intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Hệ thống thuỷ nông ở vùng Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

6
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án còn đánh giá vai trò của hệ thống thuỷ nông đối với đời sống kinh tế, xã hội ở vùng Tây Nam Bộ trong khoảng thời gian đề tài xác định; đồng thời, rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng và phát triển hệ thống thủy nông ở vùng Tây Nam Bộ hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Hệ thống thuỷ nông ở vùng Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH _____________________________ NGUYỄN NGỌC HUYỀN HỆ THỐNG THỦY NÔNG Ở VÙNG TÂY NAM BỘ TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 2015 Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 922.9013 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ NGHỆ AN, 2023
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH _____________________________________________ NGUYỄN NGỌC HUYỀN HỆ THỐNG THỦY NÔNG Ở VÙNG TÂY NAM BỘ TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 2015 Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 922.9013 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Nguyễn Trọng Văn 2. TS. Đặng Như Thường NGHỆ AN, 2023
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Việt Nam là một nước nông nghiệp. Nông nghiệp gắn liền với thủy lợi là mối quan hệ đã được xác lập từ rất lâu trong lịch sử dân tộc. Để phát triển sản xuất nông nghiệp, đặc biệt nông nghiệp trồng lúa nước, được xem là một trong những biện pháp vô cùng quan trọng đảm bảo cho việc tưới, tiêu nước và phục vụ đời sống dân sinh. Chính vì thế, thủy nông là một vấn đề sống còn của nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước và quan trọng hơn, thủy nông phải đi trước một bước để tạo điều kiện cho nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa phát triển. Xuất phát từ lí do trên, các chính quyền trong mọi thời kỳ của lịch sử Việt Nam đều rất quan tâm phát triển thủy nông nói riêng và thủy lợi nói chung. 1.2. Là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước và có nhiều đóng góp tích cực trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, thủy nông ở Việt Nam đang gặp phải những khó khăn nhất định, như: biến đổi khí hậu, các hiểm họa khí hậu và thiên tai đang ngày càng tăng về tần suất và mức độ nghiêm trọng trên toàn thế giới; lũ lụt, hạn hán, gia tăng mực nước biển và các hiện tượng cực đoan khác luôn gây khó khăn cho đời sống, có tác động trầm trọng hơn đến bộ phận cư dân, thiệt hại thường xảy ra trên diện rộng, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, du lịch, cũng như toàn bộ nền kinh tế nói chung… 1.3. Thực tế lịch sử đã khẳng định, sự tồn tại và phát triển kinh tế của khu vực Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015 gắn liền với một hệ thống thủy nông, kênh rạch, đê, cống, thuỷ nông nội đồng, trạm bơm... Đây chính là cầu nối cho các hoạt động kinh tế, xã hội và gắn kết các thành phần kinh tế, các nguồn lực với nhau trong quá trình phát triển và hội nhập của vùng đất này. Tuy nhiên, bài toán đặt ra hiện nay là cần phải tham khảo cách giải quyết từ thực tiễn xây dựng hệ thống thủy nông ở Tây Nam Bộ dưới thời Nhà Nguyễn và thời thuộc Pháp. Trên cơ sở đó, Tây Nam Bộ cũng cần triệt để khai thác ưu thế, thuận lợi mà điều kiện tự nhiên mang lại để phát triển bền vững; nhanh chóng áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật để hiện đại hóa cơ sở hạ tầng để có động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội; tận dụng lợi thế địa - chính trị của vùng, để kết nối các trung tâm giao thương kinh tế, xã hội quan trọng… nhằm hình thành và phát triển hệ thống thuỷ nông vùng Tây Nam Bộ đúng với bản chất vốn có của nó.
  4. 2 1.4. Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu về kinh tế, chính trị và xã hội ở vùng Tây Nam Bộ từ nhiều ngành khoa học khác nhau, nhất là khoa học lịch sử. Tuy nhiên, số công trình khoa học nghiên cứu về thủy lợi, thủy nông mà cụ thể nghiên cứu về việc tổ chức, thực hiện đào vét kênh rạch, đắp đê ngăn chặn lũ lụt, chống biến đổi khí hậu và nước biển xâm nhập mặn..., giải quyết việc tưới tiêu đồng ruộng, đẩy mạnh chính sách trọng nông của vùng Tây Nam Bộ chưa nhiều và cũng chưa nhận được sự quan tâm đúng mực của các nhà sử học trong và ngoài nước. Bởi vậy, đây thực sự là một khoảng trống khi nghiên cứu về tình hình kinh tế nông nghiệp nói chung và thuỷ nông nói riêng từ năm 1954 đến nay. Với những lí do kể trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Hệ thống thuỷ nông ở vùng Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015” làm luận án Tiến sĩ Lịch sử nhằm tái hiện lại một cách sinh động bức tranh thuỷ nông ở Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Nghiên cứu hệ thống thuỷ nông ở vùng Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015, luận án nhằm phục dựng lại một cách có hệ thống hệ thống thuỷ nông ở vùng Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015 trên các phương diện: chủ trương chính sách, nguồn vốn đầu tư các công trình dự án, triển khai thực hiện các công trình dự án, thành tựu và hạn chế. Bên cạnh đó, luận án còn đánh giá vai trò của hệ thống thuỷ nông đối với đời sống kinh tế, xã hội ở vùng Tây Nam Bộ trong khoảng thời gian đề tài xác định; đồng thời, rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng và phát triển hệ thống thủy nông ở vùng Tây Nam Bộ hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với tính chất là công trình nghiên cứu độc lập về đề tài: “Hệ thống thuỷ nông ở vùng Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015", nhiệm vụ cụ thể của luận án là: - Tập hợp, hệ thống hóa các nguồn tài liệu nghiên cứu về hệ thống thủy nông vùng Tây Nam Bộ. - Trình bày điều kiện tự nhiên và những yếu tố tác động đến quá trình hình thành, phát triển hệ thống thuỷ nông vùng Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015. - Phục dựng quá trình đầu tư xây dựng, phát triển hệ thống thuỷ nông; thành tựu và hạn chế của thủy nông Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015.
  5. 3 - Đánh giá tác động của hệ thống thủy nông ở vùng Tây Nam Bộ đối với phát triển kinh tế, xã hội và rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng, phát triển hệ thống thủy nông vùng. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là hệ thống thủy nông ở vùng Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015 dưới góc độ Sử học. quá trình tìm hiểu về các nội dung cụ thể gồm: Điều kiện tự nhiên và những yếu tố tác động đến quá trình hình thành, phát triển thủy nông vùng Tây Nam Bộ; Quá trình đầu tư xây dựng các dự án, công trình thủy nông của chính quyền Việt Nam Cộng hòa (1954 - 1975), của Đảng và Nhà nước Việt Nam sau khi đất nước thống nhất (1976 - 2015); Những thành tựu và hạn chế của thuỷ nông ở vùng Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015; Tác động của thủy nông đối với sự phát triển kinh tế, xã hội vùng Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015. 3.2. Phạm vi nghiên cứu * Phạm vi không gian: Phạm vi không gian chủ yếu được nghiên cứu trong đề tài là vùng Tây Nam Bộ của Việt Nam theo giới hạn hành chính từ năm 1954 đến năm 2015, với sự thay đổi tên gọi qua từng thời kỳ. Từ những biến động hành chính của vùng đất này diễn ra trong khoảng thời gian và không gian luận án nghiên cứu. Trong luận án này, chúng tôi sử dụng khái niệm vùng “Tây Nam Bộ” theo cách gọi hiện nay. Bởi địa danh Tây Nam Bộ sẽ phản ánh đầy đủ hơn hệ thống kênh đào từ sông Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ Đông (trừ tỉnh Tây Ninh), sông Vàm Cỏ đến sông Tiền, sông Hậu. Do đó, chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu hệ thống thủy nông vùng Tây Nam Bộ ở 13 tỉnh/thành ngày nay, đó là: Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang và thành phố Cần Thơ. * Phạm vi thời gian: Chúng tôi xác định phạm vi thời gian nghiên cứu của đề tài từ năm 1954 - khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết (20/7/1954), Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành 2
  6. 4 miền Nam - Bắc ở vĩ tuyến 17 cho đến năm 2015 - năm tiến hành Đại hội Đảng lần thứ XII, đất nước có nhiều chuyển biến quan trọng; đặc biệt đối với vùng Tây Nam Bộ, năm 2015 cũng là năm hạn hán lớn, xâm nhập mặn 11/13 tỉnh và biến đổi khí hậu diễn ra khá nghiêm trọng. Trong đó, chúng tôi chia thời gian nghiên cứu làm hai giai đoạn với hai chế độ chính trị - xã hội, cụ thể như sau: - Giai đoạn thứ nhất (1954 - 1975), tương ứng với thời gian chính quyền Việt Nam Cộng hòa thôn tính từ vĩ tuyến 17 ranh giới quân sự tạm thời trở vào Nam (gọi là Nam Phần Việt Nam). - Giai đoạn thứ hai (1975 - 2015), tương ứng với năm đất nước thống nhất và sau đó một năm là Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, với 3 thời kỳ: 1975 - 1985, 1986 - 1996, 1997 - 2015. * Phạm vi nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu các nội dung chính sau đây: - Điều kiện tự nhiên và những yếu tố tác động đến quá trình hình thành, phát triển thủy nông vùng Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015; - Phục dựng một cách có hệ thống quá trình đầu tư xây dựng các dự án, công trình thủy nông của chính quyền Việt Nam Cộng hòa (1954 - 1975), của Đảng và Nhà nước Việt Nam sau khi đất nước thống nhất (1975 - 2015). Tuy nhiên, giai đoạn 1954 - 1975, do hạn chế về nguồn tư liệu, nên giai đoạn này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu về những vấn đề thủy nông liên quan đến sự quản lý, đầu tư của Chính quyền Việt Nam Cộng hòa; - Trên cơ sở những nội dung đó rút ra những thành tựu và hạn chế của thuỷ nông ở vùng Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015; đồng thời phân tích, đánh giá vai trò của thủy nông ở vùng Tây Nam Bộ đối với kinh tế, xã hội vùng Tây Nam Bộ trong khoảng thời gian nghiên cứu và rút ra một số bài học kinh nghiệm trong quá trình đầu tư, đấu thầu xây dựng, sử dụng, quản lý hệ thống thủy nông ở vùng Tây Nam Bộ để làm tài liệu tham khảo cho các cấp chính quyền địa phương trong công cuộc xây dựng và phát triển hệ thống thủy nông hiện nay. 4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nguồn tài liệu Để hoàn thành luận án, chúng tôi dựa trên các nguồn tài liệu chủ yếu sau:
  7. 5 * Tài liệu lưu trữ: Chúng tôi chủ yếu tiếp cận và khai thác nguồn tư liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia II (Thành phố Hồ Chí Minh): Phông Phủ Thủ tướng, Bộ Công chánh và Giao thông, Phủ Tổng Ủy Dinh Điền và Nông vụ, Bộ sưu tập hình ảnh…; Tại thư viện Bộ Nông Nghiệp: Phông Thủy nông, Thủy lợi, Đê điều, Kênh rạch... Tất cả các tài liệu lưu trữ khai thác từ Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, Thư viện Bộ Nông nghiệp, Các Sở Ban ngành đều là văn bản gốc.Do vậy, đây là nguồn tư liệu chính dùng để thực hiện đề tài luận án. * Tài liệu nghiên cứu: Chúng tôi tham khảo các công trình nghiên cứu của nhiều tác giả, đó là các luận án, luận văn, tham luận khoa học nghiên cứu về thủy nông Tây Nam Bộ đã được công bố bằng các xuất bản phẩm in hay đăng, công bố trên các website của các trường đại học, học viện, viện nghiên cứu; Một nguồn tài liệu khác mà chúng tôi cho rằng rất quan trọng cần phải được khai thác, kế thừa, đó là các công trình nghiên cứu, các sách chuyên khảo liên quan đến lịch sử, địa lý, chính trị, kinh tế - xã hội có nội dung về hoặc liên quan đến Tây Nam Bộ nói chung, về hệ thống thủy nông ở Tây Nam Bộ và Việt Nam được xuất bản trong và ngoài nước hay các bài viết đã được công bố trên các tạp chí chuyên ngành kinh tế, xã hội từ năm 1954 đến năm 2015 như: Tạp chí Thủy lợi, Tạp chí Nông nghiệp, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử. * Tài liệu điền dã: Để bổ sung vào khoảng trống trong nghiên cứu, tác giả còn sử dụng kết hợp thêm nguồn tài liệu điền dã. Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã nhiều lần trực tiếp điền dã, gặp các cán bộ thủy nông (có ghi âm, chụp hình) dẫn đi khảo sát trên một số tuyến kênh đào như kênh Vĩnh Tế, kênh Xà No, Kênh T5, T6, T4 và một số cống ngăn mặn ở tỉnh Kiên Giang, Hà Tiên và An Giang… để sưu tập, Tài liệu lưu trữ tại Chi cục thủy lợi tỉnh An Giang, Chi cục thủy lợi tỉnh Bến Tre, Chi cục thủy lợi tỉnh Kiên Giang, Chi cục thủy lợi tỉnh Cà Mau, Chi cục thủy lợi tỉnh Long An, Chi cục thủy lợi tỉnh Cần Thơ, Chi cục thủy lợi tỉnh Sóc Trăng, Chi cục thủy lợi tỉnh Bạc Liệu, Chi cục thủy lợi tỉnh Vĩnh Long, Chi cục thủy lợi tỉnh Tiền Giang, Chi cục thủy lợi tỉnh Long An. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết các nhiệm vụ khoa học của đề tài đặt ra, trên cơ sở nắm vững và
  8. 6 vận dụng quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm Mác xít, tác giả đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, kết hợp với các phương pháp liên ngành để thực hiện đề tài. Phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hai phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài. Trong quá trình sưu tầm và xử lý tư liệu, tác giả sử dụng phương pháp giám định, phê phán để xác định độ tin cậy của nguồn tư liệu nghiên cứu, phải tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, quan điểm lập trường của tác giả, đối chiếu với các sự kiện, đánh giá tính khách quan của các sự kiện lịch sử. Trên cơ sở tư liệu đã thu thập được, tác giả tổng hợp, phân tích tư liệu, sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp logic, để khái quát hóa, hệ thống hóa, rút ra những nhận xét đánh giá hệ thống thủy nông từ năm 1954 đến năm 2015. Trong quá trình giải quyết yêu cầu của luận án, ngoài hai phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp logic, tác giả còn sử dụng thêm các phương pháp liên ngành như: phương pháp thống kê, khảo sát thực địa, phương pháp đồ bản, phỏng vấn, chụp ảnh… để phục dựng lại các sự kiện lịch sử. 5. Đóng góp của luận án - Luận án là công trình đầu tiên khôi phục lại bức tranh toàn diện và có hệ thống về thuỷ nông ở vùng Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015 qua hai giai đoạn lịch sử 1954 - 1975, 1976 - 2015 trên các phương diện: các yếu tố tác động đến thủy nông Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015; quá trình đầu tư, triển khai thực hiện các dự án thuỷ nông, thành tựu và hạn chế… Trên cơ sở đó, phân tích, đánh giá vai trò của thuỷ nông vùng Tây Nam Bộ đối với đời sống kinh tế, xã hội. - Luận án đã góp phần hệ thống hóa và làm phong phú thêm nguồn tài liệu nghiên cứu liên quan đến công tác thủy nông, thủy lợi nói riêng, kinh tế, xã hội của Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015. Từ đó, luận án góp phần bổ sung vào khoảng trống trong nghiên cứu lịch sử vùng Tây Nam Bộ nói chung và hướng nghiên cứu tiếp cận về thuỷ nông nói riêng. - Kết quả nghiên cứu của luận án cũng là cơ sở để tiến hành biên soạn và giảng dạy lịch sử địa phương ở các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học Phổ thông trên địa bàn Tây Nam Bộ. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận án cũng là cơ sở để các nhà hoạch định chính sách, các cấp chính quyền địa phương tham khảo khi quy hoạch, xây dựng, phát triển hệ thống thuỷ nông vùng Tây Nam Bộ nói riêng, thủy nông nói chung trong giai đoạn hiện nay.
  9. 7 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận án gồm 4 chương: Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài Chương 2. Thuỷ nông Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 1975 Chương 3. Thuỷ nông Tây Nam Bộ từ năm 1976 đến năm 2015. Chương 4. Tác động của thủy nông đối với phát triển kinh tế, xã hội vùng Tây Nam Bộ.
  10. 8 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 1.1.Các công trình nghiên cứu về hệ thống thủy nông vùng Tây Nam Bộ của tác giả trong và ngoài nước 1.1.1. Các công trình nghiên cứu của tác giả trong nước Lê Sâm với cuốn Thủy nông ở Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Nông nghiệp Tp. Hồ Chí Minh, 1996. Là Kỹ sư - Tiến sĩ ngành thủy lợi, Lê Sâm đã nghiên cứu một cách khái quát về tình hình thủy nông ở vùng Tây Nam Bộ “các công trình thủy nông giữ vai trò quan trọng trong việc cải tạo môi trường nói chung và đặc biệt là cải tạo đất để làm nông nghiệp, nâng cao sản lượng lúa gạo, làm ngọt hóa hàng trăm ngàn ha, đã biến những vùng đất phèn mặn thành những cánh đồng lúa màu mỡ”. Có thế thấy, công trình nghiên cứu của Lê Sâm đã trở thành tài liệu tham khảo có giá trị, tin cậy trong quá trình thực hiện luận án. Nhà nghiên cứu Phan Khánh với các công trình tiêu biểu như: Sơ thảo lịch sử thuỷ lợi Việt Nam từ tháng 8 năm 1945 đến tháng 12 năm 1995, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997; Đồng bằng sông Cửu Long - Lịch sử và lũ lụt, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2001; 300 năm Nam Bộ làm thủy lợi, Nxb Nông nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, 2004; Lịch sử thuỷ lợi Việt Nam, Nxb Thời Đại, 2014… Trần Đức Cường (Chủ biên) với công trình Vùng đất Nam Bộ từ năm 1945 đến năm 2010, tập VI, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, 2017. Công trình nghiên cứu bao gồm 6 chương, trong đó: Chương 4 tập trung làm rõ vùng đất Nam Bộ trong thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới, từng bước ra khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội (1986 - 1996); Chương 5 tập trung làm rõ vùng đất Nam Bộ trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hợp tác quốc tế (1996 - 2010). Trong chương 5, các tác giả đã dành mục III bàn về “Xây dựng phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nam Bộ (Đồng bằng sông Cửu Long), từ trang 316 đến trang 338, với các nội dung: Điều kiện xây dựng phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nam Bộ; Thực hiện xây dựng phát triển kinh tế - xã hội Tây Nam Bộ (1997 - 2010); Sự chuyển biến trong cơ cấu kinh tế, vấn đề đầu tư phát triển, phát triển thủy lợi, giao thông vận tải, xây dựng cụm, tuyến dân cư và chương trình kiên cố hóa trường lớp, phát triển văn hóa xã hội… Những nội dung trên sẽ là nguồn tham khảo đáng tin cậy cho tác giả trong quá trình thực hiện đề tài luận án. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu của tác giả nước ngoài A.A. Pouyenne - Tổng Thanh tra Công chính Đông Dương nhiệm kỳ 1904 - 1911, đã ghi chép về thuỷ lợi, thuỷ nông vùng Tây Nam Bộ trong một số cuốn sách. Trong đó đáng chú ý là cuốn Voies d'eau de la Cochinchine (Đường thủy Nam Kỳ), Imprimerie, Nouvelle, Sai Gon 1911 và cuốn Les travaux publics de l’Indochine (Các
  11. 9 công trình công chánh Đông Dương)… Những ghi chép trong các cuốn sách của A.A. Pouyenne trình bày khá bài bản về hệ thống sông, rạch tự nhiên; giao thông kênh đào của Nam Kỳ; sự ra đời hệ thống kênh đào góp phần làm tăng thêm tính đa dạng trong giao thông đường thuỷ ở vùng sông nước Tây Nam Bộ; giới thiệu được một số công trình thủy nông tiêu biểu; số vốn đầu tư của chính phủ thuộc địa; tác động của thủy nông đối với kinh tế và xã hội… Mekong River Commission, Ủy hội sông Mê Kông quốc tế (MRC) thành lập năm 1995. Trong những năm gần đây, vấn đề khai thác và sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Kông ngày càng trở nên cấp thiết đối với Việt Nam. Mục tiêu chính của Ủy hội sông Mê Kông là thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia thành viên trong sử dụng, phát triển và bảo vệ tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan một cách bền vững, vì lợi ích chung của các quốc gia thành viên và phúc lợi của người dân trong lưu vực. Ngày 5/4/1995, Ủy hội sông Mê Kông (Mekong River Commission) được thành lập với việc Lào, Campuchia, Thái Lan, Việt Nam ký “Hiệp định về hợp tác phát triển bền vững sông Mê Kông”.. MRC đã góp phần thúc đẩy tình đoàn kết, hợp tác nhiều mặt giữa các nước ven sông Mê Kông. 1.2. Nhận xét về tình hình nghiên cứu Qua tiếp cận các nguồn tài liệu nghiên cứu liên quan đến đề tài "Hệ thống thủy nông ở vùng Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015” của các tác giả đi trước, chúng tôi mạnh dạn rút ra một số nhận xét như sau: Thứ nhất: Từ sau năm 1975, giới Sử học bắt đầu đi sâu nghiên cứu và công bố nhiều công trình nghiên cứu về chính trị, kinh tế, xã hội nông thôn Việt Nam nói chung, Nam Bộ nói riêng, góp phần làm phong phú thêm vốn hiểu biết của chúng tôi khi nghiên cứu về hệ thống thủy nông ở vùng Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015. Thứ hai: Kể từ năm 1986, khi Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới cho đến nay, giới Sử học Việt Nam đã có cái nhìn khách quan hơn đối với những vấn đề lịch sử, xã hội, trong đó những nghiên cứu chuyên sâu về kinh tế, giao thông vận tải và văn hóa xã hội Tây Nam Bộ của từng thời kỳ được tiến hành một cách nghiêm túc, khoa học. Chính vì thế, nhiều bộ sách thông sử về Lịch sử cận đại Việt Nam, sách chuyên khảo nghiên cứu tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam thời thuộc Pháp…, tiêu biểu như: Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Lịch sử lũ lụt và thuỷ lợi vùng Đồng bằng sông Cửu Long… lần lượt được xuất bản. Thứ ba: Tất cả các công trình nghiên cứu kể trên đều có một điểm chung là có giá trị tham khảo về mặt sử liệu, cung cấp thêm cho chúng tôi những hiểu biết về các vấn đề kinh tế, xã hội ở Tây Nam Bộ nói chung và thủy nông, thủy lợi ở Tây Nam Bộ nói riêng.
  12. 10 Thứ tư: Qua phân tích các nguồn tài liệu nghiên cứu kể trên, chúng tôi nhận thấy, mặc dù đã có một số công trình, tác phẩm trong và ngoài nước đề cập hoặc ít nhiều liên quan đến thủy nông, thủy lợi Tây Nam Bộ trong lịch sử, Do vậy, trên cơ sở khai thác, sử dụng nguồn tài liệu lưu trữ, đồng thời tham khảo, kế thừa những thành tựu của các tác giả đi trước, luận án Hệ thống thủy nông ở vùng Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015 là công trình đầu tiên nghiên cứu tương đối hệ thống về thuỷ nông ở Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015. Vì vậy, qua nghiên cứu đề tài này, chúng tôi mong muốn được góp thêm phần tiếp nối con đường nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, nhằm lấp phần nào khoảng trống đã nêu trên. 1.3. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu Từ tổng quan về tình hình nghiên cứu đã được trình bày ở trên, chúng tôi đã đặt ra những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ. Những vấn đề này đã được nêu ra trong nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ở phần mở đầu, cụ thể là: - Tập hợp, hệ thống hóa các nguồn tài liệu nghiên cứu về hệ thống thủy nông ở Tây Nam Bộ. - Làm rõ bối cảnh lịch sử và những yếu tố tác động đến quá trình hình thành và phát triển hệ thống thuỷ nông ở Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015. - Phục dựng quá trình đầu tư xây dựng, phát triển hệ thống thuỷ nông ở Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 2015 trên các phương diện: chủ trương chính sách phát triển; quá trình đào, vét kênh rạch; phương thức đào kênh; thành tựu và hạn chế… - Đánh giá tác động của hệ thống thủy nông vùng Tây Nam Bộ đối với đời sống kinh tế, xã hội và rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng, phát triển hệ thống thủy nông ở vùng Tây Nam Bộ hiện nay.
  13. 11 Chương 2 THỦY NÔNG TÂY NAM BỘ TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1975 2.1. Vài nét về vùng đất Tây Nam Bộ * Vị trí địa lý: Tây Nam Bộ (Tây Nam Phần), dưới thời Việt Nam Cộng hòa gồm có các tỉnh: Châu Đốc (An Giang), Kiến Phong (Đồng Tháp), Kiến Tường (Long An), Kiến Hòa (Bến Tre), Hậu Nghĩa (Long An), Kiên Giang (Kiên Giang), An Giang (An Giang), Vĩnh Long (Vĩnh Long), Định Tường (Tiền Giang), Long An (Long An), Chương Thiện (Hậu Giang), Ba Xuyên (Sóc Trăng), Bạc Liêu (Bạc Liêu), An Xuyên (Cà Mau), Vĩnh Bình (Trà Vinh), Phong Dinh (Cần Thơ), tương đương với 13 tỉnh thành ngày nay. Tây Nam phần có vị trí nằm liền kề vùng Đông Nam phần, phía Bắc giáp Cao Miên, phía Đông Nam giáp biển Đông, phía Tây giáp vịnh Rạch Giá, phía Nam giáp biển Hải Nam. Tây Nam phần có tổng diện tích 100.069 km² và có tổng dân số là 13.312.035 người (1975); chiếm 11,8% diện tích quốc gia và 17,6% tổng dân số cả nước [14; tr.2] và là vùng có thế mạnh trong phát triển nông nghiệp của Việt Nam. * Địa hình, khí hậu Tây Nam Bộ là một đồng bằng bồi tích, bằng phẳng và tương đối thấp, chỉ trừ một số núi còn sót lại ở Kiên Giang và An Giang có cao độ trên 100m, phần còn lại cao độ dưới 5m, phân chia như sau: vùng đất phù sa cổ ven biên giới Việt Nam - Campuchia có cao độ từ 2 - 5m; vùng gò cao tự nhiên ven sông Tiền, sông Hậu cao độ 1 - 3m; vùng giồng cát ven biển cao độ từ 1 - 5m; vùng còn lại có cao độ từ 0 - 1,2m. Tây Nam Bộ nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, địa hình bằng phẳng bị gió mùa chi phối nên nhìn chung khí hậu khá đồng nhất, với nhiệt độ cao, ít biến đổi qua các tháng, bình quân năm 26,50C. Chế độ mưa hàng năm chia 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 có lượng mưa chiếm 90 - 94% lượng mưa cả năm. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 là thời kỳ khô hạn, lượng mưa chỉ chiếm 6 - 10% lượng mưa cả năm. Đặc biệt, mùa khô có tháng hầu như không mưa, gây trở ngại lớn cho sản xuất và đời sống. * Sông ngòi và chế độ thủy văn Sông Mê Kông chảy đến Phnompenh thì nhận thêm nước của sông Tonlesap và sau đó chia thành 2 nhánh: sông Tiền (Mê Kông) và sông Hậu (Bassac) chảy vào Việt Nam. Sông Tiền có tổng chiều dài chạy qua Việt Nam khoảng 230 km từ hướng Tây Bắc - Đông Nam, sau đó đổi hướng Tây Đông đến dưới Mỹ Thuận chia làm nhiều nhánh: Cổ Chiên, Hàm Luông, Ba Lai, Cửa Đại, Cửa Tiểu. Về cơ bản, Tây Nam Bộ có mạng lưới sông ngòi, kênh rạch dày đặc, cùng với chế độ thủy văn phức tạp, phụ thuộc vào chế độ dòng chảy thượng nguồn, chế độ thủy triều biển Đông, biển Tây và mưa trên đồng bằng.
  14. 12 2.2. Khái quát thủy nông Tây Nam Bộ trước năm 1954 * Thời nhà Nguyễn (1802 - 1867) Kênh Vũng Gù hay Bảo Định Hà, là kênh đào đầu tiên (1705) ở vùng Tây Nam Bộ do tướng Nguyễn Cửu Vân thực hiện, nối Vũng Gù (Tân An trên Vàm Cỏ Tây) với Rạch Mỹ Tho, kênh rộng 32 m, sâu 4 m, hai bên bờ kênh là đường đê bằng đất rộng 13 m, dọc hai bên dân cư sinh sống đông đúc; Kênh Thoại Hà (1818) do Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu) phụ trách, nối rạch Long Xuyên tại Vĩnh Trạch qua chân Núi Sập, tiếp sông Kiên Giang ra biển Tây tại cửa Rạch Giá, dài 12.410 tầm, rộng 20 tầm, ghe xuồng qua lại thuận lợi;Kênh Vĩnh Tế (1819), cũng do Nguyễn Văn Thoại chỉ huy, chạy song song biên giới Việt Nam - Campuchia, bắt đầu từ bờ Tây sông Châu Đốc (sông Hậu) nối với sông Giang Thành (Hà Tiên - Kiên Giang), đào trong 5 năm, dài 91 km, rộng 25 m, sâu 3 m, bờ đắp cao để dân chúng cất nhà. Nhờ đào kênh dẫn thủy nhập điền, diện tích ruộng ở vùng Tây Nam Bộ vào năm 1890 là 763.000 ha [143; tr.56-57]. * Thời thuộc Pháp (1867 - 1945) Với mục đích bình định về quân sự, chính trị, kinh tế, thương mại. Trong khoảng thời gian đầu (1867 - 1896), người Pháp với tư tưởng đầu tư ít - nhanh thu lợi nhuận lớn, nên chỉ nhắm vào các vùng đã có sẵn cơ sở hạ tầng. Một hệ thống hạ tầng kinh tế - kỹ thuật được đầu tư xây dựng khá quy mô, bài bản và được đưa vào vận hành ở Nam Kỳ, cụ thể như: Cảng Sài Gòn (1860); Đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho (1881); Cầu sắt Eiffel Bến Lức và Tân An (cuối thế kỷ XIX) trên sông Vàm Cỏ… Đặc biệt, dưới thời toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, nhiệm kỳ 1897 - 1902, hạ tầng - kỹ thuật ở Nam Kỳ được chú trọng đầu tư nhiều hơn, điển hình là Dự án chương trình hành động của P. Doumer với nội dung “Chú ý xây dựng cho Đông Dương một thiết bị kinh tế to lớn, một hệ thống đường sắt, đường sá, sông đào, bến cảng, những cái cần thiết cho việc khai thác xứ Đông Dương” [157;tr.134]. * Từ năm 1945 đến năm 1954 (giai đoạn này Tây Nam Bộ là vùng tự do thuộc quyền quản lý của lực lượng kháng chiến Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Từ năm 1945 - 1954 là giai đoạn diễn ra cuộc kháng chiến chống Pháp, do vậy nhiệm vụ chủ yếu là vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Về cơ bản, công tác thủy nông ở Việt Nam nói chung, Tây Nam Bộ nói riêng giai đoạn này gặp nhiều khó khăn trong đầu tư, xây dựng và hiệu quả thực hiện. Đặc biệt hơn, do điều kiện chiến tranh nên nguồn tài liệu liên quan đến công tác thủy nông giai đoạn này cũng rất hạn chế. Mặc dù vậy, công tác thủy nông thời kỳ này cũng đạt được một số thành tựu cơ bản. Trong đó đáng chú ý nhất là một số kênh đào cũ thời Nguyễn và thời Pháp thuộc được đầu tư tu bổ, nạo vét và nâng cấp; một số kênh đào mới được xây dựng. Riêng vùng giữa hai sông (sông Tiền và sông Hậu), nhất là vùng Thượng
  15. 13 Vàm Nao, Hậu Giang - Bạc Liêu, Gò Công…, hệ thống các kênh đào dày đặc hơn so với thời kỳ trước. 2.3. Thủy nông Tây Nam Bộ từ năm 1954 đến năm 1975 2.3.1. Chủ trương và chính sách của chính quyền Việt Nam Cộng hòa * Các chương trình nghiên cứu, các dự án đào vét kênh rạch, dẫn thủy nhập điền Các chương trình nghiên cứu, các dự án đào vét kênh rạch, dẫn thủy nhập điền được Chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành đối với từng địa bàn cụ thể như Kiên Giang, Quản Lộ - Phụng Hiệp, Ba Xuyên, An Xuyên, Đồng Tháp Mười…, và trên phạm vi toàn khu vực. 2.3.2. Quá trình đầu tư xây dựng các công trình dự án thủy nông Thứ nhất, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã xuất công quỹ đào kênh, đắp lộ, xây cầu, đặt đường hỏa xa và thu hồi số tiền đó bằng thuế phí giao thông. Thứ hai, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã cho phát hành quốc trái rồi nhượng bán lại cho các ngân hàng hay tư nhân để lấy tiền trả chi phí cho công tác thủy nông. [61; tr.15-16]. Thứ ba, chính quyền đã xin viện trợ các thiết bị như máy xáng để đào kinh thổi đất; máy ủi đất, cán đá... Sau này dân chúng đầu tư rồi, có thể “bán hay cầm thế cổ phần cho tư nhân hay cho ngân hàng hay cho thị trường chứng khoán nếu cần tiền, tập cho dân chúng tiết kiệm đầu tư,” [61; tr.16]. Thứ tư, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã cho các công ty tư nhân, hay công ty hỗn hợp, khai thác dài hạn. [14; tr.17]. 2.3.3. Bộ máy quản lý và điều hành. * Các cơ quan quản lý thủy nông Sau nhiều lần thay đổi tên gọi, giai đoạn 1954 - 1975, ngành thủy nông đặt dưới quyền kiểm soát của Bộ Canh nông, Tổng Nha Nông nghiệp. Cụ thể như sau: Ở Trung ương: bao gồm các cơ quan cao cấp như Bộ Canh nông, Tổng Nha Nông nghiệp, Nha thủy nông. Ở địa phương: có các Khu, Ty Thủy nông và công tác nông thôn. Để cho các dự án thủy nông được thiết lập và thực thi đạt kết quả, trên toàn quốc được phân chia thành từng Khu Thủy nông. [127; tr.8]. 2.3.4. Những thành tựu và hạn chế 2.3.4.1. Thành tựu Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, với chủ trương đầu tư xây dựng đồng bộ và toàn diện hệ thống thủy nông, vùng Tây Nam Bộ đã xây dựng được một hệ thống thủy nông nhằm đảm bảo tưới tiêu chủ động, ngăn mặn, dẫn thủy thoát phèn, phục vụ phát triển kinh tế, giao thông thủy bộ và ổn định đời sống của nhân dân. Cụ thể:
  16. 14 Phát triển thủy nông vùng Đồng Tháp Mười: Phát triển thủy nông tại tỉnh Kiến Tường: Tu bổ kênh Cái Sắn và vét kênh Rọc Bà Ke: 2.3.4.2. Hạn chế Bên cạnh đó, dưới thời Việt Nam Cộng hòa (1954 - 1975), hệ thống thủy nông ở Tây Nam Bộ được xây dựng chủ yếu là các công trình dẫn nước, phục vụ khai hoang, tưới tiêu sản xuất nông nghiệp. Các hệ thống kênh sườn, kênh ngang kết nối với các kênh trục thiếu nghiêm trọng. Chính vì thế, những khó khăn, hạn chế về thủy nông ở giai đoạn này cần phải được chú trọng khắc phục ở các giai đoạn tiếp theo. Tiểu kết chương 2 Phải khẳng định rằng, dưới thời nhà Nguyễn và thời Pháp thuộc, sự phát triển của thủy nông đã làm biến đổi sâu sắc các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh quốc phòng ở vùng Tây Nam Bộ. Công việc đào kênh rạch được các vua nhà Nguyễn và người Pháp rất quan tâm. Quá trình phát triển hệ thống thủy nông ở vùng Tây Nam Bộ có sự kế thừa và phát triển của các giai đoạn trước. Dưới thời Vệt Nam Cộng hòa thực tế khai hoang mở rộng diện tích vẫn dựa vào những đặc điểm có sẵn của sông ngòi, kênh rạch của quá khứ để tiếp tục đào nạo vét thành một hệ thống kênh rạch.
  17. 15 Chương 3 THỦY NÔNG TÂY NAM BỘ TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2015 3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến thuỷ nông Tây Nam Bộ sau năm 1975 3.1.1. Những thành quả và bài học của thủy nông trước năm 1975 3.1.2. Tình hình miền Nam sau năm 1975 * Hoàn cảnh lịch sử mới Ngày 30/4/1975, Miền Nam được giải phóng, hầu hết các tầng lớp nhân dân đều phấn khởi, vui mừng vì chiến tranh đã chấm dứt, có thể yên ổn làm ăn, đi lại tự do, để cùng cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Bối cảnh lịch sử mới đã tạo nên những yếu tố thuận lợi cho sự phát triển của thủy nông ở các tỉnh vùng Tây Nam Bộ. 3.1.3. Sự chuẩn bị của Đảng - Chính phủ đối với thủy nông Nam Bộ. Từ sau đổi mới (1986), tư duy và cách tiếp cận khai thác tiềm lực kinh tế của Tây Nam Bộ đã có những biến chuyển to lớn, tương ứng với sự phát triển kinh tế - xã hội, trình độ khoa học kỹ thuật và mức độ hội nhập với quốc tế. Nghị quyết 21- NQ/TW ngày 20/01/2003 đã đề ra phương hướng “huy động cao nhất các nguồn lực, trước hết là nội lực, nguồn lực của thành phần kinh tế; xây dựng vùng đồng bằng sông Cửu Long trở thành vùng kinh tế trọng điểm của cả nước với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, hiệu quả, bền vững” [207]. 3.2. Bộ máy quản lý và điều hành thủy nông. * Các cơ quan và phạm vi quản lý Ở Trung ương: Tổng cục Thủy lợi là tổ chức thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật về thủy lợi và nước sạch nông thôn trong phạm vi cả nước; [206; tr.2]. Ở địa phương: Các Chi cục Thủy lợi, tổ chức hành chính trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, giúp Giám đốc Sở tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước chuyên ngành và tổ chức thực thi pháp luật về thủy nông, đê điều, phòng, chống lụt, bão, thiên tai, nước sạch nông thôn theo quy định của pháp luật [206; tr.3].
  18. 16 3.3. Quá trình đầu tư xây dựng và những thành tựu đạt được 3.3.1. Giai đoạn 1975 - 1985 3.3.1.1. Chủ trương đầu tư xây dựng thủy nông 3.3.1.2. Đầu tư xây dựng thủy nông * Dự án Thủy nông vùng Đồng Tháp Mười Hệ thống thủy nông vùng Đồng Tháp Mười phát triển mạnh từ sau năm 1975, tỉnh Đồng Tháp đã cho đào nhiều kênh tạo nguồn cấp nước cho sản xuất nông nghiệp như: kênh Tứ Thường, kênh Đường Thét, kênh Kháng Chiến... Các kênh lớn hơn có sự đầu tư từ Trung ương như tuyến Hồng Ngự đầu tư từ năm 1977 đến năm 1984 hoàn thiện (Đồng Tháp, phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt của nông dân hai tỉnh Đồng Tháp và Long An. * Dự án nạo vét hệ thống kênh cũ Khu vực Đồng Tháp Mười đã có các hệ thống kênh rạch chằng chịt nhưng chủ yếu là kênh cấp II và cấp III. Theo nhận định của tác giả Phan Khánh thì: “Nạo vét kèm theo cải tạo kênh rạch cũ tại các vùng lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long, được coi là khẩn trương số một” [112; tr.151]. 3.3.1.3. Thành tựu và ý nghĩa Kết quả của công tác thủy nông đã có tác dụng thiết thực đối với sản xuất nông nghiệp và cải thiện đời sông nhân dân. Vùng Tây Sông Hậu, Bán đảo Cà Mau có diện tích 1.687.300 ha. Công tác thủy lợi đã khoanh vùng, đắp đê biển, làm cống ngăn mặn, tiêu úng, xổ phèn, trữ và dẫn ngọt, nạo vét và đào mới các kênh, hình thành nhiều khu ngọt hóa. Xây dựng một số công trình như: Cống Cái Xe ở Hậu Giang (1983 - 1985), cống Bà Xẩm (1984 - 1986), cống Cái Oanh (1983 - 1985), kênh Xà No (1984 - 1986), kênh Tròn (1984 - 1985), Kênh Hồng Ngự trở thành đại công trường thủy nông ở vùng Tây Nam bộ lúc bấy [113; tr.78]. 3.3.2. Giai đoạn 1986 - 1996 3.3.2.1. Chủ trương đầu tư xây dựng thủy nông 3.3.2.2. Đầu tư xây dựng thủy nông * Dự án Master Plan cho đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam - Hà Lan (The Nethrelands Engineering Consultants) dưới danh nghĩa NEDECO (1993). * Dự án ngọt hoá Gò Công: Dự án ngọt hoá Gò Công được xem là công trình ngăn mặn giữa ngọt có quy mô lớn đầu tiên ở Tây Nam Bộ. Dự án ngọt hóa Gò Công được đánh giá là công trình thủy nông có hiệu quả về mặt cấp nước cho canh tác nông nghiệp và phục vụ dân sinh [142; tr.22].
  19. 17 * Dự án ngọt hoá bán đảo Cà Mau (Dự án Quản Lộ - Phụng Hiệp): Bán đảo Cà Mau có diện tích xấp xỉ 1,6 triệu ha, nằm giữa biển Đông và biển Tây, gần như là một vùng bị nhiễm mặn lớn nhất vùng Tây Nam Bộ. Bán đảo Cà Mau là nơi tiêu nước trực tiếp từ các sông Cái Lớn, Cái Bé, Ông Đốc, Gành Hào, Mỹ Thanh ra biển. Nguồn nước ngọt ở vùng này chủ yếu là từ sông Hậu, nguồn nước mưa tại chỗ và các mạch nước ngầm dưới đất. 3.3.2.3. Thành tựu và ý nghĩa * Các công trình thủy nông thoát lũ và đảm bảo tưới tiêu Hồ chứa ÔtukSa: được xây dựng từ năm 1991 đến năm 1996, dưới chân núi Thiên Cấm Sơn (thuộc xã An Cư, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang). “Hồ được thiết kế dung tích có sức chứa 600.000 m3. Hồ Soài So: được xây dựng từ năm 1989 đến năm 1991, ở sườn phía Đông núi Cô Tô, nằm dưới chân núi Phụng Hoàng (thuộc xã Núi Tô, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang). 3.3.3. Giai đoạn 1997 - 2015 3.3.3.1. Chủ trương đầu tư xây dựng thủy nông Trong đó những chính sách liên quan trực tiếp đến thủy nông Tây Nam Bộ được thể hiện trong 6 Quyết định: 3.3.3.2. Đầu tư xây dựng thủy nông * Dự án thủy nông Tứ giác Long Xuyên (Dự án thoát lũ ra Biển Tây) Dự án Thoát lũ ra biển Tây được đầu tư xây dựng (1996 - 1999) có phạm vi rộng nối 4 vùng đô thị là Long Xuyên - Rạch Giá - Hà Tiên và Châu Đốc. Đây là công trình thủy nông lớn với các nhiệm vụ là tiêu úng, phòng và chống lũ cho 488.935 ha đất tự nhiên, trong đó An Giang là 239.203 ha (49%), Kiên Giang 234.554 ha (48%) và Cần Thơ là 15.178 ha (3%); cung cấp nước tưới cho sản xuất và nước sinh hoạt cho người dân trong vùng; tiêu độc, ém phèn; ngăn mặn, hạn chế mất nước vào mùa kiệt; tăng cường lấy phù sa từ sông Hậu vào; kết hợp giao thông thủy. * Dự án đầu tư vùng Tứ giác Long Xuyên: Diện tích tự nhiên khoảng 500 nghìn ha là ví dụ điển hình về hiệu quả công tác thủy lợi từ kiểm soát lũ, đến tưới tiêu, khai thác sử dụng đất phèn làm thay đổi hẳn bộ mặt kinh tế xã hội của cả vùng. Xa xưa là công trình kênh Vĩnh Tế của cha ông để lại được thế hệ sau mở rộng, nạo vét, nâng cấp, đặc biệt là hệ thông công trình thủy lợi khá hoàn chỉnh như kênh ông Kiệt (người dân và chính quyền địa phương nhớ ơn, lấy tên Thủ tướng Võ Văn Kiệt thay cho kênh Tuần Thống - T5, T4, T6) [87; tr.279].
  20. 18 * Dự án hệ thống thủy nông Nam Măng Thít Mục tiêu của dự án là: Kiểm soát mặn, lấy nước và giữ ngọt, tiêu úng, tiêu chua, rửa phèn cho 171.626 ha đất canh tác và 225.682 ha đất tự nhiên (trong đó, 49.020 ha thuộc tỉnh Vĩnh Long và 176.662 ha thuộc tỉnh Trà Vinh); cấp nước sinh hoạt cho nhân dân trong vùng; kết hợp khai thác nguồn lợi thủy sản; góp phần phát triển giao thông thủy bộ, cải tạo môi sinh và môi trường. * Dự án Kiểm soát lũ Bắc Vàm Nao Dự án Kiểm soát lũ Bắc Vàm Nao của tỉnh An Giang là hệ thống kiểm soát lũ đầu tiên ở Việt Nam thực hiện thí điểm mô hình quản lý mới về khai thác hệ thống công trình thủy nông, nhằm đạt được lợi ích và hiệu quả từ việc quản lý tốt hơn của cộng đồng trên cơ sở liên kết chặt chẽ giữa đơn vị cung cấp và người sử dụng dịch vụ. AusAID hỗ trợ để định hướng và thực hiện một chuỗi các đánh giá khả thi từ đầu năm 1980 và kết quả cuối cùng là Dự án Kiểm soát lũ Bắc Vàm Nao. 3.3.3.3. Thành tựu và ý nghĩa * Xây dựng các đập ngăn mặn, ngăn lũ Đập cao su Trà Sư (An Giang): Đập cao su Tha La (An Giang): 3.4. Một số hạn chế Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình phát triển hệ thống thủy nông ở Tây Nam Bộ vẫn gặp phải một số khó khăn, hạn chế. Đó là các công trình kênh nội đồng ở vùng Tây Nam Bộ chưa đồng bộ từ đầu mối đến mặt ruộng, chưa phối hợp tốt trong tổ chức hoạt động giữa kênh, cống, trạm bơm nên chưa chủ động hoàn toàn trong việc lấy nước tưới tiêu, hạn chế và tiêu thoát lũ lụt. [132; tr.119]. Tiểu kết chương 3 Như vậy, Thủy nông được tiến hành khắp 13 tỉnh Tây Nam Bộ, nhưng quyết liệt nhất là ở các tỉnh vùng ngập lũ với hai trung tâm là Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên. Vì thế, việc đào hệ thống kênh Hồng Ngự ở trung tâm Đồng Tháp Mười đưa nước ngọt từ sông Tiền về sông Vàm Cỏ Đông và đào kênh T5 (kênh Võ Văn Kiệt) xuyên qua Tứ giác Long Xuyên ra biển Tây là những “cú đánh” quyết định trong quá trình thau chua rửa mặn và thoát lũ đẩy phèn ở khu vực này ra biển. Hệ thống thủy nông ngày càng hoàn thiện thúc đẩy khai hoang, tăng năng suất và hiệu quả lao động, tăng sản lượng lúa, thủy sản và cây ăn quả… Tây Nam Bộ thời kỳ này đã chiếm phần quan trọng trong một số mặt hàng như: gạo, thủy sản (tôm) và hoa quả. Xuất khẩu của Việt Nam góp phần trọng yếu để Việt Nam giữ được 20% số gạo xuất khẩu trên thị trường thế giới.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2