intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Kiểu truyện hôn nhân người – tiên trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:310

32
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận án nhằm góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa tín ngưỡng, phong tục tập quán của các dân tộc trong khu vực, sự hiểu biết về văn hóa giữa các tộc người và đáp ứng về nhu cầu du lịch văn hóa tâm linh. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Kiểu truyện hôn nhân người – tiên trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN MINH THU KIÓU TRUYÖN H¤N NH¢N NG¦êI – TI£N TRONG TRUYÖN Cæ VIÖT NAM Vµ §¤NG NAM ¸ Chuyên ngành: Văn học dân gian Mã số: 9.22.01.25 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.Phạm Thu Yến HÀ NỘI – 2020
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan mọi kết quả của đề tài Kiểu truyện hôn nhân người – tiên trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân, đƣợc thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn của PGS.TS Phạm Thu Yến Các kết quả nghiên cứu trình bày trong luận án là trung thực và chƣa đƣợc ai công bố dƣới bất kì hình thức nào. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình. Hà Nội, ngày…. tháng …..năm 2020 Tác giả Nguyễn Minh Thu
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ...............................................................................................1 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU .......................................................................................2 3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU .......................................................................................3 4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ............................................................3 5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...............................................................................4 6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN ...........................................................................5 7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN........................................................................................6 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN .......... 7 1.1. TỔNG QUAN LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ................................................7 1.1.1 Lịch sử nghiên cứu về kiểu truyện hôn nhân ngƣời - tiên ở Đông Bắc Á .........7 1.1.2. Lịch sử nghiên cứu về kiểu truyện hôn nhân ngƣời - tiên ở Đông Nam Á .......9 1.1.3. Lịch sử nghiên cứu về kiểu truyện hôn nhân ngƣời - tiên ở Việt Nam ..........13 1.2. GIỚI THUYẾT MỘT SỐ KHÁI NIỆM ................................................................16 1.2.1. Khái niệm nhân vật ―tiên‖ ...............................................................................16 1.2.2. Khái niệm ―hôn nhân‖ và hôn nhân ―ngƣời - tiên‖ .........................................23 1.2.3. Khái niệm ―kiểu truyện‖ và ―kiểu truyện hôn nhân ngƣời – tiên‖ .................23 1.2.4. Khái quát về Đông Nam Á ..............................................................................24 1.3. CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI ......................................................................28 1.3.1. Lý thuyết loại hình học ...................................................................................28 1.3.2. Lý thuyết giao lƣu, tiếp biến văn hóa ..............................................................32 1.3.3. Lý thuyết loại địa văn hóa ...............................................................................36 Tiểu kết chƣơng 1 ........................................................................................................39 Chƣơng 2: NHẬN DIỆN KIỂU TRUYỆN VÀ HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG KIỂU TRUYỆN HÔN NHÂN NGƢỜI - TIÊN CỦA VIỆT NAM VÀ ĐÔNG NAM Á .............................................................................................................40 2.1. NHẬN DIỆN KIỂU TRUYỆN HÔN NHÂN NGƢỜI – TIÊN CỦA VIỆT NAM VÀ ĐÔNG NAM Á ............................................................................................40 2.1.1. Nhận diện kiểu truyện hôn nhân ngƣời - tiên của Việt Nam ..........................40 2.1.2. Nhận diện kiểu truyện hôn nhân ngƣời - tiên của Đông Nam Á ....................47
  4. 2.2. HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG KIỂU TRUYỆN HÔN NHÂN NGƢỜI- TIÊN CỦA VIỆT NAM VÀ ĐÔNG NAM Á. .............................................................52 2.2.1. Nhân vật trong kiểu truyện hôn nhân ngƣời - tiên của Việt Nam ...................53 2.2.2. Nhân vật trong kiểu truyện hôn nhân ngƣời - tiên của Đông Nam Á .............62 2.2.3. Nhận xét ..........................................................................................................67 Tiểu kết chƣơng 2 ........................................................................................................75 Chƣơng 3: KẾT CẤU CỐT TRUYỆN VÀ HỆ THỐNG MÔ TÍP TRONG KIỂU TRUYỆN HÔN NHÂN NGƢỜI –TIÊN CỦA VIỆT NAM VÀ ĐÔNG NAM Á ..........................................................................................................................77 3.1. CỐT TRUYỆN HÔN NHÂN NGƢỜI – TIÊN CỦA VIỆT NAM VÀ ĐÔNG NAM Á ..........................................................................................................................77 3.1.1. Cốt truyện hôn nhân ngƣời - tiên trong truyện cổ Việt Nam ..........................77 3.1.2. Cốt truyện hôn nhân ngƣời - tiên trong truyện cổ Đông Nam Á ....................81 3.1.3. Nhận xét ..........................................................................................................82 3.2. HỆ THỐNG CÁC MÔTÍP TRONG KIỂU TRUYỆN HÔN NHÂN NGƢỜI – TIÊN Ở VIỆT NAM VÀ ĐÔNG NAM Á. ...................................................................85 3.2.1. Hệ thống các môtíp trong kiểu truyện hôn nhân ngƣời - tiên ở Việt Nam .....85 3.2.2. Hệ thống các môtíp trong kiểu truyện hôn nhân ngƣời - tiên ở Đông Nam Á ....97 3.2.3. Nhận xét ........................................................................................................105 Tiểu kết chƣơng 3 ......................................................................................................116 Chƣơng 4: LÝ GIẢI SỰ TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG KIỂU TRUYỆN HÔN NHÂN NGƢỜI – TIÊN Ở VIỆT NAM VÀ ĐÔNG NAM Á .......... 117 4.1. LÝ GIẢI SỰ TƢƠNG ĐỒNG TRONG KIỂU TRUYỆN HÔN NHÂN NGƢỜI – TIÊN CỦA VIỆT NAM VÀ ĐÔNG NAM Á. ..........................................117 4.1.1. Sự tƣơng đồng nhìn từ góc độ địa văn hóa ...................................................117 4.1.2. Sự tƣơng đồng nhìn từ góc độ tín ngƣỡng tôn giáo ......................................120 4.1.3. Sự tƣơng đồng nhìn từ quá trình giao lƣu, tiếp xúc văn hóa .........................127 4.2. LÝ GIẢI SỰ KHÁC BIỆT TRONG KIỂU TRUYỆN HÔN NHÂN NGƢỜI – TIÊN CỦA VIỆT NAM VÀ ĐÔNG NAM Á. ...........................................................131 4.2.1. Sự khác biệt nhìn từ điều kiện tự nhiên, môi trƣờng sinh thái, lịch sử, văn hóa tộc ngƣời ...........................................................................................................131
  5. 4.2.2. Sự khác biệt nhìn từ tín ngƣỡng tôn giáo. .....................................................141 4.2.3. Sự khác biệt dựa trên phƣơng thức lƣu truyền ..............................................144 4.2.4. Sự khác biệt dựa trên thiết chế về xã hội. .....................................................147 Tiểu kết chƣơng 4 ......................................................................................................148 KẾT LUẬN ................................................................................................................149 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ..........................................................................................................152 TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................153 PHỤ LỤC
  6. DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1.1. Thống kê nhóm truyện cổ Việt Nam .............................................................. 40 Bảng 2.1.2. Thống kê nhóm truyện cổ Đông Nam Á ........................................................ 48 Bảng 2.2.3.1. Thống kê điểm tƣơng đồng về hệ thống các nhân vật trong .......................... 67 Bảng 2.2.3.2. Thống kê điểm khác biệt về hệ thống các nhân vật trong truyện cổ của Việt Nam và Đông Nam Á. ............................................................................ 71 Bảng 3.1.3.2.2. So sánh cốt truyện Thi Thôn của Việt Nam và Đông Nam Á............................ 84 Bảng 3.2.3.1. Điểm tƣơng đồng hệ thống các mô típ trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á .......................................................................................................... 106 Bảng 3.2.3.2. Điểm khác biệt hệ thống các môtíp trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á .......................................................................................................... 111
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Việt Nam - một trong những quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, là nơi giao thoa, chịu ảnh hƣởng khá sâu rộng của hai nền văn hóa cổ đại vĩ đại là Trung Hoa và Ấn Độ. Trên nền tảng lịch sử của sức mạnh giao lƣu đó, ngƣời dân Việt Nam từ ngàn đời nay đã tiếp nhận và chuyển giao những yếu tố văn hóa, văn minh của bên ngoài vào truyền thống văn hóa, văn minh của dân tộc mình, đồng thời cũng phát huy ảnh hƣởng của mình ra các nƣớc khác,… Chính vì vậy, một bộ phận quan trọng của văn hóa Việt Nam là văn hóa dân gian với những tác phẩm sử thi, thần thoại, truyện cổ tích, thơ ca dân gian đã không tách rời nền văn hóa dân gian Đông Nam Á nói riêng và nền văn hóa châu Á nói chung mà luôn gắn bó, chứa đựng sâu sắc những nét tƣơng đồng và dị biệt với nền văn hóa khu vực đó. 1.2. Truyện kể dân gian đƣợc nảy sinh, phát triển trên cơ sở cuộc sống muôn hình muôn vẻ của các dân tộc và mang đậm tính chất dân tộc. Nhƣng nhiều truyện kể còn có tính chất quốc tế giống nhau cả về kết cấu, môtif, đề tài, nhân vật, hành động truyện… đó là tính lặp lại. Vì vậy, khi nghiên cứu văn học dân gian theo phƣơng pháp so sánh - lịch sử, B. N. Putilốp đã xem ―tính lặp lại‖ nhƣ một đặc tính nổi bật của dòng văn học này [chuyển dẫn theo 47; 7]. Các nhà khoa học phát hiện ra ―tính lặp lại‖ nên xuất hiện nhiều khuynh hƣớng nghiên cứu truyện dân gian theo kiểu truyện (type). Thực tế nghiên cứu cho thấy rằng: không chỉ dừng lại ở biên giới một dân tộc, quốc gia, nhiều kiểu truyện còn mang các yếu tố tƣơng đồng với các dân tộc rất xa nhau về địa lý, văn hóa. Nhiều công trình đã thành công khi vận dụng các nguyên tắc này vào việc tìm hiểu các kiểu truyện nhƣ kiểu truyện Thạch Sanh, kiểu truyện Cô tro bếp (Cinderella), kiểu truyện người em út, kiểu truyện người con riêng, kiểu truyện chàng ngốc, kiểu truyện người mang lốt,…Tiếp cận truyện kể theo hƣớng này sẽ giúp thấy đƣợc những nguyên tắc sáng tác truyền thống của một thể loại qua cách xây dựng nhân vật, cách xây dựng cốt truyện, cách dẫn dắt, xâu chuỗi những tình tiết, motif trong truyện. 1.3. Ở kho tàng truyện kể dân gian thế giới nói chung và các nƣớc trong khu vực Đông Nam Á nói riêng, kiểu truyện hôn nhân người - tiên là một trong những kiểu truyện phổ biến quen thuộc lôi cuốn hấp dẫn. Kiểu truyện này gắn bó chặt chẽ với đặc điểm tự nhiên, địa danh, phong tục tập quán, lễ hội,… liên quan đến đời sống văn hóa dân tộc, quốc gia. Nhận ra sức hấp dẫn của kiểu truyện hôn nhân người - tiên trong kho tàng truyện kể dân gian nên đã có một số công trình nghiên cứu đạt thành tựu lớn ở các nƣớc Đông Bắc Á nhƣ “Kiểu truyện trinh nữ Thiên Nga”,“Nghiên cứu về kiểu truyện Chàng Ngưu và Nàng tiên dệt vải”. Công trình ―Nghiên cứu so sánh văn hóa
  8. 2 dân gian của Nhật Bản và Inđônêsia‖, tác giả James Danandjaja đã so sánh kiểu truyện Chàng Ngưu và Nàng Tiên dệt vải hoặc công trình “Khảo sát và so sánh một số típ và môtíp truyện cổ dân gian Việt Nam - Nhật Bản”“Nghiên cứu so sánh một số type truyện cổ tích của Việt Nam và Hàn Quốc” tác giả Park yeon kwan cũng đã đề cập về type truyện người lấy vợ hoặc chồng tiên trong truyện cổ tích của Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản,… Nhƣng từ trƣớc đến nay chƣa có một công trình nghiên cứu nào về kiểu truyện hôn nhân người - tiên trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á. Việc nghiên cứu văn học ở các nƣớc trong khu vực Đông Nam Á, còn có ý nghĩa làm thay đổi nhận thức của giới văn nghệ và văn học của Việt Nam chỉ ―quen thuộc những chủ nhân từ phƣơng xa - vốn xa lạ với chúng ta trên nhiều phƣơng diện, trong khi đó chúng ta lại rất lạ với ngƣời bà con ở ngay bên cạnh - vốn rất gần gũi, có quan hệ gắn bó về mọi mặt với chúng ta trong cộng đồng khu vực mà chúng ta là một thành viên‖ [80; 57]. 1.4 Trong tình hiện nay, các quốc gia trên thế giới đang xích lại gần nhau trong xu thế hòa bình thì nhu cầu tìm hiểu, trao đổi và giao lƣu về kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc ngày càng mạnh mẽ, nó chính là động lực phát triển cho nghành du lịch. Đông Nam Á là một trong những khu vực có ý nghĩa quan trọng trở thành ―ngã tƣ đƣờng‖, cầu nối giữa Trung Quốc, Nhật Bản với khu vực Tây Á và Địa Trung Hải. Không chỉ vậy, Đông Nam Á có điều kiện tự nhiên thuận lợi: Khí hậu tính chất gió mùa nóng và ẩm tạo nên môi trƣờng sinh thái đa dạng. Các nƣớc Đông Nam Á lục địa có nhiều dòng sông lớn: Sông Mêkông, sông Chao Phraya, sông Irawadi. Còn các nƣớc Đông Nam Á hải đảo – tập trung những ngọn núi lớn nhƣ dãy núi thiêng Penanggungan, Puncak Jaya hình ảnh những ngọn núi đã ảnh hƣởng đến vũ trụ quan của những ngƣời dân nơi đây. Chính những điều kiện tự nhiên ấy, tạo điều kiện cho ngành du lịch văn hóa ở các nƣớc Đông Nam Á phát triển. Có nhiều địa danh của Đông Nam Á đƣợc gắn với câu chuyện hôn nhân người – tiên nên nghiên cứu kiểu truyện hôn nhân người – tiên trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo tồn lƣu giữ các địa danh, phong tục, tập quán tín ngƣỡng, các điệu múa,... của các tộc ngƣời trong cuộc sống thực tại. Từ những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài với mong muốn tìm đến những chứng cứ xác thực, minh chứng cho sự đặc sắc của kiểu truyện, qua đó có cái nhìn cơ bản, đa diện, đa chiều về kiểu truyện từ những nền văn hóa của các tộc ngƣời khác nhau trong cùng một khu vực. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Thứ nhất, nghiên cứu kiểu truyện hôn nhân người - tiên trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á để rút ra những đặc điểm mang tính loại hình của kiểu truyện này. Từ đó, so sánh sự giống, khác nhau giữa truyện của Việt Nam và các nƣớc trong
  9. 3 khu vực để có thể hiểu đƣợc những quy luật vận động của kiểu truyện trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Thứ hai, góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa tín ngƣỡng, phong tục tập quán của các dân tộc trong khu vực, sự hiểu biết về văn hóa giữa các tộc ngƣời và đáp ứng về nhu cầu du lịch văn hóa tâm linh. Thứ ba, xác lập một hệ thống các bản kể không chỉ làm tƣ liệu khảo sát phục vụ đề tài mà còn làm nguồn tƣ tiệu tham khảo về lâu dài, nếu có điều kiện thuận lợi, có thể bổ sung để cho ra đời một tuyển tập truyện cổ có nội dung hôn nhân người – tiên của khu vực Đông Nam Á. 3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Để đạt đƣợc những mục đích trên, chúng tôi đặt ra nhiệm vụ của luận án nhƣ sau: 3.1. Xác lập khung lý thuyết cơ bản và giới thuyết những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài kiểu truyện hôn nhân người - tiên trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á 3.2. Tập hợp, thống kê số lƣợng, khảo sát kiểu truyện hôn nhân người - tiên trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á 3.3. Chỉ ra diện mạo và đặc điểm của kiểu truyện hôn nhân người - tiên trong truyện cổ Việt Nam. 3.4 Từ các đặc điểm của kiểu truyện này trong kho tàng truyện kể Việt Nam nhìn ra đặc điểm của kiểu truyện trong kho tàng truyện kể Đông Nam Á. 3.5. So sánh những điểm tƣơng đồng và khác biệt của kiểu truyện ở Việt Nam và các nƣớc trong khu vực trên phƣơng diện nhân vật, motif, kết cấu… của kiểu truyện. Lý giải những nét tƣơng đồng và khác biệt trong truyện kể dân gian nói riêng, trong văn hóa của các quốc gia nói chung từ đặc điểm tự nhiên, địa danh, phong tục tập quán, lễ hội, tƣ duy nghệ thuật, tâm lý, tính cách... của các tộc ngƣời trong khu vực…. 4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là kiểu truyện hôn nhân người - tiên trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu chính trên 40 tổng tập, tuyển tập và tập truyện cổ của các dân tộc thiểu số, truyện cổ các nƣớc thuộc khu vực Đông Nam Á đã đƣợc sƣu tầm, biên soạn và xuất bản. Phạm vi nghiên cứu: Về phạm vi tƣ liệu của luận án, chúng tôi khảo sát đƣợc 59 truyện kể của Việt Nam và 47 truyện kể của một số nƣớc khác thuộc khu vực Đông Nam Á từ các tổng tập, tuyển tập và trang văn hóa dân gian của các nƣớc trong khu vực. Tuy nhiên, chúng tôi gặp khó khăn lớn nhất là vấn đề nguồn tƣ liệu khảo sát truyện kể các quốc gia Đông Nam Á còn hạn chế, nhiều truyện của khu vực chƣa đƣợc các nhà sƣu tầm, tuyển tập trong nƣớc và nƣớc ngoài dịch sang tiếng Việt, tiếng Anh.
  10. 4 Nếu đặt việc so sánh ngang bằng truyện kể Việt Nam và các quốc gia khác thuộc Đông Nam Á, trong tình hình tƣ liệu không thể bao quát đầy đủ rất dễ sa vào tình trạng ―Thầy bói xem voi‖, ―Nhìn cây mà chẳng thấy rừng‖. Từ thực tế khó khăn ấy, chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu là đi sâu vào đặc điểm truyện kể hôn nhân người – tiên ở Việt Nam làm nhiệm vụ cơ bản và đặt nhóm truyện kể của Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á. Ở một mức độ nhất định, luận án khảo sát đặc điểm nguồn truyện cổ của một số quốc gia Đông Nam Á, trên cơ sở đó so sánh, lý giải những tƣơng đồng, khác biệt kiểu truyện này ở Việt Nam với truyện của các quốc gia khác ở Đông Nam Á. Trong phạm vi nghiên cứu kiểu truyện, chúng tôi không nghiên cứu về nhân vật ―tiên‖ mang lốt mà chúng tôi nghiên cứu về nhân vật ―tiên‖ (nữ, nam) xuất hiện trực tiếp ở dáng hình của con ngƣời ngay trong lần đầu gặp gỡ vì đã có một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về kiểu nhân vật này. Trong kho tàng truyện kể có số lƣợng lớn những truyện kể về tình yêu người – tiên, không có yếu tố hôn nhân cũng không thuộc đối tƣợng khảo sát của luận án vì chúng tôi sẽ rất khó bao quát đƣợc hết tƣ liệu ở một số quốc gia ở Đông Nam Á. Việt Nam là Quốc gia đa dân tộc, chúng tôi sẽ xin phép đi sâu vào truyện của một số dân tộc có số lƣợng truyện chiếm ƣu thế hơn, đại diện cho từng vùng văn hóa và tiêu biểu cho một ngữ hệ. Trong số 11 quốc gia Đông Nam Á có lƣu truyền kiểu truyện này, mỗi quốc gia có số lƣợng nhiều, ít khác nhau. Một số quốc gia chúng tôi chỉ tìm thấy một bản kể. Luận án sẽ tập trung đi sâu vào một số quốc gia có số lƣợng truyện kể có ít nhất từ 3 truyện trở lên. 5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phƣơng pháp thống kê - phân loại: đƣợc sử dụng trong việc khảo sát, phân loại và so sánh đối chiếu. Qua phƣơng pháp thống kê, chúng tôi có đƣợc các số liệu để phân loại các truyện kể; cũng qua đấy thấy đƣợc sự phân bố của kiểu truyện ở các dân tộc, quốc gia, khu vực hay châu lục. Đồng thời, qua phƣơng pháp này, chúng tôi có những số liệu tin cậy, làm cơ sở để đƣa ra những lý giải thích hợp, những kết luận, khái quát khoa học. Phƣơng pháp phân tích – tổng hợp Sau khi đã hoàn thành bƣớc thống kê tƣ liệu – phân loại, chúng tôi sử dụng phƣơng pháp phân tích tƣ liệu. Các truyện kể sẽ đƣợc phân tích tỉ mỉ từng chi tiết và đánh giá trên quan điểm phân tích một tác phẩm nghệ thuật dân gian hoàn chỉnh. Trong quá trình khảo sát, chúng tôi chú ý phân tích nội dung các truyện, phân tích các nhân vật tham gia vào diễn tiến truyện và một số motif của kiểu truyện để từ đó tổng hợp, rút ra nhận xét, đánh giá bản chất, đặc trƣng của kiểu truyện.
  11. 5 Phƣơng pháp hệ thống cấu trúc đƣợc sử dụng nhƣ là phƣơng pháp nền tảng để khai thác những thành tố cấu thành chỉnh thể nghệ thuật tác phẩm và mối quan hệ nội tại bên trong tác phẩm nghệ thuật. Trong đó, thao tác phân lớp đối tƣợng, chia nhỏ các thành tố bộ phận, sắp xếp chúng vào cùng một hệ thống và thống kê, phân loại các đơn vị đã phân chia,… luôn hỗ trợ đắc lực trong quá trình khảo sát đối tƣợng. Phƣơng pháp so sánh loại hình: Đƣợc sử dụng hiệu quả, giúp chúng tôi tiến hành so sánh đối chiếu kiểu truyện hôn nhân người - tiên trong truyện cổ Việt Nam với kiểu truyện cùng loại trong nhóm truyện cổ ở các nước Đông Nam Á để thấy đƣợc những tƣơng đồng và dị biệt về nhân vật, kết cấu, motif,… của kiểu truyện ở các dân tộc, đất nƣớc trong cùng một khu vực; so sánh kiểu truyện nhằm phát hiện và lý giải những vấn đề nguồn gốc xã hội, cội nguồn văn hóa, môi trƣờng nảy sinh… của kiểu truyện; so sánh để thấy đƣợc nét gặp gỡ, giao thoa trong kiểu truyện hôn nhân người – tiên của các dân tộc ở Đông Nam Á chịu (hoặc không chịu) ảnh hƣởng về văn hóa, xã hội, lịch sử,… Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành: Luận án sử dụng phƣơng pháp và kết quả nghiên cứu của nhiều ngành khác nhau nhƣ văn hóa học, lịch sử, địa lý và đặc biệt dân tộc học, đặt cơ sở cho những kiến giải về các vấn đề về nội dung truyện kể của các tộc ngƣời trong khu vực Đông Nam Á Phƣơng pháp nghiên cứu điền dã: Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng trong quá trình khảo sát, điền dã tại một số nơi sản sinh và lƣu truyền ra các câu chuyện có nội dung kể về hôn nhân Ngƣời – Tiên nhƣ xã Phật Tích, huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh, chùa Âng thuộc tỉnh Trà Vinh và các địa danh khác trong khu vực nhƣ Thái Lan … Việc sƣu tầm này, bƣớc đầu cho chúng tôi một cái nhìn thực tế, toàn diện hơn về nhân vật ―tiên‖ trong kiểu truyện hôn nhân người - tiên trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á . 6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN Về mặt đề tài: + Luận án là công trình đầu tiên tập hợp và nghiên cứu một cách hệ thống về kiểu truyện hôn nhân người – tiên trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á. Về mặt tƣ liệu: chúng tôi đã chuyển dịch 37 truyện kể của Đông Nam Á có nội dung hôn nhân người - tiên từ tiếng Anh sang Tiếng Việt mà chƣa đƣợc xuất bản tại Việt Nam giúp cho ngƣời đọc hiểu biết thêm về kiểu truyện này ở Đông Nam Á. + Kết quả nghiên cứu về kiểu truyện sẽ làm rõ những đặc điểm của kiểu truyện này ở Việt Nam và Đông Nam Á. Chỉ ra nét tƣơng đồng và khác biệt trên các bình diện thi pháp: cốt truyện, nhân vật, mô tif, không gian, thời gian nghệ thuật của kiểu truyện. + Thông qua việc phân tích, so sánh, luận án tiến tới giải mã các mã văn hóa ẩn chứa trong kiểu truyện. Từ đó, kiểu truyện hôn nhân người - tiên trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á sẽ khơi dậy tình cảm thẩm mĩ và làm sáng tỏ bản sắc văn hóa
  12. 6 dân tộc độc đáo của các nƣớc trong khu vực; đồng thời, giúp ta hiểu thêm về phong tục, tập quán, địa danh các quốc gia trong xã hội hiện đại, đặc biệt trong du lịch sinh thái, việc gìn giữ môi trƣờng,... - Luận án còn là nguồn tƣ liệu tham khảo bổ ích cho các giảng viên, giáo viên, học sinh các trƣờng học, những ngƣời có nhu cầu tìm hiểu về hôn nhân người - tiên trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á. Về mặt thực tiễn: Gắn địa danh với các câu chuyện có giá trị hiện hữu về mặt du lịch, hiểu sâu bản sắc văn hóa, phong tục, tín ngƣỡng, các điệu múa của các tộc ngƣời trong khu vực Đông Nam Á để bảo vệ nó trong cuộc sống thực tại. 7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án kết cấu thành 4 chƣơng. Chƣơng 1: Tổng quan lịch sử nghiên cứu và cơ sở lý luận. Chƣơng 2: Nhận diện kiểu truyện và hệ thống nhân vật trong kiểu truyện hôn nhân người - tiên của Việt Nam và Đông Nam Á. Chƣơng 3: Kết cấu cốt truyện và hệ thống motif trong kiểu truyện hôn nhân người - tiên của Việt Nam và Đông Nam Á. Chƣơng 4: Lý giải sự tƣơng đồng và khác biệt trong kiểu truyện hôn nhân người - tiên của Việt Nam và Đông Nam Á.
  13. 7 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. TỔNG QUAN LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 1.1.1 Lịch sử nghiên cứu về kiểu truyện hôn nhân ngƣời - tiên ở Đông Bắc Á Năm 1932, tác giả Chung Kính Văn đã bƣớc đầu tìm hiểu về Kiểu truyện nàng tiên thiên Nga Trung Quốc. Cho đến năm 1937, tác giả Holmstrom có dẫn chứng cụ thể để chứng minh kiểu truyện Nàng tiên thiên nga phổ biến ở vùng Đông Á qua các nguồn tƣ liệu của Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc [177; 57]. Trong chƣơng 2 với tiêu đề: ―Những câu chuyện cổ tích về hôn nhân của người vợ siêu nhiên biến mất qua hình tượng chim Thiên Nga‖, tác giả Holmstrom đã đƣa ra định nghĩa để nhận diện về kiểu truyện nàng tiên thiên nga, đồng thời, ông cũng trình bày ngắn gọn về motif nàng tiên thiên nga nhƣ sau: Một ngƣời đàn ông đánh cắp bộ áo lông vũ từ một nàng tiên thiên nga đang tắm sau đó buộc nàng phải kết hôn với anh ta. Sống với nhau đƣợc một thời gian, ngƣời vợ này đã tìm lại đƣợc bộ áo lông vũ rồi ngay lập tức bay lên không trung. Trong truyết thuyết, câu chuyện thƣờng kết thúc ở đây; trong truyện cổ tích thƣờng kết thúc có hậu kể về hành trình gian khổ của ngƣời chồng trong quá trình tìm vợ [177; 55-86]. Năm 1987, tác giả Alan L. Miller đã viết hai bài nghiên cứu: ở bài thứ nhất "Cấu trúc và biểu tượng về nàng tiên dệt vải trong huyền thoại Nhật Bản‖ đã chỉ ra cấu trúc của kiểu truyện nàng tiên hạc dệt vải và những điều cấm kị. Từ việc phân tích cấu trúc nghệ thuật của kiểu truyện, tác giả đã lí giải đặc trƣng văn hóa tôn giáo của đất nƣớc Nhật Bản [176; 309-327]; ở bài thứ hai “Bàn luận về Nàng Tiên Thiên Nga: Ý nghĩa của truyện dân gian “Người vợ siêu nhiên” có liên quan đặc biệt đến tôn giáo của Nhật Bản”, tác giả Alan L. Miller khái quát lại nội dung kiểu truyện, qua đó, chỉ ra cấu trúc tôn giáo của kiểu truyện, rồi chứng minh lớp văn hóa đầu tiên hình thành nên kiểu truyện này là ở Nhật Bản đƣợc bắt nguồn từ tục thờ nữ thần. Năm 2001, luận văn ―Nghiên cứu về câu truyện Thiên Nga ở Trung Quốc‖ tác giả Sơn Gun thuộc trƣờng Đại học Tƣơng Đàm đã chỉ ra nguồn gốc của các loại truyện trinh nữ thiên nga ở Trung Quốc từ góc độ diachronic (lịch đại). Sau đó, phần tiếp theo của luận văn phân tích sự lặp lại qua các chi tiết: Các nàng tiên tắm trong các hồ nƣớc cho đến chi tiết các nàng tiên bị cƣỡng ép phải lấy chàng trai ngƣời trần, rồi chi tiết nuôi dạy con cái, để tìm hiểu gốc văn hóa và niềm tin ban đầu về hình ảnh bà tiên trong kiểu truyện Nàng tiên Thiên Nga ở Trung Quốc [196] Năm 2015, tác giả Jiang Guifang thuộc Viện Văn hóa và Ngôn ngữ Đông Nam Á, viết luận văn nghiên cứu về đề tài “Nghiên cứu kiểu truyện Trinh nữ thiên nga của người Tày ở miền Bắc Việt Nam‖. Trong chƣơng đầu tiên, tác giả đã định nghĩa ngắn gọn câu chuyện về ―Trinh nữ thiên nga‖ của ngƣời Yue ở phía bắc đất nƣớc Trung Quốc, và chọn 8 ví dụ điển
  14. 8 hình về kiểu truyện của ngƣời Tày ở miền Bắc Việt Nam (5 truyện ở phía Đông bắc, 3 truyện ở phía Tây bắc). Trong chƣơng thứ hai, tác giả đã phân tích và phân loại các mô típ của tám bài tiểu luận khác nhau về câu chuyện "Trinh nữ thiên nga" điển hình của ngƣời Tày ở phía bắc Việt Nam. Qua phân tích mô típ, tác giả nhận thấy những câu chuyện nhƣ vậy của ngƣời Tày ở phía bắc đất nƣớc có những mô típ độc đáo, nhƣ ăn gạo nếp năm màu, nguồn gốc của con gà trống (mòng biển đuôi đỏ, dế). Trong chƣơng thứ ba, tác giả đã phân tích ý nghĩa văn hóa của câu chuyện ―Trinh nữ thiên nga‖ của ngƣời ngƣời Tày ở phía Bắc Việt Nam, và thấy rằng câu chuyện chứa đựng văn hóa truyền thống phong phú và độc đáo của ngƣời dân nơi đây [198]. Ngoài ra, có một số những bài nghiên cứu về kiểu truyện nàng tiên thiên nga nhƣ ―Câu chuyện nàng tiên thiên nga – Người ngoài hành tinh” in trên tạp chí Hăc Long Giang vào năm 1988 (赫哲族天鹅处女型故事的异式 - 黑龙江民族丛刊》1988年04期); Nguồn gốc kiểu truyện nàng tiên thiên nga được in trên tạp chí Triết học số 5 năm 2003 và nghiên cứu văn hóa dân gian số 2 năm 2006. Đây là những công trình nghiên cứu công phu, các nhà nghiên cứu đã tập hợp đƣợc 280 câu chuyện cùng với những dị bản về tình yêu và hôn nhân giữa con ngƣời và nàng tiên chim thiên nga với ba loại: Truyện về nàng tiên dệt vải, truyện công chúa chim công, nàng tiên lông vũ. Truyện nàng tiên dệt vải đƣợc ngƣời ta tìm thấy đầu tiên trên thế giới trong truyện kể dân gian Virgin (Cô gái trinh nữ). Nội dung của câu chuyện đều kể về những nàng tiên trinh nữ vui đùa trong hồ nƣớc thì bị các chàng trai lấy cắp chiếc áo choàng. Sau đó, nàng tiên buộc phải lấy chàng trai làm chồng, sống hạnh phúc đƣợc một thời gian, rồi nàng tiên tìm đƣợc bộ váy của mình nên đã bay trở về trời. Ngƣời nghiên cứu đã đi tìm hiểu về nguồn gốc của câu chuyện là đƣợc bắt nguồn từ địa phƣơng sau đó tiếp thu những cốt truyện khác vào nội dung câu chuyện để tạo nên một kết cấu hấp dẫn. So sánh truyện trinh nữ thiên nga ở Trung Quốc và Ả Rập (中国与阿拉伯天鹅处女 型故事比较 _企业 导报 2016 13); văn hóa thờ Hổ cũng góp phần quan trọng vào kiểu truyện nàng tiên thiên nga (虎皮井‖故事的文化渊源及其对中国―天鹅处女型‖故事的基干情节 贡献của tác giả 李传江;) in trên tạp chí văn hóa số 6 năm 2013; Một số những lí giải về nền văn hóa của Trung Quốc ở thế kỉ 20 thông qua 4 truyện kể dân gian lớn: Rắn trắng, chàng trai chăn trâu và nàng Tiên dệt vải, Meng Jiangnu, Liang Shanbo and Zhu Yingtai (Old Tales for New Times: Some Comments on the Cultural Translation of China's Four Great Folktales in the Twentieth Century (author Wilt L. IDEMA) trên tạp chí Taiwan Journal of East Asian Studies, Vol. 9, No. 1 (Issue 17), June 2012, pp. 25-46). Phân tích cấu trúc cốt truyện Trinh Nữ ở một số dân tộc ít người của Trung Quốc in trên tạp chí đại học Thiều Quan số 3 năm 2016 ( 中国少数民族天鹅处女型故事情节结构分析 tác giả 黄景春 张淦 ). Nghiên cứu về loại truyện dân gian của ngƣời Miêu: Nghiên về tình huống câu chuyện trinh nữ Thiên Nga của ngƣời Miêu trên tạp chí văn học số 6 Miền Bắc năm 2017: 苗族民间故事类型的地域性研 究——以苗族―天鹅处女‖型故事为例, 北方文学 2017年06期 ).
  15. 9 1.1.2. Lịch sử nghiên cứu về kiểu truyện hôn nhân ngƣời - tiên ở Đông Nam Á Năm 1984, bài“Nghiên cứu so sánh bản kể nàng tiên Thiên Nga của Thái (theo tiếng Phạn) và Trung Quốc, tác giả Toshiharo chứng minh nguồn gốc câu chuyện qua góc độ nhân vật. Nhân vật nàng tiên trong bản kể của ngƣời Thái là Kinaree đƣợc biết đến với tên gọi là Manora (nghĩa gốc từ Manohara trong tác phẩm Pali có tên là Pannas Jataka) do một cao tăng Phật giáo ở Chiang Mai ghi chép vào khoảng năm 1450-1470 kể về câu chuyện tình của Hoàng tử Suthon và công chúa Manohara. Pannas Jataka là một tuyển tập gồm 50 truyện tiền kiếp của Đức Phật, đƣợc các tín đồ coi là thuộc kinh Bản sanh (Jataka). Câu chuyện này đã sản sinh ra điệu múa Manorah Buchayan, một điệu múa bí truyền phổ biến ở miền Nam Thái Lan. Tác giả đã so sánh truyện Hoàng tử Suthon và công chúa Manohara với truyện Công chúa chim công ở Trung Quốc, Sudhanakumara Avadana trong cuốn kinh phật giáo Divya Avadana ở Ấn Độ. Bài nghiên cứu này là tƣ liệu quan trọng giúp ngƣời viết có căn cứ tham khảo về nguồn gốc của truyện Thi Thôn (dân tộc Lào) ở Việt Nam [190]. Vào năm 1995, bài ―Nghiên cứu so sánh về văn hoá dân gian của Nhật Bản và Indonesia”, tác giả James Danandjaja đã so sánh kiểu truyện Chàng Ngưu và Nàng tiên dệt vải. Tác giả chỉ ra đây là kiểu truyện phổ biến đƣợc tìm thấy ở Ấn Độ, Tây Ban Nha, Đức, Pháp, Ả Rập, Ba Tƣ, Polineia, Micronesia, và Eskimo. Tại Inđônêsia, kiểu truyện này xuất hiện ở một số dân tộc bị ảnh hƣởng bởi nền văn hoá Hán (Trung Quốc) nhƣ Đông Java, trung tâm Java và Bali với huyền thoại: The Legend of Pasir Kujang, Joko Tarub (Đông Java), Vua Pala (tại Bali). Nội dung của những câu chuyện này đều kể về nàng tiên chim có nguồn gốc từ trời, xuống trần gian tắm ở hồ (suối) rồi bị các chàng trai ngƣời trần bắt gặp. Những chàng trai ấy đã lấy cắp bộ cánh buộc nàng tiên phải lấy chàng trai làm chồng gọi là Kiểu truyện nàng tiên thiên nga. Nghiên cứu về kiểu truyện nàng tiên thiên nga đã góp phần không nhỏ vào cách lí giải thấu đáo về sự ảnh hƣởng của nền văn hóa Hán đối với một số quốc gia Đông Nam Á cổ [171; 211]. Năm 2013, bài nghiên cứu ―So sánh nền văn hóa dân gian ở các quần đảo: Môtíp câu chuyện về các thiên thần (hay các nàng tiên) của tác giả NFN Rohim. Tác giả đã chỉ ra trong văn hóa Inđônêsia có rất nhiều câu chuyện kể về hôn nhân ―ngƣời - tiên‖ nhƣ ở đảo Sumatra có năm câu chuyện: Malem Dewa, Puteri Bensu, Tupai Malendewa, Sidang Belawan, Malim Deman dengan Putri Bungsu; đảo Java có hai truyện: Sumur Tujuh, Jaka Tarub; đảo Madura có 1 truyện: Arya Menak Kawin dengan Bidadari; đảo Bali có 1 truyện: Tiga Piatu; đảo Sulawesi có 10 truyện: Manusia Pertama di Kepulauan Talaud Gumansalangi, TulaTulano Ratono Fitu Ghulu Bidhadhari, Oheo, Putri Satarina, I Kacaq Parukiq, PoloPadang, Orang yang Memperistri Putri dari Kayangan, Orang yang Menjelma dari Kayangan, SilangGading dan Topi Omas, Telaga Bidadari, Meraksamana dan Siraiman, Putri Kayangan. Nhƣng tác giả chỉ so sánh tập trung nghiên cứu ở hai văn bản cụ thể là
  16. 10 “Mamanua” và “Oheo” dựa trên 7 môtíp: môtíp đi tắm của các nàng tiên, môtíp trộm cánh của các nàng tiên, môtíp lời cấm kị và vi phạm lời cấm, môtíp nàng tiên tìm đƣợc cánh, môtíp ngƣời chồng đi tìm vợ tiên ở thế giới khác, môtíp vƣợt qua thử thách, môtíp đoàn tụ trở về trần gian. Từ đó, tác giả tìm hiểu về các lĩnh vực khác nhau nhƣ triết học, lịch sử, khoa học xã hội, tôn giáo và các hình thức nghệ thuật khác qua hai truyện này. Bài nghiên cứu này đã giúp cho chúng tôi có một cách nhìn sâu hơn về kiểu truyện hôn nhân người – tiên ở Inđônêsia [185; 26 -37]. Năm 2014, Yaswinda Feronica, Rakhmat Soleh, S.S.M.Hum nghiên cứu trực tiếp câu chuyện Malim Deman dƣới góc độ liên văn bản. Malim Demam là một câu chuyện xuất phát từ nền văn học cổ điển Malay. Nội dung của Malim Demam kể về hôn nhân của một ngƣời đàn ông ở dƣới trái đất với một thiên thần từ trên trời xuống trần gian. Anh ta đã đánh cắp bộ cánh của cô. Câu chuyện về Malim Demam đã lan rộng ra khắp quần đảo Inđônêsia và tồn tại cho đến ngày hôm nay. Bài nghiên cứu này, tác giả liên hệ giữa truyện Malim Demam với ba truyện kể khác có nội dung tƣơng tự nhƣ Legenda Jaka Tarub, Legenda Lahilote và Legenda Telaga Bidadari. Bốn câu chuyện đƣợc cho là có mối quan hệ liên văn bản dƣới dạng tƣơng đồng và khác biệt về các yếu tố nội tại trong cấu trúc của câu chuyện chẳng hạn: Cốt truyện, nhân vật, hành động, bối cảnh và ý nghĩa câu chuyện. Hơn nữa, nghiên cứu cũng cho thấy Malim Demam tuân thủ chức năng của văn học Malay cổ điển và ý nghĩa của câu chuyện dựa trên văn hóa xã hội [191]. Ngoài bài nghiên cứu truyện Malim deman dƣới góc độ liên văn bản còn có bài nghiên cứu so sánh truyện Malim deman (Rokan Hulu Regency) với truyện Mahligai Keloyang (Indragiri Hulu Regency) của tác giả Sri Sabakti. Bài nghiên cứu này nhằm mục đích tìm điểm tƣơng đồng và sự khác biệt ở nội dung cốt truyện, nhân vật, hoàn cảnh gặp gỡ, bài học giá trị đạo đức qua hai câu chuyện. Qua đó, nhà nghiên cứu đi tìm sự lan tỏa nền văn hóa của các huyện trên cùng đảo Riau và chứng minh văn hóa của các dân tộc nơi đây đã thấm sâu vào nội dung của hai bản kể này [187; 97 - 114]. Năm 2016, tiếp nối những nghiên cứu đi trƣớc, Gs.Tiến sĩ Hamka đã tiến hành “Nghiên cứu so sánh cấu trúc truyện cổ tích Inđônêsia‖ trong 12 câu chuyện có cùng cốt kể về nhân vật là nam đi lang thang trong rừng tình cờ nghe thấy tiếng đùa của các nàng tiên xinh đẹp đang tắm tại các hồ nƣớc. Chàng trai đã lấy cắp chiếc khăn choàng của cô gái xinh đẹp rồi ép buộc cô gái làm vợ mình. Nhƣng sau đó, nàng tiên tìm đƣợc khăn choàng đã quay trở lại thiên đƣờng. Tác giả đã chỉ sự tƣơng đồng khác biệt trong nội dung, trong mô hình cấu trúc nội tại của kiểu truyện qua các phƣơng diện so sánh nhƣ sau: + Thứ nhất: Âm mƣu của chàng trai khi chàng trai lấy cắp chiếc áo (khăn choàng) của nàng tiên, chàng trai cố tình vi phạm điều cấm kị. + Thứ hai so sánh về nhân vật: Chàng trai, nàng tiên, những đứa trẻ. Từ những
  17. 11 điểm tƣơng đồng và khác biệt trong nội dung và nghệ thuật của các bản kể, tác giả đã kết luận rằng những điểm giống nhau là cùng sản sinh trong một bối cảnh hoàn cảnh lịch sử, còn những điểm khác nhau là ảnh hƣởng của nền văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ ở mức độ đậm nhạt khác nhau. Đây là tƣ liệu quan trọng, giúp ngƣời viết có cơ sở bƣớc đầu tham khảo tài liệu và hƣớng tiếp cận những điểm giống nhau, khác nhau trong kiểu truyện hôn nhân người - tiên của ngƣời Nam Đảo sống ở Việt Nam và Inđônêsia [178]. Cùng năm 2016, hai tác giả là Inayatul Fariha and Nabhan F. Choiron thuộc trƣờng Đại học Negeri Malang đã đi sâu nghiên cứu trực tiếp vào truyện kể Jaka Tarub thuộc trung tâm Java với bài nghiên cứu ―Giải phóng người phụ nữ trong truyền thuyết Jaka Tarub (trung tâm Java)”. Nội dung câu chuyện kể về cuộc hôn nhân giữa một chàng trai ngƣời trần với một thiên thần. Chàng trai đã lấy cắp đôi cánh của thiên thần rồi buộc nàng kết hôn với mình. Nàng Nawang Wulan không có đôi cánh nên không thể bay về trời. Cô chỉ có lựa chọn duy nhất là kết hôn với Jaka Tarub, điều kiện để Jaka Tarub kết hôn với nàng Nawang Wulan là anh phải hứa với cô sẽ không bao giờ mở nồi cơm trong khi cô đang nấu ăn. Chàng đã hứa với cô nhƣng vì tò mò, Jaka Tarub thất hứa, anh mở nồi nƣớc khi đang sôi. Nawang Wulan mất tất cả sức mạnh của mình, nguồn gạo trong kho của gia đình đã bị cạn kiệt. Nhƣng thật may mắn đến với cuộc đời cô là cô đã tìm thấy đƣợc bộ cánh của mình dấu ở dƣới kho thóc. Cô chắp cánh bay về trời mãi mãi. Bài nghiên cứu của hai tác giả đã đề cập tới nhân vật Nawang Wulan - ngƣời phụ nữ biểu tƣợng cho sự sống và khả năng sinh sản đồng thời cũng là nguồn gốc cho sự thịnh vƣợng của xã hội nông nghiệp. Huyền thoại lúa gạo đƣợc bắt nguồn nữ thần lúa Dewi Sri trong các câu chuyện thần thoại của ngƣời Java. Nawang Wulan đƣợc xem là biểu hiện của Dewi Sri mang lại sự thịnh vƣợng cho con ngƣời. Ngƣời Java tin rằng hậu duệ của Jaka Tarub và Nawang Wulan sẽ là ngƣời cai trị Java. Tuy nhiên, các tác giả đi vào nghiên cứu sâu ở nội dung của câu chuyện nhận thấy rằng ngƣời phụ nữ đã bị áp chế bởi ngƣời đàn ông. Vị nữ thần Dewi Nawang Wulan với sức mạnh siêu nhiên đã bị ngƣời đàn ông lừa gạt lấy cắp bộ cánh tƣớc đoạt đi quyền lực của Dewi Nawang Wulan. Nhƣng sau đó, ngƣời phụ nữ đã đấu tranh đòi lại quyền tự do: Đó là tìm đƣợc cánh rồi bay trở về trời mãi mãi, cô ấy đã tìm đƣợc chính con ngƣời thực của mình đại diện cho những nhận thức tiến bộ của ngƣời phụ nữ tự do chống lại chế độ gia trƣởng áp đặt của ngƣời đàn ông. Nhiều nhà nghiên cứu không chỉ quan tâm đến văn hóa chứa đựng trong truyện kể Jaka Tarub mà họ còn so sánh truyện kể này với truyện kể khác cùng chung một nội dung, đề tài để tìm ra sự tƣơng đồng và khác biệt về nền văn hóa của các tộc ngƣời ở Inđônêsia nhƣ bài nghiên cứu về ―Cấu trúc so sánh văn học qua hai truyền thuyết Telaga Bidadari và Jaka Tarub”của tác giả Agus Yulianto. Hai câu chuyện đều có nội dung nói về chàng trai lấy cắp chiếc cánh của một thiên thần xinh đẹp từ trên trời bay
  18. 12 xuống trần gian để tắm mát trong hồ. Thiên thần đã buộc phải lấy chàng trai làm chồng. Sau một thời gian, họ chung sống với nhau đã sinh đƣợc một bé gái. Nhƣng vô tình, thiên thần đã tìm đƣợc cánh bay về trời để lại con cho ngƣời chồng. Tác giả chỉ ra sự giống nhau: Về nội dung, về cách giới thiệu nhân vật và ý nghĩa qua câu chuyện. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra sự khác nhau: Về sự kiện trong cốt truyện, về không gian gặp gỡ, về quá trình nàng tiên tìm đƣợc cánh bay về trời và tình cảm nhung nhớ con cái của nàng tiên mặc dù nàng đã bay về trời [157; 79 - 90 ]. Năm 2017, nhà nghiên cứu Ratu Wardarita và Guruh Puspo Negoro trƣờng đại học Palembang, Nam Sumatera, Inđônêsia đã so sánh trực tiếp câu chuyện Jaka Tarub (Inđônêsia) và Tanabata (Nhật Bản) trong kiểu truyện hôn nhân người – tiên cùng nội dung kể về cuộc hôn nhân giữa chàng trai ngƣời trần và nàng tiên ở trên trời. Hai tác giả đã so sánh hai truyện trên phƣơng diện rộng hơn nhƣ nền văn hóa xã hội của hai đất nƣớc. Ở điểm tƣơng đồng: Nhà nghiên cứu chỉ ra sự giống nhau về cốt truyện, về nền văn hóa nông nghiệp đều quen thuộc với kĩ thuật làm nhà và kĩ thuật may quần áo. Xã hội truyền thống của Inđônêsia và Nhật Bản đều có khả năng nhận thức về thế giới tự nhiên xung quanh, họ có niềm tin chung về những điều kì diệu. Ngƣời phụ nữ trong xã hội Java và Nhật Bản đều là những ngƣời phụ chăm chỉ và họ có quyền quyết định ly hôn với chồng vì một lí do chính đáng. Ở điểm khác biệt: Hai nhà nghiên cứu so sánh sự khác nhau trong hai câu chuyện qua đối tƣợng, mục đích lấy cắp chiếc áo của nàng tiên, nguyên nhân sự trở về trời của ngƣời vợ tiên, sự phản ứng của ngƣời chồng khi thấy ngƣời vợ tiên bay về trời và sự tác động gián tiếp đến hôn nhân ngƣời - tiên là cha mẹ của chàng trai ngƣời trần. Tiếp theo, hai nhà nghiên cứu đã chỉ ra sự phát triển nền kinh tế của Inđônêsia chủ yếu dựa vào nông nghiệp thể hiện trong câu chuyện Jaka Tarub. Còn đất nƣớc Nhật Bản, ngoài dựa vào nền kinh tế nông nghiệp họ còn có ngành tiểu thủ công nghiệp nhƣ dệt may, đồ gốm. Về tổ chức xã hội của ngƣời Java cổ có niềm tin vào một vị pháp sƣ còn xã hội Nhật Bản họ có niềm tin vào chúa bằng cách đến đền thờ. Ngƣời phụ nữ trong xã hội Java có quyền ly hôn chồng nếu ngƣời chồng đã vi phạm lời cấm trƣớc khi kết hôn và đứa trẻ sẽ thuộc về quyền nuôi của ngƣời chồng (nếu có con), còn xã hội Nhật Bản, ngƣời vợ có quyền ly hôn chồng nếu sống không hạnh phúc và ngƣời mẹ sẽ đƣợc quyền nuôi con (nếu có con). Về niềm tin của ngƣời Java xƣa đƣợc gửi gắm qua giấc mơ còn ngƣời Nhật không tin vào điềm báo qua giấc mơ. Nhƣ vậy, qua bài nghiên cứu này, hai tác giả cho ngƣời đọc thấy mặc dù kho tàng truyện kể dân gian là tài sản riêng của từng quốc gia nhƣng có thể tìm thấy đƣợc điểm tƣơng đồng văn hóa xã hội, niềm tin tôn giáo,.. ở những quốc gia khác xa nhau nhƣ ở Inđônêsia và Nhật Bản [187] Từ một số những công trình nghiên cứu ở một số nƣớc Đông Nam Á, chúng tôi
  19. 13 nhận thấy đây là một kiểu truyện hấp dẫn nên đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu ở nƣớc ngoài chỉ mới tập trung nghiên cứu so sánh từng truyện cụ thể ở các quần đảo khác nhau của Inđônêsia hoặc so sánh truyện của Inđônêsia với Nhật Bản, hoặc so sánh truyện của Thái Lan với Trung Quốc mà chƣa có một bài nghiên cứu nào tìm hiểu về kiểu truyện hôn nhân người - tiên ở Việt Nam và Đông Nam Á. 1.1.3. Lịch sử nghiên cứu về kiểu truyện hôn nhân ngƣời – tiên ở Việt Nam Năm 1975, các tác giả Hà Văn Thƣ, Võ Quang Nhơn, Y Điêng trong lời giới thiệu cuốn ―Truyện cổ các dân tộc Thiểu số Miền Nam” đã viết: ―Các dân tộc quan niệm, có một thời kì trời đất rất gần nhau, người trời có thể xuống trần gian, người trần gian khi cần có thể lên trời. Ở trên trời có cảnh làm ăn, buôn bán như trên mặt đất. Tiên trên trời xuống trần gian làm vợ những chàng trai tốt bụng. Nhận định này đã mô tả khá chính xác về bản chất kiểu truyện hôn nhân người - tiên. Tuy nhiên, đây mới chỉ là lời giới thiệu sách nên vẫn còn sơ lƣợc [120; 75]. Trực tiếp đi vào nghiên cứu kiểu truyện hôn nhân người - tiên theo xu hƣớng lấy truyện Ả Chức Chàng Ngưu làm cơ sở đã có các bài báo, luận văn, luận án nhƣ: Năm 1998, tác giả Đinh Gia Khánh có lời nhận xét về Truyện Ả Chức Chàng Ngưu trong cuốn Thần thoại Trung Quốc nhƣ sau: ―Truyện Ả Chức Chàng Ngưu của ta với truyện Ngưu Lang Chức Nữ của Trung Quốc là hai dị bản của cùng một truyện rất cổ. Truyện này chắc được lưu hành từ lâu trong các tộc người sống từ bờ nam sông Dương Tử xuống phía nam các tộc người mà Hoa tộc xưa kia gọi là Nam man (trong đó có Lạc Việt)” [68; 157]. Năm 2000, tác giả Nguyễn Thị Nguyệt nghiên cứu luận án “Khảo sát và so sánh một số típ và môtíp truyện cổ dân gian Việt Nam - Nhật Bản”. Tiếp tục tới năm 2002, tác giả Park Yeon Kwan nghiên cứu “So sánh một số type truyện cổ tích của Việt Nam và Hàn Quốc‖. Cả hai công trình này, các tác giả đều nhắc tới type hôn nhân giữa ngƣời – tiên mà cụ thể là so sánh truyện Ả Chức Chàng Ngƣu (dân tộc Kinh - Việt Nam) - Kyun-u và Chik-nyo (Hàn Quốc). Kết quả nghiên cứu về type hôn nhân giữa ngƣời - tiên ở Hàn Quốc và Nhật Bản là cơ sở khoa học để ngƣời viết đối sánh type Hôn nhân người - tiên ở các nước Đông Bắc Á và Đông Nam Á [91] Năm 2001, tác giả Nguyễn Tấn Đắc viết công trình nghiên cứu “Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif ‖ đã đi sâu nghiên cứu từ góc độ loại hình lịch sử và vận dụng lý thuyết nghiên cứu cấu trúc luận để chỉ ra mối quan hệ nguồn cội của típ truyện U Thền (dân tộc Thái -Việt Nam) với những truyện cùng típ ở các quốc gia Đông Nam Á từ trong văn học Phật giáo [39; 139]. Theo đó, tác giả nêu cụ thể ―Các truyện về U Thền (hay U Thiền, Ú Thêm) và về Xi Thuần (hay Xi Thốn) của ngƣời Thái ở Việt Nam đã tiếp nhận từ các type truyện Rothisen (hay Butthesen) và Sudhana (hay Xi
  20. 14 Thôn) phổ biến ở các nƣớc Đông Nam Á theo Phật giáo Theravada là Điệu múa Lào (Lào), Cô gái-chim công (Thái Lan), Pô-Lô-Pa-Đang lên trời (Inđônêxia), Những cuộc phiêu lưu của Vua Xutôn (Malaixia) và công chúa núi bạc (Mianmar) và nguồn gốc sâu xa của các câu chuyện này từ Đất nƣớc Phật Đà - Ấn Độ [39; 150-151]. Đặc biệt, tác giả chỉ ra những điểm dị biệt trong thế đối sánh truyện Việt Nam với truyện các nƣớc bạn cùng khu vực: “Cũng tiếp nhận từ Ấn Độ, nhưng cách người Thái Lan, người Lào, người Campuchia, Myanmar và Việt Nam tiếp nhận có khác nhau. Trong khi người Lào, Thái Lan, Campuchia và Myanma đã tiếp nhận nguyên vẹn những yếu tố đặc trưng của vũ trụ văn hoá Ấn Độ, thì người Thái ở Việt Nam đã tìm cách biến đổi hoặc tước bỏ chúng đi.‖ [39;153]. Tác giả Nguyễn Tấn Đắc còn nhận định: ―Type truyện người trần lấy vợ tiên cũng rất phổ biến ở các nước Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar khi nghiên cứu “Trường ca Ú Thêm‖ và cho rằng Ả Chức - Chàng Ngưu có lẽ thuộc type truyện “Người trần lấy vợ tiên” [39;147]. Cùng năm 2001, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn của tác giả Mai Thu Hƣơng viết về đề tài “Khảo sát một số nhóm truyện về đề tài tình yêu và hôn nhân trong truyện cổ tích dân tộc Thái” đã chia ra làm ba nhóm: Nhóm truyện về tình yêu và hôn nhân người - vật. Nhóm truyện về tình yêu và hôn nhân người - tiên. Nhóm truyện mà hôn nhân là vật tặng thƣởng. Đề tài này đề cập tới kiểu truyện hôn nhân người – tiên, nhân vật ―tiên‖ với chức năng là nhân vật kết hôn, song tác giả mới chỉ dừng lại ở mức phân loại mà chƣa bàn cụ thể về đặc điểm nghệ thuật cũng nhƣ ý nghĩa tƣ tƣởng của kiểu truyện độc đáo này. Năm 2003, cuốn ―Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 19” - Nhận định và tra cứu, tác giả Nguyễn Xuân Kính trích bài viết ―Truyện Ông Ngâu bà Ngâu ở Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản” của nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Bích Hà. Nguyễn Thị Bích Hà đã lí giải nguồn gốc tƣơng đồng và những dị biệt của kiểu truyện này ở 4 nƣớc Đồng văn: Tình yêu éo le thủy chung của Chức Nữ - Ngưu Lang, Ông Ngâu bà Ngâu, Ori Hime – Hiko Boshi, Kyun-u và Chik-nyo là tình cảm thiêng liêng chung cho các chàng trai, cô gái dân tộc Phƣơng Đông, vì vậy, nó đƣợc lƣu truyền rộng rãi và dễ đồng hóa ở tất cả các nƣớc có nền văn hóa gần gũi và ảnh hƣởng lẫn nhau. Điều đó, đã tạo ra diện mạo, đặc trƣng riêng của văn hóa dân gian các dân tộc, vừa đặc sắc, vừa hấp dẫn, vừa quen thuộc lại vừa độc đáo [65; 836]. Năm 2004, tác giả Lại Phi Hùng tiếp nối công trình nghiên cứu ―Những tương đồng và khác biệt trong một số kiểu truyện cổ dân gian ở Lào và Việt Nam”. Tác giả đi sâu vào việc so sánh nhóm truyện ngƣời bất hạnh của dân tộc Kinh có sử dụng môtíp ngƣời trần lấy vợ tiên nhiều hơn so với truyện cổ tích của dân tộc Lào Lùm, Lào Thơng, Lào Xủng và các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Về mô típ này, ở dân tộc Kinh
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2