1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ Tính hiện đại trong kịch nói Việt
Nam về đề tài lịch sử là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các trích dẫn và
kết quả nêu trong luận án là trung thực và có xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 28 tháng 2 năm 2016
Tác giả luận án
Phạm Thị Hà
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................................1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN.................................................3
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................4
Chương 1: KHÁI NIỆM TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG NGHỆ THUẬT
SÂN KHẤU VÀ KỊCH NÓI ĐỀ TÀI LỊCH SỬ
1.1. Tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu qua nghiên cứu của các học giả .....11
1.2. Khái niệm tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu........................................26
1.3. Khái niệm về sân khấu đề tài lịch sử..............................................................28
1.4. Tính hiện đại trong kịch nói về đề tài lịch sử.................................................31
Tiểu kết ..................................................................................................................34
Chương 2: TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG CÁCH TIẾP CẬN,
TÁI HIỆN SỰ KIỆN LỊCH SỬ .........................................................36
2.1. Tổ chức lại sự kiện, hình thành diện mạo lịch sử mới trong tác phẩm ..........36
2.2. Phát hiện và phát triển ý nghĩa của sự kiện lịch sử ........................................52
2.3. Nhận thức lại sự kiện lịch sử ..........................................................................60
2.4. Hư cấu hợp lý sự kiện lịch sử.........................................................................75
Tiểu kết ................................................................................................................282
Chương 3: TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG CÁCH TIẾP CẬN,
SÁNG TẠO NHÂN VẬT LỊCH SỬ ...................................................84
3.1. Hiện thực hóa nhân vật lịch sử .......................................................................84
3.2. Đánh giá lại nhân vật lịch sử ..........................................................................97
3.3. Hiện thực hóa ngôn ngữ nhân vật lịch sử.....................................................107
3.4. Hư cấu nhân vật không có trong lịch sử.......................................................118
Tiểu kết ................................................................................................................128
KẾT LUẬN ............................................................................................................129
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ...............138
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................139
PHỤ LỤCP... .........................................................................................................145
3
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
TT Viết tắt Viết đầy đủ
Câu lạc bộ 1 CLB
Giáo sư GS
Giáo sư, Tiến sĩ 2 GS.TS
Huy chương Vàng HCV
Huy chương Bạc HCB
Nghiên cứu sinh 3 NCS
Nhà xuất bản 4 Nxb
Phó Giáo sư 5 PGS
6 PGS.TS Phó Giáo sư, Tiến sĩ
Sân khấu SK
Trang 7 tr
Tiến sĩ TS
8 VHNT Văn học nghệ thuật
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Làm sống lại những nhân vật, sự kiện và câu chuyện trong lịch sử luôn
là nguồn cảm hứng của sáng tạo văn học nghệ thuật ở nhiều quốc gia, dân tộc
trên toàn thế giới, bởi con người dù ở thời đại nào cũng đều mong muốn tìm
đến với cội nguồn của mình, muốn đi tìm câu trả lời cho những bí ẩn và
những tồn nghi quá khứ. Hơn thế nữa, lịch sử còn là điểm tựa văn hóa, là lòng
tự hào, tự tôn dân tộc, giúp con người hiểu cha ông và hiểu chính mình.
Đề tài lịch sử đã và luôn có sức hấp dẫn với những thế mạnh của riêng
nó, thông qua tác phẩm nghệ thuật, lịch sử không được tái hiện vì bản thân nó
mà bao giờ cũng hướng tới đời sống đương đại. Nói cách khác, sự trở về của
những nhân vật, sự kiện, câu chuyện lịch sử qua lăng kính sáng tạo của người
nghệ sĩ đương thời đã làm nên tính hiện đại cho tác phẩm. Tính hiện đại chính
là mối dây liên hệ giữa tác phẩm văn học nghệ thuật với đời sống đương đại,
là sự thẩm định sức sống của mỗi tác phẩm cùng với thời gian. Tính hiện đại
làm nên giá trị của tác phẩm sân khấu về đề tài lịch sử, đưa những vấn đề
được phản ánh trong tác phẩm vươn tới được tầm nhìn lịch sử, không tách
bạch sự kiện lịch sử của một thời với sự vận động liên tục của cả tiến trình
lịch sử. Khi đó, lịch sử trong tác phẩm không còn đơn thuần là sự chuyển dịch
từ con số và những sự kiện được liệt kê trong sử sách sang ngôn ngữ của hình
ảnh, của hình tượng nhân vật, mà là hành trình tiếp tục chặng đường mà các
sử gia dừng lại để có thể tìm tòi, tiên nghiệm một sự thật còn hơn cả sự thật
được ghi trong sử sách, đó là sự thật theo lòng người, theo lẽ đời mà con
người ở mọi thời đại khác nhau đều có thể đồng cảm, sẻ chia.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của mình, kịch nói Việt Nam đã
có những vở diễn về đề tài lịch sử để lại những dấu ấn đậm nét như Vũ Như
Tô, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc, Đêm trắng, Lịch sử và nhân
5
chứng, Bài ca Điện Biên… Song, so với bề dầy lịch sử hào hùng của dân tộc
thì đó vẫn là một số lượng khiêm tốn. Kịch nói Việt Nam về đề tài lịch sử
phần lớn thiếu sức hấp dẫn, thường rơi vào một trong hai tình trạng: Hoặc lệ
thuộc lịch sử đến mức trở thành mô phỏng lịch sử; hoặc áp đặt thô bạo cách
nghĩ, cách tư duy của con người hiện đại lên lịch sử, biến hiện thực lịch sử trở
nên méo mó, khó chấp nhận.
Sáng tạo của sân khấu về đề tài lịch sử thực chất là hiện thực hóa nhu
cầu khám phá quá khứ bằng quan điểm, cách nghĩ của con người đương thời,
qua đó, tạo một sự kết nối tinh tế giữa những vấn đề của lịch sử với hiện thực
đương đại. Trong quá trình khám phá và tái tạo quá khứ ấy, người sáng tạo
hiển nhiên sẽ mang theo bản ngã, nhận thức, trình độ, nhân sinh quan và thế
giới quan của mình. Dù muốn dù không, thì tinh thần thời đại vẫn sẽ ùa vào
tác phẩm, nó chi phối người sáng tạo một cách vừa có ý thức, vừa vô thức.
Dấu ấn của con người hiện đại, của tinh thần thời đại được thể hiện rõ
nhất trong tác phẩm sân khấu về đề tài lịch sử ở việc tiếp cận, lý giải sự kiện
lịch sử và sáng tạo nhân vật lịch sử của người nghệ sĩ. Nếu các tác giả thiếu
nhạy cảm, lựa chọn những sự kiện lịch sử không còn giá trị với đời sống
đương thời hoặc không phát hiện ra giá trị tiềm ẩn của sự kiện lịch sử sẽ dẫn
đến việc minh họa lịch sử, tái hiện lịch sử một cách khô khan, giáo điều. Nếu
các tác giả không nắm vững kiến thức lịch sử, quá nôn nóng với việc bày tỏ,
gửi gắm quan điểm và thông điệp cho hiện tại sẽ dẫn đến tình trạng bóp méo
lịch sử, mượn xưa nói nay một cách khiên cưỡng.
Trên thực tế, mỗi tác giả khi tìm đến đề tài lịch sử hoặc do chính sự
thôi thúc của hiện thực thời đại mình, hoặc chính lịch sử đã gợi mở những
liên tưởng nào đó đến vấn đề của ngày hôm nay. Và dù tác giả có dụng ý hay
không, bao giờ họ cũng “làm mới” lịch sử bởi chính tầm nhìn, nhận thức của
mình về lịch sử. Sự hiện diện của tính hiện đại trong tác phẩm kịch nói Việt
6
Nam về đề tài lịch sử không nằm ngoài xu thế khám phá quá khứ và nhận
thức hiện tại của con người. Khi đã đưa những vấn đề của lịch sử trở về với
đương thời, hiển nhiên người sáng tạo sẽ làm mới nó bằng nhận thức, quan
điểm, cách nghĩ hôm nay. Tính hiện đại sẽ hiện diện trong tác phẩm một cách
hiển nhiên mà không người nghệ sĩ sáng tạo nào có thể phủ nhận hay đi
ngược lại xu thế đó. Bên cạnh việc mang lại sức hấp dẫn cho tác phẩm, tính
hiện đại cũng có thể ảnh hưởng đến tính chân thực lịch sử trong sáng tác kịch
nói đề tài lịch sử. Tuy nhiên, vấn đề này chưa từng được nghiên cứu một cách
có hệ thống ở một công trình khoa học nào. Đó là lý do NCS lựa chọn đề tài
Tính hiện đại trong kịch nói Việt Nam về đề tài lịch sử.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Mục đích tổng quát
Thông qua việc nghiên cứu tính hiện đại trong các kịch bản kịch nói
Việt Nam về đề tài lịch sử, tác giả luận án muốn góp phần giải quyết những
vấn đề lý luận về sáng tác kịch bản sân khấu kịch nói đề tài lịch sử.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu tính hiện đại trong cách tiếp cận, lý giải sự kiện lịch sử
được phản ánh trong tác phẩm sân khấu kịch; đánh giá những thành công và
hạn chế, bước đầu rút ra bài học kinh nghiệm trong việc lựa chọn những sự
kiện lịch sử và cách thức thể hiện nó trên sân khấu kịch hôm nay.
- Nghiên cứu tính hiện đại trong cách tiếp cận, sáng tạo nhân vật lịch sử
trong tác phẩm sân khấu kịch; đánh giá những thành công và hạn chế, đề xuất
giải pháp nhằm xây dựng những nhân vật lịch sử tích hợp được sự thật quá
khứ và hơi thở cuộc sống hôm nay trong tác phẩm kịch nói Việt Nam về đề
tài lịch sử.
7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu tính hiện đại trong tác phẩm kịch nói Việt Nam về
đề tài lịch sử, tập trung ở các kịch bản viết về các triều đại phong kiến Việt
Nam.
Bên cạnh đó, luận án có bàn tới một số vở diễn sân khấu thuộc đối
tượng nghiên cứu trên mà NCS đã có điều kiện xem trực tiếp, nhằm chứng
minh hay làm sáng tỏ hơn một số luận điểm của luận án.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung khảo sát, nghiên cứu tính hiện đại trong các tác phẩm
sân khấu về đề tài lịch sử, thuộc thể loại kịch nói. Các tác phẩm về đề tài lịch
sử ở thể loại kịch thơ, kịch hát không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án
này.
Trong số các tác phẩm kịch nói Việt Nam về đề tài lịch sử, NCS chỉ tập
trung khảo sát, nghiên cứu các kịch bản viết về các triều đại phong kiến Việt
Nam, cụ thể là 11 kịch bản sau:
- Vũ Như Tô của tác giả Nguyễn Huy Tưởng;
- Nguyễn Trãi ở Đông Quan của tác giả Nguyễn Đình Thi;
- Rừng trúc của tác giả Nguyễn Đình Thi;
- Ngọc Hân công chúa của tác giả Lưu Quang Vũ;
- Hoàng hậu của hai vua của tác giả Lê Duy Hạnh;
- Độc thoại đêm của tác giả Lê Duy Hạnh;
- Cột trụ chống trời của tác giả Nguyễn Anh Biên;
- Mệnh đế vương của tác giả Hùng Tấn;
- Đời luận anh hùng của tác giả Lê Chí Trung;
- Mỹ nhân và anh hùng của tác giả Chu Thơm;
- Ngàn năm tình sử của tác giả Nguyễn Quang Lập.
8
Đây là những kịch bản đã được dàn dựng và biểu diễn, một số vở đã
được giải trong các kỳ liên hoan, hội thi, hội diễn sân khấu chuyên nghiệp
toàn quốc, là những tác phẩm sân khấu thu hút được sự quan tâm của giới
chuyên môn vì đặt ra nhiều vấn đề đáng được nghiên cứu xung quanh việc
sáng tác và biểu diễn về đề tài lịch sử.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án nghiên cứu về tính hiện đại trong kịch nói Việt Nam về đề tài
lịch sử. NCS nhận thức được rằng, tính hiện đại không phải là một khái niệm
“đông cứng”, mà là một khái niệm có tính lịch sử, có vận động và không
ngừng tiếp nhận vào mình những thành quả của nhân loại trong tiến trình phát
triển; tính hiện đại cũng không phải là một hằng số, hay là mẫu số chung bất
biến, mà có sự biến đổi qua các thời kỳ, tùy thuộc vào các quan niệm, các yêu
cầu khác nhau của các trào lưu hay quan điểm tư tưởng, nghệ thuật khác
nhau. Vì vậy, luận án cần vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, với hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử trong quá
trình tiếp cận, nghiên cứu.
Trên cơ sở các quan điểm và phương pháp luận khoa học trên của triết
học Mác - Lênin, luận án sẽ luận giải về tính hiện đại trong tác phẩm kịch nói
Việt Nam về đề tài lịch sử được thể hiện trong cách tiếp cận, lý giải sự kiện
lịch sử và cách tiếp cận, sáng tạo nhân vật lịch sử. Tiếp cận, lý giải tính hiện
đại trong sự vận động, phát triển của kịch nói đề tài lịch sử và mối quan hệ
của tính hiện đại với sự thật lịch sử và chân thực nghệ thuật.
4.2. Phương pháp tiếp cận
Đề tài luận án Tính hiện đại trong kịch nói Việt Nam về đề tài lịch sử
đòi hỏi sự tiếp cận từ ba thành tố: Tính hiện đại - Kịch nói Việt Nam - đề tài
lịch sử. Trong đó, tính hiện đại được nhìn nhận dưới góc độ là một đặc tính, là
9
phẩm chất của tác phẩm văn học nghệ thuật; Kịch nói là một loại hình nghệ
thuật sân khấu; đề tài lịch sử nói lên phạm vi, tính chất hay thể loại của đề tài.
Như vậy, để giải quyết các vấn đề của luận án, NCS đã sử dụng phương pháp
tiếp cận liên ngành như: văn học, nghệ thuật học (trong đó có sân khấu học),
sử học, xã hội học và văn hóa học, v.v...
4.3. Phương pháp nghiên cứu - thao tác cụ thể
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu trong quá trình triển khai luận
án, NCS sử dụng các phương pháp - thao tác cụ thể như:
- Phương pháp lịch sử
Phương pháp lịch sử được sử dụng để tiếp cận đến thời điểm ra đời của
các kịch bản mà NCS đã chọn để bàn luận, liên hệ với hoàn cảnh lịch sử giai
đoạn đó, nhằm nhận diện tính hiện đại trong từng tác phẩm. Trong quá trình
này, người viết cũng đặt các kịch bản trong mối quan hệ đồng đại và lịch đại
để tiếp cận, nghiên cứu tính hiện đại trong tác phẩm.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
Đây là những phương pháp – thao tác phổ biến và không thể thiếu khi
làm việc với tư liệu, nhằm hệ thống hóa và đúc kết các vấn đề lý luận, các
luận điểm nghiên cứu được đặt ra trong luận án.
- Phương pháp khảo tả
Phương pháp này được sử dụng khi NCS tiếp cận các kịch bản kịch nói
Việt Nam đề tài lịch sử, qua đó, phân tích, chứng minh làm rõ sự hiện diện
của tính hiện đại trong tác phẩm.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
Luận án xem xét 11 kịch bản sân khấu (và một số vở diễn) của nhiều
tác giả khác nhau, sáng tác ở các thời điểm khác nhau, dàn dựng và biểu diễn
ở các đơn vị nghệ thuật khác nhau. Vì vậy, NCS sử dụng phương pháp so
sánh, đối chiếu là các thao tác không thể thiếu.
10
5. Đóng góp của luận án
5.1. Đóng góp về mặt lý luận
Từ góc độ nghiên cứu tính hiện đại trong kịch nói Việt Nam đề tài lịch
sử, luận án sẽ góp phần giải quyết một số vấn đề về phương diện lý luận đối
với nghệ thuật sáng tác kịch bản kịch nói đề tài lịch sử. Đây là vấn đề đã và
đang được các nhà hoạt động sân khấu và xã hội quan tâm, hướng tới xây
dựng nền sân khấu Việt Nam có nhiều tác phẩm phản ánh chân thực và sáng
tạo những trang sử hào hùng của dân tộc.
5.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Sân khấu là nghệ thuật tổng hợp, trong đó mọi thành phần và công
đoạn sáng tạo đều có mối liên quan và tác động chặt chẽ đến nhau. Vì vậy,
mặc dù luận án tập trung nghiên cứu các kịch bản kịch nói về đề tài lịch sử,
nhưng kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy tính hiện đại không chỉ chi
phối công việc của người sáng tác kịch đề tài lịch sử, mà còn chi phối cả công
việc dàn dựng và biểu diễn các tác phẩm ấy. Vì vậy, luận án sẽ có một số
đóng góp đối với thực tiễn hoạt động sân khấu ở nước ta nói chung và với
thực tiễn sáng tác, dàn dựng, biểu diễn kịch nói đề tài lịch sử ở Việt Nam
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu (7 trang), phần Kết luận (9 trang), Tài liệu tham
khảo (6 trang) và Phụ lục (4 trang), nội dung luận án gồm 3 chương.
Chương 1: Khái niệm tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu và kịch
nói đề tài lịch sử (25 trang).
Chương 2: Tính hiện đại trong cách tiếp cận, tái hiện sự kiện lịch sử (48 trang).
Chương 3: Tính hiện đại trong cách tiếp cận, sáng tạo nhân vật lịch sử
(45 trang).
11
Chương 1
KHÁI NIỆM TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU
VÀ KỊCH NÓI ĐỀ TÀI LỊCH SỬ
1.1. Tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu qua nghiên cứu của
các học giả
Tính hiện đại là một khái niệm, một thuật ngữ luôn song hành cùng với
sự phát triển và tiến bộ của xã hội loài người. Đối với nghệ thuật sân khấu,
tính hiện đại được xem là một phẩm chất của tác phẩm khi nó đạt tới những
sáng tạo mới mẻ, hấp dẫn và chuyển tải được hơi thở của thời đại. Cùng với
sự phát triển của nghệ thuật sân khấu, tính hiện đại cũng luôn được các nhà
hoạt động sân khấu ở Việt Nam và trên thế giới tiếp cận, nghiên cứu.
1.1.1. Nghiên cứu của các học giả nước ngoài
Tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu luôn đi cùng với sự cách tân là
quan điểm của đạo diễn sân khấu người Nga G.Tốpxtônôgốp trong cuốn sách
Tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu [52] đã được đạo diễn Dương Ngọc
Đức dịch và giới thiệu tại Việt Nam. Trên cương vị của một đạo diễn,
G.Tốpxtônôgốp cho rằng: "Hiện đại ở đây được hiểu là đề tài hiện đại,
phương tiện diễn tả hiện đại, nhân vật hiện đại, diễn viên hiện đại… Tính hiện
đại và sự cách tân luôn đứng gần nhau" [52, tr15, tr16]. Theo G.Tốpxtônôgốp:
Sân khấu mang tính hiện đại - đó là sự kết hợp của kịch bản hiện
đại, đạo diễn hiện đại, diễn viên hiện đại, khán giả hiện đại. Sân
khấu hiện đại - đó là tư tưởng hiện đại được biểu hiện bằng hình
thức hiện đại,… đó là sân khấu phản ánh cuộc sống một cách đầy đủ
và sâu sắc nhất [52, tr 15].
Về kịch bản hiện đại, tác giả cho rằng: Một kịch bản hiện đại là ở trong
đó có những con người, mà hành động của họ theo những nguyên tắc đạo đức
mới..., nói theo cách nói của những người thời đại, nghĩ theo cách nghĩ của
12
người thời đại, cảm theo cách cảm của người thời đại. Theo ông, người tác giả
- hiện đại chân chính là người biết nhìn thấy cái mới đang nảy sinh trong cuộc
sống… Tài năng của người tác giả là ở chỗ biết làm mới những chất liệu cũ.
Tính hiện đại trong nghệ thuật đạo diễn đó chính là tính công dân,
người đạo diễn mà không yêu thích tư tưởng của công dân thì sẽ không thể là
người đạo diễn hiện đại. Theo G.Tốpxtônôgốp, sẽ không thể thành một đạo
diễn hiện đại, chân chính nếu thiếu hiểu biết sâu sắc về tất cả những di sản
của nghệ thuật sân khấu cổ điển Nga và thế giới.
Đối với nghệ thuật diễn viên, G.Tốpxtônôgốp cho rằng: Tính chất đặc
biệt của diễn viên hiện đại trên sân khấu là biết diễn cho chính xác và ngắn
gọn. Người diễn viên hiện đại cần liên tục đặt ra cho khán giả những câu đố
và để họ tự giải đáp. Nếu diễn viên biểu diễn mà để khán giả hiểu trước được
mọi điều chưa diễn ra thì đó là cách diễn cổ lỗ sĩ…
Về khán giả, theo G.Tốpxtônôgốp, ở mỗi thời đại khán giả lại đòi hỏi
một hình thức cảm thụ nghệ thuật phù hợp. Khán giả hiện đại là bộ phận cấu
thành của sân khấu hiện đại. Không có khán giả hiện đại, không thể có sân
khấu hiện đại.
Trên cương vị của một đạo diễn, G.Tôpxtônôgốp đã tiếp cận tính hiện
đại trong nghệ thuật sân khấu từ hầu hết các thành phần sáng tạo, nhận diện
tính hiện đại trong cả nội dung và hình thức của tác phẩm. Theo ông, sân khấu
mang tính hiện đại là phải phản ánh cuộc sống một cách đầy đủ và sâu sắc nhất.
G.Tôpxtônôgốp đã lượng hóa tính hiện đại thành số lượng (đầy đủ) và chất
lượng (sâu sắc). Sự đầy đủ và sâu sắc ở đây chính là khả năng phát hiện, nắm
bắt những vấn đề của hiện thực và cách thức phản ánh vấn đề đó trong tác
phẩm. Tuy nhiên, khi phân tích về tính hiện đại trong các thành phần sáng tạo
G.Tôpxtônôgốp đã đồng nhất tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu với sân
khấu hiện đại cùng những tiêu chuẩn của cái mới, cái hiện đại, sự cách tân,
13
đánh đồng một thuộc tính mang tính bản chất sang những biểu hiện của hình
thức. Điều này chỉ phù hợp khi ông đi tìm lời giải cho khái niệm về một sân
khấu hiện đại chứ không phải tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu. Có lẽ
đó là lý do mà những lập luận, phân tích của ông về tính hiện đại trong nghệ
thuật sân khấu chưa rõ ràng và thống nhất.
Không trực tiếp gọi tên những nghiên cứu của mình là tính hiện đại
trong nghệ thuật sân khấu, nhưng trong bài viết Những tìm tòi mới [52], tác
giả X.A Liôsin đã đưa ra khái niệm tính thời đại khi bàn về sự gắn kết của
những vấn đề được phản ánh trong tác phẩm với hiện thực cuộc sống đương
thời. Tác giả cho rằng, thực chất của vấn đề tiến bộ trong kịch, trong sân khấu
là ở chỗ sáng tạo ra được những tác phẩm có tính thời đại với ý nghĩa sâu xa
nhất của từ này. “Một tác phẩm chỉ có thể có ý nghĩa thời đại thực sự nếu nó
gắn liền được một cách hữu cơ cái vĩnh cửu và cái của ngày hôm nay” [52, tr
114]. Nói cách khác, nếu tác phẩm trả lời được những câu hỏi mà khán giả
hôm nay quan tâm thì tác phẩm đó có tính thời đại. Sự thể hiện của tính thời
đại trong tác phẩm đôi khi có thể chỉ là một sự đặt vấn đề, nhưng vấn đề đó
phải được mọi người đang quan tâm, kích thích được mọi người cùng suy
nghĩ và cùng tìm câu trả lời. Theo tác giả, để đạt được tính thời đại trong nội
dung và hình thức của tác phẩm thì tác phẩm phải phản ánh được sự thật ở
một dạng thật đông đặc về cuộc sống ngày hôm nay và biểu hiện nó qua ngôn
ngữ của các nhân vật kịch; người đạo diễn phải nắm bắt được ý tưởng của tác
giả và hiện thực hóa nó trên sân khấu (về nội dung) và nghệ thuật biểu diễn
phải tái hiện được những giọng điệu mới của thời đại trong vở diễn; sân khấu
cần phải được giải phóng đến mức tối đa khỏi những chi tiết thừa (hình
thức)… Tính thời đại không phải là tính kịp thời cũng không phải là cái vĩnh
cửu mà là sự gắn liền một cách hữu cơ cái vĩnh cửu và cái của ngày hôm nay,
trả lời được những câu hỏi mà khán giả hôm nay quan tâm.
14
Tính thời đại cũng chính là khái niệm quen thuộc, trở thành một trong
những tiêu chí không thể thiếu của sân khấu đề tài lịch sử. Từ năm 1840, nhà
lý luận phê bình sân khấu người Đức Heeman Hetne khi nghiên cứu về kịch
lịch sử đã viết rằng: “Kịch lịch sử cần phải thấm nhuần bầu nhiệt huyết của
trái tim thời đại mình, quan sát ở đó mẩu vụn vỡ lịch sử một cách cần thiết,
làm cho các nhân vật nổi bật lên... Và chỉ khi mà nhiệm vụ lớn lao đó được
giải quyết thì mới có thể bắt đầu nói rằng, chúng ta có kịch lịch sử mới” [2, tr
125]. “Bầu nhiệt huyết của trái tim thời đại mình” trong quan điểm của
Heeman Hetne chính là tính thời đại, hơi thở thời đại theo như quan điểm của
X.A Liôsin và của chúng ta ngày hôm nay.
Như vậy, có thể thấy rằng, tính thời đại trong quan điểm của X.A
Liôsin và khái niệm thời đại trong quan điểm của Heeman Hetne cũng chính
là tính hiện đại mà đạo diễn G.Tôpxtônôgốp đã nghiên cứu. Mặc dù xác lập
hai khái niệm khác nhau, nhưng các nhà hoạt động sân khấu đều hướng đến
một nội dung, đó là tính chất mới mẻ, phản ánh được sự thật cuộc sống ở
dạng đông đặc và sâu sắc, tích hợp được hơi thở cuộc sống đương đại của
nghệ thuật sân khấu.
Một số học giả khi nghiên cứu về sân khấu đề tài lịch sử đã cho rằng
tinh thần thời đại là yếu tố làm nên sức sống, sức hấp dẫn của tác phẩm. Các
học giả Trung Quốc đã rất quan tâm đến vấn đề lấy xưa, vì nay (cổ vi kim
dụng) và tinh thần thời đại trong kịch về đề tài lịch sử. Theo đó, kịch lịch sử
muốn có tính hiện đại, đáp ứng được nhu cầu của khán giả hôm nay, phục vụ
cuộc sống hôm nay thì phải phản ánh được tinh thần thời đại, phải mang tính
thời đại. Trong cuộc Thảo luận về vấn đề kịch lịch sử [66], tác giả Tư Tiến
cho rằng: “Kịch lịch sử nếu không thể hiện được tinh thần thời đại hiện nay,
tất nhiên sẽ thiếu hẳn sức sống” [66, tr 75]. Theo tác giả Mã Thiếu Ba: “Xử lý
tinh thần thời đại của các vở kịch lịch sử chủ yếu là thông qua việc gắn liền
15
những tinh thần tốt đẹp của thời đại lịch sử mà tác phẩm thể hiện một cách
đúng đắn với tinh thần của thời đại vĩ đại của chúng ta hiện nay” [66, tr 75, 76].
Các học giả Lý Kiên Ngô, Tiền Anh Úc, Mao Thuẫn trong các bài viết
của mình [66] đều cho rằng, viết kịch lịch sử, viết chuyện người xưa, không có
nghĩa là viết cho người xưa, viết kịch lịch sử vì lịch sử. Với tư cách là một
thành viên trong đời sống hiện thực, người viết kịch không thể không theo yêu
cầu của thời đại mà chọn lọc trong những tài liệu lịch sử mịt mù như bể khói,
lấy những đề tài có ý nghĩa đối với hiện tại để viết kịch.
Các học giả cho rằng, sự lan tỏa, gắn kết những giá trị tốt đẹp của lịch
sử với cuộc sống hôm nay trong mỗi tác phẩm về đề tài lịch sử chính là các
nghệ sĩ sáng tạo đã mang đến tinh thần thời đại cho tác phẩm. Chính tinh thần
thời đại đã mang đến sự mới mẻ, sức hấp dẫn cho tác phẩm, bởi vì chúng ta
không viết kịch lịch sử vì lịch sử. Và như thế, cuộc sống đương đại có vai trò
hết sức quan trọng trong sáng tác về đề tài lịch sử. Những vấn đề lịch sử được
lựa chọn để phản ánh trong tác phẩm phải thực sự có ý nghĩa với cuộc sống
đương đại, xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống đương đại.
Tuy nhiên, về vấn đề này, một số học giả khác cho rằng, không nên để
tinh thần thời đại chi phối quá nhiều đến hiện thực lịch sử được phản ánh
trong tác phẩm. Karl Marx và Friedrich Engels sau khi xem vở kịch Franz von
Sickingen của F. Lassalle cũng đã có những góp ý rất xác đáng về vấn đề này.
Lá thư của Marx gửi cho F. Lassalle ngày 19/4/1859 viết: “Khuyết điểm lớn
nhất của đồng chí là bắt chước theo Schiller, tức là biến những nhân vật thành
ra chỉ là những người phát ngôn cho tinh thần của thời đại” [6, tr 310] và lá
thư của Engels gửi F. Lassalle ngày 18/5/1859: “Theo quan niệm về kịch của
tôi là không thừa nhận người ta chạy theo lý tưởng mà quên mất thực tế, chạy
theo Schiller mà quên mất Shakespeare” [6, tr 315]. Karl Marx và Friedrich
16
Engels đều thể hiện sự không tán thành với những sáng tác hướng theo lý
tưởng, thiếu thực tế, bị tinh thần thời đại chi phối.
Như vậy, tính hiện đại, tính thời đại, tinh thần thời đại trong nghệ
thuật sân khấu nói chung và sân khấu về đề tài lịch sử nói riêng đã được các
học giả nước ngoài tiếp cận, nghiên cứu, đồng thời xem đó là tiêu chí đánh
giá tác phẩm sân khấu trước yêu cầu đổi mới, phản ánh trúng những vấn đề
của thời đại và đáp ứng nhu cầu tinh thần của khán giả đương thời. Qua
nghiên cứu của mình, các học giả đã bộc lộ rõ quan điểm về vấn đề này: Tính
hiện đại, đó là sự phản ánh cuộc sống một cách đầy đủ và sâu sắc nhất; Tính
thời đại, đó là sự phản ánh sự thật cuộc sống ở dạng đông đặc, trả lời được
những câu hỏi mà khán giả hôm nay quan tâm; Tinh thần thời đại trong tác
phẩm là sự lựa chọn trúng những vấn đề lịch sử có giá trị với đương đại, gắn
kết những vấn đề đó với cuộc sống hôm nay.
Tuy khác nhau về tên gọi, nhưng những khái niệm mà các học giả đưa
ra lại thống nhất với nhau về nội dung, đó là: để có thể đồng hành cùng đời
sống hiện đại, các tác phẩm sân khấu phải lựa chọn được những vấn đề có giá
trị với cuộc sống đương thời, lý giải nó bằng quan điểm khoa học, sâu sắc, trả
lời được những câu hỏi mà khán giả hôm nay quan tâm. Nói cách khác, cuộc
sống ngày hôm nay chính là lý do để sân khấu đưa các vấn đề của lịch sử, của
ngày hôm qua trở về. Sự trở về này phải bằng một hình thức, nội dung mới
mẻ, hấp dẫn, vừa trung thành với bản chất của lịch sử, vừa không xa lạ với
khán giả hôm nay. Đây chính là những vấn đề mà luận án Tính hiện đại trong
kịch nói Việt Nam về đề tài lịch sử tiếp tục kế thừa, nghiên cứu, đi tới thống
nhất một tên gọi, một khái niệm về một trong những phẩm chất quan trọng
của tác phẩm sân khấu nói chung và kịch nói về đề tài lịch sử nói riêng.
17
1.1.2. Nghiên cứu của các học giả trong nước
Tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu nói chung và sân khấu về đề tài
lịch sử nói riêng đã được các nhà hoạt động sân khấu trong nước nghiên cứu
cùng với sự đa dạng về thể tài, thể loại và đề tài của sân khấu Việt Nam. Tính
hiện đại cũng được tiếp cận trong mối tương đồng với tính đương thời, tính
đương đại, tính thời đại và tính thời sự.
Tại Hội nghị đầu tiên Bàn về đề tài lịch sử của Viện Sân khấu [74] tổ
chức ngày 17/12/1979 tại Hà Nội, tính đương thời trong sân khấu về đề tài
lịch sử đã được đặt ra và nhiều học giả đã xem đó như một tiêu chí, một giải
pháp để đổi mới, mang đến tính hiện đại cho nghệ thuật sân khấu. Các tác giả
Lê Ngọc Cầu, Nguyễn Đức Lộc, Nguyễn Đức Nam đã đưa ra quan điểm rằng,
nếu không vì những vấn đề của hiện tại thì lịch sử không được hồi sinh trên
sân khấu hiện đại. Bản thân lịch sử ngày hôm qua không thể giải quyết trực
tiếp được những vấn đề của hôm nay, nhưng thông qua tác phẩm nghệ thuật,
giá trị của lịch sử được phát huy và nhân lên bởi những con người đang làm
nên lịch sử hôm nay, nhằm thúc đẩy, cổ vũ và nâng cao những tình cảm
đương thời.
Đến Hội nghị chuyên đề Sân khấu với đề tài lịch sử [37] do Cục Nghệ
thuật biểu diễn tổ chức ngày 20, 21/9/1996 tại Hà Nội thì vấn đề tính đương
thời trong sân khấu đề tài lịch sử vẫn tiếp tục được đặt ra. Qua các bài tham
luận, các tác giả đều thống nhất rằng những vấn đề của cuộc sống đương thời
chính là lý do để câu chuyện lịch sử trong quá khứ được trở về với hiện tại.
Các tác giả Tất Thắng, Lê Duy Hạnh, Mịch Quang, Xuân Yến, Dương Ngọc
Đức, Hồ Ngọc, Trần Trí Trắc... cho rằng viết về đề tài lịch sử chính là hướng
tới con người đương thời, con người hôm nay, lấy chuyện ngày xưa để nói
chuyện ngày nay. Các tác giả Nguyễn Đình Thi, Ngô Thảo, Nguyễn Đức Lộc,
Hà Văn Cầu, Hoàng Luyện cho rằng sân khấu đề tài lịch sử chính là làm cho
18
lịch sử sống lại với đương thời... Tính đương thời ở đây được các học giả lý
giải trên cơ sở mối quan hệ giữa cuộc sống đương thời với những vấn đề của
lịch sử trong tác phẩm. Khi hình thành được sự kết nối giữa những vấn đề
được phản ánh trong tác phẩm với cuộc sống hôm nay thì tác phẩm có tính
đương thời. Chính tính đương thời đã làm nên giá trị của tác phẩm sân khấu
về đề tài lịch sử.
Khi bàn về tính đương thời trong sân khấu về đề tài lịch sử, một số học
giả đã nhấn mạnh đến vai trò, sự hiện diện của cuộc sống hôm nay trong mỗi
tác phẩm. Tại Tọa đàm Nghệ thuật sân khấu sáng tạo về đề tài lịch sử [18] do
Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam tổ chức ngày 14/11/2012 tại Hà Nội, các tác
giả Phạm Duy Khuê, Nguyễn Văn Thành, Lê Quý Hiền qua các bài tham luận
của mình đều tán thành quan điểm rằng: Những vấn đề của lịch sử cần phải
được cảm nhận, lý giải theo quan điểm của ngày hôm nay, của đương thời,
tìm được mối dây liên hệ với cuộc sống hôm nay thì tác phẩm mới có giá trị.
Đến Hội thảo khoa học toàn quốc Sáng tạo văn học, nghệ thuật về đề
tài lịch sử [17] do Hội đồng Lý luận phê bình Văn học, Nghệ thuật Trung
ương tổ chức ngày 15/12/2012 tại Hà Nội thì mối quan hệ giữa sáng tạo văn
học, nghệ thuật về đề tài lịch sử với cuộc sống đương đại đã trở thành một
chủ đề được quan tâm. Trong bài tổng kết Hội thảo, PGS.TS Nguyễn Hồng
Vinh đã viết rằng, ông rất tâm đắc với ý kiến của nhà văn Thái Bá Lợi: “Lịch
sử là hôm nay”, đồng thời nhấn mạnh “nếu không có những hiện thực của đời
sống hôm nay thì ông (nhà văn Thái Bá Lợi) sẽ chẳng thể nào viết được cuốn
tiểu thuyết Minh sư” [17, 673]. PGS.TS Nguyễn Hồng Vinh cũng dẫn lời của
GS Hà Minh Đức trong bài tham luận rằng: “Viết về lịch sử không phải để
thỏa chí tò mò, tìm hiểu quá khứ mà không có mục đích, mà thực ra đến với
lịch sử là nhằm phục vụ cho những vấn đề của hiện tại” [17, tr 673]. Cùng
quan điểm đó, nhà nghiên cứu chèo Hà Văn Cầu cho rằng: “Bất cứ tác phẩm
19
nào cũng nhằm phục vụ con người đương thời của tác giả, và trong chừng
mực nhất định, phục vụ con người của các thế hệ sau” [17, tr 674]. TS
Nguyên An cho rằng: “Nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử còn được dẫn dụ bởi
những ám ảnh riêng, cảm hứng riêng của cả trăm năm, ngàn năm trước và của
những tiếng gọi cũng thật thiết tha của ngày hôm nay nữa...” [17, tr 214].
Theo PGS.TS Nguyễn Hồng Vinh, việc dùng xưa nói nay, dùng cũ nói mới...
là những phương pháp nghệ thuật phổ biến, sáng tạo văn học, nghệ thuật về
đề tài lịch sử với mục đích lấy lịch sử đã qua để nói về lịch sử đương đại,
hoặc để soi rọi vào cuộc sống hôm nay cũng đã rất thông dụng...
Tác giả Trần Thị Minh Thu trong luận văn Kịch Việt Nam về đề tài lịch
sử (giai đoạn 1985 đến nay) [55] đã gắn kết tính đương thời với tính thời sự
khi nghiên cứu về những thuộc tính nghệ thuật trong tác phẩm kịch đề tài lịch
sử và cho rằng tính đương thời và tính thời sự có vai trò hết sức quan trọng.
Bởi vì, trong quá trình sáng tạo, các nghệ sĩ luôn phải đứng trước hai hiện
thực: hiện thực lịch sử đã qua và hiện thực hiện tại mà nghệ sĩ đang sống.
Trong đó, hiện thực lịch sử là đối tượng phản ánh, hiện thực hiện tại là đối
tượng liên hệ và người nghệ sĩ đã bằng thế giới quan của mình phán xét hiện
thực lịch sử, từ đó, tìm ra mối dây liên hệ với cuộc sống hôm nay. Theo tác
giả: Lịch sử chứa đựng trong nó những gì thuộc về quá khứ, nhưng quá khứ
ấy dù được thể hiện trong một tác phẩm nghệ thuật sinh động đến mức nào thì
cũng chỉ có ý nghĩa khi nó thấm đượm tính đương thời và tính thời sự. Để có
thể tìm ra những gì của quá khứ còn có giá trị với cuộc sống hôm nay, bản
thân các nghệ sĩ phải dùng quan điểm hiện đại, cảm thụ hiện đại, thái độ hiện
đại để nhìn nhận hiện thực, con người lịch sử... “Nếu một tác phẩm lịch sử
nào mà thiếu mất hai yếu tố này thì sự tồn tại của nó sẽ chỉ là vô dụng mà
thôi...” [55, tr 69].
20
Như vậy, tính đương thời trong nghệ thuật sân khấu nói chung và sân
khấu về đề tài lịch sử nói riêng đã được các học giả, các nhà nghiên cứu đánh
giá như một thành tố làm nên tính mới, sự hấp dẫn của tác phẩm. Chính cuộc
sống đương thời đã tác động, khơi gợi những xúc cảm sáng tạo về đề tài lịch
sử của người nghệ sĩ, đồng thời, nhân lên và phát huy những giá trị tích cực
của lịch sử. Tính đương thời còn được các học giả tiếp cận, đánh giá trong
mối tương quan với tính thời sự và cuộc sống hôm nay. Qua nghiên cứu của
mình, các học giả đều thể hiện sự thống nhất trong quan điểm về mối liên hệ
giữa hiện thực lịch sử được phản ánh trong tác phẩm với cuộc sống đương
đại, tập trung ở một số luận điểm chính: Sáng tạo sân khấu về đề tài lịch sử
chính là làm cho lịch sử sống lại với đương thời, hướng tới con người đương
thời; Những vấn đề của lịch sử chỉ có thể đồng hành cùng đời sống đương
thời khi nó được phát hiện, tiếp cận, lý giải bằng cảm quan lịch sử nhạy bén
và quan điểm, thái độ tích cực của con người hôm nay; Sự phát hiện và lý giải
mối quan hệ giữa hiện thực lịch sử và đời sống đương thời sẽ bộc lộ phẩm
chất, tài năng của người nghệ sĩ, đồng thời quyết định đến thành công của tác
phẩm về đề tài lịch sử.
Luôn đề cao vai trò của cuộc sống đương thời trong mỗi tác phẩm về
đề tài lịch sử, nhưng PGS.TS Phan Trọng Thưởng đã sử dụng khái niệm thời
đại khi đề cập đến sáng tạo sân khấu về đề tài lịch sử. Trong bài viết “Rừng
trúc” của Nguyễn Đình Thi và một số vấn đề lý luận sáng tác về đề tài lịch sử
[57], ông cho rằng, sáng tạo nghệ thuật về đề tài lịch sử là sáng tạo trên cơ sở
của những sự kiện, nhân vật có thật và có sẵn. Do vậy, trong quá trình sáng tạo,
nghệ sĩ vừa tự do, vừa không tự do… Người nghệ sĩ được tự do lựa chọn giai
đoạn lịch sử, sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử để tiếp tục sáng tạo, nhưng sẽ mất
tự do khi phải tuân thủ những nguyên tắc chân thực lịch sử, những chế định của
thời đại lên nhân vật và sự kiện lịch sử. Tuy nhiên, người nghệ sĩ còn một
21
khoảng tự do rất rộng, đó là tự do khai thác những mối liên hệ giữa thời đại và
sự kiện lịch sử. Thực tế cho thấy, càng phát hiện ra mối liên hệ này sớm bao
nhiêu, sâu sắc bao nhiêu càng có cơ sở để đạt đến sự thành công trong sáng
tạo bấy nhiêu. Phẩm chất và tư chất nghệ sĩ bộc lộ chủ yếu ở cảm quan lịch sử
nhậy bén, ở những phát hiện tinh tế và sâu sắc những liên hệ giữa thời đại và
lịch sử, đặc biệt là ở khả năng mang đến cho sự kiện lịch sử những ý nghĩa
mới… PGS.TS Phan Trọng Thưởng đã đánh giá rất cao việc phát hiện ra mối
liên hệ giữa thời đại (cuộc sống đương đại, thời đại tác giả đang sống) với sự
kiện lịch sử và theo ông, đây chính là yếu tố then chốt của sự thành công.
Nhận thức rất rõ vai trò và dấu ấn của cuộc sống đương thời trong mỗi
tác phẩm sân khấu nói chung và sân khấu về đề tài lịch sử nói riêng, một số
học giả đã sử dụng khái niệm tính đương đại khi nghiên cứu về vấn đề này,
đồng thời, coi tính đương đại là một cách gọi khác của tính hiện đại.
Tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền trong bài viết Tính hiện đại trong tác
phẩm múa đã viết:
Hiện đại ở đây không phải là hiện đại trong cách phân chia mốc thời
gian: cổ đại, trung đại, cận đại, hiện đại… mà là vấn đề tư duy nghệ
thuật, chất lượng tác phẩm, biểu hiện cụ thể của phương pháp nghệ
thuật, cấu trúc hình thức, thủ pháp nghệ thuật trong kết cấu và hệ
thống các hình tượng… Hiện đại phải mang tính đương đại. Một tác
phẩm được coi là hiện đại chỉ khi nào nó thể hiện được cách cảm,
cách nghĩ, cách hành động của con người đương đại [21, tr 83].
Tác giả Đàm Vân Dung trong bài viết Tính hiện đại trong tác phẩm múa
Việt Nam cũng cho rằng: “Đương đại chính là hiện đại, là cái của hôm nay, thật
ra đó chỉ là một cách gọi khác của hiện đại mà thôi” [12, tr 70].
Theo tác giả Trịnh Quang Khanh trong bài viết Tính dân tộc và tính
hiện đại trong Chèo, Tuồng, Rối nước, Cải lương thì: “Những sự kiện, những
22
con người của cuộc sống đương đại là những thành tố làm nên tính hiện đại của
tác phẩm” [22, tr 3].
Tác giả Cao Thị Xuân Ngọc trong luận văn Tính đương đại của đề tài
lịch sử trên sân khấu Việt Nam hiện đại [33] đã đồng nhất hai khái niệm này.
Tác giả cho rằng, hai yêu cầu lớn, cơ bản đối với kịch lịch sử là tính chân thực
lịch sử và tính hiện đại. Cũng chính từ hai yêu cầu này đã nảy sinh mâu thuẫn
lớn nhất, gây tranh luận bất tận giữa các học giả là yêu cầu diễn tả cuộc sống
quá khứ một cách chân thực và qua đó phải có được thông điệp với cuộc sống
hôm nay của kịch lịch sử. Trên thế giới đã xuất hiện những khuynh hướng
sáng tác kịch lịch sử khác nhau cùng với những quan niệm khác nhau về việc
giải quyết mối quan hệ giữa tính hiện đại và tôn trọng sự thật lịch sử trong
kịch đề tài lịch sử. Đó là khuynh hướng lý tưởng hóa, biểu tượng hóa nhân vật
lịch sử theo lý tưởng hiện đại của chính tác giả (Schiller) và khuynh hướng tái
hiện lịch sử quá khứ, kết hợp với phản ánh hiện thực đương thời của
Shakespeare. Hai khuynh hướng sáng tác này cũng khẳng định rằng: Khai
thác lịch sử chính là xuất phát từ nhu cầu của hiện thực ngày nay, tính hiện
đại đi vào kịch lịch sử vì vậy như một tất yếu. Tác giả luận văn đặt mục đích
nghiên cứu về tính đương đại của đề tài lịch sử trên sân khấu Việt Nam hiện
đại nhưng lại tập trung nghiên cứu, phân tích về mối quan hệ giữa tính hiện
đại và đề tài lịch sử trong kịch, như vậy, có thể hiểu, tác giả đã đồng nhất tính
hiện đại với tính đương đại.
Trong luận văn Tính hiện đại trong sân khấu Chèo [62], tác giả Việt
Thắng cũng cho rằng: Tính hiện đại là tính chất đương đại của bản thân hiện
thực đời sống và của nghệ thuật sân khấu, là khái niệm mang tính không gian
và thời gian. Tính hiện đại về mặt hình thức, vật chất chỉ đóng vai trò là
phương tiện diễn tả, còn các vấn đề thuộc về nội dung, tư tưởng phải mang
tính hiện đại mới có thể làm nên sức sống cho tác phẩm. Theo tác giả, tác
23
phẩm sân khấu có tính hiện đại, tính đương đại là khi thể hiện được sự cảm
thụ thực tế một cách sắc bén, chính xác, tích cực… phản ánh thực tế bằng
những phương tiện nghệ thuật tác động được vào trí tuệ, suy nghĩ, tình cảm
khán giả.
Cùng quan điểm với tác giả Việt Thắng, tác giả Hồ Thị Thanh Tâm
trong luận văn Tính hiện đại trong kịch múa Việt Nam đề tài lịch sử [53] cho
rằng: Tính hiện đại là tính chất của sự vật thuộc về thời đại ngày nay… Tính
đương đại là khi tác phẩm phản ánh được những cách sống, những ngưng tụ
của sự vận động tâm - tuệ phong phú, đa dạng, phức tạp của con người thời
đại…, tính đương đại là tất cả những gì thuộc về thời đại ngày nay… Theo
như cách lập luận của tác giả luận văn thì tính đương đại và tính hiện đại có ý
nghĩa tương tự như nhau, cùng là biểu hiện các vấn đề của ngày hôm nay, của
thời hiện tại.
Như vậy, các nhà hoạt động sân khấu theo quan điểm này đã cho rằng
tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu cũng chính là tính đương đại, đó là sự
biểu hiện một cách nhạy bén, sâu sắc những vấn đề của cuộc sống đương đại
trên sân khấu. Nếu không có hơi thở của cuộc sống đương đại thì sân khấu
không thể có tính hiện đại.
Tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu còn là đề tài của nhiều bài viết
trên các tạp chí chuyên ngành của các tác giả như: Nguyễn Đức Lộc; Phạm
Duy Khuê, Nguyễn Văn Thành, Trọng Khôi, Nguyễn Diệu Cầm, Văn Sử…
Trong đó, tính hiện đại đã được các tác giả đề cập đến dưới góc độ của vấn đề
tư duy nghệ thuật, cấu trúc tác phẩm, phương pháp nghệ thuật, hệ thống các
hình tượng và quan điểm giải quyết những mâu thuẫn trong các sự kiện kịch,
ngôn ngữ nhân vật, các yếu tố cấu thành vở diễn như trang trí, âm nhạc, hóa
phục trang, ánh sáng, cách xử lý không gian, thời gian, tiết tấu của vở diễn…
Tất cả những yếu tố này đều phải mới, phải tiếp cận được với khuynh hướng
24
sáng tạo tiên tiến, hiện đại và không thể thiếu dấu ấn của cuộc sống đương thời.
Từ kết quả nghiên cứu của các học giả trong nước, có thể thấy rằng, với các tên
gọi khác nhau như tính hiện đại, tính đương thời, tính thời đại, tính đương
đại... song các học giả đều đi tới sự tìm tòi, lý giải một nội dung, đó là mối
quan hệ giữa hiện thực được phản ánh trong tác phẩm và cuộc sống đương đại.
Khi hình thành được sự gắn kết giữa những vấn đề được phản ánh trong tác
phẩm với hiện thực cuộc sống đương thời, mang chở được những tâm tư và
khát vọng của con người đương thời thì tác phẩm sân khấu nói chung và sân
khấu về đề tài lịch sử nói riêng mới thực sự có ý nghĩa và có sức sống với thời
gian. Cho dù có phản ánh về vấn đề gì, viết về đề tài gì thì tác phẩm sân khấu
cũng cần phải hướng đến cuộc sống đang hiện diện, đến con người của hôm
nay. Việc hóa giải mối quan hệ này sẽ chứng minh tài năng của người nghệ sĩ
và sự thành công của tác phẩm.
Như vậy, qua kết quả nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước,
tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu đã được tiếp cận, khảo sát từ nhiều thể
loại sân khấu như: Nghệ thuật Chèo, nghệ thuật Múa và nghệ thuật sân khấu
nói chung. Tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu cũng được khảo sát,
nghiên cứu khá kỹ lưỡng từ các thành phần sáng tạo như tác giả, đạo diễn,
diễn viên... và khán giả. Tuy mỗi học giả tiếp cận theo từng góc độ khác nhau,
luận giải theo nhiều cách khác nhau nhưng đều gặp nhau ở mong muốn đưa
những vấn đề được phản ánh trong tác phẩm gặp gỡ, đồng hành cùng đời
sống hiện đại, đề cập tới những vấn đề mà con người ở thời đại đó quan tâm.
Nhiều học giả đã sử dụng các khái niệm: Tính thời đại, tinh thần thời đại,
tính đương thời, tính đương đại... khi tiếp cận và nghiên cứu về vấn đề này.
Tuy mỗi khái niệm sẽ gọi tên những đặc trưng khác nhau, nhấn mạnh đến
những khía cạnh, những giá trị khác nhau của mối quan hệ giữa hiện thực
được phản ánh trong tác phẩm và hiện thực đương đại, nhưng vẫn thể hiện sự
25
thống nhất trong đa dạng rằng: Sáng tạo sân khấu nói chung và sân khấu về đề
tài lịch sử nói riêng bao giờ cũng hướng đến con người và cuộc sống đương
thời; Những vấn đề của quá khứ, của lịch sử chỉ có thể đồng hành cùng đời
sống đương thời khi nó được phát hiện, tiếp cận, lý giải bằng cảm quan lịch
sử nhạy bén và thái độ tích cực của con người hôm nay, trả lời được những
câu hỏi mà khán giả hôm nay quan tâm; Sự tiếp cận, phát hiện và lý giải mối
quan hệ giữa hiện thực quá khứ (hiện thực lịch sử) và đời sống đương đại sẽ
bộc lộ phẩm chất, tài năng của người nghệ sĩ, đồng thời quyết định đến thành
công của tác phẩm sân khấu nói chung, tác phẩm sân khấu về đề tài lịch sử
nói riêng.
Có thể nói rằng, đây chính là những vấn đề của tính hiện đại trong
nghệ thuật sân khấu mà đạo diễn G. Tốpxtônôgốp đã nghiên cứu. TS Ngô
Phương Lan khi nghiên cứu về Tính hiện đại và tính dân tộc trong điện ảnh
Việt Nam cũng kết luận rằng:
Tính hiện đại là một phẩm chất của các tác phẩm văn học nghệ
thuật phản ánh đúng tinh thần thời đại, đi cùng với xu thế phát triển
của thời đại. Ở đó, tính hiện đại khiến cho tác phẩm đi vào những
vấn đề mà mọi người trong mọi xã hội, mọi dân tộc đều quan tâm.
Những vấn đề ấy có thể đặt ra trong cả những câu chuyện về cuộc
sống đương đại lẫn những câu chuyện cũ – có thể là từ thời cổ xưa –
nhưng đều khiến con người của xã hội đương đại quan tâm. Tính
hiện đại không những nằm trong nội dung tác phẩm (vấn đề được
phản ánh) mà trong cả hình thức thể hiện (cách thức chuyển tải ý
tưởng tác giả) [26, tr 26, 27].
Dưới góc độ nào đó, tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu nói riêng
và trong tác phẩm văn học nghệ thuật nói chung đã bao hàm các giá trị của
tính đương đại, tính thời đại, tính đương thời, tính thời sự... mà các học giả đã
26
nghiên cứu. Tuy nhiên, sự khác nhau trong cách gọi tên khái niệm đã khiến
các học giả chưa đi tới sự thống nhất và chưa đưa ra một khái niệm cụ thể,
thuyết phục về tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu, lấy đó làm tiêu chí để
đánh giá tác phẩm. Tính hiện đại cũng chưa từng được nghiên cứu một cách
có hệ thống trong các tác phẩm sân khấu về đề tài lịch sử, đặc biệt là kịch nói
về đề tài lịch sử.
1.2. Khái niệm tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu
Trong mỗi tác phẩm sân khấu, tính hành động đã trở thành một nguyên
tắc, một quy ước khiến tất cả mọi sự vật, hiện tượng được phản ánh đều diễn
ra ở thì hiện tại. Đời sống trong tác phẩm sân khấu luôn là một đời sống đang
diễn ra, tự diễn ra và diễn ra trong sự hợp lý nội tại của nó. Đời sống ấy bao
giờ cũng được thẩm định, chiêm nghiệm bởi một đời sống khác, đó là những
con người đương thời. Không chỉ là đối tượng thưởng thức, thẩm định tác
phẩm, con người đương thời và đời sống của nó còn là đối tượng phản ánh, là
mục đích hướng tới của tác phẩm. Một tác phẩm sân khấu có giá trị là tác
phẩm luôn luôn đối thoại được với người xem đương thời và đồng hành cùng
đời sống đương thời.
Sự gắn kết giữa những vấn đề được phản ánh trong tác phẩm với cuộc
sống đương thời đã làm nên tính hiện đại của tác phẩm sân khấu. Khi hiện
diện ở cuộc sống hiện đại, được sáng tạo bởi những người nghệ sĩ hôm nay thì
bản thân tác phẩm sân khấu đã có tính hiện đại, hay có thể nói là đã mang một
tinh thần hiện đại. Điều này được thể hiện trước hết ở hình thức của tác phẩm,
đó là văn phong, ngôn ngữ...; đối với vở diễn là trang thiết bị âm thanh, ánh
sáng, phục trang, cảnh trí, là âm nhạc, tiết tấu, giai điệu... Tuy nhiên, tác phẩm
chỉ thực sự có tính hiện đại, khẳng định được giá trị và sức sống với thời gian
khi nó đạt tới sự tổng hòa của các yếu tố hiện đại trong cả nội dung và hình
thức. Đó là khả năng phát hiện, phản ánh, thậm chí dự báo những vấn đề đang
27
và sẽ trở thành mối quan tâm chung của con người và xã hội; là sự thể hiện
một cách nhìn mới, một cách lý giải mới đối với một đề tài, một vấn đề đã cũ;
là khả năng kết nối và lan tỏa những vấn đề được phản ánh trong tác phẩm với
hiện thực đương đại... Tính hiện đại do đó đã được nhiều nhà nghiên cứu xác
định là linh hồn, là sự sống của tác phẩm sân khấu.
Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của những học giả đi trước, tiếp
cận những quan điểm khoa học mới, chúng tôi nhận thấy rằng: Tính hiện đại
là một phẩm chất của tác phẩm sân khấu, thể hiện sự mới mẻ, nhạy bén
trong khả năng khám phá, phát hiện hiện thực; sự luận giải sâu sắc, tinh
tế hiện thực được phản ánh trong tác phẩm với một quan điểm mới, tiến
bộ, khoa học và nhân văn; sản phẩm sáng tạo phải đề cập đến những vấn
đề mà con người, xã hội đương thời quan tâm, hướng tới một cuộc sống
tốt đẹp hơn cho con người.
Tính hiện đại khác với thời hiện đại. Thời hiện đại là một thời kỳ trong
lịch sử tồn tại và phát triển của nhân loại, xuất hiện sau thời kỳ cổ đại, trung
đại và cận đại.
Tính hiện đại cũng không đồng nhất với chủ nghĩa hiện đại. Chủ nghĩa
hiện đại là trào lưu văn học nghệ thuật xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX ở các
nước phương Tây và Nam Mỹ, chủ trương đoạn tuyệt với các chủ nghĩa lãng
mạn và hiện thực, "đưa ra những đổi mới căn bản về quan điểm và phương
pháp sáng tác". Đó là "nghệ thuật phải mổ xẻ cuộc sống và bay ra khỏi cuộc
sống bằng sự suy tư, trí tưởng tượng, sự mơ tưởng và bản năng". Do sự thoát
ly thực tế cuộc sống, chủ nghĩa hiện đại dần đi vào bế tắc và nhường chỗ cho
xu thế hậu hiện đại ra đời vào khoảng năm 1960 [26, tr 26].
Tính hiện đại không giới hạn trong một giai đoạn hay thời điểm lịch sử
nào mà là một phẩm chất của tác phẩm văn học nghệ thuật. Tính hiện đại
không những nằm trong nội dung tác phẩm (vấn đề được phản ánh) mà trong
28
cả hình thức thể hiện (cách thức chuyển tải ý tưởng tác giả). Một tác phẩm
sân khấu có tính hiện đại phải đạt tới những tiêu chí sau:
- Phát hiện, tiếp cận, phản ánh, thậm chí dự báo những vấn đề đang, sẽ
là mối quan tâm chung của mọi con người, mọi xã hội.
- Lý giải những vấn đề được phản ánh bằng quan điểm mới, tiến bộ,
khoa học, nhân văn.
- Tác phẩm mang được tinh thần thời đại của đối tượng phản ánh, của
người sáng tác và có sự kết nối tinh tế với những vấn đề mà xã hội đương đại
quan tâm.
- Tác phẩm được chuyển tải bằng một hình thức và phương tiện nghệ
thuật hiện đại, giàu tính biểu cảm, đáp ứng được nhu cầu thưởng thức của
khán giả đương thời.
Sự hội tụ của những tiêu chí này sẽ làm nên tính hiện đại của tác phẩm
sân khấu, mang đến tác phẩm sự mới mẻ, hấp dẫn, cho dù sự vật, hiện tượng
nó phản ánh có thể đã thuộc về quá khứ.
1.3. Khái niệm về sân khấu đề tài lịch sử
* Lịch sử
Theo Đại từ điển Tiếng Việt: “Lịch sử là quá trình ra đời, phát triển đã
qua hay cho đến tiêu vong” [80, tr 1017]. Như vậy, lịch sử là quá trình phát
sinh, phát triển đã qua của một hiện tượng, sự vật nào đó diễn ra theo trình tự
thời gian. Lịch sử luôn luôn được nhận biết dưới hai dạng thức, đó là dòng
lịch sử khách quan và dòng lịch sử trong nhận thức (chủ quan) của con người.
Lịch sử khách quan: Là quá trình phát sinh, phát triển đã qua của các sự
vật, hiện tượng thuộc thế giới tự nhiên và xã hội, được cố định trong không
gian và thời gian, mang tính chất tuyệt đối và khách quan mà không ai có thể
thay đổi được.
29
Lịch sử trong nhận thức của con người: Đó là lịch sử được khảo sát,
nghiên cứu trên nguyên tắc của khoa học sử, ghi chép lại những sự việc diễn
ra trong quá khứ bằng nhận thức, quan điểm, ngôn ngữ của người chép sử.
Kết quả nghiên cứu, ghi chép đó được nhà nước thẩm định, biên soạn, là lịch
sử chính thống của quốc gia (chính sử).
Bên cạnh chính sử thì lịch sử còn tồn tại dưới dạng dã sử, do nhân dân
sưu tầm và lưu truyền, chủ yếu thông qua hình thức truyền miệng. Cả chính
sử và dã sử đều tồn tại song song, bổ trợ cho nhau trong quá trình nhận thức
về lịch sử của con người.
Khái niệm lịch sử được sử dụng trong luận án này là lịch sử trong nhận
thức của con người, lịch sử chính thống (chính sử), được nghiên cứu, ghi chép
bởi các nhà sử học và được phổ biến rộng rãi.
* Đề tài lịch sử
Đề tài lịch sử là một mảng đề tài lớn của văn học nghệ thuật nói chung
và sân khấu nói riêng, lấy cuộc đời, sự nghiệp của các nhân vật lịch sử, các sự
kiện lịch sử đã được ghi chép trong sử sách và các nguồn sử liệu làm đối
tượng, chất liệu để khai thác, miêu tả.
* Sáng tạo sân khấu về đề tài lịch sử
Theo PGS.TS Phan Trọng Thưởng [57], sáng tạo nghệ thuật về đề tài
lịch sử không phải là minh họa lịch sử, không truyền đạt lại tri thức lịch sử,
cũng không phải là một bài học luân lý đạo đức cũ. Thực chất của sáng tạo
nghệ thuật về đề tài lịch sử là khai thác lịch sử theo một cách thức tiếp cận
mới, một cảm hứng lịch sử - công dân mới trên nguyên tắc vừa tôn trọng sự
thật lịch sử, vừa tôn trọng sự thật nghệ thuật… Nhà nghệ sĩ thực sự là nghệ sĩ
khi sự kiện lịch sử thực chất chỉ là nguyên cớ, là cơ sở của mọi sáng tạo. Ý
nghĩa mới mà sự kiện lịch sử có được, bắt nguồn từ những vấn đề lớn mà thời
đại đặt ra…
30
Sáng tạo sân khấu về đề tài lịch sử cũng không nằm ngoài những
nguyên tắc mà PGS.TS Phan Trọng Thưởng đã đúc rút. Bản chất của sáng tạo
sân khấu về đề tài lịch sử là xuất phát từ nhu cầu khám phá quá khứ, nhận
thức hiện tại và tương lai của con người đương thời. Khám phá quá khứ, trước
hết là từ khao khát giải mã quá khứ bí ẩn ngày hôm qua - nơi có cội nguồn sự
sống của mỗi người, mà sử sách với sự chế định của văn bản đã không thỏa
mãn được những khát khao đó. Trong hành trình khám phá này, người sáng
tạo sẽ xây dựng một hiện thực lịch sử trong khát vọng, trong suy tưởng nhằm
giải đáp, làm rõ những băn khoăn của bản thân mình về lịch sử, nhận định lại
lịch sử, hoàn thiện nhận thức của mình về lịch sử. Sản phẩm sáng tạo do đó sẽ
là một giả thiết về hiện thực lịch sử vốn đang tồn tại rất nhiều nghi vấn và
những quan điểm trái chiều. Để xây dựng một đời sống lịch sử trọn vẹn trong
tác phẩm, tất nhiên người sáng tạo sẽ phải bằng nhận thức, vốn sống, sự am
hiểu lịch sử của mình để khỏa lấp những khoảng trống mà tư liệu lịch sử để
lại. Trong đó, không loại trừ việc đi ngược lại những nhận định của các nhà
sử học.
Bằng cảm quan nhạy bén, người nghệ sĩ có thể phát hiện ra những vấn
đề mang tính thời đại ẩn phía sau những sự kiện, nhân vật lịch sử… nên đã
đưa vấn đề lịch sử đó trở về bằng nhận thức, quan điểm và suy tư của mình.
Sự trở về này của lịch sử, bao giờ cũng được người nghệ sĩ kết nối linh hoạt
và tinh tế với hiện thực đương đại. Bàn chuyện xưa bằng quan điểm hôm nay
để đối thoại với con người hôm nay. Do đó, lịch sử vừa là đối tượng nhận
thức, vừa là phương tiện biểu hiện của người nghệ sĩ. Lịch sử trong tác phẩm
là lịch sử được sáng tạo, nhào nặn qua cảm quan của người nghệ sĩ, phản ánh
nhận thức của người nghệ sĩ về lịch sử.
Tác phẩm sân khấu về đề tài lịch sử là một sản phẩm sáng tạo của
người nghệ sĩ, lấy sự kiện và nhân vật lịch sử làm đối tượng miêu tả, tuân thủ
31
nguyên tắc sáng tạo của nghệ thuật sân khấu và đặc trưng của từng thể loại.
Tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử diễn tả lịch sử thông qua những đặc trưng
ngôn ngữ của kịch nói là hành động, xung đột và ngôn ngữ đối thoại bằng văn
xuôi.
* Hình tượng nhân vật lịch sử
Hình tượng nhân vật lịch sử là kết quả sáng tạo của người nghệ sĩ trên
cơ sở những cảm xúc về cuộc đời và sự nghiệp của nhân vật lịch sử. Hình
tượng nhân vật lịch sử là sản phẩm của sáng tạo nghệ thuật, mang đậm phong
cách sáng tạo của cá nhân người nghệ sĩ.
* Nhân vật hư cấu
Là nhân vật không có thật trong lịch sử được tác giả hư cấu trong tác
phẩm về đề tài lịch sử nhằm mục đích chuyển tải một ý đồ sáng tạo nào đó.
Như vậy, lịch sử, đề tài lịch sử, sáng tạo sân khấu về đề tài lịch sử, hình
tượng nhân vật lịch sử, hình tượng nhân vật hư cấu là những khái niệm liên
quan trực tiếp đến đối tượng nghiên cứu của luận án đã được chúng tôi tiếp
thu, tổng hợp trên cơ sở kết quả nghiên cứu của những học giả đi trước, nhằm
tiếp cận và giải quyết những vấn đề khoa học của luận án này.
1.4. Tính hiện đại trong kịch nói về đề tài lịch sử
Tính hiện đại luôn được coi là linh hồn của tác phẩm sân khấu, là mối
dây liên hệ giữa tác phẩm với đời sống đương đại và là sự thẩm định sức sống
của tác phẩm cùng với thời gian. Đối với sân khấu về đề tài lịch sử thì tính
hiện đại còn có vai trò quan trọng hơn nữa khi hiện thực được phản ánh trong
tác phẩm là đời sống của quá khứ, của ngày hôm qua. Từ chân đứng hiện tại -
hôm nay, người nghệ sĩ sáng tạo tiếp cận, lý giải hiện thực lịch sử - hôm qua
như thế nào, đối thoại với người đương thời về những vấn đề gì… luôn là mối
quan tâm lớn của sáng tác về đề tài lịch sử.
32
Tác phẩm sân khấu về đề tài lịch sử nói chung và kịch nói về đề tài lịch
sử nói riêng chỉ thực sự có giá trị khi hiện thực lịch sử mà nó lựa chọn, phản
ánh đề cập, gợi mở đến những vấn đề đang được con người và xã hội quan
tâm. Người sáng tạo phải bằng cảm quan nhạy bén của mình phát hiện, lựa
chọn trong cả hành trình dài của lịch sử những vấn đề có thể đối thoại được
với cuộc sống đương thời, đặt những vấn đề mà con người đương thời quan
tâm, rộng hơn nữa là những vấn đề lớn mà nhân loại ở mọi thời đại đều quan
tâm như quốc gia, dân tộc, tình yêu đôi lứa và hạnh phúc gia đình... Hiện thực
lịch sử ấy phải được lý giải bằng quan điểm tiến bộ, khoa học, nhân văn, vừa
trung thành với tinh thần của lịch sử, vừa kết nối tinh tế với hiện thực đương
đại. Tác phẩm vừa mang được dấu ấn thời đại, vừa lan tỏa được sức sống của
vấn đề lịch sử đó tới hôm nay và mai sau. Như vậy, những tiêu chí làm nên
giá trị của tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử cũng không nằm ngoài những
tiêu chí của tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu. Và điều làm nên giá trị
của tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử chính là tính hiện đại.
Tuy nhiên, với tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử, thành công hay thất
bại của người nghệ sĩ sáng tạo được quyết định bởi việc hóa giải chất liệu lịch
sử, phục vụ nhu cầu tinh thần của khán giả đương thời. Chất liệu lịch sử quan
trọng nhất trong sáng tạo tác phẩm chính là sự kiện và nhân vật lịch sử. Hóa
giải chất liệu lịch sử chính là quá trình tiếp cận, tái hiện những sự kiện lịch
sử trong tác phẩm và tiếp cận, sáng tạo nhân vật lịch sử trong tác phẩm.
Đây là quy trình mang tính chất quyết định đến thành công và mang đến tính
hiện đại cho tác phẩm. Nếu việc tiếp cận, lý giải sự kiện lịch sử và tiếp cận,
sáng tạo nhân vật lịch sử trong tác phẩm không đạt tới những tiêu chí của tính
hiện đại thì tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử cũng không có tính hiện đại,
hoặc nếu có thì chỉ dừng lại ở phương diện hình thức. Tác phẩm sẽ rơi vào
tình trạng mô phỏng lịch sử một cách máy móc, cứng nhắc và thiếu sức sống.
33
Nhưng nếu như người nghệ sĩ áp đặt thô bạo cách nghĩ, cách tư duy của con
người hiện đại lên sự kiện và nhân vật lịch sử sẽ khiến cho đời sống lịch sử
trong tác phẩm trở nên méo mó, thiếu thuyết phục.
Tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử sẽ có tính hiện đại khi quá trình tiếp
cận, tái hiện những sự kiện lịch sử trong tác phẩm người tác giả biết cách
tổ chức lại sự kiện, hình thành diện mạo lịch sử mới trong tác phẩm, diện mạo
lịch sử ấy vẫn trung thành với bản chất của lịch sử nhưng phản ánh được xung
đột của cuộc sống mới, chứa đựng những thông điệp mới cho đời sống đương
thời; tác giả phải phát hiện những vấn đề của lịch sử còn giá trị với đương
thời, từ đó phát triển, nhân lên ý nghĩa của sự kiện lịch sử đó, lan tỏa tới cuộc
sống đương thời; bằng quan điểm tiến bộ, khoa học và từ tâm thế của thời đại
mình, tác giả có thể nhận thức, đánh giá lại sự kiện lịch sử, mang lại cho sự
kiện lịch sử ý nghĩa mới và tiếp cận gần nhất đến sự thật lịch sử; hư cấu hợp
lý sự kiện lịch sử cũng là một thao tác cần thiết để hoàn thiện đời sống lịch sử
trong tác phẩm, đưa những vấn đề được phản ánh trong tác phẩm đồng hành
cùng đời sống đương đại, nhận được sự chia sẻ của khán giả đương đại.
Quá trình tiếp cận, sáng tạo nhân vật lịch sử trong tác phẩm sẽ
mang đến tính hiện đại cho tác phẩm khi tác giả biết hiện thực hóa, mang đến
cho nhân vật lịch sử một tính cách, một số phận vừa là đại diện của lịch sử,
vừa không xa lạ với con người đương thời; khi tác giả đứng trên quan điểm
khoa học, tiến bộ của hôm nay, nhận thức và đánh giá lại nhân vật lịch sử,
tiếp thêm sức sống và thậm chí, có thể trả lại sự công bằng cho nhân vật lịch
sử; khi tác giả bằng sự tích lũy vốn sống, văn hóa của mình, sáng tạo, hiện
thực hóa ngôn ngữ cho nhân vật để vừa giữ lại dấu ấn của lịch sử, vừa không
xa lạ với con người hôm nay; khi tác giả bằng khả năng tưởng tượng, phán
đoán của mình đã xây dựng nên những nhân vật hư cấu một cách hợp lý để
hoàn thiện đời sống trong tác phẩm và chuyển tải ý đồ, mục đích sáng tạo.
34
Quá trình sáng tạo về đề tài lịch sử còn đặt người nghệ sĩ trước thách
thức của tính chân thực lịch sử. Sự đối lập giữa quan điểm, tư tưởng hôm nay
được biểu hiện bằng chất liệu của ngày hôm qua đã khiến người nghệ sĩ
không chỉ am hiểu sâu sắc lịch sử mà còn phải đặc biệt nhạy bén trong cảm
nhận, phán đoán hiện tại. Tác phẩm kịch về đề tài lịch sử sẽ đạt được tính
hiện đại khi người nghệ sĩ tiếp cận, lý giải lịch sử, thậm chí nhận thức, đánh
giá lại lịch sử bằng quan điểm tiến bộ, khoa học, nhân văn của hôm nay trên
cơ sở tôn trọng logic và tinh thần lịch sử; những vấn đề lịch sử được lựa chọn
phải chứa đựng mối quan tâm của con người thời đại, mang chở được tâm tư
của nhiều người và đối thoại được với đương thời. Sản phẩm sáng tạo mang
được tinh thần thời đại nhưng không xung đột với tâm thức của cộng đồng về
các giá trị lịch sử.
Như vậy, quá trình tiếp cận, tái hiện sự kiện lịch sử và tiếp cận, sáng
tạo nhân vật lịch sử sẽ quyết định rất lớn đến thành công và mang đến tính
hiện đại cho tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử. Quá trình sáng tạo này sẽ
được chúng tôi nghiên cứu, luận giải cụ thể ở hai chương sau của luận án.
Tiểu kết
Tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu là tính mới trong cách tiếp cận,
khám phá, tái tạo hiện thực, thể hiện ở quan điểm, cách nghĩ, cách làm mới,
khoa học và nhân văn, sản phẩm sáng tạo phải đề cập đến những vấn đề mà
con người, xã hội quan tâm, hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn cho con người.
Một tác phẩm sân khấu có tính hiện đại phải đạt tới những tiêu chí:
Phát hiện, tiếp cận, phản ánh những vấn đề đang là mối quan tâm chung của
mọi con người, mọi xã hội; lý giải những vấn đề được phản ánh bằng quan
điểm mới, tiến bộ, khoa học, nhân văn; tác phẩm mang được tinh thần thời đại
của đối tượng phản ánh, của người sáng tác và có sự kết nối tinh tế với những
vấn đề mà xã hội đương đại quan tâm; tác phẩm được chuyển tải bằng một
35
hình thức và phương tiện nghệ thuật hiện đại, giàu tính biểu cảm, đáp ứng
được nhu cầu thưởng thức của khán giả đương thời.
Tính hiện đại trong tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử thể hiện ở việc
lựa chọn, phản ánh những tư liệu lịch sử có thể gợi mở đến những vấn đề
đang là mối quan tâm chung của con người, xã hội. Hiện thực lịch sử ấy phải
được lý giải bằng quan điểm tiến bộ, khoa học, nhân văn, vừa trung thành với
tinh thần của lịch sử, vừa kết nối tinh tế với hiện thực đương đại. Tính hiện
đại trong tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử được thể hiện tập trung nhất
trong quá trình tiếp cận, tái hiện sự kiện lịch sử và tiếp cận, sáng tạo nhân
vật lịch sử. Tính hiện đại đã góp phần làm nên giá trị của tác phẩm kịch nói
về đề tài lịch sử.
36
Chương 2
TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG CÁCH TIẾP CẬN,
TÁI HIỆN SỰ KIỆN LỊCH SỬ
2.1. Tổ chức lại sự kiện, hình thành diện mạo lịch sử mới trong tác
phẩm
Khi nói về lịch sử, Romain Rolland - nhà văn Pháp đã viết rằng:
Lịch sử anh hùng mà tôi hình dung được trong óc, chẳng phải là
ngọn đèn sau đuôi một đoàn tàu, mà ánh sáng bập bùng của nó chỉ
chiếu rọi lờ mờ quãng đường đã đi. Nó phải là ngọn hải đăng ban
đêm, bằng một tia chói lọi, chỉ rõ vị trí của con tàu giữa đại dương:
từ nơi nào nó tới và nó sẽ đi tới nơi nào. Quá khứ không hề có một
thực tế nào tách khỏi hiện tại [76, tr 49, 50].
Quá khứ không thể và không có một giây phút nào có thể tách khỏi
hiện tại, cũng như hiện tại không thể tách mình ra khỏi tương lai. Cuộc sống
vốn là sự vận động và hoán đổi liên tục vị trí giữa quá khứ - hiện tại - tương
lai, tiến tới hình thành cả tiến trình lịch sử. Lịch sử, theo như cách quan niệm
của Romain Rolland thì nó chính là ngọn hải đăng ban đêm, chỉ rõ cho con
người hiện đại biết mình đang đứng ở đâu (về dân tộc, văn hóa…), mình đã
đến từ đâu (xuất xứ, truyền thống…) và sẽ đi tới đâu (tương lai). Nghĩa là, khi
am hiểu lịch sử, hiểu ông cha, thì con người hiện đại sẽ nhận diện được chính
mình, hiểu chính mình và sẽ định hướng được tương lai của mình. Sáng tạo
tác phẩm kịch về đề tài lịch sử tức là sáng tạo trên cơ sở chất liệu cuộc sống
của quá khứ, về lý tưởng, tác phẩm ấy phải là chiếc cầu kết nối để con người
hiện đại khám phá quá khứ, lý giải hiện tại và định hướng tương lai. Khám
phá quá khứ chính là quá trình người tác giả dùng quan điểm, tư duy của
mình nhận thức, đánh giá lịch sử; lý giải hiện tại là khi người tác giả bằng
cảm quan của mình phân tích, lý giải những vấn đề đặt ra từ hiện thực lịch sử,
37
kết nối nó với đời sống hiện tại; định hướng tương lai chính là ý nghĩa tư
tưởng toát ra từ những sự kiện lịch sử được tái hiện trong tác phẩm. Giá trị và
tính hiện đại của tác phẩm kịch về đề tài lịch sử được hình thành trong quá
trình này.
Lựa chọn, tổ chức sự kiện lịch sử, hình thành một diện mạo lịch sử mới
trong tác phẩm là thao tác cần thiết của hầu hết các nhà viết kịch lịch sử. Quá
trình này sẽ mang theo quan điểm, nhận thức của tác giả về lịch sử, đồng thời,
hiện thực hóa ý đồ sáng tạo của tác giả. Việc tổ chức sự kiện lịch sử trong tác
phẩm còn phải được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với thể tài và thể loại tác
phẩm mà tác giả lựa chọn. Xuất phát từ mục đích sáng tạo khác nhau sẽ dẫn
đến việc lựa chọn, tổ chức sự kiện lịch sử không giống nhau ở mỗi nhà viết
kịch. Có người chọn một sự kiện, có người chọn nhiều sự kiện, có người đặt
sự kiện này làm trung tâm, có người đặt sự kiện khác làm trung tâm. Việc tổ
chức sự kiện lịch sử này có thể làm thay đổi hoặc tạo nên những xung đột mới
của hiện thực lịch sử được phản ánh trong tác phẩm.
Cuộc chuyển giao quyền lực giữa nhà Lý và nhà Trần mà cụ thể là giữa
Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh có lẽ đã trở thành câu chuyện bi thương, khốc
liệt và nhuốm màu huyền thoại nhất trong lịch sử các triều đại Việt Nam. Bản
thân câu chuyện lịch sử này đã đặt ra rất nhiều vấn đề về nhân tình thế sự, về
nghĩa nước, tình nhà, về quyền lực và hạnh phúc riêng tư… chưa bao giờ hết
"nóng", chưa bao giờ thôi ám ảnh, cũng như chưa bao giờ có thể khai thác cạn
cùng. Câu chuyện lịch sử này gắn liền với số phận nhân vật Lý Chiêu Hoàng
cùng với 4 sự kiện đáng nhớ: Sự kiện truyền ngôi (Lý Huệ Tông truyền ngôi
cho con gái Chiêu Hoàng khi mới 7 tuổi), sự kiện nhường ngôi (Chiêu Hoàng
nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh và lui xuống làm hoàng hậu), sự kiện
truất ngôi (Chiêu Hoàng bị truất ngôi hoàng hậu, giáng xuống làm công chúa)
và sự kiện gả chồng (Trần Thái Tông gả Chiêu Thánh cho tướng quân Lê
38
Tần). Tất cả đã trở thành đề tài của rất nhiều tác phẩm sân khấu, trong đó có
kịch nói.
Khi vào tác phẩm, không phải tác giả nào cũng khai thác cả bốn sự kiện
trên. Có tác phẩm khai thác một sự kiện như Mệnh đế vương của tác giả Hùng
Tấn - chỉ khai thác sự kiện gả chồng; có tác phẩm khai thác hai sự kiện như
Rừng trúc của tác giả Nguyễn Đình Thi - khai thác sự kiện truất ngôi và sự
kiện gả chồng; có những tác phẩm khai thác ba sự kiện như Cột trụ chống trời
của tác giả Nguyễn Anh Biên; Độc thoại đêm của tác giả Lê Duy Hạnh - khai
thác sự kiện truyền ngôi, sự kiện nhường ngôi và sự kiện truất ngôi… Sự khác
nhau này phải chăng nằm ở mục đích đối thoại với cuộc sống hôm nay của
mỗi tác giả? Nếu như Cột trụ chống trời muốn khẳng định vai trò của một cá
nhân trước cơn nguy biến của lịch sử nên đã lựa chọn cả ba sự kiện như là sự
dẫn giải cho sự ra đời của một triều đại mới thì Rừng trúc với thông điệp việc
nước là lớn nhất, nhưng việc người với người cũng không thể nhỏ hơn đã khai
thác sự kiện truất ngôi và sự kiện gả chồng, đặt thân phận người phụ nữ vào
những khúc quanh nghiệt ngã của số phận…
Rừng trúc bắt đầu bằng âm mưu của Trần Thị Dung - lúc này đã là
công chúa Thiên Cực - phu nhân của Thống quốc thái sư Trần Thủ Độ. Bà ta
lo lắng vì nhà vua mãi chưa có con, tuổi xuân đang độ, cung phi mỗi ngày
một đông, con gái các quan lại thì ngấp nghé, ngôi hoàng hậu nhà Trần nếu về
tay dòng họ khác thì sinh nhiều chuyện, mà tính mạng mẹ con bà ta cũng khó
được bảo toàn. Thiên Cực bèn bàn với Trần Thủ Độ phải ngay lập tức lo cho
nhà vua có vợ và con trai, rồi nói luôn mục đích đưa Thuận Thiên vào thế chỗ
Chiêu Thánh, dù Trần Thủ Độ phản ứng rằng: Nhà vua mà lại đi cướp vợ ông
anh thì còn ra thế nào! Bằng lý lẽ xác đáng, Thiên Cực đã thuyết phục chồng
rằng lập Thuận Thiên lúc này là lựa chọn tốt nhất. Khi Thủ Độ e đức vua và
Thuận Thiên không chịu thì bà ta nhận sẽ đứng ra một tay tác thành.
39
Dù rất đỗi đau khổ, nhưng cuối cùng thì cả Chiêu Thánh, Trần Cảnh và
Thuận Thiên đều phải chấp nhận sự xếp đặt ngang trái này. Chiêu Thánh đã
từ bỏ tất cả, về ở trong ngôi nhà vườn bên Hồ Tây. Trần Cảnh bế tắc, chán
nản bỏ ngôi báu ra đi. Lo sợ việc lớn không thành, sau khi biết được nơi đức
vua đang trú ngụ, Trần Thủ Độ quyết: vua ở đâu là triều đình ở đó, và lệnh
cho các quan đầu triều lên đường đi Yên Tử. Không muốn việc nước thêm rối
ren, Trần Cảnh trở về, giảng hòa với Trần Liễu và chung sống với Thuận
Thiên. 20 năm sau, thắng giặc Nguyên Mông, Lê Tần đến thăm nhà công
chúa Chiêu Thánh vì lời hẹn ước, dù trong kịch họ chưa gặp được nhau,
nhưng người xem ngầm hiểu rằng hạnh phúc mới đã đến với cuộc đời của
Chiêu Thánh.
Như vậy, có thể thấy rằng, tác giả Rừng trúc chỉ sử dụng trực tiếp hai
sự kiện chính trong cuộc đời Lý Chiêu Hoàng, nhiều sự kiện quan trọng khác
chỉ được ông tái hiện gián tiếp. Nhà văn cũng không tuân thủ trình tự thời
gian xuất hiện các sự kiện như sử sách đã ghi chép mà có những sự kiện xảy
ra sau lại được ông đặt lên trước với mục đích làm nổi bật sự kiện trung tâm,
qua đó chuyển tải ý đồ sáng tạo của mình. Kịch bản bắt đầu bằng tấn bi kịch
cuối cùng của Chiêu Thánh, khi nàng buộc phải từ bỏ ngôi hoàng hậu theo
lệnh của mẹ là Trần Thị Dung và chú là Trần Thủ Độ. Trong chính sử, thì đó
là giai đoạn mà bản thân Chiêu Thánh đã không còn sức phản kháng, sau khi
phải nhường ngôi hoàng hậu cho chị, nàng đã sống lặng lẽ trong cung sâu cho
đến khi gặp được tình yêu của Lê Tần. Sử viết rằng:
Chiêu Thánh công chúa lên ngôi năm Giáp Thân (1224) tức là Lý
Chiêu Hoàng. Vua còn nhỏ nên quyền bính ở cả Trần Thủ Độ. Trần
Thủ Độ đưa các cháu vào cung cấm giữ các chức vụ lớn nhỏ… Trần
Cảnh là con thứ hai của Trần Thừa, lúc đó mới lên 8 tuổi, cùng tuổi
với Lý Chiêu Hoàng. Một lần Trần Cảnh bưng nước rửa mặt cho
40
vua. Chiêu Hoàng thấy Trần Cảnh đem lòng yêu mến. Từ đó, mỗi
khi vui chơi, Chiêu Hoàng đều cho gọi Trần Cảnh đến cùng chơi.
Có hôm Trần Cảnh bưng chậu nước đứng hầu, Chiêu Hoàng rửa
mặt, lấy tay té nước ướt cả mặt Cảnh. Đến khi Cảnh bưng khăn chầu
thì vua bà lấy khăn ném cho Trần Cảnh. Khi về nhà Trần Cảnh đã
kể riêng với Trần Thủ Độ, Thủ Độ nói:
- Nếu thực như thế thì họ ta làm vua chăng? Hay chết cả họ chăng?
Hôm khác Chiêu Hoàng lại lấy khăn chầu ném cho Trần Cảnh. Cảnh
quỳ lạy:
- Bệ hạ có tha tội cho thần không? Thần xin vâng mệnh.
Chiêu Hoàng cười:
- Tha cho ngươi! Nay ngươi đã biết nói khôn đó!
Cảnh lại về nói với Thủ Độ. Sợ việc bị tiết lộ thì bị giết cả, Thủ Độ đem
gia thuộc thân thích vào trong cung cấm, sai đóng cửa thành và các cửa
cung. Các quan vào chầu đều không được vào. Thủ Độ loan báo:
- Bệ hạ đã có chồng rồi!
Các quan đều nói: Đó là việc tốt, xin cho chọn ngày vào chầu. Thế
là ngày 21 tháng 11 năm Ất Dậu có chiếu của Chiêu Hoàng nhường
ngôi cho Trần Cảnh và ngày 11 tháng 12 năm Ất Dậu (tháng 1 –
1225) Chiêu Hoàng thiết triều ở điện Thiên An ngự trên giường báu,
các quan mặc triều phục lạy ở sân rồng. Chiêu Hoàng trút bỏ áo
ngự, khuyên mời Trần Cảnh lên ngôi vua. Sau 3 lần nhún nhường
làm phép, Trần Cảnh ngồi lên ngai vàng chính thức làm hoàng đế…
Lấy nhau hơn chục năm, Chiêu Thánh vẫn không sinh nở gì. Trần
Thủ Độ lo sợ vua Thái Tông Trần Cảnh tuyệt tự, không kẻ nối dõi
ngôi vua, bèn lấy Thuận Thiên chị ruột Chiêu Thánh, vợ Trần Liễu
(anh ruột Trần Cảnh) lúc này đang có mang ép gả cho Trần Cảnh.
41
Sau đó Trần Thủ Độ ép Thái Tông phải bỏ Chiêu Thánh mà lập
Thuận Thiên làm hoàng hậu. Chiêu Thánh đau khổ, ẩn trong cung
sâu, toan dứt nợ trần tục…
Mùng một Tết năm Mậu Ngọ (1258), sau khi đánh tan cuộc xâm
lược của quân Nguyên lần thứ nhất, vua Thái Tông đặt đại lễ ở
chính điện, có lệnh gả Chiêu Hoàng cho Lê Phụ Trần, một đại tướng
có công lớn trong cuộc kháng chiến vừa qua… [9, tr 48].
Nhưng ở Rừng trúc, tác giả không tái hiện toàn bộ câu chuyện lịch sử
này, mà dùng sự kiện truất ngôi hoàng hậu làm sự kiện mở đầu, để toàn bộ tấn
bi kịch cuộc đời Lý Chiêu Hoàng trở về. Khán giả được gặp lại tất cả, từ
chuyện của những ngày vua bà 8 tuổi ném khăn chầu cho Trần Cảnh và dẫn
đến chuyện hôn thú giữa hai người; chuyện nhường ngôi cho Trần Cảnh giữa
trời đất núi sông khi cả hai đã trưởng thành để Chiêu Hoàng chính thức tuyên
bố nhà Lý đã hết vai trò lịch sử và nhà Trần được chính danh lo việc nước…
Tuy việc sắp xếp các sự kiện lịch sử không theo đúng trình tự thời gian của
lịch sử, nhưng câu chuyện lịch sử năm nào vẫn được tái hiện sinh động, tác
giả đã hướng các nhân vật lịch sử của mình vào trọng trách cao cả, vì sự tồn
vong của giang sơn, xã tắc.
Tác giả Rừng trúc đã sử dụng sự kiện truất ngôi hoàng hậu để bắt đầu
tấn bi kịch của Lý Chiêu Hoàng - khi nàng đã 20 tuổi. Đây là lúc nàng đủ
trưởng thành để thấu hết nỗi đau mất cha, mất ngôi báu mà tổ tiên để lại, là
lúc nàng đã biết phải đối phó với những mất mát như thế nào. Sau khi sự kiện
truất ngôi hoàng hậu diễn ra, sự kiện nhường ngôi hoàng đế mới được tái
hiện. Đặt buổi lễ nhường ngôi sau 11 năm so với thực tế, Nguyễn Đình Thi đã
biến một sự kiện vốn vùi dập hoàn toàn cuộc đời của một nữ vương trở thành
một sự kiện tất yếu nếu muốn giữ nước. Chiêu Thánh đã rất khảng khái mà
rằng:
42
Có ở đâu, bao giờ, như hôm nay, giữa thành Thăng Long mĩ lệ của
đất Việt ta, một đôi người cũ gặp nhau tâm sự lại chính là hai vua
của hai triều cao cả… Cái ngày lễ năm Dậu, tôi từ ngai vàng bước
xuống mời bệ hạ lên ngôi, bây giờ nhớ lại, tôi thấy thương cho cả
hai đứa trẻ lúc ấy… Tiếc rằng nhà Lý tôi đến đây là hết, nhưng tôi
mừng là nhà Trần mở đầu được có bệ hạ. Xin bệ hạ tha lỗi, tôi vẫn
thầm coi chuyện nhường ngôi mười một năm trước là không có.
Hôm nay mới thật là ngày, trước trời đất núi sông, Chiêu Hoàng tôi
kính mời đức vua mở nghiệp lớn nhà Trần nhận lấy công việc đất
nước Đại Việt này… [59, tr 271, 272].
Chính Nguyễn Đình Thi đã “huyền thoại hóa” sự kiện lịch sử này. Ông
đã lùi nó về sau sự kiện Chiêu Thánh bị truất ngôi hoàng hậu. Việc truyền
ngôi trước đây giữa văn võ bá quan thì cả Chiêu Hoàng và Trần Cảnh đều là
hai đứa trẻ, giờ đây, khi cả hai đã đủ suy nghĩ để xét đoán mọi việc, Chiêu
Hoàng mới chính thức thực hiện nhiệm vụ quan trọng này vì xét thấy cần phải
làm như vậy. Với lịch sử, thì đây là một sự kiện động trời, nó đã chính thức
đánh dấu sự ra đời của một triều đại mới, vĩnh viễn khép lại một triều đại đã
hết vai trò lịch sử. Nguyễn Đình Thi lại chỉ coi nó như một sự kiện đã qua, đã
thuộc về lịch sử, tái hiện nó chẳng qua vì muốn khẳng định vị thế của Chiêu
Thánh, thể hiện cái Tâm và sự hy sinh của nàng cho xã tắc. Nàng muốn để
nhà Trần chính danh mà được lo việc nước. Lồng ghép sự kiện nhường ngôi
hoàng đế vào trong sự kiện truất ngôi hoàng hậu, tác giả đã tạo cho Chiêu
Hoàng một vị thế ngoài vòng tầm thường.
Không tổ chức sự kiện lịch sử theo nguyên tắc tăng dần đều về cấp độ
của xung đột, nhà văn Nguyễn Đình Thi chỉ lựa chọn hai sự kiện sau cùng của
bi kịch Lý Chiêu Hoàng để viết Rừng trúc. Qua hai sự kiện này, các sự kiện
quan trọng khác gián tiếp được tái hiện để kết nối logic, hoàn thiện một mạch
43
chảy liên tục của đời sống lịch sử trong tác phẩm. Việc lựa chọn phong cách
viết kịch luận đề của tác giả đã khiến cho sự đảo lộn trình tự xuất hiện các sự
kiện lịch sử trong tác phẩm trở thành hợp lý. Ý tưởng sáng tạo của tác giả qua
đó bộc lộ rõ ràng hơn, thuyết phục hơn. Diện mạo lịch sử của thời khắc
chuyển giao quyền lực giữa nhà Lý và nhà Trần đã được tác phẩm khắc họa
rõ nét cùng với dấu ấn sáng tạo không thể phủ nhận của nhà văn. Đó là một
thời khắc lịch sử vô cùng khốc liệt, đẩy nhân vật lịch sử đến giới hạn cao nhất
của thử thách để bộc lộ tính cách, còn tác giả có cơ hội bộc lộ quan điểm, tư
tưởng của mình. Vấn đề việc nước là lớn nhất, nhưng việc người với người
cũng không thể là nhỏ hơn đã được tác giả chuyển hóa vào từng sự kiện, nhân
vật kịch.
Vì mục đích nhấn mạnh đến “việc người” mà nhà văn Nguyễn Đình
Thi đã thay đổi diện mạo xung đột trong tác phẩm, đặt Trần Thị Dung vào vế
bên kia của xung đột, thay cho Trần Thủ Độ. Từ âm mưu soán đoạt ngôi báu
đến việc sắp đặt cuộc hôn nhân trái với cương thường đều do một mình Trần
Thị Dung là tác giả. Những hành động quyết liệt, chà đạp lên tình cảm ruột
thịt để đạt tới một mưu đồ chính trị của Trần Thị Dung đã tạo nên sự đối trọng
giữa việc nước và việc người mà tác phẩm muốn đề cập. Nguyễn Đình Thi
không thay đổi bản chất của xung đột mà thay đổi về “chất” của xung đột
khiến thông điệp của tác phẩm trở nên có sức nặng mà không xa lạ với lịch
sử.
Câu chuyện lịch sử năm xưa không thể gói lại trong một ngày, càng
không thể gói lại trong 3 tiếng trên sàn diễn, nhưng cách đặt vấn đề của tác
giả đã khiến cho Rừng trúc có một diện mạo lịch sử vừa đậm chất nghệ thuật,
lại đầy chất lịch sử. Vẫn là những sự kiện và nhân vật lịch sử quen thuộc ấy,
nhưng hiện thực lịch sử trong tác phẩm đã trở thành hoàn cảnh thử thách nhân
vật lịch sử. Theo đó, các nhân vật lịch sử đều trở nên lý trí, tỉnh táo đến phi
44
thường. Hoàn cảnh lịch sử trong tác phẩm vừa tiếp tục được không khí bi kịch
của giai đoạn lịch sử đó, vừa mang chở được tâm sự của nhà văn.
Vượt lên một cốt truyện cụ thể, thì đây còn là câu chuyện của một thời
khắc lịch sử, khi những đòi hỏi tất yếu của lịch sử cho sự tồn vong của giang
sơn, buộc những nhân vật lịch sử phải cân nhắc giữa tình riêng và nghĩa
chung. Mẹ trở nên tàn tệ với con cũng bởi sự tồn vong của sơn hà xã tắc, của
sự biết nhìn xa trông rộng khi ba đời nhà Lý đã bê tha hưởng lạc để dân tình
khốn khổ. Chồng cạn tình với vợ cũng là bởi sự duy trì của dòng tộc. Chiêu
Thánh dám đối diện với tất cả sự thật cay đắng đó cũng là bởi đã ý thức hết
trọng trách lịch sử của mình, ý thức được sự cần thiết phải hy sinh của bản
thân mình cho xã tắc. Tất nhiên, điều này sẽ thuyết phục nếu nhìn từ yêu cầu
của “việc nước”, còn ở khía cạnh “việc người” với tinh thần nhân bản vốn có
trong mỗi người thì đây là những hành động không dễ gì được chấp nhận,
chia sẻ. Vì lẽ đó, thông điệp Việc nước là lớn nhất, nhưng việc người với
người cũng không thể là nhỏ hơn đã không những chuyển tải được tâm tư của
nhà văn mà còn kết nối được sự kiện lịch sử năm xưa với đời sống của hiện
thực đương đại. Diện mạo lịch sử trong Rừng trúc đã thể hiện rõ nhận thức và
quan điểm sáng tạo của nhà văn Nguyễn Đình Thi về lịch sử. Ông đã tái tạo
lịch sử bằng những luận giải sắc sảo của mình, đồng thời gửi gắm nhiều tâm
sự về việc nước, việc người - những vấn đề “nóng” đang được đặt ra ở thời
đại ông đang sống. Tác phẩm đã cập nhật được tới những vấn đề mà con
người hiện đại quan tâm, cho dù nó viết về một câu chuyện lịch sử từ triều đại
Lý - Trần.
Cùng viết về nhân vật lịch sử Lý Chiêu Hoàng, nhưng trong Cột trụ
chống trời, tác giả Nguyễn Anh Biên đã lựa chọn và xử lý sự kiện dưới một
góc tiếp cận khác. Giai đoạn khi Chiêu Hoàng còn nhỏ, tác giả đã khai thác
sự kiện Lý Huệ Tông truyền ngôi cho con. Khi đó, Chiêu Hoàng còn là một
45
đứa trẻ lên 8, trong sáng, thơ ngây, không ý thức hết được trọng trách cũng
như những vinh hoa mà ngai vàng mang lại. Khi được cha truyền ngôi, Chiêu
Hoàng ngỡ ngàng đến mức sợ hãi. Nàng không thể hiểu được chuyện gì đang
xảy ra và đã ngúng nguẩy từ chối “Con không thích ngồi trên ngai vàng đâu,
con không thích đội vương miện đâu, con không thích mặc áo long bào đâu.
Sao vua cha lại nhường ngôi cho con?”.
Sự kiện này được tác giả sử dụng như sự kiện khởi đầu, để sau đó, ông
dùng tiếng vọng trong cánh gà để khắc họa cảnh chơi đùa cưỡi ngựa, đuổi
bướm, hái hoa giữa Chiêu Hoàng và Trần Cảnh, dẫn đến ý đồ soán ngôi của
Trần Thủ Độ. Sự kiện Chiêu Hoàng lên ngôi không quan trọng đối với nhà
văn Nguyễn Đình Thi khi viết Rừng trúc nhưng lại vô cùng quan trọng với
tác giả Nguyễn Anh Biên khi ông viết Cột trụ chống trời. Có thể nói, đây là
sự kiện then chốt đưa đến tấn bi kịch của cuộc đời Lý Chiêu Hoàng sau này.
Sự kiện này được bắt đầu với bao dự báo bất trắc đang rình rập, vì vua cha từ
bỏ ngai vàng vào chùa Chân Giáo quy y cửa Phật, con gái lên kế nghiệp còn
quá nhỏ bé, ngây thơ. Tác giả Nguyễn Anh Biên đã lấy sự kiện khởi đầu tấn
bi kịch Lý Chiêu Hoàng làm sự kiện khởi đầu trong kịch của ông. Sự tuân
thủ về mặt logic thời gian này khiến câu chuyện kịch thống nhất về mặt nội
dung, phù hợp với kết cấu của một tác phẩm chính kịch, song lại chưa thực
sự tạo được ấn tượng.
Khi Chiêu Hoàng trở thành một thiếu nữ 19 tuổi, biết nhận thức sự
đúng sai, phải trái, đồng thời biết được mình đã trở thành một con rối trong
tay người khác thì bao nhiêu biến cố đã xảy ra với nàng: cha bị bức tử, mẹ đẻ
thông đồng với Trần Thủ Độ mưu toan cướp ngôi nhà Lý cho nhà Trần rồi tái
giá với Trần Thủ Độ, hoàng tử Trịnh vừa sinh ra đã chết yểu… Nguyễn Anh
Biên không trực tiếp tái hiện lại những bi kịch đó trong kịch bản của mình mà
tập trung vào sự kiện Chiêu Thánh phải nhường nốt ngôi hoàng hậu. Hiện tại
46
bế tắc, quá khứ ám ảnh, đã khiến tâm tư nàng không lúc nào nguội, lúc nào
cũng sôi lên.
Bằng sự dồn nén sự kiện kịch, dẫn đến bội số về tấn bi kịch của Lý
Chiêu Hoàng, Nguyễn Anh Biên đã lý giải hợp lý tại sao nàng lại trở thành
một con người đầy thù hận, chứ không bao dung và rộng lượng như Chiêu
Thánh của Nguyễn Đình Thi. Bởi vì, qua Cột trụ chống trời, Nguyễn Anh
Biên muốn đề cập đến thân phận một con người trước ván cờ thế sự. Chiêu
Thánh là nạn nhân, là con rối trong tay những toan tính, sắp đặt, vì thế, nàng
không thể vượt lên hoàn cảnh để tha thứ hay bao dung cho những kẻ đã gây
nên bi kịch của đời nàng.
Diện mạo lịch sử ở thời khắc chuyển giao quyền lực giữa nhà Lý và
nhà Trần trong kịch Nguyễn Anh Biên nghiêng nhiều về thù hận và có phần u
uất. Chính tác giả đã từ ý đồ sáng tạo của mình mà tạo dựng lên không khí ấy.
Nếu như nhà văn Nguyễn Đình Thi gửi gắm những suy tư “luận đề” của mình
ở nhân vật Chiêu Thánh thì Nguyễn Anh Biên đặt lên vai nhân vật Trần Thủ
Độ. Tác giả đã ví Trần Thủ Độ với hình ảnh của chiếc cột trụ chống trời và
biện minh cho lỗi lầm của nhân vật bằng sứ mệnh gánh vác giang sơn.
Nguyễn Anh Biên đã tổ chức sự kiện theo đúng logic lịch sử, đặt nhân vật lịch
sử trong mối xung đột giữa lợi ích quốc gia và hạnh phúc riêng tư, hài hòa
trong “không gian” của tác phẩm chính kịch. Chính tác giả đã nâng tầm xung
đột trong lịch sử, chuyển nó thành mối quan hệ giữa chuyện quốc gia đại sự
với hạnh phúc riêng tư và lựa chọn của nhân vật hiển nhiên sẽ nghiêng về
phía quốc gia đại sự. Xung đột trong tác phẩm đã trở thành xung đột có tính
chất xã hội và tác giả Nguyễn Anh Biên có cơ hội để biện minh cho những
hành động của Trần Thủ Độ.
Nhà viết kịch Chu Thơm trong kịch bản Mỹ nhân và anh hùng lại lựa
chọn cách tổ chức sự kiện lịch sử theo mạch kể chuyện qua sự hiện diện của
47
các nhà chép sử. Vào kịch là sự kiện kiệu của Trần Thị Dung ngang nhiên đi
vào thềm cấm, bị quân hiệu ngăn lại, Trần Thị Dung và 2 lính tháp tùng tức
giận, xô xát xảy ra. Trần Thủ Độ xuất hiện, ông ta bênh vực quân hiệu vì họ
đang làm đúng chức trách của mình. Trần Thị Dung hờn dỗi quay kiệu về.
Những bí mật trong cung cấm được hé lộ qua cách kể của các nhà chép sử:
Vua Lý Huệ Tông bị trúng phong nên đau yếu, buồn bực, suốt ngày uống
rượu rồi ngủ li bì. Việc chính sự giao cả cho Trần Tự Khánh. Tự Khánh chết,
quyền lực rơi vào tay người em họ là Trần Thủ Độ. Thủ Độ ép Huệ Tông
nhường ngôi lại cho con gái thứ là Chiêu Thánh mới lên tám tuổi, bức tử Lý
Huệ Tông, dàn xếp cuộc hôn nhân giữa Chiêu Hoàng và Trần Cảnh, sau đó,
dàn xếp tiếp việc Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh.
Sự kiện thứ hai là việc Trần Thủ Độ ép Trần Cảnh lấy Thuận Thiên
đang bụng mang dạ chửa, vì Chiêu Thánh mãi không có con. Trần Cảnh đau
xót vì bị ép vào thế phải phụ bạc Chiêu Thánh, thương và lo cho số phận
Chiêu Thánh nên đã quyết định sống mái một trận với Trần Thủ Độ. Chiêu
Thánh can ngăn Trần Cảnh không nên vì nàng mà hãy vì giang sơn Đại Việt.
Trần Cảnh không còn lựa chọn nào khác đành quỳ xuống tạ tội với Chiêu
Thánh. Thuận Thiên và Chiêu Thánh tỏ thái độ oán hận với Thiên Cực. Trần
Thủ Độ bênh vực vợ, nhắc Chiêu Hoàng phải hiểu tình thế của mình. Ông ta
không phải là kẻ cướp ngôi nhà Lý, mà chỉ là người chuyển vương triều Lý
sang vương triều Trần khi triều Lý đã mục ruỗng không thể cứu vãn được,
nếu không dựng nhà Trần lên thì bọn phản loạn Quách Bốc, họ Nguyễn, họ
Đàm sẽ biến nước Đại Việt thành “nồi da nấu thịt”.
Sự kiện thứ ba là Trần Cảnh rời bỏ ngai vàng lên Yên Tử. Trần Thủ Độ
lên Yên Tử gặp Trần Cảnh báo tin Hoài Vương dấy binh khởi loạn và yêu cầu
nhà vua phải xử tội chết nhưng không được chấp nhận. Khuyên Trần Cảnh về
48
kinh không được, Trần Thủ Độ tuyên bố vua ở đâu thì triều đình ở đó, Trần
Cảnh buộc phải trở về kinh thành.
Sự kiện thứ tư là việc gả chồng cho Chiêu Thánh 20 năm sau. Trần
Cảnh muốn thưởng công cứu giá cho tướng quân Lê Phụ Trần nhưng xét thấy
vàng bạc, lụa là thì không xứng, mà chức Thái úy thì Tướng quốc Trần Quang
Khải đang nắm giữ nên hỏi ý kiến Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung. Hai vợ
chồng xin Trần Cảnh tác thành cho Chiêu Thánh và Lê Phụ Trần.
Sự kiện thứ năm là thời điểm 19 năm sau (1278). Chiêu Thánh đã ở
tuổi 60, đã có với Lê Phụ Trần hai người con. Bà nhớ lại những sự kiện chính
đã xảy ra trong gia đình mình, nhớ lại những người đã khuất: Chị Thuận
Thiên, mẹ Trần Thị Dung, Trần Cảnh, Trần Thủ Độ… Bà hiểu rằng, vương
triều Lý - một vương triều lẫy lừng kéo dài hơn hai trăm năm với chín đời
vua… làm cho đất nước thái bình, trăm họ yên vui, no ấm. Cái cũ phải ra đi
thì cái mới mới đến. Vì vậy, cho dù rực rỡ đến mấy thì nhà Lý cũng phải tan
rã, nhường chỗ cho một vương triều mới - đó là vương triều Trần… Rất may
đây là một vương triều được lãnh đạo bởi những con người kiệt xuất, đó là
Trần Thái Tông, Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn… đó là những hào kiệt của
nước Nam.
Tác giả Chu Thơm vẫn tiếp tục xung đột trong lịch sử, đó là xung đột
giữa tham vọng thống trị, giữa sự tồn vong của giang sơn xã tắc với tình cảm
giữa con người với con người mà đại diện là Trần Thủ Độ, Trần Thị Dung với
Lý Chiêu Hoàng và nhà Lý. Trần Thủ Độ và họ Trần vẫn ở trên thế thắng,
trên danh nghĩa là người chuyển vương triều từ nhà Lý sang nhà Trần khi nhà
Lý đã hết vai trò lịch sử chứ không phải kẻ cướp ngôi. Đời sống lịch sử của
giai đoạn chuyển giao quyền lực giữa hai triều đại Lý - Trần đã được tác giả
Chu Thơm tái hiện sinh động, đầy đủ, qua đó, ông gửi gắm những tâm sự về
49
thế nước và tình nhà. Những hy sinh mà nhân vật lịch sử trong kịch phải trải
qua đã nhận được sự chia sẻ của khán giả đương thời.
Điều thú vị là các sự kiện lịch sử trong kịch Mỹ nhân và anh hùng đã
được kết nối bởi cách kể và cách dẫn của hai nhà chép sử. Tác giả đã chọn
cách đi vào chính sử qua thân phận của những người chép sử. Họ vừa là
người chép sử, là nhân chứng lịch sử, đồng thời là dẫn chuyện để mỗi cảnh
kịch giống như một trang sử mở ra. Những nỗi niềm về thế thái nhân tình của
tác giả qua đó được bộc lộ. Không giống với các nhà viết kịch đi trước, Chu
Thơm đã chọn cách tiếp cận từ thân phận lịch sử của Lý Chiêu Hoàng và Trần
Thủ Độ. Ông coi họ là mỹ nhân và anh hùng của giai đoạn lịch sử đó. Họ phải
chấp nhận hy sinh hạnh phúc của riêng mình, chấp nhận sự lên án của lịch sử
vì trọng trách lịch sử họ đã gánh trên vai. Hiện thực lịch sử trong tác phẩm
cũng được xây dựng theo cách hướng đến lý giải thân phận mỹ nhân và anh
hùng của Lý Chiêu Hoàng và Trần Thủ Độ. Điều thú vị là ngay tại vở diễn về
đề tài lịch sử, tác giả đã bày tỏ quan điểm về chân thực lịch sử qua chính thân
phận của những người chép sử. Đối diện với sức ép từ nhiều phía, có những
lúc nhà chép sử đã không còn được là chính mình, đã thỏa hiệp với giai cấp
thống trị để được sống, nhưng rồi tính mạng họ cũng không được bảo toàn.
Việc sắp xếp, tổ chức lại sự kiện lịch sử hiển nhiên sẽ dẫn đến sự hình
thành một diện mạo lịch sử mới trong tác phẩm, mang đầy dấu ấn và ý đồ
sáng tạo của nhà viết kịch. Quá trình tổ chức sự kiện lịch sử trong tác phẩm,
có tác giả lựa chọn cách trung thành với tinh thần của lịch sử, nhưng cũng có
những tác giả xây dựng một diện mạo lịch sử mới, tùy theo cách tiếp cận và
nhận thức của từng người về lịch sử. Điều này đã dẫn đến sự hình thành một
hiện thực lịch sử vô cùng phong phú trong các tác phẩm văn học nghệ thuật
nói chung và sân khấu kịch nói riêng. Sự phong phú này chỉ có thể có được
thông qua những dấu ấn sáng tạo, qua những trăn trở của con người hậu thế
50
khi nhìn về lịch sử. Ba tác phẩm của ba tác giả hiện đại đều mang đến những
tinh thần hiện đại cho những chất liệu lịch sử xưa cũ. Cả ba tác phẩm này đều
để lại những dấu ấn riêng trong đời sống tinh thần của khán giả đương thời.
Nhưng ở Rừng trúc là dấu ấn của những luận giải sắc sảo, những phát hiện
tinh tế về việc nước và việc người của một nhà văn, nhà thơ, một nhạc sĩ tài
hoa. Tư tưởng nhân văn của ông được gửi gắm lặn sâu vào tác phẩm trong
những quan điểm sống đầy vị tha của Chiêu Thánh và cái kết có hậu cho hạnh
phúc của nàng. Việc xử lý, tổ chức lại sự kiện lịch sử trong tác phẩm cũng
mang đầy dấu ấn của một thi sĩ tài hoa khi ông hoán đổi thứ tự xuất hiện của
chúng để khắc họa một không gian kịch đầy triết lý và không kém phần lãng
mạn. Không “chơi kịch” như nhà văn Nguyễn Đình Thi, tác giả Nguyễn Anh
Biên là người của sân khấu, ông thận trọng trong việc tuân thủ logic, cấu trúc
của tác phẩm kịch. Phát hiện của ông về biểu tượng cột trụ chống trời gắn với
hình tượng Trần Thủ Độ cùng những trọng trách lịch sử lớn lao mà nhân vật
phải đảm trách đã đưa câu chuyện lịch sử năm xưa kết nối được với đời sống
hiện thời. Có thể nói, đó là những vấn đề muôn thuở, đã được xác lập từ lâu
trong ý thức hệ của người phương Đông đã được tác giả phát hiện và lý giải
trong tác phẩm của mình. Tác phẩm xuất hiện sau nhất là Mỹ nhân và anh
hùng của tác giả Chu Thơm vào năm 2009. Đứng trước những thành công lớn
của các tác giả đi trước, ông đã biết tìm cho mình một lối đi riêng: Tiếp cận
lịch sử từ mối quan hệ mỹ nhân và anh hùng. Cho dù sự so sánh này còn tồn
tại nhiều vấn đề đáng bàn, nhưng tác giả đã mang đến một cách nhìn mới về
sự kiện lịch sử xưa cũ. Cách đặt vấn đề của tác giả đã được khán giả hiện đại
đón nhận và tác phẩm được tặng Huy chương Vàng tại Hội diễn Sân khấu
kịch nói chuyên nghiệp toàn quốc 2009 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Cùng một sự kiện lịch sử nhưng ba tác giả đã đặt ba vấn đề khác nhau
xuất phát từ quan điểm, nhận thức và mục đích sáng tạo của riêng mình. Ba
51
tác phẩm cũng đối thoại được với khán giả đương thời về những vấn đề quan
trọng của cuộc sống. Sự tích hợp của vốn sống trong điều kiện xã hội hiện đại
cộng với những tri thức, những am hiểu về lịch sử đã khiến mỗi tác giả có
những nhận thức và cách sáng tạo khác nhau. Chính họ đã làm mới, mang đến
những hơi thở mới cho những tư liệu lịch sử xưa cũ, đưa những vấn đề của
lịch sử sống cùng với thời gian.
Tuy nhiên, cho dù có sáng tạo như thế nào thì đích đến cuối cùng của
một kịch bản văn học phải là đời sống sân khấu. Chỉ khi có được một đời
sống sân khấu đích thực thì những sáng tạo của tác giả mới đi đến được tận
cùng giá trị của nó. Kịch bản chính là xuất phát điểm, là nền tảng cho sáng tạo
của vở diễn. Khi sáng tác, người tác giả luôn phải mường tượng đến việc hiện
thực hóa những sáng tạo của mình trên sàn diễn. Rừng trúc của tác giả
Nguyễn Đình Thi đã khiến cho người đọc choáng ngợp khi tiếp cận văn bản
bởi cách viết vừa quyết liệt, vừa tinh tế, ẩn sâu trong hiện thực lịch sử ấy còn
chất chứa nhiều nỗi buồn nhân thế của nhà văn. Sự hoàn hảo về mặt văn
chương, chữ nghĩa, cùng với sự khuyết thiếu của hành động kịch đã hạn chế
khả năng hiện thực hóa đời sống của kịch bản Rừng trúc trên sân khấu. 21
năm trong thân phận của một kịch bản văn học, Rừng trúc mới được hiện diện
trên sân khấu tại Hội diễn Sân khấu kịch nói chuyên nghiệp toàn quốc năm
1999 dưới bàn tay của đạo diễn tài hoa Nguyễn Đình Nghi và đạo diễn Phạm
Thị Thành. Bên cạnh những hạn chế nhất định về mặt sân khấu, thì cách tổ
chức sự kiện lịch sử trong Rừng trúc đã giúp đạo diễn xây dựng thành công
hình tượng vở diễn. Sự kiện nhường ngôi của Lý Chiêu Hoàng cho Trần Cảnh
nếu tuân thủ đúng theo trình tự thời gian của lịch sử thì khi đó cả hai mới ở độ
tuổi lên 7, lên 8. Nhưng nhà văn Nguyễn Đình Thi đã đưa sự kiện đó trở về
đúng với thời gian mỹ học của kịch - thời hiện tại. Qua ngôn ngữ của Chiêu
Thánh, giây phút ấy, ngàn hoa lộng lẫy đua tươi khắp kinh thành, trời hẩng
52
ấm dịu dàng, mây mù biến tan… Đạo diễn Nguyễn Đình Nghi đã xử lý một
không gian sân khấu lộng lẫy trong bát ngát màu vàng vương giả của hoa cúc,
đẹp đẽ và sang trọng. Trong không gian ấy, “đôi người cũ” gặp nhau, đối
thoại, thật xứng là hai vua của hai triều cao cả.
Như vậy, việc tổ chức sự kiện, hình thành một diện mạo lịch sử mới
trong tác phẩm không thể không tuân thủ những đặc trưng của sân khấu kịch.
Đó là việc tổ chức và phát triển xung đột, hành động sao cho người đạo diễn
có thể cụ thể hóa nó trên sàn diễn để xây dựng thành những hình tượng vở
diễn và hình tượng nhân vật. Mọi sáng tạo của tác giả trong kịch bản ngoài
việc đáp ứng những tiêu chí của văn học còn phải thỏa mãn những yêu cầu
của sáng tạo sân khấu. Diện mạo lịch sử mới trong tác phẩm chỉ thực sự có ý
nghĩa, nhận được sự quan tâm và phản biện của xã hội khi nó được sống một
đời sống sân khấu đích thực.
2.2. Phát hiện và phát triển ý nghĩa của sự kiện lịch sử
Cuộc sống là một dòng chảy liên tục, không ngừng. Trong dòng chảy
ấy, mang theo muôn vàn biến động của cuộc sống, cũng như vô vàn những
vấn đề được đặt ra từ cuộc sống. Có những vấn đề đã dừng lại ở thời đại của
nó, nhưng có những vấn đề có sức sống vượt lên mọi giới hạn về không gian
và thời gian. Trước hiện thực lịch sử bề bộn đó, khi sáng tạo về đề tài lịch sử,
người tác giả đối diện với hiện thực lịch sử ra sao, tiếp cận nó bằng tâm thế
nào, làm sao để phát hiện được những giá trị tiềm ẩn của sự kiện lịch sử để
khai thác và phát triển trong tác phẩm? Làm sao để tác phẩm vừa mang chở
được khát vọng sáng tạo, đối thoại được với cuộc sống đương thời, lại không
xung đột với tâm thức của cộng đồng về những vấn đề lịch sử? Điều này phụ
thuộc vào cảm quan, vào sự nhạy bén của người nghệ sĩ trước hiện thực
đương thời và trước hiện thực lịch sử.
53
Tính hiện đại trong tác phẩm kịch về đề tài lịch sử không nằm ở phạm
vi cuộc sống nó phản ánh, mà ở chỗ tác giả khám phá, phát hiện ra những giá
trị, những bài học lịch sử ẩn chứa phía sau mỗi sự kiện lịch sử, phát triển nó
và kết nối với hiện thực đương đại; ở cách tiếp cận, lý giải những vấn đề lịch
sử trong tác phẩm bằng nhãn quan và quan điểm thẩm mỹ của con người hiện
đại. Và như vậy, cho dù sự kiện trong tác phẩm thuộc về thời quá khứ, nhưng
tác phẩm vẫn mang tính hiện đại vì vấn đề mà nó đặt ra không dừng lại ở thời
quá khứ. Vũ Như Tô của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng là một tác phẩm như
vậy.
Vũ Như Tô là một nhân vật lịch sử đã được Việt sử thông giám cương
mục của Quốc sử quán triều Nguyễn thế kỷ XIX ghi lại rằng:
Trước đây, Vũ Như Tô, một người thợ ở Cẩm Giàng, xếp cây mía
làm thành kiểu mẫu cung điện lớn trăm nóc, dâng lên nhà vua, nhà
vua bằng lòng, phong cho Như Tô làm đô đốc đứng trông nom việc
dựng hơn trăm nóc cung điện lớn có gác, lại khởi công làm Cửu
Trùng Đài. Mặt trước điện đào hồ thông với sông Tô Lịch, vòng
quanh khuất khúc, mở thông cửa cống. Nhà vua bất thần ngự thuyền
Thiên quang đi chơi xem suốt ngày đêm. Quân sĩ trong ngũ phủ làm
việc xây đắp chưa được thành công, lại bắt quân sĩ các nha môn ở
trong và ngoài kinh thành làm việc lấp hồ, san đất. Khi nhà vua đi
chơi, thấy người nào làm vừa ý thì thưởng cho thẻ bài vàng hoặc
bạc. Có khi công việc làm đã xong rồi lại thay đổi làm lại; sửa sang
xây dựng hết năm này qua năm khác. Quân và dân phải đi làm việc
bị bệnh dịch, chết mất khá nhiều (…) Duy Sản vì thường can ngăn,
làm trái ý vua, nhà vua tức giận, sai đánh bằng trượng. Duy Sản bèn
cùng Lê Quảng Độ, Trình Chí Sâm bàn mưu bỏ vua này lập vua
khác. Họ chuẩn bị sửa soạn binh thuyền khí giới, hội họp ở bến Thái
54
Cực, nói phao là đem đi đánh giặc, rồi nhân ban đêm, họ đem quân
Kim ngô hộ vệ hơn ba ngàn người vào cửa Bắc Thần. Lúc lửa cháy,
nhà vua ngờ là giặc kéo đến, đi lẻn ra ngoài cửa Bảo Khánh; lúc tờ
mờ sáng, đi qua cửa Thái Học đến hồ Chu Tước ở phường Bích
Câu, gặp Duy Sản, nhà vua hỏi “Giặc ở đâu?” Duy Sản không trả
lời, quay mặt đi đằng khác và cười ầm lên. Nhà vua quay ngựa chạy
sang mặt tây, Duy Sản sai võ sĩ tên là Hạnh đâm nhà vua ngã ngựa,
rồi giết đi. Khâm Đức hoàng hậu cũng tự nhảy vào đống lửa để chết
[36, tr 141].
Kết cục của vụ việc Cửu Trùng Đài - Vũ Như Tô - Lê Tương Dực
trong lịch sử là vậy, song vào kịch Nguyễn Huy Tưởng, đó lại là một câu
chuyện đẫm màu sắc bi kịch gắn với số phận nhân vật chính Vũ Như Tô. Nếu
như trong lịch sử, Vũ Như Tô là một người thợ, tự xếp mía thành mô hình
cung điện để tiến thân vào quan lộ thì Vũ Như Tô của nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng vì tài danh vang khắp cõi mà bị bắt về kinh, phục tùng lệnh vua xây
Cửu Trùng Đài. Khi đang quyết liệt chống lại tham vọng của Lê Tương Dực
thì tại nơi xa hoa này, Vũ Như Tô đã gặp Đan Thiềm - người cung nữ có đôi
mắt thâm quầng mà ông ngỡ tưởng là người trong túy hương mộng cảnh,
chính Đan Thiềm bằng sự chân thành của mình đã khai sáng cho ông:
Ông có tài, tài ấy phải đem cống hiến cho non sông, không nên để
mục nát với cỏ cây… Đây là lúc ông nên mượn tay vua Hồng Thuận
mà thực hành cái mộng lớn của ông… Ông cứ xây lấy một tòa đài
cao cả. Vua Hồng Thuận và lũ cung nữ kia rồi mất đi nhưng sự
nghiệp của ông còn lại về muôn đời. Dân ta nghìn thu được hãnh
diện… [36, tr 22, 23].
Vũ Như Tô bắt tay xây dựng Cửu Trùng Đài trước sự phản đối quyết
liệt của Trịnh Duy Sản. Cửu Trùng Đài cứ xây lại đổ, chết rất nhiều thợ, tốn
55
rất nhiều sức người, sức của, dân chúng khắp nơi nổi loạn chống lại triều
đình. Trịnh Duy Sản sau khi can ngăn vua không được đã dấy binh nổi loạn,
giết Lê Tương Dực, đốt Cửu Trùng Đài, xử trảm Vũ Như Tô.
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã tìm thấy trong câu chuyện về một
người thợ được xem như kẻ tội đồ của lịch sử bóng dáng thân phận của người
nghệ sĩ. Một thân phận đầy bi kịch! Bi kịch ấy đã bắt đầu từ những dòng đầu
tiên của kịch bản khi Vũ Như Tô được biết đến như một tài năng có một
không hai. Và rồi tài năng ấy đã bị biến thành phương tiện hưởng lạc cho hôn
quân, bạo chúa. Đau đớn xiết bao khi cái chết gần kề, người nghệ sĩ tài năng
ấy vẫn thống thiết: Đời ta không quí bằng Cửu Trùng Đài… Sáng tạo chính là
bản năng sống còn, là cái lý tồn tại của người nghệ sĩ, còn sản phẩm sáng tạo
là máu thịt, là hơi thở mà vì nó người nghệ sĩ có thể quên cả bản thân mình.
Vũ Như Tô đã không màng đến vợ con, bước qua dư luận xây Cửu Trùng Đài
cho một tên bạo chúa, một tên thoán nghịch, cho một lũ gái dâm ô chỉ vì một
lẽ vua Hồng Thuận và lũ cung nữ kia rồi mất đi nhưng sự nghiệp của ông còn
lại về muôn đời... Đây chính là cái “nghiệp” mà người nghệ sĩ phải mang, là
cái chân lý nghiệt ngã: Nghệ sĩ phải là người mà cuộc đời chỉ là một phương
tiện cho nghệ thuật.
Thay đổi một chút sự thật trong câu chuyện lịch sử, hư cấu hợp lý nhân
vật Đan Thiềm - người tri âm, tri kỷ bên cạnh Vũ Như Tô, nhà văn Nguyễn
Huy Tưởng đã khắc họa thành công bi kịch của người nghệ sĩ trong tác phẩm.
Theo GS Phong Lê, đó là cái bi kịch “ở một sự nghiệp muốn được sống lâu
dài theo thời gian, muốn là biểu tượng vẻ vang của xứ sở, nhưng lại phục vụ
cho cường quyền. Là kết quả của sự sáng tạo, nhưng lại thực hiện trên mồ hôi,
xương máu của nhân dân” [36, tr 119]. Tác phẩm đã đặt vấn đề:
Khát vọng sáng tạo và sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ quan hệ
như thế nào với đất nước, với nhân dân… Đó là một quan hệ thuận hoặc
56
nghịch, hoặc có cả mặt thuận và mặt nghịch? Trên những cơ sở xã hội
nào, những nền tảng luân lý và đạo đức nào thì khát vọng đó được thỏa
mãn, và sáng tạo đạt được thành công? Đó là vấn đề đặt ra lâu dài cho
lịch sử, cho tương lai, và do vậy, cũng là cho văn học [36, tr 116].
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã gửi vào câu chuyện lịch sử phê phán
thói ăn chơi hưởng lạc của Lê Tương Dực dẫn đến cơ đồ sự nghiệp tan nát
thông điệp về khát vọng sáng tạo của người nghệ sĩ - trí thức. Tác giả đã gửi
vào tác phẩm một cách tái hiện lịch sử mới mẻ, không đi theo những tác giả
cùng thời là thi vị hóa hay thổi phồng quá khứ. Nguyễn Huy Tưởng đã kể câu
chuyện kịch bằng một giọng điệu riêng có phần chua xót về một Đan Thiềm
thức khi người ngủ, khóc khi người cười, thương khi người ghét, về một Vũ
Như Tô tài hoa, yêu kiến thiết xây dựng nhưng cuối cùng đã bị hãm hại, về
một thời mà mọi quyền tự do dân chủ đều bị bóp chết, kể cả quyền được sống.
Ẩn phía sau bi kịch Vũ Như Tô là cả ước mơ, khát vọng cống hiến của
Nguyễn Huy Tưởng giữa những tối tăm, ngột ngạt của những ngày ông đang
sống. Ông không giấu giếm những dằn vặt của mình về nghệ thuật, về con
đường đi của người nghệ sĩ, trí thức trước những bế tắc hiện thời. Chính
Nguyễn Huy Tưởng đã mang đến câu chuyện lịch sử năm nào khát vọng sáng
tạo vĩnh cửu của người nghệ sĩ chân chính.
Đồng cảm với những trăn trở của nhà văn, đạo diễn Phạm Thị Thành đã
vượt qua những rào cản, những thách thức của một kịch bản văn học với quá
nhiều tầng ý nghĩa chìm sâu, đưa Vũ Như Tô gặp gỡ với khán giả hiện đại tại
Hội diễn Sân khấu đợt 4 năm 1995 cùng dàn diễn viên tài năng của Nhà hát
Tuổi trẻ. Trong vở diễn Vũ Như Tô, ngôn ngữ điện ảnh đã được huy động để
mở rộng không gian sân khấu một cách hợp lý, đồng thời hỗ trợ tích cực cho
việc khắc họa tư tưởng chủ đề của vở diễn. Khai màn bằng một hiệu ứng điện
ảnh vô cùng ấn tượng: Trên phông hậu, hình ảnh một người lao động đang
57
cần mẫn cuốc giữa mảnh đất mênh mông, nứt nẻ, mồ hôi đẫm áo… từng nhát
cuốc nặng nhọc, đơn độc đã hướng người xem vào những liên tưởng với thân
phận người nghệ sĩ. Nhân vật Vũ Như Tô trong vở diễn được khắc họa là một
người nghệ sĩ đầy tài năng, mang một hoài bão phi thường xây dựng cho đất
nước một công trình kiến trúc đồ sộ, tráng lệ có thể sống mãi với thời gian. Sự
kiện Vũ Như Tô nhận lệnh vua Lê Tương Dực, bắt tay xây dựng Cửu Trùng
Đài được xử lý không phải như một sự khuất phục trước cường quyền, mà là
để thực thi ý đồ sáng tạo của người nghệ sỹ. Ý đồ này không chỉ đơn thuần
thỏa mãn khát vọng sáng tạo của riêng mình nghệ sĩ, mà còn nhằm một mục
đích lớn lao hơn, vì sự nghiệp tạo dựng cái đẹp cho đất nước.
Lớp diễn Vũ Như Tô cùng Đan Thiềm sánh bước giữa ngổn ngang của
công trình xây dựng Cửu Trùng Đài, hân hoan niềm hy vọng về một kỳ quan
của đất nước trong tương lai không xa, đã thể hiện sự tương giao giữa cái tôi
của người nghệ sĩ tài năng với khát vọng sáng tạo và khát khao kiếm tìm cái
đẹp cao cả. Vở diễn khép lại giữa không khí hừng hực lửa cháy, thiêu rụi Cửu
Trùng Đài, Vũ Như Tô bị trói dẫn đi trong tiếng thét đau khổ tuyệt vọng của
Đan Thiềm. Tất cả mọi điều đẹp đẽ đã đồng thời kết thúc! Xã hội đó không có
chỗ cho sự tồn tại của những khát vọng sáng tạo và cái đẹp chân chính.
Vở diễn Vũ Như Tô đã tiếp nối và hiện thực hóa thành công ý tưởng
sáng tạo của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Thân phận người nghệ sĩ được tái
hiện trên sân khấu đầy bi thương và khốc liệt. Quan điểm sáng tạo nghệ thuật
một lần nữa lại được đặt ra sau 30 năm mà vẫn vẹn nguyên giá trị. Chính con
mắt tinh tường, nhạy bén của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã phát hiện ra ý
nghĩa tiềm ẩn phía sau sự kiện lịch sử xây Cửu Trùng Đài của Vũ Như Tô, lấy
đó làm điểm tựa để bộc lộ những suy tư về thân phận người nghệ sĩ, về sứ
mệnh cao cả của nghệ thuật. Từ một câu chuyện đơn giản về người thợ quê
58
mùa, muốn dùng tài năng để tiến thân được nhà văn phát triển thành bi kịch
về thân phận người nghệ sĩ một cách sâu sắc và đầy ý nghĩa.
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã mang đến câu chuyện lịch sử một sức
sống mới, một sức lan tỏa mới tới đời sống đương đại. Lịch sử có thể sẽ vĩnh
viễn nằm lại cùng thời gian nếu như không có những phát hiện và sáng tạo
của nhà văn, sau đó là sự thăng hoa của đạo diễn Phạm Thị Thành. Chính họ
bằng tài năng của mình đã đưa những chuyện xưa, tích cũ đi cùng năm tháng.
Theo PGS.TS Trần Trí Trắc: "Khám phá chân lý lịch sử là tìm cái tinh
thần hữu ích của lịch sử cho cuộc sống chứ không phải đi triệu cái bóng ma ở
quá khứ hiện về một lần nữa" [37, tr 315]. Ngày xưa B. Brecht viết Galilei để
nói rằng đấu tranh cho chân lý là vấn đề sống còn vì xã hội hiện tại, cho cuộc
sống hiện tại, chứ không phải cho xã hội cũ. Giai cấp phong kiến trung cổ
phải dìm chân lý và sự thật xuống là để phục vụ cho mục đích thống trị của
chúng. Bernard Shaw viết Janda để đặt một vấn đề: Đến bao giờ thế giới này
mới dung nạp nổi những con người có tâm hồn lớn như cô gái thành Orleans?
Khám phá quá khứ, đối thoại với đương thời là mục đích sáng tạo đầu tiên, cũng
là cao quý nhất của sân khấu về đề tài lịch sử.
Tuy nhiên, khám phá quá khứ để nắm bắt, phát hiện những vấn đề có
thể đối thoại được với hiện thực đương thời là việc làm vô cùng khó khăn, nó
được quyết định bởi nhận thức lịch sử, khả năng hiểu biết lịch sử cùng cảm
quan nhạy bén, tinh tế của người nghệ sĩ. Lịch sử là xuất phát điểm, là cái cố
định, không thay đổi, cảm quan của người nghệ sĩ sẽ quyết định việc phát
hiện, lựa chọn, lý giải sự kiện lịch sử để kết nối hợp lý với đời sống đương
đại. Trong thực tế, không phải sự lựa chọn và kết nối nào cũng thành công,
nếu nghệ sĩ phán đoán sai và kết nối sai sẽ dẫn đến việc cho ra đời những tác
phẩm bị đánh giá là cưỡng bách lịch sử. Các nhà hoạt động sân khấu vẫn
thường nhắc lại câu chuyện về vở diễn Tô Hiến Thành xử án (Tác giả Bùi
59
Trọng Nghĩa) để xem đó là bài học kinh nghiệm trong sáng tác về đề tài lịch
sử. Tác giả và đạo diễn của vở đã không ngần ngại cho nhân vật Tô Hiến
Thành khi xử án đã giơ tay hô khẩu hiệu Hãy lấy dân làm gốc và hạ màn! GS
Nguyễn Đức Lộc đã thốt lên đầy tiếc nuối rằng: "Ôi thôi, lịch sử vẫn còn mà
sân khấu thì đã nguội lạnh. Con người lịch sử ngày hôm qua biến thành cái
loa tuyên truyền cho chính sách của ngày hôm nay, tác giả muốn làm cho sự
kiện và nhân vật lịch sử của mình sống lại trong thời kỳ đổi mới một cách lạc
lõng, sượng sùng" [37, tr 308].
Nhà văn Quách Mạt Nhược trong quá trình sáng tác kịch bản Thái Văn
Cơ cũng bày tỏ rằng:
Chúng ta cũng không thể lấy tiêu chuẩn ngày nay để đánh giá Tào
Tháo, cũng không thể lấy tiêu chuẩn ngày nay mà đánh giá nghĩa
quân khăn vàng. Có người gán cho nghĩa quân khăn vàng có cương
lĩnh chính trị là "người cày có ruộng", thế là nghĩa quân từ 1800
năm trước đã làm cải cách ruộng đất rồi? Như vậy là không phù hợp
với lịch sử... [37, tr 104].
Phát hiện, lựa chọn câu chuyện, sự kiện lịch sử chứa đựng những vấn
đề có giá trị với cuộc sống đương thời, lý giải nó bằng cảm quan và tinh thần
thẩm mỹ mới đã giúp các tác giả đưa lịch sử trở về hiện tại một cách gần gũi.
Tác giả Nguyễn Đình Thi đã kết nối được câu chuyện lịch sử đầy biến động
của triều đại Lý - Trần vào với thông điệp Việc nước là lớn nhất, nhưng việc
người với người cũng không thể là nhỏ hơn. Tác giả Nguyễn Anh Biên thì kết
nối câu chuyện lịch sử đó với sự liên tưởng đến hình tượng của cột trụ chống
trời, qua đó đề cao vai trò của đấng nam nhi khi đất nước gặp biến cố. Ở một
góc độ nào đó, vấn đề mà tác giả Nguyễn Anh Biên lựa chọn cũng là những
vấn đề lớn của mỗi quốc gia, dân tộc - nhất là những quốc gia phương Đông
vốn coi trọng vai trò của người đàn ông trong những việc lớn của gia đình và
60
đất nước. Những trăn trở của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng về việc tìm kiếm
một con đường nghệ thuật chân chính trước hiện thực đời sống vô cùng nghiệt
ngã đã được ông phát hiện và gửi gắm thành công qua câu chuyện về người
thợ tài hoa nhưng số phận đầy bi kịch mang tên Vũ Như Tô. Tác phẩm đã đặt
ra những vấn đề lớn vượt khỏi thời đại của nhân vật lịch sử Vũ Như Tô, cũng
không dừng lại ở thời đại của nhà văn mà song hành cùng mọi thời đại, vượt
khỏi biên giới của các quốc gia, dân tộc.
Phát hiện và phát triển ý nghĩa của sự kiện lịch sử, đưa nó trở về với
đời sống đương đại là người tác giả đã mang đến tính hiện đại cho tác phẩm.
Bằng cảm quan nhạy bén, tác giả đã phát hiện được những vấn đề của lịch sử
còn giá trị với đương thời, lựa chọn và luận giải nó một cách sắc bén, tinh tế
và khoa học để kết nối thuyết phục với hiện thực đương đại. Qua mỗi tác
phẩm, không những tinh thần của lịch sử được phát huy, bảo tồn mà con
người hiện đại còn có thể tìm thấy mình trong đó. Những sự kiện lịch sử được
phản ánh trong tác phẩm do đó vừa là đại diện của đời sống quá khứ, vừa
đồng hành cùng đời sống đương thời, mang đến cho tác phẩm tính hiện đại.
2.3. Nhận thức lại sự kiện lịch sử
Sử học luôn lấy sự chính xác làm tiêu chí, tuy nhiên tác phẩm lịch sử
cũng là sản phẩm diễn ngôn của một hay một nhóm người, cho dù có trình độ
học vấn uyên thâm đến đâu, có cố gắng đến đâu thì nhà sử học cũng không
thể khách quan hoàn toàn khi viết sử. Hiện thực lịch sử được ghi chép trong
sử sách vẫn là lịch sử nhận thức chủ quan của nhà viết sử, không thể trùng
khít hoàn toàn với dòng lịch sử thực tế khách quan đã và đang tồn tại. Nhà
viết sử bao giờ cũng bị ảnh hưởng nhất định bởi điều kiện, hoàn cảnh sống và
một trình độ nhận thức nhất định. Các sử gia thời phong kiến còn chịu sự chi
phối bởi hệ tư tưởng của thời đại, giai cấp mình, thậm chí là tầng lớp thống trị
khi đánh giá sự kiện, nhân vật lịch sử. Sự hạn chế trong thế giới quan và áp
61
lực của giai cấp thống trị đã khiến một số sử gia thời phong kiến không thể
thực hiện đúng tôn chỉ của khoa học sử. Vì thế, có những sự thật lịch sử mãi
mãi bị che giấu, khuất lấp. Bằng cái nhìn tích cực của con người hiện đại,
nhiều nghệ sĩ đã nhận thức và đánh giá lại câu chuyện, sự kiện, nhân vật đã
được ghi chép trong chính sử, thậm chí, một số trường hợp còn gỡ nỗi oan
lịch sử và trả nhiều vấn đề lịch sử trở về với đúng bản chất của nó. Không chỉ
nhận thức, đánh giá lại lịch sử, qua tác phẩm, người nghệ sĩ còn làm sống lại
câu chuyện và sự kiện lịch sử bằng hơi ấm của tình người và tình đời, lan tỏa
được những sức mạnh của quá khứ tới đời sống đương đại. Sự kiện chuyển
giao ngôi báu giữa nhà Đinh và nhà Lê cùng với thân phận của Dương Vân
Nga là một trong những trường hợp như vậy.
Việt sử lược, một bộ sử viết vào thời nhà Trần đã ghi lại sự kiện lịch sử
này như sau:
Năm thứ 10 hiệu Thái Bình (979), tiên vương bị giết hại. Vệ Vương
còn nhỏ tuổi, vua bèn quyền nhiếp chính sự trong nước, xưng là phó
vương… Bấy giờ ở Lạng Châu, tin quân Tống đến, làm tờ trạng tâu
lên. Thái hậu nghe người Nam Sách là Phạm Cự Bị làm đại tướng
quân, đem binh ra chống cự. Ngày xuất quân, Cự Bị vào thẳng trong
cung, nói với vua rằng: "Nay, chúa thượng nhỏ yếu không biết được
sự khó nhọc của lũ ta, nếu có chút công lao thì ai là người biết đến?
Chi bằng trước hãy tôn quan Thập đạo làm thiên tử, sau đó hãy xuất
quân". Quân sĩ nghe nói thế đều hô "Vạn tuế". Thái hậu thấy lòng
người theo phục, sai người lấy áo khoác long cổn khoác lên mình
vua, xin lên ngôi… Năm Nhâm Ngọ, hiệu Thiên Phúc năm thứ 2
(982). Lập 5 bà hoàng hậu [38, tr 60, 61].
Việt sử lược đã hoàn toàn không nhắc đến mối quan hệ riêng tư giữa
Dương Vân Nga và Lê Hoàn trong cuộc chuyển giao quyền lực quan trọng
62
này. Đến Đại Việt sử ký toàn thư của sử gia Ngô Sĩ Liên (viết vào thời nhà
Lê), mối quan hệ giữa Dương Vân Nga và Lê Hoàn mới được nhắc đến.
Về luân thường vợ chồng có nhiều việc đáng thẹn… Đạo vợ chồng là
đầu của nhân luân, mối của vương hóa. Hạ kinh của Kinh dịch nêu
quẻ Hàm, quẻ Hằng lên đầu là tỏ rằng lấy đàn bà tất phải chính đáng.
Đại Hành thông dâm với vợ vua, rồi nghiễm nhiên lập là hoàng hậu
thì không còn có lòng hổ thẹn gì nữa. Lấy lối ấy truyền lại đời sau,
chính con mình lại bắt chước mà gian dâm quá độ đến nỗi mất nước,
há chẳng phải Đại Hành gây mối họa loạn ư? [28, tr 168].
Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sỹ, Ngô Thì Nhậm biên soạn vào
năm Canh Thân 1800 niên hiệu Cảnh Thịnh đời vua Quang Toản triều Tây
Sơn đã viết về giai đoạn lịch sử này như sau:
Bấy giờ vua nối ngôi mới 6 tuổi, bọn Đinh Điền đều làm đại thần
giúp việc chính sự. Riêng Hoàn một mình nắm giữ quân đội được ra
vào nơi cung cấm. Thái hậu thấy liền yêu mến rồi tư tình với Lê
Hoàn, cho ở ngôi nhiếp chính, làm việc như Chu Công. Hoàn nắm
việc quân việc nước, lại cậy có thái hậu yêu, lăng nhục người cùng
hành với mình không kiêng sợ ai [39, tr 159].
Lê Đại Hành là một ông vua mở ra cơ nghiệp mà làm việc ấy xấu
như cầm thú, mọi rợ. Hơn nữa miếu hiệu của Đinh Tiên Hoàng là
Đại Thắng Minh Hoàng Đế thế mà Lê Đại Hành lại công nhiên lấy
hiệu vua cũ đặt tên cho vợ mình là không biết kiêng nể quá mức.
Chép vào sử sách để cho nghìn thu chê cười [39, tr 168].
Khâm định Việt sử thông giám cương mục (tập 3) do Quốc sử quán
triều Nguyễn biên soạn, chép rằng:
Nhà vua nối ngôi mới lên 6 tuổi. Bọn Nguyễn Bặc đều làm đại thần
phụ chính, còn Lê Hoàn trong tay giữ cả binh quyền, tự do ra vào nơi
63
cung cấm. Thái hậu phải lòng Hoàn, rồi cùng tư thông, cho Hoàn
quyền làm công việc thay vua như Chu Công khi trước. Lê Hoàn cậy
có Thái hậu thương yêu, không kiêng sợ chi cả… [46, tr 228].
Dương Thị trước kia lấy Đinh Tiên Hoàng, sinh ra Vệ Vương Toàn.
Toàn nối ngôi hãy còn nhỏ tuổi, thái hậu tư thông với nhà vua mưu
việc chuyển rời ngôi nhà Đinh. Đến đây mưu lập Dương Thị là Đại
Thắng Minh Hoàng Hậu… [46, tr 234].
Như vậy, những cuốn sử đầu tiên của Việt Nam đã không phê phán, lên
án mối quan hệ giữa Dương Vân Nga và Lê Hoàn. Chỉ đến thời Lê, sử gia
Ngô Sĩ Liên đã phê phán mối quan hệ này hết sức quyết liệt. Một vài cuốn sử
sau Đại Việt sử ký toàn thư cũng đều xem mối quan hệ này là không thể chấp
nhận, nó vi phạm vào đạo đức xã hội, nghĩa vua - tôi, chồng - vợ. Tuy nhiên,
sang đến thế kỷ XX, các bài nghiên cứu về lịch sử đăng trên các tạp chí
chuyên ngành lại có những cách nhìn khác về sự kiện lịch sử này.
Tác giả Song Cối trong bài Tôi bào chữa cho Dương thái hậu đã viết:
“Dương hậu đối với nhà Đinh tuy có khuyết điểm nhưng đối với quốc dân bà
là một người hoàn toàn vô tội, nếu không kể là có công” [10, tr 18, 19]. Tác
giả Nguyễn Danh Phiệt trong bài Lê Hoàn với tập thể anh hùng triều đình
Hoa Lư nhận định:
Xã hội Đại Cồ Việt còn là một xã hội mà "khoan, giả, an, lạc" từ
thời họ Khúc vẫn được coi là phương châm trị nước và những sinh
hoạt thoải mái, phóng khoáng trong bối cảnh văn hóa cộng đồng,
làng xã người Việt thuần khiết vẫn chưa bị lớp mây mù văn hóa Tàu
vây ám. Sinh hoạt đó không chỉ bao trùm nơi dân dã mà còn chiếm
lĩnh cả chốn cung đình. Trong bối cảnh đó thì hiện tượng Dương
thái hậu – Lê Hoàn cũng là một chuyện bình thường, hợp lẽ… Đinh
64
Bộ Lĩnh chết, Dương thái hậu lấy Lê Hoàn là theo tập tục thông
thường của xã hội [72, tr 15].
Trong bài viết Dương hậu-Dương thái hậu, lịch sử và huyền thoại, tác
giả Nguyễn Danh Phiệt vẫn tiếp tục quan điểm này: "Việc bà Thái hậu họ
Dương sau đó làm hoàng hậu của Lê Hoàn cũng là chuyện thường tình. Chữ
"Trung", "Trinh" theo quan điểm Nho giáo chưa chi phối đời sống xã hội
nước ta ở thế kỷ X" [73, tr 42].
Tác giả Nguyễn Thị Phương Tri trong bài viết Vai trò của Thái hậu
Dương Vân Nga đối với đất nước Đại Cồ Việt hồi thế kỷ X in trong cuốn Bối
cảnh định đô ở Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn viết: “Dương Thái hậu
phải là một người thông minh, tài giỏi, người phụ nữ - người mẹ can đảm mới
đi đến quyết định như vậy… vì đất nước, vì nhân dân mà hy sinh ngôi báu của
con trai mình” [68, tr 78].
Ở giai đoạn sớm nhất của khoa học sử thì cuộc chuyển giao quyền lực
giữa nhà Đinh sang nhà Lê và thân phận của Dương Vân Nga đã không bị các
nhà sử học lên án, phán xét. Giai đoạn sau đó, khi xã hội Việt Nam đã bị ảnh
hưởng nặng nề bởi tư tưởng Nho giáo từ Trung Quốc thì việc nhìn nhận hiện
thực lịch sử đã có sự thay đổi. Các nhà chép sử sau đó đã không thể chấp
nhận việc làm của Dương Vân Nga và Lê Hoàn. Nhưng sang đến thế kỷ XX,
khi con người đã có nhiều cơ hội để giao lưu, tiếp xúc với các nền văn minh
trên thế giới thì sự kiện lịch sử năm xưa đã được nhận thức bằng một thái độ
khách quan, cởi mở. Dưới con mắt của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử ở thế kỷ
XX, Dương Vân Nga đã trở thành một người phụ nữ đi trước thời đại mình,
biết hy sinh quyền lợi của dòng tộc mình cho quốc gia, trăm họ.
Tiếp nối những quan điểm tích cực của các nhà sử học thế kỷ XX, tác
giả Trúc Đường và tác giả Lê Duy Hạnh đã coi sự kiện nhường ngôi này của
Dương Vân Nga là tất yếu nếu muốn giữ nước. Trong tác phẩm Hoàng hậu
65
của hai vua, tác giả Lê Duy Hạnh đã đánh giá cao tầm quan trọng của sự kiện
nhường ngôi và coi Dương Vân Nga là người phụ nữ có công, vì nàng chính
là “chiếc gạch nối” giữa nhà Đinh và nhà Lê trước vận mệnh của đất nước.
Kịch bản chèo Thái hậu Dương Vân Nga của tác giả Trúc Đường cũng ca
ngợi nhân vật Dương Vân Nga biết đặt nghĩa cả trên tình riêng, có tấm lòng
yêu nước trong sáng và có tầm nhìn chiến lược. Hành động trao áo long cổn
cho Lê Hoàn của Dương Vân Nga được tác giả ủng hộ và đánh giá là thức
thời, một hành động dám vượt lên thói thường vì nghĩa lớn. Tác giả Trúc
Đường đã vượt lên những định kiến của các nhà sử học phong kiến khi đánh
giá về nhân vật Dương Vân Nga. Từ một người phụ nữ chịu tiếng là thất tiết
với chồng, thất trung với triều đình... trong suốt hàng ngàn năm lịch sử trở
thành người đáng được tôn vinh, kính trọng. Mặc dù vẫn còn tồn tại những
hoài nghi về cách đặt vấn đề của tác phẩm, về những quan điểm quá tiến bộ,
quá thức thời của nhân vật, nhưng từ cách tiếp cận của mình, tác phẩm đã
đánh giá lại bản án lịch sử năm xưa, người có tội đã trở thành người có công
lớn đối với sự tồn vong của sơn hà xã tắc. Quan điểm mới mà hai vở diễn đưa
ra đã tiếp tục được logic lịch sử và hoàn cảnh xã hội của thời kỳ lịch sử nhân
vật đang sống, đó là thời kỳ mà theo nhận xét của GS Trần Quốc Vượng trong
một bài tham luận tại Hội nghị Bàn về đề tài lịch sử là: "Ở thời ấy, từ triều
đình đến thôn xóm dân gian chưa bị ngấm câu Nho "Gái ngoan không thờ hai
chồng" đâu. Hôn nhân - yêu đương - ái tình cho đến thời Lý Trần còn "tự do"
lắm!" [74, tr 233].
Sáng tạo của các tác giả sở dĩ được chấp nhận là bởi đã biết tiếp tục cái
logic và tinh thần của lịch sử ở giai đoạn đó. Độ lùi về thời gian đã giúp các tác
giả có cơ hội chiêm nghiệm, nghiên cứu, để hiểu hơn, phán đoán đúng hơn, tiếp
cận gần hơn đến bản chất của sự kiện lịch sử này. Chúng ta chưa thể khẳng định
được khi trao áo long cổn cho Lê Hoàn, Dương Vân Nga đã nghĩ gì, bà trao vì tấm
66
chân tình với một người anh hùng tài cao, chí lớn; vì sự sống còn của hai mẹ con
bà hay vì giang sơn Đại Cồ Việt? Nhưng chắc chắn, đó là cách giải quyết tốt nhất
trong điều kiện lịch sử lúc ấy và mối lương duyên giữa bà với tướng quân Lê
Hoàn cũng không thể xem là đáng trách. Dương Vân Nga sống trong thời kỳ mà
xã hội khoan, giả, an, lạc, hôn nhân, tình yêu còn tự do, chưa bị ràng buộc bởi
những định kiến khắt khe của Nho giáo thì hiển nhiên chúng ta không thể lấy quy
chuẩn của đạo tam tòng, tứ đức để đánh giá bà. Và như vậy, quan điểm của hai tác
giả Lê Duy Hạnh và Trúc Đường đã tiếp cận tới được bản chất của hiện thực lịch
sử lúc ấy.
Thái hậu Dương Vân Nga được trình diễn trên sân khấu năm 1976, còn
Hoàng hậu của hai vua được trình diễn lần đầu tiên năm 1999. Tuy cách nhau khá
xa về thời gian, nhưng hai tác giả đều cùng chung một quan điểm: Coi hành động
của Dương Vân Nga là tất yếu cho sự tồn vong của sơn hà, xã tắc. Hai tác phẩm
đều ca ngợi Dương Vân Nga và đánh giá cao hành động của người phụ nữ biết
vượt lên thói thường vì nghĩa lớn. Sự kiện trao áo long cổn từng đặt ra nhiều nghi
vấn trong lịch sử đã được nhìn nhận bằng một quan điểm tiến bộ, nhân văn. Các
tác giả đã tiếp cận lịch sử trên tinh thần khoa học, không phụ thuộc vào nhận định
của các nhà sử học thời phong kiến. Sự kiện lịch sử này khi được lý giải dưới góc
độ của chuyện quốc gia đại sự, của sinh mệnh dân tộc đã trở nên có sức sống lâu
bền, được khán giả đương thời quan tâm, chia sẻ.
Nhà văn Nguyễn Đình Thi trong bài tham luận tại Hội nghị sân khấu
với đề tài lịch sử đã viết rằng:
Ở vở kịch Rừng trúc, trong lịch sử, nhân vật Lý Chiêu Hoàng được
ghi lại rất ít và cũng vì sử chép ít nên ta lại có thể sáng tạo được
nhiều hơn. Việc Trần Thủ Độ phế Lý Chiêu Hoàng, rồi Trần Cảnh
lấy chị dâu phải chăng chỉ là vấn đề kế nghiệp? Thực tế có thể lý
giải khác.
67
Lý Chiêu Hoàng là vua cuối cùng của đời Lý, còn bà chị kia thì chỉ là
một phu nhân, không có thân phận. Nếu Lý Chiêu Hoàng còn đó thì
Trần triều chưa thể yên, trước sau cũng phải phế bỏ... Cho nên từ một
giả thuyết, một sự kiện lịch sử, chúng ta phải suy nghĩ, phải có những
cách đặt vấn đề khác nhau để sáng tạo một cách hợp lý [37, tr 169].
Rừng trúc là một cách đặt vấn đề của nhà văn trước hiện thực lịch sử.
Khi viết về sự kiện Trần Thái Tông rời bỏ ngai vàng lên Yên Tử, tác giả đã
không dựa trên những ghi chép của lịch sử. Lịch sử viết rằng:
Trần Thái Tông lấy công chúa Thuận Thiên Lý Thị, vợ của anh là
Hoài Vương Liễu, lập làm hoàng hậu Thuận Thiên, giáng Chiêu
Thánh làm công chúa. Bấy giờ Chiêu Thánh không có con, mà
Thuận Thiên thì có mang Quốc Khang ba tháng. Trần Thủ Độ và
công chúa Thiên Cực mật mưu với vua là nên mạo nhận lấy để nhờ
về sau, cho nên có mệnh ấy. Do đó Liễu họp quân ra sông Cái làm
loạn. Vua trong lòng áy náy, đêm ra khỏi thành đến ở nhà Phù Vân
quốc sư (quốc sư là bạn cũ của Thái Tôn) ở núi Yên Tử [29, tr 449].
Nhà văn Nguyễn Đình Thi đã dựa trên cơ sở cuốn Khóa hư lục của
Trần Thái Tông, hiểu hơn về tâm tư của Thái Tông trong thời khắc này nên đã
đặt sự kiện ra đi của Trần Cảnh lùi lại một năm so với sử sách ghi chép. Lúc
này, Trần Cảnh đã có một năm sống bên Thuận Thiên, nhân vật ra đi với một
tâm thế khác, không phải do xấu hổ với người đời, cũng không phải do còn
quá dằn vặt chuyện riêng tư, mà bởi đã ngẫm đủ những trái ngang, những trả
giá, phiền lụy mà ngôi vị mang đến. Ông rời triều đình ra đi là để xem ý dân
thế nào và Cũng vì lòng ta đang có nỗi ngổn ngang…, ra đi là để đến gần hơn
với dân, là thấy mình không thanh thản, một sự ra đi có chủ ý, có mục đích,
đã được sắp đặt trước chứ không phải ra đi vì bế tắc, vì mất phương hướng
như sử sách đã ghi. Sự ra đi của Trần Cảnh trong kịch còn là vì tư tưởng nhập
68
thế của Phật giáo - điều mà sau này chính Thái Tông đã dành rất nhiều thời
gian để chiêm nghiệm, nghiên cứu. Trong lời tựa Thiền tông chỉ nam tự được
in trong Khóa hư lục, Trần Thái Tông đã viết rằng:
Đêm mùng ba tháng tư năm Bính Thân, niên hiệu Thiên Ứng Chính
Bình thứ năm (1236), Trẫm đổi y phục đi ra khỏi cửa cung, bảo tả
hữu rằng: "Trẫm muốn đi dạo để ngầm nghe lời dân, biết được chí
dân, mới hiểu thấu nỗi khó khăn của họ". Bấy giờ tả hữu theo Trẫm
không quá bảy tám người. Giờ hợi đêm ấy, Trẫm cưỡi một ngựa
lặng lẽ ra đi; sang sông thẳng về hướng đông, mới nói thật lòng cho
tả hữu biết. Tả hữu ngạc nhiên, tất cả đều khóc… Sáng hôm sau,
Trẫm trèo thẳng lên đỉnh núi, tham kiến vị Đại Sa-môn Quốc sư
Trúc Lâm. Quốc sư vừa thấy Trẫm mừng rỡ, ung dung bảo: "Lão
tăng ở lâu nơi sơn dã, xương cứng mặt gầy, ăn rau đắng cắn hạt dẻ,
uống nước suối dạo cảnh rừng, lòng như mây nổi theo gió đến đây.
Nay bệ hạ bỏ ngôi nhân chủ, nghĩ đến nơi quê hèn rừng núi, chẳng
hay bệ hạ mong cầu điều gì mà đến đây?".
Trẫm nghe nói, hai hàng nước mắt tự tràn, đáp lại Sư rằng: "Trẫm
còn thơ ấu vội mất hai thân, bơ vơ đứng trên sĩ dân không chỗ
nương tựa. Lại nghĩ sự nghiệp các bậc đế vương đời trước, thịnh suy
không thường, cho nên Trẫm đến núi này chỉ cầu làm PHẬT, chớ
không cầu gì khác" [54].
Nhân vật Trần Cảnh trong Rừng trúc ra đi với ý chí:
Đêm nay rời bỏ cung điện, ta không nghĩ đến trở về. Ta muốn tìm đến
nơi rừng trúc Yên Tử, xa mọi việc đời, theo hầu Đức Phật… Ta từ bỏ
ngôi vua cũng chẳng khác bỏ một chiếc giày rách thôi… Ta đi đây là
tự cởi trói cho ta, mà cũng là tháo gỡ nỗi khó cho nhiều người… Ta
69
muốn tìm đến cõi trong lặng, để biết rõ cái lẽ còn, mất, có, không, vượt
khỏi những sự nổi chìm của cõi đời này… [59, tr 295, 296].
Nếu như ở Khóa hư lục, nhà vua tâm sự rằng trở về còn vì lời khuyên
can của vị quốc sư thì trong kịch, Nguyễn Đình Thi đã cụ thể hóa nhân vật
quốc sư bằng hình tượng ông cụ say. Dẫu là người say, nhưng lời nói của cụ
lại thông thái hơn người, am tường sự đời hơn người khiến Trần Cảnh ngưỡng
mộ, coi là Phật sống, và kết luận rằng Phật ở ngay quanh đây chứ đâu xa…
Nguyễn Đình Thi không cần sử dụng đến những lời can gián thống thiết của
Trần Thủ Độ, mà Trần Cảnh đã tiếp nhận khát vọng chính đáng của nhân dân,
tự ý thức về vai trò của mình để tự quay trở về. Trần Cảnh trong kịch vì thế
mà xứng đáng với vị thế của người đứng đầu xã tắc, xứng với sự tin cậy của
Chiêu Hoàng khi nàng trao truyền sứ mệnh cao cả.
Tại sao nhà văn Nguyễn Đình Thi không dựa trên sử sách để viết về sự
kiện lịch sử này? Những người thuộc sử hẳn sẽ quy kết ông là vi phạm sự thật
lịch sử. Nhưng bằng những cảm nhận tinh tế về con người, ông đã hoàn toàn
có lý khi đẩy sự kiện lịch sử này lùi lại một năm, để động cơ ra đi và trở về
của Trần Cảnh vượt hẳn lên thói thường. Trần Cảnh ra đi mang trong lòng
mâu thuẫn quá lớn giữa tính nhân bản và quyền lực chính trị, ông tìm đến với
đạo Phật như một sự cứu cánh, như đi tìm một sự giải thoát… Lúc này ông đã
ngấm đủ nỗi niềm của sự đời, thấu đủ những điều được mất.
Có thể nói rằng, nhà văn Nguyễn Đình Thi đã tạo ra những hoàn cảnh
phi thường để thử thách những nhân vật phi thường. Trần Cảnh hoàn toàn
xứng hợp với vị thế của nhân vật trong thời điểm lịch sử đầy sóng gió ấy.
Người mở mang nghiệp lớn nhà Trần phải là một con người thông thái, anh
minh, biết đặt lợi ích của muôn dân lên trên mọi điều được mất. Con người ấy
phải có một tâm thế, một trí tuệ mà đến 10 thế kỷ sau người đời vẫn nể phục,
kính trọng. Xuất phát từ quan điểm sáng tạo này, nhà văn Nguyễn Đình Thi
70
đã có những sáng tạo hợp lý về hạnh phúc muộn màng của Chiêu Thánh mà
không dựa vào tư liệu lịch sử.
Sử viết rằng: "Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, vua ngự chính
điện, cho trăm quan vào chầu. Trăm họ yên nghiệp như cũ. Định công phong
tước; cho Lê Phụ Trần làm Ngự sử đại phu và đem công chúa Chiêu Thánh gả
cho" [29, tr 33].
Trong Rừng trúc, Trần Cảnh không gả chồng cho Chiêu Thánh, cũng
không coi nàng là món quà để ban tặng người dũng tướng, mà mối duyên này
đến rất tự nhiên. Lê Phụ Trần và Chiêu Thánh tình cờ gặp nhau khi công chúa
đang trên đường chạy giặc ở bến sông Đáy. Chàng dũng tướng có hẹn bao giờ
quét xong quân Nguyên, trở về Thăng Long sẽ xin đến thăm tại nhà. Theo
đúng lời hẹn, sau chiến thắng mùa xuân năm 1258, Lê Tần đã tìm đến nhà
Chiêu Thánh nhưng không gặp. Người thị nữ có hẹn ngày mồng hai Tết, mời
ông đến chơi. Tôi sẽ thưa trước với công chúa. Đây là một cái kết mở, mang
tính ẩn dụ về hạnh phúc mới của Chiêu Thánh. Mùa xuân đến… mùa xuân
độc lập cho đất nước và cũng là mùa xuân trong hạnh phúc riêng của đời
nàng.
Mối lương duyên tự nhiên giữa Chiêu Thánh và Lê Tần trong kịch đã
gỡ cho Trần Cảnh khỏi tiếng phụ bạc, cạn tình và để cho khán giả hôm nay có
những cảm nhận tốt hơn về hạnh phúc của người phụ nữ đã chịu quá nhiều
thiệt thòi, từ đó tin vào những điều đẹp đẽ của cuộc sống. Cũng cần phải nói
rằng, cho dù có đến với nhau theo cách nào thì mối duyên giữa Chiêu Thánh
và Lê Tần là có thật. Nhà văn đã cẩn trọng né tránh để những hư cấu, sáng tạo
của mình không làm thay đổi bản chất hiện thực lịch sử, bên cạnh đó lại làm
sáng rõ hơn, đầy đặn hơn những cuộc đời, những thân phận lịch sử. Qua
những sáng tạo của nhà văn, thời khắc lịch sử với những biến động khủng
khiếp đã trở về với hôm nay gần gũi và dễ cảm thông, chia sẻ hơn. Quá khứ
71
không còn là những bóng đen mịt mùng, bí ẩn nữa mà là những phận người,
những cuộc vật lộn giữa lằn ranh của cái chung và cái riêng… Lựa chọn nào
rồi cũng sẽ có mất mát, tổn thương… Và nếu nhìn từ hôm nay, giữa công và
tội dẫu chẳng thể rạch ròi thì họ cũng xứng đáng được ghi nhận là một phần
không thể thiếu của lịch sử, dám quên hạnh phúc của riêng mình cho sự tồn
vong của giang sơn.
Trong lịch sử các triều đại Việt Nam, đã có nhiều sự thật bị khuất lấp,
hoặc bị nhìn nhận phiến diện, áp đặt dưới con mắt chủ quan của các nhà chép
sử. Nói như nhà sử học Trần Quốc Vượng: "Tôi là nhà sử học, nghề nghiệp
của tôi là thiếu sót tự bẩm sinh với tài liệu thiếu sót, nhận định chủ quan thiếu
sót, tôi chỉ có hy vọng nắm từng phần chân lý, cái tương đối của chân lý lịch
sử là vậy" [75, tr 59].
GS Trần Quốc Vượng cũng cho rằng: “Lịch sử là một công trình không
tách rời người nhận thức và khả năng diễn giải nhận thức của người viết. Tác
phẩm lịch sử lệ thuộc vào trình độ hiểu biết, tư tưởng và nhân cách của nhà sử
học. Hiện thực lịch sử được phục hồi, tái hiện trong tác phẩm luôn luôn bị
giới hạn trong chừng mực mà nhà sử học có thể nhận thức được về nó…” [75,
tr 55, 56]. Mà nhận thức con người bởi con người thì không thể và không bao
giờ đầy đủ. Vì thế, bản thân lịch sử cũng được các nhà sử học các thế hệ
nghiên cứu, đánh giá lại khi cần thiết. Với chức năng nhận thức, phản ánh
cuộc sống của mình, tác phẩm văn học nghệ thuật nói chung và sân khấu về
đề tài lịch sử nói riêng đã tiếp cận, lý giải, nhận thức, đánh giá lịch sử từ
nhiều góc độ, trên cơ sở đó tái hiện một hiện thực lịch sử trong văn học nghệ
thuật sinh động và vô cùng phong phú. Những vấn đề lịch sử gây nhiều quan
điểm, nhận định trái chiều càng được sân khấu về đề tài lịch sử quan tâm.
Chẳng hạn như cuộc chuyển giao quyền lực giữa nhà Đinh và nhà Lê, cuộc
chuyển giao quyền lực giữa hai triều đại Lý - Trần, cuộc chuyển giao giữa
72
nhà Trần và nhà Hồ, nhà Lê và triều đại Tây Sơn… Gắn với những sự kiện
lịch sử trọng đại đó là những nhân vật luôn bị lịch sử quá khứ và hiện tại đặt
trong những suy xét trái chiều như Dương Vân Nga, Lê Hoàn, Trần Thủ Độ,
Trần Thị Dung, Lý Chiêu Hoàng, Hồ Quý Ly, Quang Trung, Lê Ngọc Hân,
Nguyễn Hữu Chỉnh… mà chúng tôi sẽ bàn kỹ hơn ở chương sau.
Nhận thức, đánh giá lại lịch sử bằng tác phẩm sân khấu có thể coi là
những đóng góp của các nghệ sĩ vào quá trình phát triển và không ngừng hoàn
thiện của lịch sử. Bởi hiện thực lịch sử được ghi chép trong sử sách là lịch sử
chủ quan, đã được tái hiện lại qua cái tôi của nhà chép sử, việc đánh giá, minh
định lịch sử phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức, trình độ, phẩm chất của người
chép sử. Đã có nhiều sự thật lịch sử bị khuất lấp, chôn vùi bởi định kiến của
các sử gia. Với khát vọng khám phá quá khứ, lý giải hiện tại và định hướng
tương lai, nhiều nghệ sĩ đã bằng tác phẩm của mình minh định, đánh giá lại
câu chuyện, sự kiện và nhân vật lịch sử từ cái nhìn hôm nay. Qua đó mà diện
mạo lịch sử không ngừng được hoàn thiện.
Trên thực tế, người nghệ sĩ và nhà sử học bình đẳng với nhau về
nguyên tắc tiếp cận hiện thực lịch sử khách quan, cả hai đều phải biết cách đặt
vấn đề trước hiện thực lịch sử đó. Nhà nghệ sĩ hay nhà sử học, để hoàn thành
nhiệm vụ của mình đều phải tiếp cận tài liệu và hiểu tài liệu, đều phải phê
phán và suy tưởng. Người nghệ sĩ chân chính không thể ỷ vào những ghi chép
của nhà sử học và nhà sử học cũng không có quyền áp đặt người nghệ sĩ phải
thừa nhận những ghi chép của mình là đúng với bản chất lịch sử. Cả hai đều
phải đối diện với quá khứ "bất khả phục hồi" nên suy luận, tưởng tượng nhiều
khi là một thao tác bắt buộc. Người nghệ sĩ trên cơ sở quan điểm, nhận thức
của mình hoàn toàn có quyền đặt ra những nghi vấn trước hiện thực lịch sử,
đồng thời đưa ra những lý giải khác nhau từ những nghi vấn đó. Những sáng
tạo trong tác phẩm đôi khi có thể chỉ là một giả thiết của tác giả về hiện thực
73
lịch sử chưa có câu trả lời xác đáng, miễn là giả thiết đó phải logic và thuyết
phục.
Liên hệ sang trường hợp của nhà soạn tuồng Mịch Quang, khi viết Áo
vải cờ đào phản ánh cuộc chiến tranh thần tốc của vua Quang Trung đại phá
quân Thanh, ông đã không dùng đến tư liệu của các nhà sử học. Ông kể:
Mặc dù chính sử do nhà sử học Phan Huy Lê viết cho Đô đốc Đặng
Tiến Đông là chỉ huy chính cánh quân Khương Thượng, tôi đã
không tôn trọng quan điểm của nhà sử học Phan Huy Lê, mà theo sự
ghi chép của Nguyễn Trọng Trì trong Tây Sơn danh tướng ngoại
truyện, để cho Đô đốc Đặng Văn Long là chỉ huy trưởng, vì tôi cho
rằng: Anh hùng Nguyễn Huệ dù có tin dùng người Bắc Hà đến đâu,
cũng không bao giờ trao quyền chỉ huy chính một đạo quân quyết
thắng như thế. Trong chiến thuật đánh quân Thanh lúc ấy, đạo quân
chính do vua Quang Trung đích thân chỉ huy, thực chất lại chỉ là đạo
quân phụ, có tính chất nghi binh, còn đạo quân quyết thắng, phụ mà
lại chính, là đạo quân Khương Thượng do Đại đô đốc Đặng Văn
Long chỉ huy [37, tr 127, 128].
Trường hợp của nhà soạn tuồng Mịch Quang đã cho thấy rằng không
phải lúc nào sự lệ thuộc vào tư liệu của các nhà sử học cũng cho kết quả tốt.
Người nghệ sĩ phải bằng nhận thức, kinh nghiệm và cả linh cảm của mình để
tái tạo một cách thuyết phục lịch sử trong tác phẩm cho người xem hôm nay.
Quá trình tiếp cận, phân tích, lý giải lịch sử từ cái nhìn hôm nay và thể hiện
trong tác phẩm là quá trình người nghệ sĩ đã mang đến tác phẩm của mình
tính hiện đại. Tuy nhiên, trong quá trình này, nếu người nghệ sĩ thiếu tỉnh táo
sẽ đưa đến những sáng tạo thiếu thuyết phục, áp đặt cách cảm, cách nghĩ của
con người hiện đại lên lịch sử. Trong bài tham luận tại Hội nghị khoa học Sân
74
khấu về đề tài lịch sử, nhà viết kịch Hoàng Luyện đã có một nhận xét rất đáng
chú ý rằng:
Đến đây, tôi liên tưởng tới một vở tuồng viết về Quang Trung mà ở
đây có sự kiện Nguyễn Hữu Chỉnh bị đem ra xử trước tòa án nhân
dân tức là trước đông đảo nhân dân ở kinh thành Đông Đô. Vậy là
trước đây hơn 200 năm, dưới chế độ phong kiến, nhân dân ở kinh
thành đã thực hiện "quyền làm chủ tập thể" rồi! Sự khám phá lịch sử
như vậy rõ ràng là sự áp đặt chủ quan của tác giả [37, tr 105].
Như vậy, hẳn vì muốn gửi gắm thông điệp nào đó với đương thời mà
các nghệ sĩ sáng tạo đã có những vận dụng, lý giải đôi khi thiếu tôn trọng
logic lịch sử, khiến cho hiện thực lịch sử trong tác phẩm trở nên thiếu tin cậy.
Kịch bản Ngàn năm tình sử của tác giả Nguyễn Quang Lập đã nhận thức,
đánh giá lại sự kiện tịnh thân của Lý Thường Kiệt một cách gây nhiều tranh
cãi. Tác phẩm đã mạnh dạn tìm một cách tiếp cận mới từ đời sống riêng tư
của anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt - mối tình của ông với Thuận Khanh -
một vấn đề khá “hot” đối với khán giả đương đại. Trong sân khấu xưa nay,
mối tình này vốn chỉ được khắc họa như là chút gia vị trong sự nghiệp hiển
hách và không thiếu những hy sinh của vị thái úy này. Người xem hy vọng sẽ
gặp được những chia sẻ, những phần người thật tinh tế phía sau tài thao lược
và sự trung thành đội nước trên đầu, yêu nước trong tim của Lý Thường Kiệt.
Song đáng tiếc, vì quá ca ngợi mối tình này, mà tác giả đã để cho nhân vật
quyết định tịnh thân chỉ với mục đích được vào cung cấm gặp mặt người yêu
một lần. Dù điều này vẫn còn là một bí ẩn lịch sử, và đây cũng là khoảng
trống cho sáng tạo nghệ thuật, song sự táo bạo trong cách đặt vấn đề của tác
giả lại vô tình hạ thấp tầm vóc nhân vật, làm sai lệch chí khí của một đấng
nam nhi thời loạn. Nếu cho rằng hy sinh vì tình yêu là cao thượng để nhân vật
đời hơn, người hơn thì lý do mong muốn được vào cung gặp người yêu một
75
lần cũng không đủ sức thuyết phục để nhân vật hành động như vậy. Một con
người chí khí, trọng tình như Ngô Tuấn, khi tình yêu lớn của đời bị đánh cắp,
ông sẽ rất đau đớn, song giá như vì muốn giữ trọn thủy chung, ân nghĩa với
người yêu, vì muốn phản kháng lại việc bắt phi tần làm ly tán tình yêu đôi
lứa, vì thấy cuộc sống của mình vô nghĩa nếu thiếu Thuận Khanh nên ông
quyết định tịnh thân thì tác phẩm sẽ ý nghĩa hơn, hành động ấy sẽ cao cả hơn
nhiều.
Nhận thức, đánh giá lại sự kiện lịch sử bằng quan điểm của con người
hôm nay là người nghệ sĩ đã tái tạo lịch sử, mang đến cho lịch sử một sức
sống mới. Quá trình sáng tạo này đòi hỏi người nghệ sĩ không chỉ am hiểu,
nắm vững lịch sử mà còn phải có bản lĩnh và có chính kiến riêng. Đánh giá lại
câu chuyện lịch sử, sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử qua tác phẩm kịch nói
về đề tài lịch sử đòi hỏi một cách làm khoa học, có căn cứ xác đáng. Mọi suy
luận, biện giải phải trên cơ sở logic của hoàn cảnh lịch sử lúc đó, chứ không
phải logic của đời sống hôm nay. Mọi sự áp đặt cách nghĩ, cách làm của con
người hiện đại lên tác phẩm đều dẫn đến tình trạng bóp méo sự thật, làm biến
đổi bản chất của lịch sử.
2.4. Hư cấu hợp lý sự kiện lịch sử
Từ thời cổ đại, Aristote đã viết rằng: "Nhà sử học nói về những điều
xảy ra thực sự, còn nhà thơ thì nói về những gì có thể xảy ra" [3, tr 45]. Nhà
văn Quách Mạt Nhược khi viết về sáng tạo sân khấu với đề tài lịch sử đã cho
rằng: "Chỗ nào nhà sử học ngừng bút thì nhà viết kịch lịch sử phải đem phát
triển" [45, tr 1]. Những phần mà nhà sử học ngừng bút chính là những
“khoảng trống”, khoảng mở mà người tác giả có thể “điền” vào đó bằng
những sáng tạo trên cơ sở suy luận về điều “có thể xảy ra”. Tuy nhiên, để lấp
đầy được những khoảng trống đó một cách hợp lý, người nghệ sĩ phải bằng sự
tích lũy quá khứ, am hiểu quá khứ, nhận định, phán đoán lịch sử bằng tư duy
76
hiện đại. Những phán đoán, suy luận đó phải phù hợp với quy luật vận động
của lịch sử và với logic nghệ thuật. Nói rộng ra, nghệ thuật không lệ thuộc
vào việc tái hiện chân thực những điều đã xảy ra mà là sự phát triển cái tinh
thần, tâm thức của lịch sử trong tác phẩm. Cái tinh thần và tâm thức của lịch
sử ấy chính là những điều có thể xảy ra, thậm chí sự có thể ấy chỉ là xác suất
mà không phải bám sát vào hiện thực lịch sử. Nhiều nhà viết kịch đã hư cấu
hợp lý sự kiện lịch sử để phát triển những phần nhà sử học ngừng bút, làm
đầy những phần khuất lấp của lịch sử.
Lịch sử chỉ ghi chép sự kiện, không chép được tâm hồn, tâm tư, tình
cảm… của nhân vật lịch sử. Một Mỵ Châu, một Dương Vân Nga, một Huyền
Trân công chúa... trong lịch sử chỉ có vài dòng ngắn ngủi, thậm chí chỉ là một
cái tên, nhưng các nhà viết kịch đã bằng sự cộng sinh vốn văn hóa của quá
khứ, hiện tại đã xây dựng thành những con người lịch sử, có thân phận, có tư
tưởng, nhân cách và khát vọng sống.
Khi viết Quang Trung, nhà viết kịch Trúc Đường đã hư cấu hợp lý sự
kiện người anh hùng áo vải gửi cành đào vào Phú Xuân tặng Ngọc Hân để
báo tin thắng trận. Kịch viết rằng, sau chiến thắng quân xâm lược nhà Thanh
tại cứ điểm Ngọc Hồi, vua Quang Trung cùng quân sĩ tiến vào Thăng Long,
trên người còn vương mùi thuốc súng. Khi đó, bên thềm mùa xuân, hoa đào
đang nở rực rỡ, tại điện Kính Thiên, nhà vua rút bảo kiếm cắt một cành đào
đẹp nhất, chi chít nụ hoa, quấn trong tấm khăn lụa điều, sai tùy tướng Đôn
mang về Phú Xuân tặng cho Ngọc Hân cùng lời nhắn: “Nhớ bẩm với hoàng
hậu rằng chính tay ta đã cắt cành đào này, trong điện Kính Thiên, ngày mùng
5 Tết Kỷ Dậu. Đây là tin báo tiệp của ta” [14, tr 146].
Đồng cảm với nỗi nhớ Thăng Long cùng những cái Tết tuổi thơ tại điện
Kính Thiên của Ngọc Hân, Quang Trung đã thân hành cắt cành đào tại chính
không gian ấy gửi về cho hoàng hậu. Sáng tạo này đã mang đến chất thơ cho
77
tác phẩm, đồng thời mang đến một diện mạo khác cho nhân vật Quang Trung.
Người thủ lĩnh tài ba xông pha trận mạc ấy bỗng trở nên thật lịch lãm từ hành
động vô cùng đẹp đẽ ấy. Cành đào là niềm vui báo tin thắng trận, là hơi ấm
của mùa xuân Thăng Long gửi đến người con gái xa quê, là cách quan tâm
đầy tinh tế của chồng dành cho vợ, là món quà kết tinh của tình yêu... Về
logic nghệ thuật, đây là những sáng tạo hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh và tính
cách của nhân vật đã được quy định trong kịch. Những sáng tạo này đã kế
thừa được tinh thần và tâm thức của lịch sử chứ không bám sát, photocoppy
lịch sử. Tác giả đã khỏa lấp những khoảng trống mà lịch sử còn bỏ ngỏ bằng
một sự kiện khiến người xem tin rằng nó có thể xảy ra và nhiều nhà viết sử
hiện đại đã coi sự kiện này dường như là có thật.
Trong vở Ngọc Hân công chúa, tác giả Lưu Quang Vũ đã không xây
dựng hình tượng một vị tướng giỏi xông pha trận mạc như sử sách đã viết về
hoàng đế Quang Trung mà viết về câu chuyện tình đẹp của Ngọc Hân và
Nguyễn Huệ bắt đầu từ một mưu đồ chính trị. Hai cái tôi tài năng, bản lĩnh và
đầy kiêu hãnh đã buộc phải trở thành chồng vợ, họ đã đi từ sự nghi kỵ, khinh
thường... đến thực sự hiểu nhau và dành tình cảm cho nhau. Người xem đã
được gặp một Nguyễn Huệ không chỉ là một Bắc Bình Vương với tài thao
lược, mà còn gặp một tâm hồn biết yêu hoa, yêu thơ, say đắm một tiếng đàn...
một vị thủ lĩnh biết nhìn nhận những khiếm khuyết của mình, biết trọng hiền
tài và thương kẻ sĩ... Ngọc Hân trong kịch không chỉ là một nàng công chúa lá
ngọc cành vàng, một nữ học sĩ tài cao hiểu rộng, biết lẽ cương thường mà còn
sẵn sàng xả thân giả trai vượt bao nguy hiểm tìm gặp và thuyết phục các sĩ
phu Bắc Hà về với nhà Nguyễn Tây Sơn. Hai tâm hồn, hai nhân cách lớn đó
đã biết tìm đến với nhau, chia sẻ cùng nhau để khi đến cuối kịch, họ thực sự
trở thành tri kỷ. Bài thơ Ai tư vãn của Ngọc Hân khóc trước quan tài Quang
Trung Nguyễn Huệ là một cái kết hợp lý và đầy cảm xúc.
78
Đó là cách tiếp cận hợp lý của tác giả từ câu chuyện lịch sử năm nào.
Cuộc hôn nhân không bắt đầu từ tình yêu trong lịch sử đã trở nên thi vị nhờ
những sáng tạo biết chắt chiu những khoảng trống mà những văn bản lịch sử
không thể nói hết. Trên thực tế, tình cảm ấy hoàn toàn có thể xảy ra giữa đôi
trai tài gái sắc lại có chung khát vọng lớn về hòa bình và phát triển cho đất
nước. Hình tượng Quang Trung - Nguyễn Huệ cũng trở nên hoàn thiện, đẹp
đẽ hơn so với chính nó trong sử sách và để lại nhiều ấn tượng đẹp trong lòng
khán giả. Qua tác phẩm, nhân vật đã thực sự có được đời sống của riêng mình
với một tâm hồn đủ để cảm thụ và biết rung động trước cái hay, cái đẹp; một
trái tim nhân ái để biết thương kẻ sĩ; một trí tuệ để biết trọng hiền tài... Đấng
quân vương hội đủ cả Trí, Dũng cùng những ứng xử thông minh, hợp lẽ đã
bước ra từ trang kịch của Lưu Quang Vũ với sức sống và một vẻ đẹp đến mức
hoàn thiện. Nhân vật Quang Trung đã trở thành một hình tượng nghệ thuật có
sức sống. Sức sống, vẻ đẹp ấy hiển nhiên không thể có được trên những trang
sử đã ẩm bụi thời gian.
Hình tượng Nguyễn Huệ sở dĩ có được tầm vóc như vậy là bởi ê kíp
sáng tạo đã không lệ thuộc vào “sự thật lịch sử" mà sáng tạo trên nguyên tắc
đảm bảo tính chân thực nghệ thuật. Tình yêu cao đẹp giữa hai nhân vật lịch sử
trong tác phẩm đã thuyết phục người xem tin là thực mà không băn khoăn
nhiều đến việc có hay không có tình yêu ấy trong lịch sử.
Độc thoại đêm của tác giả Lê Duy Hạnh đã hư cấu 3 sự kiện không có
trong lịch sử, đó là sự kiện thắt cổ tự tử, sự kiện quay trở lại làm vua và sự
kiện tham gia đánh giặc Nguyên Mông của Lý Chiêu Hoàng. Sau khi bị truất
ngôi hoàng hậu, vì buồn bã và bất lực, Chiêu Hoàng đã dùng dải lụa thắt cổ tự
tử với mong muốn đi theo cha mình về nơi cực lạc. Nhưng việc không thành,
nàng buộc phải quay trở lại cuộc đời trần tục. Trong lúc chán nản, tuyệt vọng,
Chiêu Hoàng trở lại cung điện, đối diện với ngai vàng và bỗng khao khát
79
được trở lại làm vua. Lập tức, nàng đắm chìm trong giấc mộng đế vương và
cầm vương miện bước lên ngai vàng. Ngay lúc ấy, chiếc ngai vàng đầy ngập
máu cùng những tiếng kêu than thảm thiết cất lên. Chiêu Hoàng hoảng hốt
giật mình, chợt nhận ra rằng đó không còn là chỗ của nàng. Hình ảnh chiếc áo
long bào cùng những vị tiên đế, các dũng tướng nhà Lý hiện về đã khiến cho
Chiêu Hoàng được bình tâm trở lại. Nàng hiểu nếu cứ cố níu kéo ngai vàng,
nuối tiếc vương miện thì chính nàng sẽ trở thành kẻ tàn sát chính đồng loại
của mình. Và đến khi đối diện với hình ảnh thanh gươm – bảo vật của nhà Lý
thì Chiêu Hoàng thực sự thức tỉnh. Vứt bỏ hết những tiếc nuối với ngai vàng
và quyền lực, Chiêu Hoàng đã cùng nhân dân Đại Việt, cùng quan quân nhà
Trần đánh đuổi giặc Nguyên Mông ra khỏi bờ cõi. Trải qua cuộc chiến tranh
khốc liệt ấy, Chiêu Hoàng chợt nhận ra rằng, những người mà nàng vẫn cho là
kẻ thù, là kẻ đã gây ra oan trái cho cuộc đời nàng lại chính là những người
anh hùng. Chính họ đã mở ra một triều đại hiển hách cho nhân dân Đại Việt.
Những sự kiện hư cấu của tác giả Lê Duy Hạnh trong Độc thoại đêm đều có
tác động lớn, gây nên những chuyển biến lớn về tâm trạng và nhận thức của
nhân vật lịch sử. Khi ở tuổi trưởng thành, nghĩ về những biến cố đã xảy ra,
nuối tiếc, ân hận sẽ là cảm giác không tránh khỏi đối với Lý Chiêu Hoàng. Sự
nuối tiếc trong bất lực hiển nhiên sẽ dẫn nàng đến lựa chọn buông xuôi và tìm
đến cái chết. Việc tự tử không thành, trong trạng thái bất an, hoảng loạn,
Chiêu Hoàng vẫn chưa từ bỏ khát khao trở lại làm vua. Chỉ đến khi cảm nhận
thấy cảnh chết chóc, máu chảy từ chiếc ngai vàng, nàng mới sực tỉnh. Nếu
không có sự hư cấu này, nhân vật Lý Chiêu Hoàng còn ôm ấp hận thù và
không thể đưa mình vượt lên hoàn cảnh. Những hư cấu này đã dẫn giải hợp lý
đến quyết định từ bỏ ân oán với nhà Trần của Lý Chiêu Hoàng, đồng thời
hoàn thiện hơn đời sống nội tâm của nhân vật Chiêu Hoàng, mang đến cho
nhân vật một tầm vóc trước lịch sử. Tuy nhiên, sự kiện Lý Chiêu Hoàng cùng
80
quan quân nhà Trần và nhân dân Đại Việt đánh đuổi giặc Nguyên Mông là hư
cấu chưa hợp lý và không phù hợp với logic của lịch sử. Có lẽ, tác giả kịch
bản muốn khoác lên vai Chiêu Hoàng một chiến công cho xứng tầm với
những liệt nữ trong lịch sử như Bà Trưng, Bà Triệu, để khẳng định thêm sức
sống của hình tượng nhân vật Lý Chiêu Hoàng. Nhưng sáng tạo này đã vượt
ra khỏi điều kiện và hoàn cảnh lịch sử lúc đó. Trên thực tế, bằng việc từ bỏ
ngôi vị, nhường quyền lãnh đạo đất nước cho nhà Trần, Chiêu Hoàng đã gián
tiếp có công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Khi tác giả
để cho nàng trực tiếp tham gia chiến đấu thì đó là hư cấu không thuyết phục
với hoàn cảnh lịch sử và thân phận của Lý Chiêu Hoàng. Tác giả đã áp đặt lên
lịch sử bằng những phán đoán, suy luận thiếu logic, cho dù những sáng tạo đó
có thể mang đến cho nhân vật sự nhìn nhận, đánh giá mới mẻ.
Hư cấu sự kiện lịch sử, khỏa lấp những khoảng trống mà các nhà chép
sử bỏ ngỏ bằng sáng tạo nghệ thuật là cách làm được nhiều nhà viết kịch lựa
chọn. Những phần ẩn chìm này của lịch sử vừa có thể kích thích, khơi gợi
những sáng tạo của người nghệ sĩ, đồng thời, không quá gây áp lực về sự
chân thật lịch sử. Tuy nhiên, đó phải là những sáng tạo, hư cấu hợp lý, biết
phát huy thế mạnh của nghệ thuật và không đi ngược lại tâm thức của cộng
đồng về các giá trị lịch sử. Hư cấu hợp lý sự kiện lịch sử là khi tác giả sáng
tạo ra những sự kiện chưa từng được ghi chép trong sử sách, thậm chí không
xẩy ra đối với nhân vật lịch sử nhưng lại hợp lý, thuyết phục trong không
gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh và tính cách nhân vật lịch sử. Những
sáng tạo này không xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo hay tô hồng lịch sử mà phải
hòa cùng mạch chảy với lịch sử, tuân thủ logic lịch sử, có mối quan hệ thống
nhất, biện chứng với các sự kiện lịch sử trước và sau đó trên nguyên tắc suy
luận về “điều có thể xảy ra”. “Điều có thể xẩy ra” ở đây là những sự kiện
được hư cấu bởi sự phán đoán, suy luận của tác giả trên cơ sở kiến thức và
81
những am hiểu lịch sử. Những hư cấu này phải hợp lý, thuyết phục đến độ
khiến người xem “tin là thực”. Sự kiện cành đào vua Quang Trung tặng công
chúa Ngọc Hân trong tác phẩm Quang Trung không những khiến khán giả
“tin là thực”, mà còn khiến các nhà viết sử hiện đại đồng cảm, thầm coi sự
kiện này… dường như là có thật. “Điều có thể xảy ra” chính là những sáng
tạo tôn trọng logic và tinh thần lịch sử, là những hư cấu hợp lý, thuyết phục,
được đồng nghiệp và người xem thừa nhận.
Như vậy, sáng tạo nghệ thuật với những hư cấu hợp lý đã góp phần
hoàn thiện lịch sử, làm phong phú hơn lịch sử mà không làm thay đổi bản
chất của lịch sử. Người nghệ sĩ đã bằng tài năng của mình vận dụng, khai thác
những phần không gian, thời gian, con người lịch sử... chưa từng hiện diện
trong sử sách và phản ánh trong tác phẩm để lịch sử trở về với hiện tại một
cách gần gũi, dễ hiểu. Hư cấu hợp lý sự kiện lịch sử còn giúp người nghệ sĩ
đưa lịch sử tới gần hơn với khán giả đương thời. Bằng những cảm nhận, lý
giải theo quan điểm hiện đại, các nghệ sĩ đã tái hiện một diện mạo lịch sử
mới, gần gũi, dễ hiểu, dễ chia sẻ với khán giả đương thời. Về vấn đề này, nhà
văn Nguyễn Đình Thi đã viết rằng: “Trước hiện thực lịch sử, người nghệ sĩ
cần đưa ra quan điểm mới của mình và gửi thông điệp cho cuộc sống hôm
nay. Vấn đề là làm cho lịch sử được sống với thời hiện đại chứ không phải chỉ
phục cổ, tái hiện lịch sử cho người đương thời” [37, tr 169]. Khám phá quá
khứ là nhu cầu tự thân và hết sức nhân văn của con người. Trên hành trình
khám phá, sáng tạo đó, người nghệ sĩ sẽ hoàn thiện một bức tranh về đời sống
quá khứ bằng khả năng phán đoán và suy tưởng của mình. Bức tranh ấy bao
giờ cũng biểu hiện rõ nét những tâm trạng và suy tư của người vẽ. Quá trình
sáng tạo lấp đầy những khoảng trống của lịch sử, người nghệ sĩ đã bộc lộ
nhận thức, hiểu biết của mình về lịch sử và hiện tại, đồng thời, mang đến tính
hiện đại cho tác phẩm.
82
Tiểu kết
Quá trình tiếp cận, lý giải sự kiện lịch sử trong tác phẩm bằng cảm
quan sáng tạo của người nghệ sĩ hôm nay là tác giả và đạo diễn đã trực tiếp
hoặc gián tiếp mang đến tính hiện đại cho tác phẩm kịch về đề tài lịch sử.
Tính hiện đại khi đó sẽ được thể hiện ra trong khả năng phát hiện, lựa chọn
những sự kiện lịch sử chứa đựng, gợi mở những vấn đề được con người trong
mọi xã hội, mọi thời đại quan tâm.
Đó chính là những trăn trở trong cuộc kiếm tìm con đường nghệ thuật
chân chính của người kiến trúc sư tài hoa Vũ Như Tô xuất phát từ ý tưởng của
câu chuyện về thân phận người thợ quê mùa trong lịch sử. Sự nhạy bén trong
cảm nhận lịch sử và sắc sảo trong đánh giá hiện tại đã khiến nhà văn Nguyễn
Huy Tưởng tìm kiếm được sự kết nối ý nghĩa đó. Câu chuyện lịch sử thấm
đẫm màu sắc bi kịch của cuộc chuyển giao quyền lực giữa hai triều đại Lý -
Trần đã khiến Nguyễn Đình Thi - một nhà văn tài hoa của thế kỷ XX cảm
nhận thấy một sự gắn kết giữa những vấn đề của lịch sử với hiện thực thời đại
ông đang sống, khi tình cảm và hạnh phúc riêng tư của con người bị chà đạp
bởi tham vọng của bổng lộc, chức quyền. Lời nhắn nhủ kín đáo việc nước là
lớn nhất nhưng việc người với người cũng không thể là nhỏ hơn của tác giả đã
chạm tới được nhiều trái tim và tâm tư, tình cảm của khán giả đương thời,
song cũng khiến không ít người giật mình, tự thị. Sự nhạy cảm của nhà văn
trong phát hiện những vấn đề của lịch sử và đặt nó vào tâm thế đối thoại với
cuộc sống hôm nay đã khiến tác phẩm có sức sống cùng thời gian.
Bằng quan điểm, cách tiếp cận mới, nhiều tác phẩm kịch đề tài lịch sử đã
thể hiện sự nhận thức, đánh giá lại sự kiện lịch sử, mang lại cái nhìn mới về
lịch sử, một số trường hợp đã tiếp cận tới được bản chất của lịch sử. Đó là việc
đánh giá lại sự kiện chuyển giao ngôi báu từ nhà Đinh sang nhà Lê gắn với
nhân vật lịch sử Dương Vân Nga. Là việc đánh giá lại cuộc chuyển giao quyền
83
lực giữa hai triều đại Lý - Trần để có những nhìn nhận khách quan hơn về Lý
Chiêu Hoàng, Trần Cảnh, Trần Thủ Độ, Trần Thị Dung... Tất nhiên, người
nghệ sĩ phải nhận thức và đánh giá lại lịch sử trên cơ sở logic lịch sử chứ không
phải áp đặt cách nghĩ, cách tư duy của con người hôm nay lên lịch sử.
Hư cấu sự kiện, hoàn thiện đời sống lịch sử trong tác phẩm là người
nghệ sĩ đã mang đến tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử tính hiện đại. Nó thể
hiện ở những sáng tạo trên quan điểm mới mẻ, nhưng hợp lý như câu chuyện
về cành đào tặng công chúa Ngọc Hân của Hoàng đế Quang Trung trong tác
phẩm Quang Trung của nhà viết kịch Trúc Đường. Đó là sự hợp lý trong
logic, trong sự hợp lý nội tại của nhân vật và câu chuyện lịch sử.
84
Chương 3
TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG CÁCH TIẾP CẬN,
SÁNG TẠO NHÂN VẬT LỊCH SỬ
3.1. Hiện thực hóa nhân vật lịch sử
Khi xây dựng tác phẩm về đề tài lịch sử, thử thách lớn nhất đối với mỗi
tác giả chính là hiện thực hóa nhân vật lịch sử. Từ một cái tên, một biểu tượng
trong lịch sử, người tác giả đã phải bằng kiến thức, sự suy luận, phán đoán,
mường tượng của mình mang đến cho nhân vật một ngôn ngữ, tính cách, số
phận để hiện thực hóa nó trước người đọc và người xem.
Xây dựng tính cách, hoàn thiện đời sống nội tâm, lý giải hợp lý về số
phận nhân vật lịch sử là quá trình nhà viết kịch đã hiện thực hóa nhân vật lịch
sử. Khái niệm hiện thực hóa ở đây được hiểu là tác giả đã mang đến cho nhân
vật lịch sử một tính cách, một tâm hồn, một cuộc sống thực sự chứ không còn
là một cái tên, một huyền thoại, một truyền thuyết, thậm chí là một ý niệm về
lịch sử nữa. Các nhà chép sử thời phong kiến Việt Nam thường viết sử theo
dòng sự kiện mà ít đi sâu vào từng nhân vật cụ thể. Có những nhân vật chỉ tồn
tại với một cái tên hoặc được lý tưởng hóa như những bài học từ quá khứ. Khi
trở thành nhân vật của sân khấu kịch, tác giả là người đã hiện thực hóa, mang
đến cho nhân vật một đời sống của con người thực sự, để người xem hôm nay
được mắt thấy, tai nghe từ vốn sống, những am hiểu lịch sử và quan điểm
sáng tạo của mình.
Khi sáng tạo nhân vật lịch sử, mỗi tác giả đều có quan điểm, mục đích
và ý đồ riêng. Vì vậy, họ sẽ hiện thực hóa nhân vật lịch sử theo ý tưởng của
riêng mình. Điều này đã dẫn đến sự hiện diện của nhiều hình tượng nhân vật
lịch sử khác nhau trên sân khấu Việt Nam, trong đó, có những hình tượng
cùng một nguyên mẫu. Lý Chiêu Hoàng là một trong những nhân vật như
vậy.
85
Nhà văn Nguyễn Đình Thi đã hiện thực hóa nhân vật Lý Chiêu Hoàng
trong hình ảnh người phụ nữ hiểu biết, bao dung và nhân hậu; nhà viết kịch
Nguyễn Anh Biên xây dựng một Lý Chiêu Hoàng đầy đau khổ và hận thù; tác
giả Chu Thơm tái hiện một Lý Chiêu Hoàng lãng mạn, tình cảm; tác giả Hùng
Tấn thì xây dựng một Chiêu Hoàng yếu đuối, nặng tình, nàng sống, nhường
ngôi, nhường chồng, lấy chồng cũng là vì tình yêu với Trần Cảnh… Ở mỗi
cách tiếp cận đều mang đến những hình dung sinh động về nhân vật lịch sử,
đưa nhân vật trở về hiện diện trên sân khấu hôm nay với đầy đủ vẻ đẹp của
thể chất và tâm hồn. Trong một phạm vi nào đó, mỗi sáng tạo này đều đạt tới
những thành công nhất định. Thành công này có điểm tựa từ cơ sở nhận thức,
hiểu biết của tác giả về lịch sử và thông điệp mà họ muốn gửi gắm tới khán
giả đương đại.
Trong tác phẩm Rừng trúc, nhà văn Nguyễn Đình Thi đã xây dựng
nhân vật Lý Chiêu Hoàng với một cốt cách, một nhân phẩm và bản lĩnh ngoài
vòng tầm thường. Kịch chỉ miêu tả từ thời điểm nàng bị buộc nhường nốt ngôi
hoàng hậu, cũng đồng nghĩa với việc nhường chồng cho người chị gái Thuận
Thiên. Và Nguyễn Đình Thi đã đi giải quyết các mối quan hệ (vua - tôi, mẹ -
con, chị - em, chồng - vợ, cậu - cháu...) sau khi xảy ra sự kiện này. Lựa chọn
thế nào đây? Vận mệnh quốc gia - hạnh phúc bình yên cho trăm họ, hay giữ
hạnh phúc của cá nhân mỗi người? Chiêu Thánh đã giúp nhà văn trả lời câu
hỏi ấy. Nàng không bị động trước tình thế lịch sử và vì thế việc chính thức
chuyển giao ngôi báu cũng như ngôi vị hoàng hậu đã không còn ảnh hưởng
lớn đến nàng. Nàng đã biết tự đặt mình ra ngoài những toan tính, giành giật
mà lòng tự bảo lòng “Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi/Kìa kìa ngọn cỏ giọt
sương đông” [59, tr 258].
Trước sự sắp đặt của mẹ và chú, Chiêu Thánh đã phải đối diện với một
tình thế: “Cả mấy người ở một bên… Bỏ ta một mình ở bên này. Chưa đến
86
nỗi là thù… chưa đến nỗi… Nhưng không phải là những người còn ở với ta
cùng một đời nữa rồi… Sao lại như vậy?” [59, tr 258]. Và nàng đã phải đối
diện với sự thật: “Nào chồng, nào mẹ, nào chị… Ừ thôi, hôm nay ta sẽ không
lánh đi đâu nữa. Ta sẽ gặp tất cả. Muốn nói chuyện gì với ta, ta sẽ nghe tất cả.
Thế nào cũng được…” [59, tr 258]. Trong tình thế cô độc đó, nàng độc thoại
với từng người:
Mẹ chắc cũng còn đôi chút tình mẹ con chứ nhỉ… Là mẹ ta, nhưng
lại là vợ kẻ đã bắt cha ta phải chết. Thế thì ta là con gái đáng thương
của bà, hay ta là kẻ thù đáng sợ của vợ chồng bà? Bà nhìn thấy ta là
con bà hay nhìn thấy ta chỉ như cái oán hiện hình, không thể nào tan
đi được!
Tội nghiệp cho chị, chị Thuận Thiên ạ, đáng lẽ chỉ còn có chị với
em thôi. Thế nhưng bây giờ họ đang lôi chị vào đấy, biết đâu, lúc
này chị nhìn em chẳng thấy em đã hóa ra như một cái gai rồi, một
cái gai phải bẻ đi, nhổ đi, không thì cũng phải làm thế nào gói kín
cất sang một bên…
Đáng lẽ người gần ta nhất, thương ta nhất, là chàng đấy, chàng Hai
của em ơi… Chàng chẳng có tội gì với cha em. Có lẽ chàng cũng
thương yêu em từ năm ấy em lên 7, chàng lên 8 nhỉ, cho đến bây
giờ, hơn mười năm có lẽ lòng chàng cũng chưa đến nỗi quên chút
nghĩa cũ từ ngày ấy. Nhưng mà chàng chẳng phải chỉ là chàng Hai
của ta… [59, tr 259].
Cuối cùng, khi đã xác định được tình thế lịch sử là không thể khác, khi
đã tìm cho mình một lối thoát tránh xa những toan tính tầm thường, nàng đã
rất thật tâm mà rằng: “Ta mừng cho hoàng hậu mới của đức vua ta. Ta mừng
cho Hoàng hậu Thuận Thiên… Chị đừng ngại! Em mừng cho chị thật. Và
càng mừng hơn nữa cho em!” [59, tr 268]. Nàng chủ động bày tỏ với Trần
87
Cảnh chuyện nhường ngôi hoàng hậu cho chị, vừa để gỡ thế khó cho chồng
và cũng để chồng hiểu hơn về nàng: “Hôm nay, xin nhường giao ngôi hoàng
hậu triều ta cho chị Thuận Thiên tôi. Thật không ai có thể xứng đáng hơn.
Được hoàng hậu như thế, bệ hạ mới có người vợ đáng gọi là tâm đầu ý hợp.
Còn về phần mọn này, xin được tha cho mọi tội lỗi đã qua, tôi thật ân hận vì
suốt bấy nhiêu năm chỉ gây nhiều sự bận tâm cho bệ hạ” [59, tr 270].
Nàng Chiêu Thánh trong lịch sử bị ép buộc phải nhường ngôi, bị truất
ngôi hoàng hậu. Sự xếp đặt ngang trái của số phận đã khiến nàng sầu não,
toan dứt nợ trần tục. Nhưng vào kịch Nguyễn Đình Thi là một Chiêu Thánh
khác, một người phụ nữ trưởng thành, thông tuệ, quyết đoán nhưng cũng đầy
bao dung. Nguyễn Đình Thi đã bằng những hiểu biết, những suy luận của
mình về lịch sử, mang đến cho Chiêu Thánh một tính cách, một bản lĩnh phi
thường, không những xứng hợp với tầm vóc của nhân vật trong lịch sử mà
còn hiện thực hóa được ý đồ sáng tạo của nhà văn.
Nếu như tác giả để cho nàng là kẻ thất cơ lỡ vận, hèn mạt buông xuôi,
chấp nhận sự định đoạt của số phận thì hiển nhiên cũng đúng với thế thua của
nàng, hoặc để nàng là người sắc sảo, chấp nhận mất mát vì tình thế không thể
khác, mà trong lòng nuôi hận thù lớn với mẹ và nhà Trần... thì cũng chẳng sai
với lịch sử. Nhưng Nguyễn Đình Thi không chọn những phương án ấy. Chiêu
Thánh trong kịch của ông vẫn ngạo nghễ ngẩng cao đầu trước mất mát của
bản thân và dòng tộc. Dù đã hết vai trò lịch sử, nhưng nàng không thất thế.
Những va đập của hoàn cảnh chỉ khiến nàng càng trở nên đẹp đẽ, cao khiết.
Cách lựa chọn này của tác giả xứng hợp với cốt cách văn hoá và lịch sử của
nhân vật Lý Chiêu Hoàng.
Có lẽ, ngày 20 tuổi, Chiêu Thánh trong lịch sử cũng chưa nghĩ được
nhiều điều, chưa hoàn thiện được như Chiêu Thánh của Nguyễn Đình Thi.
Chắc rằng nàng cũng khó mà vượt lên thói thường để có những ứng xử cao
88
đẹp như vậy. Nhưng rõ ràng, nàng là một hình tượng nhân vật mang đầy cốt
cách sáng tạo của Nguyễn Đình Thi. Ông đã xây dựng cho nàng một tính
cách, hành động và số phận thật cụ thể, là điểm tựa vững chắc cho sáng tạo
sân khấu.
Từ xuất phát điểm đó, cùng với sự chắp cánh bằng ý tưởng sáng tạo của
đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, diễn viên Lê Khanh đã hiện thực hóa nhân vật
Lý Chiêu Hoàng trên sàn diễn, để lại dấu ấn sâu đậm trong khán giả đương
thời. Lê Khanh đã cộng hưởng được kết quả sáng tạo của tác giả, đạo diễn và
bản thân, hoàn thiện bức chân dung sống động về nhân vật Lý Chiêu Hoàng,
mang đến cho nhân vật một sức sống vượt khỏi giai đoạn lịch sử sóng gió đó.
Tính cách, bản lĩnh, tâm trạng của nhân vật Lý Chiêu Hoàng qua cách viết
của Nguyễn Đình Thi dần bộc lộ qua mỗi ứng xử với người thân và hoàn
cảnh. Lớp diễn nào cũng đầy sức nặng tâm lý với ngôn ngữ chừng mực, sang
trọng, nhiều tầng nghĩa chìm sâu. Khó khăn nhất là lớp kịch Chiêu Thánh độc
thoại gần 30 phút trước bàn thờ tiên đế. Không còn phương tiện biểu đạt nào
khác ngoài đài từ sân khấu, Lê Khanh đã cẩn trọng đến từng cách buông câu,
nhả chữ, cân nhắc từng đoạn lấy hơi, dừng nghỉ… Cả một thế giới nội tâm
xiết bao phức tạp của Chiêu Thánh đã dần được tỏ bày qua cách diễn xuất tỉnh
táo, tinh tế nhưng cũng đầy thăng hoa và rung cảm mãnh liệt của Lê Khanh.
Nhân vật Lý Chiêu Hoàng đã bước ra từ Rừng trúc bằng diện mạo của một bà
hoàng tài sắc, thông tuệ, quyết đoán với những ứng xử xứng hợp nhất cho sự
tồn vong của giang sơn, đất nước mà sẵn lòng nhận về mình bi kịch của cả
dòng họ lẫn bi kịch của riêng mình. Một Lý Chiêu Hoàng đã được người đời
mắt thấy, tai nghe với bao nhiêu cảm thương và khâm phục… Từ hàng ghế
khán giả, thi sĩ Dương Trọng Dật đã gọi phút tỏa sáng của Lê Khanh là Phút
thăng hoa kỳ diệu. Ông viết: “Sống dậy trước mắt tôi ngạo nghễ Lý Chiêu
Hoàng/ Cả nhà hát lặng đi/ Sân khấu chỉ còn em và lịch sử/ Thương đất nước
89
trầm luân trong cơn chòng chành sóng dữ/ Nghe trong tiếng em thở dài/
Những trăn trở của người xưa…” [63, tr 212, 213].
Tất nhiên, thái độ ứng xử của Chiêu Thánh chính là bản lĩnh của nhà
văn đứng phía sau nàng, là cốt cách ông tạo ra cho nàng. Chính Nguyễn Đình
Thi đã tạo nên tầm vóc của Chiêu Thánh mà tạc vào thời đại của nàng, nàng
trở thành cái gạch nối quan trọng giữa hai triều đại. Là một nữ hoàng có thời
gian tại vị rất ngắn nhưng chính ý thức của nàng đã cứu người thân thoát khỏi
cảnh nồi da xáo thịt, cứu đất nước khỏi cảnh nội chiến và giặc ngoại xâm.
Nhà văn đã bằng cách cảm, cách nghĩ của con người hiện đại mang đến cho
nhân vật một tính cách, một đời sống tâm hồn thậm chí còn hoàn hảo hơn cả
chính nó trong lịch sử, từ đó đi đến lý giải hợp lý về số phận nhân vật.
Tương tự như vậy, nhân vật Vũ Như Tô trong kịch bản cùng tên cũng
bước ra từ trang kịch của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng với nhiều dấu ấn sáng
tạo của nhà văn tài hoa này. Vũ Như Tô theo đúng như sử sách ghi chép là
một người thợ giỏi, quê mùa, song vào kịch, Nguyễn Huy Tưởng đã cho nhân
vật một dung mạo, một tư thế khác hẳn nhằm khắc họa diện mạo người nghệ
sĩ với khát vọng cao cả về cái đẹp. Từ khi Vũ Như Tô chưa xuất hiện trong
kịch thì ông đã được Lê Tương Dực ca ngợi là người thợ có hoa tay tuyệt thế,
chạm trổ, nạm đục, xây dựng không kém đường gì. Lại có tài đào muôn kiểu
hồ, vẽ những vườn hoa lộng lẫy như bồng lai… Chỉ vẩy bút là chim hoa đã
hiện lên trên mảnh lụa, thần tình biến hóa như cảnh hóa công… Sai khiến
gạch đá như ông tướng cầm quân, có thể xây những lâu đài cao cả, nóc vờn
mây mà không hề tính sai một viên gạch nhỏ… Tương ứng với cái tài ấy là
một nhân cách lớn. Vũ Như Tô đã cương quyết không đem tài của mình ra để
xây Cửu Trùng Đài, nơi mà theo ông sẽ là nơi hưởng lạc của một tên bạo
chúa, thoán nghịch và một lũ gái dâm ô. Dù biết, chống lại lệnh vua là phạm
vào tội chết.
90
Không chỉ là một người cương trực, thẳng thắn, biết đứng về chính
nghĩa, Vũ Như Tô trong kịch còn là một nhân vật hiểu lẽ sống ở đời. Xuất
hiện trong trạng thái cổ đeo gông, chân tay mang nặng xiềng xích, nhưng
người kiến trúc sư tài hoa ấy vẫn nói những lời hiên ngang, với triết lý sâu sắc
về sự sống, cái chết, về kẻ sĩ, về bình đẳng, bác ái và về đối xử với tài năng.
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng cho nhân vật một quan điểm sáng
tạo không vì danh vọng mà vì lý tưởng cao cả: xây cho đất nước một công
trình kiến trúc có thể sánh với Tàu, với Chiêm Thành. Quan điểm này rõ ràng
đã đứng trên lập trường nghệ sĩ của chính tác giả. Lẽ sống của Vũ Như Tô
cũng mang những lý tưởng, hoài bão vượt ra ngoài chuyện áo cơm hằng ngày.
Vì lẽ đó, trước khi gặp Đan Thiềm, Vũ Như Tô thà chết chứ không chịu đem
tài năng của mình phục vụ cho hôn quân, bạo chúa. Chỉ đến khi gặp được
người cung nữ trọng tài, biết yêu cái đẹp với những luận giải thuyết phục về
tài năng và sự cống hiến Vũ Như Tô mới thay đổi quyết định của mình. Đan
Thiềm đã bằng sự khéo léo của mình, chạm tới lòng tự trọng kẻ sĩ của Vũ
Như Tô: “Sắc vất đi được, nhưng tài phải đem dùng… Vua Hồng Thuận và lũ
cung nữ kia rồi mất đi, nhưng sự nghiệp của ông còn lại về muôn đời. Dân ta
nghìn thu được hãnh diện” [36, tr 22, 23]. Như được khai thông nhận thức, Vũ
Như Tô hăm hở bắt tay vào sáng tạo với niềm tin sẽ mang tài năng của mình
làm rạng danh cho đất nước. Nhưng là một kẻ sĩ thuần túy, Vũ Như Tô hồn
nhiên không nghĩ đến việc vì xây Cửu Trùng Đài mà dân tình đói khổ, thợ
thuyền bị bóc lột sức lao động. Là người chống triều đình nhưng vô hình
trung Vũ Như Tô lại tự biến mình thành kẻ tiếp tay cho triều đình; yêu nhân
dân nhưng lại vô tình làm khổ nhân dân; yêu đất nước nhưng rốt cục không
giúp gì được cho đất nước… Mải mê xây Cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô không
biết rằng mình đã trở thành kẻ tội đồ của nhân dân, đất nước. Ông thành
người cô độc và phải nhận một kết cục thảm khốc. Người nghệ sĩ tài hoa ấy,
91
trước lúc ra pháp trường vẫn còn ngơ ngác: “Ta tội gì? Không, ta chỉ có một
hoài bão là tô điểm cho đất nước, đem hết tài ra xây cho nòi giống một toà đài
hoa lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hoá công. Vậy
thì ta có tội gì? Ta xây Cửu Trùng Đài có phải đâu để hại nước? [36, tr 108].
Nhân vật Vũ Như Tô đã được nhà văn Nguyễn Huy Tưởng sáng tạo
thành công trên nguyên tắc của mỹ học bi kịch, cụ thể là nhân vật bi kịch.
Khát vọng sáng tạo, cống hiến của nhân vật là cái chân chính, tiến bộ nhưng
lại được nảy sinh trong lòng một xã hội không có chỗ cho những khao khát
cao đẹp đó, nên nhân vật phải trả giá. Sai lầm lớn nhất của Vũ Như Tô là thực
hiện khát vọng sáng tạo trong một hoàn cảnh xã hội chưa cho phép. Nhân vật
càng hăng hái bao nhiêu thì càng đưa mình vào sâu trong bi kịch bấy nhiêu.
PGS Tất Thắng cho rằng:
Lỗi lầm của Vũ Như Tô là lỗi lầm của người nghệ sĩ tưởng rằng có
thể thực hiện khát vọng nghệ thuật của mình trong cuồng vọng của
lũ bạo chúa và bi kịch của Vũ cũng chính là ở chỗ đó, bi kịch của
người nghệ sĩ dưới chế độ luôn dùng nghệ thuật và nghệ sĩ như là
phương tiện phục vụ cho cuồng vọng của kẻ thống trị, tàn bạo, dốt
nát… Bi kịch của Vũ Như Tô là bi kịch của người nghệ sĩ khát khao
sáng tạo trong một xã hội không có chỗ cho sự khát khao đó [36, tr
240, 241].
Lỗi lầm của Vũ Như Tô là lỗi lầm vô tội. Những khao khát cống hiến
trong sáng, chính đáng của nhân vật không có tội, nhưng vì xuất hiện không
đúng thời điểm nên nó thất bại và nhân vật phải trả giá. Tất nhiên, lý tưởng là
trong sáng, vô tội, nhưng hành động của Vũ Như Tô lại dẫn đến những kết
cục thảm khốc. Dưới góc độ nào đó, nhân vật bi kịch vừa có tội, vừa không có
tội - không có tội trong lý tưởng, mục đích, nhưng lại có tội ở hậu quả của
hành động. Phía sau hình tượng Vũ Như Tô là hình ảnh của người nghệ sĩ - trí
92
thức trong bão táp của những biến động xã hội và nỗi ám ảnh khôn nguôi về
khát khao được sáng tạo, cống hiến.
Trên cơ sở nguyên mẫu là một người thợ tài giỏi, quê mùa, chủ động
dâng vua sản phẩm sáng tạo để tiến thân, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã hiện
thực hóa thành công hình tượng người nghệ sĩ tài hoa, kiêu bạc, biết trọng cái
tài của mình và chỉ cống hiến nó cho những việc có ích. Từ một nhân vật mờ
nhạt, ẩn phía sau câu chuyện lịch sử phê phán thói ăn chơi, hưởng lạc của vua
Lê Tương Dực, Vũ Như Tô đã trở thành nhân vật chính của một tác phẩm bi
kịch, tràn đầy hoài bão và khát vọng sống. Trong kịch, Vũ Như Tô chính là
hiện thân của người nghệ sĩ với khát vọng cao cả về cái đẹp, về quyền được
sống và sáng tạo. Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã hiện thực hóa nhân vật
bằng những sáng tạo đạt tới chuẩn mực về ngôn ngữ, tính cách, hành động, và
số phận nhân vật. Bên cạnh đó, nhân vật còn có một đời sống nội tâm sâu sắc,
đủ sức chuyển tải những tâm sự của nhà văn về nhân tình, thế sự cùng những
nỗi niềm sâu kín về tự do sáng tác của các văn nghệ sĩ. Bi kịch của Vũ Như
Tô đã khái quát một cách sâu sắc hiện thực xã hội, hiện thực đời sống văn học
nghệ thuật giai đoạn nhà văn Nguyễn Huy Tưởng sinh sống. Vì vậy, nhân vật
đã tự khẳng định được sức sống của mình, trước hết là trên phương diện kịch
bản văn học. Đây chính là xuất phát điểm để hình tượng nghệ thuật Vũ Như
Tô tỏa sáng tại Hội diễn Sân khấu đợt 4 năm 1995 và sau đó là chương trình
Nhà hát truyền hình ngày 26 tháng 7 năm 2003. Độ lùi về thời gian càng thêm
khẳng định sức sống của hình tượng nhân vật Vũ Như Tô và khẳng định tài
năng của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Ông đã mang đến cho nhân vật một
sức sống vượt khỏi thời đại của nó bằng những phát hiện tinh tế và những
luận giải sắc sảo của mình. Những vấn đề được đặt ra từ hoài bão, khát vọng
sáng tạo, cũng như thân phận bi kịch của Vũ Như Tô sẽ không bao giờ cũ.
93
Nguyễn Trãi ở Đông Quan là một sáng tạo thành công khác của nhà
văn Nguyễn Đình Thi khi hiện thực hóa nhân vật lịch sử. Kịch viết về khoảng
thời gian 10 năm sống tại Đông Quan của anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Sau
khi đỗ Thái học sinh vào năm 1400, Nguyễn Trãi ra làm quan nhà Hồ, chức
Chánh Chưởng đài Ngự sử. Năm 1402, cha ông là Nguyễn Phi Khanh sau
thời gian dạy học ở Nhị Khê cũng ra làm quan nhà Hồ, chức Hàn Lâm học sỹ.
Nhưng không lâu sau đó, năm 1407 quân Minh sang đánh nước Đại Ngu
mượn cớ Phù Trần diệt Hồ. Nhà Hồ thua trận, cha con Hồ Quý Ly cùng các
triều thần bị bắt sang Trung Quốc, trong đó có Nguyễn Phi Khanh. Nguyễn
Trãi muốn giữ tròn đạo hiếu, đã cùng em trai là Nguyễn Phi Hùng theo cha
sang tận điếm Vạn Sơn, nhưng đến ải Nam Quan, nghe lời cha dặn phải tìm
cách rửa nhục cho đất nước, ông đã trở về. Về đến Đông Quan, ông bị tướng
nhà Minh là Trương Phụ bắt, dụ ra làm quan. Nguyễn Trãi không nghe lời
phỉnh dụ khiến Trương Phụ tức giận ra lệnh chém đầu. Khi biết cái chết cũng
không làm lung lạc ý chí kẻ sĩ, Trương Phụ quyết định giam lỏng Nguyễn
Trãi ở Đông Quan.
Kịch Nguyễn Trãi ở Đông Quan bắt đầu bằng cảnh trở về Đông Quan
của Nguyễn Trãi. Tâm trạng háo hức ban đầu của nhân vật bỗng trĩu lại khi
ông thấy dòng Nhị Hà lềnh bềnh những xác người bị chết chém, cứ xoay tròn
một chỗ không chịu đi… Lòng xót xa, Nguyễn Trãi quyết định ở lại Đông
Quan. Ngay sau đó, ông bị bắt vào dinh Trương Phụ, được tận mắt chứng
kiến những cảnh dùng vũ nữ người Nam giải khuây, cảnh hành hạ dân lành…
Nguyễn Trãi cương quyết không làm việc cho nhà Minh, mặc cho chúng từ
dụ dỗ đến ép buộc. Vì không thuận theo ý chúng, Nguyễn Trãi đã bị giam
lỏng ở Đông Quan. Trong thời gian này, ông sống và dạy học trong túp lều ở
một góc thành Nam. Nhà Minh vẫn không buông tha, tìm mọi cách bịt hết
đường sống, vấy bùn bôi nhọ ông để học trò cũng đến xin thôi học vì sợ.
94
Nguyễn Trãi cô độc giữa Đông Quan. Những kẻ tu mi nam tử quanh ông,
người sa vào danh lợi, tiền bạc, kẻ có liêm sỉ hơn thì quay lưng lại với việc
đời, người tìm nơi góc vắng để chết một mình cho trong sạch, người lẫm liệt
nhảy vào mũi dao của kẻ thù để chết cho anh hùng. Hàng loạt sự kiện đã xảy
đến với Nguyễn Trãi trong 10 năm ông ở lại Đông Quan. Tuy rằng nó không
đe dọa đến sự sống còn của ông, nhưng những nỗi mất mát, đau đớn và cả
thất vọng đó lại là tác nhân quan trọng để người chí sĩ đi đến một quyết định
lịch sử: Vào Lam Sơn. Với Nguyễn Trãi, rời Đông Quan ra đi là nỗi đau, sự
dằn vặt lớn. Nhưng trước mắt ông, bao nhiêu sĩ phu Bắc Hà vắng bóng, bất
lực, những người tâm huyết phiêu dạt tứ tán, còn ông, muốn giúp nước cứu
dân phải đi vào chốn xa lạ chưa biết con đường phía trước thế nào, và người
ông đặt niềm tin liệu có làm nên nghiệp lớn, có xứng đáng hay không?
Nhà văn Nguyễn Đình Thi đã bằng những sáng tạo của mình, lý giải
hợp lý cho hành động vào Lam Sơn của nhân vật, cho nhân vật một đời sống
đúng nghĩa của anh hùng thời loạn. Những gian nan, thử thách cùng những
chịu đựng, mất mát mà nhân vật phải trải qua càng thêm khẳng định phẩm
chất, chí khí của người anh hùng. Nguyễn Trãi đã thắng được chính mình và
thắng được hoàn cảnh. Nhân vật sống giữa sự kìm kẹp đủ bề vẫn minh mẫn
nhận diện được con đường phải đi, những việc phải làm. Bên cạnh đó, nhà
văn Nguyễn Đình Thi còn bồi đắp cho nhân vật cả kho tàng văn học quý giá
của chính đại thi hào, hiển thị rõ đời sống tâm hồn của một nhà văn, nhà thơ
lớn. Sự hòa quyện của tư tưởng quân sự cùng với tâm hồn của một đại thi hào
đã khiến nhân vật Nguyễn Trãi của Nguyễn Đình Thi có một tầm vóc lịch sử
nhất định. Nhân vật mang được cốt cách, trí tuệ, bản lĩnh của một kẻ sĩ Bắc
Hà trước cơn sóng gió của đất nước. Nguyễn Trãi của Nguyễn Đình Thi
không viết Bình Ngô sách, cũng không thai nghén Binh thư yếu lược để vào
dâng Lê Lợi, mà là một Nguyễn Trãi ít hành động, nhiều suy tưởng. Ở nhân
95
vật đã hội tụ được nhiều nét tính cách, phẩm chất của người anh hùng dân tộc
mà sử sách vẫn ca ngợi. Tác giả đã vượt qua được khó khăn lớn nhất, đó là
trạng thái tĩnh tại, ít hành động của nhân vật trong giai đoạn lịch sử này. Bù
đắp lại sự thiếu vắng của hành động sân khấu, tác giả đã vận dụng hợp lý
ngôn ngữ đối thoại và độc thoại để chuyển tải toàn bộ tính cách, đời sống nội
tâm nhân vật. Qua những sáng tạo của mình, nhà văn Nguyễn Đình Thi đã tái
hiện một Nguyễn Trãi xứng với tầm vóc của nhân vật trong lịch sử. Nhân vật
kịch không những hội tụ đầy đủ cốt cách, thần thái, bản lĩnh và sự khí khái
của người anh hùng mà còn có cả một đời sống nội tâm phong phú với những
rung cảm tinh tế trước thiên nhiên, sự đồng cảm với từng nỗi đau, sự mất mát
ở trên đời. Đặc biệt hơn cả, là nhân vật đã mang được hồn thơ, phẩm chất thi
sĩ của đại thi hào. Những sáng tạo này là sự chuẩn bị kỹ lưỡng cho việc hiện
thực hóa hình tượng nhân vật Nguyễn Trãi trên sân khấu.
10 năm nơi Đông Quan, nhân vật ít hành động, nhiều suy tưởng -
những đặc điểm đối lập hoàn toàn với tiêu chí của sáng tạo nhân vật sân khấu.
Tuy nhiên, đạo diễn Nguyễn Đình Nghi đã hóa giải được khó khăn này.
Thành công đầu tiên chính là việc lựa chọn giao vai Nguyễn Trãi cho diễn
viên Trần Tiến trong sự ngỡ ngàng của đồng nghiệp. Là một người có hình
thể thấp bé, lại có sở trường diễn hài, diễn viên Trần Tiến đã đóng đinh các
vai diễn của mình với những nhân vật hài. Khi nhận vai, chính ông cũng
hoang mang, lo lắng. Nhưng bằng khả năng hóa giải tài tình của đạo diễn
Nguyễn Đình Nghi, Trần Tiến đã không sa vào mục đích tái hiện nhân vật
như là bản sao của lịch sử mà khắc họa cái thần thái, cốt cách của nhân vật
lịch sử. Cho dù nhân vật Nguyễn Trãi của Trần Tiến không mang vẻ đẹp hình
thể như trong tưởng tượng của nhiều người, nhưng cốt cách, dung mạo của
một nhà Nho, một trí thức lớn đã được ông phát huy triệt để, trở thành vai
diễn thành công nhất của ông. Thay vì những hạn chế trong hành động sân
96
khấu của nhân vật lịch sử, tác giả Nguyễn Đình Thi đã trang bị cho nhân vật
Nguyễn Trãi một đời sống đầy ắp nội tâm, biểu hiện mạnh mẽ khí chất và
khát vọng sống của người anh hùng dân tộc. Đây chính là những chất liệu
quan trọng cho việc hiện thực hóa nhân vật trên sàn diễn và quyết định lớn
đến thành công của vở diễn.
Như vậy, sáng tạo nhân vật lịch sử chính là quá trình người tác giả hiện
thực hóa nhân vật từ kiến thức lịch sử và quan điểm sáng tạo của mình. Từ
một cái tên, một giai thoại trong lịch sử đến một nhân vật có thể sống trên sàn
diễn với đầy đủ tâm hồn, tính cách, số phận là sự dụng công rất lớn của tác
giả và người nghệ sĩ. Bằng vốn sống, sự hiểu biết cùng những kiến thức sâu
sắc về lịch sử, tác giả là người đã mang đến cho nhân vật lịch sử một đời sống
thứ hai. Đời sống này đã giúp cho nhân vật lịch sử hiện diện trước khán giả
đương đại với đầy đủ dung mạo về thể chất và tinh thần chứ không còn là
những người anh hùng đã được thần thánh hóa như những ý niệm, những tấm
gương, thậm chí là những bài học chính trị.
Khi sáng tạo, hiện thực hóa nhân vật lịch sử trong tác phẩm, bao giờ tác
giả cũng bộc lộ rõ nhận thức, quan điểm, tầm nhìn của mình về lịch sử. Nói
cách khác, phía sau mỗi nhân vật lịch sử, luôn là bóng dáng của tác giả. Dẫu
có đặt mục đích sáng tạo như thế nào thì tác giả cũng là người làm mới nhân
vật lịch sử từ cảm quan hôm nay. Mỗi tác giả sẽ mang đến nhân vật lịch sử
của mình một sắc thái riêng xuất phát từ cách tiếp cận, vốn kiến thức về lịch
sử, quan điểm trước hiện thực lịch sử và cuộc sống đương đại. Vì thế, khi
hiện diện ở đời sống hiện đại, nhân vật lịch sử nào cũng sẽ mang dấu ấn của
đời sống và con người hiện đại. Nhân vật ấy sẽ sinh động, chân thực nếu tác
giả biết đặt xuất phát điểm sáng tạo của mình từ logic và tinh thần của lịch sử.
Ngược lại, nếu tác giả áp đặt khiên cưỡng quan điểm, cách nghĩ của con
người hiện đại lên lịch sử sẽ khiến nhân vật trở nên méo mó, khó thuyết phục.
97
3.2. Đánh giá lại nhân vật lịch sử
Lịch sử cũng giống như nhiều bộ môn khoa học xã hội khác, đều là sản
phẩm diễn ngôn của một người hay một nhóm người nhất định. Khi đã được
“tạo tác” bởi một con người cụ thể thì tác phẩm đó sẽ không thể vượt quá giới
hạn nhận thức của chính tác giả về những vấn đề mình phản ánh. Hơn thế
nữa, những hạn chế mang tính thời đại trong nhận thức cũng là rào cản khiến
nhà viết sử khó có thể tiếp cận tới tận cùng sự thật. Trong quá trình chép sử,
nhà sử học còn phải đối diện với rất nhiều sức ép khác nữa khiến nhiều sự thật
của hiện thực lịch sử khách quan đã không được ghi vào chính sử. Vì vậy,
trong một số trường hợp, bản thân ngành khoa học sử cũng đã có những
nghiên cứu, đánh giá lại lịch sử trên tinh thần của quan điểm khoa học hôm
nay.
Độ lùi về thời gian có thể khiến nhiều sự thật bị lãng quên, song cũng
có nhiều sự thật được chiêm nghiệm, nhận thức lại. Ở tâm thế thời đại mình,
nhiều nghệ sĩ đã mang đến cách nhìn mới về lịch sử, trong đó có việc nhận
thức, đánh giá lại nhân vật lịch sử. Đây chính là mục đích sáng tạo vô cùng
nhân văn của văn học nghệ thuật nói chung và sân khấu về đề tài lịch sử nói
riêng. Những nhân vật lịch sử đã gây ra những nhận định trái chiều giữa các
nhà sử học như Dương Vân Nga, Trần Thủ Độ, Trần Thị Dung, Hồ Quý Ly…
đều trở thành nhân vật quen thuộc của sân khấu. Trong số đó, Trần Thủ Độ và
những công, tội của ông trong lịch sử được các nhà viết kịch hiện đại quan
tâm nhiều nhất.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư, nhà sử học Ngô Sĩ Liên đã bàn về Trần
Thủ Độ như sau:
Họ Lý được nước không kém gì Tam đại, truyền đến Huệ Tôn
không có con trai, lại mắc bệnh tật, chắc là ơn trạch của tiên vương
đến đấy là hết rồi, cho nên họ Trần mới lấy được nước. Đã lấy nước
98
của người ta, lại giết vua của người ta, thì bất nhân quá lắm. Đến sau
Phế Đế phải thắt cổ chết, nhà vua bị giết, tự mình làm thế nào thì
sau lại phải chịu thế, đạo trời như thế, dù không có lời nguyền rủa
của Huệ Tôn cũng chắc là phải thế. Thủ Độ lấy việc đó làm hết
trung mưu việc nước, có biết đâu là thiên hạ đời sau đều cho là giặc
giết vua; huống chi lại còn làm thói chó lợn [28, tr 437].
Nhà sử học Ngô Sĩ Liên đã đánh giá hành động hoán đổi ngôi hoàng
hậu giữa Thuận Thiên và Chiêu Thánh của Trần Thủ Độ là vi phạm vào luân
thường, đạo lý. Còn hành động bức tử vua Lý Huệ Tông của Trần Thủ Độ thì
bị thiên hạ đời sau cho là giặc giết vua. Như vậy, những việc làm của Trần
Thủ Độ đều được cho là trái với lẽ cương thường và đáng bị lên án, trả giá.
Sách Các triều đại Việt Nam đã viết về Trần Thủ Độ như sau:
Trần Thủ Độ là người có công khởi dựng sự nghiệp triều Trần, sinh
năm Giáp Dần (1194) ở làng Lưu Xá (Hưng Hà - Thái Bình). Ông
đã nổi lên là người có tài xuất chúng trong số những người con ưu tú
khác của họ Trần, giúp triều Lý đánh dẹp các thế lực cát cứ, khôi
phục cơ nghiệp nhà Lý. Ông ít được học nhưng có bản lĩnh, thẳng
thắn và quyết đoán [9, tr 103]… Sử sách phong kiến thường coi
Trần Thủ Độ như một quyền thần vô học, có tài mà không có đức,
có công với triều Trần nhưng có tội với triều Lý. Lý do đưa ra là
việc Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý… [9, tr 106].
Hai tác giả Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng đã đánh giá Trần Thủ Độ là
người tuy không có học vấn cao siêu, nhưng tài lược và thủ đoạn hơn người.
Ông là người có vai trò quyết định đến sự tồn vong của Đại Việt trước nguy
cơ xâm chiếm của quân Nguyên Mông. Những việc làm của Trần Thủ Độ
đóng vai trò tích cực giúp nhà Trần bình phục được giặc giã trong nước, đưa
đất nước cường thịnh trở lại sau hồi suy yếu cuối thời Lý. Tuy nhiên, những
99
việc làm của Trần Thủ Độ với nhà Lý đã bị các nhà sử học thời phong kiến
phê phán, coi là vô học, đồng thời, xem ông là kẻ có tài mà không có đức.
Các sử gia Ngô Thời Sĩ, Phan Phu Tiên, Trần Trọng Kim… đều đánh giá
hành động của Trần Thủ Độ là không biết lễ nghĩa, vi phạm tam cương ngũ
thường, làm loạn nhân luân… Có thể nói rằng, khi bước qua thời đại của
mình, Trần Thủ Độ đã để lại rất nhiều những cảm nhận, đánh giá khác nhau
của con người hậu thế.
Sân khấu kịch nói Việt Nam về đề tài lịch sử đã có rất nhiều tác phẩm
khai thác về cuộc đời anh hùng nhưng cũng lắm truân chuyên của Trần Thủ
Độ. Hầu hết các tác phẩm đều tập trung miêu tả sự nghiệp hiển hách của ông
và đánh giá cao những đóng góp ông đã làm cho Đại Việt. Hành động xoay
chuyển quyền lực từ nhà Lý sang nhà Trần đã được các tác giả nhìn nhận, lý
giải từ góc độ của việc nước, của những đòi hỏi cấp thiết cho sự an nguy,
sống còn của giang sơn. Mọi hành động của Trần Thủ Độ, kể cả những hành
động được cho là trái với lẽ cương thường cũng được các nhà viết kịch lịch sử
đặt trong sự lựa chọn giữa lợi ích quốc gia và hạnh phúc riêng tư. Đời luận
anh hùng của tác giả Lê Chí Trung là một tác phẩm như vậy.
Đời luận anh hùng đã xây dựng nhân vật Trần Thủ Độ trên tâm thế một
cá nhân gánh trọng trách lớn của đất nước trong giai đoạn lịch sử đầy biến
động. Cá nhân ấy phải dám bước qua mọi sự ràng buộc, mọi điều tiếng, để
thực thi những nhiệm vụ đôi khi là bất nhẫn vì sự tồn vong của giang sơn, xã
tắc. Trần Thủ Độ trong tác phẩm không chỉ mang khí chất của người anh
hùng với sự khảng khái: “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” mà
còn thể hiện sự tài ba, quyết đoán cùng những cải cách mạnh mẽ về kinh tế
cho đất nước. Trần Thủ Độ đã phải hi sinh tình yêu đầu đời đẹp đẽ, trong sáng
của mình, chấp nhận mọi điều tiếng thị phi khi gây ra những đau khổ, mất mát
cho người thân của mình để đạt được mục đích cao nhất là sự an nguy của
100
trăm họ. Những hành động “xưa nay hiếm” của nhân vật lịch sử đã được
“luận” trên quan điểm về “người anh hùng” của con người đời sau, mà cụ thể
là tác giả Lê Chí Trung. Theo như cách lý giải của tác giả thì “bất độc bất anh
hùng”, chính những hành động không tiền khoáng hậu của nhân vật đã làm
nên một Trần Thủ Độ anh hùng. Người anh hùng này đã có công rất lớn đối
với sự tồn vong của giang sơn, xã tắc, nhưng cũng là người có tội rất lớn với
triều Lý và với những người thân yêu ruột thịt. Cách lựa chọn hy sinh những
tình cảm cá nhân để đạt được mục đích thống nhất trăm họ chính là phẩm chất
của người anh hùng. Còn những tổn thương, mất mất thì chính là cái giá mà
người anh hùng phải trả. Tác phẩm đã khắc họa hình tượng nhân vật Trần Thủ
Độ trên quan điểm rất rõ ràng về nghiệp và phúc của người anh hùng, quan
điểm sáng tạo này đã là lời bênh vực cho những lỗi lầm mà lịch sử và người
đời đã kết tội Trần Thủ Độ. Điều thú vị là bên cạnh sự mưu lược, quyết đoán,
dám làm, dám chịu, nhân vật còn ẩn chứa một tâm hồn, một trái tim biết yêu
thương. Con người tài trí, mưu lược đó đã có nhiều lúc trầm tư, buồn bã trước
nhân tình, thế sự ở đời. Trước cái chết tức tưởi của người con gái nuôi, Trần
Thủ Độ đã không dấu nổi sự xót xa, đau đớn. Người anh hùng có gan chọc
trời khuấy nước, dám làm những chuyện kinh thiên động địa này cũng không
tránh khỏi những quy luật nghiệt ngã của tạo hóa. Nỗi cô đơn của Trần Thủ
Độ lúc tuổi già bóng xế ở cuối tác phẩm là cái giá quá đắt mà nhân vật phải
trả theo lẽ nhân quả ở đời, nhưng những thành tựu chính trị của ông thì người
đời sau không thể nào phủ nhận. Như vậy, trên quan điểm sáng tạo của hôm
nay, tác giả Đời luận anh hùng đã đánh giá cao những đóng góp của Trần Thủ
Độ cho lịch sử và chứng minh ông xứng đáng là một bậc khai quốc công thần.
Cùng quan điểm với tác giả Lê Chí Trung, tác giả Nguyễn Anh Biên
trong kịch bản Cột trụ chống trời cũng hướng đến lý giải những việc làm kinh
thiên động địa của nhân vật Trần Thủ Độ trước đòi hỏi cấp bách của hoàn
101
cảnh lịch sử lúc đó. Nếu như không có một cá nhân đủ bản lĩnh, có tầm nhìn
chiến lược, dám đứng ra xoay chuyển tình thế thì non sông Đại Việt sẽ chìm
đắm trong nội chiến và đầu hàng trước giặc ngoại xâm. Cá nhân có đủ sức
mạnh và sự quyết đoán ấy chính là cây cột trụ vững chắc mà tác giả đã ví như
cột trụ chống trời. Có thể nói rằng, cột trụ chống trời trong tác phẩm chính là
hình ảnh ẩn dụ của nhân vật Trần Thủ Độ. Khi thực thi nhiệm vụ “chống
trời”, cột trụ ấy phải hội đủ cả sức mạnh, trí tuệ, bản lĩnh để dám thực thi cả
những nhiệm vụ mà người bình thường không dám làm, không thể làm. Là
người gánh nhiệm vụ “chống trời” - chèo lái con thuyền đất nước đang tròng
trành trước sóng to, gió cả, Trần Thủ Độ đã dám bước qua những thiệt thòi,
mất mát thuộc về cá nhân mình, về những người thân yêu của mình. Ông đã
có được sự lựa chọn quyết đoán, chấp nhận hy sinh hạnh phúc của mỗi cá
nhân để vì sự sống còn của giang sơn Đại Việt. Với phong cách viết kịch luận
đề, tác giả Nguyễn Anh Biên đã lý giải cho những hành động bất chấp luân
thường đạo lý, sự độc tài đến tàn nhẫn của Trần Thủ Độ xuất phát từ đòi hỏi
bức thiết của sự ổn định đất nước để chống thù trong, giặc ngoài, của sứ mệnh
chính trị mà lịch sử đã trao cho nhân vật. Tác giả đã không quy kết những tội
lỗi của nhân vật theo cách đánh giá của các nhà sử học thời phong kiến, mà
đặt những lỗi lầm ấy trong hoàn cảnh lịch sử ấy để chứng minh những thử
thách, mất mát mà nhân vật lịch sử phải đương đầu. Đây chính là cái “nghiệp”
mà người quân tử phải mang, là cái cách hành xử chỉ có ở người quân tử.
Trên cương vị của một người phải lo đến sự sống còn, an nguy của trăm họ,
Trần Thủ Độ đã lo trước những điều mà thiên hạ phải lo, làm trước những
việc thiên hạ không thể làm. Để đạt tới mục tiêu lâu dài, ổn định triều chính,
mang bình yên đến muôn dân, Trần Thủ Độ sẵn sàng bước qua những rào cản
trước mắt, những ràng buộc tình cảm thường tình. Ông đã thực thi sứ mệnh
102
lịch sử của mình một cách quyết đoán và đầy bản lĩnh, xứng đáng là trụ cột
vững chắc của đất nước trong giai đoạn lịch sử đầy sóng gió đó.
Khác với tác giả Lê Chí Trung và nhà viết kịch Nguyễn Anh Biên, nhà
văn Nguyễn Đình Thi trong tác phẩm Rừng trúc không biện minh cho những
hành động của Trần Thủ Độ mà đi vào khắc họa trực tiếp những diễn biến nơi
triều chính khi xảy ra biến cố lịch sử đó. Trần Thủ Độ trong kịch không phải
là người chủ mưu, ra tay xếp đặt việc truất ngôi hoàng hậu của Chiêu Thánh,
chính ông còn can ngăn Thiên Cực phải giữ lấy cương thường. Khi được vợ
bàn chuyện hoán đổi ngôi hoàng hậu của Chiêu Thánh cho Thuận Thiên, Trần
Thủ Độ đã rất thẳng thắn mà rằng: “Không xong đâu. Nhà vua mà lại cướp vợ
ông anh thì còn ra thế nào!” [59, tr 250]. Sau khi Thiên Cực bộc lộ ý chí
muốn tác thành cho Thuận Thiên và Trần Thái Tông vì muốn giữ lấy cơ
nghiệp nhà Trần, muốn bảo toàn sinh mệnh cho ba mẹ con bà thì Trần Thủ
Độ vẫn còn đầy trăn trở, lo lắng: “Bà chỉ còn chưa tính có một điều là nhà vua
có nghe không... Và còn công chúa Thuận Thiên có chịu không. Khéo mà bao
nhiêu mưu sức của bà xôi hỏng bỏng không” [59, tr 252].
Hầu hết các tài liệu lịch sử đều ghi chép rằng âm mưu chuyển giao
quyền lực từ nhà Lý sang nhà Trần là của Trần Thủ Độ. Một số sách như Các
triều đại Việt Nam và Việt sử giai thoại… viết rằng đó là âm mưu của Trần
Thủ Độ và Trần Thị Dung. Sự kiện ép Chiêu Thánh từ bỏ ngôi hoàng hậu
được ghi chép trong sách Các triều đại Việt Nam và Việt Nam sử lược là do
mưu đồ của Trần Thủ Độ, còn sách Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam, Việt
sử giai thoại, Đại Việt sử ký toàn thư viết rằng đó là mưu đồ của cả hai vợ
chồng Trần Thủ Độ - Trần Thị Dung. Nhà văn Nguyễn Đình Thi đã tránh cho
nhân vật Trần Thủ Độ khỏi tiếng vô cảm trong cuộc xếp đặt trái nhân luân
này. Trần Thủ Độ trong kịch là một người anh hùng, một người biết lo xa và
nghĩ những điều lớn lao, ông luôn bộc lộ nỗi bận tâm lớn nhất là vì sơn hà, xã
103
tắc: “Ở nơi phải lo đến sự mất còn của trăm họ, ta ghét và khinh nhất là sự
yếu hèn… Nhà vua không lẽ coi cái nhẹ nhõm của riêng mình còn to hơn
công việc cả nước hay sao” [59, tr 307]. Mục đích xuyên suốt trong hành
động của nhân vật Trần Thủ Độ là vì sự bình yên của sơn hà, xã tắc và không
chấp nhận cho bất cứ một suy nghĩ hay hành động nào đi ngược lại với điều
đó. Không những thế, Trần Thủ Độ còn là một người biết trên dưới, phải trái,
ông ta được kính trọng không chỉ bởi tài năng mà còn bởi cái Tâm với giang
sơn và dòng tộc. Khi đến thăm nhà Chiêu Thánh, ông đã tận tình hỏi han, dặn
dò và không quên hỏi một câu “Con có oán ta không?” [59, tr 306]. Người
đàn ông có gan chọc trời, khuấy nước này luôn ý thức rất rõ về bản thân
mình:
Thủ Độ: Tôi không hiểu chữ, không am hiểu gì về đạo thánh hiền.
Nhưng tôi nghĩ cũng có khác với mấy ông nhà Nho. Nếu như chỉ
thuộc lòng mấy bộ kinh sử từ đời ông Chu Công Khổng Tử nào ở
tận đâu, mà xoay chuyển được thiên hạ này, thì việc đời dễ quá,
khác gì trò trẻ con. Tôi biết mấy ông nhà Nho cũng chửi tôi đấy, chỉ
không dám chửi to thôi, vì sợ! [59, tr 256].
Nhà văn Nguyễn Đình Thi không xây dựng một Trần Thủ Độ vô cảm,
chỉ biết đến mệnh lệnh, gươm giáo, mà là một người sống có tình nghĩa, thẳng
thắn, công minh, biết lắng nghe và dám đối diện với sự thật. Từ một nhân vật
đáng chê trách, lên án dưới con mắt của các nhà sử học phong kiến đã bước
vào trang kịch của Nguyễn Đình Thi với diện mạo, khí khái của một người
anh hùng. Nhân vật không chỉ biết lẽ cương thường mà còn biết rất rõ vị trí
của mình, biết cẩn trọng né tránh những hoài nghi, thị phi của người đời. Sự
sáng suốt, bản lĩnh trong cách xử trí mối quan hệ gia đình, mối nguy cơ nội
chiến và giặc ngoại xâm đã chứng minh trí tuệ, tài năng của một bậc anh hùng
xuất chúng trong lịch sử. Nhân vật của Nguyễn Đình Thi đã mang rất rõ dấu
104
ấn của một nhà văn, nhà thơ tài hoa và am tường triết học. Ông không luận về
công hay tội của nhân vật, cũng không đặt nhân vật vào một sứ mệnh lịch sử
không thể thay thế mà tái hiện một Trần Thủ Độ gần gũi, hết lòng vì sự sống
còn của giang sơn Đại Việt. Tác giả không bênh vực Trần Thủ Độ mà bằng
những sáng tạo của mình, đã chứng minh ông không phải là người chủ mưu
của những toan tính, sắp đặt. Cách đánh giá của tác giả về nhân vật đã tạo
dựng được một hình tượng nghệ thuật có sức sống khá đặc biệt trong đời sống
sân khấu đương đại.
Khác với nhân vật Trần Thủ Độ, nhân vật Trần Thị Dung lại thể hiện
một quan điểm khác của nhà văn Nguyễn Đình Thi khi tiếp cận và lý giải lịch
sử. Dưới góc nhìn của các nhà sử học thời phong kiến thì Trần Thị Dung là
nhân vật lịch sử mà công hay tội nghiêng bên nào cũng có. Vai trò của bà
trong việc sắp đặt, kiến thiết sự kiện nhường ngôi giữa Lý Chiêu Hoàng và
Trần Cảnh còn gây rất nhiều ý kiến trái chiều giữa các nhà sử học. Rừng trúc
bắt đầu bằng âm mưu của Trần Thị Dung - lúc này đã là công chúa Thiên Cực
- phu nhân của Thống quốc thái sư Trần Thủ Độ. Thiên Cực là người phát
ngôn, người toan tính sắp đặt chuyện truất ngôi hoàng hậu của Chiêu Thánh,
bất chấp số phận của hai cô con gái tội nghiệp với tham vọng mãnh liệt là giữ
được quyền lực cho nhà Trần. Sự sắp đặt của bà hoàn hảo đến mức Trần Thủ
Độ phải kêu lên: “Bà nói nghe dễ như là có cả vợ cả con sẵn đấy cho nhà vua
rồi” [59, tr 250].
Thiên Cực trong Rừng trúc là nhân vật đã được tác giả dồn mọi âm
mưu, thủ đoạn lên vai. Vì mục đích thôn tính trăm họ, bà ta không ngần ngại
chà đạp lên cả lẽ cương thường. Những rào cản về luân lý, đạo đức mà chính
Trần Thủ Độ còn ái ngại thì Thiên Cực lạnh lùng bước qua. Hai người con gái
yếu đuối đáng thương đã bị bà ta biến thành quân cờ trong ván cờ đời một
cách lạnh lùng, tàn nhẫn. Nhà văn Nguyễn Đình Thi đã để cho Thiên Cực là
105
người đứng ra sắp đặt tất cả mọi việc lớn trong kịch: Nhường ngôi hoàng hậu;
cuộc hôn phối giữa Trần Cảnh và Thuận Thiên; giải hoà cho hai anh em Trần
Cảnh, Trần Liễu... Thiên Cực đã bỏ qua những quan hệ, những ràng buộc tình
cảm thường tình. Hoàn cảnh lịch sử trong kịch đã nghiêng về việc nước, ở
đây, việc nước đã thắng việc người, cái chung đã được đặt lên trên cái riêng.
Trần Thị Dung của Nguyễn Đình Thi là một cá nhân đã hoàn toàn
thuộc về lịch sử, là người đàn bà có công sáng lập triều Trần, giữ vững quyền
lực cho nhà Trần. Nguyễn Đình Thi đã sáng tạo nên một người đàn bà thép,
đặt mọi quyền lợi cá nhân, tình cảm cá nhân dưới việc quốc gia đại sự. Ông
cũng đã giúp nhân vật bày tỏ nỗi lòng, bày tỏ lý do vì sao lại đối xử phũ
phàng với Lý Huệ Tông và vô tình với hạnh phúc của hai cô con gái:
Thiên Cực: Thân tôi ngày ấy, gọi là bà hoàng hậu, nhưng mà chồng
thì đã hóa điên, cả nhà chồng chỉ lăm le tìm cách bắt phải chết, tôi
chỉ còn biết ôm lấy hai đứa con gái nhỏ mà gắng gượng chống đỡ
bốn bề. Triều đình thì lúc ý năm bè bẩy mối, việc nước nát như
tương, đất Kinh Bắc, đất Hồng Châu, đất Nghệ An đều loạn, Chiêu
Hoàng con ạ, ngày ấy mà không xoay chuyển được nhanh, thì cả
nước cũng không còn, mà cả bên nội lẫn bên ngoại nhà con cũng bị
giết hết không chừa một ai! [59, tr 264].
Các tài liệu lịch sử ghi chép về sự kiện lịch sử này đều cho rằng âm
mưu thuộc về Trần Thủ Độ hoặc cả Trần Thị Dung và Trần Thủ Độ. Nhà văn
Nguyễn Đình Thi đã chọn cách lý giải khác khi cho rằng Trần Thị Dung
chính là tác giả của cuộc sắp đặt đầy tai tiếng trong chốn hậu cung. Bà ta cũng
chính là người gánh tội nhiều nhất trong Rừng trúc. Tất nhiên, Nguyễn Đình
Thi có lý do của mình khi ông chọn cách đánh giá nhân vật như vậy. Ông
muốn đặt các mối quan hệ ruột thịt trong kịch vào một vòng xoáy nghiệt ngã
nhất, để việc lựa chọn giữa cái chung và cái riêng trở nên khó khăn nhất, qua
106
đó thử thách nhân vật lịch sử. Nếu như không mang cái nhìn của một người
hậu thế, nếu không phải là một nhà văn uyên bác thì Nguyễn Đình Thi không
thể tạo dựng cho nhân vật của mình một tâm thế như vậy. Và hẳn nhiên, Rừng
trúc sẽ không thể có một người vợ, một người mẹ vô cùng lý trí, biết nhìn xa
trông rộng như Thiên Cực. Nhà văn đã tạo cho nhân vật cơ hội được biện giải
với các con, với người đời về những việc mình làm. Rõ ràng, đó là lựa chọn
hết sức khó khăn, nhưng ở vào vị thế của bà, ở vào hoàn cảnh lịch sử đó, bà
không thể chỉ nghĩ cho riêng mình. Phía sau nhân vật Thiên Cực chính là cốt
cách sáng tạo của nhà văn với một thái độ, một cách tư biện vô cùng sắc sảo,
tỉnh táo.
Đánh giá lại nhân vật lịch sử bằng quan điểm, nhận thức của ngày hôm
nay là việc làm đã được nhiều nhà viết kịch áp dụng trong quá trình sáng tạo
tác phẩm của mình. Bằng sự am hiểu lịch sử cùng với vốn tri thức mới mẻ,
nhiều tác giả đã mang đến cho nhân vật lịch sử một diện mạo mới vừa trung
thành với lịch sử vừa mang được sức sống, hơi thở của đời sống đương thời.
Những sáng tạo này thậm chí đi ngược lại nhận định của các nhà sử học
nhưng lại nhận được sự đồng cảm, chia sẻ của khán giả đương thời. Nhân vật
Trần Thủ Độ trong các tác phẩm Đời luận anh hùng, Cột trụ chống trời, Rừng
trúc là một trường hợp như vậy.
Việc đánh giá lại nhân vật lịch sử từ cảm quan hôm nay của nhà viết
kịch không những mang lại sự khách quan, công bằng cho nhân vật mà còn
tiếp thêm sức sống để nhân vật lịch sử có thể tiếp tục đồng hành cùng đời
sống đương đại. Sự đánh giá này sẽ thật sự khách quan, thuyết phục nếu nhà
viết kịch biết đặt xuất phát điểm của mình từ logic và tinh thần của lịch sử.
Hơn nữa, những luận giải đi ngược lại với quan điểm của các nhà sử học và
tâm thức của cộng đồng cần phải được tính toán, cân nhắc cẩn trọng. Những
giả thiết đưa ra phải hợp lý, thuyết phục, lập luận phải vững chắc và có cơ sở
107
thực tiễn. Nếu không, các tác giả rất dễ sa đà và vi phạm vào sự chân thực
lịch sử. Đánh giá lại nhân vật lịch sử qua tác phẩm bao giờ cũng thể hiện tâm
thức của một người hậu thế khi ngoái nhìn về lịch sử. Độ lùi về thời gian sẽ
giúp họ có được những nhận định, đánh giá khách quan, mới mẻ về nhân vật
lịch sử song cũng có thể khiến họ áp đặt khiên cưỡng những quan điểm hiện
đại lên nhân vật lịch sử. Để nhân vật và tác phẩm về đề tài lịch sử có sức sống
bền vững, đồng hành được với đời sống đương đại, đỏi hỏi rất nhiều bản lĩnh
và tài năng của các nhà viết kịch hiện đại.
3.3. Hiện thực hóa ngôn ngữ nhân vật lịch sử
Ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm chính là phương tiện biểu đạt đời
sống nội tâm, tính cách nhân vật, là quan điểm, nhận thức và mục đích sáng
tạo của tác giả. Đối với tác phẩm văn học kịch, ngôn ngữ nhân vật có vai trò
quyết định đến sự tồn tại của tác phẩm, bởi mọi diễn biến của đời sống trong
kịch chỉ có thể được biểu hiện qua ngôn ngữ nhân vật và chỉ của nhân vật mà
thôi.
Sáng tạo ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm kịch là thách thức rất lớn
đối với nhà viết kịch. Họ phải vượt qua những rào cản về văn hóa, nhận thức
của chính mình, thời đại mình để tiếp cận tới được đời sống văn hóa xã hội
của quá khứ, của nhân vật. Ngôn ngữ được sáng tạo trong tác phẩm không
những là hiện thân của nhân vật mà còn phải được đặt trong điều kiện, hoàn
cảnh lịch sử nhân vật sinh sống và phải đối thoại được với người xem đương
thời. Đời sống trong tác phẩm kịch là một đời sống đang diễn ra, tự diễn ra và
diễn ra từ đầu đến cuối trong sự hợp lý nội tại của nó. Nhân vật trong tác phẩm
cũng tự sống, tự hành động, đang sống, đang hành động bằng chính ngôn ngữ,
tính cách và số phận của mình. Vì thế, ngôn ngữ của nhân vật trong tác phẩm
kịch phải là ngôn ngữ đối thoại trực tiếp hoặc độc thoại, đó là thứ ngôn ngữ
luôn ở thì hiện tại.
108
Chính nhà văn Quách Mạt Nhược đã nói rằng: "Căn bản phải là ngôn
ngữ hiện đại, nếu không thì không thể thành được kịch nói" [45, tr 6]. Theo
như cách lý giải của Quách Mạt Nhược thì thể loại kịch nói đã mang tính hiện
đại từ trong bản chất và ngôn ngữ của nhân vật trong tác phẩm phải luôn luôn
là ngôn ngữ hiện đại. Ông cũng đưa ra tình huống rằng có người yêu cầu khi
sáng tạo nhân vật lịch sử phải tuyệt đối sử dụng ngôn ngữ lịch sử, theo ông,
đây là điều thực sự buồn cười. Quách Mạt Nhược đã đặt câu hỏi: "Ai có thể
hiểu được ngôn ngữ tuyệt đối của lịch sử? Tìm đâu cho ra ngôn ngữ tuyệt đối
của lịch sử?" [45, tr 6]. Nhà văn cũng biện luận rằng, khi viết kịch về đề tài
nước ngoài, chưa ai bắt nhân vật trong kịch phải dùng ngôn ngữ nước ngoài,
"nên nói viết kịch lịch sử phải dùng ngôn ngữ quá khứ, thì thật là kỳ quặc,
không thể nào hiểu được" [45, tr 6].
Ngôn ngữ hiện đại mà nhà văn Quách Mạt Nhược đưa ra không phải là
việc chúng ta lấy ngôn ngữ ngày hôm nay để cho nhân vật lịch sử phát ngôn
mà là sáng tạo làm sao để nhân vật nói theo cách mà con người hôm nay có
thể hiểu được trong điều kiện, hoàn cảnh sống của nó. Nhà văn nhấn mạnh:
"Những danh từ mới và cách nói mới của thời đại hiện nay thì tuyệt đối không
được sử dụng" [45, tr 6]. Nhà văn Quách Mạt Nhược đã sử dụng thuật ngữ
“ngôn ngữ hiện đại” khi đưa ra yêu cầu về ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm
kịch, nhưng ông cũng cho rằng nhà viết kịch không được sử dụng những danh
từ mới và cách nói mới của thời hiện đại cho nhân vật lịch sử.
Thực tế cho thấy, khi sáng tạo ngôn ngữ nhân vật lịch sử, nhà viết kịch
phải đối diện với hai khó khăn lớn, thứ nhất là việc bất khả phục hồi của ngôn
ngữ quá khứ và thứ hai là việc sử dụng vốn ngôn ngữ hiện đại như thế nào để
phù hợp với nhân vật lịch sử. Ngôn ngữ nhân vật lịch sử trong tác phẩm trước
hết phải là hiện thân của chính tính cách, con người lịch sử, là sản phẩm của
văn hóa, xã hội giai đoạn lịch sử đó, sau nữa, phải là ngôn ngữ mà người xem
109
hiện đại có thể hiểu và chia sẻ được. Tái hiện nguyên si ngôn ngữ của nhân
vật trong quá khứ là việc làm bất khả thi đối với tất cả các nhà viết kịch vì
những rào cản trong văn hóa, nhận thức và cả tư liệu lịch sử. Quá khứ xa xôi,
mịt mùng, chỉ để lại một vài tín hiệu về cuộc đời, số phận nhân vật lịch sử,
nhà viết kịch biết lấy điểm tựa nào để sáng tạo ngôn ngữ? Lựa chọn hợp lý
nhất đối với nhà viết kịch chính là đặt ngôn ngữ của nhân vật lịch sử trong bối
cảnh văn hóa, xã hội chung của một thời kỳ lịch sử để sáng tác, nếu truy cầu
sự chính xác tuyệt đối, thì đây còn là thách thức lớn đối với cả các nhà ngôn
ngữ học. Nhiều nhà viết kịch hiện đại đã bằng vốn sống, vốn tri thức hiện đại
và sự am hiểu lịch sử của mình, hiện thực hóa thành công ngôn ngữ của nhân
vật lịch sử.
Ở mỗi giai đoạn lịch sử đều có những quy định, những nguyên tắc và
những đặc điểm riêng trong lễ nghi, phong tục, chi phối trực tiếp đến đời sống
từng cá nhân, gia đình và xã hội. Ngôn ngữ nhân vật lịch sử hiển nhiên sẽ là
sản phẩm của văn hóa, phong tục, luật tục, thói quen… không thể tách rời giai
đoạn lịch sử ấy. Đó là sự tuân thủ nguyên tắc của thứ bậc trong giao tiếp,
xưng hô, của cách xưng hô; là thói quen trong cách diễn đạt, dùng từ… Khi
sáng tạo, hiện thực hóa ngôn ngữ cho những nhân vật lịch sử thuộc về các
triều đại phong kiến Việt Nam, nhiều nhà viết kịch đã sử dụng thành công
phương tiện tu từ từ vựng, cụ thể là sử dụng từ Hán Việt để biểu hiện thành
phần xuất thân, trình độ học vấn, mối quan hệ xã hội của nhân vật. Nhà văn
Nguyễn Đình Thi đã sử dụng từ Hán Việt để làm nên cốt cách sang trọng,
quyền quý, một đời sống nội tâm trĩu nặng tâm tư và một khả năng nhận thức,
suy nghĩ hơn người của nhân vật Chiêu Thánh trong tác phẩm Rừng trúc.
Chiêu Thánh: Hãy nghe: Từ hôm nay Lý Chiêu Hoàng này rời bỏ
ngôi báu. Người đàn bà được Đức vua cha ta thương yêu kia, ta cho
bà trở về họ Trần, từ nay bà không còn phải là bày tôi nhà Lý ta
110
nữa. Ta cởi bỏ cho các ngươi ra khỏi thân phận một bọn tiếm
quyền, mà được chính danh giữ việc nước, thế thì các người hãy ra
khỏi cõi tối tăm, quỷ quyệt, mưu mô, từ nay giữa thanh thiên bạch
nhật hãy hết lòng phù tá người kế nghiệp ta, giữ gìn lấy giang sơn
nhà Lý ta giao lại. Bờ cõi này còn chưa vững thì các ngươi phải ăn
không ngon, ngủ không yên! [59, tr 266].
Những ngôn từ rành mạch, khúc chiết, vừa ẩn chứa chiều sâu nội tâm,
vừa thể hiện sự khảng khái của Chiêu Thánh trước hoàn cảnh nghiệt ngã mà
người mẹ yêu quý đã gây ra cho nàng. Chiêu Thánh không đầu hàng số phận,
nàng đã thể hiện sự bao dung của một người biết đặt mình vượt khỏi những
toan tính, vì nghiệp lớn.
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã sử dụng từ Hán Việt để làm nên thành
công của cuộc đối thoại giữa hai kẻ đồng bệnh trong tác phẩm Vũ Như Tô.
Vũ Như Tô: Ủa? Bà nói như một người đồng bệnh.
Đan Thiềm: Chính là một người đồng bệnh, nên chưa biết ông, tôi
đã ái ngại cho ông. Tài làm luỵ ông, cũng như nhan sắc phụ người.
Vũ Như Tô: (...) Tôi không ngờ lại được biết một đời cung oán
nhãn tiền.
Đan Thiềm: Thân tôi không đáng kể đã đành, nhưng còn ông?
Vũ Như Tô: Cũng là thân không đáng kể.
Đan Thiềm: Sao lại không đáng kể. Hữu tài tất hữu dụng [36, tr 18, 19].
Cuộc gặp gỡ đầu tiên của hai tri kỷ, họ hiểu được nhau cũng bởi sự
đồng bệnh, ở sự sẻ chia, người bị tài làm luỵ, còn người bạc phận vì nhan sắc.
Lời động viên hữu tài tất hữu dụng của Đan Thiềm đã làm nên thay đổi lớn
lao ở Vũ Như Tô. Hai thân phận này không sinh ra từ nơi vương giả, chỉ gặp
nhau ở chốn tôn nghiêm, không gian và hoàn cảnh làm cho cuộc đối thoại
111
giữa họ trở nên linh thiêng, trang trọng, đưa đến quyết định làm thay đổi số
phận của người kiến trúc sư tài hoa.
Trong Nguyễn Trãi ở Đông Quan, nhà văn Nguyễn Đình Thi cũng sử
dụng rất nhiều từ Hán Việt khi thể hiện ngôn ngữ của nhân vật Nguyễn Trãi.
Ngay từ những lời đầu tiên khi vào kịch, từ Hán Việt đã góp phần làm nên cốt
cách tâm hồn và sự uyên thâm nho học của Nguyễn Trãi:
Nguyễn Trãi: Đông Quan bên kia rồi... Cát bay mờ mịt cả... Gió
quá... Đông Quan... Chiếc lá rụng trong cơn binh lửa đã dạt về tới
đây... Tội nghiệp, cái bến đò nhỏ mà quân Ngô nó cũng đốt phá!
Chiếc bia nơi miếu cũ, chúng cũng đập nát! “Thuý trúc, hoàng
hoa... Bạch vân, minh nguyệt”... Hai câu đời Thông thuỵ... “Trúc
biếc, hoa vàng... mây trắng, trăng trong”... Bây giờ nhìn thấy đâu
cũng chỉ thấy lởm chởm giáo mác quân cuồng bạo! Kinh điển chữ
nghĩa cả nước đã thành đá vụn, tro tàn!... Vậy mà túp lều kia, cây đỗ
quyên đang nở muôn nghìn đốm son phấp phới... Mùa xuân về đấy
ư...? [59, tr 341].
Nhà văn Nguyễn Đình Thi đã tìm được cách thể hiện ngôn ngữ phù hợp
với văn hóa, cốt cách của nhân vật, đồng thời chuyển tải được thế giới nội
tâm, tâm hồn nhân vật lịch sử. Từ một biểu tượng văn hóa, chính trị, quân sự
trong lịch sử, một hình tượng đẹp của văn học nghệ thuật, nhà văn Nguyễn
Đình Thi đã mang đến nhân vật một sức sống mới, hiển hiện bằng cả thể xác,
tâm hồn, ngôn ngữ trên sân khấu hôm nay. Nếu không có những sáng tạo này,
thì nhân vật Nguyễn Trãi chỉ có thể xuất hiện trong mường tượng của người
đời mà thôi. Nhà văn đã cụ thể hóa, hiện thực hóa những ngôn ngữ đã chìm
sâu trong lịch sử mà người đời không còn cơ hội để kiểm chứng của nhân vật,
thành những ngôn từ có thể nghe thấy, đọc được, thậm chí có thể nắm bắt
được. Và cũng do đó, nhân vật đã thực sự sống trên sân khấu hôm nay.
112
Bên cạnh việc phát huy thế mạnh của từ Hán Việt trong thể hiện ngôn
ngữ của nhân vật lịch sử, nhiều nhà viết kịch đã sử dụng từ hội thoại trong
biện pháp tu từ từ vựng để diễn tả hoàn cảnh xuất thân, tính cách, trình độ
nhận thức của nhân vật. Từ hội thoại là những từ thường dùng trong mối quan
hệ giao tiếp thân mật, mang tính cửa miệng, không lệ thuộc vào nguyên tắc
thứ bậc, tuổi tác, trình độ… trong giao tiếp.
Trong kịch, bên cạnh chức năng biểu hiện tính cách, trình độ nhân vật,
mang lại sự chân thực của hoàn cảnh kịch, từ hội thoại còn được các nhà viết
kịch sử dụng để diễn đạt một cách giản dị, dễ hiểu những khái niệm phức tạp,
đồng thời giúp nhân vật bày tỏ tình cảm, thái độ một cách mạnh mẽ. Nếu từ
Hán Việt làm nên sự cao quý, sang trọng của nhân vật, thì từ hội thoại lại làm
nên vẻ gần gũi, thân mật, mang được nhiều dấu ấn của đời thường. Nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng đã sử dụng từ hội thoại để khắc họa sự chân chất, mộc
mạc của nhân vật Thị Nhiên trong tác phẩm Vũ Như Tô.
Thị Nhiên: Thì tôi đã bảo là tôi đang sợ hết vía lên đây. Tượng kia
cứ xô lại đánh tôi. Mà cái cổng kia, nói dại, nó đổ xuống thì chết.
... Thầy nó còn lạ gì tôi ngược xuôi buôn bán, làm ruộng, làm áng,
quen với đêm khuya rồi. Thầy nó tính chẳng ra: Thân mình thì tàn
tật, việc nhà thì bỏ, con cái cũng chẳng nhìn.
... Thôi thế là đủ đẹp lắm rồi! Năm năm nữa. Gớm, thầy nó đến là
hay vẽ chuyện. Cứ làm nho nhỏ cũng được. Nhà nghèo thì làm cái
nhà bé, nước nhỏ thì xây cái đài nhỏ, ai lại... [36, tr 77, 79, 80].
Qua một vài câu thoại, chân dung của nhân vật Thị Nhiên đã được nhà
văn Nguyễn Huy Tưởng khắc họa rõ nét. Ngôn ngữ hội thoại không những
làm nên vẻ quê mùa, thật thà, chất phác của Thị Nhiên mà còn lột tả cách suy
nghĩ đơn giản của người phụ nữ nông thôn này. Những sáng tạo phù hợp về
mặt ngôn ngữ của nhà văn đã thể hiện sinh động, hợp lý hình tượng nhân vật
113
Thị Nhiên. Ngôn ngữ ấy không những hiển thị được tính cách, thành phần
xuất thân mà còn lột tả được cả diện mạo, tác phong, trang phục của nhân vật.
Đây chính là điểm tựa rất quan trọng để người đạo diễn hiện thực hóa hình
tượng nhân vật Thị Nhiên trên sân khấu.
Khi sáng tạo ngôn ngữ nhân vật lịch sử, nhà viết kịch không thể không
nắm vững lý luận về ngôn ngữ kịch. Đó là sự vận dụng hợp lý ngôn ngữ đối
thoại tính cách (đối thoại chuyển tải tính cách nhân vật), ngôn ngữ đối thoại
tư tưởng (đối thoại bộc lộ tư tưởng chủ đề tác phẩm), ngôn ngữ đối thoại dẫn
chuyện và ngôn ngữ độc thoại trong từng tình huống, hoàn cảnh kịch. Không
những thế, nhà viết kịch còn phải đặt ngôn ngữ nhân vật lịch sử trong không
gian của thể tài, thể loại kịch. Rừng trúc của Nguyễn Đình Thi và Vũ Như Tô
của Nguyễn Huy Tưởng là hai tác phẩm thành công trong việc thể hiện ngôn
ngữ nhân vật bi kịch.
Rừng trúc là một tác phẩm kịch về đề tài lịch sử đông đặc tính bi kịch
và có thể coi Chiêu Thánh là một nhân vật bi kịch. Nhà văn Nguyễn Đình Thi
đã sáng tạo ngôn ngữ cho nhân vật Chiêu Thánh theo tiêu chí của ngôn ngữ
nhân vật bi kịch. Lý luận về ngôn ngữ nhân vật bi kịch trong bi kịch cổ đại
Hy Lạp và các bi kịch thời Phục hưng đã cho thấy rằng, trong một trạng thái
tâm hồn nào đó, nhân vật có thể nói những lời khoa trương, vượt khỏi ngôn
ngữ của đời thường. Chiêu Thánh đã có nhiều lớp độc thoại và đối thoại bằng
ngôn ngữ khác thường, không phù hợp với địa vị, danh phận của nàng trong
hoàn cảnh lịch sử đó. Cuộc gặp gỡ giữa Chiêu Thánh và mẹ là Thiên Cực sau
cuộc sắp đặt ngang trái - nhường chồng cho chị gái - thực sự là một thử thách
mà nhà văn Nguyễn Đình Thi dám đương đầu. Sự đối diện đầy khó khăn,
nhưng cũng là cơ hội cuối cùng để cả hai được nói ra những điều sâu kín ở
trong lòng. Lúc này, Chiêu Thánh đã xúc động cực độ, nàng nhắc lại chuyện
cũ, lục lại những ẩn ức tưởng đã bị thời gian chôn vùi. Nàng đổi cách xưng hô
114
từ tôi với bà sang ta và các ngươi, lái câu chuyện giữa hai người từ chuyện
gia đình sang chuyện quốc gia và vận mệnh dân tộc. Lời nói của nàng giờ đây
không còn hướng vào một đối tượng nào cụ thể nữa, mà trên tư thế của người
đại diện vương triều, nói với bè lũ tiếm quyền, phản loạn.
Chiêu Thánh: Ta là vua dòng triều Lý đã trị vì trên hai trăm năm nơi
giang sơn này, đã xây thành Thăng Long, đã mấy phen đánh Tống,
dẹp Chiêm, đã dạy dân nghề dệt, nghề in, cùng trăm nghề khéo, đã
mở mang văn hiến rực rỡ, làm cho đất nước Việt ta đẹp quý như viên
ngọc một cõi đất trời. Khi ta lên bảy tuổi mà nhường ngôi cho Trần
Cảnh thì đó chỉ là một trò xếp đặt của các ngươi. Trần Cảnh chẳng
qua lúc ấy chỉ là một đứa trẻ, mặc áo đội mũ, trong tay các ngươi.
Đến nay ta đã đủ trí xét đoán mọi việc, ta vẫn là nữ hoàng của đất
nước này, là nhà vua của các ngươi đây [59, tr 265].
Trên tư thế của người đại diện vương triều, Chiêu Thánh đã xoá bỏ
ranh giới của sự xưng hô thông thường theo lề thói, phong tục, nàng tự đưa
mình vào thế giới mà cách đó đã gần 20 năm, khi nàng nhường ngôi cho
chồng. Chính cái thế giới huyền thoại ấy đã cho Chiêu Thánh được quyền lên
tiếng cho phép mẹ mình trở về họ Trần, cởi bỏ cho bà ta và phe cánh ra khỏi
thân phận một bọn tiếm quyền và yêu cầu những người ấy phải thoát khỏi cõi
tối tăm, quỷ quyệt, mưu mô mà phò tá người kế nghiệp nàng lo việc nước.
Cách nói của Chiêu Thánh đã khiến Thiên Cực rơi vào trạng thái xúc động
cao độ đến khóc ngất đi.
Cũng trong không gian bi kịch đó, nhà văn Nguyễn Đình Thi đã để cho
nhân vật Chiêu Thánh - người con gái ở lứa tuổi 20 nói những lời cay đắng,
già dặn hơn cả lứa tuổi 20 của nàng: “Mẹ chắc cũng còn có đôi chút tình mẹ
con chứ nhỉ... Là mẹ ta nhưng lại là vợ kẻ đã bắt cha ta phải chết. Thế thì ta là
con gái đáng thương của bà, hay ta là kẻ thù đáng sợ của vợ chồng bà? Bà
115
nhìn thấy ta chỉ như cái oán hiện hình, không thể nào tan đi được!” [59, tr
259]. Nàng Chiêu Thánh trong giai đoạn lịch sử ấy chắc chắn chưa thể có
được những ngôn ngữ chín chắn, bản lĩnh cùng những suy luận logic như
Chiêu Thánh của Nguyễn Đình Thi. Nhưng những sáng tạo này vẫn thuyết
phục bởi vì nó hợp lý trong điều kiện, hoàn cảnh mà tác giả đã tạo ra cho
nhân vật, đồng thời nó thống nhất trong không gian bi kịch của tác phẩm.
Nhân vật Vũ Như Tô trong hoàn cảnh nghiệt ngã nhất của số phận đã
thốt lên những điều vô cùng lý tưởng: “Ta tội gì? Không, ta chỉ có một hoài
bão là tô điểm cho đất nước, đem hết tài ra xây cho nòi giống một toà đài hoa
lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hoá công. Vậy thì
ta có tội gì? Ta xây Cửu Trùng Đài có phải đâu để hại nước?” [36, tr 108].
Một người thợ giỏi, yêu kiến thiết xây dựng sẽ quen làm nhiều hơn là những
tranh biện, lý luận về ý nghĩa của việc mình làm. Nhưng trong trạng thái mất
thăng bằng, hoảng loạn, Vũ Như Tô đã nói những lời khúc chiết về lý tưởng,
mục đích, hoài bão và sự cống hiến. Những phát ngôn này hoàn toàn phù hợp
với tâm trạng, hoàn cảnh của nhân vật bi kịch trong tác phẩm.
Hoàn cảnh bi kịch đã thúc đẩy nhân vật bi kịch đến những phát ngôn
đôi khi có phần lý thuyết, triết lý nhưng vẫn hợp lý và người xem có thể chấp
nhận được. Nhiều nhà viết kịch đã sử dụng ngôn ngữ nhân vật trong tình
huống này để gửi gắm quan điểm, tư tưởng của mình. Nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng đã gửi gắm quan điểm về con đường nghệ thuật của ông qua ngôn ngữ
của nhân vật Vũ Như Tô.
Khác với nhân vật chính kịch, nhân vật bi kịch thường ẩn chứa chiều
sâu nội tâm và diễn biến tâm lý phức tạp. Vì thế, bên cạnh việc sử dụng ngôn
ngữ đối thoại, các nhà viết kịch thường sử dụng ngôn ngữ độc thoại để biểu
đạt tâm trạng nhân vật. Độc thoại vốn là một biện pháp mĩ học không thể
thiếu trong văn chương bi kịch xưa nay. Những lớp độc thoại cùng với sự dồn
116
nén tâm tư, cảm xúc của nhân vật bi kịch đã làm nên chiều sâu của ngôn ngữ
và nội dung kịch. Nhà văn Nguyễn Đình Thi đã từng dành cho nhân vật Chiêu
Thánh vài trang độc thoại khi nhân vật phải đối diện với biến cố cuối cùng
của đời mình. Lớp Chiêu Thánh độc thoại với cha, với mẹ, với chị, với chồng
trước khi từ bỏ nốt ngôi hoàng hậu đã trở thành điểm nhấn khó quên của tác
phẩm. Cách hành văn độc đáo, phong phú về từ vựng, chất chứa nhiều tầng
ngữ nghĩa, lớp độc thoại đó đã giúp nhà văn làm nên vẻ đẹp của văn chương
bi kịch. Độc thoại cũng là hình thức ngôn ngữ được nhà văn Lê Duy Hạnh sử
dụng thành công đối với hai vở kịch thử nghiệm chỉ có một nhân vật, đó là
Độc thoại đêm và Hoàng hậu của hai vua.
Khi sáng tạo ngôn ngữ nhân vật lịch sử, các tác giả đều phải bắt đầu
bằng vốn sống, năng khiếu văn chương của chính mình được thừa hưởng từ
môi trường sinh sống, học tập, làm việc cùng với khả năng nhận thức hiện
thực lịch sử. Từ nhận thức đúng môi trường văn hóa, xã hội, chính trị của
nhân vật lịch sử, cộng với kiến thức, vốn sống thực tế sẽ cho tác giả những
giải pháp về sáng tạo, hiện thực hóa ngôn ngữ phù hợp nhất. Ngôn ngữ nhân
vật lịch sử phải là sự tổng hòa của tri thức, văn hóa quá khứ kết hợp với tri
thức, văn hóa hiện đại. Khi xây dựng nhân vật lịch sử, tác giả mang đến cho
nó một tính cách, một số phận hoàn chỉnh từ quan điểm sáng tạo của hôm nay
cũng tức là mang đến cho nhân vật những sáng tạo về ngôn ngữ trên quan
điểm, cách tiếp cận của văn hóa hôm nay. Ngôn ngữ ấy là sản phẩm sáng tạo
của con người hôm nay đối thoại với khán giả hôm nay.
Ngôn ngữ nhân vật lịch sử trong tác phẩm cũng chính là ngôn ngữ của
tác giả. Nếu người tác giả nắm vững văn hóa lịch sử, biết ẩn mình phía sau
nhân vật thì ngôn ngữ nhân vật đạt tới sự khách quan, hợp lý, nếu tác giả thiếu
am hiểu lịch sử, nôn nóng bộc lộ quan điểm, tư tưởng thì nhân vật sẽ thành
công cụ phát ngôn cho tác giả. Sáng tạo ngôn ngữ nhân vật lịch sử bao giờ
117
cũng được bắt đầu bằng cái Tôi của người nghệ sĩ hôm nay, nên phía sau nhân
vật bao giờ cũng có bóng dáng của tác giả, có sự phản chiếu của cuộc sống
đương đại. Sai lầm mà các nhà viết kịch thường mắc phải đó là hiện đại hóa
ngôn ngữ nhân vật lịch sử.
Sự chau chuốt đến mức tưởng như hoàn hảo của ngôn ngữ nhân vật
trong kịch bản Nguyễn Trãi ở Đông Quan vẫn còn mắc những hạt sạn như:
Nguyễn Trãi: (Nói với cô gái câm Bích Thảo) Canh giữ thì cũng
thế, mà dò xét ngầm thì cũng chỉ có thế. Nó không thể biết được anh
đang làm gì, cái anh làm là ở chỗ nào kia! Cô biết ở đâu không? (Cô
gái cười chỉ vào đầu Nguyễn Trãi). Cô giỏi lắm! Ở trong này thì nó
làm thế nào trông thấy được! Có chặt cái này, đem bổ ra, cũng
không trông thấy được [59, tr 382].
Vào vở diễn, nhân vật Nguyễn Trãi chỉ vào đầu nói “Cái đầu Trãi này
nghĩ gì thì lũ giặc ở trong thành Đông Quan kia biết sao được?" Theo nhà sử
học Trần Quốc Vượng, "chỉ đến đời bố tôi theo Tây học mới nói "nghĩ bằng
đầu" còn ở đời ông bà cụ kỵ tôi chỉ nói "nghĩ bụng", "định bụng", không
"bụng" thì "dạ", thì "lòng"... " [74, tr 234]. Tác giả đã hiện đại hóa cách tư duy,
ngôn ngữ của nhân vật lịch sử, làm ảnh hưởng đến sự chân thực của hình tượng
nhân vật lịch sử.
Như vậy, quá trình sáng tạo, hiện thực hóa ngôn ngữ nhân vật lịch sử
trong tác phẩm đòi hỏi nhà viết kịch phải phát huy không những kinh nghiệm,
vốn sống, năng khiếu văn học mà còn cả kiến thức lịch sử. Bên cạnh việc cố
gắng tôn trọng tinh thần của lịch sử, các tác giả không thể không chú ý đến
dấu ấn của cuộc sống hôm nay về tiết tấu, ngữ điệu, cách diễn đạt… trong
ngôn ngữ nhân vật lịch sử. Làm sao để một Lý Chiêu Hoàng, một Trần Thủ
Độ, một Lê Tương Dực, một Trịnh Duy Sản... dù có sử dụng ngôn ngữ quá
khứ như trẫm, kẻ hạ thần, tướng quân, tiểu nhân, quân tử... thì khán giả hôm
118
nay vẫn có thể chia sẻ được. Bằng khả năng sáng tạo của mình, các tác giả
hiện đại đã hiện thực hóa ngôn ngữ của những nhân vật đã thuộc về lịch sử,
biến những cái vô hình trở thành hữu hình để khán giả hôm nay có thể nghe
thấy, cảm nhận được. Có thể nói rằng, ngôn ngữ của nhân vật lịch sử trong tác
phẩm hoàn toàn là sản phẩm của trí tuệ hiện đại, con người hiện đại và nhân
vật lịch sử hiển nhiên sẽ mang một tinh thần hiện đại. Sáng tạo ngôn ngữ nhân
vật lịch sử là tác giả đã thực hóa những ngôn ngữ đã vĩnh viễn thuộc về lịch
sử, mang đến nhân vật một tinh thần hiện đại để nhân vật được sống với khán
giả hôm nay.
3.4. Hư cấu nhân vật không có trong lịch sử
Trong mỗi tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử, bên cạnh nhân vật lịch
sử bao giờ cũng có những nhân vật không có thực, chưa từng xuất hiện trong
lịch sử đã được nhà viết kịch hư cấu, sáng tạo để làm phong phú thêm đời
sống trong tác phẩm và hiện thực hóa những ý đồ sáng tạo của mình. Tùy theo
mục đích sáng tạo của mỗi tác giả mà nhân vật hư cấu trong tác phẩm có
những vai trò khác nhau. Có tác giả chỉ sử dụng nhân vật hư cấu vào những vị
trí như người hầu, lính canh, thị nữ… là những nhân vật tình tiết, nhân vật
phụ, ít có ảnh hưởng đến nhân vật lịch sử và đời sống trong tác phẩm. Có tác
giả hư cấu nên những nhân vật có tính cách, số phận, là một phần đời sống
của nhân vật lịch sử, thậm chí có những nhân vật hư cấu còn là hiện thân của
chính tác giả.
Cho dù chưa từng tồn tại trong lịch sử, nhưng nhân vật hư cấu phải
thực sự trở thành một bộ phận hữu cơ của đời sống lịch sử trong tác phẩm thì
sáng tạo của tác giả mới hợp lý và thuyết phục. Sự hợp lý và thuyết phục ở
đây chính là những sáng tạo phù hợp với bối cảnh lịch sử, điều kiện, hoàn
cảnh sống và tính cách của nhân vật lịch sử, đồng thời, tuân thủ mọi quy định
về phong tục, luật tục, văn hóa ứng xử, giao tiếp, điều kiện sống... của giai
119
đoạn lịch sử đó. Hoàn toàn là sản phẩm của trí tưởng tượng, nhưng nhân vật
hư cấu lại hiện diện bên cạnh nhân vật lịch sử, trở thành một phần đời sống
của nhân vật lịch sử nên nó không thể đứng ngoài đời sống của nhân vật lịch
sử. Do đó, điều mà các nhà viết kịch hiện đại cần quan tâm chính là việc
mang đến cho nhân vật hư cấu một thân phận lịch sử phù hợp. Tuy nhiên, vì
không có sẵn “nguyên mẫu” trong lịch sử nên nhân vật hư cấu luôn là những
khoảng mở trong sáng tạo về đề tài lịch sử. Trong chừng mực nào đó, nhà viết
kịch hiện đại được tự do hơn trong phán đoán và suy tưởng, đồng thời dễ
dàng gửi gắm nhiều quan điểm, tư tưởng sáng tạo của mình. Nhân vật hư cấu
là sản phẩm của con người hiện đại nên bao giờ cũng mang đậm dấu ấn của
đời sống hiện đại. Trong nhiều tác phẩm kịch nói Việt Nam về đề tài lịch sử,
có những nhân vật hư cấu đã để lại dấu ấn đậm nét không kém các nhân vật
lịch sử như Cúc, Xuyên, Thảo (Rừng trúc), Đan Thiềm (Vũ Như Tô).
Cúc - người con gái lái đò, hẳn là nhan sắc phải tươi tắn lắm nên chỉ
vừa mới thấy cô, Nguyễn Trãi đã thốt lên: “Ai đâu như vầng sáng giữa nơi
tang thương. Hay là hồn hoa đỗ quyên đang hiện lên trước mắt ta” [59, tr
341]. Loài hoa mang vẻ đẹp dịu dàng, nữ tính đã được thi nhân liên tưởng
ngay tới vẻ đẹp và thần thái khác thường của người con gái. Là người lái đò,
nhưng việc chính của Cúc trong kịch lại chẳng phải để lái đò. Cô đã theo sát,
giúp đỡ Nguyễn Trãi rất nhiều từ khi ông quyết định ở lại bãi sông đó nung
nấu tìm một lối ra cho dân tộc. Người con gái tần tảo đã giúp đỡ Nguyễn Trãi
cả về vật chất và tinh thần, khi thì thúng gạo nếp, khi là những tin tức quý giá,
lúc nối lại những quan hệ mà ông bị thất lạc, khi đưa những người cùng chí
hướng đến với ông... Cúc chính là người cầm bơi chèo, cùng người thợ rèn
đứng dưới gốc đa canh chừng cho một cuộc gặp gỡ đưa đến quyết định lịch sử
của Nguyễn Trãi: Vào Lam Sơn.
120
Là một nhân vật hư cấu, nhưng Cúc lại có vai trò vô cùng quan trọng
đối với nhân vật Nguyễn Trãi và với cả nhà văn Nguyễn Đình Thi. Cô chính
là hình tượng nhân vật để nhà văn cụ thể hoá tư tưởng lấy dân làm gốc của
Nguyễn Trãi. Cúc là hình ảnh của người dân lao động, những người lao động
bần hàn cơ cực, nhưng luôn có tâm hồn trong sáng và một nhiệt tình cách
mạng sôi nổi. Cúc cũng chính là nhân dân, là vị trí của nhân dân lao động
trong sách lược dùng binh, trong tư tưởng chính trị, quân sự của Nguyễn Trãi.
Nhân vật Nguyễn Trãi trong tác phẩm đã thừa nhận rằng: “Cô hiểu cả mọi
điều. Dân ta đã thấy tất cả, hiểu tất cả! Chỉ có những kẻ tôn quý đã lâu quá
mải ăn chơi, rồi xâu xé nhau trong cung đình, không còn biết gì đến nỗi khốn
khổ, loạn lạc của dân” [59, tr 343].
Dưới góc nhìn của một nhà văn hiện đại, lịch sử năm xưa cũng trở nên
gần gũi với những nhân vật không xa lạ với đời thường. Nhân vật Cúc dẫu có
hiện thực hóa nhiều khát vọng, tư tưởng chính trị, quân sự của Nguyễn Trãi
thì vẫn không xa rời bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam kiên trung,
bất khuất tự bao đời. Là nhân vật quan trọng trong bối cảnh lịch sử của tác
phẩm và diễn tiến của hành động kịch nhưng Cúc còn là những tình cảm tươi
mới, là một lời hứa hẹn, một tình yêu mà người trai mang chí lớn gửi lại Đông
Quan khi ông lên đường. Có thể nói rằng, nhân vật Cúc vừa xứng đáng là một
phần hợp lý của đời sống lịch sử trong tác phẩm, vừa mang nhiều dấu ấn của
cuộc sống hiện đại. Sự thông minh, nhanh trí, ứng đối khéo léo của cô dù có
vượt hơn so với người phụ nữ ở thế kỷ XIV, XV thì vẫn mang đến cho khán
giả hôm nay những cảm nhận tích cực. Nhà văn Nguyễn Đình Thi đã bằng
những sáng tạo của mình nối gần khoảng cách giữa lịch sử và hiện tại, giúp
con người hiện đại khám phá, cảm nhận lịch sử theo cách gần gũi nhất.
Bên cạnh Cúc là Ngọc Xuyên - cô đào hát, người con gái tài năng, dũng
cảm, hằng ngày đi hát rong kiếm sống đã vào tận hang ổ của bộ máy chính
121
quyền ngoại xâm, thu thập những tin tức quan trọng để báo cho Nguyễn Trãi.
Phận nữ nhi chân yếu tay mềm ấy không hề biết run sợ trước kẻ thù, sẵn sàng
nói thẳng, nói thật cho dù bị đe dọa, đánh đập. Ngọc Xuyên mang bản lĩnh và
sự khí khái, thẳng thắn của một nhân cách nghệ sĩ. Cô đã chọn cách sống luôn
ngẩng cao đầu, không xu phụ, nịnh hót và không làm ngơ trước cái ác. Tiếng
hát của Ngọc Xuyên cũng chính là tiếng lòng của nhân dân lao động nghèo
hướng thẳng tới kẻ thù xâm lược và những kẻ chỉ điểm, bán nước.
Cùng với Ngọc Xuyên là Bích Thảo - cô gái câm mồ côi cả cha lẫn mẹ
đã được Nguyễn Trãi nhận làm em gái nuôi. Nếu như hạnh phúc bình dị nhất
của con người là được nói ra những điều mình nghĩ thì với Bích Thảo đó là
điều xa xỉ. Có lúc, cô thèm chỉ muốn kêu được như con dế. Tuy nhiên, người
con gái câm này lại có một nghị lực sống phi thường. Cô đã dùng điệu múa
của mình cùng với tiếng hát của Ngọc Xuyên đi khắp nơi kiếm sống và bí mật
mang những tin tức quan trọng về cho Nguyễn Trãi. Dù không nói được
nhưng Bích Thảo lại là nhân vật chất chứa rất nhiều tâm sự, có lẽ, cô còn là sự
phân thân của nhân vật Nguyễn Trãi. 10 năm nơi Đông Quan, 10 năm lặng lẽ
như cái bóng, Nguyễn Trãi cũng chẳng khác Bích Thảo, ông không thể lên
tiếng trước sự kiểm soát gắt gao của quân Minh. Cái chết của Thảo giống như
một sự lột xác, ngộ ra của Nguyễn Trãi, đánh thức ông phải vượt lên hoàn
cảnh để sống thật sự là mình. Cái chết ấy đã khiến Nguyễn Trãi mất thăng
bằng, đau đớn: “Đây là chỗ nào vậy? Cõi sống ở đâu? Cõi chết ở đâu?... Máu
người đã thành sông, nước mắt người bốn bề như biển sóng, cứ như vậy đến
bao giờ...” [59, tr 423] và ngay sau đó, ông quyết định lên đường vào Lam
Sơn để gặp gỡ Lê Lợi.
Cúc, Xuyên, Thảo là ba nhân vật hư cấu trong kịch, nhưng lại có vai trò
rất quan trọng trong những ngày Nguyễn Trãi ở Đông Quan. Có thể nói, đó là
những sáng tạo rất táo bạo của nhà văn Nguyễn Đình Thi, bởi những nhân vật
122
này đều liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân vật lịch sử. Ba nhân vật nữ
với ba tính cách, số phận khác nhau đã giúp nhà văn cụ thể hóa những suy
nghĩ, việc làm của nhân vật lịch sử trong những ngày tháng mà sử chỉ chép
rằng ông bị giam lỏng ở Đông Quan. Cho dù được sáng tạo hợp lý trong mối
quan hệ với những nhân vật lịch sử khác như Trần Nguyên Hãn, Vũ Mộng
Nguyên, Lê Cảnh Tuân, Hoàng Phúc, Nguyễn Đại, Bùi Bá Kỳ, Trương Phụ…
nhưng những nhân vật này thực sự là sản phẩm của trí tưởng tượng mà con
người hiện đại đã “thêm” vào lịch sử. Sự “thêm” này không những tạo nên sự
mới mẻ, hấp dẫn cho một câu chuyện cũ mà còn không làm thay đổi bản chất
của lịch sử.
Nhà văn Nguyễn Đình Thi thường sử dụng nhân vật hư cấu cho những
bước ngoặt quan trọng trong kịch như Nguyễn Trãi lên đường vào Lam Sơn
hay Trần Cảnh trở lại hoàng cung... Trong Rừng trúc, chuyến rời bỏ hoàng
cung lên Yên Tử của Trần Cảnh đã là cơ hội để nhà vua được gặp gỡ những
người lao động bình thường như ông cụ say, bà chủ quán, bà áo chàm… tại
một hàng cơm nghèo bên đường. Tình cảm chân thật giữa những người dân
nghèo đã khiến cho người đến từ chốn cung đình phải động lòng suy nghĩ.
Đặc biệc, lời nói của ông cụ say đã khiến Trần Cảnh vỡ ra rất nhiều điều:
“Anh em nhà vua ta sao mà lại không biết bảo nhau cho yên… Làm gì thế nào
thì làm, đừng có quên cái bóng lạ nó thập thò ở ngoài hàng rào rồi đấy” [59, tr
313, 317]. Những lời nói chân thành, mộc mạc của người dân quê đã khiến
đấng quân vương ngộ ra rằng: “Còn phải đi tìm Phật ở rừng trúc nào! Muôn
loài chúng sinh ở đâu mà ra?” [59, tr 321]. Và Trần Thái Tông đã trở về triều
đình với tâm niệm: Phật ở trong Tâm, sao phải đi tìm Phật ở đâu xa nữa. Nhà
văn Nguyễn Đình Thi đã qua những nhân vật hư cấu này gửi gắm tư tưởng
nhập thế trong đạo Phật, điều mà sau này đã được vua Trần Thái Tông giác
ngộ sâu sắc trong suốt cuộc đời của mình.
123
Người thị nữ già theo hầu Chiêu Thánh trong Rừng trúc cũng là một nhân
vật hư cấu thành công của nhà văn Nguyễn Đình Thi. Tuy là một người hầu,
nhưng bà lại am hiểu nhân tình thế thái. Sự từng trải của bà đã trở thành chỗ dựa
tinh thần tin cậy cho người phụ nữ đang phải đối diện với quá nhiều sóng gió của
cuộc đời. Lịch sử không ghi lại ai đã ở bên Chiêu Thánh giữa những ngày tháng
khó khăn đó, nhưng nhà văn Nguyễn Đình Thi đã mang đến cho Chiêu Thánh
một người bạn lớn tuổi, đức độ, hiểu biết và đáng tin cậy. Những lời an ủi, động
viên của bà đã giúp Chiêu Thánh vững vàng hơn: “Đã làm người, có ai qua được
gánh nặng khổ ải cõi trần thế” [59, tr 257]. Những câu thơ của Tổ Vạn Hạnh bà
đọc, đã trấn an tinh thần cho Chiêu Thánh: “Thân như bóng chớp, có rồi
không/Cây cối xuân tươi, thu não nùng/Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi/Kìa kìa
ngọn cỏ giọt sương đông” [59, tr 258]. Người thị nữ đã ở bên cạnh chăm lo cho
Chiêu Thánh từ lúc nàng còn ở hoàng cung cho đến khi ra ở căn nhà ven Hồ
Tây. 20 năm sau những biến cố xảy ra ở triều đình, tóc đã ngả màu sương, người
thị nữ vẫn ngày ngày săn sóc, lo lắng cho Chiêu Thánh. Khi gặp lại tướng quân
Lê Tần, chính bà là người mở lời: “Chắc ông có lòng mến công chúa tôi?” [59,
tr 332]. Sự ý nhị của người thị nữ già đã khiến người tướng quân bao năm xông
pha trận mạc có phần bối rối, tuy nhiên, nếu không có những lời chân thật ấy, cả
Lê Tần và Chiêu Thánh đều rất khó có thể chủ động đến với nhau. Lịch sử đã
viết rằng mối lương duyên này là do Trần Thái Tông ban tặng Lê Phụ Trần khi
ông chiến thắng quân Nguyên Mông trở về. Nhà văn Nguyễn Đình Thi lại né
tránh sự thật này và để cho Lê Tần đến với Chiêu Thánh một cách đời hơn,
người hơn. Sự thu xếp của nhà văn để cho người thị nữ già chủ động lên tiếng
kết nối tình cảm giữa Chiêu Thánh và Lê Tần là hoàn toàn có lý, bởi ngay từ đầu
ông đã khắc họa một Trần Cảnh hiểu biết và sống có nghĩa, có tình. Một con
người như vậy không dễ gì có thể làm những việc gây tổn thương đến người vợ
cũ. Nhân vật hư cấu này dù không có tên tuổi cụ thể nhưng đã giúp nhà văn hiện
124
thực hóa mục đích sáng tạo, mang đến tác phẩm một cái nhìn nhân bản hơn về
con người và cuộc đời.
Cũng như nhiều nhà viết kịch khác, nhà văn Nguyễn Đình Thi đã hư cấu
nhiều nhân vật không có trong lịch sử để hiện thực hóa ý đồ sáng tạo của mình.
Qua những nhân vật hư cấu, nhà văn đã thể hiện quan điểm, cách nhìn của mình
về lịch sử, ông đã thổi một luồng gió mới vào những chất liệu lịch sử xưa cũ,
đưa câu chuyện lịch sử năm xưa tới gần hơn với khán giả hôm nay. Điều đặc
biệt, là hầu hết những nhân vật hư cấu trong kịch Nguyễn Đình Thi đều xuất
thân từ tầng lớp lao động và đại diện cho nhân dân lao động. Nhà văn quan
niệm rằng, dù viết về lịch sử ở triều đại nào, thì vai trò của quần chúng nhân
dân cũng phải được đặt ở vị trí xứng đáng, phải nêu được vai trò của họ trong
mọi binh biến lịch sử: “Nhà văn hiện đại cần phải có quan điểm mới về lịch
sử, dù là viết về các truyện cung đình ở các triều đại cũng cần phải nêu được
vai trò của nhân dân… Trong vở Rừng trúc, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, dù
viết về tầng lớp trên, vẫn thấy vai trò của người dân tác động đến những
người cầm quyền” [44, tr 8].
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng trong tác phẩm Vũ Như Tô đã hư cấu
thành công nhân vật Đan Thiềm, tạo nên một tri âm tri kỷ bên cạnh người
kiến trúc sư tài hoa Vũ Như Tô. Được khắc họa là một người cung nữ thất
sủng, vùi tuổi xuân ở chốn cung đình, nên sự xuất hiện của Đan Thiềm bên
cạnh Vũ Như Tô là hoàn toàn hợp lý. Một kiến trúc sư có tài, giám nuôi mộng
lớn lại gặp được một người biết trọng tài nên Đan Thiềm giống như cơn gió lạ
thổi bùng lên khát vọng mãnh liệt vốn đã âm ỷ cháy trong Vũ Như Tô. Nhiều
nhà nghiên cứu đánh giá Đan Thiềm thực chất là sự phân thân của kiến trúc
sư tài năng họ Vũ mà thôi. Nhờ có Đan Thiềm, một chiều sâu nội tâm, một
phương diện tư tưởng khác của Vũ Như Tô được bộc lộ, mà nói rộng hơn nữa,
cả hai nhân vật này đều chính là hình bóng của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng.
125
Sâu thẳm trong Vũ Như Tô là một bản năng nghệ sĩ luôn thôi thúc sự
sáng tạo và cống hiến, nhưng thực tế cuộc sống phũ phàng đã vùi dập những
khao khát chính đáng đó. Nhờ có Đan Thiềm, một người "đồng bệnh" đã biết
cách chạm đúng vào lòng tự trọng kẻ sĩ, giúp người nghệ sĩ biến hoàn cảnh tai
họa thành cơ hội để để lại một công trình tranh tinh xảo với hóa công và còn
lại về muôn đời. Đan Thiềm chính là khát vọng sáng tạo của Vũ Như Tô.
Những tiếng kêu thảng thốt của Như Tô khi Cửu Trùng Đài bị đốt đã chứng
minh điều đó: “Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!”... Đan
Thiềm, mộng lớn và Cửu Trùng Đài… những khát vọng đẹp đẽ, cao cả cuối
cùng đã rời bỏ Vũ Như Tô thì cái chết đến với ông là tất yếu!
Qua các tác phẩm kịch về đề tài lịch sử, nhà viết kịch không chỉ phản
ánh một thời kỳ lịch sử đã qua, mà còn muốn đối thoại với đương thời. Từ
tâm thế của thời đại mình, nhà viết kịch hiện đại nào cũng “làm mới” lịch sử
bằng quan điểm, nhận thức của mình, trong đó có việc hư cấu nên những nhân
vật không có trong lịch sử. Sự xuất hiện của nhân vật hư cấu bên cạnh những
nhân vật lịch sử đã khiến cho đời sống lịch sử trong tác phẩm trở nên sinh
động, tươi mới, gần gũi với đương thời. Qua mỗi nhân vật, nhà viết kịch hiện
đại đều có thể gửi gắm những quan điểm, tư tưởng của mình về lịch sử và về
cuộc sống đương thời. Trong một số tác phẩm, nhân vật hư cấu còn là sự ẩn
mình kín đáo của nhân vật lịch sử, thậm chí là của tác giả khi những ràng
buộc của nguyên tắc chân thực lịch sử đã khiến họ không thể gửi gắm ở nhân
vật lịch sử. Cho dù xuất hiện trong tác phẩm với những vị trí, vai trò khác
nhau, nhưng nhân vật hư cấu luôn mang đầy dấu ấn của nhà viết kịch, của con
người hiện đại.
Khi tái hiện nhân vật lịch sử trong tác phẩm, bao giờ nhà viết kịch cũng
muốn thông qua đó để bày tỏ cảm xúc, quan điểm của mình về lịch sử và gửi
gắm một thông điệp nào đó cho đời sống đương thời. Mục đích này đã chi
126
phối đến cách tiếp cận, sáng tạo nhân vật lịch sử trong tác phẩm. Có nhà viết
kịch vì quá chú trọng đến việc đi tìm trong quá khứ những bài học cho hiện
tại, đã lý tưởng hóa nhân vật lịch sử, biến nhân vật thành những tấm gương
cho đời sau. Thái hậu Dương Vân Nga, Nguyên phi Ỷ Lan trong một số tác
phẩm đã từng bị biến thành những nữ anh hùng ngang tầm với bà Trưng, bà
Triệu để thỏa mãn mục đích lý tưởng hóa, biểu tượng hóa nhân vật của nhà
viết kịch. Ngược lại, một số nhà viết kịch đã tầm thường hóa nhân vật lịch sử,
hư cấu những điều không liên quan tới nhân vật, phủ định những giá trị đã
được xác lập trong quá khứ, hạ bệ những anh hùng, danh nhân… đi ngược lại
nhận thức của cộng đồng về nhân vật lịch sử. Nhà viết chèo Tào Mạt khi viết
bộ ba chèo lịch sử Bài ca giữ nước đã hư cấu nhân vật Lê Văn Thịnh trở
thành kẻ lập mưu giết vua, gây ra cuộc tranh luận gay gắt giữa các nghệ sĩ và
các nhà sử học, thậm chí còn ảnh hưởng lớn đến gia đình vị thái sư này. Một
số nhà viết kịch đã hiện đại hóa nhân vật lịch sử bằng những quan điểm, cách
nhìn quá mới mẻ của mình. Nhân vật Chiêu Thánh trong tác phẩm Rừng trúc
của nhà văn Nguyễn Đình Thi là một trong những hình tượng sân khấu để lại
dấu ấn đậm nét trong khán giả đương thời, nhưng sự lý trí và tỉnh táo của
nàng cũng để lại không ít những băn khoăn. Liệu rằng, một người con gái mới
qua tuổi 20, sau rất nhiều mất mát vẫn có thể cao thượng như vậy? Và hẳn
nhiên, đây là nàng Chiêu Thánh của Nguyễn Đình Thi, một nhà văn của thế
kỷ XX đã gửi vào đó cách nghĩ, cách làm của con người hiện đại, sự bao dung
của con người hiện đại.
Có thể nói rằng, sự hiện diện của nhân vật lịch sử trên sân khấu hôm
nay chính là sản phẩm sáng tạo của con người hôm nay về lịch sử. Tuy nhiên,
nhà viết kịch dù có cố gắng lắm cũng chỉ hiểu được một phần rất nhỏ bé của
lịch sử và cảm xúc trước lịch sử cũng không giống nhau ở mỗi người. Vì thế,
mỗi kết quả sáng tạo có thể chỉ là một giả thiết của tác giả về nhân vật lịch sử
127
mà thôi. Nhà viết kịch sáng tạo nhân vật theo sự mách bảo của cảm xúc, lý trí
và kiến thức của mình về lịch sử. Hình tượng nhân vật lịch sử trong tác phẩm
hiển nhiên sẽ không thể đồng nhất hoàn toàn với nhân vật có thật trong lịch
sử. Sáng tạo nhân vật lịch sử cũng không phải là việc giải toán để đi tìm sự
phân định đúng sai bằng một công thức chung, sẵn có. Nghệ thuật vốn dĩ tôn
vinh cái đẹp trong đa dạng, phong phú, nếu mọi sáng tạo đều phải giống như
nguyên mẫu thì đâu còn gì để ngẫm, còn gì để xem? Lịch sử và nghệ thuật
đều có sứ mệnh của riêng mình. Dẫu nghệ thuật có lấy các nhân vật lịch sử
làm nguyên mẫu thì cũng không vì thế mà áp đặt những nguyên tắc của khoa
học sử lên sáng tạo nghệ thuật.
Tất nhiên, để đạt được mục đích sáng tạo, nhà viết kịch phải đặt mình
trước trách nhiệm khai thác, tìm hiểu lịch sử, đặt mình bình đẳng với nhà sử
học trên hành trình khám phá lịch sử. Khi đã thực sự giải mã được lịch sử,
nắm bắt được bản chất của lịch sử và nhân vật lịch sử, nhà viết kịch sẽ biết
cách định hướng những sáng tạo của mình và bảo vệ thành quả sáng tạo ấy
trước những quan điểm trái chiều. Nhà viết kịch không làm nhiệm vụ chép sử
trên sàn diễn, nên không thể áp đặt những tiêu chí của khoa học sử lên tác
phẩm nghệ thuật. Tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử là kết quả của những tìm
tòi, khám phá, lý giải lịch sử bằng cảm quan của người nghệ sĩ hôm nay, chứ
không phải việc bắt chước, minh họa lịch sử. Kết quả của sáng tạo nghệ thuật
là cái có lý, cái có thể tin là thật chứ không phải cái giống như thật. Nếu như
truy cầu sự giống như thật hay lấy sự giống như thật ra để đánh giá, quy kết
những sáng tạo thì không công bằng với tác phẩm nghệ thuật.
Tiểu kết
Bằng quá trình tiếp cận và sáng tạo nhân vật lịch sử, nhà viết kịch đã
gửi vào tác phẩm những cảm nhận, lý giải của con người hôm nay về lịch sử.
Nếu từ những gợi ý của lịch sử, nhà viết kịch giải mã đúng tính cách nhân vật,
128
đặt nó trong hệ quy chiếu của quan điểm hôm nay, dẫn giải hợp lý đến số
phận đã được mặc định trong lịch sử thì sáng tạo đó sẽ kế thừa được tinh thần
của nhân vật lịch sử và đưa nhân vật trở về với đời sống đương đại. Tuy nhiên,
có những tác giả kết nối được sáng tạo của mình với lịch sử và cả hiện tại, định
hình rõ nét tính cách những nhân vật vốn chỉ tồn tại trong lịch sử như những
mô hình, đồng thời mang đến cho nó một đời sống đúng nghĩa. Có tác giả lý
tưởng hóa, hiện đại hóa nhân vật một cách khiên cưỡng vì mục đích chuyển tải
thông điệp cho cuộc sống đương đại. Có người bóp méo, tầm thường hóa nhân
vật lịch sử từ những hạn chế trong nhận thức, đánh giá lịch sử.
Sáng tạo, hiện thực hóa ngôn ngữ nhân vật lịch sử là thách thức lớn
nhất trong quá trình xây dựng nhân vật lịch sử của nhà viết kịch. Nếu nhà viết
kịch biết ẩn mình ở phía sau nhân vật thì ngôn ngữ nhân vật đạt tới sự khách
quan, hợp lý. Nếu tác giả nôn nóng bộc lộ quan điểm, tư tưởng của mình thì
ngôn ngữ nhân vật thiếu chân thực, trở thành cái loa phát ngôn cho tác giả.
Bên cạnh việc sáng tạo nhân vật lịch sử thì hư cấu những nhân vật
không có trong lịch sử cũng đóng một vai trò rất quan trọng đối với tác phẩm
kịch nói về đề tài lịch sử. Nhân vật hư cấu đã mang lại sự phong phú cho đời
sống nhân vật lịch sử, đồng thời, giúp tác giả chuyển tải nhiều ý đồ sáng tạo,
thông điệp sáng tạo tới đương thời.
Đối với sáng tạo nhân vật lịch sử, việc định hình tính cách, lý giải số
phận, sáng tạo ngôn ngữ hay thể hiện nhân vật trên sân khấu đều thể hiện rõ
bản ngã sáng tạo của tác giả và giúp tác giả mang đến cách tiếp cận, cách nhìn
mới đối với nhân vật lịch sử. Khi sáng tạo nhân vật lịch sử, người nghệ sĩ bao
giờ cũng đứng trước những ranh giới không thể bước qua, đó là logic lịch sử
và bản chất của lịch sử. Tuy nhiên, nghệ thuật có sứ mệnh riêng và có cái lý
tồn tại của riêng mình, người nghệ sĩ cần có bản lĩnh, niềm tin trong sáng tạo
để mang lại những giá trị nghệ thuật đích thực cho công chúng.
129
KẾT LUẬN
1. Tính hiện đại là một phẩm chất của tác phẩm văn học nghệ thuật nói
chung và sân khấu nói riêng, phản ánh đúng tinh thần thời đại, đi cùng với xu
thế phát triển của thời đại. Tác phẩm văn học nghệ thuật mang tính hiện đại
khi nó đi vào phản ánh những vấn đề mà mọi người trong mọi xã hội, mọi dân
tộc đều quan tâm; khi người sáng tạo đứng trên quan điểm, cách nhìn nhận,
đánh giá tiến bộ để phản ánh hiện thực (cả trong hiện tại và quá khứ), lý giải
nó bằng cảm quan hôm nay và gắn kết quả sáng tạo với lợi ích của con người
hiện đại.
Tính hiện đại trong tác phẩm sân khấu chính là sự mới mẻ, nhạy bén
trong khả năng khám phá, phát hiện hiện thực; sự luận giải tinh tế, sâu sắc
hiện thực được phản ánh trong tác phẩm với một quan điểm mới, tiến bộ,
khoa học và nhân văn; sản phẩm sáng tạo phải đề cập đến những vấn đề mà
con người, xã hội đương thời quan tâm, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn
cho con người.
Một tác phẩm sân khấu có tính hiện đại cần phải đạt tới những tiêu chí:
Phát hiện, tiếp cận, phản ánh những vấn đề đang là mối quan tâm chung của
con người, xã hội; Lý giải những vấn đề được phản ánh bằng quan điểm mới,
tiến bộ, khoa học, nhân văn; Tác phẩm mang được tinh thần thời đại của đối
tượng phản ánh, của người sáng tác và có sự kết nối tinh tế với những vấn đề
mà xã hội đương đại quan tâm; Tác phẩm được chuyển tải bằng một hình thức
và phương tiện nghệ thuật hiện đại, giàu tính biểu cảm, đáp ứng được nhu cầu
thưởng thức của khán giả đương thời.
Tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu đã được phần lớn các nhà hoạt
động sân khấu đồng nhất với tính đương đại, tính đương thời, tính thời đại với
mục đích diễn tả việc sáng tạo bằng quan điểm, tư duy hiện đại, hướng tới đời
sống đương đại của các tác phẩm sân khấu. Dưới góc độ nào đó, tính hiện đại
130
trong nghệ thuật sân khấu nói riêng và trong tác phẩm văn học nghệ thuật nói
chung đã bao hàm các giá trị của tính đương đại, tính thời đại, tính đương thời
và tính thời sự... Tuy nhiên, tính hiện đại đặc biệt chú trọng đến sự mới mẻ,
nhạy bén trong khả năng khám phá, phát hiện hiện thực và sự sâu sắc, tinh tế,
khoa học trong cách luận giải hiện thực được phản ánh trong tác phẩm.
2. Tác phẩm sân khấu về đề tài lịch sử lấy những sự kiện và nhân vật
có thật trong lịch sử làm đối tượng miêu tả. Khi đưa lịch sử trở về với hiện tại,
hiển nhiên người sáng tạo đã nhào nặn, làm mới lịch sử bằng quan điểm, nhận
thức của mình. Là sản phẩm của trí tuệ hiện đại nên tác phẩm sẽ mang hơi thở
hiện đại, tinh thần thời đại, cho dù tác giả có dụng ý hay không. Nói cách
khác, sự trở về của những nhân vật, sự kiện, câu chuyện lịch sử qua lăng kính
sáng tạo của người nghệ sĩ đương thời đã làm nên tính hiện đại cho tác phẩm.
Tính hiện đại trong tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử là một sự chi
phối tất yếu, nó sẽ bộc lộ rõ ràng nhất ở hai quy trình sáng tạo là tiếp cận, tái
hiện sự kiện lịch sử và tiếp cận, sáng tạo nhân vật lịch sử trong tác phẩm. Tác
phẩm kịch nói về đề tài lịch sử sẽ đạt được tính hiện đại khi ở cả hai quy trình
này người nghệ sĩ tiếp cận, lý giải lịch sử, thậm chí nhận thức, đánh giá lại
lịch sử bằng quan điểm tiến bộ, khoa học, nhân văn của hôm nay trên cơ sở
tôn trọng logic và tinh thần lịch sử, những vấn đề lịch sử được lựa chọn phải
chứa đựng mối quan tâm của con người thời đại, mang chở được tâm tư của
nhiều người và đối thoại được với đương thời. Sản phẩm sáng tạo mang được
tinh thần thời đại nhưng không xung đột với tâm thức của cộng đồng về các giá
trị lịch sử.
Tuy nhiên, không phải mọi tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử đều có thể
đạt được tiêu chí này, nhưng cũng không vì thế mà chúng ta phủ nhận nó
không có tính hiện đại. Bản thân việc đưa các vấn đề lịch sử trở lại trên sân
khấu hôm nay là người sáng tạo đã đưa tính hiện đại vào tác phẩm qua quan
131
điểm, mục đích sáng tạo của mình cho dù có ý thức hay vô thức. Tính hiện đại
do đó là sự chi phối tất yếu đến tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử mà bản thân
người sáng tạo cũng không thể nào né tránh. Bên cạnh việc mang lại sức hấp
dẫn cho tác phẩm, mang đến một cách nhìn mới từ những câu chuyện, sự kiện,
nhân vật lịch sử xưa cũ, tính hiện đại cũng có thể khiến cho hiện thực lịch sử
trong tác phẩm bị bóp méo, xuyên tạc khi người nghệ sĩ áp đặt cách nghĩ, cách
tư duy của con người hiện đại lên lịch sử.
3. Quá trình tiếp cận, tái hiện sự kiện lịch sử trong tác phẩm bằng cảm
quan sáng tạo của người nghệ sĩ hôm nay là tác giả đã trực tiếp hoặc gián tiếp
mang đến tính hiện đại cho tác phẩm. Tính hiện đại khi đó sẽ được thể hiện ra
trong khả năng phát hiện, lựa chọn những sự kiện lịch sử chứa đựng những
vấn đề được con người trong mọi xã hội, mọi thời đại quan tâm. Ở khả năng
tổ chức lại sự kiện lịch sử, hình thành một diện mạo lịch sử mới trong tác
phẩm, mang chở được quan điểm và khát vọng sáng tạo. Là khả năng phát
hiện, phát triển để nhân lên ý nghĩa của sự kiện lịch sử, lan tỏa nó tới đời sống
đương thời. Là sự tỉnh táo, bản lĩnh, khoa học khi nhận thức lại sự kiện lịch sử
để tiếp cận gần hơn tới bản chất của lịch sử và hiện thực hóa nó trên sân khấu
hôm nay. Tính hiện đại trong tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử còn được thể
hiện trong khả năng hư cấu hợp lý sự kiện lịch sử của nhà viết kịch. Nó thể
hiện ở những sáng tạo trên quan điểm mới mẻ, nhưng hợp lý, logic trong hoàn
cảnh lịch sử và hoàn cảnh được quy định trong tác phẩm.
Quá trình sáng tạo nhân vật lịch sử trong tác phẩm, nhà viết kịch đã gửi
vào đó những cảm nhận, đánh giá của con người hôm nay về lịch sử. Đối với
sáng tạo nhân vật lịch sử, việc định hình tính cách, lý giải số phận, sáng tạo
ngôn ngữ… đều thể hiện rõ ràng bản ngã sáng tạo của tác giả và giúp tác giả
mang đến cách tiếp cận, cách nhìn mới đối với nhân vật lịch sử. Khi sáng tạo
132
nhân vật lịch sử, người nghệ sĩ bao giờ cũng đứng trước những ranh giới không
thể bước qua, đó là logic lịch sử và bản chất của lịch sử.
4. Khi tìm đến với đề tài lịch sử, mỗi nghệ sĩ đều có lý do của riêng
mình, song tựu chung, họ đều gặp nhau ở chỗ, hoặc do sự thôi thúc của hiện
thực thời đại mình, hoặc chính lịch sử đã gợi mở những liên tưởng nào đó đến
vấn đề của ngày hôm nay. Và dù có dụng ý hay không, bao giờ người nghệ sĩ
cũng làm mới hiện thực lịch sử từ cách nhìn nhận, đánh giá lịch sử của mình.
Người nghệ sĩ không bao giờ có thể thoát ly khỏi môi trường, tâm thế, tinh
thần... của thời đại mình đang sống và sáng tạo. Khi sáng tác về đề tài lịch sử,
họ mặc nhiên được thừa hưởng những lợi thế và cả những hạn chế tự nhiên
mà thời đại mang lại. Đó là độ lùi về thời gian, giúp người nghệ sĩ có được cái
nhìn bao quát hơn, toàn diện hơn về lịch sử. Hơn nữa, môi trường sống hiện
đại với những tri thức mới mẻ mà thời đại đã tích lũy được sẽ giúp người
nghệ sĩ có được sự chiêm nghiệm sâu sắc hơn khi ngoái nhìn lại quá khứ. Đặc
biệt là sự cộng hưởng của tâm thế thời đại đã gợi mở, kích thích người nghệ sĩ
phát hiện ra những mối liên hệ sâu xa, những đồng vọng thiết tha giữa lịch sử
và hiện tại. Tất cả những điều này đều được cụ thể hóa trong mỗi sản phẩm
sáng tạo của người nghệ sĩ. Và ở tâm thế của thời đại mình, người nghệ sĩ đã
mang đến cách nhìn mới về lịch sử, sáng tạo theo sự mách bảo của những suy
cảm hôm nay khi nhìn về lịch sử. Vì thế, nếu như đồng nhất những vấn đề
được phản ánh trong tác phẩm nghệ thuật với hiện thực lịch sử được ghi chép
trong sử sách, lấy tiêu chí của khoa học sử để đánh giá tác phẩm là không
công bằng với lịch sử, cũng như không công bằng với tác phẩm nghệ thuật.
5. Từ những vấn đề nghiên cứu được đặt ra của luận án, chúng tôi xin
bày tỏ một vài quan điểm trong sáng tạo sân khấu về đề tài lịch sử.
Thứ nhất, sự cộng hưởng của tâm thế thời đại cùng với sự nhạy cảm
của bản thân đã khiến nhà viết kịch phát hiện ra mối liên hệ sâu xa giữa
133
những vấn đề của lịch sử và hiện tại, phát triển nó trong tác phẩm để đối thoại
với khán giả đương thời. Hầu hết các vấn đề của lịch sử đều có sự gắn bó nào
đó với hiện tại, ở phạm vi gần hoặc xa. Để đưa lịch sử ngày hôm qua trở về
với hiện tại một cách thực sự hữu ích, nhà viết kịch cần phát hiện và lựa chọn
trong lịch sử những vấn đề là mối quan tâm chung của con người thời đại.
Qua tác phẩm, những bài học, những kinh nghiệm của lịch sử cùng những
luận giải tích cực của tác giả trên quan điểm của ngày hôm nay sẽ gợi mở,
định hướng giúp khán giả đương đại hiểu hơn về lịch sử, đồng thời tháo gỡ
phần nào đó những bế tắc trong cuộc sống hiện thời, tiếp cận gần hơn tới lẽ
phải, sống hướng thiện và có ích hơn.
Để đạt tới hiệu quả đó, nhà viết kịch phải tiếp cận và lý giải lịch sử
bằng nhận thức và quan điểm khoa học, phát triển lịch sử trên cơ sở logic lịch
sử chứ không phải từ đòi hỏi của cuộc sống đương thời. Tuy nhiên, phải tạo
ra được sự kết nối tinh tế với hiện thực đương thời. Sự kiện và nhân vật lịch
sử trong tác phẩm phải được đặt trong mối quan hệ logic với thời đại của nó,
đồng thời, phải hợp lý trong sự lý giải bằng quan điểm của hôm nay.
Thứ hai, hư cấu sự kiện và nhân vật lịch sử để hoàn thiện đời sống lịch
sử trong tác phẩm là đòi hỏi tất yếu của sáng tác về đề tài lịch sử. Để những
hư cấu này hợp lý, có ích và không xung đột với lịch sử, nhà viết kịch nên hư
cấu những sự kiện, nhân vật mà lịch sử không ghi chép hoặc ghi chép vắn tắt.
Trong giới hạn này, người nghệ sĩ có thể phát huy tối đa khả năng sáng tạo
của mình, lấp đầy những khoảng trống mà các nhà viết sử không thể ghi chép
hết. Tuy nhiên, những sự kiện và nhân vật được hư cấu này phải được đặt trên
nền móng vững chắc của sự am hiểu lịch sử, tôn trọng logic và tinh thần lịch
sử, làm sao để chúng trở thành một bộ phận hữu cơ của đời sống lịch sử, hợp
lý trong hoàn cảnh lịch sử đó (cả trong hiện thực lịch sử và trong tác phẩm).
134
Thứ ba, mọi sáng tạo về tính cách, hoàn cảnh, số phận, ngôn ngữ…
nhân vật lịch sử đều phải tuân thủ nguyên tắc sáng tạo nhân vật kịch và hợp lý
trong bối cảnh của thể tài, thể loại kịch mà tác giả lựa chọn. Những sáng tạo
này vừa phải tiếp tục được bản chất của nhân vật lịch sử, vừa hoàn thiện về
đời sống tinh thần, vật chất của nhân vật lịch sử. Phía sau mỗi nhân vật lịch sử
luôn là bóng dáng của nhà viết kịch, tuy nhiên, nhà viết kịch không thể chi
phối thô bạo, áp đặt cách nghĩ, cách hành động của con người hiện đại lên
nhân vật lịch sử. Việc gửi gắm quan điểm, tư tưởng tác giả qua nhân vật lịch
sử phải được tiến hành cẩn trọng, tinh tế, tôn trọng sự tồn tại độc lập của nhân
vật lịch sử. Mọi sự can thiệp thô bạo, thiếu hợp lý đều biến nhân vật lịch sử
trở thành cái loa phát ngôn cho lập trường, quan điểm của nhà viết kịch.
Thứ tư, mọi sáng tạo của tác giả trong tác phẩm đều phải đặt trước
mục đích hiện thực hóa nó trên sàn diễn bằng nghệ thuật của đạo diễn và diễn
viên. Kịch là thể loại sân khấu diễn tả cuộc sống bằng hành động trong xung
đột, thông qua ngôn ngữ đối thoại, vì thế, những nguyên tắc của biên kịch sân
khấu về hành động, xung đột, ngôn ngữ, thể tài, thể loại… cần được tác giả
quan tâm, tôn trọng. Ngôn ngữ nhân vật trong kịch bản không dừng lại ở yếu
tố “đọc” hay “nghe” mà bao giờ cũng hướng tới mục đích “nghe, nhìn”, phục
vụ cho yêu cầu “nghe, nhìn” của nghệ thuật sân khấu. Mọi nỗ lực “làm mới”
diện mạo lịch sử, tìm kiếm sự kết nối giữa hiện thực lịch sử với hiện thực
đương đại của tác giả chỉ thực sự có hiệu quả khi đạo diễn đồng cảm được với
tác giả, tiếp tục được ý tưởng sáng tạo của tác giả và phát triển nó trên sân
khấu. Nếu như những ý tưởng mới, khoa học của tác giả không gặp được
quan điểm sáng tạo tiến bộ của đạo diễn thì tác phẩm sân khấu ấy cũng khó có
thể đạt được tính hiện đại.
Thứ năm, do đặc thù của đề tài nên tác phẩm kịch về đề tài lịch sử
luôn phải chịu sức ép của cả lịch sử và nghệ thuật. Sức ép về mặt lịch sử, là
135
sự chi phối của những nguyên tắc, tiêu chí về chân thực lịch sử trước mỗi
sáng tác về đề tài lịch sử. Dưới góc độ nào đó, những đòi hỏi này là chính
đáng, bởi lẽ, kịch nói đã lựa chọn một đề tài lấy sự kiện và nhân vật có thật
làm đối tượng miêu tả. Sức ép về mặt nghệ thuật, đó là sự tươi mới, hấp dẫn,
sự hoàn thiện và sức sống của mỗi hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm. Nếu
thiếu đi sự tươi mới, hấp dẫn, thiếu những hình tượng nghệ thuật có sức sống
thì tác phẩm nghệ thuật chưa thể được xem là thành công. Tuy nhiên, với tư
cách là tác phẩm nghệ thuật, kịch nói phải tuân thủ và đáp ứng tiêu chí của
một tác phẩm nghệ thuật mà không thể bị áp đặt bởi tiêu chí của khoa học sử.
Nghệ thuật xem trọng hư cấu, lấy hư cấu làm giá trị, sử học xem trọng
biên niên sự kiện, lấy sự thật làm giá trị. Trên thực tế, cả nghệ thuật và lịch sử
đều không thể thực hiện tôn chỉ này một cách toàn vẹn. Vì, cho dù có cố gắng
đến đâu thì sử học cũng không thể có được một cái nhìn khách quan, chân
thật tuyệt đối, bên cạnh dòng lịch sử thực tế khách quan bao giờ cũng tồn tại
dòng lịch sử nhận thức chủ quan của người đương thời, trong đó có người
chép sử. Dù nhà sử học có trình độ học vấn uyên thâm đến đâu, cũng không
thể khách quan hoàn toàn khi viết sử và bản thân khoa học sử cũng chưa thể
đạt đến sự khách quan tuyệt đối. Khái niệm "chân thật lịch sử" là lý tưởng,
thậm chí còn mang nhiều tính chủ quan thì tại sao lại áp đặt cho nghệ thuật -
một sản phẩm của trí tưởng tượng, sáng tạo phải đảm bảo sự "chân thật lịch
sử"?
Khoa học lịch sử đi tìm và dựng lại bộ mặt lịch sử như nó đã từng xảy
ra trong quá khứ theo trình tự thời gian, còn tác phẩm kịch nói về đề tài lịch
sử đi tìm những nét tiêu biểu, những hành động điển hình trong những hoàn
cảnh điển hình nhằm tái hiện con người và sự kiện lịch sử như nó có thể xảy
ra. Nhà sử học quan tâm đến sự đầy đủ, xác thực, cốt để mỗi sự kiện, nhân vật
tự nói lên ý nghĩa thì đối với người nghệ sĩ là sự sáng tạo ra những ý nghĩa
136
mới của sự kiện, nhân vật lịch sử. Khoa học lịch sử nhìn thấy những bài học
chính trị phía sau mỗi sự kiện lịch sử thì tác phẩm kịch gợi ý những bài học
có ý nghĩa nhân sinh. Nếu như công việc của nhà sử học có lúc đạt đến sự
hoàn tất thì công việc sáng tạo của người nghệ sĩ lại không cùng.
Lịch sử dù rộng lớn đến đâu, khi trở thành đề tài của kịch nói thì cũng
giống như bao đề tài khác, nó vẫn phải tuân thủ các đặc trưng, quy luật sáng
tạo của kịch nói. Nhân vật lịch sử khi đó sẽ trở thành nhân vật của kịch nói và
chịu sự chi phối của những nguyên tắc sáng tạo kịch nói. Dù có là anh hùng
hào kiệt, kinh bang tế thế thì nhân vật lịch sử vẫn phải do một nghệ sĩ thể hiện
và hiển nhiên nó sẽ mang những dấu ấn sáng tạo của cá nhân người nghệ sĩ
ấy. Tính chân thực ở đây chính là việc để người xem tin là thực, chứ không
phải giống như thực. Tiêu chí tin là thực chính là khoảng mở cho những sáng
tạo của người nghệ sỹ, tác phẩm hướng đến mục đích tái hiện cái tinh thần
lịch sử, tâm thức của lịch sử chứ không phải việc sao chép lịch sử. Tinh thần
và tâm thức của lịch sử là những điều có thể không được ghi chép trong sử
sách nhưng lại có thể xảy ra bởi mối liên hệ và sự vận động theo quy luật tất
yếu của nó.
Tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử không làm nhiệm vụ minh họa lịch
sử, cũng không phải là một bài học về luân lý đạo đức cũ. Các nghệ sĩ cũng
không ai đặt mục tiêu dạy sử bằng tác phẩm sân khấu. Thực chất của sáng tạo
kịch nói về đề tài lịch sử là khai thác hiện thực lịch sử theo một cách thức tiếp
cận mới, một cảm hứng mới trên nguyên tắc vừa tôn trọng lịch sử vừa tôn
trọng tính chân thực nghệ thuật. Sáng tạo ấy chuyển tải thông điệp của người
nghệ sĩ hướng tới người xem đương đại. Cũng giống như các loại hình nghệ
thuật khác, sân khấu kịch nói đề tài lịch sử có thể mang lại những bài học và
thực hiện chức năng giáo dục, tuy nhiên giáo dục thông qua tác phẩm kịch
không giống với việc dạy sử ở phổ thông mà bao giờ cũng thông qua các hình
137
tượng nghệ thuật, tuân thủ nguyên tắc của sáng tạo nghệ thuật. Nếu như lấy
tiêu chí phản ánh đúng "người thực việc thực" và lấy kiến thức trong sử sách
để cân đo những sáng tạo của người nghệ sĩ trong tác phẩm là đúng hay
không đúng với lịch sử thì sẽ không bao giờ tiếp cận được với giá trị đích
thực của tác phẩm.
Tác phẩm kịch nói về đề tài lịch sử là sản phẩm sáng tạo của cá nhân
người nghệ sĩ, cho dù có cố gắng đến đâu thì cũng không thể làm phép hồi
sinh đối với sự kiện và nhân vật lịch sử. Ngay cả khi người nghệ sỹ có may
mắn được sống cùng thời với sự kiện và nhân vật lịch sử nào đó thì cũng chỉ
tiệm cận đến sự thật nguyên mẫu của lịch sử mà thôi. Tác phẩm kịch về đề tài
lịch sử là hành trình tiếp tục chặng đường mà các sử gia dừng lại để tìm tòi,
tiên nghiệm một sự thật còn hơn cả sự thật được ghi trong sử sách, đó là sự
thật theo lòng người, theo lẽ đời mà con người ở mọi thời đại khác nhau đều
có thể đồng cảm, sẻ chia.
Với tác phẩm kịch nói đề tài lịch sử nói riêng và văn học nghệ thuật đề
tài lịch sử nói chung, khi nào nhà sử học ngừng bút thì người nghệ sĩ bắt đầu.
Sự bắt đầu ấy được sáng tạo trên nguyên tắc tuân thủ phẩm chất cốt lõi nhất
của lịch sử, đó là tinh thần của lịch sử, hồn cốt của lịch sử chứ không phải là
bản thân lịch sử và được kiểm soát bởi logic nghệ thuật và lịch sử. Để làm
được điều đó, người nghệ sĩ vừa phải có kiến thức uyên bác và phẩm chất
trung thực của nhà viết sử, đồng thời phải có tài năng của một nhà trần thuật
nghệ thuật. Nếu lựa chọn được cách tiếp cận đúng đắn, thì cũng giống như
các đề tài khác, đề tài lịch sử không hạn chế khả năng sáng tạo của người
nghệ sĩ.
138
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN(1)
1. Phạm Thị Hà (2014), “Tính hiện đại trong kịch đề tài lịch sử”, Tạp
chí Văn hóa nghệ thuật, số 363, tháng 9, tr 57-60.
2. Phạm Thị Hà (2014), “Chân thực lịch sử và chân thực nghệ thuật
trong kịch đề tài lịch sử”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 364, tháng 10, tr 72-
74, 84.
3. Phạm Việt Hà (2015), “Tính hiện đại trong tác phẩm sân khấu đề tài
lịch sử”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 368, tháng 2, tr 74-77.
4. Phạm Việt Hà (2015), “Tiếp cận, lý giải sự kiện lịch sử trong tác
phẩm kịch đề tài lịch sử”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 369, tháng 3, tr 78-
(1) Phạm Việt Hà là bút danh của Phạm Thị Hà
80.
139
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anhist A. (2003), Lý luận kịch từ Aristote đến Lessin, Tất Thắng dịch,
Nxb Văn học, Hà Nội.
2. Anhist A. (2007), Lý luận kịch ở phương Tây nửa cuối thế kỷ XIX, Tất
Thắng dịch, Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội, Hà Nội.
3. Aristote (2007), Nghệ thuật thi ca, Lê Đăng Bảng, Thành Thế Thái
Bình, Đỗ Xuân Hà, Thành Thế Yên Bảy dịch, Đoàn Tử Huyến
hiệu đính, Nxb Lao động, Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
5. BLốc B. (1970), Hệ thống Stanislavski và nghệ thuật biên kịch, Nguyễn
Thuỵ Ứng dịch, Hội Nghệ sĩ Sân Khấu Việt Nam, Hà Nội.
6. C. Mác-Ăng-ghen (1958), Về văn học nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội.
7. C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin (1997), Về văn học và nghệ thuật,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
8. Chu Trại (1962), Cuộc tranh luận về vấn đề kịch lịch sử, Thúc Cầu
dịch, Vụ Nghệ thuật Sân khấu.
9. Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng (2000), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
10. Song Cối (1942), "Tôi bào chữa cho Dương thái hậu", Tạp chí Tri Tân
số 41, tr 18-19.
11. Hoàng Chương (chủ biên) (2000), Hình tượng Quang Trung trên sân
khấu, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
12. Đàm Thị Vân Dung (2005), “Tính hiện đại trong tác phẩm Múa Việt
Nam”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 11, tr 70-73.
13. Hà Minh Đức (1995), Các Mác, Ăng-ghen, Lê-nin và một số vấn đề lý
luận văn nghệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
140
14. Trúc Đường (1962), Quang Trung, Nxb Văn học, Hà Nội.
15. Trúc Đường (1994), Tuyển tập kịch Trúc Đường, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
16. Gulaiep N.A. (1982), Lý luận văn học, Lê Ngọc Tân dịch, Nguyễn Đức
Nam hiệu đính, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
17. Hội đồng Lý luận, phê bình Văn học, nghệ thuật Trung ương (2013),
Sáng tạo văn học nghệ thuật về đề tài lịch sử, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
18. Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam (2012), Nghệ thuật sân khấu sáng tạo
về đề tài lịch sử, Tham luận Tọa đàm.
19. Đoàn Thị Hoa (2008), Nhân vật lịch sử trong kịch Rừng trúc của Nguyễn
Đình Thi, luận văn tốt nghiệp đại học, Trường ĐH Sân khấu Điện
ảnh Hà Nội.
20. Lê Ngọc Hùng (2005), “Lý thuyết phê phán và xã hội học về tính hiện
đại” Tạp chí Xã hội học, số 3 (91), tr 46-51.
21. Nguyễn Thị Thu Hiền (2009), “Tính hiện đại trong tác phẩm múa”,
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 302, tháng 8, tr 83-86.
22. Trịnh Quang Khanh (2009) “Tính dân tộc và tính hiện đại trong Chèo,
Tuồng, Rối nước, Cải lương”, Tạp chí Sân khấu, tháng 11, tr 2-4.
23. Phạm Duy Khuê (2013) “Sân khấu với đề tài lịch sử”, Tạp chí Sân
khấu, tháng 4, tr 16-17.
24. Lao-xơn G.H. (1997), Lý luận và kĩ xảo viết kịch, Hoàng Oánh dịch,
Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, Hà Nội.
25. Đinh Trọng Lạc (1998), 99 phương tiện và biện pháp tu từ Tiếng Việt,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
26. Ngô Phương Lan (2005), Tính hiện đại và tính dân tộc trong điện ảnh
Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin & Viện Văn hoá Thông tin,
Hà Nội.
141
27. Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam, Thành Thế Thái Bình (1988), Lý
luận văn học, Tập 3, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
28. Ngô Sĩ Liên (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Cao Huy Giu dịch,
Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
29. Ngô Sĩ Liên (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Cao Huy Giu dịch,
Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
30. Nguyễn Đức Lộc (1999), Chất thơ trong sân khấu, Viện Sân khấu-
Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội, Hà Nội.
31. Mao Thuẫn (1961), Kế thừa và phát triển truyền thống, Huy Liên dịch,
Viện Sân khấu, Hà Nội.
32. Nguyễn Nam (1969), Tìm hiểu nghệ thuật viết kịch, Vụ văn hoá quần
chúng, Hà Nội.
33. Cao Thị Xuân Ngọc (1990), Tính đương đại của đề tài lịch sử trên sân
khấu Việt Nam hiện đại, luận văn tốt nghiệp đại học, Trường
Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội.
34. Hồ Ngọc (1977), Xây dựng cốt truyện kịch, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
35. Hồ Ngọc (1973), Nghệ thuật viết kịch, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
36. Nhiều tác giả (2002), Vũ Như Tô tác phẩm và dư luận, Nxb Văn học,
Hà Nội.
37. Nhiều tác giả (1997), Sân khấu với đề tài lịch sử, Kỷ yếu hội thảo, Nxb Sân
khấu, Hà Nội.
38. Nxb Thuận Hóa và Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây (2005), Việt
sử lược, Trần Quốc Vượng dịch.
39. Nhiều tác giả (1997), Đại Việt sử ký tiền biên, Ngô Thì Sỹ biên soạn, Ngô
Thì Nhậm hiệu đính, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
40. Pôxpêlốp G.N. (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Trần Đình Sử,
Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
142
41. Đinh Hồng Phúc (2009), "Phê phán tính hiện đại", Tạp chí Khoa học
xã hội số 06 (103), tr 101-102.
42. Nguyễn Khắc Phục (2005), Kịch tuyển chọn, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
43. Lê Thị Hoài Phương (2006), Sân khấu nghề và nghiệp, Nxb Sân khấu,
Hà Nội.
44. P.V (1996) “Phỏng vấn nhà văn Nguyễn Đình Thi”, Tạp chí Sân khấu
số 184, tháng 8, tr 8.
45. Quách Mạt Nhược (1962), Lịch sử kịch hiện thực lịch sử, Viện Nghệ
thuật Sân khấu.
46. Quốc sử Quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám
cương mục, Viện Sử học dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
47. Đình Quang (1999), Nghệ thuật biểu diễn hiện thực tâm lý, Viện Sân
khấu - Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội, Hà Nội.
48. Đình Quang (2003), Về mĩ học và văn học kịch, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
49. Trương Hữu Quýnh (chủ biên) (2000), Đại cương lịch sử Việt Nam,
tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
50. Văn Sử (2013), “Sáng tạo văn học nghệ thuật về đề tài lịch sử”, Tạp
chí Sân khấu, tháng 3, tr 20-21.
51. Touraine, Alaine (1996), Phê phán tính hiện đại, Huyền Giang dịch, Nxb
Thế giới, Hà Nội.
52. Tôpxtônôgốp G. (1982), Tính hiện đại trong nghệ thuật sân khấu, Dương
Ngọc Đức dịch, Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, Hà Nội.
53. Hồ Thị Thanh Tâm (2014), Tính hiện đại trong kịch múa Việt Nam đề tài
lịch sử, luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội.
54. Trần Thái Tông (1996), Khóa hư lục, Thích Thanh Từ dịch, Nxb Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
55. Trần Thị Minh Thu (2003), Kịch Việt Nam về đề tài lịch sử (giai đoạn
143
1985 đến nay), luận văn tốt nghiệp đại học, Trường Đại học Sân
khấu Điện ảnh Hà Nội.
56. Hà Văn Thư, Trần Hồng Đức (1998), Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt
Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
57. Phan Trọng Thưởng (1999), "Rừng trúc của Nguyễn Đình Thi và một số vấn
đề lý luận sáng tác về đề tài lịch sử", Tạp chí Văn học, số 11, tr 15-25.
58. Phan Trọng Thưởng (1996), Giao lưu văn học và sân khấu, Nxb Văn
học, Hà Nội.
59. Nguyễn Đình Thi (1993), Tuyển tập kịch, Nxb Văn học, Hà Nội.
60. Tất Thắng (2000), Về thi pháp kịch, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
61. Tất Thắng (1996), Diện mạo sân khấu - nghệ sĩ và tác phẩm. Nxb Sân
khấu, Hà Nội.
62. Việt Thắng (2003), Tính hiện đại trong sân khấu chèo, luận văn tốt
nghiệp đại học, Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội.
63. Nguyễn Thị Minh Thái (2005), Sân khấu và tôi, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
64. Nguyễn Khắc Thuần (2005), Việt sử giai thoại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
65. Hà Văn Thư, Trần Hồng Đức (2010), Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt
Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
66. Tập thể (1964), "Thảo luận về vấn đề kịch lịch sử", Vân Hồ dịch, Tạp
chí Văn học số 2, tr 73-82.
67. Võ Gia Trị (2001), Văn chương và nghệ sĩ, Nxb Văn học, Hà Nội.
68. Văn phòng Ban Chỉ đạo kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, Sở
Văn hóa Thông tin, Hội Sử học Hà Nội (2005), Bối cảnh định đô
ở Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
69. Trần Trí Trắc (1995), Thể tài sân khấu và nghệ sỹ sáng tạo, Nxb Sân
khấu, Hà Nội.
70. Trần Quốc Vượng (2003), "Sân khấu và lịch sử", Tạp chí Sân khấu, số 01, tr 2-5.
144
71. Trần Vượng (2003), Giáo trình nghệ thuật biên kịch, Trường Đại học
Sân khấu Điện ảnh Hà Nội, Hà Nội.
72. Nguyễn Danh Phiệt (1981), "Lê Hoàn với tập thể anh hùng triều đình
Hoa Lư", Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 2, tr 15.
73. Nguyễn Danh Phiệt (1998), "Dương hậu-Dương thái hậu, lịch sử và
huyền thoại", Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 4, tr 42.
74. Viện Sân khấu (1979), Hội nghị bàn về đề tài lịch sử, Tham luận hội
thảo, Thư viện Viện Sân khấu Điện ảnh.
75. Viện Sân khấu (1980), Thông báo nghiên cứu sân khấu, Hà Nội.
76. Viện Sân khấu (1979), Sân khấu và lịch sử, phần sáng tác kịch bản, Vũ
Đình Phòng sưu tầm và trích dịch, Hà Nội.
77. Viện Sân khấu (1979), Những ý kiến về sân khấu với đề tài lịch sử,
Thụy Anh sưu tầm, Hà Nội.
78. Viện Sân khấu (1963), Thảo luận về vấn đề kịch lịch sử, Vân Hồ dịch,
Hà Nội.
79. Viện Sân khấu (1996), Vấn đề văn học kịch. Nxb Sân khấu, Hà Nội.
80. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá Thông tin,
Hà Nội.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
145
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
----------------------------------------
TÍNH HIỆN ĐẠI
TRONG KỊCH NÓI VIỆT NAM
VỀ ĐỀ TÀI LỊCH SỬ
PHỤ LỤC LUẬN ÁN
Hà Nội - 2016
146
Phụ lục
DANH MỤC CÁC KỊCH BẢN KỊCH NÓI VỀ ĐỀ TÀI LỊCH SỬ
ĐÃ ĐƯỢC DÀN DỰNG TRÊN SÂN KHẤU VIỆT NAM
Năm Đơn vị dàn Giải TT Tên tác phẩm Tác giả/Đạo diễn dàn dựng thưởng dựng
Ban kịch 1. Người Hoa Lư Lưu Quang Thuận 1944 Hoan Châu
Lưu Quang Thuận Ban kịch 2. Đề Thám 1947 Thế Lữ Kháng chiến
Đoàn Văn công 3. Kim Đồng Hoàng Em 1962 Việt Bắc
Trúc Đường Nhà hát Tuồng 4. Quang Trung 1962 Hoàng Chương Đào Tấn
Đoàn kịch 5. Lam Sơn tụ nghĩa Nguyễn Xuân Trâm 1962 Hà Nội
Người công dân Hà Văn Cầu Nhà hát Cải lương 6. 1970 số một Vũ Đình Phòng Trung ương
Lưu Quang Hà Nhà hát kịch 7. Đêm trắng 1975 Doãn Hoàng Giang Trung ương
Lưu Quang Hà Đoàn kịch 8. Đêm trắng 1975 Doãn Hoàng Giang Quân khu II
Nguyễn Trãi ở Nguyễn Đình Thi Nhà hát kịch 9. 1980 Đông Quan Nguyễn Đình Nghi Trung ương
Lưu Quang Thuận Nhà hát kịch 10. Bài ca Điện Biên 1984 Doãn Hoàng Giang Trung ương
147
Lịch sử và nhân Hoài Giao Đoàn kịch nói 11. 1985 HCV chứng Vũ Minh Hải Phòng
Lịch sử và nhân Hoài Giao Nhà hát kịch 12. 1985 HCV chứng Đình Quang; Doãn Hoàng Giang Trung ương
Nguyễn Huy Tưởng Nhà hát 13. Vũ Như Tô 1985 Nguyễn Đình Nghi; Tuổi trẻ Phạm Thị Thành
Ngọc Hân công Lưu Quang Vũ Đoàn chèo 14. 1986 Dương Ngọc Đức chúa Hà Nội
Tất Đạt Đoàn kịch 15. 10 đóa phong lan 1990 Dương Ngọc Đức Quân đội
CLB Sân khấu
16. Độc thoại đêm Lê Duy Hạnh 1992 Thể nghiệm
Hội SK Tp HCM
Ngô Mạn - Hoài Giao Đoàn kịch nói 17. Thủ lĩnh áo chàm HCB 1995 Ngọc Phương Bắc Thái
Trần Thủ Độ Nguyễn Anh Biên Nhà hát kịch 18. HCV 1995 (Cột trụ chống trời) Xuân Huyền Việt Nam
Đoàn kịch nói 19. Tú Xương Nguyễn Khắc Phục 1995 Nam Hà
Nguyễn Huy Tưởng Nhà hát 20. Vũ Như Tô Nguyễn Đình Nghi 1995 HCV Tuổi trẻ Phạm Thị Thành
Đoàn kịch Thể
21. Độc thoại đêm Lê Duy Hạnh 1996 nghiệm, Hội
VHNT Quảng Trị
148
Nguyễn Đình Thi Nhà hát HCV 22. Rừng trúc 1999 Nguyễn Đình Nghi Tuổi trẻ Phạm Thị Thành
Bùi Vũ Minh Đoàn kịch nói 1999 23. Đạo học Lê Hùng Hải Dương
CLB Sân khấu
Hoàng hậu của Thể nghiệm 24. Lê Duy Hạnh 1999 hai vua Hội SK Thành
phố Hồ Chí Minh
Đoàn kịch nói 25. Ánh lửa Bồng Trung Ngọc Thụ 1999 Thanh Hóa
Lê Duy Hạnh Nhà hát kịch 26. Dời đô 2000 Lê Hùng Quân đội
Hoàng Hữu Đản Sân khấu 27. Bí mật vườn Lệ Chi 2000 Thành Lộc Idecaf
Tiết mục Thông điệp từ Nguyễn Khắc Phục Đoàn kịch nói 28. 2004 Điện Biên Lê Hùng Quân đội xuất sắc
Hoàng hậu của Lê Duy Hạnh Nghệ sĩ 29. 2008 hai vua Minh Hải Bạch Tuyết
Lê Duy Hạnh Nhà hát Tuồng 30. Độc thoại đêm 2008 Lê Tiến Thọ Trung ương
Mỹ nhân và anh Chu Thơm Nhà hát kịch 31. HCV 2009 hùng Lê Hùng Việt Nam
Nguyễn Quang Lập Sân khấu 32. Ngàn năm tình sử 2009 Thành Lộc Idecaf
Lê Duy Hạnh Sân khấu kịch HCV 33. Nỏ thần 2009 Đức Thịnh Hồng Vân
149
Ngọc Hân công Lưu Quang Vũ Nhà hát chèo 2009 HCB 34. Thúy Mùi Hà Nội chúa
Đêm Ức Trai Lưu Quang Hà Nhà hát chèo 35. (Oan khuất một 2009 Doãn Hoàng Giang Hà Nội thời)
Nguyễn Quang Lập Nhà hát kịch 36. Tình sử ngàn năm 2010 Doãn Hoàng Giang Hà Nội
Đời luận anh hùng Lê Chí Trung Nhà hát 37. 2010 (Luận anh hùng) Trần Quang Hùng Cải lương Hà Nội
Lê Chí Trung Nhà hát kịch 38. Đêm của bóng tối 2011 Lê Hùng, Bạch Lan Việt Nam
Hùng Tấn Nhà hát 39. Mệnh đế vương 2011 Trần Quang Hùng Cải lương Hà Nội