĐBQH với các quy định rõ ràng, cụ thể, phù
hợp với tình hình cụ thể của đất nước.
- Bổ sung, hoàn thiện các quy định về phạm vi giám sát của đại biểu Quốc hội.
Việc quy định hợp lý phạm vi giám sát của ĐBQH sẽ giúp cho ĐBQH thực
hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Từ thực trạng HĐGS của ĐBQH hiện nay cho
thấy, việc thu hẹp phạm vi giám sát của ĐBQH là cần thiết, bảo đảm tính khả thi của
pháp luật, đồng thời, bảo đảm các hoạt động kiểm soát quyền lực không bị chồng chéo,
trùng lắp, gây lãng phí nguồn lực. Cần xác định rõ phạm vi, đối tượng giám sát của
ĐBQH với các hoạt động thanh tra, kiểm tra trong bộ máy nhà nước và HĐGS của
HĐND các cấp ở địa phương; phân cấp, phân quyền giám sát, kiểm soát những vấn đề
có tính chuyên sâu, những vấn đề mang tính chuyên ngành cho các cơ quan chuyên
môn, các chuyên gia và HĐND các cấp thực hiện. Sự khoanh vùng, xác định rõ phạm
vi giám sát của ĐBQH, phân cấp, phân quyền giám sát, kiểm soát của các cơ quan nhà
nước không đồng nghĩa với việc giảm bớt thẩm quyền, trách nhiệm của ĐBQH, ngược
lại sẽ đề cao vai trò, trách nhiệm của ĐBQH trong việc giám sát, kiểm soát quyền lực
nhà nước và kiểm soát quản lý công ở tầm vĩ mô các vấn đề chính trị quan trọng của
đất nước.
- Bổ sung, hoàn thiện các quy định về nội dung hoạt động giám sát của đại biểu
Quốc hội.
Một là, về hoạt động chất vấn.
Hoạt động chất vấn của ĐBQH là hình thức giám sát phổ biến, hiệu quả, được
cử tri quan tâm, theo dõi, do đó, hoạt động này cần được tăng cường, đổi mới trong
132
thời gian tới. Trong đó, các quy định pháp luật về hoạt động chất vấn cần được nghiên
cứu để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện.
Chất vấn là thẩm quyền của ĐBQH được Hiến pháp và luật ghi nhận, là cơ sở
cho HĐGS tối cao của Quốc hội “xem xét việc trả lời chất vấn” của những người được
Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Đồng thời, ý kiến, kiến nghị của cử tri cũng là những
vấn đề xã hội quan tâm được chuyển tải đến diễn đàn Quốc hội và phải qua những cầu
nối hợp pháp là các ĐBQH, những người đại diện của nhân dân. Vì vậy, cần quy định
việc lựa chọn nội dung chất vấn, đối tượng chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội và các
phiên họp UBTVQH, tránh việc hạn chế quyền của ĐBQH được chất vấn trực tiếp các
chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn. Để ĐBQH thực sự thực hiện quyền chất vấn
của mình, nên quy định cách thức thực hiện thẩm quyền này theo hướng không xác
định người trả lời chất vấn, nội dung chất vấn mà để ĐBQH trực tiếp hỏi những người
được Quốc hội bầu, phê chuẩn về những nội dung ĐBQH quan tâm. Các chất vấn của
ĐBQH chưa được trả lời tại các phiên họp chất vấn, các chất vấn cần điều tra thêm và
các chất vấn bằng văn bản sẽ được trả lời bằng văn bản.
Cần đặt ra giới hạn đối với “vấn đề thuộc trách nhiệm” của những người được
chất vấn để có thể xác định rõ hơn quyền chất vấn của ĐBQH, phân loại các câu hỏi
chất vấn đối với từng vấn đề hay đối tượng chất vấn cụ thể. Trên thực tế có câu hỏi
miệng và câu hỏi viết, câu hỏi báo trước và câu hỏi không báo trước, đồng thời, không
nhất thiết câu hỏi nào cũng là câu hỏi chất vấn, có các câu hỏi để yêu cầu cung cấp
thông tin. Đối với hoạt động chất vấn tại các diễn đàn Quốc hội và UBTVQH, để việc
đánh giá của đại biểu và cử tri đối với người trả lời chất vấn được khách quan, nên
thực hiện một hình thức chất vấn đặt câu hỏi trực tiếp.
Để ĐBQH có thể được thực hiện quyền tranh luận trong tất cả các phiên chất
vấn, giải trình và các phiên họp giám sát khác, cần quy định rõ thủ tục tranh luận tại
các diễn đàn Quốc hội, UBTVQH và các ủy ban khác của Quốc hội. Bên cạnh việc
quy định về phát biểu ý kiến theo trình tự đăng ký và không theo trình tự đăng ký, cần
có quy định về thủ tục tranh luận tại các phiên họp toàn thể cũng như các phiên họp
khác, giúp ĐBQH có được cơ sở pháp lý để thực hiện HĐGS, bảo đảm công bằng,
133
minh bạch giữa các đại biểu có ý kiến tranh luận và đối tượng chịu sự giám sát. Đồng
thời, cụ thể hóa các quy định về thủ tục giám sát để tăng cường sự kết nối giữa giám
sát, chất vấn và các thẩm quyền khác của ĐBQH như quyền kiến nghị, quyền trình dự
thảo luật, quyền đề xuất thành lập Ủy ban điều tra, đề xuất việc bỏ phiếu tín nhiệm
những chức danh được Quốc hội bầu, phê chuẩn. Các quy định phải tạo được một căn
cứ pháp lý để ĐBQH có thể kiểm tra kết quả của giám sát, qua đó tiếp tục theo đuổi,
đeo bám đến cùng những vấn đề bức xúc của thực tiễn đã được thảo luận, tranh luận
tại các diễn đàn Quốc hội.
Hai là, về hoạt động giám sát VBQPPL.
Theo quy định hiện nay, ĐBQH có quyền giám sát VBQPPL do tất cả các chủ
thể có thẩm quyền ban hành, giám sát tất cả các loại văn bản quy phạm pháp luật.
Thực tế này cho thấy, số lượng VBQPPL được ban hành quá lớn so với khả năng và
thời gian mà đại biểu có thể đảm nhận. Những hạn chế nhất định về kiến thức pháp lý
cũng như hiểu biết về thực tiễn các quan hệ xã hội mà các văn bản pháp luật điều
chỉnh chính là nguyên nhân làm cho hoạt động xem xét, đối chiếu để phát hiện các
VBQPPL có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, UBTVQH của
nhiều đại biểu gặp khó khăn.
HĐGS VBQPPL của ĐBQH rất dễ dẫn đến bế tắc trong trường hợp qua giám
sát, ĐBQH phát hiện có văn bản không phù hợp với Hiến pháp, pháp luật, nhưng cơ
quan ban hành từ chối xử lý hoặc tạo ra một cuộc tranh luận. Chỉ tòa án với thủ tục và
trình tự xét xử mới có thể phán quyết về tính chất hợp hiến, hợp pháp của một văn bản
và bằng phán quyết đó hủy bỏ văn bản bị khiếu kiện.
Chính vì vậy, cần nghiên cứu kỹ lưỡng quy định giám sát VBQPPL như là một
HĐGS độc lập của ĐBQH. Việc giám sát VBQPPL có thể được coi là một công đoạn
trong quy trình, lồng ghép với các HĐGS khác như giám sát việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo của công dân. Đồng thời, cần tiếp tục nghiên cứu để trao thẩm quyền giám sát
một số VBQPPL cho cơ quan chuyên môn của Chính phủ hay hệ thống tòa án.
Ba là, về giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân.
134
Hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân là
một lĩnh vực hoạt động hết sức quan trọng, bức thiết của ĐBQH hiện nay. Về cơ
bản, cơ sở pháp lý cho hoạt động này khá đầy đủ, hợp lý, bao gồm Luật HĐGS của
Quốc hội và HĐND, Nghị quyết 228/1999/NQ-UBTVQH10... Tuy nhiên, trên thực tế,
các quy định của pháp luật chưa được triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả. Vì
vậy, để ĐBQH thực hiện tốt vai trò đại diện của mình, cần tiếp tục cụ thể hóa các
quy định cũng như đổi mới HĐGS việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của
công dân.
Trước hết, cần quy định cụ thể quy trình tiếp nhận, xử lý và phản hồi đơn, thư,
kiến nghị của người dân. Việc quy định cụ thể, rõ ràng rõ và tuân thủ nghiêm túc, chặt
chẽ đối với quy trình tiếp nhận, xử lý và phản hồi đơn, thư, kiến nghị của người dân
bảo đảm sự bình đẳng trong địa vị pháp lý giữa các ĐBQH, hạn chế việc một số đại
biểu có thể dùng thẩm quyền, vị trí của mình để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho một
nhóm cử nhất định. ĐBQH cần nghiên cứu, theo dõi, hướng dẫn người dân tuân thủ
pháp luật, đồng thời tư vấn cho người dân về thẩm quyền giải quyết và tham gia cùng
người dân thực hiện các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị.
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công
dân, ĐBQH cần tăng cường sử dụng các hình thức, phương tiện hữu hiệu như công
luận, báo chí, truyền hình và mạng xã hội. ĐBQH có thể sử dụng các kênh truyền hình
Quốc hội, các chuyên mục như “Quốc hội với cử tri”, “Diễn đàn lập pháp để thông tin
tới cử tri và các cơ quan hữu quan về những vấn đề mà ĐBQH và cử tri quan tâm,
đồng thời yêu cầu các cơ quan hữu quan kịp thời nghiên cứu, giải quyết.
Trong điều kiện hiện nay, cần sửa đổi, bổ sung các quy định về giám sát việc thi
hành pháp luật ở địa phương. Pháp luật quy định giám sát việc thi hành pháp luật ở địa
phương là một hình thức giám sát độc lập của ĐBQH, tuy nhiên, việc thực hiện hiện
nay chưa thực sự phù hợp với điều kiện hoạt động của đại biểu. Thực tế này đòi hỏi
HĐGS việc thi hành pháp luật ở địa phương của ĐBQH cần được đặt trong bối cảnh
cụ thể và trên cơ sở khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của cử tri. Cần tiếp tục nghiên cứu, cân
nhắc quy định về giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương hiện nay. Hoạt động
135
giám sát này nên kết hợp với thực hiện các hình thức giám sát khác, trong đó có
HĐGS việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của cử tri.
Như vậy, bên cạnh việc tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho HĐGS
của ĐBQH thông qua sửa đổi Luật HĐGS của Quốc hội và HĐND, cần kịp thời sửa
đổi, bổ sung các quy định liên quan đến HĐGS việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân.
4.2.3. Đổi mới chế độ kiêm nhiệm, cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội và tăng
cường mối quan hệ giữa đại biểu Quốc hội với cử tri
- Đổi mới chế độ kiêm nhiệm của đại biểu Quốc hội.
Thực hiện chế độ kiêm nhiệm của ĐBQH là một hình thức phổ biến ở các nước
trên thế giới và được chú trọng ở nước ta. Tuy nhiên, từ thực tế Việt Nam hiện nay,
cần tiếp tục đổi mới chế độ kiêm nhiệm nhằm nâng cao hiệu quả HĐGS của ĐBQH.
Cần cải cách chế độ kiêm nhiệm để ĐBQH chuyên tâm hơn với nghề, không
coi nghề đại biểu là một “nghề phụ”, nghề “đánh bóng tên tuổi” của mình, đồng thời,
dành nhiều thời gian hơn cho ĐBQH thực hiện công tác đại biểu (không chỉ dành 30%
quỹ thời gian như hiện nay). Thực tế cho thấy, ĐBQH cần được bố trí đủ thời gian để
có thể thực hiện các nhiệm vụ của mình như: gặp gỡ, tiếp xúc cử tri, ghi nhận, trả lời
kiến nghị cử tri; hướng dẫn, giúp đỡ cử tri trong việc trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị và giám sát việc giải quyết; tham gia hoạt động lập pháp, giám sát, quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước.
Cần đổi mới chế độ kiêm nhiệm theo hướng bảo đảm vị thế độc lập cần thiết
của ĐBQH, và qua đó giải quyết một số mâu thuẫn về lợi ích trong các mối quan hệ
chồng chéo giữa chủ thể giám sát và đối tượng giám sát. Thực tế có những trường hợp,
trong khi chủ thể giám sát là cấp dưới, người thi hành, xin ngân sách - dự án, ...; còn
đối tượng giám sát đồng thời là cấp trên, người chỉ đạo, duyệt ngân sách - dự án, ... Do
vậy, cần đổi mới chế độ kiêm nhiệm để ĐBQH, dù chưa thể độc lập hoàn toàn như các
vị ĐBQH chuyên trách nhưng ít nhất không thể có quan hệ về lợi ích với đối tượng
giám sát. Cần cân nhắc việc tiếp tục cho phép các công chức hành chính kiêm nhiệm
136
ĐBQH bởi họ sẽ không thể giám sát cấp trên của mình là Thủ tướng và các vị Bộ
trưởng do xung đột lợi ích khá trực tiếp. Nếu các công chức hành chính là ĐBQH thì
cần chuyển sang chế độ đại biểu chuyên trách, trở thành một nghị sĩ chuyên. Bên cạnh
đó, cần cân nhắc về việc cho phép tham gia kiêm nhiệm ĐBQH đối với các doanh
nhân làm việc trong các cơ sở kinh tế có vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và những
người hưởng lương từ ngân sách nhà nước, vì những đối tượng dễ bị chi phối bởi các
nhóm lợi ích khác nhau.
Cần ưu tiên lựa chọn những ứng cử viên vừa có năng lực, trình độ vừa có nhiệt
huyết, đam mê thực hiện nghề nghiệp đại biểu. Các tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc
các cấp, các tổ chức xã hội, đoàn thể, các cơ sở giáo dục, viện nghiên cứu... có thể xem
xét để giới thiệu các thành viên của mình tham gia ứng cử ĐBQH, lựa chọn, giới thiệu
những người có năng lực, phẩm chất, toàn tâm, toàn ý thực hiện quyền và trách nhiệm
của mình.
Theo xu thế tất yếu, tỷ lệ đại biểu kiêm nhiệm giảm dần trong sự tăng lên của
đại biểu chuyên trách, do đó, cần giải quyết hợp lý mối quan hệ về tỷ lệ giữa đại biểu
kiêm nhiệm và đại biểu chuyên trách. Việc tăng số lượng đại biểu chuyên trách và tiến
dần đến hoạt động chuyên nghiệp là một xu thế tất yếu trong tổ chức và hoạt động của
Quốc hội nước ta. Theo đó, Đại hội lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Bảo đảm tiêu
chuẩn, cơ cấu, nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý số lượng đại biểu
hoạt động chuyên trách; giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư
pháp” [20, tr.176].
Cần tiếp tục tăng cường tỷ lệ ĐBQH hoạt động chuyên trách, trước mắt bảo
đảm từ 51% trở lên, tức là số lượng đại biểu hoạt động độc lập, có thể dành 100%
quỹ thời gian cho hoạt động đại biểu phải chiếm đa số trong Quốc hội. Đồng thời, để
phát huy vai trò, trách nhiệm, cũng như năng lực, kinh nghiệm của đại biểu chuyên
trách, bên cạnh việc tạo vị thế chính trị - pháp lý đặc biệt, cần quan tâm đến chế độ đãi
ngộ của đại biểu chuyên trách, tương xứng với đóng góp của họ.
137
- Đổi mới cơ chế bầu cử và bãi miễn đại biểu Quốc hội
Thực hiện tốt hoạt động bầu cử sẽ lựa chọn được những đại biểu xứng đáng
tham gia cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất của đất nước, và qua đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả HĐGS của ĐBQH. Mặt
khác, sự phụ thuộc vào cử tri chính là động lực và áp lực xã hội đối với các ĐBQH
trong HĐGS, giúp ĐBQH nhận thức rõ hơn vai trò đại diện và định hướng rõ hơn mục
tiêu giám sát vì lợi ích của cử tri.
Chế độ bầu cử cần bảo đảm lựa chọn được các đại biểu có năng lực, phẩm chất,
tâm huyết với hoạt động nghị trường tham gia Quốc hội. Trong bầu cử, người có năng
lực, phẩm chất tốt cần được ưu tiên hàng đầu trong lựa chọn làm ĐBQH thay vì họ
thuộc một cơ cấu, một thành phần được xác định. Cần thay đổi quan niệm về khả năng
đại diện để có chính sách hợp lý hơn đối với việc xác định thành phần, cơ cấu ĐBQH.
Chúng ta thường coi trọng cơ cấu và dùng cơ cấu để đại diện, quan niệm các thành
phần, các giai tầng trong xã hội phải có đại biểu của mình trong Quốc hội thì Quốc hội
mới được coi là đại diện cho các lợi ích đa dạng của xã hội. Tuy vậy, trên thực tế, các
đại biểu không phải do ngành của mình bầu ra mà mỗi đại biểu đều do một đơn vị bầu
cử bầu ra và đơn vị đó như một xã hội thu nhỏ bao gồm mọi giai tầng, ngành nghề,
thành phần trong xã hội. Đại biểu được cử tri bầu là do họ tin tưởng đại biểu có trình độ,
có năng lực đại diện, năng lực bảo vệ quyền lợi cho cử tri chứ không phải do cùng
ngành nghề với cử tri.
Số lượng ĐBQH cần phụ thuộc vào việc phân chia đơn vị bầu cử trong cả nước
và mỗi đại biểu cần được bầu ra ở một đơn vị bầu cử, đại diện cho một số lượng cử tri
nhất định. Cách làm này khiến cho hoạt động bầu cử trở nên thực chất hơn. Các ứng
cử viên sẽ phải tận dụng mọi cơ hội phù hợp với quy định của pháp luật để cử tri có
thể hiểu về mình và bỏ phiếu cho mình. Về phía cử tri, họ sẽ phải cân nhắc kỹ càng
hơn để lựa chọn một người đại diện của mình tham gia quyết định các chính sách phát
triển đất nước.
Để nâng cao hiệu quả HĐGS của ĐBQH, cùng với nhu cầu đại diện cho cử tri,
cần chọn được những đại biểu có kỹ năng chính trị và thực sự có mong muốn được
138
làm công việc đại biểu. Họ làm việc này theo năng khiếu và theo sự đam mê, nhiệt
huyết của mình. Bên cạnh đó, cần thực hiện cơ chế tự do lựa chọn, tạo cơ hội để những
người có đủ các điều kiện cần thiết và có nguyện vọng tham dự vào cơ quan lập pháp
của đất nước có thể tham gia tranh cử. Trong đó, khuyến khích việc tự ứng cử, nhất là
với những người có năng lực, trình độ và uy tín, những người được coi là tinh hoa về
chính trị, có bản lĩnh chính trị và khả năng đại diện. Việc khuyến khích người tự ứng cử
là giải pháp khả thi bởi thực tiễn cho thấy, số người tự ứng cử tại các cuộc bầu cử
ĐBQH ngày càng tăng lên, trong đó có không ít cán bộ cao cấp đã nghỉ hưu, các chuyên
gia về nhiều lĩnh vực khác nhau.
Cần thực hiện cơ chế bầu cử ĐBQH để khắc phục tình trạng đại biểu bị lợi ích
trung ương - địa phương chi phối. ĐBQH hiện nay, cho dù là đại biểu do Trung ương
giới thiệu thì họ cũng là đại biểu các tỉnh, ứng cử và hoạt động theo các Đoàn ĐBQH,
do đó, đại biểu thường thiên về đại diện cho lợi ích của địa phương hơn là cho lợi ích
của Trung ương. Để khắc phục được tình trạng này, cần đổi mới cơ chế bầu cử ĐBQH.
Cần dành cho Trung ương quyền giới thiệu nhiều đại biểu hơn để đại biểu của Trung
ương chiếm đa số trong Quốc hội. Trường hợp nếu ĐBQH vừa đại diện cho cả Trung
ương và địa phương thì tỷ lệ đại biểu trung ương nên chiếm đa số. Quá trình bầu cử
đại biểu ở các đơn vị bầu cử cần thực hiện theo cách thức, quy trình phù hợp, chặt chẽ
để đạt được mục tiêu này. Việc khắc phục tình trạng đại biểu bị lợi ích trung ương -
địa phương chi phối sẽ giúp cho HĐGS cũng như các hoạt động khác của ĐBQH trở
nên khách quan, hiệu quả hơn.
Để lựa chọn được các đại biểu có năng lực, phẩm chất, tận tâm, tận lực, gắn bó
với nhân dân, cần phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã
hội trong bầu cử người đại diện hay thay thế, bãi miễn người đại diện của nhân dân
trong các cơ quan nhà nước.
Song song với đổi mới chế bầu cử, cần thực hiện nghiêm ngặt quy trình, thủ tục
để cử tri giám sát và thực hiện quyền bãi miễn ĐBQH khi ĐBQH không còn đủ tín
nhiệm trước cử tri. Thực tế cho thấy, chỉ khi chịu sự đánh giá và giám sát chặt chẽ của
cử tri, ĐBQH mới có động lực, áp lực để nâng cao ý thức, trách nhiệm trong HĐGS của
139
mình, đặc biệt là giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, chất
vấn và theo đuổi đến cùng các vấn đề chất vấn.
Theo quy định, ĐBQH phải báo cáo về hoạt động của mình trước cử tri, chịu sự
kiểm tra, giám sát của cử tri, đồng thời, nếu ĐBQH không đủ tín nhiệm thì cử tri có
thể thực hiện quyền bãi miễn đại biểu. Trước đây Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Nhân
dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những
đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân" [44, tr 375]. Tuy
nhiên, việc thực hiện quy trình, thủ tục bãi miễn đại biểu còn có những hạn chế. Vì
vậy, cần thực hiện một cách chặt chẽ, cụ thể quy trình, thủ tục đánh giá HĐGS của
ĐBQH và thực hiện quyền bãi nhiệm đối với những ĐBQH không còn đủ tín nhiệm
trước cử tri.
- Tăng cường mối quan hệ đại biểu Quốc hội với cử tri
Cử tri có vai trò rất quan trọng đối với HĐGS của ĐBQH, bởi lẽ, họ là những
người trực tiếp chịu sự tác động của chính sách, pháp luật, là đối tượng của công tác
quản lý và điều hành của các cơ quan hành chính. Những mong muốn, phản ánh, kiến
nghị của cử tri là nguồn thông tin thiết thực để xem xét, đánh giá tình hình hoạt động
của Chính phủ, đánh giá việc thực thi, thực hiện các chính sách, pháp luật trong cuộc
sống, từ đó có sự đôn đốc và điều chỉnh cần thiết. Vì vậy, để thực hiện tốt vai trò đại
diện cho nhân dân, cho quyền lợi, ý chí và nguyện vọng của cử tri, ĐBQH phải thực
sự gần gũi, gắn bó mật thiết với nhân dân, hiểu được những tâm tư, nguyện vọng, yêu
cầu của người dân.
Để ngày càng gần dân hơn, nắm bắt được đầy đủ hơn tâm tư, nguyện vọng, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ĐBQH phải tăng cường và đổi mới cách
thức tiếp xúc với cử tri. Bên cạnh việc tiếp xúc cử tri theo hình thức hội nghị như hiện
nay, các ĐBQH cần tích cực, chủ động và có kế hoạch cụ thể thâm nhập vào các hoạt
động trên tất cả các mặt của đời sống xã hội ở địa phương để thu thập nguồn thông tin,
các ý kiến, kiến nghị của cử tri. Trong điều kiện phát triển rất nhanh của công nghệ
thông tin, truyền thông, ĐBQH cần sử dụng linh hoạt, hiệu quả công nghệ thông tin,
tận dụng các lợi thế của mạng lưới thông tin truyền thông, mạng xã hội để thu thập ý
140
kiến, nguyện vọng của cử tri, hiểu rõ những yêu cầu, vấn đề bức nảy sinh trong đời
sống xã hội, qua đó ĐBQH mới có thể thực hiện có hiệu quả HĐGS của mình.
Đồng thời, để tăng cường mối quan hệ đại biểu Quốc hội với cử tri, ĐBQH phải
thường xuyên báo cáo về các hoạt động của mình trước cử tri. Pháp luật quy định trách
nhiệm của ĐBQH phải báo cáo về các hoạt động của mình trước cử tri, chịu sự kiểm
tra, giám sát của cử tri. Tuy nhiên, việc thực hiện chế độ báo cáo của ĐBQH về hoạt
động của mình trước cử tri thời gian qua có những hạn chế nhất định. Vì vậy, cần tăng
cường, đổi mới cách thức báo cáo của ĐBQH trước cử tri ở đơn vị bầu cử về việc thực
hiện nhiệm vụ đại biểu của mình, đặc biệt việc thực hiện chương trình hành động của
mình đã hứa trước cử tri và kết quả giải quyết các kiến nghị của cử tri mà đại biểu đã
thu thập và phản ánh đến cơ quan có thẩm quyền. Các hình thức báo cáo của ĐBQH
với cử tri có thể là trực tiếp thông qua hội nghị, đối thoại hoặc gián tiếp bằng cách gửi
văn bản hay đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Có như vậy, mới tăng
cường mối quan hệ đại biểu Quốc hội với cử tri, và qua đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả
HĐGS của ĐBQH.
4.2.4. Bồi dưỡng, nâng cao năng lực, phẩm chất cho đại biểu Quốc hội
* Bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn cho đại biểu Quốc hội
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả HĐGS của ĐBQH, vấn đề rất quan trọng, có
tính quyết định là việc lựa chọn ĐBQH có đủ năng lực, trình độ để có thể đại diện cho
nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Đồng thời, cần tăng
cường công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn cho ĐBQH.
Ở nước ta chỉ có giới luật gia và một số người làm việc trong các cơ quan nhà
nước, các nhà nghiên cứu khoa học chính trị, pháp luật mới có được sự am hiểu thấu
đáo về các lĩnh vực chuyên môn của họ. Đối với ĐBQH, không nhất thiết và không thể
có tất cả các đại biểu đều thuộc về giới luật gia hay các nhà nghiên cứu chuyên sâu về
chính trị và pháp luật. Tuy nhiên, các ĐBQH cần có những am hiểu nhất định về các
lĩnh vực khác nhau, do đó, họ phải được đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị cũng
như các vấn đề lý luận chung về nhà nước và pháp luật.
141
Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên
môn cho ĐBQH cần tập trung vào các hướng sau:
Một là, nâng cao trình độ từ nguồn đầu vào ĐBQH. Việc chuẩn bị nhân sự ứng
cử ĐBQH là vấn đề rất quan trọng nhằm nâng cao chất lượng đầu vào của đại biểu. Vì
vậy, khi lựa chọn, giới thiệu người ứng cử cần phải đáp ứng được các tiêu chuẩn của
ĐBQH theo quy định tại Luật Tổ chức Quốc hội năm 2015 (vừa được sửa đổi, bổ sung
một số điều theo Luật số 65/2020/QH14). Ở Việt Nam hiện nay, các ứng cử viên là
đảng viên và những quần chúng ưu tú với các tiêu chuẩn do pháp luật quy định, được
các tổ chức đảng và các tổ chức chính trị - xã hội giới thiệu. Để nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động nói chung và chất lượng, hiệu quả HĐGS của ĐBQH cần chú trọng
tới việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ của đại biểu. Trong đó, cần chú trọng đổi mới nội
dung, hình thức, phương pháp bồi dưỡng trong các khóa đào tạo, bồi dưỡng, các hội
nghị, hội thảo... nhằm nâng cao năng lực của ứng cử viên ĐBQH.
Hai là, công tác bồi dưỡng cần dựa trên nhu cầu của đại biểu và chương trình, kế
hoạch hoạt động của Quốc hội. Các nội dung bồi dưỡng cần bao quát các kiến thức
chuyên môn gắn liền với đặc thù của hoạt động đại biểu. Chương trình bồi dưỡng bao
gồm: chương trình bồi dưỡng cơ bản; chương trình bồi dưỡng chuyên đề; chương trình
cập nhật kiến thức; chương trình bồi dưỡng về ngoại ngữ và công nghệ thông tin, v.v..
Ba là, nâng cao vai trò, trách nhiệm của cơ quan thường trực của Quốc hội
trong bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn cho ĐBQH. Nhiệm vụ đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao năng lực của ĐBQH hiện nay đang được giao cho Ban công tác đại
biểu, cơ quan chuyên môn trực thuộc UBTVQH. Cần tăng cường trách nhiệm của các
cơ quan này, đồng thời có những quy định về trách nhiệm của UBTVQH trong công
tác bồi dưỡng ĐBQH. Các cơ quan của Quốc hội cần xây dựng và triển khai thực
hiện khung chương trình, kế hoạch hoạt động bồi dưỡng ĐBQH hàng năm và cả
nhiệm kỳ để thực hiện thống nhất về nội dung và phương thức dưỡng, trong đó cần
xác định các nội dung bồi dưỡng theo kế hoạch, phù hợp với đặc điểm mỗi năm
trong nhiệm kỳ của Quốc hội. Công tác bồi dưỡng nhằm bổ sung các kiến thức, nâng
cao trình độ cho ĐBQH, qua đó nâng cao hiệu quả HĐGS của đại biểu.
142
Bốn là, nâng cao chất lượng công tác giáo dục, truyền thông về Quốc hội. Đối
với đông đảo người dân trong xã hội nói chung và những người có hướng phấn đấu để
trở thành ĐBQH, sự am hiểu về Quốc hội và các nguyên tắc hoạt động, vận hành của
Quốc hội và ĐBQH không đơn giản, dễ dàng, do đó, đòi hỏi phải có chiến lược về
truyền thông và giáo dục. Các cơ quan nhà nước nói chung, Quốc hội và Văn phòng
Quốc hội cần xây dựng cho mình chương trình truyền thông, giáo dục, như có thể kết
hợp với các chương trình tham quan Phủ Chủ tịch, Nhà Quốc hội, qua đó nâng cao
hiểu biết về nhà nước và pháp luật, về Quốc hội và ĐBQH của người dân nói chung và
của những người có nguyện vọng trở thành ĐBQH.
* Bồi dưỡng kỹ năng hoạt động giám sát cho đại biểu Quốc hội
Trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình, ĐBQH phải đối mặt với rất
nhiều vấn đề phức tạp và áp lực công việc, đặc biệt là vì tính chất, khối lượng công
việc cũng như sức ép về mặt thời gian, do đó, ĐBQH phải có những kỹ năng nghề
nghiệp cần thiết.
Thực tế cho thấy, các đại biểu tái cử, hoạt động qua một hoặc một số nhiệm
kỳ thường có kiến thức phong phú, chuyên sâu, tích lũy được nhiều kinh nghiệm,
tinh thông kỹ năng nghề nghiệp, do đó, sẽ hoạt động hiệu quả hơn và tiết kiệm một
khoản kinh phí đáng kể cho công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kỹ năng. Tuy
nhiên, ở nước ta số đại biểu tái cử thường chiếm tỷ lệ không cao (khóa 11 có 27,11%
đại biểu tái cử; khóa 12 có 27,59% đại biểu tái cử, khóa 13 có 33,40 % đại biểu tái cử,
khoá 14 có 32,30 % đại biểu tái cử) [63], trong khi đó, số lượng người lần đầu tiên
được bầu làm đại biểu Quốc hội chiếm tỷ lệ cao (khoảng trên 70%) và những người
này chưa hiểu biết nhiều về quy trình, thủ tục hoạt động của Quốc hội, chưa có nhiều
kinh nghiệm trong hoạt động nói chung và HĐGS nói riêng.
Vì lý do trên, cần quan tâm đến ĐBQH tái cử, nâng cao tỷ lệ ĐBQH tái cử
trong các nhiệm kỳ Quốc hội. Việc hạn chế tuổi tái cử đối với ĐBQH chỉ nên áp
dụng đối với các ĐBQH hoạt động chuyên trách tại các cơ quan chuyên môn của
Quốc hội hay nói cách khác là đối với các đại biểu giữ các chức vụ có hưởng lương
143
và phụ cấp tại các cơ quan của Quốc hội. Đối với các đại biểu kiêm nhiệm chỉ hưởng
phụ cấp hoạt động đại biểu không hạn chế tuổi tái cử.
Bên cạnh đó, trong bồi dưỡng kỹ năng HĐGS cho ĐBQH, cần chú ý đến các
đại biểu tham gia Quốc hội lần đầu, cần xây dựng cơ chế chuyển giao tri thức hoạt
động đại biểu dân cử bằng cách tổ chức các diễn đàn để đại biểu trao đổi kinh nghiệm
hoạt động, như tổ chức hội thảo, tọa đàm, tập huấn chuyên môn, cung cấp giáo trình,
tài liệu, thực tế, thăm quan trao đổi kinh nghiệm trong và ngoài nước, v.v.. Thông qua
các diễn đàn này, ĐBQH được cung cấp, chia sẻ những thông tin, kinh nghiệm bổ ích
của nghề đại biểu dân cử.
Cần xác định các kỹ năng giám sát cần bồi dưỡng cho ĐBQH. Trong hoạt động
của mình, ĐBQH thường phải thực hiện các công việc như gặp gỡ, tiếp xúc cử tri, thu
thập, phân tích thông tin, phân tích báo cáo, quyết định vấn đề, phát biểu, tranh luận,
v.v.. Do vậy, ĐBQH cần được trang bị các kỹ năng cần thiết như: kỹ năng giao tiếp,
đàm phán, trong đó có kỹ năng tiếp xúc với báo chí, truyền thông và cử tri; kỹ năng
phân tích và đánh giá thông tin; kỹ năng phát biểu và tranh luận; kỹ năng ra quyết
định; kỹ năng lập kế hoạch, tổ chức công việc…
ĐBQH cần có các kỹ năng sử dụng cho cho tất cả các HĐGS: kỹ năng thu thập,
nghiên cứu, phân tích, xử lý thông tin và lựa chọn vấn đề giám sát; kỹ năng tham vấn ý
kiến chuyên gia, tham vấn công chúng; kỹ năng phát biểu ý kiến; kỹ năng tranh luận;
kỹ năng trình bày, xử lý và thông báo về kết quả giám sát; kỹ năng sử dụng các
phương tiện thông tin đại chúng để hỗ trợ HĐGS. Bên cạnh đó, đối với từng nội dung
HĐGS khác nhau, ĐBQH cần có các kỹ năng riêng. Đối với hoạt động chất vấn cần có
kỹ năng lựa chọn vấn đề chất vấn, kỹ năng đặt câu hỏi chất vấn, kỹ năng lựa chọn đối
tượng chất vấn; kỹ năng tranh luận về vấn đề đã chất vấn; kỹ năng theo đến cùng các
vấn đề đã chất vấn. Đối với HĐGS việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của
công dân: kỹ năng phân tích chính sách, kỹ năng sử dụng các công cụ hỗ trợ; kỹ năng
khai thác thông tin từ cử tri; kỹ năng lựa chọn đơn, thư, vấn đề kiến nghị để theo dõi,
đôn đốc và tiến hành các HĐGS. ĐBQH cũng cần có kỹ năng giám sát các lĩnh vực
chuyên môn sâu như giám sát ngân sách, giám sát việc thi hành pháp luật về môi
144
trường... Đối với đại biểu kiêm nhiệm cần có kỹ năng lập kế hoạch, quản lý thời gian
và tận dụng lợi thế của đại biểu kiêm nhiệm… Đối với đại biểu dân tộc cần có kỹ năng
vận động cử tri, kỹ năng phát biểu ý kiến…, đối với đại biểu nữ cần có kỹ năng lồng
ghép giới và bảo vệ quyền trẻ em trong HĐGS.
* Nâng cao uy tín của đại biểu Quốc hội
Uy tín của ĐBQH gắn liền với danh tiếng và hình ảnh của đại biểu trước công
chúng, trên các phương tiện truyền thông và trước cử tri, tạo ra niềm tin từ phía cử tri
đối với ĐBQH. Uy tín của ĐBQH được thể hiện qua sự đánh giá, ghi nhận của cử tri
đối với kết quả hoạt động của đại biểu. Đó vừa là động lực, vừa là áp lực xã hội thúc
đẩy hoạt động của đại ĐBQH. Vì vậy, ngay từ khi ứng cử và trong công việc, sinh
hoạt của mình, mỗi ĐBQH cần tạo dựng một hình ảnh đẹp đẽ, ấn tượng trước cử tri.
Trước hết, ĐBQH cần xây dựng kế hoạch hành động và thực hiện tốt chức
trách, nhiệm vụ đại biểu của mình. ĐBQH phải luôn ý thức được rằng, mình phải làm
thật tốt từng việc mà người dân đã tin tưởng và gửi gắm và ủy quyền cho đại biểu; xác
định cho mình thứ tự ưu tiên trong kế hoạch làm việc của cá nhân. Để xây dựng hình
ảnh và nâng cao uy tín của đại biểu, gây dựng sự tin tưởng của cử tri, ĐBQH cần làm
tốt vai trò người đại diện cho cử tri, thay mặt cử tri quyết định các vấn đề quan trọng
của đất nước, phát biểu thể hiện rõ chính kiến của mình về những vấn đề bức xúc,
được dư luận và cử tri quan tâm.
ĐBQH cũng cần dành thời gian nhiều hơn cho việc tiếp xúc cử tri, lắng nghe,
tiếp thu ý kiến, kiến nghị của cử tri, giúp đỡ cử tri thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo và
sát cánh cùng cử tri giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị. Đặc biệt,
ĐBQH cần thực hiện đầy đủ, có trách nhiệm những lời hứa danh dự trước cử tri, qua
đó nâng cao uy tín của mình.
4.2.5. Tăng cường đội ngũ chuyên gia, bộ máy giúp việc, cung cấp thông tin
và nguồn lực tài chính hỗ trợ hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội
Một là, tăng cường đội ngũ chuyên gia và bộ máy giúp việc của đại biểu Quốc hội
145
Trước yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, để nâng cao hiệu
lực, hiệu quả HĐGS của ĐBQH, cần tăng cường, phát huy vai trò của đội ngũ chuyên
gia và bộ máy giúp việc của của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và bản thân các
ĐBQH. Cần có cơ chế hoạt động và chính sách phát triển đối với đội ngũ tham mưu
giúp việc cho cá nhân ĐBQH.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, chưa thể bố trí chế độ thư ký giúp việc cho
tất cả các ĐBQH. Nhưng chúng ta đang tiến tới một Quốc hội hoạt động chuyên
nghiệp, do đó, cần quan tâm đến hoạt động của ĐBQH chuyên trách, bố trí thư ký giúp
việc cho mỗi ĐBQH hoạt động chuyên trách. Thư ký ĐBQH chuyên trách là những
người làm việc theo chế độ hợp đồng, theo nhiệm kỳ của ĐBQH hoặc theo công việc
(khác với công chức trong bộ máy giúp việc chung của Quốc hội và các cơ quan của
Quốc hội). Để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động nói chung và khả năng thực
hiện các HĐGS nói riêng, ĐBQH chuyên trách rất cần người giúp việc có kinh
nghiệm, am hiểu về những lĩnh vực chuyên môn cụ thể để tham mưu cho họ.
Ở nước ta hiện nay, đội ngũ các luật gia, luật sư của các công ty luật hoặc
những người hoạt động tự do khá đông đảo. Việc ký hợp đồng làm việc bán thời gian
của đội ngũ này cho ĐBQH là có tính khả thi vì đây là một công việc phù hợp với
chuyên môn, giúp nâng cao địa vị, uy tín xã hội, nghề nghiệp cho luật sư, lại không
hoàn toàn bó buộc về thời gian và các luật sư vẫn có thể hành nghề chính của mình. Vì
vậy, cần nghiên cứu để áp dụng chế độ giúp việc bán thời gian cho ĐBQH, qua đó
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động nói chung và HĐGS nói riêng của ĐBQH.
Cần sử dụng, khai thác có hiệu quả nguồn chuyên gia đến từ các trường đại học,
các viện nghiên cứu của nhà nước, các chuyên gia thuộc Văn phòng Quốc hội. Việc
lập một cơ sở dữ liệu về các chuyên gia trong các lĩnh vực khác nhau, bao gồm hồ sơ,
lý lịch khoa học vắn tắt và các hướng nghiên cứu chuyên sâu… là rất cần thiết để có
thể trợ giúp, tư vấn, cung cấp dịch vụ nghiên cứu, phục vụ cho HĐGS của ĐBQH. Từ
đội ngũ chuyên gia, ĐBQH có thể chủ động tiếp cận, yêu cầu cung cấp tư vấn hoặc
dịch vụ nghiên cứu về những nội dung cần thiết theo nhu cầu công việc của ĐBQH.
146
Bên cạnh đó, có thể sử dụng lực lượng tình nguyện viên là sinh viên các trường
trường đại học, học viện hoặc thành viên các tổ chức xã hội để giúp việc cho ĐBQH.
Các đơn vị, tổ chức trong Văn phòng Quốc hội như Vụ tổ chức - cán bộ, Chi hội luật gia
Văn phòng Quốc hội... cần trở thành cầu nối giữa lực lượng tình nguyện viên với
ĐBQH.
Hai là, tăng cường cung cấp thông tin hỗ trợ HĐGS của ĐBQH.
Để thực hiện các công việc giám sát, ĐBQH cần được cung cấp những thông
tin cần thiết. Nguồn thông tin này cần phải khách quan, cụ thể, chính xác và kịp thời.
ĐBQH có thể thu nhận thông tin từ nhiều nguồn khác nhau: từ cử tri, Văn phòng Quốc
hội, Văn phòng các Đoàn ĐBQH, Viện nghiên cứu lập pháp; từ các chuyên gia, các
nhà nghiên cứu, các cơ sở giáo dục và đào tạo; từ các các hiệp hội, doanh nghiệp; từ
báo chí, truyền thông…
Nguồn thông tin trên rất phong phú, đa chiều, được xem, đánh giá theo nhiều
cách tiếp cận khác nhau, do đó, trên cơ sở thu thập, tập hợp thông tin, ĐBQH cần có
sự chắt lọc, phân loại thông tin. Các thông tin cần thiết phục vụ HĐGS của ĐBQH là
các thông tin chuyên sâu về một lĩnh vực, một văn bản hoặc một vụ việc cụ thể. Tùy
theo mỗi HĐGS khác nhau (giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân,
giám sát một chuyên đề hay chất vấn về một chính sách…) mà đại biểu nắm bắt, xử lý
những thông tin cụ thể khác nhau. Đồng thời, ở mỗi công đoạn của quy trình giám sát,
đại biểu sẽ cần những loại thông tin cụ thể phục vụ cho HĐGS của mình.
ĐBQH cũng cần dựa vào các cơ quan chuyên môn, đội ngũ chuyên gia, giúp
việc để được cung cấp nguồn thông tin cần thiết, có chất lượng. Để đưa ra những phân
tích, đánh giá chính xác về các vụ việc, vấn đề giám sát, các thông tin cần phải qua xử
lý bởi đội ngũ chuyên gia, thư ký, giúp việc cho ĐBQH. Các cơ quan như Văn phòng
Quốc hội, các Viện nghiên cứu là những nơi cung cấp nguồn thông tin chính xác, được
nghiên cứu, sàng lọc, rất cần thiết, hữu ích cho HĐGS của ĐBQH.
Ba là, tăng cường nguồn lực tài chính hỗ trợ HĐGS của ĐBQH.
147
Để ĐBQH được giải phóng bởi áp lực cuộc sống, việc tăng cường nguồn lực tài
chính hỗ trợ hoạt động giám sát là một trong những bảo đảm quan trọng để ĐBQH có
thể giám sát khách quan, chí công vô tư và đạt hiệu quả cao. Trong điều kiện hiện nay,
tăng cường nguồn lực tài chính hỗ trợ hoạt động giám sát của ĐBQH cần chú trọng
các biện pháp như:
Trước hết, cần nghiên cứu, bổ sung quy định về chế độ tài chính phục vụ
HĐGS của ĐBQH với tư cách là một chủ thể giám sát độc lập. Đồng thời, quy định cụ
thể và hướng dẫn thực hiện khoản tiền thù lao cho chuyên gia và bộ máy giúp việc của
ĐBQH phục vụ HĐGS của cá nhân ĐBQH. Chúng ta đang hướng tới việc bố trí thư
ký giúp việc cho ĐBQH chuyên trách, do đó, cần nghiên cứu, tính toán việc cấp cho
ĐBQH chuyên trách một khoản tài chính nhất định để có thể thuê thư ký giúp việc.
Những quy định về chế độ, tài chính cần hướng dẫn rõ nội dung, định mức chi
mà ĐBQH có thể được sử dụng để tiến hành HĐGS cụ thể như: nghiên cứu nội dung,
chương trình giám sát, xây dựng kế hoạch giám sát, triển khai HĐGS, theo dõi kết quả
xử lý kiến nghị giám sát hoặc giám sát lại khi cần thiết…
Cần thực hiện đầy đủ, nhanh gọn các quy định hiện hành về chế độ, chính sách
đối với ĐBQH. Trong đó, việc thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách tài chính của
ĐBQH cần phải là biện pháp quan trọng hàng đầu, đòi hỏi phải thực hiện tốt hơn.
Trong lĩnh vực chế độ, chính sách cho ĐBQH, các thủ tục cần đơn giản hơn, tạo điều
kiện dễ dàng trong thanh toán tài chính, qua đó tạo động lực hoạt động cho ĐBQH.
Một giải pháp cơ bản, mang tính lâu dài là nghiên cứu, điều chỉnh một cách
toàn diện chế độ lương, phụ cấp của ĐBQH, bao gồm đại biểu kiêm nhiệm và đại biểu
chuyên trách. Trong đó, cần quan tâm đến đội ngũ ĐBQH chuyên trách, coi đây là đối
tượng cần có những chính sách hỗ trợ tài chính đặc biệt để họ có thể toàn tâm, toàn ý,
tích cực thực hiện nhiệm vụ, sẵn sàng đóng góp trí tuệ, sức lực của mình cho Quốc
hội, cho nhân dân. Một chính sách lương, phụ cấp thỏa đáng, điều kiện làm việc, sinh
hoạt được cải thiện tất yếu sẽ thu hút được đông đảo đội ngũ cán bộ, chuyên gia, trí
thức giỏi từ các bộ, ngành, địa phương tham gia công việc của Quốc hội, trở thành
148
ĐBQH chuyên trách, từ đó nâng cao chất lượng của ĐBQH, chất lượng HĐGS của
ĐBQH.
Tăng cường nguồn lực tài chính không những làm giảm áp lực cuộc sống, nâng
cao đời sống của ĐBQH mà còn tạo những điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện
phục vụ hoạt động nói chung và HĐGS của ĐBQH nói riêng. Khi được bảo đảm đầy
đủ về kinh phí và cơ sở vật chất, kỹ thuật, ĐBQH sẽ có những điều kiện cần thiết để
thực hiện HĐGS độc lập, chủ động và hiệu quả hơn. Nguồn lực tài chính là yếu tố
quan trọng để ĐBQH có thể thực hiện tốt HĐGS của mình, bảo đảm tính khả thi của
các quy định của pháp luật về quyền giám sát của ĐBQH. Vì vậy, cần chú trọng việc
tăng cường nguồn lực tài chính hỗ trợ HĐGS của ĐBQH trong điều kiện cụ thể của đất
nước.
3.2.6. Tăng cường sự phối hợp giữa hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội
với hoạt động giám sát của các cơ quan nhà nước, của Đảng và của nhân dân
Ở nước ta, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Vì vậy, để HĐGS của
ĐBQH có hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với thực tiễn hiện nay, cần có sự phối hợp
chặt chẽ giữa HĐGS của Quốc hội, ĐBQH với công tác thanh của Chính phủ,
HĐGS của các cơ quan tư pháp, của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính
trị - xã hội.
Thứ nhất, tăng cường sự phối hợp giữa HĐGS của ĐBQH với công tác thanh
tra của Chính phủ và HĐGS của cơ quan tư pháp.
Hiến pháp năm 2013 đã xác định nguyên tắc: quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các nhánh cơ quan trong bộ máy nhà
nước. Do đó, đổi mới, tăng cường HĐGS của Quốc hội, ĐBQH cần kết hợp chặt chẽ
với HĐGS của các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, phối hợp giữa HĐGS của
ĐBQH với công tác thanh của Chính phủ, HĐGS của các cơ quan tư pháp.
149
Điều 69, Hiến pháp quy định: “Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến,
quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối
với hoạt động của Nhà nước”. Trong bộ máy của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
đó, với vị trí là thành tố quan trọng nhất, ĐBQH cũng có một vị thế đặc biệt: là người
đại diện của nhân dân, là cầu nối của nhân dân với nhà nước, là người nói lên tiếng nói
của nhân dân ở diễn đàn quyền lực nhà nước, thay mặt nhân dân quyết định chính sách
xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời, giám sát việc triển khai thực hiện chính
sách, bảo đảm các chính sách được triển khai theo đúng mục đích đã định. Hiến pháp
và pháp luật tạo ra một vị thế “người đứng trên” cho ĐBQH trong mối quan hệ với các
cơ quan hành pháp và tư pháp.
HĐGS của ĐBQH cần kết hợp chặt chẽ với hoạt động thanh tra, giám sát của
các cơ quan hành pháp, tư pháp và coi trọng giám sát các quy định cũng như thực tế
sự phân công giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; chú trọng tính rõ
ràng, minh bạch, cụ thể trong sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan.
Cần tập trung hướng tới giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động, như
thể chế hóa, cụ thể hóa quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách lớn của
Đảng; ra quyết định và tổ chức hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước; cải cách
hành chính, cải cách tư pháp. Hoạt động giám sát cần đặt trọng tâm vào những vấn
đề bức xúc hiện nay, như việc rèn luyện, trau dồi phẩm chất chính trị, đạo đức,
năng lực chuyên môn, kết quả thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, công chức,
nhất là người đứng đầu các tổ chức, cơ quan nhà nước; thực hiện đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà, sách
nhiễu dân; thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán
bộ, công chức.
Thứ hai, tăng cường sự phối hợp giữa HĐGS của ĐBQH với công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng.
Ở nước ta, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong tổ chức và hoạt động của các
cơ quan nhà nước là nguyên tắc luôn được đặt ở vị trí quan trọng nhất. Theo đó,
150
HĐGS tối cao của Quốc hội nói chung và HĐGS của các cơ quan của Quốc hội,
ĐBQH nói riêng phải bảo đảm, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối hoạt động này.
Thực hiện tốt mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng với HĐGS
của ĐBQH, quy trình giám sát sẽ trở nên thống nhất, hiệu quả hơn, nhất là trong việc
thực hiện các công cụ kiến nghị thành lập ủy ban điều tra hoặc bỏ phiếu tín nhiệm có
liên quan đến nhân sự cấp cao thuộc thẩm quyền quản lý của các cơ quan đảng. Một cơ
chế ủy quyền của Đảng để các tổ chức đảng và đảng viên trong Quốc hội được quyết
định những vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của Quốc hội sẽ góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của HĐGS của ĐBQH.
Đồng thời, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả HĐGS của ĐBQH, cần tăng cường sự
phối hợp giữa HĐGS của ĐBQH với công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Cơ chế,
tổ chức và phương thức giám sát của Đảng phải bảo đảm cho công tác này tập trung
vào những vấn đề lớn về quan điểm, đường lối, chủ trương xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thật sự trong sạch,
vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; về thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối,
chủ trương, chính sách lớn của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các
chương trình mục tiêu lớn của Nhà nước. Công tác kiểm tra, giám sát cần đặt trọng
tâm vào những vấn đề quan trọng hiện nay, như vấn đề thực hành tiết kiệm, phòng
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, sách nhiễu dân; cải cách hành chính, cải
cách tư pháp; điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, nhất là những vụ án lớn, nghiêm
trọng gây bức xúc trong xã hội; việc rèn luyện phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán
bộ, công chức, nhất là người đứng đầu các tổ chức, cơ quan nhà nước; kiểm tra,
giám sát việc tuyển dụng, quy hoạch, luân chuyển, đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ,
công chức nhà nước.
Thứ ba, tăng cường sự phối hợp giữa HĐGS của ĐBQH với giám sát của
nhân dân.
Nhân dân có quyền giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước và các hoạt
động của Nhà nước bằng các quy định pháp luật trên tất cả các lĩnh vực, từ chức
năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức đến pháp luật, chính sách. Cần
151
đổi mới và tăng cường cả cơ chế, tổ chức và phương thức giám sát của nhân dân.
Chú trọng việc xây dựng và thực hiện quy chế giám sát (trực tiếp và gián tiếp) của
nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và chính quyền các cấp; trong đó
có cơ chế giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đại hội
lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ, việc tăng cường sự giám sát của nhân dân cần thực hiện
theo hướng: “Thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân” [20, tr.176].
Cơ chế, tổ chức và phương thức giám sát phải bảo đảm cho Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân giám sát bằng các hình thức quan trọng,
phổ biến, như bầu cử người đại diện hay thay thế, bãi miễn người đại diện của mình
trong các cơ quan quyền lực nhà nước; bằng những kiến nghị, phản biện đối với việc
ban hành và thực thi các chính sách của Nhà nước; bày tỏ quan điểm, chính kiến qua
trưng cầu dân ý đối với những vấn đề quan trọng của quốc kế dân sinh; bằng sự
thông tin, phản biện của các cơ quan khoa học, cơ quan ngôn luận, báo chí trên các
lĩnh vực quản lý, điều hành của cơ quan nhà nước.
Cơ chế, tổ chức và phương thức giám sát phải tạo điều kiện để nhân dân tích
cực, chủ động, công khai đóng góp các ý kiến, đồng thời tạo điều kiện để Nhà nước
thông tin phản hồi cho nhân dân hiểu rõ chủ trương, chính sách, pháp luật; xác định rõ
nội dung, phương thức, phạm vi, lĩnh vực, trình tự, thủ tục giám sát, phản biện xã hội
để vừa nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát, phản biện, vừa chống các hiện tượng
tiêu cực, vô tổ chức, lợi dụng giám sát, phản biện để xuyên tạc, đả kích hoặc vu khống
của kẻ xấu, v.v..
152
Kết luận chương 4
Trong giai đoạn hiện nay, tăng cường HĐGS của ĐBQH là một định hướng
quan trọng nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, quy tụ sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, bảo đảm cho mọi tầng lớp nhân dân tham gia
quản lý đất nước. Đây là quan điểm cơ bản, nhất quán trong lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam
Nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả HĐGS của ĐBQH, cần nghiên cứu, đánh giá
đúng thực trạng HĐGS của ĐBQH hiện nay, đồng thời quán triệt, thực hiện các quan
điểm cơ bản như: Tăng cường hoạt động giám sát của ĐBQH dựa trên quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân; gắn với việc cụ thể hóa, hoàn thiện Hiến pháp, pháp
luật; xuất phát trên cơ sở thực tiễn Việt Nam, kết hợp với sự tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm của các nước trên thế giới.
Các quan điểm trên định hướng cho việc đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
quả giám sát của ĐBQH trong thời gian tới. Đó là nhóm giải pháp về bảo đảm chính
trị, bao gồm: tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới cơ chế bầu cử
ĐBQH, cải cách chế độ kiêm nhiệm của ĐBQH, tăng cường mối quan hệ giữa ĐBQH
- cử tri; nhóm giải pháp về bảo đảm pháp lý, trọng tâm là sửa đổi các quy định về
phạm vi, hoạt động giám sát; nhóm giải pháp về nâng cao trình độ, kỹ năng, uy tín của
ĐBQH; nhóm giải pháp tăng cường sự phối hợp giữa hoạt động giám sát của ĐBQH
với công tác kiểm tra, giám sát của Đảng và giám sát của nhân dân.
Các nhóm giải pháp nêu trên liên quan chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, do
đó, cần được vận dụng một cách đồng bộ, toàn diện nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
HĐGS của ĐBQH trong thời gian tới.
153
C. KẾT LUẬN
Vấn đề hoạt động giám sát của Quốc hội và ĐBQH đã có nhiều công trình, đề
tài của không ít tác giả đã nghiên cứu khá toàn diện từ các góc độ tiếp cận khác nhau.
Những công trình đó đã xây dựng cơ sở phương pháp luận và đưa ra phương hướng,
giải pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của cơ quan dân cử, đại
biểu dân cử. Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn các công trình nghiên cứu đã
đề cập, luận án đã chỉ ra những nội dung cần tham khảo, kế thừa, bổ sung và hoàn
thiện. Việc nghiên cứu, đánh giá khái quát những kết quả đạt được, những vấn đề lý
luận và thực tiễn mà các công trình nghiên cứu đã đề cập là căn cứ để chỉ ra các vấn
đề còn bỏ ngỏ, cần được tiếp tục nghiên cứu, giải quyết.
Luận án đã trình bày một cách hệ thống và cơ bản những vấn đề lý luận liên
quan đến HĐGS của ĐBQH trong thực hiện vai trò đại diện cử tri; góp phần thực hiện
việc kiểm soát quyền lực nhà nước, kiểm soát quản lý công và hỗ trợ tích cực cho hoạt
động hoạch định và thực thi chính sách. Đại biểu Quốc hội là các chủ thể, tham gia vào
HĐGS của các thủ thể khác và tiến hành các HĐGS độc lập, làm tiền đề cho HĐGS tối
cao của Quốc hội. HĐGS của ĐBQH gồm: chất vấn, giám sát văn bản quy phạm pháp
luật, giám sát việc thi hành pháp luật tại địa phương; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị của công dân. Để ĐBQH thực hiện được quyền hạn, trách nhiệm của
mình trong HĐGS, cần phải có những điều kiện đảm bảo cần thiết, giúp ĐBQH có
được cơ sở pháp lý, vị thế, bản lĩnh chính trị và năng lực thực thi nhiệm vụ.
Luận án đã phân tích làm rõ HĐGS của ĐBQH theo Luật Hoạt động giám sát
của Quốc hội và Hội đồng nhân dân số 87/2015/QH13 và các quy định có liên quan
khác, hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Giám sát của đại biểu quốc hội đã tập trung vào những vấn đề mà thực tiễn cuộc sống
đòi hỏi, xã hội quan tâm và ngày càng công khai, minh bạch. Hoạt động giám sát vì
vậy được nhân dân đánh giá cao, qua đó góp phần nâng cao vai trò, uy tín của các cơ
quan dân cử. Song bên cạnh những kết quả tích cực đó, thực tiễn hoạt động giám sát
của đại biểu Quốc hội cũng bộc lộ những mặt hạn chế, bất cập. Ý kiến của các đại biểu
dân cử cũng như các nhà quản lý, nhà khoa học khá thống nhất ở một đánh giá tổng
154
quát là hiệu quả, hiệu lực hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội còn chưa cao.
Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau và một trong những nguyên nhân
chủ yếu là các quy định pháp luật về giám sát còn nhiều bất cập cả về chủ thể, đối
tượng, nội dung, phạm vi, hình thức giám sát…
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, luận án đề xuất các quan điểm, giải pháp tăng
cường HĐGS của ĐBQH. Những quan điểm và giải pháp này có tính đồng bộ, hệ
thống bao quát tất cả những mặt, những yếu tố tác động đến chất lượng, hiệu quả của
HĐGS của ĐBQH như sự lãnh đạo, chỉ đạo, hệ thống pháp luật, năng lực của ĐBQH,
công tác tham mưu, hỗ trợ, phối hợp, cung cấp thông tin, nguồn lực tài chính... Việc
thực hiện tốt các giải pháp này sẽ thực sự tạo ra sức mạnh kiểm soát quyền lực nhà
nước thông qua HĐGS, góp phần làm cho bộ máy nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu
quả, đúng thẩm quyền, chức năng, góp phần bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhân dân.
155
D. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Thái Ngọc Châu, “Nâng cao hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội về
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận
chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh – Học viện Chính trị khu vực III,
số 04 (145)/2017.
2. Thái Ngọc Châu, “Bàn về hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội đối với
việc thực hiện chính sách, pháp luật về an toàn thực phẩm”, Tạp chí Khoa học Chính
trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Học viện Chính trị khu vực II, số
8/2017.
3. Thái Ngọc Châu, Trần Viết Quang (2020), “Vấn đề quyền lực nhà nước và
giám sát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 3/2020
4. Thai Ngọc Chau, Nguyen Thi My Huong, Nguyễn Thi Diep (2020),
“Improving quality of supervision activities of theVietnam national assembly”,
European Journal of Humanities and Social Sciences Scientific journal, № 6 2020
ISSN 2414-2344, p.116-118, https://doi.org/10.29013/EJHSS-20-6-116-118.
5. Thai Ngoc Chau, Vu Thi Phuong Le (2020) “Theory and philosophy of
politics, history and methodology of political science”, European Journal of Law and
Political Sciences Scientific journal, № 3 2020, ISSN 2310-5712, p.40-47,
https://doi.org/10.29013/EJLPS-20-3-40-47.
6. Thái Ngọc Châu, Trần Viết Quang, Lê Thị Thanh Hiếu, “Giáo dục ý thức
chính trị cho sinh viên các trường đại học hiện nay”, Tạp chí Khoa học – Đại học
Vinh, Tập 49- 3B/2020.
7. Thái Ngọc Châu, Đinh Thế Định, “Vấn đề cải cách bộ máy nhà nước trong
tác phẩm “Thà ít mà tốt” của V.I.Lênin, Tạp chí Khoa học chính trị, số 10/2020.
156
E. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Quang Anh (2015), Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát
quyền lực Nhà nước ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
2. Ban Công tác đại biểu (2012-2013), Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của
đại biểu Quốc hội, năm 2012-2013, do Quỹ Châu Á tài trợ.
3. Ban dân nguyện của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2016), Báo cáo tổng kết
nhiệm kỳ khóa XIII, Hà Nội.
4. Ban thư ký (2016), Báo cáo tổng hợp ý kiến của đại biểu Quốc hội thảo luận ở
Tổ về Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Bính (2011), Tiêu chuẩn, cơ cấu đại biểu Quốc hội, đại biểu
HĐND” tham luận tại Hội thảo Pháp luật về đại biểu Quốc hội trong giai đoạn
hiện nay - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Viện nghiên cứu lập pháp.
6. Bộ Nội vụ, Viện Khoa học tổ chức nhà nước (2016), Cẩm nang đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Nguyễn Khắc Bộ (2001), Công tác giám sát tại kỳ họp Hội đồng nhân dân -
Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Hội
đồng nhân dân, Kỷ yếu nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát của Hội đồng
nhân dân, Văn phòng Quốc hội.
8. Chính phủ (2015), Báo cáo số 627/BC-CP ngày 15/11/2015 về việc thực hiện
các nghị quyết của Quốc hội về chất vấn và giám sát chuyên đề, Hà Nội.
9. Chính phủ (2016), Báo cáo số 420/BC-CP ngày 17 tháng 10 năm 2016 về công
tác giải quyết khiếu nại tố cáo năm 2016, Hà Nội.
10. Lương Phan Cừ (2009), “Có gió lung mới biết tùng bách cứng”, HĐGS của
ĐBQH - Những câu chuyện kể, Nxb Chính trị - Hành chính.
157
11. Nguyễn Đăng Dung (2017), Kiểm soát quyền lực nhà nước, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội 2017
12. Nguyễn Sỹ Dũng (chủ biên) (2004), Quyền giám sát của Quốc hội, nội dung và
thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
13. Nguyễn Sĩ Dũng - Vũ Công Giao (2015) Hoạt động giám sát của cơ quan dân
cử ở Việt Nam: vấn đề và giải pháp, Nxb Hồng Đức
14. Vũ Đức Đán (Chủ biên) (2002), Hiến pháp và luật tổ chức bộ máy Nhà nước,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của
Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội
21. Đoàn thư ký kỳ họp Quốc hội (2015), Báo cáo tổng hợp nội dung thẩm tra của
HĐDT, các UB của Quốc hội về việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về
HĐGS chuyên đề, hoạt động chất vấn từ đầu nhiệm kỳ khoá XIII đến năm 2015,
ngày 14/11/2015, Hà Nội.
158
22. Trần Ngọc Đường (2012), Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực với việc sửa
đổi Hiến pháp năm 1992, Sách chuyên khảo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Lê Văn Giảng - Cao Văn Thống (2015), Phương thức lãnh đạo của Đảng trong
công tác kiểm tra, giám sát, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Trương Thị Hồng Hà (Chủ biên) (2015), Hoạt động giám sát của Quốc hội Việt
Nam trong cơ chế giám sát quyền lực nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
25. Khuất Duy Kim Hải (2015), Hệ thống toàn văn 11 luật và nghị quyết của quốc
hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Nxb Hồng Đức.
26. Xuân Hải (2015), “Nữ ĐBQH Bùi Thị An: Tôi không phải là “bưu tá” của cử
tri”, Báo Lao động, số ra ngày 06/03/2015.
27. Vũ Thị Mỹ Hằng (2010), “Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc
hội Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nhịp cầu tri thức, số 9 (33) , tr.24-27
28. Lê Văn Hòa (2016), Giám sát và đánh giá Chính sách công, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
29. Trần Đình Huề (2001), Mấy vấn đề về vai trò hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân và bước đầu xây dựng quy trình một cuộc giám sát, Kỷ yếu nâng cao
năng lực và hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân-Văn phòng Quốc hội.
30. Phạm Văn Kỳ (1996), Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
31. Nguyễn Đức Lam (2016), Quốc hội không phải nơi “im lặng là vàng”, Tuần
Việt Nam net, ngày 29/03/2016.
32. V.I. Lênin (2005), Toàn tập, tập 43, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội.
33. V.I. Lênin (2005), Toàn tập, tập 46, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội.
159
34. Đặng Đình Luyến (2017), Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế độ bầu cử ở
nước ta phù hợp với Hiến pháp 2013, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện nghiên cứu
lập pháp, Ủy ban thường vụ Quốc hội chủ quản.
35. Lê Quốc Lý (2014), Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta, Nxb Chính trị
quốc gia – Sự thật, Hà Nôi.
36. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
37. C.Mác, Ph.Ăngghen (1997), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
38. C.Mác, Ph.Ăngghen (1997), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
39. Trần Tuyết Mai (2009), Cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu lực
và hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
40. Vũ Mão (2009), “Chất vấn”, hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội - Những
câu chuyện kể, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2011), Toàn
tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
41. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
42. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
43. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
44. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
45. Nguyễn Thị Kim Ngân - Nguyễn Sinh Hùng (2016), Quốc hội khóa XIII, kế
thừa, đổi mới và phát triển, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Nguyên Nhung (2013), Nâng cao hiệu quả giám sát là đòi hỏi của cử tri, Người
Đại Biểu Nhân Dân, (số 339).
47. Trần Thị Diệu Oanh (2015), Về minh bạch hóa hoạt động chính quyền địa
phương, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
48. Hoàng Phê - Chủ biên (2016), Từ điển tiếng Việt, Nxb Hồng Đức.
160
49. Nguyễn Thái Phúc (2000) “Về hoạt động giám sát của Quốc hội”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 5.
50. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Luật tổ chức Quốc
hội số 30/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001, Hà Nội.
51. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Quy chế hoạt động
của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội ban hành theo Nghị quyết của
Quốc hội số 08/2002/QH11
52. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật Hoạt động
giám sát của Quốc hội số 05/2003/QH11 ngày 17 tháng 6 năm 2003, Hà Nội.
53. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Luật hoạt động giám
sát của Quốc hội (phần 1), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Luật hoạt động giám
sát của Quốc hội (phần 2), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Văn kiện Quốc hội toàn
tập - Tập 8 (1992-1997)- Quyển 4 (1996-1997), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
56. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
57. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật tổ chức Quốc
hội số 57/2014/QH13 ngày 20 tháng 11 năm 2014, Hà Nội.
58. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật Hoạt động
giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân số 87/2015/QH13 ngày 20 tháng
11 năm 2015, Hà Nội.
59. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Nội quy kỳ họp
Quốc hội (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 102/2015/QH13 ngày 24 tháng 11
năm 2015)
161
60. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016), Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các luật về tổ chức bộ máy Nhà nước,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
61. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016), Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 2015 và nghị định hướng dẫn thi hành, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
62. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016), Quốc hội Việt Nam
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
63. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Đại biểu Quốc hội
khóa XIV 2016 – 2021, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội
64. Quốc hội khóa XIV, Ủy ban về các vấn đề xã hội (2019), Báo cáo Kết quả giám sát
chuyên đề 10 năm (2009-2018) thực hiện Nghị quyết số 18/2008/QH12 ngày
03/6/2008 của Quốc hội khóa XII về đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật xã hội
hóa để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, Hà Nội.
65. Nguyễn Đình Quyền (2009), Hoàn thiện pháp luật về đại biểu Quốc hội ở Việt Nam
hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
66. Đặng Đình Tân (2006), Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
67. Bùi Ngọc Thanh (2012), “Những vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện về điều kiện hoạt
động của đại biểu Quốc hội”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc
hội, số (1 + 2)
68. Đinh Xuân Thảo (2011), Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động chất vấn của
đại biểu Quốc hội, tham luận tại Hội thảo Pháp luật về đại biểu Quốc hội trong
giai đoạn hiện nay - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Viện nghiên cứu lập
pháp.
69. Lê Như Tiến (2016), Dấu ấn nghị trường, (sách tập hợp các bài phát biểu trên
nghị trường của đại biểu Quốc hội Lê Như Tiến), Hà Nội.
162
70. Vũ Thị Hồng Trang (2020), Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động
chất vấn của đại biểu quốc hội ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Chính trị
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
71. Nguyễn Thế Trung (2014), “Phát huy quyền làm chủ của nhân trong kiểm soát,
giám sát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 5.
72. Vũ Anh Tuấn (2009), Giám sát xã hội trong Nhà nước pháp quyền, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 13(150).
73. Đặng Minh Tuấn, Vũ Công Giao (2016), Hỏi - đáp về luật bầu cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
74. Nguyễn Minh Tường (2015), Tổ chức bộ máy Nhà nước quân chủ Việt Nam (từ
năm 939 đến năm 1884), Nxb Khoa học xã hội.
75. Hoàng Văn Tú (2012), Cơ sở pháp lý của hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, Tọa đàm về Hoàn thiện pháp luật về hoạt động chất
vấn tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hà Nội.
76. Tuyển tập Hiến pháp một số nước trên thế giới (2009), Nxb. Thống kê, Hà Nội.
77. Đào Trí Úc - Võ Khánh Vinh (2003), Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện
quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
78. Ủy ban pháp luật (2016), “Báo cáo số 3630/BC-UBPL13 ngày 28 tháng 01 năm
2016 Tổng kết công tác của Ủy ban pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII
(2011 - 2016)”, Hà Nội.
79. Ủy ban thường vụ Quốc hội, Viện nghiên cứu lập pháp (2016), Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Kế thừa, đổi mới và phát triển, Nxb
Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội
80. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2016), “Báo cáo số 1065/BC-UBTVQH13 ngày 20
tháng 3 năm 2016 Tổng kết công tác của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhiệm kỳ
Quốc hội khóa XIII (2011 - 2016)”, Hà Nội.
163
81. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2016), “Báo cáo số 44/BC - UBTVQH14 của
UBTVQH, ngày 31 tháng 10 năm 2016 về Kết quả giám sát “Việc thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (giai đoạn 2010-2015)
gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp”, Hà Nội.
82. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2016), Báo cáo số 34/BC-UBTVQH14 về kết quả
tiếp công dân, xử lý đơn, thư và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân gửi đến Quốc hội năm 2016.
83. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2017), Báo cáo số 202/BC-UBTVQH14 về kết quả
tiếp công dân, xử lý đơn, thư và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân gửi đến Quốc hội năm 2017.
84. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2018), Báo cáo số 410/BC-UBTVQH14 về kết quả
tiếp công dân, xử lý đơn, thư và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân gửi đến Quốc hội năm 2018
85. Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2016), “Báo cáo số
259/BCMTTW-BTT ngày 80/7/2016 tổng kết công tác Mặt trận tham gia cuộc
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
nhiệm kỳ 2016-2021”, Hà Nội.
86. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2016), “Báo cáo số 300/BC-
MTTW-ĐCT ngày 19 tháng 10 năm 2016 về tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri
và Nhân dân tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XIV”, Hà Nội.
87. Văn phòng Quốc hội (2005), Quốc hội Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực
tiễn”, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
88. Văn phòng Quốc hội (2006), Cơ quan lập pháp và hoạt động giám sát, Tài liệu
tham khảo, Hà Nội.
89. Văn phòng Quốc hội (2006), Thường thức về hoạt động giám sát của Quốc hội,
NxbTư pháp, Hà nội.
164
90. Văn phòng Quốc hội và SIDA (2007), Báo cáo Nghiên cứu đánh giá hiệu quả
hoạt động giám sát của Quốc hội, Hà Nội.
91. Văn phòng Quốc hội (2015), Hoạt động giám sát của cơ quan dân cử ở Việt Nam
- Vấn đề và giải pháp, Viện Chính sách công, Nxb Hồng Đức.
92. Văn phòng Quốc hội (2015), Báo cáo đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát của
Quốc hội, Hà Nội.
93. Văn phòng Quốc hội (2016), Báo cáo Kết quả chuyến công tác tại Xinh-ga-po
và Ba Lan trong khuôn khổ chương trình hợp tác với JICA về nghiên cứu so
sánh về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, ngày 19 tháng 5 năm 2016.
94. Văn phòng Quốc hội (2016), 70 năm ngày tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội
Việt Nam (6/01/1946 - 6/01/2016).
95. Lê Thanh Vân (2003), Cơ sở lý luận của việc đổi mới cơ cấu tổ chức và phương
thức hoạt động của Quốc hội ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
96. Lê Thanh Vân (2007), Một số vấn đề về đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc
hội, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
97. Lê Thanh Vân, Trần Ngọc Đường (2010), Phân công, phối hợp và kiểm soát
quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đề
tài khoa học mã số KX.04-28/6-10, UBTVQH, Viện nghiên cứu lập pháp, Hội
đồng lý luận trung ương và Bộ khoa học công nghệ, Hà Nội.
98. Lê Thanh Vân (2011), Hoàn thiện các quy định của pháp luật về chất vấn và trả
lời chất vấn của đại biểu Quốc hội, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ thuộc
Viện nghiên cứu lập pháp của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
99. Viện Khoa học Pháp lý (2006) Từ điển Luật học NXb Từ điển Bách khoa, Tư
pháp, Hà Nội
100. Viện Nghiên cứu lập pháp (2013), Kỷ yếu Hội thảo “Hoạt động giám sát của
Quốc hội”, Nxb Lao động.
165
101. Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
102. Trịnh Thị Xuyến (2006), Kiểm soát quyền lực nhà nước: Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
103. http://quochoi.vn/Pages/default.aspx, Cổng thông tin điện tử Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
104. http://baochinhphu.vn Báo điện tử Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
105. http://baothanhhoa.vn/thoi-su/tong-ket-cong-tac-boi-duong-dai-bieu-dan-cu-
nam-2019/111757.htm
106. https://laodong.vn/infographic/infographic-diem-thu-vi-o-phien-chat-van-ky-
hop-thu-8-quoc-hoi-khoa-xiv-769527.ldo
107. https://phutho.gov.vn/vi/ket-qua-ky-hop-thu-6-quoc-hoi-khoa-xiv.
108. https://thoibaokinhdoanh.vn/viet-nam/ky-hop-thu-5-quoc-hoi-khoa-xiv-cau-hoi-
va-tra-loi-chat-van-dat-ky-luc-1048311.html
109. http://moj.gov.vn/cttk/Pages/home.aspx, Trang thông tin điện tử Công tác thống
kê ngành tư pháp, Biểu số 4b,c năm 2015
Tiếng Anh
110. Joel D. Aberbach (2012), Changes in Congressional Oversight, American
Behavioral Scientist Press.
111. Ken Coghill, Peter Holland, Kevin Rozzoli, Genevieve Grant (2007), “Tìm hiểu
nhu cầu của tân nghị sĩ: Nghiên cứu chương trình tập huấn dành cho các
thượng nghị sĩ mới được bầu ở Úc”, Hội thảo về Phương pháp tập huấn cho nghị
sỹ, Hà Nội.
112. Robert A.Dahl (1981), Democracy and Critics, St. Martin’s Press, NewYork, p.8.
166
113. Alain Delcamp, Secretary General of the Senate of France (2008), “The
autonomy of Parliaments: response to a questionnaire”, Constitutional &
Parliamentary Information, (195).
114. Jonh Dewwey (1927), The public and it's problems, Mich J Race Law 9 no1Fall.
115. P. Falconer, M. Smith, C.W.R. Webster (2001), Managing Parliament in the
21st Century: EGPA Yearbook (Quản trị nghị viện trong thế kỷ 21: Niên giám
Egpa), Nxb Ios Pr Inc
116. Stephen Hess (2015), “America’s Political Dynasties from Adams to Clinton”
NXB Brookings Institution.
117. Michael Mann (1986), The Sources of Social Power, Cambridge University
Press
118. Jane Mansbridge-Cathie Jo Martin (2015), “Political Negotiation” (Đàm phán
chính trị), Nxb Brookings Institution.
119. Walter Oleszek (2010), Congressional Oversight: An overview (Giám sát quốc
hội: Tổng quan), Congressional Research Service.
120. Ricardo Pelizzo, Rick Stapenhurst, Học viện Ngân hàng thế giới (2006), “Các
công cụ giám sát của nghị viện: Báo cáo điều tra thực chứng”, Cơ quan lập
pháp và hoạt động giám sát, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội.
121. Stanley M. Brand & Lance Cole (2010), Congressional Investigations and
Oversight: Case Studies and Analysis (Điều tra và Giám sát của Quốc hội:
Nghiên cứu điển hình và Phân tích), Carolina Academic Press.
167
F. PHỤ LUC