BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

CHU VĂN SƠN

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ HÀN MẶC TỬ

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam

Mã số : 5.04.33

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

Giáo sƣ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH

Hà Nội 2001

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

CHU VĂN SƠN

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ HÀN MẶC TỬ

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam

Mã số : 5.04.33

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

Giáo sƣ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH

Hà Nội 2001

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu

trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác

Tác giả luận án

CHU VĂN SƠN

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: TỪ MỘT QUAN NIỆM THƠ LẠ LÙNG… ........................................ 27

1.1. Quan niệm nghệ thuật của một nhà văn ................................................................ 27

1.2. Quan niệm thơ của Hàn Mặc tử ............................................................................ 29

1.2.2.1. Thơ Hoa trái của Đan Thƣơng ........................................................................ 32

1.2.2.2. Ngƣời thơ – Ngƣời khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo ................................... 40

1.2.2.3. Việc làm thơ – Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc.......................... 46

CHƢƠNG 2: …ĐẾN MỘT THẾ GIỚI HÌNH TƢỢNG RÀNG RỊT… ..................... 53

2.1 TRỤC TƢ TƢỞNG XUYÊN SUỐT VÀ BAO TRÙM ........................................ 54

2.1.1 Tƣ tƣởng nghệ thuật của nhà văn ........................................................................ 54

2.1.2 Tƣ tƣởng xuyên suốt và bao trùm của Hàn Mạc Tử. .......................................... 57

2.2 Hình tƣợng cái tôi đau thƣơng: Mãnh liệt mà tuyệt vọng. ..................................... 70

2.2.1. Hình tƣợng cái Tôi trong thơ trữ tình. ............................................................... 70

2.2.2. Cái Tôi Đau thƣơng: Mãnh liệt mà Tuyệt vọng ................................................. 72

2.3. Hình tƣợng Nàng Thơ Xuân tình mà Trinh khiết ................................................. 90

2.2.1. Hình tƣợng Nàng Thơ (hay Ngƣời tình của Hồn Thơ) trong thơ trữ tình. ........ 90

2.2.2 Nàng thơ Xuân Tình mà Trinh khiết. .................................................................. 94

2.4. HÌNH TƢỢNG THẾ GIỚI THÂN QUEN MÀ KÌ DỊ ...................................... 115

2.4.1. Hình tƣợng thế giới của một nhà thơ trữ tình. ................................................. 115

2.4.2. Hình tƣợng thế giới quen mà kì dị của Hàn Mặc Tử. ...................................... 116

CHƢƠNG 3: ..... VÀ MỘT LOẠI HÌNH THƠ ĐỘC ĐÁO...................................... 145

3.1. Nguồn cảm xúc đặc thù của Thơ Điên: Đau Thƣơng ......................................... 148

3.2. Chủ thể của Thơ Điên: Một xác thân nhiều nhân cách ....................................... 151

3.3. Kênh hình ảnh tân kì của Thơ Điên: Những vẻ kì dị .......................................... 156

3.4. Mạch liên kết của Thơ Điên: Dòng tâm tƣ bất định ........................................... 164

3.5. Lớp ngôn từ nổi bật của Thơ Điên : Lớp từ cực tả ............................................. 173

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 178

CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ.............................................................. 182

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 183

MỘT VÀI QUI ƢỚC

1. Về cái tên tác giả Hàn Mặc Tử, Hiện vẫn còn có sự bất đồng trong việc dung bút

danh “Hàn Mặc Tử” hay “Hàn Mạc Tử”. Luận án dung “Hàn Mặc Tử” với lí do : đây là bút

danh mà các bạn văn thân cận của ông nhƣ Chế Lan Viên, Quách Tân, Hoàng Diệp… khẳng

định và Nguyễn Bá Tin, em trai của nhà thơ, cũng dung gọi anh mình một cách chính thức

trong các công trình: “Thơ Hàn Mặc Tử”, “Đôi nét về Hàn Mặc Tử”, “Hàn Mặc Tử”,

“Hàn Mặc Tử, anh tôi” và “Hàn Mặc Tử trong riêng tư”.

2. Về việc chọn văn bản thở khảo sát. Luận án chọn văn bản trong cuốn “Hàn Mặc Tử

phê bình và tƣởng niệm” (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1993) của nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ, với

lí do đây là văn bản đầy đủ hơn cả, khắc phục đƣợc cả một số thiếu sót của những văn bản

công bố trƣớc đó. Ngoài những phần trích khác có chú dẫn kèm theo, thì toàn bộ thơ Hàn

Mặc Tử đƣợc dung khảo sát ở luận áo đền trong văn bản kể trên.

3. Về việc trình bày trích dẫn. Do đối tƣợng khảo sát là thơ, nếu toàn dẫn theo lối ngắt

hàng thông thƣờng, thì số trang sẽ dôi lên quá nhiều. Cho nên ngoại một vài lần rất hạn chế

trích theo lối ngắt dòng, ngƣời viết dẫn theo lối liền dòng, phân biệt các câu thơ bằng dấu

gạch (/). Ví dụ : Sao anh không về chơi thôn Vĩ?/ Nhìn nằng hàng cau nắng mới lên…

1

MỞ ĐẦU

I. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA VÀ PHẠM VI CỦA ĐỀ TÀI :

1.1. Hàn Mặc tử (1912 – 1910) là một hiện tƣợng có sức ám ảnh vào bậc nhất của thơ

ca Việt Nam hiện đại. Từ những ngƣời say mê đến cả những ngƣời không thể mê, ai đã từng

một lần đọc, một lần biết về Hàn Mặc Tử, thì hầu nhƣ không thể quên nổi. Ám ảnh Hàn Mặc

Tử là một phức hợp gồm nhiều mặt : một thân phận thơ đầy bất hạnh, một hồn thơ hết sức dị

biệt và một nghiệp thơ vừa trong trẻo bí ẩn, vừa huyền diệu, ma quái … Bởi thế, trong phong

trào Thơ Mới (1932 – 1945), nếu Xuân Diệu đƣợc xem là “mới nhất”, Nguyễn Bính là “quen

nhất” ( “quê nhất” ? ), thì ngôi vị của Hàn Mặc Tử hẳn phải là “lạ nhất” và “phức tạp nhất”.

Hàn Mặc Tử từng đƣợc ví nhƣ một vì sao chổi lạ xoẹt ngang bầu trời thơ ca Việt

Nam, từng đƣợc mệnh danh là ngƣời “cai trị trƣờng thơ Loạn” của các nhà thơ Bình Định,

một thi phái lẫy lừng của phong trào Thơ Mới, từng đƣợc tiên tri nhƣ một nhà cách tân duy

nhất còn lại với thơ ca mai hậu – “Tôi xin hứa hẹn với các ngƣời rằng, những cái tầm thƣờng

mực thƣớc sẽ biến tan đi, và còn ở lại cái thời kỳ này chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử”

(Chế Lan Viên – Báo “Ngƣời mới”/23.11.1940 ). Không còn nghi ngờ gì mà Hàn Mặc Tử

chính là một hiện tƣợng văn học sử có sức sống mãnh liệt, đang và sẽ luôn đòi hỏi đƣợc

khám phá, chiếm lĩnh, nghiên cứu.

1.2. Việc ngƣời đời quan tâm đến thơ Hàn Mặc Tử cũng đáng xem là “lạ nhất”. Trƣớc

hết, là một sức thu hút ghê gớm. Hiếm có nhà Thơ Mới nào lại khiến giới nghiên cứu tiêu tốn

tâm sức và giấy mực nhiều đến thế. Tính riêng những chuyên luận, chuyên khảo bề thế, ở cả

trong lẫn ngoài nƣớc, bằng cả tiếng Việt lẫn tiếng nƣớc ngoài, đã có tới gần hai chục công

trình. Còn ở

2

những qui mô nhỏ hơn, nhƣ các tiểu luận trên sách báo và tạp chí, những ch giảng và bình

giảng, chỉ tính số lƣợng trang in đã ngót nghìn trang. Thậm chí đã có cả một ngƣời tự nguyện

hiến trọn cuộc đời mình cho mỗi một việc tìm kiếm, sƣu khảo những tƣ liệu xung quanh cuộc

đời và thi nghiệp của Hàn Mặc Tử [ 158 ]. (Phải nhận rằng, đến nay, ngay cả Xuân Diệu –

mới nhất trong các nhà Thơ Mới – cũng chƣa có đƣợc may mắn này ! ). Vụ kiện “Tùng lai

chƣa từng có” đẩy một nhà thơ tên tuổi và một cây bút phê bình tiếng tăm phải tới điều trần

trƣớc cửa quan, cũng chỉ xoay quanh việc trích thơ của Hàn Mặc Tử. Thứ đến, một sự phân

hóa trái ngƣợc đã tới độ kỳ quái trong việc đánh giá. Ngƣời khen thì đề cao là thơ siêu Việt (

kể ra biết bao kiệt tác, tuyệt tác, tuyệt bút ) và tán phong Hàn Mặc Tử là thiên tài vô tiền

khoáng hậu, kẻ chê lại mạt sát đến mức coi đó không phải là thơ, mà chỉ là những lời nhảm

nhí, điên khùng của một kẻ lạc vào thế giới đồng bóng. Nhƣng “lạ nhất” vẫn là : đến nay

công cuộc nghiên cứu Hàn Mặc Tử đã ngót nửa thế kỷ rồi (chỉ tính mốc từ công trình “Hàn

Mặc Tử - thân thế và thi văn”, 1942, của Trần Thanh Mại) vậy mà ngƣời trong cuộc vẫn chƣa

dám tự tin rằng đã hiểu thật sự. Dƣờng nhƣ ai cũng có cảm giác bị đối tƣợng chối từ. Chính

xác hơn là : chƣa bƣớc qua lời mời mọc đã gặp sự cự tuyệt. Đối tƣợng cứ bƣớng bỉnh chuồi

ra ngoài tầm tay. Đến nỗi, Chế Lan Viên, một bạn thân của Hàn Mặc Tử, một nhà thơ, một

cây bút nghiên cứu bình luận về văn chƣơng cự phách, đƣơng thời đã quả quyết tiên tri về sự

trƣờng tồn với thời gian của Hàn Mặc Tử, thế mà đến cuối đời vẫn không thôi ngơ ngác, phân

vân với câu hỏi nổi tiếng : “Hàn Mặc Tử, anh là ai?”. Và nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành

Khung, ngƣời đã có nhiều dịp đề cập đến Hàn Mặc Tử, cho đến tận năm 1994, khi viết lời

giới thiệu “Một mùa thơ nở rộ” cho Hợp tuyển thơ Việt Nam (1930 – 1915), bằng cách nối

mềm mại những vần thơ khẳng định :”Thơ Hàn Mặc Tử hình nhƣ cho đến nay vẫn còn là một

ẩn số” [12, 11].

3

Với một tình hình nghiên cứu nhƣ thế, thơ Hàn Mặc Tử chúng ta phải tiếp tục khám

phá để ngày càng làm sáng tỏ hiện tƣợng rất đỗi phức tạp này. Việc đi sâu khám phá chẳng

những góp phần tháo gỡ, khai thông những khúc mắc còn tồn đọng trên con đƣờng tiếp cận

đối tƣợng, mà còn giúp vào việc làm chủ một di sản thi ca quý giá, cũng nhƣ góp phần khẳng

định vị trí văn học sử xứng đáng của thi sỹ này.

1.3. Đúng là thế giới thơ của Hàn Mặc Tử dựng lên, bày ra trƣớc ngƣời ta nhƣ một

“Cánh rừng nguyên sinh” (Chữ dùng của nhà nghiên cứu Nguyễn Thăng Long) vừa hết sức

hấp dẫn, vừa sẵn sàng làm nản lòng ngƣời đến. Ngƣời ta đã tiến hành công cuộc chinh phục,

khai phá từ nhiều phía, nhiều mảng, nhiều lối. Từ tổng thể vĩ mô là cả sự nghiệp thơ đến bộ

phận, tiểu tiết vi mô với đơn vị bài, đơn vị câu, thậm chí đơn vị chữ [152]. Đối tƣợng mà luận

án này tự giới hạn cho mình là : Thế giới nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử.

Thế giới nghệ thuật là một cụm từ càng gần đây càng đƣợc sử dụng nhiều, cả trong

đời sống cả trong học thuật. Nó đƣợc dùng khi con ngƣời có nhu cầu diễn đạt ý niệm về một

cái chỉnh thể bên trong của sáng tác nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, toàn

bộ sáng tác của một tác giả, sáng tác trên một vệt thể loại xuyên suốt của một tác giả, một

trào lƣu...). Có nhiều cách quan niệm về Thế giới nghệ thuật là một thế giới đƣợc tạo ra trong

nghệ thuật. “Nó hoàn toàn khác thế giới thực tại vật chất hay thế giới tâm lí của con ngƣời dù

nó phản ánh thế giới ấy”... Nói cách khác, “một thế giới nghệ thuật nhƣ một mô hình nghệ

thuật trong việc phản ánh thế giới, ứng với một cách quan niệm về thế giới, một cách cắt

nghĩa về thế giới” [99, 251]. Một thế giới nghệ thuật nhƣ thế bao gồm một Quan niệm nghệ

thuật về con ngƣời, một Không gian nghệ thuật riêng, một Thời gian nghệ thuật riêng, và một

4

Hình thức ngôn ngữ tƣơng ứng. Có ngƣời quan niệm thế giới nghệ thuật là một chỉnh thể bao

gồm một quan niệm

5

ngôi sao chổi kì lạ. Ngôi sao đã yên nghỉ, nhƣng ánh sáng bí ẩn của nó không tắt, trái lại càng

ngày càng rực chói hơn. Nghiệp thơ ấy, ánh sáng ấy khiến ngƣời đời không thể yên. Bởi thế,

Hàn Mặc Tử luôn luôn là một câu đó, một mật mã, vừa cuốn hút vừa thách thức giới nghiên

cứu phê bình suốt mấy chục năm qua là một điều dễ hiểu. Nhƣng, cái diện mạo bề bộn của

việc nghiên cứu Hàn Mặc Tử lại không dễ hiểu chút nào. Bản thân đối tƣợng đã hết sức

chông gai. Công việc tiếp cận đối tƣợng không phải lúc nào cũng thuận chèo mát mái.

Mãi đến năm 1987, khi Nhà xuất bản Văn học ấn hành “Tuyển tập Hàn Mặc Tử”, nhà

thơ Chế Lan Viên mới viết lời giới thiệu có cái nhan đề nổi tiếng “Hàn Mặc Tử, anh là ai?”.

Tuy nhiên, có thể thấy rằng đó chính là câu hỏi then chốt nhất, bao trùm nhất, lúc nào cũng

day dứt, cũng làm trăn trở giới nghiên cứu Hàn Mặc Tử suốt mấy chục năm qua.

2.1 VỀ THỜI GIAN.

Nhìn theo thời gian, việc trả lời câu hỏi “Hàn Mặc Tử, anh là ai?” đã tập hợp thành cà

một đội ngũ những nhà “Hàn học”. Nhìn chung đội ngủ này ngày một đông đảo. Nhƣng trên

từng thời điểm, “Hàn học giới” khi ồn ào, khi thƣa vắng ; về khu vực, ở chỗ này đông đúc,

chỗ khác lại lơ thơ. Điều này ít nhiều phản ánh số phận thăng trầm của di sản Hàn Mặc Tử

nói riêng và thơ mới nói chung. Dƣới đây sẽ là những bao quát về mặt thời gian của việc

nghiên cứu Hàn Mặc Tử nói chung, chƣa hẳn đã trực tiếp đến việc nghiên cứu “Thế giới nghệ

thuật thơ Hàn Mặc Tử”. Đơn giản vì, dùng trực tiếp đến khái niệm Thế giới nghệ thuật này sẽ

đƣợc xem xét trực tiếp hơn. Trên đại thể, lịch sử nghiên cứu Hàn Mặc Tử tự nó đã hình thành

ba giai đoạn lớn với những mốc thời gian tƣơng đối xác định : Một là, trƣớc 1945, hai là từ

1945 – 1987, ba là từ 1987 đến nay.

6

2.1.1. Trƣớc 1945. Sáng tác Hàn Mặc Tử đƣợc quan tâm nhiều, đặc biệt rộ lên khi

Hàn Mặc Tử qua đời (1940). Ý kiến đây đó có phân hóa, nhƣng đánh giá của giới nghiên cứu

có phần nghiêng về khẳng định. Ngoài những bài báo in lẻ tẻ, có thể thấy các công trình phê

bình nghiên cứu bề thế nhất đã đề cao Hàn Mặc Tử với các mức độ khác nhau, nhƣ “Thi nhân

Việt Nam” của Hoài Thanh – Hoài Châu, “Nhà văn hiện đại” của Vũ Ngọc Phan, nhất là công

trình “Hàn Mặc Tử, nhân thế và thi văn” của Trần Thanh Mại. (Đƣơng thời chƣa có một thi sĩ

nào của Phong trào Thơ Mới đƣợc viết riêng thành một chuyên khảo lớn đến thế !). Báo

“Ngƣời mới” cũng đã dành hẳn một số đặc biệt cho Hàn Mặc Tử với những lời đánh giá đầy

tâm huyết và ngƣỡng mộ của bạn bè Hàn, mà phần đông đều là những thi sĩ lẫy lừng tên tuổi

nhƣ Chế Lan Viên, Quách Tấn, Bích Khê, Hoàng Diệp, Yến Lan, Trọng Miên, Trần Thanh

Dịch…

2.1.2. Từ 1945 đến 1987. Việc nghiên cứu Hàn Mặc Tử hình thành hai khu vực. Phía

Bắc, do hoàn cảnh chiến tranh và quan điểm còn đƣơng ở giai đoạn trƣớc đổi mới, nên đội

ngũ có phần vắng vẻ, việc đánh giá còn chật hẹp và khẳng định còn dè dặt. Những chuyên

khảo lớn vắng bóng. Hàn Mặc Tử chỉ đƣợc nói đến nhƣ nhiều nhà Thơ Mới khác. Nếu có

điều gì đặc biệt hơn thì đó là Hàn Mặc Tử là trƣờng hợp khá tiêu biểu cho bƣớc đƣờng sa sút

suy đổi của Thơ Mới ở giai đoạn cuối. Có thể kể ra đây một số công trình thuộc khuynh

hƣớng này : “Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại”, “Phỏng vấn Thơ Mới 1932 –

1945”, “Từ điển văn học”, “Giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam” v.v... Trong khi đó, ở

phía Nam lại có phần rầm rộ đề cao Hàn Mặc Tử đã đến mức tột đỉnh. Hàn Mặc Tử đƣợc

nhắc đến trong hàng loạt những công trình nghiên cứu quan trọng nhất của giới học thuật bấy

giờ. Ở đâu, cái tên Hàn Mặc Tử cũng đƣợc choàng một vòng nguyệt quế. Thuộc vào số này là

công trình nghiên cứu, biên khảo của Võ Long Tê, Thái

7

Văn Kiểm, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Mộng Giác, Quáng Tấn, Đặng Tiến, Thanh

Lãng, Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng, Nguyễn Văn Trung v.v... đặc biệt là Hoàng

Diệp, một bạn thơ, thành viên của Trƣờng thơ Loạn ngày nào, với công trình phê bình “Hàn

Mặc Tử” (1971) đƣợc giải thƣởng hội văn bút Việt Nam. Hai tờ tạp chí nghiên cứu văn

chƣơng phát hành ở Sài Gòn cũng dàng hai số đặc biệt kỷ niệm Hàn Mặc Tử là “Tạp chí Văn

học” (20.12.1964) và “Tạp chí Văn” (7.1.1967). Ở những công trình này, các vấn đề về cuộc

đời, thân thế, thi pháp, hành trình sáng tạo của Hàn Mặc Tử đã đƣợc đặt ra, và nghiên cứu

khá công phu, đã có không ít những khám phá quan trọng. Có thể nói, nhờ những công trình

ấy mà câu hỏi “Hàn Mặc Tử, anh là ai?” đã đƣợc làm sáng tỏ khá nhiều điều.

2.1.3. Từ 1987 đến nay. Năm 1987 đối với Hàn Mặc Tử và giới nghiên cứu Hàn Mặc

Tử thật sự là một cái mốc quan trọng. Không khí đổi mới đã giải phóng tƣ duy ở mức đáng

kể. Thái độ đánh giá di sản cũ, nhất là Thơ văn lãng mạn đã cởi mở hơn rất nhiều. Nhiều nhà

Thơ Mới đã đƣợc nhìn nhận theo một tinh thần mới. Lần đầu tiên “Tuyển tập Hàn Mặc Tử”

đƣợc ấn hành trên toàn quốc. Nhà thơ Chế Lan Viên còn kịp viết một trong những lời giới

thiệu cuối cùng và tâm huyết nhất cho ngƣời bạn thơ xấu số (Trong thƣ gửi toàn Ban thƣ kí

Hội nhà văn, ngày 17.7.1988, Chế Lan Viên khẳng định rằng: “Tựa Hàn Mặc Tử cũng là đổi

mới đầu tiên về vấn đề đánh giá siêu thực, về vai trò của đau thƣơng”). Từ đây, việc nghiên

cứu Hàn Mặc Tử lại trở nên hƣng thịnh hơn bao giờ. Hàn Mặc Tử đƣợc đƣa vào giảng dạy ở

nhà trƣờng phổ thông nhƣ một trong những gƣơng mặt sáng giá nhất của Phong trào Thơ

Mới. đƣợc đƣa vào giảng dạy ở đại học nhƣ một tác gia của Văn học Việt Nam hiện đại. Thơ

văn Hàn Mặc Tử đƣợc tái bản nhiều lần, với nhiều dạng thật phong phú. Những công trình

sƣu tầm, hồi ký, chuyên khảo, chuyên luận, bình giảng đua nhau ra đời. Chƣa bao giờ Hàn

Mặc Tử đƣợc đề cao đến nhƣ bây giờ.

8

Cùng với những lời ngợi ca, sùng bái là những cố gắng nhận diện Hàn Mặc Tử ở

những chiều sâu mới. Hồi ký có “Hàn Mặc Tử, anh tôi” và “Hàn Mặc Tử trong riêng tƣ” của

Nguyễn Bá Tin ngƣời em trai của thi sĩ. Rồi những mẩu hồi ức của Trần Thanh Dịch, Nguyễn

Minh Vĩ, Phạm Hổ, Võ Đình Cƣờng... những bạn cũ của nhà thơ, hoặc nhân thân của những

ngƣời từng “liên quan” đến Hàn thi sĩ. Sƣu tầm có “Hàn Mặc Tử, Hƣơng thơm và Mật đắng”

của Trần Thị Huyền Trang, “Đi tìm chân dung Hàn Mặc Tử” của Phạm Xuân Tuyển, “Hàn

Mặc Tử, thơ văn và giai thoại” của Hà Vinh – Mã Giang Lân. Truyện luận – phê bình có các

công trình của Vƣơng Trí Nhân, Lại Nguyên Ân, Hoàng Nguyễnọc Hiến, Phan Cự Đệ, Đỗ

Lai húy, Nguyễn Quân, Nguyễn Tri Nguyên, Phạm Xuân Nguyê, Phan Quỳnh Nga, Hồ Thế

Hà v.v...Giảng bình tác phẩm có hàng loạt công trình của Nguyễn Đăng Mạnh, Lê Trí Viên,

Hoàng Trinh, Văn Tâm, Vũ Quần Phƣơng, Phạm Hổ, Cao Xuân Thử, Văn Giá, Ngô Văn

Phú, Trinh Đƣờng, La Khắc Hòa, Lê Bá Hán, Mã Giang Lan, Trần Đẵnguuyền, Mai Văn

Hoan, Nguyễn Nhật Huy, Lê Quang Hƣng, Lê Bảo, Tuệ Quang v.v...

2.2. VỀ CÁC KIỂU TIẾP CẬN.

Để trà lời câu hỏi “Hàn Mặc Tử, anh là ai?” ngƣời ta đã huy động hầu khắp các lối

tiếp cận mà khoa nghiên cứu văn học vẫn vận dụng để khám phá văn chƣơng. Nội điều này

đủ thấy nỗ lực lớn lao của giới “Hàn học” trong việc chiếm lĩnh đối tƣợng. Trên thực tế, ít có

công trình nào chỉ dùng riêng một phƣơng pháp, một phép đọc. Phối hợp liên phƣơng pháp

có lẽ là ý muốn của cả những ngƣời nghiên cứu lẫn đối tƣợng tiếp cận. Tuy nhiên, vẫn có thể

thấy rằng trong khi phối hợp nhiều kiểu tiếp cận, thì từng công trình vẫn dành ƣu thế cho một

kiểu chủ đạo, nổi trội nào đó. Ở đây, luận án chỉ đề cập những kiểu tiêu biểu. Không thể nói

là đã thâu tóm đƣợc tất cả.

9

2.2.1. Kiểu tiếp cận ấn tƣợng chủ quan. Không phải thuyết minh, cũng có thể thấy đó

là lối tiếp cận của Hoài Thanh và Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam (1932 – 1941). Dựa

vào ấn tƣợng chủ quan của cá nhân mình, “Lấy hồn tôi để hiểu hồn ngƣời”, các tác giả này

đã sắp xếp các tập thơ của Hàn Mặc Tử theo trật tự thời gian và ghi lại ấn tƣợng của mình

trƣớc từng tập kế tiếp ấy. “Bây giờ đã ra khỏi cái thế giới kỳ dị ấy và đã trở về với cuộc đời

tầm thƣờng mà ý nhị, tôi thử sắp xếp lại những cảm tƣởng hỗn độn của tôi”. Vì lấy thƣớc đo

bằng kinh nghiệm cá nhân để đối chiếu với kinh nghiệm của thi sĩ, rồi lại qui tụ ấn tƣợng vào

những câu đặc sắc nhất, nên lối tiếp cận này đã giúp hai nhà phê bình lấy ra đƣợc những câu

thơ hay “đọc lên nhƣ rƣới vào hồn những nguồn sáng láng”, bởi ở đó chứa đựng “những cảm

giác mà ta có thể có”. Còn thì “Ta rùng mình, ngơ ngác”. Nhƣ vậy, thế giới nghệ thuật Hàn

Mặc Tử, trong quan niệm của tác giả “Thi nhân Việt Nam” chỉ là một tập hợp những cảnh sắc

đƣợc xếp kế tiếp bởi các tập thơ mà chƣa hình dung về mọi liên hệ nội tại cũng nhƣ cấu trúc

toàn vẹn của nó. Nói cho đúng, khi tìm kiếm những ảnh hƣởng của các trƣờng phái thơ ca

Phƣơng Tây vào Thơ Mới, Hoài Thanh và Hoài Chân có đề cập đến hành trình qua các tập

thơ của Hàn Mặc Tử về phƣơng diện xu hƣớng :”(...) Chế Lan Viên đã đi từ Bandeclaire,

Edgar Poe đến Thơ Đƣờng và đi thêm một đoạn nữa cho gặp Thánh Kinh của đạo Thiên

chúa”. Đó cũng là một sự biến chuyển trong hành trình thơ ca Hàn Mặc Tử nhìn tổng thể. Dù

sao đó cũng chƣa hẳn là vận động nội tại của thế giới nghệ thuật.

Cố gắng khách quan hơn, có đƣa ra những tiêu chí mang tính khoa học hơn, nhƣng về

căn bản lối tiếp cận của Vũ Ngọc Phan trong phần viết về Hàn Mặc Tử ở cuốn “Nhà văn hiện

đại” cũng là trực cảm, cũng là những ấn tƣợng chủ quan. Tác giả ghi lại những cảm nhận của

mình về “những thi hứng”, “Lời

10

thơ ông, ý thơ ông”, “những cảnh chết chóc rùng rợn”, “những nhạc điệu”, v.v... Nghĩa là

thế giới nghệ thuật Hàn Mặc Tử đƣợc nhìn nhận theo lối phân lập ra từng yếu tố riêng lẻ, cục

bộ, chứ không đƣợc nhìn nhận nhƣ một chỉnh thể chặt chẽ. Bởi thế, nhà nghiên cứu có đƣợc

những đánh giá rất đáng chú ý nhƣ “Hàn Mặc Tử có những thi hứng rất dồi dào, nhƣng thơ

ông phần nhiều khúc mắc, nhạc điệu trong thơ ông hình nhƣ không phải là phần quan hệ, lời

thơ ông nhiều khi rất thô” hay “bên cạnh những bài tầm thƣờng, ngƣời ta thấy dƣới ngòi bút

ông những bài tuyệt tác” [ 115, 209 ]. Tuy nhiên, đó cũng là những đánh giá về các thành tố

rời, những bình diện lẻ, chứ không phải là sự tiếp cận vào thế giới nghệ thuật nhƣ một kiến

trúc toàn vẹn. Về phƣơng diện chỉnh thể, tuy “Nhà văn hiện đại” đƣợc viết sau, nhƣng lại

chƣa có đƣợc một ý niệm về thế giới thơ, dù chỉ lờ mờ tự phát nhƣ trong “Thi nhân Việt

Nam”.

2.2.2. Tiếp cận theo phƣơng pháp tiểu sử và phân tâm học. Nghiên cứu văn học từ góc

độ Phân tâm học không còn là một hƣớng đi mới mẻ. Hƣớng tiếp cận này xem hoạt động

sáng tạo nhƣ sự thăng hoa của những xung lực tâm lí có tính khởi thủy và của những ham

muốn bị dồn nén bởi không đƣợc thỏa mãn trong thực tại, phải tìm cách giải thoát và thỏa

mãn ở lĩnh vực huyễn tƣởng. Nhiều khi sáng tạo đƣợc xem nhƣ là biểu hiện những xung đột

bi kịch của những ham muốn vô thức với những thế lực cấm đoán về mặt xã hội hoặc đạo

đức [8, 257]. Xem xét những biểu tƣợng trở đi trở lại với mật độ dày trong sáng tác Hàn Mặc

Tử nhƣ là những “phóng chiểu” nhƣng “giải thoát” của một số ẩn ức bên trong của thi sĩ, coi

thơ Hàn là “sự chế ngự tài tình nhƣng dồn ép để rồi phát tiết ra những bài thơ cao đẹp”, đó là

lối tiếp cận và những thao tác phổ biến trong các công trình của Nguyễn Mộng Giác (Hàn

Mặc Tử và sự sáng tạo cuồng nộ). Đào Trƣờng Phúc (Hàn Mặc Tử, trăng và thơ), Bùi Xuân

11

Bảo (Thi ảnh khẩu cảm trong thơ Hàn Mặc Tử), Nguyễn Kim Chƣơng ( Hàn Mặc Tử đau

thƣơng và sáng tạo). Lê Huy Oanh ( Đọc lại “Chơi

12

giữa mùa trăng” của Hàn Mặc Tử ). Thậm chí cả Nguyễn Bá Tín khi viết hồi kí, lúc nhận diện

thơ của anh trai mình cũng tiếp cận theo lối này (Hàn Mặc Tử, anh tôi và Hàn Mặc Tử trong

riêng tƣ) v.v.. Song, ngƣời đầu tiên vận dụng lối tiếp cận này phải kể đến là Trần Thanh Mại.

Trong công trình “Hàn Mặc Tử, thân thể và thi văn”, nhà nghiên cứu đã tái dựng tiểu sử Hàn

Mặc Tử với những chặng đời chính, rồi sắp đặt các tập thơ tƣơng ứng với những quãng đời

ấy. Mặc nhiên coi các thi phẩm kia là sản phẩm trực tiếp của mỗi bƣớc đƣờng đời thi sĩ và

các biểu tƣợng thi ca cũng ra đời từ những ẩn ức sâu kín của hồn thơ này, bởi tác động khủng

khiếp của bệnh phong. Nhờ đó mà có lẽ Trần Thanh Mại là ngƣời đầu tiên phát hiện ra ảnh

hƣởng của chiêm bao trong thơ Hàn Mặc Tử: “Một phần nửa trong thi ca Hàn Mặc Tử là

chịu đựng ảnh hƣởng của chiêm bao” [81, 61], có lẽ cũng là ngƣời đầu tiên khám phá ra

Trăng. Hồn nhƣ là những biểu tƣợng có sức ám ảnh lớn đối với thi ca Hàn Mặc Tử. Hoàn

toàn có thể khẳng định rằng : trƣớc 1945, “Hàn Mặc Tử, Thân thế và thi văn” là công trình có

tầm cỡ nhất trong công cuộc nghiên cứu di sản Hàn Mặc Tử, không phải là công phu hay

khối lƣợng trang in, mà ở những cơ chế bên trong của sáng tạo thơ ca Hàn Mặc Tử. Ở hai tác

giả trên kia, việc tiếp cận nghiêng về chia cắt, tách rời. Các tập thơ đƣợc nhìn nhận khá biệt

lập với nhau. Thì Trần Thanh Mại có chú ý ít nhiều đến mối liên hệ bên trong giữa các tập

thơ, khi nhìn nhận cái cây sẽ mọc ở các tập sau đã thấy gieo mầm dây đó ở tập trƣớc “Cái

mùi hƣơng ở ĐAU THƢƠNG và XUÂN NHƢ Ý đã phảng phất ở đấy rồi. Và đọc một bài nhƣ

“Bẽn lẽn” của GÁI QUÊ rồi, thì về sau ta cũng không lạ gì mà có đƣợc viên ngọc vô ngần

quý giá nhƣ ở “Đà Lạt trăng mờ”, “Huyền ảo” hay “Đây thôn Vỹ Dạ” [84, 44]/ Tiếc rằng,

Nhà nghiên cứu đã không xem mối liên hệ bên trong một cách toàn diện và không quán triệt

điều này nhƣ một yếu tố then chốt tạo nên tính chỉnh thể cho một hành

13

trình nghệ thuật. Bởi vậy, thế giới nghệ thuật về căn bản vẫn chƣa thực sự hiện diện trong

quan niệm của nhà nghiên cứu này. Thừa hƣởng khá nhiều thành quả của những ngƣời đi

trƣớc, nhất là của Trần Thanh Mại, Huỳnh Phan Anh một ngƣời gắn kết thơ hết sức chặt chẽ

với tiểu sử ở bình diện thời gian, còn một ngƣời gắn thơ với kinh nghiệm tồn vong, cũng là

một thứ tiểu sử trên bình diện tâm thức chung nhất, Nguyễn Tân Long, trong “Việt Nam thi

nhân tiền chiến” (quyển hạ), về thực chất là phối hợp hai thiên hƣớng tiếp cận đó. Ông khẳng

định :”Cuộc đời của thi nhân có liên hệ đến cuộc đời của thi phẩm nhƣ hình với bóng, không

thể tách rồi hoặc cắt ra từng khúc đƣợc”. Và “Thi phẩm cũng chỉ là một cuộc đời của tình

cảm núp sau cuộc sống hiện hữu”. Từ đó, tác giả đi đến một quan niệm đáng lƣu ý, nhìn từ

phía luận án này : ông cho rằng cuộc đời thơ của Hàn Mặc Tử là “cuộc đời tình cảm”, nó nhƣ

một chỉnh thể. Và ông chia cái chỉnh thể ấy thành ba thời kì liên hệ móc xích vừa hữu cơ vừa

phân liệt:”Chúng tôi chia cuộc đời tình cảm của thi nhân làm ba thời kì : Thời kì bình thản,

Thời kì dao động và thời kì xoa dịu” [81, 313]. Cái nhìn chỉnh thể của Nguyễn Tấn Long, về

thực chất là đồng dạng với Hoài Thanh và Hoài Chân và Trần Thanh Mại. Nghĩa là chỉnh thể

chủ yếu trên bình diện thời gian. Nếu các tác giả “Thi nhân Việt Nam” có phần nghiêng về

hành trình của loại hình thi ca, tác giả “Hàn Mặc Tử, thân thế và thi văn” nghiêng về hành

trình thân phận, thì ngƣời viết quyển hạ, bộ “Việt Nam thi nhân tiền chiến” lại nghiêng về

hành trình tình cảm. Vận động trong thời gian một bình diện không thể không tính đến của

một thế giới nghệ thuật hoàn chỉnh. Ngƣời viết luận án chẳng những cần xem đây là một

bƣớc khám phá nội dung cần kế thừa mà còn coi đó là một tham khảo gần gũi về phƣơng

pháp. Nhƣng dầu sao lịch đại cũng chỉ là một bình diện phƣơng pháp, nó còn đƣợc bổ sung

bằng những bình diện khác nữa.

14

2.2.3. Kiểu tiếp cận xã hội học Mác xít. Có thể xem đây là lối tiếp cận chủ đạo của

các công trình nghiên cứu phía Bắc khoảng từ 1945 đến 1987. Tiêu biểu là các Giáo trình lịch

sử văn học Việt Nam hiện đại, các từ điển văn học và các Công trình nghiên cứu về thơ Hiện

đại và Thơ Mới. Đáng kể nhất là những chuyên luận của tác giả Phan Cự Đệ. Trong cuốn

“Phong trào Thơ Mới 1932 – 1945”. Tác giả này không nghiên cứu riêng Hàn Mặc Tử mà

xem xét Hàn Mặc Tử trong trào lƣu Thơ Mới nói chung. Tuy nhiên những đánh giá về Hàn

Mặc Tử lại là phần hết sức nổi trội và tiêu biểu cho lối tiếp cận này. Kiểu tiếp cận xã hội học

Mác xít quan niệm một hiện tƣợng văn học trƣớc hết là một hiện tƣợng thuộc ý thức xã hội.

phát ngôn văn học đƣợc xem nhƣ một phát ngôn gián tiếp và trực tiếp của ý thức xã hội chính

trị của ngƣời viết. Bởi thế, xem xét Hàn Mặc Tử, nhà nghiên cứu cũng muốn tìm kiếm một

trục tƣ tƣởng xuyên suốt sự nghiệp thơ ca của thi sỹ. Tiếc rằng những quan niệm nghệ thuật

trƣờng bị đánh đồng với quan điểm xã hội chính trị nên Hàn Mặc Tử bị xem nhƣ một hiện

tƣợng suy đồi tiêu biểu của Thơ Mới. “Cuối thời kì thứ nhất đã thấy những dấu hiệu suy đồi

của thời kỳ thứ hai: “Đau thƣơng” (Hàn Mặc Tử) Xác thu (Hoàng Diệp); 1939 Tinh huyết

(Bích Khê) Xuân nhƣ ý của Hàn Mặc Tử”, “Hàn Mặc Tử là dấu nối giữa thời kỳ thứ nhất và

thời kỳ suy đồi. – CVS) thứ hai [34, 51]/

Điều đáng là bƣớc sang thời kỳ đổi mới, tác già này cũng đã có một thay đổi hoàn

toàn và kịp thời trong cách đánh giá về hiện tƣợng Hàn Mặc Tử. Trong công trình “Thơ văn

Hàn Mặc Tử ( phê bình và tƣởng niệm)” đƣợc biên soạn công phu, nghiêm túc, với nhiều tƣ

liệu quí hiếm mà nhiều công trình khác cũng chƣa sƣu tầm đƣợc. Giáo sƣ Phan Cự Đệ cũng

có một bài tiểu luận dày dặn riêng về Hàn Mặc Tử, với nhan đề “Hàn Mặc Tử sống mãi với

thời gian”. Vẫn trung thành với lối tiếp cận xã hội học Mác xít, nhƣng với các nhìn cởi mở

hơn rất nhiều, với tấm lòng rộng rãi hào phóng, có thể nói công

15

trình này là một sự đính chính, một cuộc đời mới vƣợt bậc trong tƣ duy tác giả của nó. Trung

thành với cách trƣớc sau, ông vẫn xem quan niệm nghệ thuật của Hàn Mặc Tử là “nghệ thuật

vị nghệ thuật” – nhƣng giờ đây ông nhận diện để cảm thông ghi nhận chứ không phai lên án

phủ nhận gay gắt nhƣ trƣớc: “Do quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật – Ông viết – nên Hàn

Mặc Tử đã đi đến kết luận rằng những “yếu tố của thơ ca” (elements de la poésie) chỉ là

“trăng, hoa, nhạc, hƣơng”. Và cũng dễ cảm khi thi sĩ mặc bệnh hiểm nghèo, sống cô đơn, xa

lánh mọi ngƣời trong những xóm vắng ven bờ biển thì nguồn cảm hứng của nhà thơ bất hạnh

chỉ còn là “Say trăng, say ngƣời thục nữ, say kinh cầu nguyện, say trời tƣơng tƣ” [35, 14] Do

đó, nêu ở cuốn “Phong trào Thơ Mới 1932 – 1945” là có phần nghiêng về phủ nhận, thì ở đây

là một sự khẳng định nhiệt thành. “Điều đáng nói là chúng ta cám ơn thi nhân đã dồn hết bao

nhiêu nguồn máu lệ, đã từng uống mật đắng cay trong khi miệng vẫn tƣơi cƣời sốt sắng” gửi

đến cho chúng ta những bài “thơ sáng láng phƣơng phi nhƣ một mùa Xuân nhƣ ý” . (...) và

chúng ta tin rằng hôm naycũng nhƣ mai sau :”Thơ anh sẽ nhƣ trầm hƣơng ngào ngạt tỏa lên

cao lồng lộng giữa trời xanh” [35, 79]. Bài tiểu luận ấy có hay phần, thì phần đầu có một tiêu

đề đáng chú ý “Thế giới nghệ thuật độc đáo của Hàn Mặc Tử”. Ở đây, học giả đã quan tâm

đến khái niệm “Thế giới nghệ thuật”. Bằng những phân tích và nhận diện về thơ ca Hàn Mặc

Tử trên những bình diện nhƣ quan niệm thơ, khuynh hƣớng thơ và một số đề tài thơ, Học giả

đã có những nhận định đáng chú ý mà luận án có thể tham khảo trực tiếp. Ví dụ “Vũ trụ thì

coi Trời thơ của Hàn Mặc Tử là sự hòa hợp giữa bốn yếu tố “Trăng, hoa, nhạc, hƣơng” [35,

17]. Hoặc nhận định về sự chuyển dịch trên bình diện khuynh hƣớng thơ :”Tập Đau thƣơng,

nhìn chung đã thấm đẫm màu sắc thơ Tƣợng trƣng (...) Với Xuân Nhƣ ý, Thƣợng Thanh khí,

Cẩm châu duyên, Duyên ngỏ, Quân Tiên hội, Hàn Mặc Tử đã từ tƣợng trƣng chuyển dần

sang siêu

16

thực” hay “Hàn Mặc Tử đã đi một đƣờng dài từ thơ Đƣờng cổ điển chuyển nhanh sang lãng

mạn, tƣợng trƣng và đã chớm đến bờ siêu thực” [35, 15-21]. Trong phần sau, có tên là “Chất

Đạo và Chất Đời trong thơ Hàn Mặc Tử”, tác giả đã tiếp tục đặt ra và đề xuất những kiến giải

xung quanh một trong những vấn đề phức tạp vào bậc nhất của thơ Hàn Mặc Tử là yếu tố

Tôn giáo. Đây cũng là một cố gắng nghiên cứu sâu về một yếu tố góp thêm một phía nhìn

vào giới nghệ thuật của thi sĩ. Tuy vậy, Thế giới nghệ thuật ở đây vẫn chƣa phải là khái niệm

bao hàm một chỉnh thể, một cấu trúc, trong đó tƣ tƣởng nghệ thuật của nhà văn là một trục

xuyên suốt của một hệ thống biểu tƣợng sống động, châu tuần xung quanh là ba hình tƣợng

bao trùm – hình tƣợng Cái Tôi, hình thƣợng Nàng Thơ và hình tƣợng Thế giới. Có nghĩa là :

Tuy có cùng một tên gọi, nhƣng thế giới nghệ thuật ở đấy không phải là đối tƣợng theo quan

niệm của luận án này.

2.2.4. Lối tiếp cận triết học. Các công trình của Đặng Tiến, Võ Long Tê đều ít nhiều

có những thao tác của lối tiếp cận này. Nhƣng điển hình nhất vẫn là Nguyễn Xuân Hoàng với

tiểu luận “Nỗi khắc khoải siêu hình trong thơ Hàn Mặc Tử” và Huỳnh Anh Phan với công

trình “Văn chƣơng và kinh nghiệm Hƣ vô”. Cả hai công trình này đều là những nỗ lực vận

dụng triết học hiện đại, nhất là những tƣ tƣởng của Heideger (1889 -1976) về nguồn gốc của

nghệ thuật và lý thuyết tiếp nhận để nghiên cứu Hàn Mặc Tử. Coi kinh nghiệm Hƣ Vô là kinh

nghiệm bào trùm và xuyên suốt của con ngƣời khi đối mặt với Hƣ Vô, và tồn sinh nghĩa là

đang Hƣ Vô hóa, Huỳnh Phan Anh đã đi đến những kết luận theo hƣớng của mình :”Thi sĩ

sống cõi chết của mình. Hƣ Vô chính là kinh nghiệm thi sĩ” [2. 128]. Và tác đã đã vận dụng

quan điểm đó vào trƣờng hợp Hàn Mặc Tử. “Thơ Hàn Mặc Tử đã đƣợc chú giải bằng nhiều

cách, nhìn ngắm từ nhiều khía cạnh, (..) tại sao không nhìn nó nhƣ một kinh nghiệm

17

trƣớc hết của một con ngƣời, một thực tại con ngƣời ngay trong thân phận, trong sử tính đích

thực của nó?” [2, 123]. Từ đó, Huỳnh Phan Anh nhìn sâu vào một biểu tƣợng khá nổi bật của

thơ Hàn Mặc Tử là Trăng, và nhận định : “Thi sĩ nói nhiều tới Trăng, nhắc nhiều tới trăng.

Trăng lấp đầy thi hứng. Trăng biểu hiện niềm cô đơn tuyệt đối” [2, 125]. Để cuối cùng đã

nâng một đặc điểm từng đƣợc những ngƣời đi trƣớc ( mà đầu tiên là ý kiến của Nguyễn

Mộng Giác [44]) đề cập ít nhiều lên thành một luận điểm hạt nhân, rồi đi đến một nhận định

bao trùm về thơ Hàn Mặc Tử : “Thơ và đau thƣơng. Thơ là kinh nghiệm đau thƣơng đó”. Có

lẽ không phải tình cờ tập thơ xuất sắc nhất của thi sĩ nhan đề “Đau thƣơng”. Nếu cần ngƣời ta

chỉ có thể thâu tóm thơ Hàn Mặc Tử về một ý niệm tƣơng tự, một ý niệm nền tảng. Thơ vẽ

nên chân dung hƣ hoại của kiếp ngƣời. Thơ đào sâu kinh nghiệm thiếu sót, tình cảm bại vong

trong hành trình bát ngát của thân phận ngƣời” [2, 126]. Vậy là Lối tiếp cận triết học đƣợc

vận dụng bởi một nhãn quang cụ thể của Huỳnh Phan Anh chỉ đƣa tác giả này đến những

nhận định tổng quát về thế giới nghệ thuaajtcuar Hàn Mặc Tử nhƣ một minh chứng cho lý

thuyết về văn chƣơng, hơn là việc tiếp cận thế giới thơ Hàn một cách kỹ lƣỡng toàn diện. Và

bở thế nhận định của Huỳnh Phan Anh cũng mang màu sắc ấn tƣợng chủ quan khá đậm.

Tiếp tục hƣớng này, một vài tác giả khác đã cụ thể hóa hơn. Chẳng hạn, Đặng Tiến

:”Ở đây, ta bắt gặp ba hình tƣợng Trăng, Hồn, Máu dồn dập lại trong tƣơng quan rất chặt

chẽ : nhà thơ khạc hồn ra khỏi miệng, hay điêu cuồng mửa máu ra, hay ngậm cả miệng là

trăng là trăng, cả ba hình ảnh đều rõ và từ thân xác Đau thƣơng”. Nghĩa là xét đến cùng,

Đặng Tiến cũng coi các biểu tƣợng kia là hiện thân của kinh nghiệm đau thƣơng (có điều Tác

giả này chỉ thấy Đau thƣơng của thân xác). Một tác giả khác là Nguyễn Kim Chƣơng đã lặp

lại Nguyễn Mộng Giác và cụ thể hóa Huỳnh Phan Anh rằng tất cả là Đau thƣơng :”Hƣơng

thơm là đau thƣơng của

18

khứu giác, Mật đắng là đau thƣơng của Vị giác, máu cuồng là đau thƣơng của một thân thể

rỉ ra để thành những dòng chữ” [21, 14]. Vẫn chỉ là cái đau thuộc phạm trù thân thể. Tham

vọng của Lối tiếp cận triết học ở đây là muốn xem Hàn Mặc Tử nhƣ một minh chứng, một dữ

kiện của lý thuyết văn học nhìn từ triết học duy tâm về sáng tạo. Bởi vậy thế giới nghệ thuật

của Hàn Mặc Tử chƣa đƣợc xem là đối tƣợng thực sự mà chỉ là một điểm tựa triết học còn

nhiều phiến diện.

2.2.5 Lối tiếp cận Ngôn ngữ - Văn hóa học. Những đại diện của lối đi này phải kể đến

Đặng Tiến, Võ Long Tê, Nguyễn Quân – Đỗ Lai Thúy, Lại Nguyên Ân... Những ngƣời đi

theo lối này, một mặt bám sát các sự kiện ngôn ngữ mang tính tự tại, mặt khác cũng nhìn

nhận những mã (code) trong thơ Hàn Mặc Tử trong mọi liên hệ với Tôn giáo, Cho nên thế

giới thơ Hàn Mặc Tử đƣợc xem nhƣ là hiện thân của tôn giáo trong thơ. Đặng Tiến tìm kiếm

Đức tin trong thơ Hàn Mặc Tử một cách kỳ công để rồi khẳng định dứt khoát : Các tập thơ

của Hàn Mặc Tử là sự tƣơng ứng chặt chẽ với thế giới Kitô giáo trong Thánh kinh : “Nếu gái

quê là thế giới chờ đợi Điềm lạ, đợi chờ chúa ra đời thì Đau thƣơng là một tâm hồn mong

mỏi ngày Chúa trở lại và Xuân nhƣ ý là thế giới Khải Huyền.”. Mà cách nhìn nhận và tiếp

cận tổng quát của Đặng Tiến là :”Tôi cố chứng mình là kiến trúc toàn bộ của thơ Hàn Mặc

Tử đến vang dội lời truyền giảng của Phúc Âm” [145, 4-5] Còn Võ Long Tê thì chứng minh

hành trình nghệ thuật của Hàn Mặc Tử chính là “Vận động biện chứng khiến Hàn Mặc Tử, tín

hữu công giáo làm thơ trở thành Hàn Mặc Tử, nhà thơ công giáo”. Đỗ Lai Thúy cũng tan

thành âm hƣởng tôn giáo nhƣng dựa thêm vào ý kiến của Chế Lan Viên mà nói rằng Tôn giáo

trong thơ Hàn Mặc Tử không hẳng là một tôn giáo cụ thể nào mà Hàn Mặc Tử hƣớng tới một

“Tôn giáo vũ trụ” và cho rằng tƣ duy thơ của Tử là “Tƣ

19

duy tôn giáo” với những chứng minh bằng các thao tác của Văn hóa học. Những điều vừa kể

đây có những khía cạnh khả thủ và nhiều khía cạnh bất cập, sẽ đƣợc nói đến cụ thể trong

phần nội dung luận án.

2.2.6. Lối tiếp cận nghiêng về thi pháp học. Đó là các công trình của Phan Kim Thịnh,

Lê Huy Oang, Bùi Xuân Vảo, Đào Trƣờng Phúc, Phạm Bình, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn

Mộng Giác, Trần Đình Sử ... Vận dụng triệt để các thao tác cơ bản của thi pháp nhƣ phân tích

những hình thức mang tính quan niệm với tần số lặp lại cao, các tác giả này đã có những phát

hiện về các chuỗi hình ảnh, hình tƣợng nằm rải rác trong thơ Hàn Mặc Tử chẳng hạn nhƣ

Trăng, nhƣ Thi ảnh khẩu cảm, nhƣ Đau thƣơng, nhƣ hiện tƣợng tan loãng trong Hàn Mặc

Tử...Đó đều là những khía cạnh thực sự đặc sắc của thế giới thơ Hàn. Còn Hoàn Ngọc Hiến

qua việc phân tích một bài thơ cụ thể là “Trăng tự tử”, đã đi đến một nhận định bao quát về

thế giới thơ Hàn Mặc Tử chính là sản phẩm của một hình thái tƣ duy đặc thù: nó không phải

là siêu thoát, siêu thực mà là siêu thức [52, 7]. Và Nguyễn Mộng Giác thì cho rằng đó là sản

phẩm của hình thái sáng tạo cuồng nộ [24, 9]. Tuy nhiên, các tác giả đi theo hƣớng này hoặc

chỉ quan tâm đến những bình diện riêng biệt, hoặc chỉ nhận diện một cách khai lƣợc. Bởi vậy,

thế giới nghệ thuật của Hàn Mặc Tử vẫn chƣa đƣợc nhìn nhận nhƣ một chỉnh thể với những

mối dây liên hệ ràng rịt mà nhất quá của nó.

2.2.7. Lối tiếp cận so sánh văn học. Điển hình cho lối đi này là các công trình nghiên

cứu của Vƣơng Trí Nhàn. Thực ra trong các`hƣớng tiếp cận đƣợc trình bày ở trên, so sánh là

một thao tác chúng ta thƣờng gặp. Nhƣng ở đó việc so sánh chỉ là một thủ pháp nhỏ, chỉ là

thao tác nhằm chứng minh cho một vài ý tƣởng cụ thể nào đó. Còn với Vƣơng Trí Nhàn, so

sánh đã thực sự thành phƣơng pháp tƣ duy để giúp tác giả viết nên hai công trình “Vẻ đẹp kỳ

dị hay Hàn Mặc Tử trong những liên hệ với nghệ thuật hiện đại” và “ Hồn thơ siêu

20

thoát” (Hàn Mặc Tử trong sự so sánh với cá thi sĩ đƣơng thời – Xuân Diệu, Huy Cận, Chế

Lan Viên và Nguyễn Bính). So sánh là xem xét sự vật này trong quan hệ đối sánh với một sự

vật khác, là dùng ánh sáng tỏa ra từ sự vật khác để soi chiếu vào sự vật cần xem xét. Nhờ đó

ngƣời ta có thể khu biệt đƣợc những nét đặc thù của sự vật mình dâng cần chiếm lĩnh. Vƣơng

Trí Nhàn đã thực hiện thao tác này ở những bƣớc sơ bộ khi đặt Hàn Mặc Tử so với Hội họa

hiện đại mà đại diện là Salvador Dali để nhận ra sự tƣơng đồng (không hẹn trƣớc) với trào

lƣu nghệ thuật hiện đại này. Từ đó nhà nghiên cứu đã xếp thờ Hàn Mặc Tử vào hàng ngũ

những nghệ sĩ tiên phong của nghệ thuật hiện đại. Căn cứ chủ yếu là Vẻ đẹp kì dị vẫn gặp

trong thơi Hàn Mặc Tử rất gần gũi với vẻ đẹp kì dị trong tranh của các họa sĩ phƣơng Tây

này. Ở một phía khác, Vƣơng Trí Nhàn lại đặt ngôi sao Hàn Mặc Tử vào giữa chòm sao rực

rỡ nhất của Thơ Mới là Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên và Nguyễn Bính đã tìm ra nét

tƣơng phản, dị biệt. Tất nhiên những so sánh của tác giả này chƣa toàn diện, phần nhiều

mang tính ngẫu hứng và nghiêng về cảm tính. Lối tiếp cận này sẽ có triển vọng hơn nếu

ngƣời nghiên cứu xem xét thế giới nghệ thuật Hàn Mặc Tử một cách toàn diện nhƣ một cấu

trúc, một chỉnh thể để đối sánh với các chỉnh thể nghệ thuật của các tác giả kia. Có nhƣ vậy

gƣơng mặt nghệ thuật của Hàn Mặc Tử mới hiện lên thật rõ nét. Dẫu sao, những kết quả so

sánh bƣớc đầu tiên những bình diện lẻ tẻ vẫn cho thấy đó là một hƣớng đi, một lối tiếp cận

khả thi. Luận án này cũng sẽ xem đây là một thao tác hữu ích để tiến hành khảo sát đối tƣợng

của mình.

2.2.8. Lối tiếp cận siêu hình thần bí. Đây là hƣớng tiếp cận mang màu sắc thần học.

Xuất phát điểm của nó là thừa nhận những hiện tƣợng thần bí, thế giới thần bí là hiện hữu,

thậm chí là một hiện thực, mà không phải cá nhân nào cũng có may mắn thị kiến, trải

nghiệm. Nó không thể mình định bằng thực chính khách quan, mà chủ yếu dựa vào những

khinh nghiệm dị biệt, dị đoan và đức tín đơn thuần. Không phải ngẫu nhiên mà phần đông

những ngƣời

21

đọc Thơ Hàn Mặc Tử theo lối này đều là những con chiêu ngoan đạo. Tiêu biểu cho hƣớng đi

hiếm hoi nhƣng cũng không hoàn toàn lẻ loi này là công trình nghiên cứu của Dũng Lạc Trần

Cao Tƣờng: “Hàn Mặc Tử, nhà thơ thần bí”. Trong phần “Thấy đƣợc những huyền bí bên kia

cõi chết qua hiện tƣợng Hàn Mặc Tử”, dựa vào những mô tả và kết luận mang tính siêu

nghiệm in đậm nhãn quan Thiên chúa giáo về những hiện tƣợng huyền bí diễn ra khi con

ngƣời cận kề cái chết và những gì một ngƣời chết lâm sàng từng thấy và kể lại khi đã khỏi

trạng thái “chết lâm sàng” ấy trong hai cuốn sách “Đời sau” (1975) của bác sĩ Raymoond

Moody và “Đƣợc ánh sáng biến đổi” (1992) của bác sĩ Melvin Morse, tác giả Dũng Lạc

Trần Cao Tƣờng đã khẳng định những hiện tƣợng “hồn lìa khỏi xác”, hồn bay vùn vụt rồi bị

cuốn vào một “ống tối dài” hun hút thăm thẳm, bất chợt đƣợc bay, đƣợc “tắm trong một

nguồn sáng đầy yêu thƣơng và an bình” và đƣợc “ánh sáng biến đổi”…trong thơ Hàn Mặc Tử

đều là hiện tƣợng có thực. Hàn Mặc tử đã thƣờng xuyên trải nghiệm và chỉ ghi lại hiện thực

kì bí đấy một cách trung thành. Thế giới hình ảnh về một cõi trời huyền ảo là những thị kiến

tâm linh hiện hữu chứ không phải là những sản phẩm của một trí tƣởng tƣợng thi sĩ. Có thể

nói Hàn Mặc Tử là ngƣời đã chớm bƣớc qua một cõi khác rồi lại trở về cõi này để tiết lộ cho

chúng ta những bí mật của cái cõi huyền bí đó. “Hàn Mặc Tử đã làm những đức tin bằng thơ

văn về những huyền bí đã thấy bằng thực chứng qua những lần chết đi sống lại” [127, 8-9].

Lối tiếp cận này cuối cùng đi đến một khẳng định gần gũi với những gì mà tác giả Đặng Tiến

thể hiện trong các công trình của mình, đó là: “Đọc thơ Hàn Mặc Tử thì một ngƣời ngoài

công giáo cũng nhận ra có linh hồn, có thung lũng “ngục tổ tông” bóng tối sự chết, có phần

xét, có thiên đàng, có hỏa ngục, có buồn có vui, mọi sự sẽ “qui tụ thân về một mối”, và nhất

là có Chúa là nguồn Ánh Sáng Tình Yêu” [127, 9]. Lối tiếp cận này muốn có đƣợc sức thuyết

phục thật sự cần có những thực chứng xác thực. Thiếu căn cứ thực chúng, có chỉ là những ức

thuyết. Vả chăng, giá trị

22

nghệ thuật của một thế giới hình tƣợng thi ca không hề phụ thuộc và điều đo. Những gì đƣợc

tạo ra trong thơ ca có xuất phát từ những gì đã “mục sở thị” hay không, không mấy quan

trọng. Điều quyết định trƣớc sau vẫn là tính nghệ thuật và những giá trị nhân văn mà nó chứa

đựng. Cho nên, xét đến cùng, đây là một hƣớng nghiên cứu của khoa “ Thần bí học” lấy thơ

Hàn Mặc Tử làm tài liệu khảo chứng mong tìm những bằng chứng thần bí trong thơ ca, hơn

là một hƣớng tiếp cận của “Nghệ thuật học” đi tìm những giá trị chân chính của nghệ thuật

thi ca. Dầu sao kết quả của lối tiếp cận này cũng có một tác dụng không ngờ đó là thêm một

căn cứ nữa để khẳng định cho một ý tƣởng Thơ Hàn Mặc Tử hƣớng về một thức Siêu nghiệm

mà Luận án sẽ trình bày trong phần nội dung.

Trên đây ngƣời viết vừa điểm qua tám lối tiếp cận cơ bản mà giới “Hàn học” đã vận

dụng để tích cực trả lời câu hỏi “Hàn Mặc Tử, anh là ai?”. Có thể còn những lối tiếp cận

khác, luận án chƣa kịp bao quát, hoặc có thể các hƣớng tiệp cận đôi khi liên đới, hay đƣợc

phối hợp vận dụng đồng thời ngay trong một tác giả, trong cùng một công trình. Ngƣời viết

đã cố gắng trình bày theo lối tách biệt để dễ hình dung. Khi mạo muội làm việc này, ngƣời

viết cũng ý thức rằng thực tế bao giờ cũng phong phú và sống động hơn bất cứ sự khái quát

nào. Đó là một qui luật bất khả kháng.

2.3 NHỮNG VẤN ĐỀ CHƢA NGÃ NGŨ.

Nhiệm vụ của phần lịch sử vấn đề chính là xem xét “Thế giới nghệ thuật của Hàn

Mặc Tử” đã đƣợc giới nghiên cứu đề cập và giải quyết nhƣ thế nào? đến đâu ?...không phải là

xem xét mọi vấn đề về Hàn Mặc Tử. Nhƣng thế giới nghệ thuật của Thi sĩ này có khi đƣợc

tiếp cận trên toàn thể, có khi chỉ đƣợc đề cập ở một khía cạnh nào đó. Cho nên, sẽ là thiếu sót

nếu nhƣ chỉ lƣớt qua lịch sử trên toàn thể với các hƣớng tiếp cận cơ bản mà không quan tâm

đến những trọng điểm “nổi cộm” trong đó.

23

Có thể thấy rằng, thế giới nghệ thuật của Hàn Mặc Tử, ngay từ đầu và cho đến tận bậy

giờ còn tiếp tục đặt ra những vấn đề lớn luôn đòi hỏi đƣợc phải quyết nhƣ sau:

- Một là, TÌNH (hay cảm xúc thơ). Ở đây có mấy khía cạnh. Về nguồn gốc: Tình, cảm

xúc trong thơ Hàn Mặc Tử bắt nguồn trong Tình Cảm hay Dục tình? Hay là sự đồng thời xáo

trộn cả hai. Về tính chất: Dục tình nên đƣợc quan niệm thế nào? Là lành mạnh hay thấp hèn,

vẩn đục? Về sắc thái: Tình trong thơ Hàn Mặc Tử nghiêng về lòng lòng yêu nƣớc hay tình

bạn, tình yêu? Phƣơng diện nào nắm vai trò chủ đạo?

- Hai là, ĐIÊN. Vấn đề này cũng có nhiều khía cạnh: a) Thơ Tử là điên thật hay vờ

điên? b) Điên ở Tử là thuộc Lôgic nội tại của một cá tính thơ hay do ngoại nhập - ảnh hƣởng

từ một trƣờng phái thơ nƣớc ngoài nào đó? c) Bản chất của trạng thái Điên này là gì? Là một

trạng thái bệnh lí hay một trạng thái sáng tạo đặc biệt? Hay bao gồm cả hai? d) Điên có

những biểu hiện thế nào? Nó là đối tƣợng sáng tạo hay là phƣơng tiện của sáng tạo ấy?

- Ba là, ĐAU THƢƠNG. Có thể thấy ở đây ít nhất hai khía cạnh của vấn đề. a) Về

thực tế, Đau thƣơng ở Hàn Mặc Tử đau đớn thân xác bởi bệnh tật dày vò hay là đau thƣơng

tinh thần bởi những tổn thƣơng không thể đền bì khỏa lấp? b) Về bản chất, Đau thƣơng là gì?

- Bốn là, TÔN GIÁO. Yếu tố Tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử là điều ai cũng nhận

thấy. Nhƣng ảnh hƣởng của nó thuộc những phƣơng diện nào trong thế giới nghệ thuật Hàn

Mặc Tử? Thuộc phạm trù Tình cảm (Đức tín Tôn giáo?) hay tƣ duy nghệ thuật (tƣ duy tôn

giáo)? Và tôn giáo ở Hàn Mặc Tử chỉ thuần là Công giáo hay gồm cả Phật giáo? Là một tôn

giáo xác định hay là một kiểu tôn giáo vũ trụ? hay thuộc về một quan niệm tôn giáo hoàn

toàn khác?

24

- Năm là, KHUYNH HƢỚNG THƠ. Thơ Hàn Mặc Tử diễn ra theo một hành trình

phức tạp và cũng mang một diện mạo phức tạp. Giai đoạn đầu dễ thống nhất. Nhƣng giai

đoạn sau – kể sau “Đau thƣơng” trở đi – Thơ Tử là Tƣợng trƣng hay Siêu thực? Là Siêu thực

là Siêu thức? Là Hiện đại chủ nghĩa hay Hậu hiện đại?...

- Luận án không có tham vọng giải quyết tất cả những vấn đề này. Nhƣng luận án

quan niệm rằng: các vấn đề đó tồn tại rằng rịt với nhau, tồn tại trong nhau, và chúng chỉ có

thể đƣợc giải quyết, hoặc có hi vọng đƣợc giải quyết, khi chúng đƣợc đặt trong chỉnh thể của

giới nghệ thuật Hàn Mặc Tử. Sự ràng rịt của các yếu tố ấy góp mình tạo nên cấu trúc phức

tạp của thế giới nghệ thuật Hàn Mặc Tử. Đến lƣợt mình, thế giới nghệ thuật Hàn Mặc Tử, với

tính chỉnh thể của nó, sẽ giúp cho việc tiếp cận riêng từng yếu tố ấy một cách đúng mức và

chuẩn xác hơn. Về điểm này, luận án chỉ xác định một mong muốn khiêm tốn là trên cơ sở tái

tạo thế giới nghệ thuật Hàn Mặc Tử với những đƣờng nét chính sẽ góp một phần nào tháo gỡ

những vấn đề hết sức phức tạp ấy.

2.4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.

Về thực chất, thế giới nghệ thuật của nhà văn là thuộc về một phạm trù xác định của

văn học sử: phạm trù tác giả văn học. Bởi thế, hệ thống phƣơng pháp và thao tác đƣợc vận

dụng để giải quyết đề tài là thuộc phƣơng pháp luận nghiên cứu tác giả văn học.

Cụ thể, luận án sẽ phối hợp phối hợp các phƣơng pháp cơ bản sau đây:

2.3.1. Từ quan niệm thế giới nghệ thuật của nhà văn là một thế giới thẩm mỹ sống

động, nếu thiếu đi khâu cảm thụ thẩm mỹ nhƣ là một bƣớc tiến quyết, tạo tiền đề cho tất cả,

thì không thể thâm nhập đƣợc vào vẻ đẹp sống động của thể giới đó. Bởi vậy, luận án sẽ vận

dụng thao tác phân tích thẩm mĩ

25

truyền thống và thao tác thống kê để phát hiện tìm kiếm hệ thống những hình tƣợng trở lại

nhƣ một ám ảnh trong thế giới thơ Hàn Mặc Tử.

2.3.2. Từ quan niệm thế giới nghệ thuật bao giờ cũng là một chỉnh thể, một cấu trúc

toàn vẹn với một quan hệ nội tại ràng rịt, phức tạp, luận án sẽ vận dụng phƣơng pháp Tiếp

cận hệ thống phối hợp với Thi pháp học để: một mặt, tái tạo lại diện mạo của thế giới hình

tƣợng thơ Hàn Mặc Tử trên những nét lớn; mặt khác, hình dung về mối quan hệ của các hệ

thống biểu tƣợng hình thành nên chỉnh thể ấy. Nghĩa là xem xét thế giới nghệ thuật Hàn Mặc

Tử trong các bình diện cấu trúc của nó.

2.3.3. Từ quan niệm thế giới nghệ thuật không tĩnh tại mà luôn vận động, luận án sẽ

vận dụng Phƣơng pháp so sánh để: vừa xem xét các yếu tố cấu thành thế giới hình tƣợng

trong sự biến chuyển qua các chặng sáng tác cơ bản của Hàn Mặc Tử, từ đó hình dung về

diện mạo biến đổi của nó – nghĩa là tìm hiểu trên bình diện Lịch dại, vừa đối chiếu với một

số tác giả khác để góp phần khu biệt những đặc sắc của thế giới nghệ thuật riêng của Hàn

Mặc tử nghĩa là tìm hiểu trên bình diện Đồng đại.

2.5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN

2.5.1. Lần đầu tiên Lịch sử vấn đề nghiên cứu Hàn Mặc Tử và Thế giới nghệ thuật

Hàn Mặc Tử đƣợc xem xét một cách tổng quan tƣơng đối đầy đủ và cố gắng thâu tóm những

vấn đề bao trùm suốt mấy chục năm nghiên cứu của giới nghiên cứu Hàn Mặc Tử.

2.5.2. Lần đầu tiên Quan niệm thơ của Hàn Mặc Tử đƣợc xem xét một cách có hệ

thống trên những dạng biểu hiện phong phú nhất của nó. Giúp cho ngƣời đọc Hàn Mặc Tử

nắm đƣợc hạt nhân của quan niệm này và hệ thống biểu hiện sinh động đầy mâu thuẫn của

nó.

2.5.3. Lần đầu tiên Thế giới hình tƣợng nghệ thuật của Hàn Mặc Tử

26

đƣợc xem xét, mô tả và lý giải trên những bình diện chính và liên quan hữu cơ với nhau: a)

Tƣ tƣởng nghệ thuật Hàn Mặc Tử; b) Hình tƣợng Cái Tôi Hàn Mặc Tử: c) Hình tƣợng nàng

thơ của Hàn Mặc Tử; d) Hình tƣợng Thế giới trong thơ Hàn Mặc Tử.

2.5.4. Lần đầu tiên Hình thức Thơ điên của Hàn Mặc Tử đƣợc mô tả và lý giải một

cách hệ thống và cụ thể không chỉ với các đặc trƣng thẩm mĩ nổi bật của nó mà cả quy luật

hình thành của Thơ điên trong tiến trình Thơ Mới đƣơng thời.

2.6. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, trong phần Nội dung, luận án sẽ triển khai

thành các chƣơng mục chính và với một cấu trúc nhƣ sau:

Phần nội dung: Một Thế giới nghệ thuật kì dị…

Chƣơng 1: Từ một quan niệm Thơ lạ lùng…

1.1. Thơ – Hoa trái của Đau thƣơng

1.2 Ngƣời thơ – Ngƣời khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo

1.3. Việc làm thơ – Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc…

Chƣơng 2:…đến một thế giới hình tƣợng ràng rịt…

2.1. Trục tƣ tƣởng xuyên suốt và bao trùm.

2.2. Hình tƣợng cái Tôi Đau thƣơng: mãnh liệt mà tuyệt vọng

2.3. Hình tƣợng Nàng thơ Xuân tình mà Trinh khiết.

2.4. Hình tƣợng Thế giới thân quen mà kì dị

Chƣơng 3:…Và một loại hình thơ độc đáo.

3.1. Nguồn cảm xúc đặc thù của Thơ Điên: Đau thƣơng

3.2. Chủ thể Thơ Điên: Một xác thân nhiều nhân cách.

3.3. Kênh hình ảnh tân kì của Thơ Điên: Những vẻ kì dị

3.4. Mạch liên kết của Thơ Điên: Dòng tâm tƣ bất định

3.5. Lớp ngôn từ nổi bật của Thơ Điên: Lớp từ cực tả

27

CHƢƠNG 1: TỪ MỘT QUAN NIỆM THƠ LẠ LÙNG…

1.1. Quan niệm nghệ thuật của một nhà văn

1.1.1. Trƣớc tiên, để tránh lẫn lộn, có lẽ cần một chút giới thuyết về khái niệm này.

Vạch một ranh giới nào đó giữa “quan niệm” và “quan điểm” chính là bƣớc khởi đầu. từ góc

độ chiết tự, quan điểm có nghĩa là “cho đứng để xen xét nhìn nhận”; còn quan niệm lại chính

là “cách xem xét, nhìn nhận, cách thức, đánh giá” [110, 771-772]. Từ gốc rễ ấy mà quan điểm

đƣợc xác định là “điểm xuất phát qui định phƣơng hƣớng suy nghĩ, qui định cách xem xét,

qui định cách hiểu các hiện tƣợng, các vấn đề” [110, 771]. Trong khi đó, quan niệm lại đƣợc

hiểu nhƣ là “việc hiểu, việc nhận thức nhƣ thế nào đó về một vấn đề” [110, 771]. Nhƣ vậy,

xét trong tƣơng quan: nếu coi quan niệm là nội dung. Xem xét một quan điểm chƣa hẳn đã

thấy đƣợc quan niệm, nhƣng xem xét một quan niệm thì có thể thấy nó đƣợc xuất phát quan

điểm nào. Nói nhƣ vậy có nghĩa: bản thân quan niệm đã phần nào bao hàm quan điểm. Luận

án chọn khái niệm “quan niệm nghệ thuật” chứ không phải “quan điểm nghệ thuật” là bởi sự

phân định ấy.

Cũng phải nói ngay rằng đây không phải khái niệm “Quan niệm nghệ thuật”, một khái

niệm rất then chốt vốn đang thịnh hành của Thi pháp học. Thi pháp học xác ddnhj “quan

niệm nghệ thuật” nhƣ là dạng quan niệm có tính nghệ thuật, ở trong nghệ thuật và bằng nghệ

thuật về con ngƣời và thế giới. No đƣợc giới thuyết nhƣ là “hình thức bên trong của sự

chiếm lĩnh đời sống”, là hệ qui chiếu tồn tại dƣới dạng “ẩn chìm trong mô hình nghệ thuật về

thể giới” [99, 229] của ngƣời nghệ sĩ. Còn khái niệm “quan niệm nghệ thuật” ở đây là thuộc

phạm trù ý thức tự giác về nghệ thuật của bản thân ngƣời sáng

28

tạo. Nó là quan niệm về nghệ thuật. Tức là cách hiểu, cách nhìn nhận, cách đánh giá của cá

nhân nghê sĩ về chính lĩnh vực nghệ thuật. Phần nào nhƣ ý thức về nghệ thuật của một ngƣời

hành nghề.

1.1.2. Trong thực tế, không phải không có những nghệ sĩ đã nhìn nhận con đƣờng

nghệ thuật của mình nhƣ là “ma đƣa lối quỉ dẫn đƣờng”. Họ đâu định thế mà rồi thành ra thế.

Nghĩa là họ đến với nghệ thuật nhƣ một sự sắp đặt, chỉ dẫn, xui khiến vô hình nào đó thuộc

siêu nhiên, họ bất khả tri. Cứ y nhƣ họ là một công cụ mù quáng. Tất cả những cái họ làm

đƣợc là do Chúa mƣợn bàn tay của họ mà viết ra thôi. Ý thức của họ không can thiệp gì vào

đó cả. Cứ y nghƣ mình chỉ là con chim ngứa cổ hót chơi, thế thôi. Những phát biểu nhƣ thế,

ngay cả trƣờng hợp thành thật nhất cũng thật ngây thơ. Bởi lẽ,khi ngƣời nghệ sĩ tự thấy mình

và chủ trƣờng mình chỉ là con chim đến từ núi lạ ngứa cổ hót chơi, thì đó cũng đã là một

dạng ý thức, một dạng quan niệm về sáng tạo của mình rồi.

Một thế giới nghệ thuật chân chính bao giờ cũng đƣợc tạo dựng dựa trên một hệ thống

quan niệm riêng của ngƣời nghệ sĩ, dù nó có đƣợc phát biểu tự giác hay không. Hệ thống

quan niệm nghệ thuật của ngƣời nghệ sĩ chứa đựng cách hiểu, cách đánh giá, chứa đựng cả

những dự định, những mong muốn, chủ trƣơng, chủ đích, cả những chuẩn mực nghệ thuật

đƣợc xem nhƣ một cƣơng lĩnh, thậm chí, một kim chỉ nam đối với một đời văn, chi phối hành

trình nghệ thuật của ngƣời nghệ sĩ.

1.1.3. Quan niệm khi đƣợc ý thức tự giác và phát biểu (cả trực tiếp lẫn gián tiếp) thì

đƣợc xem là tuyên ngôn nghệ thuật của ngƣời nghệ sĩ. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, một hệ

thống quan niệm về nghệ thuật không bao giờ có sẵn và đã hoàn toàn định hình từ trƣớc, có

ngay từ đầu một cách tiên nghiệm. Mà nó đƣợc hình thành và hoàn chỉnh từng bƣớc gần nhƣ

song song

29

với quá trình sáng tác. Có những điều tâm niệm trƣớc đó, về sau lại đƣợc đính chính, điều

chỉnh. Có những khía cạnh trƣớc ngỡ đã ổn, sau lại bị bác bỏ. Thậm chí có những lí lẽ ngỡ đã

thành một tín điều bất di bất dịch về sau đã lu mờ trƣớc thực tiễn sáng tác. Trong nghệ thuật,

thực tiễn sáng tạo của cá nhân nghệ sĩ bao giờ cũng là sự thẩm định tin cậy nhất đối với ý

thức lí thuyết của anh ta. Tuyên ngôn nghệ thuật, bởi thế, còn là kết quả của quá trình trải

nghiệm, chiêm nghiệm từ sự lăn lộn trong sáng tạo nghệ thuật của ngƣời nghệ sĩ. Đƣợc rút ra

từ lời văn tác giả, nó đã đƣợc đời văn ấy bảo hiểm. Nên, sẽ là hoàn toàn hợp lí, khi coi quan

niệm nghệ thuật là một trong những chìa khóa cần thiết giúp ta mở vào văn nghiệp của chính

ngƣời ấy.

Từ những điều đó, chúng ta thấy: Đúng là muốn hiểu văn, không nhất thiết phải biết

quan niệm, quan điểm, tuyên ngôn của tác giả. Nhƣng muốn hiểu cho thấu đáo một sự nghiệp

văn chƣơng, một thế giới nghệ thuật của nhà văn, thì không thể tìm hiểu hệ thống quan niệm

nghệ thuật của anh ta. Song, sẽ là ngây thơ, nếu xem xét quan niệm nghệ thuật của một nhà

văn mà chỉ yên chí với một vài lời phát biểu nào đó, tách rời khỏi quá trình, cắt lìa khỏi hệ

thống. Bởi rất có thể đó là những mẩu vụn, những mảnh vỡ vƣơng vãi mà tác giả của nó từ

lâu đã phế bỏ rồi. Thoát li khỏi hệ thống, nó chỉ còn những điều vu vơ thiếu sức sống. Sự

thực này khẳng định rằng: quan niệm nghệ thuật chỉ thực sự là chìa khóa tin cậy đối với

ngƣời nghiên cứu khi và chỉ khi nó đƣợc nhìn nhận trong tính hệ thống mà thôi.

1.2. Quan niệm thơ của Hàn Mặc Tử

1.2.1. Có viết văn, viết báo khi mới vừa dấn thân vào viết lách, nhƣng cái di sản văn

báo Hàn Mặc Tử để lại thật quá ít ỏi lèo tèo. Ông chỉ có một sự nghiệp thật sự đáng kể. Đó là

thơ. Thơ là mối day dứt nhất của đời ông. Thơ là thân phận ông. Cho nên, nói quan niệm

nghệ thuật của Hàn Mặc Tử, thì thực chất là quan niệm của ông về thơ. Khẳng định rõ điều

này, không chỉ vì

30

đối tƣợng chúng ta đang quan tâm là thế giới nghệ thật thơ Hàn Mặc Tử, mà xét cho cùng, đó

hầu nhƣ là mối băn khoăn lớn nhất, nếu không nói là duy nhất, trong những trăn trở về nghệ

thuật của thi sĩ này.

1.2.2. Không chỉ để lại một di sản thơ phong phú, Hàn Mặc Tử còn lạo để một hệ

thống quan niệm của mình về thơ, về nghề thơ, về công việc làm thơ. Và đây là một may mắn

đối với ngƣời nghiên cứu Hàn Mặc Tử. Giới “Hàn học” cũng đã có ít nhiều ngƣời quan tâm

đến việc tìm hiểu quan niệm nghệ thuật của thi sĩ. Tuy nhiên, đa phần việc xem xét mới chỉ

dừng lại ở các phát ngôn trực tiếp, và chỉ bằng lòng với việc trích ra một số lời lẻ tẻ, tản mạn

đây đó để xem nhƣ những tuyên ngôn đầy đủ. Thực tế, quan niệm của Hàn Mặc Tử không

đơn giản nhƣ thế. Sự phức tạp của nó đã đạt đến độ kỉ lục. Ông phát biểu rất nhiều và với một

dạng thức đúng là của “ngƣời caii trị trƣởng thơ loạn” – Nghĩa là rối bời và bấn loạn đến kì

dị! Muốn tìm kiếm quan niệm thơ ca của Hàn Mặc Tử, không thể chỉ yên chí với một nguồn

là những lời phát biểu trực tiếp nằm trong lời đề tựa cho tập “Thơ điên” (1938) hay trong bài

“Quan niệm thơ” (1939). Bởi đó mới chỉ là một bộ phận nhỏ và dễ thấy. Ít nhất, ta phải thu

lƣợm, kiếm tìm từ các nguồn sau đây:

- Dạng chính luận trực tiếp: Gồm những lời tựa cho chính mình, lời tựa và lời bạt cho

những tập thơ bè bạn, và những thƣ từ trao đổi với đồng nghiệp bạn bè.

- Dạng gián tiếp qua sáng tác: Với Hàn Mặc Tử, thơ không chỉ là phƣơng tiện, mà

còn là đối tƣợng suy cảm. Nên thơ viết về thơ (không phải chính luận bắt thành vần nhƣ ở

Chế Lan Viên sau này trong “Thơ bình phƣơng và đời lập phƣơng”. Mà dƣới dạng trữ tình

đích thực) thực sự là một mạch, một vệt đáng lƣu ý, trong đó bộc lộ quan niệm thơ của thi sĩ.

Đồng thời, phải tính đến cả những vang bóng của nó trong các lời tuyên bố của các “thi

31

hữu” thân cận, nhất là Chế Lan Viên với bài tựa cho tập “Điêu tàn” vẫn đƣợc xem là tuyên

ngôn nghệ thuật chung của trƣờng thơ loạn.

Hàn Mặc Tử đến với thi đnà trƣớc tiên chƣa phải bằng “Thơ mới mà bằng thơ Cổ

điển, thơ Đƣờng. Phần thơ này về sau đƣợc Quách Tấn hợp thành “Lệ Thanh thi tập” và cho

in sau khi Hàn Mặc Tử đã bộc lộ những suy nghĩ của mình về thơ (ví nhƣ trong bài Bút thần

khai). Và trong bài thơ văn xuôi tiếng Pháp đƣợc viết bằng những tàn lực cuối cùng trƣớc khi

tạ thế có tên là “Linh hồn thanh khiết”, ông vẫn dồn tinh huyết để làm sáng lên cái quan niệm

về thơ mà mình hằng tâm niệm của một đời ngƣời. Thực tế ấy cho thấy, trên bất cứ chặng

sáng tác nào, Hàn Mặc Tử cũng không nguôi trăn trở để hoàn thiện quan niệm về thơ của

mình. Tuy nhiên, tƣ tƣởng sáng tạo của ông chín nhất là vào khoảng từ 1936 trở đi, đặc biệt

là năm 1939. Đây là thời ra đời những thi phẩm quan trọng nhƣ “Gái quê”(1936), “Thơ

điên”(1939), “Xuân nhƣ ý”(1939), “Thƣợng thanh khí”(1939), “Cẩm châu duyên”(1940),

“Duyên kì ngộ”(1940), “Quần tiên hội”(1940),v.v…và những Bài tiểu luận “Không nên có

luật thơ mới”(1938), Phê bình tập thơ “Điêu tàn” nhan đề “Chế Lan Viên, một thi sĩ

điên”(1938), thƣ từ trao đổi với Trọng Miêu, Trần Thanh Dịch (1939), lời bạt cho “Một tấm

lòng” (1939) của Quách Tân, để tựa cho “Tinh huyết” (1939) của Bạch Khê.v.v…Rõ ràng,

xem xét quan niệm nghệ thuật của Hàn Mặc Tử, căn cứ quan trọng nhất phải là thời kì này.

1.2.3. Trong các trang viết của Hàn Mặc Tử và các cây bút thuộc trƣờng thơ loạn,

chúng ta thƣờng gặp những chữ thơ cuồng, thơ loạn, thơ điên…thể hiện những quan niệm rất

gần nhau của họ. Hàn Mặc Tử thì có cả một tập mang hẳn cái tên “Thơ điên” (Sau đổi

thành”Đau thƣơng”). Và nhìn một cách toàn thể, Thơ điên dƣờng nhƣ đã “ám” vào đời thơ

của thi sĩ. “Điên” cũng chính là tinh thần của quan niệm thơ Hàn Mặc Tử. Cố nhiên, cần phải

hiểu

32

chữ “điên” theo quan niệm và thực tế sáng tạo của Hàn Mặc Tử, không thể đồng nhất với

cách hieerur nghiêng về bệnh lí thông thƣờng. Mà thật là ăn nhập, quan niệm của Hàn Mặc

Tử cũng đƣợc phát biểu rất…“điên” – nghĩa là cực kì rối rắm, đầy nghịch lí và có vẻ mâu

thuẫn nữa. Lắm khi cứ nhƣ đanh đi trong hỏa mù, trong mê lộ. Không chỉ có tƣ duy thơ trôi

theo lối “tự động”, mà ngay cả tƣ duy lí thuyết của Hàn Mặc Tử cũng mặc sức mà…“tự

hành”. Lần theo mạch ý tƣởng của ông, ngƣời nghiên cứu không khỏi có cảm giác mệt mỏi

nhƣ đang lần theo chuyển động Braonơ. Song, nhìn sâu vào, chúng ta vẫn thấy một sự nhất

quán khá căn bản trên cả ba bình diện THƠ, NGƢỜI THƠ và VIỆC LÀM THƠ. Thật thú vị,

rất gần đây, tác giả Phan Quỳnh Nga, trong một bài viết của mình, cũng có những xem xét

trên các bình diện thế này. Tiếc rằng, chúng chỉ đƣợc nhìn chủ yếu theo hƣớng phân liệt riêng

rẽ và giản đơn mà chƣa thấy tính thống nhất trong cái chiều sâu phức tạp và đầy mâu thuẫn

của nó [89, 132]. Ở đây, luận án vừa tiếp thu những điều khả thủ, vừa cố gắng khắc phục

những bất cập ấy.

Từ trong cốt tủy, Quan niệm Thơ Điên là biểu hiện của một thứ Mĩ học còn tản mạn,

còn mơ hồ của Hàn Mặc Tử: Mĩ học của cái Tột cùng. Chúng ta sẽ từng bƣớc làm sáng tỏ

điều này.

1.2.2.1. Thơ Hoa trái của Đan Thương

Có thể thấy, trong quan niệm của Hàn Mặc Tử, Thơ là một niềm tuyệt vọng cao đẹp.

Hay một cách nói khác, Thơ là tiếng kêu của một linh hồn đã sống đến gần đứt cả sự sống.

Cả hai cách đều dạng thức Tột cùng. Tinh thần ấy toát ra trong cả một hệ thống, và đòi hỏi

phải đƣợc cắt nghĩa theo những “mã” riêng của nó. Theo cái nhìn phân tách, quan niệm kia

đƣợc thể hiện chủ yếu trong hai cặp nghịch lí sau:

33

- Thứ nhất, Thơ là nguồn khoái lạc đê mê mà thơm tho tinh sạch. Trong bức thƣ trao

đổi với Trọng Miên (sau đƣợc Quách Tân đem in vào cuốn “Chơi giữa mùa trăng” với cái

nhan đề “ Quan niệm Thơ”) viết tại Qui Nhơn vào năm 1939, Hàn Mặc Tử hình dung thơ là

“những nguồn khoái lạc đê mê, nhƣng rất thơm tho, rất tinh sạch” [164, 35] mà kẻ làm thi sĩ

cần phải trút vào linh hồn con ngƣời trên trần gian. Ở một đoạn khác, ông thâu tóm: “M. ơi,

nhƣ thế là M. đã hiểu thế nào là quan niệm của Trí (tức là Hàn Mặc Tử - C.V.S) về thơ. Thơ

là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi trời cách biệt.” [164,

38-39]. Phát biểu nhiều lần, từ nhiều góc độ, với nhiều dạng thức khác nhau, nhƣng coi thơ là

một NGUỒN KHOÁI LẠC, đó là điểm hết sức nhất quán của Hàn Mặc Tử. Đề tựa cho Bích

Khê, ông coi cái đẹp thơ là những gì “có tính chất gây nên đê mê, khoái lạc”, việc kiếm tìm

nguồn thơ của tác giả “Tinh huyết” cũng đƣợc ông hình dung là “tìm kiếm những nguồn hoạn

lạc vô biên” [68, 15]. Với Hàn Mặc Tử, nguồn khoái lạc vừa là đối tƣợng của cảm hứng thơ,

vừa chính là dạng thức đích thực của thơ. Tác giả Bùi Xuân Bảo trong bài tiểu luận Thi ảnh

khẩu cảm trong thơ Hàn Mặc Tử cho rằng quan niệm này gần giống quan niệm thi hứng của

nhà thơ công giáo nổi tiếng Paul Claudel (1868-1955). Nhƣng tại sao lại là nguồn khoái lạc?

Bản chất của cái đƣợc gọi là nguồn khoái lạc kia là gì? Không làm rõ điều này, rất dễ đánh

đồng quan niệm thơ của thi sĩ này với những gì tầm thƣờng dung tục nhất.

Mặc dù dùng đến những chữ khoái lạc, đê mê, ham muốn, hoạn lạc…vốn gắn nhiều

với thể xác, nhục cảm, dục tình, nhƣng trong quan niệm của mình, Hàn Mặc Tử vẫn dứt

khoát cho rằng nguồn gốc của thơ là tình cảm chịu ảnh hƣởng rất nặng Chales Baudelaire

(1821-1867), nhƣng Hàn Mặc Tử vẫn không hoàn toàn “tâm phục”, thậm chí, đa phê phán

thẳng thừng quan niệm lấy passion làm cảm hứng cho thơ của nhà thơ Pháp này. Trong bức

thƣ gửi cho Trọng Miên đã nói ở trên kia, ông viết: “Đối với Trí (tức Hàn Mặc Tử

34

- C.V.S.), quan niệm rất khác thƣờng, không giống Baudelaire lắm. Theo Baudelaire, thi và

lấy passion làm hứng vị cho thơ (…). Chứ đối với Baudelaire, va đã nói :“la passion est

chose naturelle…” nghĩa là va đã hiểu lầm chữ passion rồi vậy. Tình cảm – hay cảm hứng

(enthousiasme) – với dục tình (passion) khác nhau nhiều. Tình cảm là sự thanh bạch hồn

nhiên, không có một chút gì bợn nhớ, tội lỗi, còn dục tình là cả một sự ham muốn phi thƣờng

ngoài điều răn của Đức Chúa Trời.” Dƣờng nhƣ Hàn Mặc Tử cố phân biệt rành mạch về mặt

lí thuyết, nhƣng những lời kia chƣa làm cho cái chủ ý bật nổi lên. Việc dùng chữ ham muốn ở

đây là một là một duyên dó khiến cho bề mặt nội dung có phần bị mờ đục đi, khó thấy đƣợc

cái lõi cốt của ý. Đối với thi sĩ này, bản thân ham muốn không đồng nghĩa với sự phàm tục,

trái lại, cả tình cảm và tình dục đều là những dạng thức ham muốn khác nhau. Nếu tình cảm

là những ham muốn thanh sạch, hồn nhiên, không chút bợn nhơ, vẩn đục, tội lỗi (nghĩa là phù

hợp với điều răn của Thiên chúa, phù hợp với luân lí, đạo đức), thì dục tình là những ham

muốn tội lỗi, vƣợt ra ngoài điều răn của Đức Chúa Trời (nghĩa là trái với luân lí đạo đức).

Chính ở chỗ này có một khía cạnh rất đáng lƣu ý: Hàn Mặc Tử không dùng cách phân biệt

thông thƣờng rằng tình cảm là thuần túy tinh thần còn dục tình là thuần túy thể xác, hay dùng

cách đối lập tình cảm với dục tình là thuần túy thể xác, hay dùng cách đối lập tình cảm với

dục tình bằng đối lập khát khao với ham muốn. Rõ ràng tình cảm trong quan niệm của Hàn

Mặc Tử có phạm vi rộng lớn hơn, còn dục tình lại có phạm vi hẹp hơn so với quan niệm

thông thƣờng. Tình cảm không chỉ gồm những khao khát tinh thần mà gồm cả những ham

muốn thanh sạch hồn nhiên nữa. Nói khác đi: Hàn Mặc Tử đã san một phần tình dục (theo

quan niệm thông thƣờng) sang phía tình cảm cái phần ông gọi bằng ham muốn trong sạch.

Bởi vậy, theo đúng quan niệm của thi sĩ này, nguồn gốc của thơ trƣớc sau vẫn phải là, vẫn

phải là, vẫn cứ là tình cảm. Trƣớc sau, với nhà thơ rất mát. Mới tinh khôi và thanh sạch bằng

hƣơng”. Trƣớc sau, với Hàn Mặc Tử, thơ

35

vẫn là một “nguồn tinh khí” của hồn ông. Có hiểu nhƣ thế mới thấy sự nhất quán trong bề sâu

của quan niệm kia, ngay cả khi ông diễn đạt bằng những ngôn từ, những cách nói thuộc cơ

chế sinh học, gắn nhiều với thân xác, dễ bị ngờ ngợ là phàm tục (Ví nhƣ “Trí đã phát tiết hết

tinh lực của hồn, của máu, bằng những câu thơ ngất đi vì khoái lạc” – Trích “ Thƣ giử Trọng

Miên”). Do một quan niệm riêng rất mở, rất thoáng về tình cảm mà thơ Hàn Mặc tử nói đến

nhục cảm rất riêng và rất táo bạo, nghe muốn “rợn” cả lòng (Ví nhƣ “Ô kìa bóng nguyệt trần

truồng tắm – lộ cái khuôn vàng dƣới đáy khe”, hay “Ống quần sắn lên đầu gối – da thịt, trời

ơi, trắng rợn mình”…) Ở những trƣờng hợp nhƣ thế, ngƣời có quan niệm hẹp về tình cảm,

nhất là kẻ giáo điều, đạo đức giả về tình yêu khó mà cho rằng đó là những ham muốn thanh

sạch. Nhƣng chẳng hề gì, hay giao những kẻ đó cho Hồ Xuân Hƣơng phán xử.

Về điểm này, có thể nói tóm: Là nguồn khoái lạc đê mê mà thơm tho tinh sạch, là

những ham muốn vô biên, thơ chính là tiếng nói của tình cảm, thứ tiếng nói nồng nàn và táo

bạo thuộc về cả tinh thần lẫn thể xác. và đây là một điểm cực của sự Tộ cùng.

- Thứ hai, Thơ là tiếng kêu rên thảm thiết mà cũng là lời cầu nguyện thiêng liêng.

Đây cũng là một sự Tột cùng thuộc đối cực khác. Bản thân điều này là một nghịch lí. Nhƣng,

hãy cứ xem lời lời phát biểu cụ thể của Hàn Mặc Tử. Trong “Quan niệm thơ”, ông viết: “Thơ

là những tiếng kêu rên thảm thiết của linh hồn thƣơng nhớ cảnh chiêm bao”. Ở một chỗ khác,

ông phát biểu kĩ hơn: “thơ là một tiếng kêu rên thảm thiết của một linh hồn thƣơng nhớ, ƣớc

ao trở lại trời, là nơi đa sông ngàn kiếp vô thi vô chứng, với những hạnh phúc bất tuyệt”

[164, 39]. Rồi ông một mực cả quyết: “không siết là thơ và nghĩa lí” (Dấu tích). Ấy là một

phía. Ở phía kia – coi thơ là lời cầu nguyện thiêng liêng, Hàn Mặc Tử cũng phát biểu rất

thành thực, tâm huyết, dọc theo cả hành trình thơ. Mà tâm huyết nhất có lẽ là ở bài “Thánh nữ

đồng trinh

36

Maria”: Tôi cảm động rƣng rƣng hai hàng lệ/ Giọng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ (…).

Ngƣời có nghe thơ mầu nhiệm ra đời/ Để ca tụng, - bằng hoa hƣơng sáng láng (…). Thơ cầu

nguyện là thơ quân tử ý/ Trƣợng phu lời và tông đồ triết lí,…

Không chỉ trong sáng tác thơ, cái khái niệm kì lạ “Thơ cầu nguyện” cũng đã đƣợc

Hàn Mặc Tử dùng nhƣ một ý thức lí thuyết. Trƣớc khi mất ba ngày, tại Qui Hòa, thisix đã

đem một trong những bản thảo thơ cuối cùng của mình – đƣợc xem là tài sản duy nhất có giá

trị - để tặng hay đúng hơn là để đền đáp tấm lòng anh Nguyễn văn Xê ngƣời đồng bệnh thân

thiết, với dòng đề rất đáng chú ý: “Thơ cầu nguyện để tặng anh Xê – Francois Trí”. Thực ra,

không phải đến cái chặng sáng tác cuối cùng, Hàn Mặc Tử mới coi thơ nhƣ lời cầu nguyện.

Bởi, nếu chỉ ở những ngày cuối cùng không thôi, thì chƣa đáng lƣu tâm cho lắm. Trƣớc Cái

chết đang đe dọa từng giây từng phút, một ngƣời Kitô giáo ngoan đạo chỉ còn biết cầu viện

đến sự che chở và cứu vớt duy nhất: Đức Chúa Trời. Lời kinh cầu không thôi, có lẽ không đủ

nữa. Con chiên Nguyễn Trọng Chí đã phải dùng thêm cả ngôn ngữ của thi sĩ Hàn Mặc Tử.

Hẳn thơ đã trở thành kinh nhật tụng trong những ngày ấy để trực tiếp đem những sở nguyện

nóng bỏng và thống khiết của kẻ bất hạnh lên Đấng Tối Cao. Cái khái niệm “Thơ cầu

nguyện”, bởi thế, đã hiện hình trong tâm niệm thi nhân nhƣ một nhu cầu tôi, nhu cầu sống tự

nhiên. Lôgic ấy không có gì khó hiểu. Điều cần nói là, từ trƣớc đến sau, ý niệm về thơ cầu

nguyện nhƣ là cái tiếng nói khát khao tuyệt đối, khao khát tột cùng vẫn hằng sống trong ông.

Bất cứ lúc nào, với thi sĩ, thơ vẫn là “Thơ trắng trong nhƣ một khối băng tâm – luôn luôn reo

trong hồn trong mạch máu”. Khi viết Thơ Đƣờng cũng thế, mà khi viết “Gái quê” thì cũng

thế.

Rõ ràng, với những nội dung nhƣ vậy, quan niệm thơ của hàn Mặc Tử đã đƣợc chính

ông trình bày nhƣ một mâu thuẫn, nghịch lí : Tiếng rên xiết vẫn

37

bị xem là những tiếng kêu tầm thƣờng nghiêng nhiều về thân xác, còn lời cầu nguyện thì vẫn

đƣợc xem là những tiếng nói thánh thiện thanh khiết của linh hồn; chúng không loại trừ nhau

mà lại hóa than vào nhau. Mà so với luận điểm trên kia cũng lại là một phía nữa của nghịch

lí: Tại sao đã là một nguồn khoái lạc đê mê lại còn là một tiếng kêu rên thảm thiết? Hai mặt

phải trái nhau đến thế sao lại có thể hòa hợp đồng thể trong cùng một tiếng thơ? Chúng ta

biết, trong nghệ thuật thƣờng khi nghịch lí lại chính là hình thức tồn tại của sự hài hòa nhất

quán. Một khi các đối cực có thể dung hợp trong cùng một chỉnh thể sống động, khi ấy cái

đẹp hiện ra nhƣ một sự hài hòa của các nghịch lí. Vả chăng, nghịch lí này cũng cần đƣợc giải

theo một “mã” riêng. Bởi nó chính là cái cấu trúc độc đáo thuộc về bề sâu làm nên diện mạo

lạ lùng của “Thơ điên”.

Nhìn một cách tổng thể, đó chính là sự sống tồn kì lạ mà biện chứng của hạnh phúc

và đau khổ.

Nhƣ đã trình bày trên kia, với Hàn Mặc Tử, nguồn gốc của thơ là Tình (Ông có cả một

bài luận về Tình, sau này in trong tập Chơi giữa mùa trăng). Mà tình là một dạng thức sống

mãnh liệt. Viết đến đây, tôi e rằng bản thân chữ mãnh liệt chƣa đủ giúp ngƣời đọc hình dung

thật đúng cung bậc của nguồn sống này ở Hàn Mặc Tử. Một chút so sánh với Xuân Diệu, có

thể để hình dung hơn. Với tác giả Thờ Thơ và Gửi hƣơng cho gió, mãnh liệt có nghĩa là tận

độ, là “hết công suất”. Là “sống toàn tâm, toàn ý, sống toàn hồn – sống toàn thân và thức

nhọn giác quan”. Và cái điệu sống ấy làm ông hình dung thật rõ rệt là “Tất cả tôi run rẩy tựa

dây đàn”. Vì thế mà hiển nhiên cung bậc sống phổ biến ở Xuân Diệu phải là “sôi nổi bồng

bột, tha thiết đắm say”. Nó vẫn ở bờ bên này của niềm vui sống. Còn ở Hàn Mặc Tử có khác

hơn một chút. Chỉ một chút, nhƣng cũng đủ chuyển nguồn sống kia sang một cung bậc khác,

bƣớc qua biên giới khác. Nếu có thể hình dung, Sung mãn là một dạng

38

thức của mãnh liệt và ở một mức cao hơn của phát triển biện chứng sẽ là sự Hủy diệt, thì có

thể thấy: ở Xuân Diệu Mãnh liệt dừng lại ở trạng thái sung mãn đã đầy, còn Mãnh liệt ở Hàn

Mặc Tử là đến bên bờ của sự rách xé, tự hủy. Mãnh liệt với tác giả Thơ điên là sống đến quá

độ, quá tải, đến Tột cùng. Ông tỏ ra hiểu rất rõ cái tạng của mình khi viết: “Tôi đã sống mãnh

liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết

cả cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận hờn đến gần đứt cả sự sống”. Cũng cảm thấy

mình rung lên nhƣ một sợi dây đàn, nhƣng “là một sợi đƣờng tơ sắp sửa đứt phăng”. “Gần

đứt cuộc sống”, “sắp sửa đứt phăng”, đó là cái điểm Tột cùng, là cái “điểm bốc cháy”, cái

“điểm nóng chảy”, ở đó khoái lạc bên này và đau khổ bên kia đã trộn lẫn vào nhau, cơ hồ

không còn ranh giới. Nhìn từ phía bên này là hạnh phúc, nhìn từ phía bên kia là khổ đau. Cho

nên, ở cung bậc ấy những lời thơ đƣợc viết là khắc khoải đau thƣơng, mà cũng chính là

những lời thơ “ngất đi vì khoái lạc”, vừa là tiếng rên siết than vãn vừa nhƣ lời tâm nguyện

cuối cùng. Lôgic ấy của nghịch lí mới giúp ta “giải” đƣợc những phát ngôn đầy mâu thuẫn

này: “Tận hƣởng cái thú vị của hạnh phúc trong một phút đê mê, nghĩa là đã sống đầy đủ vậy

– Hãy cầu nguyện với vì ác tinh xuống họa cho ngƣời để nghe rõ tiếng kêu thƣơng, vì hạnh

phúc nằm trong đau khổ” [164, 21].

Ở đây, thật khó mà khẳng định dứt khoát quan niệm của Hàn Mặc Tử đƣợc hình thành

bởi những nguồn ảnh hƣởng nào. Thế hệ ông (có ngƣời định danh là “thế hệ 32”) dƣờng nhƣ

đều cuốn vào một điệu sống mới, một thứ ái tình mới. Tác giả Thanh Lăng, trong “Bảng lƣợc

đồ Văn học Việt Nam” (Quyển hạ), đã nhận diện khá lí thú về tình yêu này: “đó là một ái tình

đau đớn tuyệt vọng! Yêu nhau mà vẫn đau đớn. Mà có lẽ là cái mốt của các thi sĩ thuộc thế hệ

1932” [79, 794]. Hàn Mặc Tử có bị ảnh hƣởng cái “mốt” của thế

39

hệ mình không? Đã là một điều sống bao trùm, một thứ bệnh thời đại đầy hấp lực nhƣ thế,

hẳn là hàn khó tránh khỏi . Song gay gắt hơn sự ảnh hƣởng dễ dãi ấy, là những nguồn ảnh

hƣởng nghiêm túc từ một ý thức lí thuyết. Ông mƣợn cách quan niệm của nhà Phật để hình

dung về nghịch lí của hạnh phúc: “Tín đồ của nhà Phật lấy phút cuối cùng làm hạnh phúc.” –

Sống gửi thác về, phút cuối cùng, phút kết thúc cái sống, phút khởi đầu cái chết là hạnh phúc

vậy. Nhƣng bảo rằng quan niệm của ông thuộc phạm trì Phật giáo thì không thể. Bởi chính

những tín đồ Kitô giáo đi tìm hạnh phúc trong đau khổ của những phút giậy xƣng tội – “xƣng

tội là lạc thú cuối cùng đối với họ” [129, 114]. Bởi chính những tín đồ Kitô giáo cũng coi

hạnh phúc là đƣợc lên Thiên đƣờng. Cái phút cuối cùng của tín đồ Phật giáo và Kitô giáo có

cùng một ý nghĩa. Mà ngay Đốtxtôiepxki, một ngƣời suốt đời dằn vặt về Thƣợng Đế, về hạnh

phúc và đau khổ cũng từng có quan niệm khá là nghịch lí, khi làm toát lên cái định đề: “Tôi

đau khổ, vậy thì tôi tồn tại”. “Đau khổ là hạnh phúc sâu sắc nhất” [129, 53-54]. “Chỉ bằng sự

đau khổ chúng ta mới có thể học yêu mến cuộc đời” [129, 112]. Hàn Mặc Tử có đọc

Đốtxtôiepxki không? Không có gì chắc chắn. Nhƣng Thánh kinh của Đạo Kitô thì không thể

không có ảnh hƣởng lớn đến tƣ tƣởng của Phanxicô Nguyễn Trọng Trí. Đó là tâm nguyện của

một con chiên đang chuyển hóa thành cảm hứng của một nhà thơ hay tâm nguyện kia cùng

cảm hứng ấy đang nhập lại để đồng thanh lên thành quan niệm riêng của Hàn Mặc Tử? Cũng

có mà rành mạch. Chỉ biết rằng, từ trong đáy lòng, Hàn Mặc Tử vô cùng coi trọng nỗi đau

khổ cao cả. Ông dứt khoát không bao giờ đánh đổi những giây phút đau khổ cao cả. Ông dứt

khoát không bao giờ đánh không bao giờ đánh đổi những giây phút đau khổ cực điểm để đổi

lấy những hoạn lạc tầm thƣờng. “Nhƣng chẳng bao giờ tôi chịu đem những ngày đau khổ cực

điểm đổi lấy những đêm hoạn lạc trong cung A-hoàn.” Ông đã viết nhƣ thế trong bài văn xuôi

tựa nhƣ một thứ tùy bút chính luận có tên là “Mùa thu đã tới” để bày tỏ quan niệm của mình.

Cũng phải mở ngoặc rằng: không hiểu vì sao sao ông lại gọi là cung A-hoàn. Nhiều bản in

đều thấy nhƣ vậy. A hoàn vốn là cách gọi

40

những cô hầu gái trong các gia đình quyền quí ngày xƣa. Có thể là cung A-phòng của Tần

Thủy Hoàng bị ông gọi lẫn do gần âm chăng?). Thực ra, cái tâm niệm khăng khăng giữ lấy

đau khổ không phải là một cái thú lạ: kiếm tìm hạnh phúc trong đau khổ, giống nhƣ một thứ

nhấm nháp nỗi đau, gặm nhấm những vết thƣơng lòng vốn tự mình gây ra, tự mình làm cháy

máu. Nếu gọi là cái thú, thì đó là cái thú giời đày. Yêu mến cuộc đời bằng nỗi đau khổ, theo

cái nhìn của thói thƣờng thì chẳng phải là một cái thú giời đày hay sao? Nó cũng có nghĩa

nhƣ một nghịnh lí. Quan niệm thơ của Hàn Mặc Tử luôn luôn là một nghịch lí. Nhƣng

Nghịch lí này, về thực chất nƣh đã trình bày, chỉ là sự dung hợp của các đối cực mà thôi.

Rõ ràng, coi Thơ là tiếng kêu của một linh hồn đã sống đến gần dứt cả sự sống, với

những biểu hiện cụ thể đầy nghịch lí của nó, không phải là một kiểu “lạ hóa” những quan

niệm cũ mà chính là một quan niệm mới lạ, thậm chí một quan niệm cũ mới lạ, thậm chí một

quan niệm kì dị về thơ, về cách tồn tại của thơ, chƣa từng thấy trong làng thơ Việt Nam. Gọi

bằng Thơ loạn, Thơ cuồng, Thơ điên chính bởi sự kì dị ấy. Rõ ràng không thể hiểu chữ Điên

theo các nghĩa bệnh lí của nó. Trái lại, chữ Điên cầm đƣợc hiểu theo quan niệm và thực tế

sáng tạo của Hàn Mặc Tử. Điên là một dạng thức yêu cuộc sống cực điểm, cực đoan. Điên là

hình thái tột cùng của hƣng phấn sáng tạo. Vì thế, thơ Điên có quyền sống chân chính của nó.

1.2.2.2. Người thơ – Người khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo

Có một câu thơ của Hàn Mặc Tử đã trở thành câu cửa miệng của giới văn nhân thi sĩ

khi nói đến sự thống nhất giữa Ngƣời và Thơ: Ngƣời thơ phong vận nhƣ thơ ấy (Xuân đầu

tiên). Quan niệm của ông vậy là đã trở thành quan niệm chung. (Tất nhiên, quan niệm của

Hàn Mặc Tử không hoàn toàn mới. Nó thoát thai từ quan niệm “Văn là ngƣời” vốn có trong

truyền thống văn chƣơng phƣơng Đông; chứ không trực tiếp từ quan niệm “Bút pháp là

ngƣời” của

41

phƣơng Tây nhƣ có ngƣời đã tƣởng). Từ câu thơ ấy, có thể có một logic giản đơn: nếu thơ là

Điên thì ngƣời làm thơ là kẻ Điên. Dĩ nhiên Điên theo nghĩa Hàn Mặc Tử là một kiểu sáng

tác, một kiểu thi sĩ. Cái quan niệm về ngƣời thơ của Hàn Mặc Tử cũng đƣợc phát biểu nhƣ

một nghịch lí – nghịch lí của những cái Tột cùng.

Phía thứ nhất của nghịch lí là “Nhà nghệ sĩ bao giờ cũng điên”. Ông đã cả quyết nhƣ

ném ra 1 định nghĩa phổ quát nhƣ vậy trong tùy bút “Mùa thu đã tới”. Còn bạn ông, nhà thơ

Chế Lan Viên bây giờ mới 17 tuổi, trong lời tựa cho tập thơ của chính mình, cũng phụ họa và

phát triển: “Hàn Mặc Tử nói: Làm thơ tức là Điên, Tôi thêm: Làm thơ là làm sự phi thƣờng.

Thi sĩ không phải là Ngƣời, nó là Ngƣời Mơ, Ngƣời Say, Ngƣời điên. Nó là Tiên, là Ma, là

Quỷ, là Yêu.” (Tựa Điêu tàn). Chúng là có thể nói rằng đó là kẻ hô ngƣời ứng, đồng thanh

tƣơng ứng. Nhƣng cũng có thể nói đó là sự vang vọng của quan niệm nghệ thuật Hàn Mặc

Tử. Chúng ta sẽ còn trởi lại với những nội dung hết sức phản trái kia. Ở đây, hằng nói đến cái

hình ảnh ông tự họa trong thơ. Hàn Mặc Tử cũng hình dung rất rõ mình là một ngƣời Điên: -

Tôi điên tôi nói nhƣ ngƣời dại/ Van lạy không gian xóa những ngày; Bây giờ tôi dại tôi điên/

Chắp tay tôi lạy cả miền không gian…

Nhƣng sẽ có nguy cơ lẫn lộn (mà thực tế đã có không ít lẫn lộn), nếu bản chất của

trạng thái điên này không đƣợc tƣờng minh rành mạch. Nhiều ngƣời đã vội vã tin vào mấy

chữ điên và dáng điệu điên ông nói trong những câu thơ kia mà kết luận điên ở Hàn Mặc Tử

nhƣ một thạng thái bệnh lí, ý nhƣ chứng loạn thần kinh. Đâu phái thế, Hàn Mặc Tử bị bệnh

phong chứ đâu có loạn thần kinh. Cho đến những giây phút cuối cùng, ông vẫn là một ngƣời

hoàn toàn sáng trí, mạnh trí, cho dù có bị những cơn đau đớn hành hạ đến cùng cực. Vả

chăng, Chế Lan Viên đâu có bệnh mà cũng tán đồng và chủ trƣơng về điên nhƣ thế (Chính

Hàn Mặc Tử cũng gọi Chế Lan Viên là thi sĩ diện. Điên nhƣ

42

thế chỉ có nghĩa là một kiểu thi sĩ – một quan niệm mĩ học về thi sĩ). Về thực chất, điên ở Hàn

Mặc Tử là một trạng thái yêu sống đến cực đoan, đến quá tải. Mà trạng thái ấy chính là Đau

khổ. Điên là dạng thức cực điểm của đau khổ. hãy nghe chính ông nói về cái trạng thái điên

này: “Một đêm say rƣợu nhớ Nàng! Khách đã khóc sƣng và đôi mắt, và từng giọt lệ đã vô

tình nhỏ vào li rƣợu; có ai ngờ khách đến cuồn tâm dại trí nhúng cả mảng hình Nàng trong

rƣợu rồi mê man, vừa uống vào lòng cả rƣợu, cả nƣớc mắt và cả bóng, dáng xinh tƣơi của

Nàng!” [112, 28]. Rõ ràng cái “cuồng tâm đại trí” kia đau là cơn điên bệnh lí. Nó là cái trạng

thái của Thôi Hộ (trƣớc sau 796) ở Đô thành Nam trang hơn một nghin năm trƣớc đã uống

một hơi cạn cả bóng hoa đào cả bóng hình gƣơng mặt ngọc của giai nhân lung linh trong gáo

nƣớc đó thôi. Ấy là cái khoảnh khắc dạt dào hƣng phấn của tình cảm say mê. Nghĩa là trạng

thái tiền sáng tạo, chính nó sẽ thúc giục ngƣời nghệ sĩ cần lấy cây bút để trút ra thành câu

chữ, để giải tỏa nỗi niềm, để kí thác tấc lòng cao đẹp. Và Điên với Hàn Mặc Tử, chính là hình

thái Tột cùng của sự sáng tạo, là cái thời điểm tình thơ đã chín đến quá độ, thời điểm xuân

lòng đã căng mẩy, đã chín mõm mòm – theo cách nói của Xuân Hƣơng. Là thời điểm thơ

khẩn khoản đòi đƣợc gặt hái. Hãy nghe chính ông hình dung về cái trạng thái ấy. Trong bài

thơ văn xuôi có tên là “Kêu gọi”, ông viết: “Lòng ta hừng hực mỗi khi nắng hanh lên. Ấy là

dấu hiệu của mùa thơ đã chín. Gặt hái cho mau kẻo ngọn thơ càng cao, ngƣời thơ càng hiện

đại.” [112, 28]. Vậy thì cái gọi bằng “điên dại” kia chính là cái trạng thái của hồn thơ đang

mang trong nó một nguồn thi hứng mãnh liệt. Là cái khoảnh khắc trở dạ của cơn sinh nở

trong cõi tinh thần. Cái gọi bằng “điên” ấy có gì khác đâu so với những cái ta vẫn gọi là

“trạng thái nhiệt hứng”, “thần hứng” ở những nghệ sĩ chân chính tự xƣa đến rày. Tuy nhiên,

nếu chỉ dừng lại ở đấy thôi, vẫn chƣa thực rành rẽ. Bởi có thể ai đó sẽ hỏi: nếu chỉ

43

có thể thì gọi bằng “điên” làm gì thêm rắc rối? Xin thƣa, bên cạnh những nét gần gũi với hết

thảy những kẻ sáng tạo mọi thời, ở Hàn Mặc Tử còn có những nét hết sức độc đáo trong quan

niệm, thậm chí còn có những hình dung thật dễ sợ về trạng thái điên này. Ví nhƣ, ông coi

Điên cuồng không chỉ có nguồn gốc từ Đau khổ, mà còn có nguồn gốc ở Thiên tài. Nói một

cách khác, điên cuồng nhƣ thế là cái trạng thái chỉ có ở thiên tài chân chính. Khi lí giải về

“Bích khê – thi sĩ thần linh”, ông đã viết một cách đinh ninh: “Sự điên cuồng ấy uyển nguyên

một phần ở thiên tài và một phần ở Đau khổ” [68, 11]. Hoặc coi Điên là một thời điểm mà

thi sĩ “phát tiết hết tinh lực của hồn, của máu”, là cái giây phút “Thi nhân sẽ vừa say sƣa, vừa

điên cuồng ộc ra từng búng thơ sáng láng, phƣơng phi nhƣ một Mùa Xuân nhƣ ý” [112, 61].

Ta còn có dịp thấy rõ ràng những nét độc đáo khác khi nghe ông trình bày về chiêm bao và sự

thực nhƣ là sự xáo trộn không thể chia tách đƣợc trong những thời khắc “điên”, và có lẽ

chính bởi cái xáo trộn không thể chia tách đó mà mới gọi là “điên”. “Ngoại cảnh đã xâm lấn

xác thịt và linh hồn tôi. – Ông viết – Bao nhiêu là tinh anh của non sông đều xông vào tôi rút

hết tình tiết của tôi. Tôi có thể bảo đấy là một lối thần giao cách cảm, mà ngoại cảnh hay

thâm tâm đồng xáo động, bởi giây khoái lạc vô ngần .(…). Có hay không, hƣ hay thực là

những huyền ảnh chập chờn trc mắt.” [112, 79-83]. Nghĩa là một dạng thức tâm lí đặc biệt,

một dạng thức phản ánh mang tính chủ quan đến cực điểm. Có lẽ ta chỉ thấy, và nó chỉ đƣợc

ý thức nhƣ thế bởi Hàn Mặc Tử. Với dạng thức này, những hình ảnh kì dị về thế giới sẽ ra đời

là điều dễ hiểu. Trên đây, ta mới chỉ nói đến bản chất của trạng thái điên ở Hàn Mặc Tử. Còn

bản chất thơ điên với những đặc trƣng thi pháp của nó, sẽ đề cập ở một chƣơng sau.

Phía thứ hai của nghịch lí: Thi sĩ là ngƣời mang thiên mệnh thi ca. Bản thân điều này

cũng đƣợc triển khai rải rác trong các phát ngôn của Hàn Mặc Tử nhƣ một nghịch lí. Trƣớc

hết, thi sĩ là kẻ thực hiện sứ mệnh của Tạo Hóa

44

Mà Hàn gọi là Đức Chúa Trời) xuống trần gian để tìm kiếm, sáng tạo và mang cái đẹp đến

cho loài ngƣời. Về điểm này, ông trình bày bằng một nhãn quan thấm đẫm chất Thiên chúa

giáo. Nói một cách khác, quan niệm của một thi sĩ đã phát biểu bằng ngôn ngữ của một con

chiên. Trong “Quan niệm thơ” có một đoạn khá dài luận về loài thi sĩ: “Đức Chúa Trời đã tạo

ra trăng, hoa, nhạc là để cho ngƣời đời hƣởng thụ, (éléments de la poésie) nhƣng ngƣời đời u

mê phấn nhiều không biết tận hƣởng một cách say sƣa, và nhân đấy, chiêm nghiệm lẽ màu

nhiệm, phép tắc của Đấng Chí Tôn. Vì thế, trừ hai loài trọng vọng là “thiên thần và loài

ngƣời ta”. Đức Chúa trời còn cho ra đời một loài thứ ba nữa: loài Thi Sĩ. Loài này là những

bông hoa rất quý và rất hiếm, sinh ra đời với một sứ mạng rất thiêng liêng: phải biết tận

hƣởng những công trình châu báu của Đức Chúa Trời đã gây nên, đã ca ngợi quyền phép của

Ngƣời, và trút vào linh hồn ngƣời ta những nguồn khoái lạc đê mê, nhƣng rất thơm tho rất

tinh sạch (but de la poésie)”[112, 34-35]. Nhƣ vậy, thi sĩ đƣợc hình dung nhƣ một thiên sứ

của Cái đẹp. Vừa là một hiện thân của cái đẹp. “Ta trở nên nhƣ ngọc dàng kim mã – Rất hào

hoa, rất phong vận, Ngƣời thơ…”, với những “tánh tính thanh cao nhất”, vừa sáng tạo ra cái

đẹp và mang cái đẹp đến cho loài ngƣời bằng “những bài thơ sáng láng ánh hoa” [112, 37-

38]. Có lẽ đó không phải là một cách đề cao quá đáng của riêng Hàn Mặc Tử. Ngƣời nghệ sĩ

nói chung, thi sĩ nói riêng bao giờ cũng có một sứ mệnh cao cả trƣớc Con ngƣời. Ấy là cái sứ

mệnh thanh lọc và hoàn thiện Con ngƣời. Cho cực đoan của ông là coi thi sĩ nhƣ một “loài”

có tính đặc chủng đối lập với con ngƣời ta thôi. Từ điểm trên đây mà phát sinh hai điểm nữa

nhƣ là những hệ quả trái ngƣợc mà tất yếu: a) Thi sĩ là kẻ đƣợc hƣởng cái ân sủng tuyệt vời

của Thi ca; b) Thi sĩ cũng là kẻ chịu cái định mệnh tàn khốc của Thi ca. Hai đối cực đều ở

mức Tột cùng. Nếu ân sủng lớn nhất là biết và đƣợc tận hƣởng mọi vẻ đẹp của Trần gian –

ông gọi bằng “những công trình châu báu

45

của Đức Chúa Trời”, thì định mệnh đau khổ nhất chính là nỗi cô độc ngay giữa Trần gian

“Trong đời thi sĩ, thi sĩ đã sống cô độc”. Mà cả hai phía phần trái ấy đã hội lại trong cái hình

ảnh “Trích tiên đày đọa”, “Tiến hành khất” rất kì lạ của Hàn Mặc Tử (Hình ảnh “trích tiên,

đày đọa” có thể Hàn Mặc Tử đã chịu ảnh hƣởng từ thi sĩ Tản Đà, một ngƣời có thể gọi là

đồng thời, và cả từ Baudelaire bậc thầy của thơ Tƣợng trƣng Pháp, một ngƣời có ảnh hƣởng

rất lớn đến Phong trài Thơ Mới. Nhƣng có lẽ, về căn bản, hình ảnh đó đƣợc hình thành từ

chính cái thân phận đầy đau khổ của Hàn mặc Tử). Ở cấp độ nội dung cụ thể, nó dẫn tới chỗ:

một đằng ông hình dung “Ngƣời thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo”, “Thi sĩ đã ngất

ngƣ trong khi nuốt hết khí vị thanh tao của mùa xuân ấm, của tất cả những lƣơng thực ngon

ngọt mĩ vị làm bằng hƣơng báu, làm bằng nhạc thiêng, làm bằng rƣợu say, làm bằng châu

lệ” nghĩa là có cái hạnh phúc bất tuyệt là đƣợc tha hồ tận hƣởng những tinh hoa của cõi trần

gian; đằng khác ông lại hình dung thi sĩ là kẻ “rơi xuống cõi đời, bơ vơ, bỡ ngỡ và lạ lùng”,

và đặc biệt là để có những thành quả sáng tạo, loài thi sĩ cần phải đánh đổi bằng giá máu “Bởi

muốn cho loài thi sĩ làm tròn nhiệm vụ ở thế gian này, nghĩa là tạo ra những tác phẩm tuyệt

diệu, lƣu danh muôn đời, Ngƣời (tức Đức Chúa Trời – C.V.S) bắt chúng phải mua bằng giá

máu, luôn có một định mệnh tàn khốc theo riết bên mình” [112,35]. Từ những điều kia có thể

thấy, theo Hàn Mặc Tử, Thi sĩ là kẻ sáng tạo trong đau khổ và bằng đau khổ. Thi sĩ là kẻ đã

chƣng cất những đau khổ của mình để tạo ra niềm vui cho đời. Ở khía cạnh này, quan niệm

của Hàn Mặc Tử ít nhiều chịu ảnh hƣởng của Baudelaire, ngƣời đã coi thi sĩ nhƣ kẻ hái

những bông hoa mọc lên từ nỗi đau của chính mình. Quan niệm này của Hàn Mặc Tử cũng

rất gần với Nguyễn Tuân sau này, khi nhà tùy bút hình dung cái qui trình sáng tạo cảu ngƣời

nghệ sĩ đầy đau đớn nhƣ con trai làm ra ngọc từ cái vết thƣơng lòng âm thầm ứa máu cảu nó

(trong bài “Tờ hoa” [156,6]). Chỉ khác là một ngƣời

46

hình dung đau khổ nhƣ là cái yêu cầu tất yếu của thứ lao động đầy khổ hạnh này, một ngƣời

nói đến đau khổ nhƣ cái thân phận đầy định mệnh của thi sĩ “Và loài ngƣời hãy cám ơn thi

nhân – Hàn viết – đã đổ hết bao nhiêu nguồn máu lệ, đã từng uống một đắng cay trong khi

miệng vẫn tƣơi cƣời sốt sắng...” [112,61]. Hình ảnh ngƣời thơ nhƣ thế là một nghịch lí oái

oăm mà lại không thể khác đƣợc: đau khổ và hoan lạc chỉ là hai phía trái ngƣợc nhau của

cùng một thân phận thi sĩ. Và nhìn vào cả cuộc đời sáng tạo cảu Hàn Mặc Tử có thế thấy rất

rõ, với thi sĩ này, thơ chính là sự lên tiếng cảu thân phận ấy. Cái nghịch lí trái ngang kia

dƣờng nhƣ đã nằm ngay trong bản mệnh của thi sĩ. Bởi thi sĩ, theo hình dung thật tổng quát

mà cũng rõ mồn một của Hàn, chính “là ngƣời khát khao vô tận, cứ nhất định muốn hƣởng

cái thơ ở trên cái khác nữa” [112,38]. Khao khát “cái thơ ở trên cái thơ nữa” là ham muốn

đi đến thứ thơ tột cùng hay đi tới cái chốn tột cùng của thơ vậy. Quan niệm của Hàn Mặc

Tử, rõ ràng, là đƣợc rút ra từ chính cuộc đời ông, chứ không phải đƣợc đúc rút từ một học

vấn hàn lâm. Chúng ta có thể phê phán quan niệm về ngƣời nghệ sĩ của Hàn Mặc Tử ít nhiều

có nhuốm màu sắc định mệnh thần bí. Nhƣng không thể không thấy rằng quan niệm độc đáo

này đã đƣợc cuộc đời sáng tạo đầy đau khổ ấy chứng nghiệm và bảo hành.

1.2.2.3. Việc làm thơ – Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc

Trƣớc hết, phải khẳng định ngay rằng: Hàn Mặc Tử không coi thơ là nghề mà là

nghiệp, nghĩa là nghiệp dĩ, là định mệnh. Điều này chẳng những là nhất quán mà còn là hệ

quả đƣơng nhiên của các quan niệm thơ và ngƣời thơ. Bởi công việc làm thơ chính là sự sống

của ngƣời thơ, nó làm nên cái tƣ cách thi sĩ của ngƣời ấy.

Quan niệm về vấn đề này của hàn Mặc Tử cũng đƣợc ông trình bày nhƣ một nghịch

lí. Nó đồng bộ và cũng là hệ quả tất yếu của các nghịch lí trên kia. Chúng ta có thể thấy thứ

nhất của nghịch lí này chính là : Làm thơ nhƣ

47

một sự giải thoát nỗi đau thƣơng. Ông đã viết khá kĩ trong lời tựa “Thơ điều” tập thơ quan

trọng nhất của đời mình, vừa nhƣ lời “tự thú”, vừa chính là lời “lĩnh xƣớng” của “ngƣời cai

trị trƣờng thơ loạn”: “Tôi làm thơ? – Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ, tôi phản lại

tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bi mật. Và cũng nghĩa là tôi đã

mất trí, tôi phải điên. Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào tiếng ru. Có ai

ngăn cản đƣợc tiếng lòng tôi!” [112,55]. Nhà thơ Chế Lan Viên đã “giải mã” hình ảnh Nàng

ở dây giúp chúng ta rằng: “Nàng” ở đây không phải là cô con gái nào đâu! Nàng đau thƣơng

đấy”. Và Thi hữu này của Hàn Mặc Tử còn mách với chúng ta rằng cách gọi là lùng kia có lẽ

tác giả “Thơ điên đã mƣợn của Baudelaire: “ Tứ thƣờng đọc Baudelaire:” Sois sage ô ma

douleur et tiens toi phis tranquille” (hãy ngoan hỡi em Đau thƣơng và em hãy đứng yên nào!)

[114,14]. Nhƣ vậy, bị nỗi đau thƣơng hành hạ đến cùng cực, đến ứa máu, hàn mặc Tử đã phải

khóc lên, gào lên, rút lên. Thơ Hàn chính là tiếng khóc của linh hồn đau thƣơng ấy. Cái trạng

thái ông gọi bằng “yếu đuối quá” kia thực chất là nỗi cô đơn cùng cực, nỗi cô đơn quá tải,

tâm hồn ông không còn chịu nổi, không còn mang nổi nữa. Giây phút “yếu đuối quá” đó

chính là cái khoảnh khắc dây tơ lòng sắp sửa đứt phăng. Lí trí dƣờng nhƣ đã bất lực, ý chí

cũng cơ hồ tan rã không còn khả năng để kiềm giữ nỗi lòng, để chấn an tâm linh nữa. Tất cả

những gì mà lòng cô đơn âm thầm cất giấu, cố tình không tiết lộ đã vỡ ra, rách xé ra, đã phát

tiết ra thành thơ hết. Nỗi đau thƣơng đã thoát ra ngoài àm thành thơ. Qui luật muôn đời của

thơ là cảm xúc. Thơ là tiếng lòng. Thì tiếng lòng của Hàn Mặc Tử là cái tiếng đau thƣơng đó.

Nó vang lên bởi cái “âm điệu thiêng liêng tạo ra trong khi máu cuồng rền vang dƣới đầu

ngọc bút” [112,55]. Lục Du (1125 1210), một danh sĩ đời tống, từng nói Phần lớn công phu

của thơ là ở ngoài thơ. Thế thì cái gọi bằng công việc làm thơ của Hàn Mặc Tử chính là sống

sau, sống mãnh liệt trong nỗi cô đơn của chính mình. Có thể nói công việc thơ Hàn Mặc Tử

không phải là làm thơ mà là

48

sống thơ, hay nói nhƣ Chế Lan Viên, bị thơ làm, là nhƣ thế. Bị Thơ làm đó chính là Tột cùng

của việc làm thơ.

Nhƣng chƣa hết, chúng ta còn thấy nửa thứ hai của nghịch lí. Đối với Hàn Mặc Tử,

làm thơ còn là hành vi thăng hoa vào cõi đẹp, là làm điều kì diệu. Đây lại là một sự Tột cùng

khác. Nếu ở nửa trên, chỉ là sống thơ, bị thơ làm, thì ở nửa này mới là làm thơ. Nửa trên là

trải nghiệm đau thƣơng, nửa này là trải nghiện hoan lạc – hai phía phản trái mà không thể

tách rời nhất quán trong quan niệm thơ nói chung của Hàn Mặc Tử. Cũng trong lời tựa “thơ

điên”, Hàn Mặc Tử còn viết :”Tôi làm thơ? – Nghĩa là tôi nhất một cung đàn, bấm một

đƣờng tơ, rung rinh một làn ánh sáng.” Làm thơ là “hái những lá tinh hoa”, là đang “say sƣa

đi trong mở ƣớc, trong huyền điệu, trong sáng láng và vƣợt ra ngoài hƣu lĩnh” [112,54]. Ấy

là “Khi ngòi bút của tôi đã thấm nhuồn những ý nghĩ cao cƣờng, truyền sang bởi điện tinh

truyền của trí tuệ, tôi phơi lên mảnh giấy thanh sạch này nhƣng tình cảm nóng ran, tràn trề

và thơm lựng” [112,77]. Nhƣ vậy, nhìn ở phía kia, làm thơ là một sự “đày đọa”, là đang bị cái

“định mệnh tàn khốc” đày ải, còn nhìn ở phía này là đang làm một “trích tiên”, đang hƣởng

những ân sủng của Thi ca.

Riêng ở khía cạnh “làm thơ là làm điều kì diệu” này, Hàn Mặc Tử còn có quan niệm

cụ thể về cái thao tác kì diệu bậc nhất trong sáng tạo của mọi thiên tài nhƣ: “Bắt cái vô hình

trở nên hữu hình, khiến cái chết trở nên cái sống, cho vật câm. Không còn là câm nữa. Đấy

là tất cả nghệ thuật và trí tƣởng tƣợng phi thƣờng của thi nhân, nếu thi nhân là một thiên

tài.”[68,20]. Rồi ông cũng quan tâm đến những thao tác tỉ mỉ nữa của lao động thơ ca nhƣ

việc tạo nhạc điệu, dừng hơi, hạ vân, việc dùng “màu sắc cụ tƣợng” hay “màu sắc trừu

tƣợng” v.v... Nhƣng đó là những quan niệm ở cấp độ tỉ mẫn, chúng sẽ còn có dịp đƣợc đề cập

sâu hơn. Còn ở đây, ngƣời viết tự hạn định trong việc dựng lên những nét lớn trong hệ thống

quan niệm thơ của Hàn Mặc Tử mà thôi.

49

Quan niệm thơ của Hàn Mặc Tử không hẳn là một thú nhị nguyên. hai phía của

nghịch lí chính là hai đối cực có thật và cần thiết để một quan niệm đƣợc hiện ra nhƣ một thể

hoàn chỉnh. Nó chính là lƣỡng cực âm dƣơng chuyên hóa lẫn nhau để hình thành bất cứ chỉnh

thể nào của sự sống cũng nhƣ của nghệ thuật. Bởi thế, nên phải thâu tóm toàn bộ quan niệm

thơ của Hàn Mặc Tử vào một định nghĩa gọn, thì đó có thể là: Thơ là Bông Hoa của Dân

Thƣờng. Đúng thế, nếu Baudelaire coi thơ là những Bông Hoa của cái Ác, thì Hàn Mặc Tử

coi thơ là những Bông Hoa của Đau Thƣơng chứ sao ! Còn muốn nói bằng bản chất của Đau

Thƣơng, thì có thể coi Thơ là những bông hoa mọc lên từ niềm tuyệt vọng. Và, định nghĩa ấy

cũng là một nghịch lí – cái nghịch lí đã đẩy tất cả đến Tột cùng.

Trên thực tế, ông có chịu những ảnh hƣởng của thi phái Tƣợng Trƣng Pháp, nhất là

Baudelaire. Nhƣng quan niệm thơ kì lạ của hàn Mặc Tử đƣợc hình thành chủ yếu không phải

do những nhận thức lí thuyết mà chủ yếu từ những trải nghiệm cá nhân trong sáng tạo thơ

cũng nhƣ những bất hạnh tiếng của mình. Nó là sản phẩm của một sự khủng hoảng và một

khát khao, một nỗ lực sáng tạo. Chúng ta đều đã biết phong trào Thơ Mới là tiếng nói trữ tình

của cái Tôi cá nhân cá thể. Thế giới cá nhân là một phát kiến mới mẻ, cũng là một trốn chạy

ngọt ngào, nó là một miền đất hứa nhƣng cũng sẽ là tuyệt địa của tinh thần. Nếu Thơ Mới là

hành trình đi mãi vào địa hạt của cái Tôi, thì Quan niệm Thơ Điên của Hàn Mặc Tử mang cái

tham vọng muốn tới chỗ sơn cùng thủy tận của cái tôi ấy. Nếu Thơ Mới là nỗi Cô đơn của

Con ngƣời, thì Thơ Điên của Hàn Mặc Tử là cái trạng thái chốt cùng hoàn toàn quá tải của

Cô đơn đây là Đau Thƣơng. Nếu Thơ Mới thể hiện mọi nguồn sống mãnh liệt của cá nhân,

thì Thơ Điên của Hàn Mặc Tử muốn tìm tới cái dạng thức tột cùng của sự mãnh liệt ấy –

mãnh liệt đến cuồn tâm đại trí. Nghĩa là cái gì của nó cũng Tột cùng. Và cũng tức là đa phần

Thơ Mới dừng lại ở Kinh nghiệm, còn Thơ

50

Điên muốn tìm tới mọi thứ Siêu nghiệm. Nói một cách tổng quát. Quan niệm thơ Điên của

Hàn Mặc Tử nhìn trên cả ba bình diện chính trên đây đã chứa đựng cái ham muốn lập một Mĩ

học của cái Tột cùng cho thi ca.

Và điều này cần đƣợc làm rõ hơn. Trong bài tựa “Điêu tàn”, bài tựa vẫn đƣợc xem là

tuyên ngôn nghệ thuật chung của cả trƣờng thơ Loạn, thơ Điên mà Tử là “kẻ cai trị”, Chế Lan

Viên dõng dạc tuyên bố: “Cái gì của nó cũng tột cùng, Nó gào vỡ sọ, nó thét đứt hầu, nó

khóc trào máu mắt, nó cƣời tràn cả túy là túy. Thế mà có ngƣời tự cho là hiểu đƣợc nó, rồi

đem so sánh nó (thì sĩ thơ Điên CVS) với Ngƣời, và chê nó là giả dối, không chân thật. Vâng

! Nó không chân thật, nó giả dối đối với Ngƣời. Với nó, cái gì nó nói đều có cả” [127,7]. Cái

gì nó nói đều có cả, đó là nguyên tắc chân thật. Nguyên tắc này là của mọi thi ca chân chính,

không phải nét độc đáo càng không phải nét độc quyền của Thơ Điên. Cái gì của nó cũng

Tột cùng, đó mới là một nguyên tắc mĩ học lớn của thơ Điên. Nguyễn tắc này có những giới

hạn của nó.

Trƣớc hết tuy Hàn Mặc Tử không phải là ngƣời trực tiếp nói đến chữ “tột cùng” ở

đây, nhƣng trong quá trình sáng tạo và phát ngôn, ông nói đến chữ này nhiều, vừa trực tiếp

vừa gián tiếp. Thứ hai, coi đây là nguyên tắc mi học vi: tuy tột cùng có thể là một cung bậc

mà nhiều ngƣời sáng tạo mong đạt tới, nhƣng với Thơ Điên nó mới trở thành một dạng ý thức

tự giác, một chuẩn mực không chỉ lẳng lặng chi phối quá trình sáng tạo, mà còn, ở một mức

độ nào đó, đã trở thành điểm mấu chốt trong tuyên ngôn nghệ thuật của một khuynh hƣớng

tìm tòi, nghĩa là một chủ đích lớn nhất, một khát vọng bao trùm nhất của thi sĩ. Thứ ba, cái

tột cùng theo quan niệm trên đây mang hàm nghĩa riêng nhƣ là cái siêu việt, siêu nghiệm,

vƣợt ra ngoài những lối biểu cảm, lối biểu hiện thông thƣờng của thi ca, mà trƣớc hết là

những xúc cảm trữ tình đƣợc đẩy lên đến cực điểm vƣợt lên trên cái cung bậc mãnh liệt

thƣờng

51

tình của tình cảm đã khiến cho chủ thể nhƣ bị rách xé, đổ vỡ bởi quá sức, quá tải. Nhìn một

cách biện chứng, nếu sung mãn chỉ là một thời điểm của sự sống, sống mãnh liệt tận độ (ở

Xuân Diệu là trạng thái này) thì hủy diệt mới là thời điểm chốt cùng của sự sống mãnh liệt

đến quá tải, đến tƣ hủy (đây là trạng thái ở Hàn Mực Tử). Thơ Từ là tiếng nói trữ tình của

thời điểm chốt cùng đó. Nhƣ Sự Sinh thành mọc lên ở thời điểm chốt cùng của Sự Hủy diệt,

Thơ là Sang tạo hƣớng về sự sống trên sự hủy diệt này. Thơ là sự quằn quại để nở sinh khi sự

hủy diệt đã đến chốt cùng. Ở Hàn Mặc Tử, tất cả phơi lộ ở Tình yêu tuyệt vọng. Bởi tự nó đã

bao hàm hai lực lƣợng: Tuyệt vọng là hủy diệt, là nỗi chết, thì TÌnh yêu là sáng tạo, sinh

thành. Thứ tƣ, khẳng định cái tột cùng nhƣ là nguyên tắc hàng đầu của Thơ điên, là để nhận

diện một chuẩn mực của một huynh hƣớng tìm tòi, chứ không phải tán thành một chiều, càng

không phải tuyệt đối hóa nó nhƣ là một chuẩn mực tối thƣợng cho mọi khuynh hƣớng thi ca;

đồng thời không phải mọi cái Tột cùng đều là Hay.

Quan niệm thơ của thi sĩ này rõ ràng mang cái khát khao đẩy thơ ca đƣơng thời lên

một trình độ mới. Và khát khao kia là rất đáng trân trọng, rất đáng đƣợc chia sẻ. Tuy nhiên,

ngay cả khi quan niệm ấy đã nở ra thành một thực tiễn thi ca đủ đầy viên mãn thì nó cũng chỉ

là một tiếng nói trữ tình, bên cạnh và bình đẳng với những tiếng nói khác, đáp ứng một nhu

cầu trữ tình nào đó của con ngƣời mà thôi chứ không phải là tất cả, không định là tất cả. Song

nhƣ vậy thôi cũng đã góp phần làm giàu thêm nền thơ ca dân tộc rồi. Thơ Điên, vì thế, hoàn

toàn có một quyền sống chính đáng.

Là ngƣời cai trị trƣờng thơ Loạn của các nhà thơ Bình Định (Gồm Hàn Mặc Tử, Chế

Lan Viên, Hoàn Điệp, Yến Lan... Và cả Bích Khê, tuy vị này không thƣờng ở đất ấy, nhƣng

vẫn châu tuần về đây) và cũng với các thi hữu, Hàn Mặc Tử có nhiều tuyên ngôn về thơ. Tinh

thần của hàn Măc TỬ CÓ ẢNH HƢỞNG LỚN ĐẾN CẢ TrƣỜng thơ này. Ai cũng dùng cái

Tột cùng để diễn đạt

52

mình. Bích Khê muốn trở thành “thi sĩ phi thƣờng”, và rồ đã đƣợc Hàn Mặc Tử phong là “thi

sĩ thần linh”. Chế Lan Viên cũng coi “Làm thơ là làm sự phi thƣờng”, rồi cũng đƣợc Hàn

Mặc Tử phong là “một thi sĩ điên”... Và Chế Lan Viên đã dứt khoát khẳng định cái riêng của

thi phái này là “Cái gì của nó cũng tột cùng”. Các tuyên ngôn ấy không che giấu cái tham

vọng muốn tạo ra hẳng một quan niệm mới, một trƣờng phái thi ca mới. Rất tiếc, nhƣng phát

ngôn đây đó của họ chƣa đủ hệ thống, chƣa đủ cụ thể để xác lập một mô hình lí thuyết chuẩn

mực thật sự cho thơ Loạn, Thơ Điên. Về căn bản, chúng mới chỉ là những ý tƣởng có tính

chủ quan, tản mạn, chủ yếu thể hiện những nhận thức, những trải nghiệm, những khao khát

về thơ ca của từng cá nhân. Chúng còn là những thể nghiệm, nhữn gkinh nghiệm, những định

hƣớng cho riêng từng cây bút, vạch những nẻo đi riêng cho từng cá nhân hơn là những qui tắc

nghệ thuật, những nguyên tắc sáng tạo, những hệ thống thi pháp chung có tính qui phạm cho

cả một trƣờng phái. Song, nếu nhƣ có thể nói đến một nguyên tắc nào đấy khả dĩ bao đƣợc tất

cả, thì đó chính là Cái gì của nó cũng tột cùng. Phải, Cái gì của nó cũng tột cùng, đó chính

là nguyên tắc mĩ học bao trùm nhất, tập trung nhất của Thơ Điên nói riêng và trƣờng Thơ

Loạn nói chung.

Và dẫu sao, với một ảnh hƣởng rất lớn đến cả thi phái và cũng ít nhiều qui tụ đƣợc

những thiên hƣớng riêng của các thi hữu, quan niệm thơ của Hàn Mặc Tử trƣớc hết đƣợc xem

nhƣ một chìa khóa giúp ta mở vào cái thế giới nghệ thuật riêng của thi sĩ này, đồng thời ở

một mức nào đó, cũng là một nguồn sáng soi cho ta đi vào thi phái ấy.

53

CHƢƠNG 2: …ĐẾN MỘT THẾ GIỚI HÌNH TƢỢNG RÀNG RỊT…

Nhƣ đã giới thuyết ở phần mở đầu, khái niệm. Thế giới nghệ thuật của một nhà văn

đƣợc quan niệm: Xét đến cùng, là một thế giới hình tƣợng sống động (với tất cả tình phong

phú đa dạng và tính hệ thống tinh vi của nó) sinh thành và châu tuần quanh một trục tƣ

tƣởng nghệ thuật (xuyên suốt và bao trùm cả một đời văn) đƣợc xây cất bằng vật liệu ngôn

từ. Có ngƣời coi một thế giới nghệ thuật của nhà văn chỉ bao gồm hai hệ thống hình tƣợng

chính là. Hình tƣợng cái Tôi và Hình tƣợng thế giới. Căn cứ của lỗi phần chia này là “với sự

xuất hiện của kiểu nhà thơ lãnh mạn, lần đầu tiên nhà thơ đƣợc tách ra khỏi mô hình vũ trụ, ý

thức đầy đủ về sự sống cá nhân của mình, lần đầu tiên thế giới khách quan đƣợc đẩy ra thành

khách thể., đƣợc nhìn ngắm bằng con mắt của từng cá nhân. Trong quá trình nội cảm hóa thế

giới khách quan này mỗi nhà thơ lãnh mạn tạo ra một hình tƣợng riêng về thế giới của mình

[60,56]. Vì thế, Hình tƣợng Cái Tôi nhƣ chủ thể tự biểu hiện và Hình tƣợng thế giới nhƣ

khách thể đƣợc nội cảm hóa là hai phạm trù hình tƣợng lớn nhất của một thế giới nghệ thuật

thơ lãnh mạn. Lối phân chia này đã than gồm hòa tan cả những thành tố nhƣ Quan niệm nghệ

thuật về con ngƣời và thế giới, Không gian nghệ thuật, Thời gian nghệ thuật, những phạm trù

quen thuộc của Thi pháp học vào hai hệ thống hình tƣợng căn bản đó. Điểm khả thủ của nó là

tính khái quát, tổng thể không bị xé vụn ra. Quan niệm này về thế giới nghệ thuật khá gần với

quan niệm của luận án. Nhƣng hạn chế của nó cũng chính ở chỗ đó: thứ nhất, nó đƣợc xem

nhƣ một hệ thống hình tƣợng tự tại và tự trị, để xóa mờ vai trò sản sinh và tổ chức khá trực

tiếp của tƣ tƣởng nhà văn; thứ hai, nó dễ nhập cục cả những hệ thống hình tƣợng đông đẳng.

Chẳng hạn, song song

54

với Hình tƣợng Cái Tôi, thƣờng vẫn có một đối ảnh trực tiếp của nó là Hình tƣợng Nàng thơ.

Tuy cũng phụ thuộc phạm trù khách thể, nhƣng đây là một dạng khách thể đặc biệt, có một vị

thế gần giống nhƣ “nhân loại nhân vật” (chứ dùng của Nguyễn Tuân) đối với thế giới nghệ

thuật của một nhà tiểu thuyết, hoặc của những thi sĩ thuộc các phạm trù thơ khác. Thậm chí,

hình tƣợng này tựa hồ nhƣ Cái Tôi thứ hai của chủ thể vậy. Nếu nhập cả vào một phạm trù

Hình tƣợng Thế giới, e rằng khó mà phân lập đƣợc chỗ đứng thực thụ của nó. Ở đây, luận án

quan niệm rằng: châu tuần quan một trục tƣ tƣởng nghệ thuật là một hệ thống hình tƣợng

toàn vẹn với cơ cấu bộ ba gồm Hình tƣợng Cái Tôi. Hình tƣợng Nàng Thơ và Hình tƣợng

Thế giới.

2.1 TRỤC TƢ TƢỞNG XUYÊN SUỐT VÀ BAO TRÙM

2.1.1 Tư tưởng nghệ thuật của nhà văn

2.1.1.1 Không có mục tiêu và tham vọng giải quyết về mặt lí luận, nhƣng do tƣ tƣởng

nghệ thuật Hàn Mặc Tử là một đối tƣợng phải khảo sát, nên luận án không thể không có một

giới thuyết nhất định về khái niệm trên cơ sở những tài liệu hiện hành chứ không phải là đề

xuất một khái niệm mới.

Chúng ta đều biết. Tƣ tƣởng là phần cốt lõi của mọi hoạt động mang tính trí tuệ, dù đó

là hoạt động khoa học hay nghệ thuật. Đối với nhà khoa học thì đó là tƣ tƣởng, khoa học, còn

đối với ngƣời nghệ sĩ thì đó là tƣ tƣởng nghệ thuật. Nói nhƣ thế là đã phần nào coi mỗi đối

tƣợng kia có một hình thái đặc thù của nó. Nếu tính đến nét đặc thù thì rất dễ lầm lẫn.

Trƣớc hết, tƣ tƣởng nghệ thuật đƣợc xem là sản phẩm của tƣ duy nghệ thuật. Mà tƣ

duy nghệ thuật là một hình thái nhận thức đặc thù của ngƣời nghệ sĩ. Do đặc trƣng duy khoa

học là quá tình trừu tƣợng hóa, nên nhận thức khoa học chủ yếu là bằng lí trí, bằng não bộ,

còn tƣ duy nghệ thuật lại

55

đòi hỏi ngƣời nghệ sĩ nhận thức bằng toàn bộ con ngƣời tinh thần của mình đang rung lên

trong cùng một nhịp. Trong trạng thái đó, trí tuệ vận động, hoạt động trong môi trƣờng của

xúc cảm, đƣợc bao bọc và đƣợc thấm đậm bởi xúc cảm thẩm mĩ. Bởi thế, về bản chất, nó

chính là loại hình tƣ duy tình cảm thẩm mĩ [85, 7]. Nói cách khác, nếu nhƣ Tônxtôi đã chia ra

hai loại trí tuệ: trí tuệ của não bộ và trí tuệ của trái tim, thì có thể nói loại hình trí tuệ trong tƣ

duy nghệ thuật của ngƣời nghệ sĩ chính là trí tuệ của trái tim vậy. Với một cách nói khác,

Vƣgôtski cũng chỉ ra sự đặc biệt của loại cảm xúc trong tƣ duy nghệ thuật, đó là “cảm xúc

của trí tuệ” [178, 189].

Tƣ tƣởng nghệ thuật bao giờ cũng là kết tinh của những quan niệm nhân sinh và thái

độ thẩm mĩ của ngƣời nghệ sĩ trƣớc đời sống. Cho nên: a) xét ở bình diện trí tuệ, nó hiện ra

dƣới dạng nhƣng triết lí nhân sinh đầy tâm huyết; b) xét ở bình diện cảm xúc, nó hiện ra nhƣ

một nỗi niềm thƣờng trực bức xúc. Tất cả xuyên thấm vào nhau tạo nên một tâm trạng lớn,

một nhiệt hứng lớn không chịu nguôi ngoai. Bởi cội rễ này mà dẫn tới ít nhất là các hệ qủa

sau đây:

- Thứ nhất, dạng thức sống động của tƣ duy nghệ thuật là một niềm nhiệt hứng mãnh

liệt bao trùm lên toàn bộ cuộc đời sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ. Niềm nhiệt hứng này sẽ là cái

ngọn nguồn, cái trữ lƣợng trực tiếp cho việc sinh thành các sảc phẩm. Chính vì cái dạng thức

độc đáo này mà có ngƣời bị cầm tù trong một quan niệm hẹp về hai chữ “tƣ tƣởng” đơn thuần

nên không hiểu nổi tại sao đã gọi là tƣ tƣởng thì chỉ có thể thuộc phạm trù lí trí làm sao lại có

thể là một nhiệt hứng thuộc phạm trù tình cảm đƣợc. Và cơ bản vì điểm này mà tƣ tƣởng

nghệ thuật có khi đƣợc gọi là “Cảm hứng chủ đạo”.

- Thứ hai, Nó quyết định đến nhiều cảm xúc của từng tác phẩm lẫn giọng điệu nghệ

thuật của mỗi tác giả. Bởi vì giọng điệu chính là tính chất của cảm xúc ở chủ thể phát ngôn

(Bất luận bằng loại hình ngôn ngữ nào). Giọng điệu

56

chính là sự hiện hình của thái độ đánh giá, chứa đựng trong đó cả quan niệm của chủ thể.

- Thứ ba, là sự biểu hiện tực tiếp của quan niệm nhân sinh và thái độ thẩm mĩ của tác

giả, nên tƣ tƣởng nghệ thuật không phải nhất thành bất biến mà luôn vận động. Cho nên,

những mảnh vỡ khác nhau trên những thời điểm, những chặng khác nhau, những mảnhvỡ

khác nhau trên những thời điểm, những chặng khác nhau của một tâm trạng lớn, một nỗi

niềm lớn, một nhiệt hứng lớn đó. Chính điều này tạo nên cái gọi là hành trình tƣ tƣởng của

ngƣời nghệ sĩ.

- Thứ tƣ, là con đẻ của sự hòa diệu kì diệu nhƣ thế của trí tuệ và tình cảm, sản phẩm

của loại hình tƣ duy tình cảm cảm xúc này không thể là những khái niệm khô lạnh, những

định lí trửu tƣợng, trái lại , dứt khoát phải là những hình tƣợng sống động. Hình tƣợng chính

la cái dạng thức sống toàn vẹn của tƣ tƣởng nghệ thuật. Tƣ tƣởng gắn bó máu thịt với hình

tƣợng nhƣ linh hồn với thể xác [85, 6, 15]. Thoát li hình tƣợng, nó chỉ còn là cái ý niệm đã

hóa thạch của tƣ tƣởng nghệ thuật chứ không còn là bản thân nó nữa. Cho nên. Tƣ tƣởng

nghệ thuật của nhà văn là một cái trục xuyên suốt thế giới hình tƣợng, sống trong hình tƣợng

và sống bằng hình tƣợng. Nhìn từ phía khác, hệ thống hình tƣợng tuy phong phú đa dạng

nhƣng bao giờ cũng xoáy xung quanh một cái trục bí mật ấy là tƣ tƣởng nghệ thuật. Và vì thế

nó cũng là nhân tố sáng thể, nhân tố tổ chức nên thế giới nghệ thuật của nhà văn.

Khi tìm kiếm tƣ tƣởng nghệ thuật của một nhà văn. Ngƣời ta thƣờng dựa vào những

lời tập trung tâm huyết chứa đựng triết lí của tác giả, căn cứ vào giọng điệu bao trùm và nhất

là căn cứ vào giọng điệu bao trùm và nhất là căn cứ vào thế giới hình tƣợng của nhà văn là

hoàn toàn có lí. Bởi tƣ tƣởng nghệ thuật tân thấm vào hầu nhƣ mọi thành tố cáu thành tác

phẩm, nhƣng đƣợc bộc lộ đậm nét hơn cả là ở những nơi đó.

57

2.1.1.2. Trong thực tế sang tạo, ngƣời nghệ sĩ có tự giác về tƣ tƣởng của mình không?

Không phải nghệ sĩ nào cũng ý thức đƣợc về tƣ tƣởng của chính mình một cách tự giác. Ngay

ở trƣờng hợp may mắn, nghệ sĩ phát biểu lên cái tƣ tƣởng của mình một cách chủ động, rõ

ràng và đầy tâm huyết – thì đó cũng chƣa phải là tất cả nhƣng căn cứ đủ để nhận diện tƣ

tƣởng thật sự của họ. Đó là chƣa kể những phát biểu phiến diện đôi khi có cả những ngộ

nhận. Phát biểu ấy chỉ thật sự là một điểm tựa chắc chắn khi nó thống nhất, phù hợp với

những ấn tƣợng chuẩn xác, những đúc rút, khái quát thật khoa học của ngƣời từ bả than thế

giời hình tƣợng của họ mà thôi. Việc tìm kiếm những phát biểu tực tiếp la cần thiết, nhƣng

không bao giờ thay thế đƣợc việc tiến hành các thao tác khái quát tƣ tƣởng nghệ thuật từ một

thế giới hình tƣợng phong phú trong tác phẩm. Nhìn từ phía sang tạo, ngƣời nghệ sĩ phải kí

thác tƣ tƣởng nghệ thuật của mình vào thế giới hình tƣợng của nghệ sĩ, lại không thể không

tiến hành các thao tác trừu xuất tƣ tƣởng ra khỏi cái thân – xác – hình – tƣợng của nó.

2.1.2 Tư tưởng xuyên suốt và bao trùm của Hàn Mạc Tử.

2.1.2.1. Nhƣ vừa trình bày ở trên, một thế giới nghệ thuật hoàn chỉnh không thể là

những mảnh rơi, mảng rời đƣợc xếp cạnh nhau, đƣợc ghép vào nhau. Trái lại,chúng phải

thống nhất xung quanh cái “ý niệm tuyệt đối” của nhà nghệ sĩ. Chúng phải đƣợc “kết dính”,

đƣợc “xâu chuỗi” bởi tƣ tƣởng. Tƣ tƣởng nghệ thuật là thứ “dung môi”, là cái “trục bí mật”

tạo nên tính thống nhất này. Chẳng những tạo nên tính thống nhất khiến các hình tƣợng nghệ

thuật đƣợc sản sinh kết thành những hệ thống sinh động. mà tƣ tƣởng còn thống nhất các hệ

thống hình tƣợng khác nhau ấy vào một chỉnh thể lớn hơn, toàn vẹn hơn là thế giới nghệ

thuật. Bởi thế cho nên, muốn nắm đƣợc tƣ tƣởng nghệ thuật của một nghệ sĩ ở dạng toàn vẹn

đầy đủ nhất của nó, cần phải tiến hành khảo sát một cách toàn diện tỉ mỉ các hệ thống hình

tƣợng tạo nên chỉnh

58

thể thế giới nghệ thuật của anh ta. Phần việc ấy sẽ đƣợc triển khai ở những chƣơng sau. Cũng

cần phải nói ngay rằng, việc phân tích tƣ tƣởng nghệ thuật bao giờ cũng phải gắn liền với

việc phân tích các hệ thống hình tƣợng lớn nhƣ Hình tƣợng cái Tôi, Hình tƣợng Nàng thơ,

hình tƣợng thế giới của một chỉnh thể thi ca. Thậm chí, xét về một mặt nào đó, phân tích hệ

thống hình tƣợng kia cũng là một phần của nhà thi sĩ. Song lẽ, mỗi phần văn có tính độc lập

riêng: nếu cái đích chính của phần việc thứ nhất nghiên vè phân tích và tái lập cái diện mạo

tƣ tƣởng, thì cái đích căn bản của phần việc thứ hai lại nghiêng về phân tích và tái lập diện

mạo hình tƣợng. Cũng có thể nói: phần việc thứ nhất nghiêng về nắm bắt cái tinh thần của

một thế giới nghệ thuật, phần việc sau chỉ chuyên xem xét cái hình thể của thế giới ấy. Giờ

đây là phần việc thứ nhất: khái quát về trục tƣ tƣởng xuyên suốt thế giới ấy trên những nét

lớn. Cụ thể là chỉ nhận diện nhiệt hứng bao trùm suốt đời Hàn Mặc Tử toát lên từ giọng điệu

chủ đạo, hệ thống ngôn ngữ từ ám ảnh và những phát ngôn có tính tự giác của thi sĩ mà thôi.

2.1.2.2. Chúng ta đã biết, giọng điệu vừa là yếu tố đầu tiên vừa là yếu tố sau chót của

một chỉnh thể nghệ thuật xâm chiếm tâm hồn và tác động và tâm trí ngƣời tiếp nhận Là “yếu

tố có vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức tác phẩm vào một chỉnh thể” [99, 112,

113], giọng điệu thực chất là cái môi trƣờng cảm xúc vừa toát lên vừa bao quanh một chỉnh

thể nghệ thuật, giọng điệu cũng làm nên cái điệu cảm xúc, nói một cách khác là cái sắc điệm

của niềm nhiệt hứng của tác giả,tức là nó đã bao hàm cả tƣ tƣởng riêng của anh ta. Nó vừa là

yếu tố thuộc ngôn ngữ vừa “siêu ngôn ngữ” [99, 113]. Bởi thế cho nên sẽ không nhận diện

đƣợc cái tinh thần của tƣ tƣởng nghệ thuật nhà văn, nếu không nhận diện giọng điệu của anh

ta.

59

Đồng nhất giọng điệu với ngữ điệu không ổn. Bởi ngữ điệu chỉ nghiên về các sắc diện

biểu cảm chủ yếu thuộc khía cạnh ngữ âm của nghệ thuật ngôn từ. Những loại ngữ điệu ra

khỏi giọng điệu cũng không xong. Bởi ngữ điệu không chỉ là hiện tƣợng của câu mà còn là

hiện tƣợng của văn bản, nghĩa là một yếu tố không thể thiếu câu thành giọng điêu. Nó là cái

nền âm hƣởng sống động, tạo nên cái mối sinh cho ngôn từ nghệ thuật. Cho nên, tìm kiếm

một giọng điệu nghệ thuật cần phải gắn với cảm hứng, chủ đạo, với hệ thống môtip chủ đạo,

với hệ thống ngôn từ…, nhƣng không thể không bắt dẫn từ ngữ điệu bao trùm.

Trong phần khảo sát “quan niệm thơ” của Hàn Mặc Tử, chúng ta đã thấy thơ ông là

Bông hoa của Đau Thƣơng. Bao gồm cả hai phía: Đau thƣơng vừa là ngọn nguồn vừa là cung

bậc cảm xúc của tiếng thơ ấy. Nghĩa là Đau thƣơng cũng chính là cái giọng điệu nghệ thuật

chủ đạo của thơ Hàn Mặc Tử. Dẫu sao đó vẫn chƣa phải là những khảo sát từ thực tiễn sáng

tạo. Đọc cả tập thơ Hàn Mặc Tử ai cũng thấy chủ âm của nó là tiếng kêu của máu và nƣớc

mắt. Tràn khắp đó đây là những tiếng than van: “Tôi lạy muôn vì tình tú nhỏ”, “Hãy van lớn

ở dƣới chân bàn thánh”, “Van lạy không gian xóa những ngày”, “Chắp tay tôi lạy cả miền

không gian”…, là những lời rên siết thảm thƣơng: “Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết/ Cả

lòng ta trong mở chử rụng rình”, “Từ nay trong gió trong mây gió/ Lời thảm thƣơng rên

khắp nẻo mơ”, “Bao giọng buồn thƣơng gió đã thề/ Bao lời oán hận của sĩ mê”, “Nghệ hỡi

nghệ muôn năm sầu thẳm/ Nhớ thƣơng còn một nắm xƣơng thôi”… Nhƣng xét ra những tiếng

kêu thê thiết man dại ấy mới chỉ tạo ra cái ngữ điệu, cái cung bậc đau thƣơng thôi. Thơ Hàn

Mặc Tử còn tràn đầy những tâm sự của máu. Ấy là thứ máu ứa ra từ vết thƣơng của một linh

hồn sống đến đứt cả sự sống, là thứ máu âm thầm rỉ ra trong nỗi cô đơn quá tải, thứ máu bám

lên từ niềm tuyệt vọng, từ nỗi chết đơn độc, đơn côi. Đó là “Một khối tình nức nở

60

giữa âm u/ Một hồn đau rã lần theo hƣơng khói/ Một bài thơ cháy tan trong nắng rọi/ Một lời

run hoi hóp giữa không trung/ Cả niềm thƣơng ý nhớ cả một vùng/Hóa thành vũng máu đào

trong ác lặn”… Thơ Hàn Mặc Tử là cả một thế giới đau thƣơng: Một mặc cảm chia lìa vĩnh

biệt chẳng chịu nguôi ngoai – hồn thi sĩ chứa đầy trang vĩnh biệt”, “Ta trút linh hồn giữa lúc

dậy/ Gió sầu vô hạn nuôi trong cây/ Còn em sao chẳng hay gì cả/ Xin để tang anh đến vạn

ngày…”. Một mặc cảm về trời sâu vực thẳm: “Ai đem tôi bỏ dƣới trời sầu/Sao bông phƣợng

nở trong màu huyết/ Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu”…, và tràn ngập những môtip thi ca

đƣợc hóa thân từ máu, từ nƣớc mắt, từ thân xác đau đớn, từ linh hồn tổn thƣơng… những

khía cạnh này thiết tƣởng chẳng trích dẫn, bởi ít có bài thơ nào của thi sĩ này lại vắng thiếu

những môtip ấy.

Nhận diện going điệu nghệ thuật của Hàn Mặc Tử nói riêng và nhà thơ Hàn Mặc Tử

nói chung, bao giờ cũng thấy tính không thuần nhất, tính phức tạp, thậm chí hỗn tạp của nó.

Hàn Mặc Tử đã tạo ra cả một môi trƣờng. Đau thƣơng. Nhƣng thực ra một sắc thái đau

thƣơng đậm đặc chỉ thật sự bắt đầu với tập “Đau thƣơng” thôi. Còn trong “Gái quê”, đau

thƣơng mới chỉ là những yếu tố Chủ yếu thể hiện ở bề chìm của ngữ điệu khắc khoải và đây

đó ít nhiều ở cung bậc cảm xúc với những sầu, hận, oán , với một số môtip biệt li, nƣớc mắt:

“Hỡi trăng hãy chặt khóm thùy dƣơng/ Và chặt luôn ta đứt nổi niềm”. “Ta đang khao khát

tình yêu thƣơng/ cất tiếng kêu vang trong im lặng/ Tiếng va vào núi đội quanh vòng”,

“Nhƣng thời gian vẫn trôi đi mãi/ yêu đau long anh ôm hận riêng”, “Trong khi nhìn mây

nƣớc/ Lòng xuân cũng não nề”, “Ta lau nƣớc mắt, mắt không ráo/ Ta lấy tình nƣơng, rửa

biệt li…”. Song, tính hỗn tạp không chỉ ở đó. Nếu xét riêng về khía cạnh ngữ điệu của giọng

điệu không thôi, cũng thấy nó không thuận lợi một sắc điệu đau thƣơng. Ngay trong môi

trƣờng đau thƣơng vẫn có sắc điệu hoan lạc. Điều này cũng nằm sẵn ngay từ

61

trong “quan niệm thơ” đã trình bày trên kia của Hàn Mặc Tử. Cùng với tiếng đau thƣơng, là

cũng gặp không ít tiếng reo vui của một lòng yêu “rào rạt nhƣ làn song”: Vui thay cảnh sáng

trăng”, “Hôm nay vui quá anh Phùng ơi… Cƣời phải là sao cho hả hơi”, “lá đổ rào rào/

Trăng vàng xông xáo/ Chuỗi cƣời ha ha/ Trên cảnh đồi cao”, “Vạn tuế bay ơi sáng rợp

trời”, “Trăng, Trăng, Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!”… Song song với những tiếng reo là

hệ thống những môtíp cƣời, vui hoan lạc… là hệ thống ngôn từ với các cấp độ khác nhau biểu

hiện khía cạnh ấy.v.v… Song, hai sắc điệu này tồn tại tỏng thơ Hàn Mặc Tử không phải

ngang bằng bình quân. Trái lại, Đau thƣơng là chủ âm, Hoan lạc là phụ thuộc. Thậm chí hoan

lạc chỉ là một cung bậc trái khoáy của Đau thƣơng (khi vui lại khóc buồn tênh lại cƣơi): Xin

dang này máu dạng tƣơi/ Này đây nƣớc nắm giọng cƣời chen nhau/ Mới hay phong vị nhiệm

màu/ Môi chƣa nhấp cạn mạch sầu đã tuôn”… “Tôi ngồi ở Bến hàn giang/ Khóc thôi mây

nƣớc bằng hoàng suốt đêm” (Bến Hàn giang). Dù có là “nƣớc mắt giọng cƣời chen nhau”,

nhứng tất cả đều chỉ là lời của “máu đang tƣơi” đó thôi, bao trùm lên bến Hàn giang, bao

trùm lên cõi thơ Hàn vẫn cứ là “khóc thôi mây nƣớc bang hoàng suốt đêm”. Chủ âm là đau

Đau thƣơng. Tuyệt đối là Đau thƣơng.

Bắt nguồn từ một tình yêu tuyệt vọng. Đau thƣơng là cái trang huống tâm hồn, là nỗi

niềm bao trùm toàn bọ hồn thơ của thi sĩ. Nếu tƣ tƣởng nghệ thuật trƣớc hết là một nhiệt

hứng, thì nguồn nghiệt hứng của thi sĩ chính là Hàn Mặc Tử đã hƣớng tới đối tựng của mình

bằng tình yêu ấy, bằng cái trạng huống tâm hồn kì lạ ấy. Nói một cách khác, tình yêu khắc

khoải tuyệt vọng là nguồn nhiệt hứng thƣờng trực sôi nổi của Hàn Mặc Tử.

2.1.2.3. Hàn Mặc Tử có ý thức rõ rệt về niềm cảm hứng bao trùm của mình không?

Có.Trong bài văn xuôi bằng tiếng Pháp việt vài ngày trƣớc khi mất, ông đã phát biểu rất đinh

ninh: “Tôi muốn trọng đời ngƣỡng mộ về trăng

62

trong nguyên vẹn, nguồn tƣơi, ánh sáng, thơ vì tất cả đấy là hình tƣợng của LINH HỒN

THANH KHIẾT” lòng ngƣỡng mộ thủy chung, mãnh liệt và bền bỉ trọng đời kia là gì nếu

không phải là khát vọng thẩm mĩ cháy bỏng, là cảm hứng nghệ thuật không vơi cạn của thơ

ông. Và nhiệt hứng ấy hƣớng vào một đối tƣợng, một vẻ đẹp của cuộc đời thôi: những biểu

hiện khác nhau của linh hồn thanh khiết. Và nhƣ thế linh hồn thanh khiết kia chính là vẻ

đẹp tột cùng của cuộc đời. Ông dùng chƣ ”Linh hồn” trong trƣờng lớp này là nhằm để chỉ

một vẻ đẹp lớn lao vừa hiển hiện đó đây vừa bàng bạc bao trùm lên thế giới theo nhỡn quan

của mình. Đó là sự thanh khiết. Đúng là nhiệt hứng sôi nổi của cuộc đời sáng tạo Hàn Mặc

Tử là hƣớng về vẻ đẹp THANH KHIẾT. Mà nó đặc biêt rõ nét là ở chặng sáng tác cuối đời,

khi ông đã lâm vào trọng bệnh, tinh thần đã ngă hẳn sang màu Thiên chúa giáo. Phát biểu ấy

đối với ngƣời nghiên cứu la một mach bảo hết sức quan trọng. Chỉ cần nhìn lƣớt đọc thơ ông

theo một mạch ngôn từ, một mạch hình ảnh nổi trội giãng khắp độc dày cũng đủ thấy phát

biểu của ông thực sự là một tự nghiệm sâu sắc. Có thể gọi bằng “từ chìa khóa” đối với mạch

ngọn từ ấy.

2.1.2.4. Chúng ta đều biết, một trong những đầu mối tin cậy để kiếm tìm tƣ tƣởng nhà

văn là hệ thống “Từ chìa khóa”. Nó phần nào cũng giống nhƣ “nhãn tụ” trong một tác phẩm

chính baudelaire là một trong những ngƣời đầu tiên đã đề lên thành qui luật đối với hiện

tƣợng từ chìa khóa này: “Để đoán hiểu tâm hồn nhà thơ, hoặc ít nhất mối ƣu tƣ chính của

anh ta, chúng ta tìm trong tác phẩm những từ ngữ nào đƣợc thể hiện thƣờng xuyên nhất. Từ

ngữ ấy biểu hiện nỗi ám ảnh” [17, 24]. Đối với ngƣời nghiên cứu, những từ ám ảnh ấy là một

chìa khóa giúp mở vào tƣ tƣởng nha văn. Ở Hàn Mặc Tử, một trong những từ ấy là ”trinh

bạch” với những biến thể khác nhau: “Giấy trắng tinh khôi tuôn huyết mạch”, “Em sợ lang

quân em biết đƣợc/ Nghi ngờ đến cái tiết trình em”, “Trinh tiết vẫn còn nguyên vẹn mới/

Chƣa hề âu yếm ở đầu

63

môi“, “Tình hơn đồng trình! Hứng quá hửng dòng”, “Sáng thơm tho nhƣ ánh ngọc hửng

dòng”, “Suốt vì trong trắng vẫn đồng tình”, “Nƣớc ta trong trắng oi vàng/ Dò xem trinh tiết

có phần thanh cao”, “Mai này thiên đại mới tính không/ Gió càng hơi và nhạc lên trời”,

“Thƣợng thanh khí tiết ra nguồn tinh khí/ Ta cho ra một nguồn thơ rất mát/ Mới tinh khôi và

thanh sạch bằng hƣơng”, “Tiếng hát còn thanh tao/ Tài hoa rất thanh Bạch”, “tiết trình còn

em phúc hậu hơn thơ”, “ Trình bạch ai chôn tận đáy mồ”, “Tấu lạy bà ngƣời là đấng trinh

tuyển thánh vẹn”, “Trên chin tầng điều động ca trân châu/ Dƣơng sống lại muôn ngàn hoa

phẩm tiết”, “tiếng cƣời trong nhƣ thủy tinh và thanh sống lại muôn ngàn hoa phẩm tiết”,

“Cát trắng qúa, trắng hơn da thịt của ngƣời tiên, của lụa bạch, hơn phẩm giá của tiết trinh”,

“những tấm cát phẳng lờ nhƣ lụa càng, trinh bạch làm sao”…

Những phân trích dài dòng trên đây nằm rải rác dọc theo các tập thơ của Hàn Mặc Tử.

Trong đó vẻ trình bạch thanh khiết là một đối tƣợng, là một chuẩn mục, một thƣớc đo để ông

sáng tạo nên cái đẹp của thơ mình, dù đó là việc về hình thể hay tinh thần con ngƣời (gái quê,

Đức bà Maria, da thịt ngƣời trần, da thịt ngƣời tiên, trinh tiết, tiếng ca, tài hoa..) dù viết về

cảnh vật (dải cát, suối nguồn, ánh trăng, tơ lụa, hứng dòng, …) Không chỉ thế ông còn một

quan niệm có thể nói là kì lạ về sự trinh bạch trinh khiết. Trong “Tối Tân hôn” thi sĩ đã tuyệt

đối hóa vẻ trinh bạch nó siêu việt đến mức tất cả những gì văn đƣợc xem là thanh khiết nhất,

cao qúi nhất trên thế giới này nhƣ trăng nhƣ ngọc cũng không thể sánh đƣợc: “Là sợ dƣng tơ

dịu quá trắng, Là bao nhiêu ngọc cũng chƣa bằng. Cả và thế giới nhƣ không có. Một vẻ vốn

là một vẻ tân”. Chính vẻ trinh bạch ấy quyết định tất cả tình yêu. Nếu vẻ đẹp ấy mắt đi thì

tình yêu cơ hồ cũng tiêu tan mất. Bởi thế, để bảo toàn giữ gìn vinh viễn vẻ đẹp thần tiên này,

thi sĩ cứ mong tối tân hôn kia đừng có đến. Đó cũng là.

64

cách duy nhất để vĩnh viễn xóa tình yêu: “Cho nên tôi tƣởng tối tân hôn. Chƣa tới còn xa để

đƣợc buồn/ Để sống trong niềm thƣơng nhớ đã/ Để còn mƣờng tƣợng đến giai nhân.”. Cứ

thế, ông viết về vẻ thanh khiết của cuộc đời này với một niềm ngƣỡng mộ dai dẳng, bền bỉ.

Nó nhƣ là giá trị thiêng liêng nhất của cõi này là. Là niềm kiêu hãnh lớn lao, khi ông thấy nó

thực sự hiện diện. Là niềm nuối tiếc đầy đau đớn, khi nó bị chon vùi. Là mối hoài nghi u ám

nhất, khi ông ngỡ nó không có thật trên đời…Nghĩa là một nguồn sống cho tinh thần, một

nguồn cảm hứng mãnh liệt cho thơ ca Hàn Mặc Tử. Song nhìn sâu vào tấm lòng mà ông gọi

bằng chữ “ngƣỡng mộ” kia, ta dễ thấy rằng ông hƣớng tới vẻ thanh khiết của cuộc đời bằng

một tín niệm thiêng liêng hơn là một khao khát trần thế. Bởi khát khao thƣờng gắn liền với

thụ hƣởng, chiếm hữu, chiếm đoạt: còn tín niệm lại nghiêng về trân trọng, chiếmbái, sung tín.

Đối với ông, tấm long “trọn đời ngƣỡng mộ” vẻ Thanh Khiết ấy nghêng về ngƣỡng vọng Cái

Thiêng hơn là khát khao Cái Đẹp.

2.1.2.5. Nhƣng không chỉ có thế. Phát biểu trực tiếp trên kia của ông về nhiệt hứng

lớn của cả đời mình tuy tự giác đƣợc điều khá căn bản, nhƣng rõ ràng là chƣa thật đầy đủ,

toàn diện. Lòng ngƣỡng mộ lớn, niềm khao khát lớn của ông còn dành cả cho vẻ XUÂN

TÌNH. Điều này cũng đƣợc Hàn Mặc Tử “thu nhận” tất nhiên trong thơ “Tôi còn trìu mến

biết bao ngƣời/ vẻ đẹp xa hoa của một thời”, “Xuân trẻ xuân non xuân lịch sự/ Tôi đều nhận

thấy trên môi em/ Làn môi mong mỏng tƣơi nhƣ máu/ Đã khiến môi tôi mấp máy thêm”,

“Đƣa mà hồng hào cho nắng nhuộm/ Tình thấy, một vẻ đẹp và ngon”. “Bóng Hằng trong

chén ngả nghiêng/ Lả lơi tắm mấ làm duyên gợi tình”, “Trong làn nắng ứng khói mơ tan/

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng/ Sột soạt gió trên tà áo biếc/…Sông cỏ xanh tƣơi gợn chân

trời…/Tiếng ca veo vẻo lƣng chừng núi/ Hổn hển nhƣ lời của nƣớc mây”, “Vui thay cảnh

sáng trăng/ Ái tình bắt đầu căng/ Hoa thơm thì nín lặng/ Hƣơng thơm thì bay lan

65

/Em tôi thì hổn hển/ Áo xiêm lấm tấm vàng/…Đêm nay trăng đứng tuổi/ Năm nay em dậy thì/

Làm sao không quyến luyến/ Hoa gió đã tình si”…Rõ ràng, cũng mới chỉ nhìn lƣớt thôi, đã

phần nào thấy đƣợc vẻ xuân tình cũng thực sự là ám ảnh đối với Hàn Mặc Tử. Nó là đối

tƣợng căn bản nhất gợi nỗi khát khao cháy bỏng của thi sĩ. Trong phần “quan niệm thơ”, Hàn

Mặc Tử đã nói về thơ nhƣ một “ham muốn thanh sạch”, thì ham muốn thanh sạch nhất, mãnh

liệt nhất, thƣờng trực nhất chính là dành cho vẻ Xuân TÌnh này. Và đó là một khát khao trần

thế chân chính, lành mạnh của tuổi trẻ. Nói đến vẻ Xuân tình, Hàn Mặc Tử có cố cũng không

kiềm chế đƣợc những rạo rực thổn thức của một lòng trai đầy khí huyết, không thể không phô

bày những thèm muốn táo bạo. Nhiều khi thấy lan đi trong câu thơ cả những luồng rung động

đầy nhục cảm của một giới tính mạnh mẽ cƣờng tráng – “Ô kìa bóng nguyệt trần truồng

tắm”, “Da thịt trời ơi trắng rợn mình”, “Trăng nằm sõng soài trên cành liễu”…Nếu chọn

một lối nói tổng gộp, thì trong vẻ Thanh khiết kia còn phải bao hàm cả cái phẩm chất Xuân

tình nữa - cái mà ông gọi là nguồn tươi đó. Đây là hai sắc thái của một chỉnh thể, phần nào

nhƣ hai đối cực đã hội nhập, làm nên gƣơng mặt hài hòa của cái đẹp trong thơ Hàn Mặc Tử.

Cho nên có thể nói, vẻ đẹp đầy đủ mà ông đã khao khát, ngƣỡng mộ, đã dành cả cuộc đời để

hƣớng tới và sáng tạo không biết đến mệt mỏi phải là vẻ đẹp XUÂN TÌNH mà TRINH

KHIẾT. Đó là đối tƣợng thẩm mĩ thu hút đời thơ ông, đó là chuẩn mực cái đẹp theo quan

niệm riêng của ông, trong đó chứa đựng cái triết lí sâu xa của thi sĩ về giá trị chân chính trong

cõi nhân sinh này. Tuy nhiên, cần thấy rằng xuân tình và trinh khiết không phải là hai phía

độc lập tách rời nhau, và vẻ đẹp kia cũng không phải là một phép cộng đơn giản của hai phía

đối cực đó. Trái lại, chúng là nhất thể đƣợc tạo bởi sự hòa điệu của hai đối cực này. Nghĩa là

gồm cả: Xuân tình mà trunh khiết, trinh khiết mà xuân tình. (Quan hệ

66

từ của nó là “mà” chứ không phải “và”). Cả hai phía ấy đều góp mình tạo nên cái đẹp chung

ở dạng thức tột cùng.

Ta còn có dịp thấy rõ hơn nữa ở những chƣơng sau khi đi vào khảo sát các hệ thống

hình tƣợng cơ bản trong thế giới nghệ thuật Hàn Mặc Tử, nhƣng trên đây, lƣớt nhìn một cách

khái quát, chúng ta đã phần nào thấy đƣợc đối tƣợng bao trùm, ám ảnh nguồn thi hứng của cả

đời thi sĩ này. Và từ những bình diện ấy, có thể thấy, về căn bản, tƣ tƣởng nghệ thuật bao

trùm của Hàn Mặc Tử là một tình yêu mãnh liệt đến đau đớn tuyệt vọng hướng tới vẻ đẹp

Xuân tình mà Tinh khiết của cuộc đời.

2.1.2.6. Mỗi nghệ sĩ tìm đến một đối tƣợng thẩm mĩ của riêng mình, đều xuất phát từ

những nguyên ủy sâu xa, riêng biệt. Ngƣời ta thƣờng nghĩ trƣớc tiên đến tuổi thơ của thi sĩ –

tuổi thơ bao giờ cũng có một ảnh hƣởng khá quyết định đến khuynh hƣớng thẩm mĩ trong

sáng tác của ngƣời nghệ sĩ. Sau này khi trƣởng thành, ý thức tôn giáo của Hàn Mặc Tử có

nhiều diễn biến phức tạp. Nhƣng thời thơ ấu, cậu bé Nguyễn Trọng Trí là một con chiên

ngoan đạo. Sự thanh khiết của tâm hồn là một vẻ đẹp mà mỗi con chiên chân chính hằng tin,

hằng hƣớng tới. Bởi nó là chân tình, thƣợng đế tính của con ngƣời. Chính nó sẽ cứu rỗi con

ngƣời. Vẻ đẹp ấy không thể ngự trị trong tâm hồn trong trẻo ngây thơ của Phanxico Nguyễn

Trọng Trí nhƣ là chuẩn mực nhân văn tối cao và thiêng liêng. Đồng thời môi trƣờng thiên

nhiên của tuổi thơ cũng để lại dấu ấn lớn trong khuynh hƣớng thẩm mĩ ấy. Tong hồi kí “Hàn

Mặc Tử, anh tôi”, Nguyễn Bá Tín mô tả tuổi thơ anh em Hàn Mặc Tử có một gắn bó kì lạ với

một thiên nhiên rất đáng chú ý: Động cát chợ Chùa Me ở Sa Kì. “Địa phƣơng gọi là Động –

ông viết – kì thực là một vùng rộng lớn, cát trắng phau, thứ cát ánh ngời nhƣ mảnh pha lê

vụn, chạy dài bốn năm cây số bên bờ đại dƣơng (…)./ Có những thung lũng chạy dài nhƣ

dòng sông khô cạn, mà khi trời nắng chói chang, bốc lên một thứ hơi, nhìn từ xa, phảng phất

khói sóng

67

trên sông (…)./ khói trắng ngùn ngụt trôi theo mây trắng ngang trời./ Vào những đêm trăng

sáng thì tuyệt đẹp, nhƣng huyền ảo đến rợn ngƣời nhƣ đi vào một thế giới xa lạ (…)/ Trăng

bao phủ tứ phía bằng ánh sáng lung linh chờn chợ khó phân biệt từ trên trăng tỏa xuống, hay

từ cát trắng chiếu lên. Tơ trắng dày đặc, cử động hay di chuyển đều nhƣ lùa cả trăng theo

(…)/ Có lẽ anh Trí đã đi nhiều lần đến đây ngắm trăng khi còn ở Sa Kỳ, mà địa danh nghe đã

kì diệu” [98, 345, 346]. hẳn ánh sáng là kì dị, sắc cát trắng đến huyền ảo này đã hòa điệu

cùng sự trinh bạch, thanh khiết kitô giáo đã mê hoặc tâm hồn nhạy cảm của Hàn Mặc Tử,

thậm chí hóa thân vào tâm hồn ấy để trở thành tiêu chuẩn mĩ học cho khát vọng thi ca của

Hàn. Không thế, làm sao ta có thể cắt nghĩa đƣợc sắc trắng tinh khôi, trinh bạch đến kì ảo với

những biến thể phong phú của nó hiển hiện trong thơ Hàn với mật độ dày đến thế, và nó trở

thành linh hồn của mọi vẻ đẹp thi ca của Hàn Mặc Tử đến nhƣ vậy?

Khát vọng tinh thần của những thi sĩ nhƣ Hàn Mặc Tử bao giờ cũng là sự động vọng

của hai con ngƣời: Con ngƣời nghệ sĩ và Con ngƣời tôn giáo. Đã phân tách ra hai con ngƣời

này, không thể không nhìn nhận chúng ở những khác biệt đặc trƣng. Trên những nét đặc thù,

có thể phân biệt: con ngƣời nghệ sĩ nghiêng về đời sống tâm hồn, con ngƣời tôn giáo nghiêng

về đời sống tâm linh. Chúng ta đều biết, nếu tâm hồn là một đời sống tinh thần chủ yếu

hƣớng về Cái Đẹp, thì Tâm Linh lại là một đời sống tinh thần chủ yếu tới Cái Thiêng (tuy

trong thực tế, hai đời sống này thƣờng trộn lẫn, đan xen và chuyển hóa sang nhau). Nói đến

tâm hồn là nói đến nỗi đắm say, còn nói đến tâm linh là nói nói đến Niềm sùng tín. Về nội

dung: một đằng là những khát khao, một đằng là những tín niệm. Về tính chất của quan hệ:

một đằng nghiêng về Thụ hƣởng, một đằng nghiêng về Chiêm bái.v.v…Nếu nhƣ hai con

ngƣời này đã thống nhất với nhau trong cùng một hồn thơ, thì có thể nói vẻ đẹp Xuân Tình

mà Tinh khiết là sự chung đúc của cả khát vọng thẩm mĩ của một thi sĩ và tín niệm thiêng

lieenh của một đạo hữu (đành rằng vẫn có khát

68

vọng thẩm mĩ của một đạo hữu và tín niệm thiêng liêng của một thi sĩ. Và nếu nhƣ có thể

chấp nhận một sự rành mạch tƣơng đối nào đó, thì có thể nói: trong khi chàng thi sĩ khí huyết

Hàn Mặc Từ đắm say khao khát vẻ Xuân tình, thì tín hữu trong lành Nguyễn Tronhj Trí trân

trọng chiêm bái vẻ Trinh khiết – theo tinh thần giáo lí của tôn giáo nói chung và đạo thiên

chúa nói riêng, thì sự thanh khiết trong tâm hồn là cứu cánh tối thƣợng của một ngƣời có đạo

chân chính. Nên cái đẹp của thi sĩ Hàn Mặc Tử không thể không bao hàm cái Thiêng của tín

hữu Nguyễn Trọng Trí. Và, từ sự ràng rịt tất yếu kia mà có thể nói rằng: Nếu Xuân tình mà

Tinh khiết là một hợp thể tạo thành Cái đẹp toàn vẹn nhƣ một chỉnh thể sống động, thì Xuân

tình nghiêng về vẻ Đẹp, còn Trinh khiết nghiêng về vẻ Thiêng. Đành rằng ta vẫn nói đến tâm

linh của một thi sĩ và một tâm hồn của một con chiên, nhƣng trong tính đặc thù của nó, một

thi sĩ nghiêng về niềm say đắm của tâm hồn hơn, còn một đạo hữu lại nghiêng về những tín

niệm của tâm linh hơn. Dạng thức tình cảm mà ông gọi là “trọn đời ngƣỡng mộ” trên kia,

cũng có thể nói, đã bao hàm trong đó cả nỗi khát khao cả niềm tín ngƣỡng – “Tôi muốn trọn

đời ngƣỡng mộ vẻ trắng trong nguyên văn, nguồn tƣơi…” [112, 72]

Từ cái nhìn phân tích nhƣ thế đối với cái đẹp Hàn Mặc Tử mà có thể thấy cơ chế tinh

thần tạo nên đời sống thẩm mĩ của thi sĩ này: Con ngƣời trần thế và con ngƣời thiên chúa vừa

thống nhất vừa khắc chế lẫn nhau (xuất phát còn đơn thuần trong cái tôn giáo mà mình là một

con chiên, về sau ý thức tôn giáo của Hàn Mặc Tử rộng hơn và mang màu sắc khác điều này

sẽ đƣợc đề cập ở phần sau khi nhận diện bản chất Tôn giáo trong thơ của thi sĩ này). Khi

niềm khát khao trần thế mạnh mẽ hơn nó sẽ kéo lệch cảm hứng thi ca của Hàn Mặc Tử về

phía Xuân tình. Tình yêu mang đậm màu sắc trần duyên, tục tình. Còn khi tín niệm thiêng

liêng mạnh mẽ hơn, thì cảm hứng thơ của ông lại nghiêng hẳn về phía Thanh khiết. Tình yêu

khi ấy, đúng nhƣ Tử nói, nghiêng về ái tình thiêng. Điều này in thành dấu vết rất đậm trong

các chặng

69

đƣờng thơ của ông. Ai đã đọc Hàn Mặc Từ, đều thấy trong giai đoạn “Gái quê” vẻ Xuân tình

có vẻ đậm hơn, còn từ “Đau thƣơng” qua “Xuân nhƣ ý” đến “Thƣợng thanh khí”, vẻ Thanh

khiết lại nhiều phần lấn át. Song, sang đến “Cẩm châu duyên” và nhất là đến hai vở kịch thơ

“Duyên kì ngộ” và “Quần tiên hội”, thì vẻ đẹp Xuân tình lại bùng lên tỏa chiếu. Gốc rễ chính

là ở chỗ: niềm khát khao bỏng cháy của chàng trai khí huyết ở đầu đời còn lấn lƣớt về sau ít

nhiều mờ đi, trong khi sự sùng kính chiêm bái của một con chiên ban đầu mới tỏ rạng càng

về sau càng rực cháy. Tuy nhiên, diễn biến phức tạp của sáng tác Hàn Mặc Tử là ở chỗ mọi

điều không phải cứ song hành một chiều cùng với thời gian nhƣ vậy. Không thể nghĩ đơn

giản rằng khi Hàn Mặc Tử mắc bạo bệnh, nhận thấy tình thế của mình không còn cơ hội quay

về trần giới nữa, thi sĩ đã chuyển hƣớng: đón toàn bộ tình yêu của mình về phía Tôn giáo,

hƣớng thơ ca về phía Đạo. Bệnh trạng có một ảnh hƣởng không thể chối cãi đƣợc đối với tâm

lí và sáng tác Hàn Mặc Tử. Những lúc đau đớn bi quan, Tử có tìm đến nguồn Đạo của mình

mong kiếm tìm một sự cứu rỗi. Tình cảm tôn giáo khi ấy thật mãnh liệt. Song, điều đẹp đẽ và

cũng thậy phức tạp đó là: ngay cái lúc nghĩ đến việc chia lìa trần gian, Tử vẫn thiết tha với

cuộc sống, với tình yêu, với hạnh phúc tràn trề. Niềm thiết tha này cũng là một phƣơng cách

cứu rỗi không kém. Về điểm này, nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung cũng có những nhận

xét xác đáng: “trong tuyệt vọng cùng cực, linh hồn đau khổ ấy đã không rơi vào đọa lạc mà

vẫn có thể tìm về những biểu hiện sự sống con ngƣời, có hƣớng tới tình yêu thƣơng trong trẻo

mộng ảo” [72, 43]. Tình đời là sợi dây mòng manh nhƣng vô cùng bền chắc trong hi vọng

khắc khoải của Hàn Mặc Tử. Chính tình yêu của những ngƣời con gái trong cuộc đời này

thƣờng nhen lên trong Tử hi vọng sống, hi vọng hạnh phúc. Những khi đinh ninh có một tình

yêu ở đâu đó đanh dành cho mình thì sức sống cũng nhƣ sức sáng tạo trong Tử bùng lên

mãnh liệt. Cho nên vẻ đẹp Xuân Tình trong thơ Tử không có lúc nào mờ teo hẳn, niềm khát

khao rạo rực của chàng trai trần thế

70

ngay trong khi làm thơ cầu nguyện không hẳn đã nguôi ngoai. Thơ Hàn Mặc Tử có lên đến

thế giới của Thƣợng Thanh Khí, một thế giới thanh khiết đến mức thuần linh, thì cũng chẳng

mất đƣợc vẻ Xuân Tình. Điều đó cho thấy con ngƣời tôn giáo và con ngƣời trần thế có lúc

khắc chế nhau, nhƣng về căn bản là thống nhất. Nói cách khác khắc chế là một kiểu đặc biệt

của sự thống nhất vậy. Nhƣng điều đó chẳng phải là cái đƣờng nét căn bản của sự vận động

trong cơ chế tƣ tƣởng tạo nên cái hành trình tƣ tƣởng của thi sĩ này hay sao? Và đây cũng sẽ

là cái trục chính vận hành chi phối sự chuyển biến trong thế giời hình tƣợng qua các chặng

đƣờng sáng tác của ông.

Trên đây mới chỉ là cái diện mạo khái quát của tƣ tƣởng nghệ thuật Hàn Mặc Tử.

Xem xét bất cứ thế giới nghệ thuật nào, cũng có thể thấy rằng: diện mạo của tƣ tƣởng chỉ

đƣợc hoàn thiện rõ nét khi hóa thân đầy đủ vào thế giới hình tƣợng, và đây mới là dạng thức

sống của tƣ tƣởng ấy.

2.2 Hình tƣợng cái tôi đau thƣơng: Mãnh liệt mà tuyệt vọng.

2.2.1. Hình tượng cái Tôi trong thơ trữ tình.

Nghiên cứu chủ thể trong văn chƣơng nói chung, Thơ trữ tình nói riêng, ngƣời ta

thƣờng nói đến các khái niệm Hình tƣợng giả, Hình tƣợng Cái Tôi, Cái Tôi trữ tình, Nhân vật

trữ tình.v.v…Giải quyết trên bình diện lí luận đối với những khái niệm kia không phải là

nhiệm vụ của luận án. Tuy nhiên, muốn khảo sát Hình tƣợng cái Tôi trong hệ thống những

hình tƣợng cơ bản cấu thành thế giới nghệ thuật của Hàn Mặc Tử, không thể không có những

giới thuyết nhất định về riêng khái niệm công cụ này.

Thứ nhất, về vị trí. Chúng ta đều biết, Thơ trữ tình, xét từ nguyên ủy, đƣợc khởi

nguồn từ nhu cầu tự bộc lộ của con ngƣời. Đây là thể loại chủ quan vào bậc nhất của các loại

thể văn học. Cái tôi trữ tình, dĩ nhiên, bao giờ cũng là yếu tố trung tâm của thể loại này. Bởi

thế, Hình tƣợng Cái Tôi cũng đóng

71

vai trò trung tâm trong thế giới hình tƣợng của thơ trữ tình. Bao giờ nó cũng hiện ra nhƣ một

hình tƣợng toàn vẹn trong thế giới này.

Thứ hai, về bản chất. Hình tƣợng Cái Tôi cũng là một kiểu nhân vật trong tác phẩm

văn học. Nhƣ mọi nhân vật trong tác phẩm, hình tƣợng Cái Tôi cũng hiện lên một cách cụ thể

cảm tính, thậm chí, có khi còn đƣợc khắc họa cả diện mạo ngoại hình ít nhiều nữa. Bởi thế nó

có thể gợi lên trong ngƣời đọc ý niệm ở một con ngƣời sống động. Nhƣng đây là một kiểu

nhân vật đặc biệt. Nó cũng là kết quả của việc khái quát hóa hiện thực, song trƣớc hết, là hiện

thực chủ thể. Là sự biểu hiện rất trực tiếp của con ngƣời tinh thần tác giả, song nó không

đồng nhất một cách giản đơn với con ngƣời tác giả. Là sự khách thể hóa ý thức chủ quan của

thi sĩ, song nó vẫn phải tuân theo quy luật của việc sáng taọ hình tƣợng, qui trình điển hình

hóa chính là Cái Tôi của mình. Nghĩa là qui trình khách thể hóa ý thức cá nhân theo nguyên

tắc lí tƣởng hóa. Không phải là nhân vật của thể loại tự sự, nên việc điển hình hóa ở hình

tƣợng Cái Tôi, về thực chất là điển hình hóa tâm trạng. Nhƣ cách hình dung của Bakhtin thì

đó là khi cá nhân nhà thơ “nghe thấy mình trong ngƣời khác”. “thấy ngƣời khác trong mình”,

và có nhu cầu “lấy mình làm chất liệu để nói với ngƣời khác, nói cho ngƣời khác” [60, 45].

Ấy là ý thức cá nhân đang đƣợc lí tƣởng hóa, kinh nghiệm cá nhân đang muốn phổ quát hóa,

muốn trở thành kinh nghiệm nhân loại. Chung qui là Hình tƣợng cái Tôi trong thơ trữ tình củ

yếu hiện lên qua tâm trạng và bằng tâm trạng. Điều này đã đặt ra yêu cầu với ngƣời đọc:

muốn hình dung chính xác về Hình tƣợng này, điều cốt yếu là nắm bắt đƣợc tâm trạng của

nó.

Thứ ba, về dạng thức. Hình tƣợng Cái Tôi tồn tại trong nhiều cấp độ của chỉnh thể

nghệ thuật: bài thơ, tập thơ, thời đại (kiểu nhà thơ)…Nhƣng ở cấp chỉnh thể nào, thì Hình

tƣợng cái Tôi cũng hiện lên qua cách cảm thụ thiên nhiên và đời sống, qua những kênh cảm

giác phổ biến đặc thù, qua cũng

72

bậc và sắc diện tình cảm, qua các kiểu dạng cảm xúc, qua các dòng thơ trữ tính…Mà tựu

trung có thể qui vào những bình diện chính sau đây: Tư thế trữ tình và Giọng điệu trữ tình

của Cái Tôi thi sĩ. Ở đây, Hình tƣợng Cái Tôi mà luận án quan tâm là thuộc cấp độ Cái Tôi

nhà thơ. Nghĩa là hình tƣợng Cái Tôi Hàn Mặc Tử xuyên suốt cả đời thơ của thi sĩ này.

2.2.2. Cái Tôi Đau thương: Mãnh liệt mà Tuyệt vọng

Hàn Mặc Tử đặt những bƣớc chân đầu tiên của mình vào địa bàn thơ ca nhƣ một thi sĩ

cổ diển, với một bút danh sau này ghép vào thành tên tập thơ cũng đậm chất cổ điển, “Lệ

Thanh thi tập”. Bấy giờ còn chƣa có cả cái tên Hàn Mặc Tử. Nhƣng, trong mảnh vƣờn cổ

điển này đã thấy lác đác đó đây những chồi mầm lãng mạn. Bởi thế, có thể thấy chen vai ở

đây cả hai hình bóng của Cái Tôi. Một hình bóng nghiêng về phạm trù Cổ điển, tuy cố tô đậm

những sắc màu lại bầm cũ. Ấy là cái Tôi mang màu sắc trƣợng phu, đội trời đạp đất với

tƣơng quan vũ trụ. Có thể thấy rõ những đƣờng nét ấy qua các bài: Đêm khuya tự tình với

sông Hƣơng, Sống khổ và phấn đấu, Canh khuya cảm tác, Tuồng đời, Cảm tác, Buồn thu,

Thức Khuya, Chùa hoang,.v.v…Ấy là khi ông chọn một tƣ thế đứng giữa giang sơn mà nhìn

vào những nhiễu nhƣơng: “Sao tôi thấy cuộc đòi máu me lênh láng/ Nhƣ bãi sa trƣờng trong

lúc hỗn loạn/ Dƣới bóng mặt trời đầy rẫy hào quang/ Ngán thay cuộc đời! Sống khổ/ Nào

non sông mƣa mƣa gió gió/ Nào đất trời lơ láo láo lơ…”, đứng giữa thế sự nhƣ cuộc cờ vần

xoay điên đảo đảo điên: “Vì dân nƣớc chảy lững lờ/ hay cho thế sự cuộc cờ chiêm bạo”,

“bàn cờ thế sự gớm ghê thay/ Thua đƣợc nào ai biết rõ ngày/ Khắc khoải năm canh quyên

nhớ nƣớc/ Bơ vơ ngàn dặm nhạn theo mây…”, một mình thao thức giữa một cõi đời mê ngủ:

“Non sông bốn mặt ngủ mơ màng/ Thức chỉ mình ta dạ chẳng an”, v.v…Trong sự nghiệp thơ

Hàn Mặc Tử phần thơ này có một chỗ đứng hoàn toàn khiêm tốn. Hình tƣợng Cái Tôi ấy

cũng chƣa thật tiêu biểu ở thi sĩ này. Một bóng hình

73

khác của cái Tôi ấy là thuộc phạm trù lãng mạn. Tuy chớm hiện thôi nhƣng lại bằng những

nét phác tƣơi sống. Những nét này sẽ tỏ dần và châu tuần lại mà hiện thực thành bức chân

dung lí tƣởng khi đi vào “Gái quê”.

Bằng tập “Gái quê” (1936), Hàn Mặc Tử chính thức xuất hiện nhƣ một thi sĩ lãng

mạn. Và kể từ đây, ông cũng mới thực sự trở thành Hàn Mặc Tử, Hình tƣợng Cái Tôi mang

“ấn tín” của ông cũng phải đến bậy giờ mới trình làng. Qua hệ thống thể hiện của tƣ thế trữ

tình và hệ thống giọng điệu, có thể thấy Cái Tôi Hàn Mặc Tử hiện ra nhƣ một hình tƣợng vừa

rất nhất quán vừa hết sức phức tạp. Đó là một ánh hình toàn vẹn đọc đáo: là sự hái hòa của

các đối cực, là chỉnh thể của những nghịch lí.

Điều nhất quán dễ thấy là: Trƣớc sau Cái Tôi ấy chủ yếu hiện ra trong tƣ thế và vóc

dáng của một ngƣời tình mãnh liệt mà tuyệt vọng. Bao hàm cả hai phía: càng mãnh liệt càng

tuyệt vọng, càng tuyệt vọng càng mãnh liệt. Phía nào đó cũng muốn là Tột cùng. Mãnh liệt

không chỉ là một tƣ thế trữ tình, mà còn là một dạng thức, một điệu thức của cảm xúc. Cả hai

cứ tƣởng sinh tƣơng khắc bất tận làm nên cái diện mạo tinh thần đặc biệt của Hình tƣợng Cái

Tôi Hàn Mặc Tử.

Khảo sát trên hai bình diện chính là tƣ thế trữ tình và giọng điệu trữ tình, có thể thấy

Hình tƣợng Cái Tôi Hàn Mặc Tử hiện lên nhƣ một chân dung toàn vẹn với hai phía căn bản

của nhân cách. Hai phía ấy đều nhƣ những nghịch lí có nghĩa đều là sự hài hòa của các đối

cực.

2.2.2.1 Một Cái Tôi bốc lửa khát khao mà dằn lòng khắc chế.

Ngay ở phần thơ rải rác in trên các báo thời kì trƣớc “Gái quê”, đã thấy Cái Tôi ấy

hiện ra trong những hình ảnh của một chàng trai đầy khí huyết. Lòng luôn trào dâng những

khao khát tình tự, ái ân. “Chạy theo”, “đuổi theo”. “rƣợt theo”…bóng giai nhân là những

động tác trữ tình thƣờng trực. Lúc nào

74

cũng "thèm", "muốn", "rạo rực", "bâng khuâng" "bồi hồi", "đắm đuối"... Cuộc đời hiện ra

trƣớc mắt ngƣời trai ấy nhƣ một tình trƣờng lớn chứa chất đầy hạnh phúc, hứa hẹn bao niềm

ái ân: "Ra đời ta thấy đời vui sao / Dậy cả say sƣa với ngọt ngào... Lúc ấy lòng ta nhƣ rạo

rực / Bâng khuâng thèm uống rƣợu Quỳnh Dao / Ai ơi thèm lắm cái yêu đƣơng / Của khách

ngây thơ thƣờng nhớ thƣơng / Trong lúc tình xuân phơi phới động / Một mình đắm đuối với

mùi hƣơng" (Chạy theo hạnh phúc), "Tình ta đêm ấy dạt dào / Tình ta uyển chuyển khác nào

khúc ca... Thèm thuồng nên mới say sƣa / Hát lên những tiếng cho vừa lòng ai / Hát rằng

khách tới Thiên Thai / Vẩn vơ chỉ đứng bên ngoài trông vô / Trong rèm thấp thoáng gái tơ"

(Vẩn vơ)... Không chỉ "vẩn vơ", "ngẩn ngơ", "rạo rực", "đứng trông", "ngây tình"... Cái Tôi

ấy còn có những động thái "xé rào" nhƣ "Hỏi thăm cô Bích Ngọc", trêu chòng cô bán trầu

không, rồi "Ngông cuồng đi hái vần thơ" để "Ghẹo cô bán chè bông cỏ"... Cái động thái biểu

thị tình yêu táo bạo nhất và cũng ý nhị nhất ở cái Tôi ấy có lẽ là "uống". Ở Xuân Diệu chúng

ta cũng có thể thấy thi sĩ "uống", nhƣng thƣờng chỉ là "uống hồn" - Những lúc môi thơm kề

miệng thắm / Trời ơi ta muốn uống hồn em". Còn ở Hàn, cái động thái uống kia là bao gồm

tất cả, không chỉ "uống" - một cách ham hố thanh lịch, mà còn "nuốt" - một cách, có thể nói

là.... bạo liệt: "Bóng Hằng trong chén ngả nghiêng / Lả lơi tắm mát làm duyên gợi tình / Sóng

xao mặt nƣớc rung rinh / Lòng ta khát miếng chung tình từ lâu / Uống đi cho bớt khô hầu /

Uống đi cho bớt cái sầu mênh mang / Có ai nuốt ánh trăng vàng / Có ai nuốt cả bóng nàng

Tiên Nga / Đã thèm, cái giấc mơ hoa" (Uống trăng)...

Cứ thế, hình ảnh một chàng trai nồng si cứ dần dần lồ lộ trên bề mặt của mọi trang

thơ. Có lúc chàng tự vẽ mình trong vai một bậc tri kỷ của ngƣời quốc sắc - chỉ một mình

mình mới đáng bậc ấy: "Vẻ mặt khác chi ngƣời quốc sắc / Trên đời tri kỷ chỉ riêng ta" (Hoa

cúc). Có lúc si mê hơn đã chực "vƣợt rào" ở

75

trong ý nghĩ: "Mƣời khúc đoạn trƣờng say chửa tỉnh / Thuyền ai thập thõm muốn ôm cầm"

(Đàn nguyệt), thậm chí táo bạo hơn: "Xiêm áo hôm nay tề chỉnh quá / Dám ôm hoa cúc ở

trong sƣơng" (Hôn cúc). Niềm khát khao ái ân ở Cái Tôi này càng bốc lửa hơn khi bƣớc hẳn

vào "Gái quê". Cái động thái "mấp máy thèm" không cần xa xôi bóng gió gì cho thấy lửa tình

đang bén mạnh trong lòng trai: "Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sự / Tôi đều nhận thấy trên

môi em / Làn môi mong mỏng tƣơi nhƣ máu / Đã khiến môi tôi mấp máy thèm" (Gái quê).

Động thái đi theo, đuổi theo, rƣợt theo... trƣớc đây nhƣ muốn tỏ tình bằng lối bám sát, thì nay

trở nên "trầm trọng" hơn: "Em có ngờ đâu trong những đêm / Trăng ngà giãi bóng mặt hồ êm

/ Anh đi thơ thẩn nhƣ ngây dại / Hứng lấy hƣơng nồng trong áo em" (Âm thầm). Khao khát

ấy đã biến ngƣời giai tế si tình thành một kẻ vụng trộm. Càng vụng trộm càng mãnh liệt, càng

bị nỗi khát khao không giải tỏa đƣợc kia dày vò: "Ta thích đứng lặng trên bờ ao / ... Ta thích

ngồi mơ dƣới gốc đa /... Ta thích len vào trong đám lau / Núp chờ trăng xuống để quàng

nhau / Giả đò ân ái nhƣ năm ngoái / Gió lại, ta ngờ nàng tới sau..." (Mơ), "Tôi thích nép

mình sau cánh cửa / Hé nhìn dáng điệu của ngƣời yêu". Nhƣng "tệ" nhất là nó trở nên điên

cuồng đến quên hết cả: "Đêm nay ta lại phát điên cuồng / Quên cả hổ ngƣơi cả thẹn thuồng /

đứng rũ trƣớc thềm nghe ngóng mãi". Mà điên cuồng nhất trong lúc này là hét lên cái tiếng

vô thanh: "Ta đang khao khát tình yêu thƣơng - Cất tiếng kêu vang trong im lặng - tiếng va

vào núi, dội quanh vùng" (Tiếng vang). Ngay cả khi rơi vào cảnh ngộ bị "đối phƣơng" dập tắt

mất niềm hy vọng, thì Tình yêu vẫn không hề tắt theo. Càng tuyệt vọng Cái Tôi si tình và cao

thƣợng ấy lại càng khao khát mãnh liệt hơn bao giờ: "Dẫu đau đớn vì lời phụ rẫy / Nhƣng mà

ta chẳng lấy làm điều / Trăm năm vẫn một lòng yêu / Và còn yêu mãi rất nhiều em ơi"...

76

Tình đắm say nồng nàn không kiềm chế nổi tràn ra thành giọng hổn hển, nghe thấy cả

cái ngữ điệu mê si: "Ai ơi, thèm lắm cái yêu đƣơng" (Chạy theo hạnh phúc), "Ô kìa bóng liễu

ngất ngây / đứng im không nói đã say sƣa tình" (Cô bán trầu và khách qua đƣờng). "Tình

thay! một vẻ ngọt và ngon" (Nắng tƣơi), "Trăng rụng nhiều ghê! Trăng rụng nhiều ghê...

Những lời ta nói là mê! mê! mê!... Chết to rồi mất cả ý tƣơi non... Nhắm mắt đi nha! Nhắm

mắt đi nha! (Ý trinh).... Có lẽ do niềm khao khát ái ân cháy bỏng này mà Hoài Thanh và Hoài

Chân trong "Thi nhân Việt Nam" đã lập tức liệt ngay "Gái quê" vào hạng thơ có nguồn gốc

trong tình dục và có ý giễu cả Phạm Văn Ký là ngƣời đề tựa cho tập thơ này: "nhƣng tình ở

đây không có cái vẻ mơ màng thanh sạch nhƣ mối tình ta vẫn quen đặt trong bối cảnh những

vƣờn tre, những đồi thông. Ấy là thứ tình nồng nàn, lơi lả, rạo rực, đầy hình ảnh khêu gợi. Ô,

Phạm Văn Ký đề tựa tập thơ ấy là phải lắm: Gái quê và Une voix sur la voie đều bắt nguồn

từ trong tình dục" [161, 203]. Còn ông em ruột của Hàn Mặc Tử là Nguyễn Bá Tín trong

"Hàn Mặc Tử , anh tôi", chắc đã nghĩ nhiều đến nguồn tình trong "Gái quê", khi dùng những

chữ "nguồn thơ dâm loạn" (Các thi sĩ thuộc trƣờng thơ loạn hay dùng thẳng chữ này một

cách không tránh né, xem nhƣ cách nói thông thƣờng, và thuộc về quan niệm mỹ học của

trƣờng này là Bích Khê, trong "Tinh huyết" (1939), có một phần thơ đặt hẳn tên là "Đẹp và

Dâm"). Nhƣng, nhƣ ở phần trình bày về quan niệm thơ của Hàn Mặc Tử, thi sĩ này quan niệm

rằng những ham muốn về tình ái nằm trong điều răn của Đức Chúa Trời vẫn là những cảm

tình, những ham muốn thanh sạch. Thơ tình yêu của Con ngƣời không chỉ có những cảm xúc

mơ màng, mà phải gom cả những khát khao bốc lửa. Bởi đó chỉ là những cung bậc khác nhau

và cần thiết làm nên tính toàn vẹn của những Tình yêu lành mạnh và cƣờng tráng mà thôi.

77

Nếu ở "Gái quê' về căn bản là niềm khao khát cháy bỏng còn nguyên vẹn những bồng

bột vô tƣ, thì bắt đầu từ "Đau thƣơng" trở đi, niềm khát khao bỏng cháy đã nhuốm màu ƣu tƣ

u ám. Ta bắt đầu thấy Cái Tôi ấy xuất hiện với một tƣ thế mặc cảm. Kẻ tình si này vẫn khao

khát "mơ hoa", "mơ khách đƣờng xa, khách đƣờng xa" (Đây thôn Vĩ Giạ), vẫn luôn cầu

mong: "hãy quì nán lại", "Tôi ƣng ả thuyền quyên / ở trong pho tình sử / Cho tôi hoa đền ngự

/ Cho tôi lòng ni cô / Xuân trên má Nƣờng Thơ / Ngon nhƣ tình mới cắn" (Cao hứng), vẫn

những khát thèm bốc lửa: "Khi hƣơng thơm kề lỗ miệng / Khi tình mới chạm vào nhau / Em

ơi? Thế nghĩa là sao ? / Trăng đang nằm trên sóng cỏ / Cỏ đƣa trăng đến bên ao / Trăng lại

đẫm mình xuống nƣớc / Trăng nƣớc đều lặng nhìn nhau / Đôi ta bắt chƣớc thì sao?"... Thậm

chí, vấn "Dám ôm hồn cúc ở trong sƣơng"... Tuy nhiên, ngay trong lúc những khát khao hừng

hực bốc lửa thì vẫn cứ thấy những động thái khắc chế kiềm mình. Có cả những động thái xuất

phát từ nhút nhát, xấu hổ của một tình yêu đầu đời, những cảm xúc vụng dại: "Tôi không

muốn gặp ngƣời tôi yêu / Có lẽ vì tôi mắc cỡ nhiều / Sắc đẹp nõn nà hay quyến luyến / Làm

tôi hoa mắt nói không đều" (Tôi không muốn gặp). Có cả những động thái khắc chế xuất phát

từ một quan niệm nào đó. Mặc dù "Tôi toan hớp cả váng trời / Tôi toan hớp cả miếng cƣời

trong khe" một cách đầy ham hố, nhƣng bên trong lại có một trở lực: "Gió ơi lại đấy mà ngừa

/ Tôi đứng xa lắm xin chừa tôi đi / Hồn tôi mắc cỡ là vì / Không quen thƣởng thức cái gì ngất

ngây" (Say nắng)... Mặc dù khát khao đến cuồng dại nhƣ vậy, nhƣng Cái tôi kia bao giờ cũng

chững lại không đi đến hết tận cùng của những đòi hỏi ái ân. Đọc Xuân Diệu, ngƣời ta

thƣờng gặp những động tác tình tự nồng nàn đến nảy lửa nhƣ "ôm", "ghì", "riết", "cắn"...

những cung bậc cao trào của ái ân: "Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực / Hãy trộn nhau đôi

mái tóc ngắn dài / Những cánh tay hãy quấn riết đôi vai / Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt

/ Hãy khắng khít những làn môi gắn chặt / Cho anh nghe đôi

78

hàm ngọc của răng / Trong say mê anh sẽ bảo em rằng / Gần chút nữa thế hãy còn xa lắm"

(Xa cách), hay nhẹ nhàng kín đáo hơn nhƣ ở Nguyễn Bính: "Hôn nhau một lần cuối / Anh về

đi em đi..." (Hôn nhau lần cuối)... Trong khi đó, ở Hàn Mặc Tử, hầu nhƣ không có những

động thái nào "kích động" đến vậy. Trái lại, chúng chỉ là những khát khao âm thầm, đơn

phƣơng. Nghĩa là những động thái của tƣởng tƣợng (của nhân vật Tôi không phải của thi sĩ),

thuộc phạm vi dự tƣởng không thực hiện, chứ không phải những động thái "hành sự". Động

tác trữ tình phổ biến của nhân vật Tôi có lẽ là đứng xa, đứng khuất đâu đó; đứng sau cành

trúc... để trộm nhìn chiêm ngƣỡng đối tƣợng một cách thèm khát: "Bên khóm thùy dƣơng em

thƣớt tha / Bên này bờ liễu anh trông qua / Say mơ vƣớng phải mùi hƣơng ƣớp / Yêu cái môi

hƣờng chẳng nói ra" (Âm thầm), "Ta thích ngồi mơ dƣới gốc đa / Chờ ngƣời năm ngoái có

đi qua" (Mơ), "Tôi thích nép mình trong cánh cửa / Hé nhìn dáng điệu của ngƣời yêu / Bƣớc

đi ngƣợng nghịu trên đƣờng cái", "Tôi cũng trông thấy ngƣời tôi yêu / Ngồi cạnh suối trong

cởi yếm đào / Len lén đƣa tat vốc nƣớc rửa / Trong khi cành trúc động và xao" (Tôi không

muốn gặp)... Và động tác trữ tình nữa cũng phổ biến là đi vẩn vơ thơ thẩn: "Trƣớc sân anh

thơ thẩn", "Anh đi thơ thẩn nhƣ ngây dại"... Cái Tôi ấy là sản phẩm của một bản tính nhút

nhát. Điều này đã rõ. Nhƣng không chỉ có thế. Cái động thái kiềm chế khắc kỷ kia còn bắt

nguồn từ một cội rễ khác. Từ một mặc cảm về bệnh tật chăng? Một dự cảm xa xôi nào đó về

cái chết đang đến gần chăng? Điều này là có, khi Tử viết: "Thƣa tôi không dám say mê / Một

mai tôi chết bên khe ngọc tuyền". Nhƣng cũng chỉ ở giai đoạn sau "Gái quê" thôi. Còn trƣớc

đó, Tử đâu có bị chi phối bởi điều này. Có lẽ chủ yếu là bởi một quan niệm mỹ học đạo đức

riêng nào đó của Tử. Là ngƣời khát khao thụ hƣởng tình ái, ai chẳng mong đến tối tân hôn.

Tử không thế. Cái Tôi này luôn mong tối tân hôn hãy cứ ở xa, đừng vội đến. Bởi chàng hiểu

hơn ai hết rằng khi ái tình lên tới đỉnh thì cũng

79

là khi nó bắt đầu lạt phai: "Những cái gì thơm đã tới kề / Tôi e tình tứ bớt say mê! Không còn

ý vị ban đầu nữa / Sẽ chán chƣờng và sẽ chán chê". Với chàng tình nhân kỳ dị này, điều quan

trọng là đƣợc sống trong khao khát thụ hƣởng chứ không hẳn là bản thân việc thụ hƣởng.

Đƣợc sống trong nỗi buồn, niềm thƣơng nhớ, sự mƣờng tƣợng đến giai nhân - nghĩa là sống

trong khát khao, với Cái Tôi này, có lẽ là điều quý báu hơn hết thảy: "Cho nên tôi tƣởng tối

tân hôn / Chƣa tới còn xa để đƣợc buồn / Để sống trong niềm thƣơng nhớ đã / Để còn mƣờng

tƣợng đến giai nhân" (Tối tân hôn). Trong kịch thơ "Duyên kỳ ngộ", nhân vật Hàn Mặc Tử

cũng có những ứng xử nhƣ thế. Chàng si mê nàng Thƣơng Thƣơng ngây ngất: "Anh nói sao

cho nƣớc mây thấm lặng / Xôn xao lên hừng hực tiếng đàn xuân... Là muôn năm còn lo trong

khoái lạc / Anh còn run đến phút chia li / Áo xiêm em phập phồng và rất mát / Sao đôi môi

ngon ngọt quá yêu vì... Chỉ có em làm thơ anh mãnh liệt / Tình anh van nhƣ luồng gió van

lơn / Chỉ có em, lòng anh yêu tha thiết / Yêu điên cuồng không một phút nào hơn". Còn

Thƣơng Thƣơng cũng sẵn sàng dâng hiến: "Tất cả em là trân châu quý giá / Dành cho anh

riêng hƣởng hạnh phúc này / Em kết tinh ở bao thanh sắc lạ / Tòa thiên nhiên đúc sẵn để mê

say". Ấy thế nhƣng vào cái giây phút nàng khẩn thiết trao tình thì chàng lại... biến mất! Bởi

quan niệm của Cái Tôi ấy là: "Anh chỉ ngó say em trong chốc lát - Để hồn thơ dào dạt với

mây bay - Gần em luôn để hƣởng bao khoái lạc - Thƣa em, không, anh đâu dám mê say".

Nghĩa là chỉ muốn dừng cảm giác hạnh phúc trong khát khao, mà không dấn thân vào khoái

lạc trong ân ái. Có thể nói đó là quan niệm của Hàn Mặc Tử về Ái tình thiêng - "Ái tình thiêng

mƣờng tƣợng đến cao sâu". Quan niệm về ái tình thiêng này là một hệ quả tất yếu và đồng bộ

của quan niệm về vẻ đẹp Xuân Tình mà Trinh Bạch của Hàn Mặc Tử. Coi đó là một vẻ đẹp

quý giá và thiêng liêng nhất của cõi đời này, dành cho nó cả tình yêu và sự chiêm bái, Hàn

Mặc Tử muốn nó vĩnh viễn là một "nguồn tƣơi, sự trắng trong

80

nguyên vẹn". Bởi vậy cái Tôi ấy chỉ muốn khát khao chiêm bái mà không muốn chiếm hữu.

Sự chiếm hữu sẽ phá vỡ mọi nguyên vẹn. Sự chiếm hữu chỉ là một bƣớc, nhƣng là bƣớc cuối

cùng, bƣớc quyết định để biến Tình thiêng thành Tình tục. Mà Tử thì quyết không muốn nhƣ

vậy. Đây mới là cái gốc quan niệm lập nên một rào cản vô hình, thƣờng xuyên khắc chế, để

khát khao quá mãnh liệt của Cái Tôi ấy lúc nào cũng chỉ ở trong khuôn khổ của ái tình thiêng.

Cái cơ chế kiềm lòng khắc kỷ ấy có phải chỉ do quan niệm mỹ học riêng của một thi sĩ hay

còn có sự can thiệp của cả quan nieemjd dạo đức nào nữa của một con chiên. Có phải từ

trong sâu thẳm vô thức, Cái Tôi này còn muốn khƣớc từ, né tránh cả cái tội tổ tông nữa

chăng? Ta hiểu vì sao Tử viết rất dồi dào về khao khát ái ân, mà hầu nhƣ không viết về

hƣởng thụ ân ái. (Quan niệm này còn có một phần thể hiện trong Hình Tƣợng Nàng Thơ sẽ

đƣợc nói đến ở chƣơng sau).

2.2.2.2. Cái Tôi khao khát trần giới mà phải lìa bỏ trần gian

Khát khao trần giới là khát khao thƣờng hằng của Cái Tôi Hàn Mặc Tử. Có lúc Cái

Tôi ấy kêu lên nhƣ vỡ lẽ, giác ngộ, khám phá về chính mình: "Té ra ta vốn là thi sĩ / Khát

khao trăng gió mà không hay / Ta đi bắt nắng ngừng, nắng reo, nắng cháy / Trên sóng cành,

sóng lá cô gì má đỏ hây hây / Ta rình nghe niềm ý bâng khuâng trong gió lảng / Với là hơi

thở nồng nàn của tuổi thơ ngây" (Ngủ với trăng). Trong vai một "khách xa", một lãng tử đi

ngang qua cuộc đời, Tử vẫn tha thiết với cõi này biết bao. Tất nhiên, trong đó, khao khát

mãnh liệt nhất là khao khát trần duyên nhƣng giai nhân hiện thân đầy đủ cho sức sống và vẻ

đẹp trần giới: "Từ gió xuân đi gió hạ về / Anh thƣờng gửi gắm mối tình quê", "Trƣớc sân anh

thơ thẩn / Đăm đăm trông nhạn về / Mây chiều còn phiêu bạt / Lang thang trên đồi quê / Gió

chiều quên dừng lại / Dòng nƣớc luôn trôi đi", "Trong làn nắng ửng khói mơ tan / Đôi mái

nhà tranh lấm tấm vàng / Sột soạt gió trêu tà áo biếc / Trên giàn thiên lý bóng

81

xuân sang / Sóng cỏ xanh tƣơi gợn tới trời / Bao cô thôn nữ hát bên đồi", "Khách xa gặp lúc

mùa xuân chính / Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng"... Cái Tôi ấy mến ngƣời mến cảnh,

quyến luyến trần gian bằng một tình yêu kỳ lạ và bằng một cách thể hiện cũng kỳ dị: "Sao

anh không về chơi thôn Vĩ / Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên / Vƣờn ai mƣớt quá xanh nhƣ

ngọc / Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Nó tự phân thân để tự vấn mình về một việc đáng

làm, cần làm mà không biết có còn cơ hội để làm nữa hay thôi. Đó là trở về chốn cũ thăm lại

cảnh và ngƣời xƣa. Chính trong cái giờ phút đang lìa xa cuộc đời nhƣ thế, hình ảnh trần gian

lại hiện lên thân thƣơng gần gũi hơn bao giờ hết. Những cảnh sắc bình dị nơi thôn quê bỗng

anh lên nhƣ một nhan sắc lộng lẫy. Vƣờn trần giới bỗng nhƣ thiên đƣờng trần gian. Nỗi

quyến luyến đã đem đến cho những hàng cau, nhành lá trúc, sắc xanh mƣớt mát của khu

vƣờn vẻ thanh tú tinh khôi nhƣ chƣa từng tinh khôi thế. Với trần gian này, Tử có bao duyên

nợ. Cái Tôi ấy đã yêu bằng một thứ tình khôn thỏa: "Họ đã đi rồi khôn níu lại / Lòng thƣơng

chƣa đã mến chƣa bƣa / Ngƣời đi một nửa hồn tôi mất / Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ". Vì

thế lúc nào Tử cũng không thôi khao khát - khao khát trong tuyệt vọng và chính bằng tuyệt

vọng. Tƣởng tƣợng ra cái giờ phút đau thƣơng nhất của một kiếp ngƣời là "Trút linh hồn", Tử

vẫn khẳng định: "Ta còn trìu mến biết bao ngƣời / Vẻ đẹp xa hoa của một thời / Đầy lệ, đầy

thƣơng, đầy tuyệt vọng / Ôi !giờ hấp hối sắp chia phôi!". Có thể thấy động thái trữ tình của

cái Tôi ấy là hàng loạt những "khát khao", "đi bắt", "đi rình", "bâng khuâng sực nhớ", "về

chơi", "nhìn nắng", "mơ khách", "níu lại", "thƣơng chƣa đã", "mến chƣa bƣa", "còn trìu

mến"... thể hiện sự khát khao gắn bó thật nặng lòng. Các thi sĩ lãng mạn thƣờng tự họa Cái

Tôi của mình trong hình ảnh một kẻ Lãng Tử. Cho nên, dù ở Hàn Mặc Tử có vẽ thêm cho

mình một nét độc đáo "Lãng tử ơi mi là tiên hành khất" đi nữa, thì Lãng tử vẫn chƣa phải là

chân dung thật sự điển hình cho Cái Tôi Hàn Mặc Tử.

82

Điển hình hơn trên cơ sở cái "típ lãng tử" ấy phải là Khách xa. Tuy thấp thoáng từ những

phần thơ trƣớc, nhƣng phải đến tập "Đau thƣơng", hình ảnh Cái Tôi trong vai một khách xa

mới thực sự rõ nét. Và điều này là một tín hiệu mới đối với sự vận động của hình tƣợng Cái

Tôi Hàn Mặc Tử. Bắt đầu có lẽ từ "Mùa xuân chín": "Khách xa gặp lúc mùa xuân chín". Rồi

sau đó, cái ý niệm xa càng ngày càng ngấm sâu vào tâm thức của thi nhân. Một Khoảng cách

xa trong không gian và trong cả thời gian càng lúc càng nới rộng. Tất cả lặn sâu vào trong cơ

cấu không gian và thời gian ở đây, khiến cho thế giới nghệ thuật đƣợc hiện ra càng lúc càng

nhƣ một cõi xa vời mông lung vô định. Nó hiện ra khi tự ý thức mình là khách xa: "Tôi đứng

xa lắm xin chừa tôi đi", "Lời nguyện gấm xanh nhƣ màu huyền diệu / Não nề lòng viễn khách

giữa cơn mơ", không chỉ xa cách trong phạm vi một cõi thực, một thế giới, mà còn đi hẳn ra

ngoài cõi khác, sang những thế giới khác: "Anh đứng cách xa hàng thế giới / Lặng nhìn trong

mộng miệng em cƣời / Em cƣời anh cũng cƣời theo nữa / Để nhắn hồn anh đã tới nơi". "Tôi

đi trong áng sƣơng mờ / Tìm con trăng lạc ngoài bờ bến kia / Xứ yêu bát ngát tôi lìa / Dò

xem ý tứ ban khuya tôi liều", "Và đẻ thoát li ngoài thế giới", có lúc còn nghĩ về sự xa cách

của cuộc đời và vực thẳm hƣ vô: "Tôi đang còn đây hay ở đâu / Ai đem tôi bỏ dƣới trời

sâu"... khi ý thức về ngƣời tình xa: "Nàng xa tôi quá nói nghe chăng?" "Trời tuy xa lòng

thiếu nữ xa hơn", "Thuyền anh lững lờ trong hiu quạnh / Tới em chƣa, đã tới bến lòng em?",

"Nhƣng xa xôi quá biết làm sao", "Mơ khách đƣờng xa, khách đƣờng xa"... Cái khoảng cách

giữa mình và ngƣời yêu dấu đƣợc thể hiện bằng nhiều phép đo đếm: Bằng một tầm vô biên

trong cùng một cõi thực, bằng khoảng siêu thực giữa hai cõi: "Anh nằm ngoài sự thực / Em

ngồi trong chiêm bao / Cách xa nhau biết mấy / Nhớ thƣơng quá thì sao?", bằng khoảng cách

bên kia thế giới này: "Lệ Kiều ơi! Em còn giữ ý thơ / Trong đôi mắt mùa thu trong leo lẻo / Ở

xa xôi lặng nhìn anh khô héo / Bên kia trời hãy chụp cả hồn

83

anh"... Khi ý thức về cuộc sống đang lùi xa, có lúc cái tôi ấy nhìn nhận mình nhƣ một kẻ lạc

ra ngoài cuộc đời. "Ta ném mình đi theo gió trăng / Lòng ta tản mát bốn phƣơng trời / Cửu

trùng là chốn xa xôi lạ / Chim én làm sao bay tới nơi". "Ở đây sƣơng khói mờ nhân ảnh"...

Có lúc lại ý thức mình nhƣ kẻ bị đầy vào động Huyền Không hoàn toàn cách biệt với thế giới

này: "Hãy mƣờng tƣợng một ngƣời thơ đang sống! Trong im lìm lẻ loi trong dãy động / Cũng

hình nhƣ, em hỡi động Huyền Không", lại có lúc nặng nề hơn, Cái Tôi ấy hình dung mình

nhƣ một cung nữ bị trừng phạt, bị đày ra lãnh cung: "Trầm ngán ghê thay trong lãnh cung...

Ngoài kia xuân đã thắm hay chƣa / Trời ở trong đây chẳng có mùa / Không có niềm trăng và

ý nhạc / Có nàng cung nữ nhớ thƣơng vua"...

Nói chung, trong tình yêu, khi thể hiện mối tƣơng tƣ, ngƣời ta thƣờng nói bằng xa

cách. Xa cách trong không gian và trong cả thời gian. Những khoảng cách thực trong cuộc

đời thƣờng đƣợc "trầm trọng hóa" trong nỗi tƣơng tƣ. Tấc gang bỗng chốc thành nghìn trùng

thăm thẳm, phút giây lập tức thành đằng đẵng thiên thu. Cái Tôi Nguyễn Bính cũng hiện hình

trong xa cách: "Nhà em xa cách quá chừng / Em van anh đấy anh đừng thƣơng em". Cái Tôi

Xuân Diệu vẽ mình trong xa cách cũng đầy ấn tƣợng: "Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ

ảnh / Anh nhớ em anh nhớ lắm em ơi!... Nhớ đôi môi đang cƣời ở phƣơng trời / Nhớ đôi mắt

đang nhìn anh đăm đắm"... Tuy nhiên, nguyên ủy sâu xa của cảm niệm xa cách trong thơ Hàn

Mặc Tử không chỉ có sự chi phối của quy luật tƣơng tƣ thông thƣơng. Trong thơ Tử, nó đã

thực sự trở thành một thứ cảm quan hiện thực chi phối cả cơ cấu không gian lẫn tƣ thế trữ

tình của Cái Tôi thi sĩ. Có thể khẳng định ngay rằng cảm niệm về khoảng cách xa trong ý

thức của Cái Tôi trên đây có nguồn gốc sâu xa từ trong mặc cảm chia lìa của thi sĩ Hàn Mặc

Tử. Sau khi biết mình đã mắc phải căn bệnh quái ác, Tử rơi vào một tâm trạng bi kịch. Một

mặt rất thiết tha gắn bó với cuộc đời, mặt

84

khác lại chủ động tuyệt giao với tất cả. Nhƣng tuyệt giao chẳng qua chỉ là một phép ứng xử

cực đoan lộn ngƣợc của lòng yêu đời mà thôi. Niềm thiết tha luôn lam Tử đau đớn. Bởi vì nó

có tính hai mặt: nó vừa khiến cho thi sĩ thấy thế giới trần gian rất gần vừa thấy đây là một thế

giới không còn thuộc về mình nữa. Nó thực sự là một thiên đƣờng, nhƣng là thiên đƣờng

ngoài tầm với. Đè nặng trong lòng Tử từ khi đó là cái mặc cảm ấy: mặc cảm chia lìa. Mặc

cảm này đã lẳng lặng can thiệp vào tổ chức nghệ thuật của thế giới thơ Hàn Mặc Tử thành cơ

cấu không gian, âm thầm hóa thân chia đều vào hình ảnh khách xa, ngƣời tình xa, cuộc đời

đang dần xa mờ với cái khoảng cách của một tầm tuyệt vọng. Mỗi lời nói của Cái Tôi ấy lúc

này khác nào những lời nguyện cuối, những tâm nguyện cuối cùng của kẻ bị đẩy đến mép

vực vô hình của cái chết và hƣ vô.

Mặc cảm chia lìa này dƣờng nhƣ còn là nguyên nhân tâm lý sâu xa dẫn đến một đặc

điểm khác của Cái Tôi Hàn Mặc Tử. Đó là sự phân thân thành hai con ngƣời, hai nhân cách:

Tôi và Hồn. Cũng có thể đây là sản phẩm của tƣ duy "thơ điên", nghĩa là bị chi phối bởi áp

lực thi pháp (sẽ đƣợc nói đến ở chƣơng ba). Nhƣng mặc cảm chia lìa không thể không đóng

vai một nguyên nhân nội tại. Không chỉ có sự phân thân, ở Tử còn có sự phiêu tán tan loãng

một cách độc đáo và nhất quán [14, 34]. Thực thể xác thân không còn hy vọng vƣợt qua cái

khoảng cách nghìn trùng dâu bể kia, Tử chỉ còn vƣợt qua bằng có một thứ duy nhất ấy là

Hồn. Phần thân không chỉ là một dạng thức tâm lý tự thân, mà còn là một nỗ lực vƣợt thoát

khỏi tình trạng đơn côi bởi bệnh tật dày vò thân xác. Dĩ nhiên, nó là một nỗ lực tinh thần

trong cõi huyễn tƣởng của sáng tạo. Ở đây, Cái Tôi phân thân thành Hồn, thành Cái Tôi thứ

hai, nhƣ trong cuộc giao tiếp huyền hoặc giữa thân xác và linh hồn của cùng một cá thể. Và

chính nó là diện mạo lạ lùng nhất của Cái Tôi Điên ở Hàn Mặc Tử. "Anh đã thoát hồn anh

ngoài xác thịt / Để chập chờn trong ánh sáng mông lung / Để tìm em đƣa hai tay ràng rịt /

Mảnh tình thiêng ngả ngớn giữa không trung /

85

Anh đã gặp hồn em đƣơng chới với", "Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng / Cho bay lên hí hửng

giữa ngàn khơi? , "Đấy là cả hồn anh tiêu tán / Cùng trăng sao bàng bạc xứ say mơ", "Hồn

anh theo dõi bóng em đi / Hồn anh sẽ nhập trong luồng gió / Lƣu luyến bên em chẳng nói gì",

"Tôi nhập hồn tôi trong khúc hát / Để nhờ không khí đẩy lên trăng.../ Và để thoát li ngoài thế

giới / Để cƣời để chứng để yêu nhau", "Hồn hỡi hồn lên nữa quá thinh gian"... Có lúc kinh

hãi hơn, Hồn nhập vào thân xác khác của cô gái đồng trinh: "Có tôi đây hồn phách tôi đây /

Tôi nhập vào trong xác thịt này"... Dầu sao ở đó sự phân tách xác - hồn vẫn còn ở mức thông

thƣờng. Nó khác thƣờng đến kỳ dị là Tôi và Hồn thành hẳn hai nhân vật độc lập cợt nhả,

tranh chấp, vật lộn ác liệt: "Hồn là ai? Là ai? Tôi chẳng biết /Hồn theo tôi nhƣ muốn cợt tôi

chơi... Hồn đã cấu, đã cào, nhai ngấu nghiến! / Thịt da tôi sƣợng sần và tê điếng / Tôi đau vì

rùng rợn tới vô biên... Hồn là a? Là ai? Tôi không hay / Dẫn hồn đi ròng rã một đêm nay -

Hồn mệt lả và tôi thì chết giấc", "Ôi ngông cuồng! Ôi rồ dại, rồ dại / Ta cắm thuyền chính

giữa vũng hồn ta"... Trong sự phân thân xác hồn này của Cái Tôi Hàn Mặc Tử, chúng ta thấy

dấu vết của cuộc tƣơng tranh quyết liệt giữa thân xác bệnh hoạn và linh hồn ham sống vẫn

diễn ra hằng ngày đối với Hàn Mặc Tử. Thân xác hữu hạn đang băng hoại còn linh hồn lành

mạnh lại muốn hóa vô biên. Chính cuộc giao tranh bất tận này là một hiện thân của Đau

thƣơng. Nó khiến cho cái Tôi Hàn Mặc Tử hiện ra với một diện mạo đặc biệt nữa ấy là Cái

Tôi Quằn Quại. Bởi nó cũng là một nỗ lực tuyệt vọng. Mà dạng thức cuối cùng của Cái Tôi

ấy có lẽ là biến thành Thanh khí. "Chúng ta biến em ơi làm thanh khí / Cùng trăng sao bàng

bạc xứ say mơ", "Hồn vốn ƣa phiêu diêu trong gió nhẹ / Bay giang hồ không sót một phƣơng

nào / Càng lên cao dây đồng vọng càng cao / Quyến rũ biết bao kinh cầu nguyện". "Để chơi

vơi này bóng trăng lá gió / Để phiêu diêu này tờ thơ vàng vọ / Để dầm dề hạt lệ tạ đôi ta /

Tầng thƣợng tầng lâu đài ngọc đơm ra /

86

Khói nhạt nhạt xen vô màu xanh biếc". "Ta sống mãi trong trăng sao gấm vóc / Trong nắng

thơm trong tiếng nhạc thần bay / Bút đề lên nền sáng báu năm mây / Thơ chen lẫn vô trong

nguồn cảm giác... Ta sống mãi với muôn xuân đầm ấm / Trong mây kinh và trong gió nhiệm

màu / Hồn ta đây bất diệt với Hà Sa", "Tiên đƣa tôi bay lên cung trăng / Tôi phiêu diêu cùng

ngàn sao băng / A ha! Lòng tôi trăng là trăng/ A ha! Trăng tràn đầy châu thân!".... Đọc

những phần thơ này, thấy Cái Tôi ấy thoát ly lên Thƣợng thanh khí bằng một niềm hoan lạc

phấn khích. Y nhƣ Tử đã tìm thấy cho mình cõi vĩnh hằng. Y nhƣ việc thoát ly khỏi trần gian

là một niềm hoan lạc vô biên. Đƣợc phiêu diêu trong "cõi mới khai phá" này, Tử tìm thấy cho

mình sự an bằng. Và điều này đã khiến nhiều ngƣời khi nghiên cứu Hàn Mặc Tử luôn ngỡ

rằng ông đang phát ngôn cho Đạo quân thánh giá về giải thoát, về thiên đƣờng. Thậm chí coi

thơ Tử chỉ đơn thuần "là tiếng vọng của thánh tự" [35, 431]. Có thật Tử đã tìm đƣợc lối thoát

cho mình? Biến thành thanh khí, xuất hồn ra để bay lên cõi khác là một giải thoát, một hạnh

phúc thật sự? Không phải. Có chăng chỉ là niềm hạnh phúc hàng hai thôi. Nghĩa là nếu buộc

phải từ bỏ hạnh phúc thứ nhất thì đành phải tìm đến hạnh phúc thứ hai này. Đọc kỹ có thể

thấy giọng hào hứng kia tuy chân thành, nhƣng không phải là tất cả. Gắn bó với trần gian với

những mối trần duyên mới là những gì thực nhất của lòng Tử. Có lẽ bạn thơ Chế Lan Viên đã

xứng đáng là một tri âm của Tử khi đƣa ra nhận định vào ngay lúc bấy giờ rằng: Tử đang

"nghĩ đến những cái có thật mà mình không về với nữa, cũng nhƣ bắt buộc phải nghĩ đến nơi

không biết có thật bao giờ, mà mình sắp phải trở về" [35, 331]. Nghĩa là, viết về cái "cõi siêu

hình cao tột bậc" là bằng huyễn tƣởng từ đức tinh của một con chiên về cõi Chúa ngự. Một

lối tự huyễn hoặc chân thành và ngọt ngào những lúc lâm vào tuyệt vọng. Nó sắm vai trò một

niềm an ủi xoa dịu cuối cùng. Ta đọc thấy trong đó một hƣ tƣởng dễ dãi. Và lời thơ phần

nhiều mòn sáo cũ kỹ. Niềm hào hứng say sƣa khi viết về cõi siêu hình không che trùm đƣợc

niềm đau thƣơng mỗi khi

87

chợt nghĩ đến chia lìa với thế giới hữu hình kia. Say sƣa cái Ảo xa vời, tiếc xót cái Thực nhỡn

tiền. Cái ảo thuộc thế giới huyễn tƣởng, còn cái thực là những gì có thể cảm nhận đƣợc bằng

trực quan, những gì mình đã thiết tha, đã trả giá. Hân hoan trong tƣởng tƣợng và đau đớn

trong máu thịt. Cái thực vẫn là nỗi đau chà xát trong từng tế bào của thực thể mình. Mỗi lúc

sực nghĩ đến giờ phút vĩnh biệt thì lời thơ nhức buốt và ứa máu. Cho nên ngay cả trong động

thái phấn hứng dạt dào nhất hƣớng về "Thƣợng thanh khí tiết ra nguồn tinh khí" rất thánh

thần, vẫn thấy trong lòng Cái Tôi ấy nhói lên những đau thƣơng. Nếu đơn thuần sống với

hạnh phúc thiên giới thì hẳn giờ phút trút linh hồn phải đƣợc cảm nhận nhƣ cái khoảnh khắc

giải thoát, phải toàn tâm toàn ý hƣớng về nguồn hạnh phúc đang chờ đợi mình nơi nƣớc

Chúa. Nhƣng ở Hàn không thế. Cái Tôi ấy nghiêng về sự cảm nhận trần giới, nghiêng về nỗi

quyến luyến đến thắt lòng đối với cuộc sống trần gian: "Ta còn trìu mến biết bao ngƣời / Vẻ

đẹp xa hoa của một thời / Đầy lệ, đầy thƣơng, đầy tuyệt vọng / Ôi! Giờ hấp hối sắp chia phôi/

Ta trút linh hồn giữa lúc đây / Gió sầu vô hạn nuối trong cây / Còn em sao chẳng hay gì cả?

/ Xin để tang anh đến vạn ngày" (Trút linh hồn). Nghĩ về hiện tại đang tan vỡ, tất cả chẳng

còn đƣợc bao lăm, mình bị dồn vào nƣớc đƣờng cùng phải chia phôi, thì luyến tiếc đến tan

nát can tràn: "Hôm nay có một nửa trăng thôi / Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi / Ta nhớ mình xa

thƣơng đứt ruột / Gió làm nên tội buổi chia phôi" (Một nửa trăng). "Ta đi tìm mộng tầm xuân

/ Gặp vua nhà Nguyễn bay trên mây / Rƣợu nắng uống vào thì say / Áo ta rách rƣới trời

không vá / Mà bốn mùa trăng mặc vải trăng / Không ai chết cả sao lòng buồn nhƣ tang".

Những say sƣa về thế giới huyền ảo lập tức ngừng phắt lại khi nhìn vào lòng mình thấy "buồn

nhƣ tang". Khi đã bay lên đến bến Hàn Giang rồi, tận hƣởng phong vị nhiệm màu của thế

giới thanh khí huyền nhiệm rồi, nhƣng phong vị ấy chỉ là ngắn ngủi siêu hình, còn đau

thƣơng mới là hiện hữu thƣờng trực. Cái Tôi ấy vẫn khóc

88

đến bàng hoàng cả nƣớc mây: "Mới hay phong vị nhiệm màu / Môi chƣa nhấp cạn mạch sầu

đã tuôn... Tôi ngồi ở Bến Hàn Giang / Khóc thôi mây nƣớc bàng hoàng suốt đêm" (Bến Hàn

Giang... Trong thời gian cao hứng về thế giới thƣợng thanh khí, Hàn vẫn viết rất nhiều cho

Thƣơng Thƣơng, cho một khao khát trần duyên tục tình, và lời thơ ở đây nhƣ dính cả tâm

huyết của một hồn đau: "Tôi ƣng quá, Tôi ƣng nàng / Nàng xa lăm lắm ơi nàng trăng ơi"

(Ƣng trăng), "Đây kêu gọi biết bao tình trìu mến / Nàng hỡi nàng sao nàng chƣa thấy đến"

(Tình hoa), "Nguồn thơ ứa mãi hai hàng lệ /Tờ giấy hoa tiên cũng ƣớt mèm" (Buồn ở đây).

Và nhất là: "Chiều nay tàn tạ hồn hoa / Nhớ Thƣơng Thƣơng quá xót xa tâm bào /Tiếng buồn

đem trộn tiêu tao / Bóng em chờn chợ trong bao nhiêu màu" (Nỗi buồn vô duyên). Và trong

vở kịch cuối đời "Quần tiên hội", Hàn đã dựng ra cảnh bọn tiên khao khát trần duyên nên đã

theo chân đôi uyên ƣơng là Quỳnh Tiên và Huyền Tiên "hè nhau đang đêm hạ san tìm bắt

cho đƣợc cặp uyên ƣơng ấy, nghĩa là bọn tiên chạy theo tình yêu, trở về thế gian, bỏ lại

những động mây bây giờ thành ra hoang vu cô độc" [163, 173]... Ở phần thơ này, giọng điệu

hoan lạc không che lấp, lấn át đƣợc giọng đau thƣơng. Mỗi lời thơ đƣợc cất lên, đều nhƣ lạc

cả hồn phách. Cái Tôi ấy luôn hiện ra qua giọng điệu thê thiết - ấy là giọng tuyệt mệnh của kẻ

sắp lìa trần: "Máu đã khô rồi thơ cũng khô / Tình ta chết yểu tự bao giờ / Từ nay trong gió,

trong mây gió / Lời thảm thƣơng rền khắp nẻo mơ" (Có thể nói đó là giọng điệu quằn quại

của tột cùng tuyệt vọng đau thƣơng (Đây chính là cơ sở tâm lý dẫn đến một vẻ đẹp tân kỳ

trong thơ Tử sẽ đƣợc nói đến ở chƣơng sau: Vẻ đẹp quằn quại kinh dị)... Nhƣ thế, ta mới thấy

trần gia và trở lại cuộc sống trần gian mới thực sự là khắc khoải đau đáu dƣới đáy hồn Tử.

Tiếng nói của con ngƣời trần thế mới thực là tiếng nói đại diện cho Cái Tôi bề sâu của Tử.

89

Khảo sát hình tƣợng Cái Tôi của Hàn Mặc Tử qua một hành trình lâu dài với các

chặng đƣờng thơ, qua những gƣơng mặt khác nhau của nó, thêm một lần nữa chúng ta thấy

rằng thế giới thơ Hàn Mặc Tử vừa vô cùng phức tạp, vừa hết sức nhất quán, vừa phân hóa đa

tạp mâu thuẫn, vừa liền mạch liền khối toàn vẹn. Nếu đã thừa nhận rằng hình tƣợng Cái Tôi

bao giờ cũng là một chỉnh thể, thì hoàn toàn có thể gọi đó là một Cái Tôi Nghịch Lí - nghịch

lí đến kỳ dị. Nếu không nhìn từ tổng thể nhƣ thế, mà chỉ yên tâm với những mặt cục bộ tách

rời thì khó có thể nhận chân Cái Tôi Hàn Mặc Tử nói riêng, và thế giới nghệ thuật của Hàn

Mặc Tử nói chung.

Những quan sát trên đây từ Hình tƣợng Cái Tôi còn cho thấy rằng: đúng là hành trình

thơ của Tử xét ở một mặt nào đó là "từ Thơ Đƣờng đến Baudelaire, Edgar Poe và đi thêm

một đoạn nữa cho gặp thánh kinh của Đạo thiên chúa" nhƣ nhận định của Hoài Thanh [141,

36]. Song, cần phải thêm rằng: Dù có đi đến đâu lòng Tử vẫn nguyên vẹn một mối gắn bó

ràng rịt với cuộc sống trần gian nhƣ ngƣời thám hiểm vào lòng đại dƣơng bí hiểm vẫn luôn

giữ một mối dây nối với đất liền, nhƣ nhà du hành đã bƣớc hẳn ra ngoài khoảng không vũ trụ,

hoặc đổ bộ xuống hành tinh lạ, vẫn cứ giữ nguyên mối dây gắn bó sinh tử với con tàu của trái

đất vậy. Bay vào thế giới của kinh thánh, những cảnh giới nơi thƣợng tầng huyền nhiệm có

một sức mê hoặc lớn đối với hồn thơ Tử. Dƣờng nhƣ, nó có phần nào làm thay đổi cả cảm

quan thi ca. Nó còn đem đến cho Tử một thi hứng mới. Nó đổi thay phần lớn thi liệu của

tiếng thơ Tử. Tuy nhiên những cảm quan, thi hứng thi liệu từ nguồn Đạo chỉ nhƣ những ánh

sáng lạ lốm đốm trên bộ y phục thi ca của Cái Tôi Hàn Mặc Tử. Còn bên trong vẫn là một

Cái Tôi đau đáu trần gian thèm khát trần duyên, không lúc nào nguôi ngoai cái khát mong

một thiên đƣờng trần giới. Đó mới là nét nhất quán trong Cái Tôi Nghịch Lí đầy những mâu

thuẫn những ràng níu trái chiều của Hàn Mặc Tử. Và Thơ Hàn Mặc Tử sở dĩ hấp dẫn cả

những ngƣời đọc không thuộc tôn giáo nào là bởi điều ấy: niềm ngƣỡng vọng đối với cuộc

sống

90

đã nhƣ một tín ngƣỡng: ngay cả khi thoát li lên "cõi siêu hình cao tột bậc", bay trong bầu sinh

quyển nhuốm đầy dƣỡng khí tôn giáo (mà kinh thánh của Đạo Thiên Chúa muốn trội lên,

muốn đồng hóa hoàn toàn cõi tinh thần của Tử) thì niềm tín ngƣỡng dành cho cuộc sống trần

thế vẫn là tiếng nói thiết tha nhất, vẫn là tâm niệm sâu xa bền bỉ và thấm thía nhất. Chứ đâu

phải là, đâu phải vì nó là "Tiếng vọng của thánh tự".

Chúng ta sẽ còn thấy rõ hơn niềm tín ngƣỡng này khi khảo sát một hình tƣợng song

hành vẫn đƣợc xem nhƣ một đối ảnh của Hình Tƣợng Cái Tôi: Hình tƣợng Nàng Thơ.

2.3. Hình tƣợng Nàng Thơ Xuân tình mà Trinh khiết

2.2.1. Hình tượng Nàng Thơ (hay Người tình của Hồn Thơ) trong thơ trữ tình.

Trƣớc khi tiến hành khảo sát, không thể không có một chút giới thuyết về khái niệm

này.

- Thứ nhất, về tên gọi, có thể thấy Nàng Thơ là một danh từ đƣợc quen dùng với

những ý nghĩa rất khác nhau. Có khi nó đƣợc dùng nhƣ một cách hình dung cầu kỳ kiểu cách

theo lối hình tƣợng hóa về bản thân Thơ ca. Chẳng hạn, khi Lamartin ngạo nghễ tự ghi công:

"Tôi là ngƣời đầu tiên làm cho thơ ca tách khỏi núi Pacnax, tôi đã tặng cho Nàng Thơ, không

phải cây đàn lia bảy dây quy ƣớc, mà là trái tim con ngƣời xúc cảm do những rung động của

tâm hồn và thiên nhiên" [60, 36], hay Hoài Thanh viết: "Cái Nàng Thơ xƣa nay thực là rắc

rối: Có ngƣời cả đời phiêu bạt đâu đâu bỗng một hôm ghé về, liền đƣợc nàng đãi một bài

thơ" [141, 39]. Cũng vẫn là "nàng" ấy, nhƣng thay vì Nàng Thơ, Thế Lữ gọi bằng Nàng Mỹ

Thuật, còn Hàn Mặc Tử gọi bằng Nàng Nghệ thuật: "Vì nghệ thuật là cái gì tiên phong đạo

cốt, là hình dáng một cô gái rất đẹp có mùi xạ thơm tho (...). Nếu không nhờ mùi hƣơng ngào

ngạt của

91

cô gái nghệ thuật thì đến phải buồn phải chán" [35, 86]. Cùng với nghĩa này, đôi khi ngƣời

ta gọi bằng Nàng thơ là để phân định với Chàng văn, nhƣ một cách nói văn vẻ, ám chỉ thứ

"nữ tính" của Thơ trong tƣơng quan với "nam tính" của Văn. Nàng Thơ còn là một cách nói

văn nghệ trong đời thƣờng để gọi Ngƣời tình của ai đó. Theo một nghĩa hẹp hơn, hình tƣợng

hóa một khía cạnh nào đó trong toàn bộ thi hứng của mình, Baudelaire gọi Đau thƣơng là

Nàng, và chính Hàn Mặc Tử cũng từng gọi nhƣ thế khi viết: Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật

ra tiếng khóc, tiếng cƣời, tiếng rú....". Có lẽ chữ "Nàng Thơ" còn có thêm những cách dùng

khác nữa. Khác với những cách hiểu trên, chính trong thơ Hàn Mặc Tử còn có một hình ảnh

Nàng Thơ mang một khái niệm khác. Nàng Thơ nhƣ là hiện thân của Cái Đẹp Hàn ao ƣớc

mơ tƣởng kiếm tìm: "Cho tôi hoa đền ngự / Cho tôi lòng ni cô / Xuân trên má Nƣờng Thơ /

Ngon nhƣ tình mới cắn" (Cao hứng). Hay "Hãy quỳ lạy nhìn xem cho sƣớng đã / Không gì

tiên cho sánh kịp Nƣờng Thơ" (Say thơ). Hình tƣợng Nàng Thơ của một thi sĩ mà ta đang nói

đến là thuộc khuynh hƣớng này, ý niệm này.

- Thứ hai, về bản chất, đó là hình tƣợng Ngƣời tình của Hồn Thơ (chữ Hồn Thơ viết

hoa với nghĩa phổ quát). Đây là một hiện tƣợng phổ biến trong thực tiễn sáng tạo nghệ thuật.

Bất cứ một tâm hồn nghệ sĩ nào cũng tạo ra cho riêng nó hình ảnh một ngƣời tình. Đó là cái

hình mẫu lý tƣởng theo quan niệm và khát vọng thẩm mĩ riêng của nghệ sĩ ấy. Có thể coi đó

là hiện thân bằng xƣơng bằng thịt cho vẻ đẹp mà ngƣời nghệ sĩ tìm kiếm và tôn thờ trong suốt

cuộc đời sáng tạo của mình. Trong thơ ca là phổ biến hơn cả, đặc biệt từ thơ Lãng mạn trở đi.

Dễ hiểu rằng: Văn học lãng mạn là khuynh hƣớng văn học lấy việc đào sâu vào thế giới cảm

xúc cá nhân làm lẽ sống chính, mà trong đó đời tƣ của cá nhân lại đƣợc ƣu tiên vào hàng số

một. Khi ngƣời ta là tình nhân đồng thời cũng là một thi nhân. Đối tƣợng mà trái tim chàng

tình nhân muốn kiếm tìm trong cõi đời thƣờng cũng trở thành đối tƣợng mà hồn thơ của thi

92

nhân ngƣỡng vọng trong cõi thơ. Có thể nó đƣợc bắt đầu từ một hình bóng có thật nào đó

ngoài đời của thi sĩ. (Thậm chí, có thể không phải là ngƣời tình theo nghĩa hẹp của quan hệ,

mà là những ngƣời đƣợc say mê, ƣa chuộng, mến mộ, tôn thờ nói chung). Cũng có thể là bức

chân dung đƣợc vẽ từ nguyên mẫu là ngƣời tình trong đời thực của anh ta. Nhƣng khi vào

trong thế giới nghệ thuật, ngƣời tình nhƣ một cá thể cá biệt ấy đã đƣợc lý tƣởng hóa, đã trở

thành hiện thân của Cái Đẹp mà thi sĩ hằng tìm kiếm, tôn thờ, phụng hiến. Có nghĩa: đó là

ngƣời tình của hồn thơ (trong cõi thơ) chứ không còn là ngƣời yêu của thi sĩ (trong cõi đời).

Nhà thơ Hoàng Cầm, từ kinh nghiệm sáng tạo cá nhân cộng với những đúc kết từ thực tiễn

sáng tạo của số đông, thì đã muốn nâng quy luật phổ biến đó lên thành lý thuyết: "Trong bất

cứ chàng thi sĩ lãng mạn nào cũng sống một ngƣời đàn bà. Ngƣời đàn bà ấy là hiện thân

bằng xƣơng bằng thịt của vẻ đẹp mà anh ta tôn thờ, mơ ƣớc. Ta gọi là Nàng Thơ. Nàng là

ngƣời tình lý tƣởng của hồn thơ. Nàng là Bóng Giai Nhân ôm trọn một hồn thơ. Hồn thơ của

thi sĩ suốt đời dan díu, hôn phối cùng nàng để sản sinh ra mọi nhân vật, mọi cảnh vật, mọi

tình tứ trong thơ" [103, 286 - 287]. Từ điểm nhìn của một nam thi sĩ, nhƣng quy luật này hẳn

không chỉ bó hẹp trong giới nam nhân. Ý kiến ấy xác định rằng Nàng Thơ vừa là Đối tƣợng

thẩm mĩ thƣờng hằng mà thi sĩ đắm say, vừa là kết tinh sống động cho những quan niệm

thẩm mĩ và quan niệm nhân sinh của thi sĩ. Ở giai đoạn tiền sáng tạo, Nàng Thơ là đối tƣợng

của khát vọng thẩm mỹ, khi chuyển hóa thành hình tƣợng trong quá trình sáng tạo, Nàng Thơ

lại chính là một hiện thân của khát vọng ấy. Nói một cách khác, Nàng Thơ chính là một hiện

thân bằng xƣơng bằng thịt của tƣ tƣởng nghệ thuật nhà thơ. Nếu coi sáng tạo thơ ca là một

cuộc đối thoại triền miên, thì Nàng Thơ còn là ngƣời đối thoại âm thầm của thi sĩ. Từ đó, có

thể thấy, sẽ không thể nắm bắt đƣợc cái diện mạo độc đáo của một thế giới hình tƣợng ở một

thi sĩ lãng mạn, nếu không tìm hiểu Nàng Thơ của anh ta.

93

- Thứ ba, về thực thể và dạng thức hiện diện, Nàng Thơ ở đây là khái niệm chỉ cái

hình tƣợng ngƣời phụ nữ tổng quát, nói cách khác là Hình tƣợng ngƣời phụ nữ ở cấp quan

niệm vốn hết sức phổ biến trong thế giới nghệ thuật của các thi sĩ trữ tình. (Quy luật này

không hề loại trừ trƣờng hợp những nữ thi sĩ. Dĩ nhiên, ở chủ thể trữ tình là nữ phái thì mọi

hình dung sẽ phải diễn ra theo chiều hƣớng ngƣợc lại). Hình tƣợng Nàng Thơ phần nào cũng

giống nhƣ hình tƣợng Cái Tôi, nghĩa là nó thuộc dạng siêu hình tƣợng. Khái niệm này có gần

gũi nhƣng không đồng nhất với khái niệm Hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong thơ. Nó không

phải là một con ngƣời riêng rẽ xác định trong một bài thơ nào đó. Không hẳn là cấp số cộng

giản đơn của tất cả thế giới nhân vật phụ nữ trong toàn bộ thi phẩm của thi sĩ. Mà nó là Bức

chân dung tổng hợp từ tất cả những nhân vật phụ nữ đƣợc thi sĩ thể hiện một cách say đắm

trong thơ. Mỗi ngƣời phụ nữ kia là một phân thân, một hiện thân cụ thể cảm tính của Hình

tƣợng ngƣời phụ nữ tổng quát này. Nó gần gũi với khái niệm quan niệm nghệ thuật về con

ngƣời ở tính quan niệm ẩn chìm trong đó. Nhƣng nó cũng không đồng nhất với khái niệm này

ở phạm vi và tính thực thể của nó. Hình tƣợng Nàng Thơ không phải là quan niệm đƣợc rút ra

từ toàn bộ thế giới nhân vật của nhà văn, và chỉ gắn với một loại thực thể ấy là những giai

nhân trong thế giới nghệ thuật của thi sĩ. Có thể hình dung, Nàng Thơ là cái mẫu số chung mà

mỗi một nhân vật phụ nữ đƣợc thể hiện trong từng bài thơ lẻ là một tử số. Nó là cái chuẩn

mực chung nhất mà mỗi nhân vật phụ nữ kia đƣợc tạc theo. Nó là cái "hệ gien di truyền" để

cho hệ thống nhân vật phụ nữ kia hợp thành một chủng loại của riêng thi sĩ. Nó là một nguồn

sáng mà ánh sáng in chiếu lên tất cả các gƣơng mặt phụ nữ kia, thậm chí, chiếu sáng lên cả

mọi cảnh trí thơ ca của thi sĩ. Tuy là một ảnh hình tổng quát, nhƣng Nàng Thơ vẫn hiện lên

nhƣ một hình tƣợng toàn vẹn đi xuyên qua các thi phẩm. Cho nên muốn tìm kiếm bức chân

dung tổng quát của nhân vật này, phải tiến hành việc "quy đồng" từ những nhân vật phụ nữ

riêng lẻ đƣợc nói đến rải rác trong các chăng

94

đƣờng thơ của tác giả. Thậm chí phải tìm kiếm chân dung này ở cả các khuôn mẫu nhân hóa

ẩn chìm, khuất sau những hình tƣợng thiên nhiên trong thế giới thơ kia nữa. Chẳng hạn trong

câu thơ tả trăng: “Trăng nằm sõng soài trên cành liễu / Đợi gió đông về để lả lơi”, ta thấy

trăng đƣợc mô tả theo lối nhân hóa. Nhƣng cái “nhân” đó là ai? Ấy là một cô gái rạo rực xuân

tình khao khát yêu đƣơng. Hoặc “Mới lớn lên trăng đã thện thò/ Thơm nhƣ tình ái của ni cô”,

cũng là trăng đƣợc vẽ theo lối nhân hóa, mà hình ảnh để qui chiếu cũng là cô gái Xuân tình

thanh khiết. Bởi thế tìm kiếm hình tƣợng Nàng Thơ của một thi sĩ, trƣớc hết phải tìm kiếm

trong các nhân vật phụ nữ đƣợc nói đến trong thơ, nhƣng không thể chỉ bó hẹp ở đó, mà còn

cần phải mở rộng ra cả ở thiên nhiên nhƣ thế nữa. Tóm lại, về một mặt nào đó, có thể gọi

Hình tƣợng Nàng Thơ là bức chân dung tổng hợp từ các giai nhân đƣợc khắc họa trực tiếp

và các giai nhân ẩn chìm đƣợc làm khuôn mẫu nhân hóa của các cảnh trí thiên nhiên.

2.2.2 Nàng thơ Xuân Tình mà Trinh khiết.

Hàn Mặc Tử là một thi sĩ thuộc típ “lãng mạn trầm trọng” - với nghĩa : đối với riêng

Hàn Mặc Tử. Tình yêu và Thơ là sự sống lớn nhất, thậm chí có những lúc là duy nhất.

Nguyễn Bá Tín đã nhận thấy một “qui luật” riêng của anh trai mình : “Trong cuộc đời nổi

tiếng của Hàn Mặc Tử, thơ văn gắn liền với tình yêu, nhƣ bóng với hình, mà thơ thì lại là sự

sống của Anh. Hễ có thơ là có tình và có tình chắc chắn là có thơ” [98,337]. Điều này thêm

một lần nữa xác nhận, từ phía “nhân chứng’, về một thực tế rằng Hàn Mặc Tử chỉ có một thứ

thơ thôi, ấy là thơ Tình. Đã sống trong trình yêu, sống bằng tình yêu nhƣ thế thì đối thoại với

ngƣời yêu bao giờ cũng là cuộc đối thoại thƣờng hằng bất tận. Thơ chính là cuộc đối thoại

giữa cái Tôi và ngƣời Tình của hồn thơ ấy. Do đó, nói Hình tƣợng Nàng Thơ là một hiện

tƣợng phổ biến của các thi sĩ Lãng mạn nói chung, mà điển hình nhất là ở Hàn Mặc Tử. Khái

niệm này

95

trƣớc hết là một chìa khóa giúp chúng ta đi vào thế giởi nghệ thuật riêng của Hàn Mặc Tử.

Theo những tài liệu đã đƣợc công bố từ những ngƣời thân nhƣ Nguyễn Bá Tín, Quách

Tấn, Trần Thanh Dịch, và từ sƣu tầm công phu của Phạm Xuân Tuyển – tác giả sách “Đi tìm

chân dung Hàn Mặc Tử” [158] – thì trong đời, Hàn yêu rất nhiều ngƣời, cả những trƣờng hợp

chỉ nghe tên, chứ chƣa hề gặp mặt. Nhƣng ông đã đổ biết bao nhiêu lệ tinh huyết để làm thơ

về họ. Ngƣời ta còn kể ra cụ thể tỉ mỉ và khá xác đáng câu nào viết tặng giai nhân nào. Ví

nhƣ về Hoàng Thị Kim Cúc : Xiêm áo hôm nay tề chỉnh quá / Muốn ôm hôn Cúc ở trong

sƣơng... về Mộng Cầm : Nghệ, Nghệ hỡi, muôn năm sầu thảm / Nhớ thƣơng còn một nắm

xƣơng thôi... về Ngọc Sƣơng: Ta đề chữ Ngọc Trên tàu chuối/ Sƣơng ở cung thiềm nhớ

chẳng nguôi.... về Mai Đình : Quí nhƣ vàng, trong nhƣ ngọc trên đời / Mai, Mai, Mai là

Nguyệt Nga tái thế... về Thanh Huy : Thanh Huy hỡi/ Nàng chƣa là châu báu/ Cớ làm sao

phƣớc lộc chảy ra thơ... về Thƣơng Thƣơng: Bây giờ đây khóc than niềm li hận / Hỡi Thƣơng

Thƣơng ngƣời ngọc của lòng anh... về Thu Yến : Chị ấy năm nay còn gánh thóc / Dọc bờ

sông trăng nắng chang chang... về Thu Hà : Chút tình bến cũ còn đeo đẳng / Hụt chuyến đò

xƣa nghĩ nghẹn ngào... về Mỹ Thiện : Đêm qua trăng vƣớng trong cành trúc/ Cô láng giềng

bên chết thiệt rồi... Nhƣ thế, nhƣũng ngƣời tình ngoài đời đã bƣớc vào thơ của thi sĩ khá

nhiều. Họ có mặt và chia nhau (cả truất nhau nữa) trị vì hầu nhƣ khắp các chặng đƣờng thơ

Hàn. Ngoài đời, họ hết sức khác nhau về dung nhan, về thân phận, về tâm tính... Nhƣng vào

thơ, họ đều đƣợc vẽ lên qua cùng một nhãn giới, một lăng kính thi ca, một nguồn đắm say

chung của Hàn Mặc Tử. Theo đúng quy luật sáng tạo, họ đã chết đi cái thân phận con ngƣời

thực tại, để sống mãi cái thân phận hình tƣợng thơ ca. Hàn đã tái tạo họ trong thơ bằng cả

những rung động của một trái tim yêu lẫn những đắm say của một hồn thơ. Những vật liệu

thực tại đƣợc

96

tinh chế trong ánh sáng của lý tƣởng mà trở thành thi liệu riêng của Hàn Mặc Tử. Rồi họ tan

hóa, hóa thân vào một Hình Bóng Giai Nhân chung nhất, một chân dung tổng quát nhất :

Nàng Thơ, Thực ra, không phải đợi đến khi gặp đƣợc ngƣời yêu đầu tiên trong đời, trải qua

những cuộc tình thật sự trong đời, Hàn mới có họ. Với tƣ cách là ngƣời tình lí tƣởng, thì họ

đã bƣớc vào lòng Hàn Mặc Tử từ cái lúc Hàn từ một cậu bé chính thức trở thành một chàng

trai khí huyết, nàng đƣơcj vẽ ra theo cái “gu” lí thuyết nào đó. Cô nhiên, phải đen khí thực có

những cái tên Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Ngọc Sƣơng, Mai Đình, Thu Yến, Thanh Huy, Mỹ

Thiện, Thƣơng Thƣơng… kia thì lí thuyết với thực tế mới giao tình với nhau mà sinh thành

cái hình tƣợng Nàng Thơ của thi ca mình. Tự bấy giờ, những cái tên ấy đã dần thai vào mọi

hình tƣợng giai nhân trong thơ Tử.

2.2.3.1. Đƣợc Quách Tân thu gom từ nhiều bài thơ rải rác chủ yếu ở những bƣớc sáng

tác ban đầu (có cả những bài in trên “Thực nghiệp dân báo” từ 1931), rồi mãi sau khi Hàn

Mặc Tử qua đời mới in thành tập, nhƣng về tiến trình sáng tạo, Lê Thanh thi tập thƣờng đƣợc

các soạn giả xếp lên trƣớc tập Gái quê. Điều này hoàn toàn có lí. Bởi, về căn bản, phần thơ

này đƣợc viết theo lối cổ điển. Tuy nhiên, Lê Thanh thi tập thực ra chỉ là y phục cổ điển sắp

sửa thành tàn y của một hồn thơ đã sớm thuộc về diện sống của tự trào lãng mạn. Cho nên, ở

đó ít nhiều đã thấp thoáng hình bóng Nàng thơ. Trong hàng loạt bài nhƣ Hoa cúc, Hồn cúc,

Trồng hoa cúc, Cửa sổ đêm khuya, Đàn nguyệt, Vội vàng chi lắm, Gái ở chùa, Ca dao… ta

thấy thoáng những nét ẩn hiện bóng dáng Nàng đang “nép mặt trong hoa nói thì thầm”, với

những “Xiêm áo hôm nay chỉnh tế quá”. Có lúc xa xa “Rừng thiền thấp thoáng dạng quần

thoa”, có lúc gần kề “Trong veo làn nƣớc soi đôi mặt”, có lúc cất thành tiếng nói tự bạch

chân chất dễ thƣơng “Em đây không phải vụng về / Không ƣa trang

97

điểm để lòe anh đâu”… Tuy có khi đƣợc cảm nhận bằng những lời ngƣỡng mộ hào phóng –

“vẻ mặt khác chi ngƣời quốc sắc”, nhƣng xét đến cùng gƣơng mặt Nàng vẫn là gƣơng mặt

Gái Quê.

Dƣới những bút danh nhƣ Lê Thanh, Minh Duệ Thị, Bích Ngọc, Mộng Cầm.v.v…

Hàn Mặc Tử đã có thơ in rải rác trên các báo chí “Sài Gòn”, “Công luận”, “Sài gòn văn

chƣơnG”… vào năm 1935. Có nhiều bài sau này không thấy có mặt trong các tập thơ của thi

sĩ. Nhƣng xem xét sự vận động trong thế giới hình tƣợng, trong tƣ tƣởng Hàn Mặc Tử, thì

không thể không tính đến phần thơ này. Nhìn bao quát, phần thơ này gắn với Gái quê hơn là

Lệ Thanh thi tập. Và ngay trong những bài này, Nàng Thơ của Hàn đã tƣợng hình qua những

nét phác đầu tieê. Nhƣng gì về sau sẽ rõ nét trong Gái quê, thì ở đây đã thấy đậm nhạ tỏ mờ.

Bằng cái nhìn cụ thể, có thể thấy ở đó dáng hình, những cô gái bên sông Hƣơng: Cô

lái đò “Trên dòng Tiểu kim thủy”, trong “Đêm khuya tự tình với sông Hƣơng”, cô bé “ Chƣa

biết yêu”, Thiếu nữ “Trên cầu Tràng Tiền”, Cô bán trầu, cô bán chè bông cỏ, Cô Bích

Ngọc.v.v… Hàn Mặc Tử rất ít tả thực. Vẻ đẹp trực quan của đối tƣợng thƣờng chỉ là đôi ba

đƣờng nét ít ỏi quyện vào dòng chảy say đắm của cảm xúc. Cũng có trƣờng hợp hiếm hoi thi

sĩ tả thực, thì ta có dịp thấy rõ hơn một chút bức chân dung của một Nàng Thơ. Ở đó nàng

hiện ra nhƣ một vẻ đẹp Xuân Tình Trinh Bạch hoàn toàn tƣơng phản vứi cuộc đời phàm tục,

thây kệ những lời xuyên tạc xiên vẹo của đám ngựa xe, đàn ông đàn bà cằn cõim đám quan

non, quan già hãnh tiên, của những a chàng làm dỏm làm duyên của đám Tây Tàu xí xộ :

“Lớp lớp ngựa xe qua/ Đờn ông với đờn bà / Biết bao cô áo tím / Nƣớc da trắng nõn nà… Tà

áo gió lung lay / Nhìn xem cũng hay hay / Cô e dƣờng đỏ mặt / Bẽn lẽn làn tóc bay…” Hoặc

một chân dung khá kỉ khác của cô đò đƣa trên dòng Tiểu kim

98

thủy : “Dải lụa đào phất phơ / Mùi hƣơng bay vẩn vơ / Sa đà trên mặt nƣớc / Tiếng hát cô đò

đƣa / Tiếng ca nhƣ thiết tha / Đắm đuối theo dòng nƣớc/ Trong sƣơng mờ tan ra / Trong

thuyền cô gái tơ / Đôi mắt nhƣ lờ đờ / Làn nƣớc trong phản chiếu / Khuôn mặt còn ngây

thơ…. – Làn sóng rung rinh động / Bồi hồi tâm nữ lang”. Trong ảnh hình những Nàng Thơ

ấy, có thể thấy những nét đẹp cứ trở đi trở lại nhƣ là không thể thiếu và đƣợc tô bằng những

nét bút rất đậm. Ấy là nét ngây thơ : “Em nhƣ trái đào tơ / Đôi mắt còn ngây thơ” (Chƣa biết

yêu), “Làn nƣớc trong phản chiếu / Gƣơng mặt còn ngây thơ” (Trên dòng Tiểu kinh thủy),

“Ai ơi, thèm lắm cái yêu đƣơng/ Của khác ngây thơ thƣờng nhớ thƣơng” (Chạy theo hạnh

phúc), “Rồi ra duyên thắm lâu dài / Trăm năm ghi lấy những lời ngây thơ” (Cô gái bán

trầu)… Đó là tấm lòng thanh khiết đƣợc ví với nƣơc hồ thu, với nƣớc Ngọc Tuyền : “Sen

phơi nắng hạ hƣơng càng thắm / Bùn lóng hồ thu nƣớc vẫn trong” (Cô Bích Ngọc trả lời), “

Lòng em nhƣ nƣớc ngọc tuyền / Tình em nhƣ miếng “trầu nguồn” anh ơi” (Cô gái bán trầu),

“Em là nƣớc ngọc tuyền / Trôi lại trốn Đào Nguyên” (Chƣa biết yêu)… Nƣớc da thì trắng

nõn, đôi má thì đỏ hồng đào…Lòng yêu khi thì phát lộ ra qua sắc má hồng dào, sắc da trắng

nõn, khi thì thấp thoáng trong làn tóc đuôi gà, khi thì hiển hiện trong dáng điệu ngây tình, khi

thì cất lên thành tiếng ca bồi hồi tha thiết, thanh khúc li tao: “Em là Nàng Li Tao / Tiếng hát

dƣờng thấp cao/ Chen lấn trong cành lá / Khiến lòng ai dạt dào” (Chƣa biết yêu), “Lí tao

trong gió đƣa ra / Với mùi hƣơng ƣớp sà sà trên không” (Vẩn vơ)… Mà chung quy những vẻ

đẹp của những Nàng ấy có thể gộp lại trong cái ẩn dụ của chính thơ Tử : “Quả mai ba bảy

đƣơng vừa lứa / Bến nƣớc mƣời hai vẫn cắm sào” (Kén chồng). Và Tử gọi chung bằng cái

cụm từ “khách ngây thơ”. Song, cần hiểu rằng chữ “ngây thơ” của Tử có một hàm nghĩa

rieêg. Không hẳn ngây thơ bé dại, non nớt, ấu trĩ. Trái lại, phải là Ngây Thơ đầy Xuân Tình :

“Của khác ngây thơ thƣờng nhớ thƣớng / Trong lúc tình xuân phơi phới

99

lòng:. Bởi thế, thực chất, “Ngây thơ” của Tử có nghĩa là Trinh bạch thanh khiết. Từ những

thực tế ấy, có thể thấy, tuy chỉ mới ở những bài thơ đầu tay, với những phác thảo ban đầu,

nhƣng hình tƣợng Nàng Thơ qua vai nhân vật cụ thể ấy đã sớm định hình trong cái vẻ chung

nhất: Trinh Khiết mà Xuân Tình. Đây là những nét căn cốt của vẻ đẹp Nàng Thơ. Vẻ đẹp ấy

sẽ chính thức thành khuôn mẫu qui phạm, thành chuẩn mực mang đậm dấu ấn quan niệm

riêng của Hàn Mặc Tử trong Gái Quê.

2.2.3.2. Nhƣ cái tên của nó, hình tƣợng bao trùm cả tập thơ vẫn đƣợc xem là đầu tay

này chính là Gái quê. Bên cạnh những nàng thị dân tiểu tƣ sản, những cô hàng xén răng đen,

những cô ca kỉ… thì những cô gái quê cũng là nhân vật rất quen thuộc của văn học đƣơng

thời, nhất là Thơ mới. Nguyễn Anh cũng hƣớng tới vẻ đẹp gái quê. Nhƣng trong quan niệm

của tác gải chân quê này thì Gái quê có một hàm nghĩa xác định : chỉ những cô gái mang

trong mình những nét truyền thống của chốn quê mùa, đối lập với thành thị: Hoa chanh nở

giữa vƣờn chanh / thầy u mình với chúng mình chân quê / Hôm qua em đi tỉnh về / Hƣơng

đồng gió nội bay đi ít nhiều… van em em hãy giữ nguyên quê mùa” Còn với Hàn Mặc Tử,

Gái quê có một hàm nghĩa riêng : Đó là những cô gái Trinh bạch mà Xuân tình, Tập thơ

mở ra bằng bức chân dung khá đầy đặn của Gái quê :

Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sử

Tôi đến nhận thấy trên môi em

Làn môi mong mỏng tƣơi nhƣ máu

Đã khiến môi tôi mấp máy thêm

Từ lúc tóc em bỏ trái đào

Tới chừng cặp má đỏ au au

Tôi đều nhận thấy trong con mắt

Một vẻ ngây thơ và ƣớc ao

100

Lớn lên em dadx biết làm duyên

Mỗi lúc gặp tôi che nón nghiêng

Nghe nói ba em chƣa chịu nhận

Cau trầu của khách láng giềng bên

Lung linh khắp cả bức chân dung gái quê này rõ ràng là vẻ Xuân Tình. Sắc xuân nồng

thắm chủ yếu là bừng sáng lên trên gƣơng mặt chớm dậy thì. Mà tƣơi non thấm sắc nhất hẳn

là làn môi. Ta có thể thấy vẻ xuân tình của thiếu nữ đã đánh chiếm hoàn toàn lòng trai khí

huyết Hàn Mặc Tử ngay ở câu đầu dồn đập hổn hển : “Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sử”. Đôi

mắt nồng nàn rạo rực của thi sĩ đã nhìn xoáy vào một điểm, ấy là đôi môi đỏ. Tất cả vẻ xuân

thắm, căng mọng và trinh bạch kia là ánh lên từ điểm ấy thôi – “Làn môi mong mỏng tƣơi

nhƣ máu / đã khiến môi tôi mấp máy thêm”. Nàng Thơ của tập “Gái quê” đã đƣợc đặc tả nhƣ

thế. Hình ảnh của nàng sẽ in chiếu xuống mọi bài thơ, lồng vào nhiều gƣơng mặt khác.

Vẻ xuân tình của làn môi thắm, của má hồng đào còn tiếp tục đƣợc điểm tô trong suốt

tập Gái quê. Này là gƣơng mặt thấp thoáng sau rào tràn ngập nắng tƣơi : “Hơi nắng dịu dàng

đầy nũng nịu / sau rào khẽ liếm cặp môi tƣơi / Môi tƣơi thiếu nữ vừa trang điểm / Nắng mới

âm thầm muôn skết hôn / Đƣa má hồng hào cho nắng nhuộm/ Tình thây ! một vẻ ngọt và

ngon…” (Nắng tƣơi). Này là “Đôi má đỏ bừng khiến thí sĩ phải chỵa theo sau mãi” (Tôi

không muốn gặp). Này là “đôi má đỏ hây hây” khi nàng thêu thùa vá may (Duyên muộn)…

Đối với Hàn Mặc Tử, sắc má hồng hào, ửng đỏ, đỏ hƣờm là tín hiệu của xuân chính,

tiìn chín bên trong đang phát lộ ra ngoài. Điều này là nhất quán trong mọi tập thơ. Không

phải chỉ ở những tập thơ về sau, mà ngay cả ở những bài thơ đầu tay này khi thi sĩ chƣa hề bị

bệnh phong, chúng ta đã thấy hết sức phổ biến. Sự thực này chứng tỏ những ý kiến cho rằng

Hàn Mặc Tử

101

miêu tả sắc má thiếu nữ đỏ hƣờm là dấu ấn từ cái nhìn đầy ẩn ức của một bệnh nhân phong

[143, 161], là hòan toàn gán ghép suy diên. Say theo vẻ đẹp Xuân tình, trong tập thơ này,

Hàn Mặc Tử thƣờng miêu tả ở các thiếu nữ những nét gợi tình – nó nhƣ là cái trạng thái sung

mãn tràn bờ của vẻ Xuân Tình đó/ Không chỉ là những biểu hiện bên trong thầm kín nhƣ là :

Ƣớc ao, Khát khao, nhị…,mà nó còn hiện ra ở dáng điệu, động thái bên ngoài: Ngây tình,

Phậ phồng, Lả lơi…Hơn thế nữa, ta còn dễ hấy ở Gái quê những nét đẹp đầy nhục cảm –

“Xuân em hơ hở đào non / Chàng đã thƣơng em muốn kết hôn/ Từ ấy xuân em càng chín

ửng”. Nhƣng vẻ đẹp của thân xác, của da thịt, những dáng điệu đầy khêu gợi nhƣ “Bóng

nguyệt leo song sờ sầm gối / Gió thu lọt cửa cọ mài chăn” trƣớc kia, giờ đây càng “khiêu

khích” hơn nữa. Nào “đôi má nõn” (Duyên muộn), nào “sắc đẹp nõn nà hay quyến luyến /

làm tôi hoa mắt nói không đều”(Tôi không muốn gặp), nào “ống quần vo xắn lên đầu gối/ Da

thịt trời ơi ! Trắng rợn mình” (Nụ cuời), nào là “Trăng nằm sõng soài trên cành liễu / Đợi

gió đông về để lả lơi” (Bẽn lẽn)… Và cứ theo đà ấy, Hàn Mặc Tử đi tới mô tả vẻ đẹp Xuân

Tình của những nàng Gái quê qua những bức tranh khỏa thân, theo môtip thiếu nữ tắm hết

sức quen thuộc, là điều dễ hiểu. “Tôi cũng trông thấy ngƣời tôi yêu/ Ngồi cạnh suối trong cởi

yếm đào / Len lén đƣa tay vốc nƣớc rửa / Trong khi cành trúc động và xao” (Tôi không

muốn gặp), “Cô gái ngây thơ nhìn xuống hồ / Nƣớc trong nổi bật dáng hình cô / Nụ cƣời

dƣới ấy và trên ấy / Không hẹn đồng nhau nở lặng lơ” (Nụ cƣời). “Bóng lằng trong chén ngả

nghiêng/ Lá lơi tắm mát làm duyên gợi tình”(Uống trăng)… Và nếu không theo hƣớng đi của

nhu cầu “biểu hiện sắc dục một cách mạnh mẽ và cƣờng tráng” (Chữ dùng của Ăngghen) ấy,

Hàn Mặc Tử không thể sáng tạo nên bức chân dung thiếu nữ khỏa thân bằng thơ trong trăng

nƣớc vừa táo bạo mà lành mạnh, vừa hƣ thực mà lộng lẫy đến lạ lùng ngơ ngẩn hiếm thấy

trong thi ca hiện đại này : “Ô kia, bóng nguyênt trần truồng tắm / Lộ cái

102

khuôn vàng dƣới đáy khe” (Bẽn lẽn).Cái nhìn cố chấp theo một quan niệm mĩ học xƣa cũ về

vẻ đẹp thiếu nữ, tất nhiên, sẽ thấy “ức chế” rƣớc những bức tranh nhƣ vậy. Ngƣời ta có thể

cho rằng chữ “trần truồng” dễ gợi cảm giác dung tục. Bởi nó là sản phẩm của cái nhìn chứa

đựng ham muốn dục tình. Nhƣng không hẳn thế. Ở trên kia, khi trình bày “Quan niệm thơ”

của Hàn Mặc Tử, ta đã có dịp thấy rõ quan niệm của thi sĩ về tình cảm và tình dục. Ham

muốn về thân xác vẫn là thứ ham muốn lành mạnh của mọi tấm lòng trần thế, vẫn “nằm trong

điều răn của Đức chúa trời”. Làm sao có thể hình dung đầy đủ về tình yêu của con ngƣời nếu

thiếu đi điều ham muốn ấy. Nó trần tục chứ đâu có dung tục. Bởi thế cho nên có thể nói : gợi

tình chính là dáng nét không thể thiếu của vẻ đẹp Xuân tình vậy.

Song, trong tính toàn vẹn của nó, vẻ Xuân tình trong những cô gái quê kia bao giờ

cũng gắn liền với sự Trinh bạch. Trinh bạch là điều kiện, thậm chí là thuộc tính của vẻ

Xuân tình, theo quan niệm Hàn Mặc Tử. Xuân tình trần trề đến độ phát lộ ra ngoài hơ hớ

nhƣ là “khiêu khích” thế nhƣng trƣớc sau nó vẫn cứ là, vần phải là một tấm tình trinh khiết,

phong nhụy, chƣa thuộc về ai, chƣa một lần trao gửi. Họ cứ xuân tình một cách tinh khôi.

Hàn Mặc Tử có lúc thể hiện điều đó bằng lối đề cập trực tiếp đến sự trinh nguyên trinh tiết

“Em là bóng trăng thinh ! Hình ảnh gái đồng trinh” (Chƣa biết yêu), có lúc lại đề cập bằng

lối nói ý nhị : “Nghe nói ba em chƣa chịu nhận / Cau trầu của khách láng giềng bên” (Gái

quê). Cũng nhƣ ở những phần thơ trƣớc, sự trinh bạch đƣợc Hàn Mặc Tử diễn đạt bằng vẻ

ngây thơ : “Cô gái ngây thơ nhìn xuống hồ”. “Ngây thơ nhƣ đứa trẻ lên ba”.... Và bắt đầu từ

đây, Vẻ Xuân tình mà Trinh bạch đƣợc biểu hiện bằng một kết hợp độc đáo rất Hàn Mặc Tử :

ấy là vẻ Ngây thơ và Ƣớc ao “Từ lúc tóc em bỏ trái đào / Tời chừng cặp má đỏ au au / Tôi

đều nhận thấy trong con mắt / Một vẻ ngây thơ và ƣớc ao”. Nếu Ƣớc ao là Xuân tình thì

Ngây thơ là Trinh bạch. Hai

103

thái cực ngỡ nhƣ khó mà kết hợp đƣợc lại đã kết hợp trong vẻ đẹp Gái quê. Nên tiết trinh là

điều e ấp sâu kín nhất của Nàng. Cho dù chỉ là vô tình để một ngọn gió hôn lên má thôi cũng

đủ khiến Nàng day dứt vè sự trinh trắng của mình : “Vô tình để gió hôn lên má / Bẽn lẽn làm

sao lúc nửa đêm / Em sợ lang quân em biết đƣợc / Nghi ngờ đến cái tiết trinh em” (Bẽn lẽn).

Nhƣ thế, từ những phần thơ đầu tiên qua “Lệ thanh thi tập” đến “Gái quê”, có thể thấy

hình tƣợng Nàng thơ của Hàn Mặc Tử càng ngày càng rõ nét. Trên cái “mẫu số chung” là

Xuân tình và Trinh khiết, cũng đã thay những nét vận động. Vẻ đẹp gợi tình mang đầy tính

nhục cảm ở những phần thơ trƣớc còn loáng thoáng, nhạt mờ. Đến “Gái quê”, Nhục cảm đã

trở thành một vẻ đẹp nổi bật đầy ấn tƣợng. Thậm chí, nhục cảm đẫ làm nên sức sống, làm nên

cái hơi thở sự sống nồng nàn cho hình tƣợng Nàng thơ “Gái quê”. Điều này, dễ hiểu. Ở

những phần thơ trƣớc, dầu sao cảm xúc thi ca của Hàn Mặc Tử vẫn ít nhiều bị bó buộc trong

cái khuôn qui phạm cổ điển. Dù cá tính có táo bạo đến mấy, cũng khó biểu hiện đƣợc thỏa

mái những cảm xúc về da thịt thân xác, vốn bị ý thức mĩ học của nó xem nhƣ dâm tục hạ

đẳng. Còn “Gái quê” là một tập thơ lãng mạn hoàn tòan. Xúc cảm cá nhân đòi hỏi và đã đƣợc

giải phóng khỏi sự kìm hãm của tính qui phạm. Xúc động trƣớc vẻ đẹp thân xác của con

ngƣời là một cảm xúc nhân văn không thể thiếu trong đời sống của mỗi cá nhân cá thể. Một ý

thức mĩ học mới đã đƣợc xác lập vững chắc cho những cây bút lựa chọn trào lƣu lãng mạn.

Ngòi bút của Hàn Mặc Tử thoát hẳn ra khỏi cái bóng đè của ý thức mĩ học cũ. Vả chăng, lúc

này, Từ đang là một ngƣời trai mạnh mẽ khí huyết, nồng nàn những khao khát yêu đƣơng. Cả

chàng tình nhân lẫn chàng thi nhân đều ngất ngây trƣớc vẻ Xuân tình song lộng phát lộ ra

trên hình thể, trên da thịt Nàng Thơ. Và vì thế, Tử đã có “Gái quê”, cả vể Xuân tình lẫn sự

Trinh bạch của Nàng đều đầy sức hấp dẫn trần thế.

104

2.2.3.3. Nhƣng, nhƣ đã có ý kiến nhận xét : Đau thƣơng mới là tập thơ quan trọng

nhất của Hàn Mạc Tử. Tất cả dƣờng nhƣ đều chín nhất ở đây. Hình tƣợng Nàng Thơ cũng

vậy. Bức chân dung của Nàng đầy đặn nhất, sắc nét nhất là trong Đau thƣơng. Vẫn thấy thấp

thoáng bóng dáng những cô thôn nữ bƣớc từ Gái quê sang. Nhƣng bên cạnh đó còn thấy bao

hình bóng giai nhân. Nào những Chiêm nữ (Lời ca Chiêm nữ / tản với sƣơng lam), Sơn nữ

(Ơi cô sơn nữ / hết gì ánh trăng), Nào ngƣời thục nữ (Bóng ngƣời thục nữ ẩn trong mơ /

Trong lá trong hoa khói bụi mờ), ả thuyền quyên (Tôi ƣng ả thuyền quyên / ở trong pho tình

sử), nào những ngƣời ngọc (Ô hay ngƣời ngọc biển ra hơi), những mĩ nhân (Chậm đi cho kẻ

tôi yêu dấu / Vẫn giữ màu tuơi một mĩ nhân), những tiên nữ (Mặt trời mai ấy đỏ ong / Nàng

tiên hóng mát trên hòn cù lao), Những ni cô ( Cho tôi lòng ni cô), những Tây Thi (Tây Thi

nàng hỡi bao nhiêu tuổi / Vẻ đẹp mê tơi vẫn nõn nà), những Lệ Kiều (Lệ Kiều ơi em còn giữ

ý thơ / Trong đôi mắt mùa thu trong leo lẻo), nhƣng có khi họ hiện ra nhƣ một đám thôn nữ

(Bao cô thôn nữ hát trên đồi), họ là ngƣời con gái gánh thóc (Chị ấy năm nay còn gánh thóc /

Dọc bờ sông trứng nắng chang chang), họ là khách đƣờng xa (Mơ khách đƣờng xa khách

đƣờng xa / áo em trắng quá nhìn không ra). v.v… Nhƣng, nhìn cho kĩ, họ đều là những nét

mặt những tên gọi khác nhau của đám xuân nữ đƣơng thì xuân chín, là những hiện thân khác

nhau của nàng thiếu nữ đƣơng dậy thì dƣới ánh trăng xuân. Vẻ xuân tình ở đây đƣợc đề cập

đầu tiên và đƣợc xem nhƣ là khởi nguồn cho mọi vẻ đẹp thiếu nữ của Nàng “Vui thay cảnh

sáng trăng / Ái tình bắt đầu căng”. Ái tình bắt đàu căng là lúc mùa xuân đang chín. Xuân tình

chín, nó phát lộ ra ngoài thành Hƣơng tình “Hoa thơm thì nín lặng / Hƣơng thơm thì bay

lan”, thành hơi thở “Em tôi thì hổn hển / Áo xiêm lấm tấm vàng”, phát lộ ra thành hào quang

trong sắc áo, một thứ tình sắc – “áo xiêm lấm tấm vàng”, nó cất lên thành tiếng hát, hay tình

ca, khúc tình ca cứ lan mãi – “Đó là khúc tình ca / Nảy theo

105

hơi thở nhẹ”, và thế giới bao quanh nàng cũng thành thế giới của luyến ái tình si – “Đêmnay

trăng đang tuổi / Năm nay em dậy thì / Làm sao không quyến luyến / Hoa gió đã si tinh”. Tuy

nhiên, vẫn hết sức nhất quán, vẻ Xuân tình bao giờ cũng gắn liền với sự Trinh bạch. Vẻ Trinh

bạch ở cô gái áo xiêm lấm tấm vàng này đƣợc diễn tả một cách ý nhị : “Em tôi cong ngẫm

nghĩ / Chƣa thấy nói năng chi”. Chung qui, có lẽ đây là hình ảnh toàn vẹn nhất của Nàng

Thơ Hàn Mặc Tử : Vui thay cảnh sáng trăng / ái tình bắt đầu căng / Hoa thơm thì nín lặng /

Hƣơng thơm chỉ bay lan / Em tôi thì hổn hển / áo xiêm lấm tấm vàng / Em tôi đã hiểu chƣa /

Đó là khúc tình ca / Nảy theo hơi thở nhẹ / Ở trên làn dây tơ / Của lòng em rộng rã / Khi mới

học đòi mơ / Đêm nay trăng đúng tuổi / Năm nay em dậy thì / Làm sao không quyến luyến /

Hoa gió đã si tình / Em tôi còn ngẫm nghĩ / Chƣa thấy nói năng chi.

Dầu sao trong bức chân dung trên đây, phần ƣu thế vẫn thuộc về vẻ Xuân tình. Chúng

ta lƣu ý, khi mô tả chân dung Nàng thơ của mình, Cái vẻ đẹp cuốn hút ngòi bút Hàn Mặc Tử

trứoc hết là vẻ đẹp của Xuân sắc chứ không phải vẻ đẹp của Nhan sắc nhƣ là hình thức thuần

túy. Tức là, Vẻ đẹp theo quan niệm của Hàn Mặc Tử dứt khoát chứa đựng sự Tình tứ. Hay

khác đi là : cái lõi của vẻ đẹp Hàn Mặc Tử là Tình. So với “Gái quê”, vẻ Xuân Tình hiện ra

qua những cảm nhận mang tính nhục cảm ở Nàng Thơ Đau thƣơng có phần ít hơn và cũng ít

táo bạo hơn. Ta vẫn thấy những “sắc đẹp mê tơi vẫn nõn nà”, vẫn thấy “xuân trên má nàng

thơ / ngon nhƣ tình mới cắn”, vẫn thấy “em tôi thì hổn hển”.v.v… Nhƣng tính chất gợi tình,

gợi những ham muốn sắc dục rõ ràng đã dịu đầm đi, không còn “bốc lửa” lắm.

Song song và trái ngƣợc chiều hƣớng ấy là sự tô đậm đối với vẻ Trinh bạch. Trong

tập Đau thƣơng này, Hàn Mặc Tử sẽ có dịp nói nhiều hơn, lạ lùng hơn về vẻ Trinh bạch của

Nàng thơ. Ta có thể thấy khá rõ trong hàng loạt bài : Tối tân hôn, Thời gian, Ngƣời ngọc…

Nhƣng có lẽ đứng vào vị trí

106

trung tâm của tập Đau thƣơng nói riêng và Thơ Hàn Mặc TỬ nói chung là hình ảnh Cô gái

đồng trinh. Thi sĩ mô tả một thiếu nữ vừa chết. Nhƣng cảm hứng không phải theo chiều

hƣớng bình thƣờng là bày tỏ nỗi xót thƣơng. Trái lại, cái chết của một cô gái đồng trinh, đối

với thi sĩ, có lẽ là một trong những cái chết đẹp, hơn thế nữa, là một trong những cái đẹp. Lí

do duy nhất khiến nó trở nên đẹp là bởi “Trinh tiết vẫn còn nguyên vẹn mới / Chƣa hề âu yếm

ở đầu môi”. Vì lí do ấy mà Thi sĩ nhận ra cả một thứ mà có lẽ không ai cảm thụ ở một thi thể.

Đó là hƣơng thơm. Song, không phải là một thứ hƣơng cụ thể thông thƣờng nào. Trái lại, nó

là thứ hƣơng kì diệu: Xác cô thơm quá, thơm hơn ngọc / Cả một mùa xuân đã hiện hình /

Thinh sắc cơ hồ lƣu luyến mãi / Chết rồi – xiêm áo trắng nhƣ tinh. Đọc Hàn Mặc TỬ, chúng

ta dễ thấy điều này : ngọc là một chất liệu, một đối sánh đặc biệt. Thƣờng khi nào Tử có nhu

cầu tuyệt đối hóa một đối tƣợng nào đó, ông mới đem nó ra để so sánh với ngọc. Ngọc cũng

mang trong nó cái quan niệm Tột bậc của Hàn Mặc Tử. Ở đây cũng vậy. So sánh hƣơng với

ngọc, có vẻ nhƣ vô lí. Đó không phải so sánh theo tƣơng quan đồng loại. Bởi ngọc không có

hƣơng. Đó là hƣơng thơm của sự trinh trắng – “Xác cô thơm quá, thơm hơn ngọc”. Nó là thứ

hƣơng siêu việt. Những gì lộng lẫy, cao đẹp, quí giá nhất trong cõi trần gian này cũng không

thể bằng đƣợc. Cũng nhƣ thế, xiêm áo của cô gái đồng trinh phải là một sắc trắng mà không

có sắc độ trắng quen dùng nào có thể diễn tả đƣợc. Bởi nó không phải là sắc màu của y phục

bên ngoài, mà là ánh sắc hiển hiện của sự trinh bạch. Thế là, thi sĩ phải lạ hóa một sắc trắng

thông thƣờng để mong diễn tả sắc trắng của trinh khiết : “Chết rồi – xiêm áo trắng nhƣ

tinh”. Tuy nhiên, điều cần nói là nàng chếta không chỉ mang đi nguyên vẹn sự trinh bạch, mà

còn mang đi nguyên vẹn một tấm tình đƣơng cấp phong nhụy - tấm tình ấy, kì lạ thay, chính

là dành cho thi sĩ : “Té ra nàng sắp sửa yêu ta / Bao nhiêu mơ ƣớc trong tim ấy / Nhƣ đợi

xuân về thổ lộ ra”. Hàn Mặc Tử thấy ở nàng những điều mà mình mơ ƣớc - ấy là một “vẻ

trắng trong nguyên vẹn”, ấy là một “nguồn tƣơi”

107

Mà tựu trung Nàng là hiện thân của vẻ Xuân tình mà Trinh bạch, Trinh bạch mà Xuân tình

tuyệt đối.

Cùng trong Đau thƣơng, chúng ta thấy hình tƣợng Nàng Thơ thật sự toàn vẹn trong

một mối hài hòa giữa Xuân tình và Trinh Khiết mà nhiều khi đƣợc biểu hiện dƣới một dáng

vẻ nhƣ là nghịch lí. Xuất phát từ cái quan hệ gốc rễ này mà trong thơ ông có những kết hợp

độc đáo. Chẳng hạn khi nói về vẻ đẹp xuân nữ : “Tôi đều nhận thấy trong con mắt. Một vẻ

ngây thơ và ước ao”. hay “Thầm thì với ai ngồi dƣới trúc, nghe ra ý vị và thơ ngây”, hay

“Cô gái ngây thơ nhìn xuống hồ. Nƣớc trong nổi bật dáng hình cô. Nụ cƣời dƣới ấy và trên

ấy – Không hẹn đồng nhau nở lẳng lơ”… đặc biệt là sự kết hợp kì dị gây khó hiểu đến độ nổi

tiếng này ở tập Đau thương: “Mới lớn lên trăng đã thẹn thò – Thơm nhƣ tình ái của ni cô”.

Tại sao lại có thể nói đến tình ái của ngƣời tu hành ? Thì ra, nói Tấm tình ái trong lòng một ni

cô là nói đến tình ái trinh khiết và thiêng liêng. Cũng giống nhƣ ái tình trong lòng Cô gái

đồng trinh. Chứ không phải một kẻ tu hành bỗng nảy sinh tình ái. Ở một chỗ khác Hàn Mặc

Tử sẽ viết : Cho tôi hoa đền ngự / cho tôi lòng ni cô / xuân trên má nƣờng Thơ…” “Ni cô”

với Hàn, rõ ràng mang một hàm nghĩa riêng. Nó là hình ảnh lạ, là cách nói lạ về sự “trắng

trong nguyên vẹn” của Xuân Tình. Còn :ngây thơ, ni cô… chỉ là những cách biểu thị khác

nhau của “vẻ trắng trong nguyên vẹn” của Trinh Khiết Trinh bạch. Tình ái ni cô – Đó là

nghịch lí, là một hiện thân lạ lùng của vẻ đẹp Xuân Tình mà Thanh Khiết, có thể nói là một

nghịch lí rất Hàn Mặc Tử. Không nắm đƣợc cái “mẫu gốc” kia, ta khó mà giải đƣợc.

2.2.3.4. Hai tập thơ tiếp sau Đau thương là Xuân như ý và Thượng thanh khí.

Theo nhận định của nhiều nhà nghiên cứu về phƣơng diện khuynh hƣớng sáng tác thì : đến

hai tập thơ này Hàn Mặc Tử đã đi từ Tƣợng trƣng

108

sang bến bờ Siêu thực. Theo tái hiện của Quách Tấn thì cả hai tập này đều đƣợc viết trong

năm 1939. Sang năm 1940, một nguồn thơ mới, “nguồn thơ bất tuyệt”, “nguồn thơ vĩnh viễn”

đến với Hàn, ấy là sự xuất hiện của Thƣơng Thƣơng. Thế là nguồn Thƣơng Thƣơng đã liền

đem đén cho ông một tập thơ là Cẩm châu duyên (Trƣớc định đặt tên là Thƣơng Thƣơng)

và hai kịch thơ là Duyên kì ngộ và Quân tiên hội. Theo các tài liệu hiện hành, Cẩm châu

duyên chỉ thấy có hai bài. Phần vì dở dang do ông đang soạn thì có tin “không đƣợc tốt”

(Chữ dùng của Quách Tấn) từ phía “ngƣời ta”, nên đã bỏ dở, phần vì thất lạc do quá trình lƣu

giữ. Là ngƣời đƣợc đọc đầy đủ hơn cả, Quách Tấn nhận xét: “Thơ trong Cẩm châu duyên

nhẹ nhàng nhƣng đậm đà” [163,40]. Nhƣng với hai bài còn lại, thì có thể thấy rằng, về căn

bản, chúng vẫn thuộc cái văn mạch Xuân nhƣ ý và Thƣợng thanh khí. Và ta có thể thấy đƣợc

tính thống nhất đến kì lạ của quan niệm mĩ học Hàn Mặc Tử : Trong thực tế, Đau thƣơng,

Xuân nhƣ ý và Thƣợng thanh khí là thuộc “giai đoạn Mộng Cầm”, còn Cẩm châu duyên

thuộc “giai đoạn Thƣơng Thƣơng”, tuy vậy hình tƣọng Nàng Thơ ở đây vẫn thế, vẫn với hai

nguồn sáng Trinh khiết và Xuân tình. Cố nhiên, về sắc thái và hình thức biểu hiện, có những

nét mới. Hàn có nói đến những nàng cung nữ, thục nữ, thuyền quyên… của những mối trần

duyên. Đây đó vẫn còn thấy thoáng những nét đời “Nói chi Nƣờng là gái đông lân / Buồng

không ra xiêm áo sƣợng sân… Nên ân tình nổi máu trên môi…Còn em nửa lòng chƣa biết nói

/ Đôi mắt còn nguyên vẹn một mùa thơ” (Cƣới xuân, cƣới vợ), “Có tôi vô sự trong thiên hạ /

Cƣới hết thuyền quyên tuổi dậy thì” (Nói tiên tri), “ Say thôi gò má đỏ dần lên” (Mơ

duyên)… Nhƣng ngƣời thục nữ đƣợc vẽ ra đang xa dần trần giới : “Ta đắm mê trong ánh

sáng trần duyên / Và van lạy xin cô nàng kết ngãi /… Ngƣời thục nữ sanh giữa trời vô

thƣợng” (Phan thiết ! Phan thiết)… Thế giới

109

những gái quê dƣờng nhƣ đang lùi dần (Những nàng xa từ thuở vu qui) để nhƣờng chỗ cho

những hình ảnh khác. Những nàng con gái ở tít bên Hàn giang, ở trong cõi mộng đem đén

cho Tử một duyên kiếp phụ phàng (Anh nằm ngoài sự thực / Em ngồi trong chiêm bao),

những em điên (Em xé toang hơi gió / Em bóp nát tơ trăng / Em túm muôn trời lại/ Em cắn

vơ hƣơng ngàn...)… Thực ra đó toàn là những giai nhân đã thuộc về một cõi trời cách biệt.

Đáng chú ý là trong tập này sự xuất hiện của những Thánh nữ. Thánh nữ đồng trinh Maria là

một biểu tƣợng bất diệt hằng sống trong tâm linh Hàn Mặc Tử về vẻ trinh bạch thiên thần –

trinh bạch Tột cùng. Càng nghĩ đến những đớn đau của mình trong trần duyên với những phụ

phàng, phụ rẫy, Tử càng nghĩ, càng hƣớng về Đức mẹ, dƣờng nhƣ Ngƣời là sự cứu rỗi duy

nhất, là đấng hằng tin duy nhất : “Lạy Bà là Đấng trinh tuyền thánh vẹn / Giàu nhân đức giàu

muôn hộc từ bi… Là nguồn trăng yêu mên Nữ Đồng Trinh / Là nguồn đau châu lụy Nữ Đồng

Trinh.. Tấu lạy bà, lậy bà đầy ơn phƣớc / cho tình tôi nguyên vẹn tợ trăng rằm… Sẽ ngây

ngất bởi chƣng thơ đầy ý/ Nguồn thiêng liêng yêu chuộng Mẹ Sầu Bi”. Có sự dịch chuyển

này trong hình ảnh Nàng Thơ, cố nhiên, là có căn nguyên của nó. Do cái tặng tinh thần riêng

và do cảnh ngộ bi đát rất riêng. Hàn Mặc Tử đặt niềm kì vọng của mình vào tình yêu của

những ngƣời con gái. Họ có một ảnh hƣởng rất trực tiếp không chỉ tới trạng thái sống hằng

ngày, mà cả tới thế giới nghệ thuật của Tử. Những giao tiếp trong thế giới tinh thần hằng

ngày với họ dƣờng nhƣ đƣợc chuyển thẳng vào thơ ca. Nàng thơ trong các thi phẩm đƣợc viết

ra vào thời điểm ấy tựa nhƣ một phiên bản trực tiếp của các giai nhân ấy. Khi biết mình đang

đƣợc yêu, là biết mình đang còn đƣợc gắn bó với cuộc đời, thì những giai nhân ấy là điểm-

tựa - đời duy nhất nâng đỡ, tiếp nguồn sống cho tình thần Tử. Họ níu Tử lại cõi đời. Sự hiện

diện của họ trong thơ Tử là biểu hiện của nguồn sống đo. CÕn khi cảm thấy bị phụ rẫy, phụ

phàng, điểm- tựa - đời kia cũng mất. Tử cô đơn tuyệt đối. Mặc cảm chia lìa lại dâng lên.

Chàng tình nhân trong Tử dƣờng nhƣ tan nát. Những

110

mảnh vỡ của nó đã dồn tụ quanh con chiên Nguyễn Trọng Trí. Và thế là nó đƣợc hồi sinh

mạnh mẽ hơn trong một sắc thái mới, một mãnh lực mới. Nghĩa là Tử phải tìm kiếm một

điểm tựa khác cho thế giới tinh thần đầy cô đơn đau đớn của mình : Điểm tự trong nguồn

Đạo. Điểm tựa đó không thể là gì káhc hơn Đức Mẹ Đồng Trinh. Sự hiện diện của Thánh Nữ

trong thơ Tử là biểu hiện trực tiếp của sự đứt gẫy và bù đắp nó. Có thể nói, ở vào trung tâm

của cõi thơ Xuân Nhƣ ý và Thƣợng thanh khí, với những đậm nhạt mờ tỏ khác nhau là Hình

tƣợng Thánh nữ. Cũng thuộc về mạch dồn nén và giải tỏa thế này, bài thơ văn xuôi cuối cùng

“linh hồn thanh khiết” (Đƣợc viết bằng tiếng Pháp) là trƣờng hợp sáng tỏ nhất cho chân dung

Thánh nữ : “Hỡi các thiên thần, thiên thần của Chúa, thiên thần bình an và hoan lạc, mang

cho tôi xin một tràng hoa… có thấy chăng ánh hào quang tỏ dần, màu sắc trắng tuyết, hình

thể đồng trinh, linh hồn hiển hiện giữa loài ngƣời (…) hãy hoan hô các Mẹ và chị dòng

thánh Phan-xi-cô xuống giữa loài ngƣời mà an ủi chúng tôi, những kẻ trầm luân yếu đuối,

bệnh tật, hủi phung. Tôi muốn cao ngâm những lời ca ngợi đâm khát khao trong suối ngọt

ngào khi Chị, Mẹ cất tiếng hát: Hãy cứu vứoi chúng con ! Hãy cứu với chúng con” [162, 71-

72]. Từ hƣớng khảo sát này, có thể thấy những cảm nhận của Phan Xuân Sanh là hợp lí, khi

nhà nghiên cứu này phát biểu : “Hàn Mặc Tử quỳ trƣớc thánh Maria, chúng ta có cảm tƣởng

nhƣ ông đẫ quì trƣớc nàng thơ và hình ảnh nàng thơ với hình ảnh Maria đôi khi chỉ là một”

[35,42]. Rõ ràng hình ảnh Maria chỉ là một gƣơng mặt cụ thể và đặc biệ của Nàng thơ Hàn

Mặc Tử mà thôi. Động lực sâu xa khiến Tử dẫn thơ mình đến chầu lụy dƣới chân Thiên chúa,

trƣớc tiên, không phải xuất phát từ lòng đạo hạnh, mà chính là từ lí tƣởng thi ca. Điều này

giúp ta nhìn nhận đƣợc sự nhất quán trong tƣ tƣởng của thi sĩ cho dù hành trình thơ ấy có

diễn biến phức tạp nhƣ chuyển động Braonơ.

111

Song, cũng thời gian này, Hàn Mặc Tử còn viết hai kịch thơ là Duyên kì ngộ và

Quần tiên hội. Về mặt thể loại, thơ trữ tình và kịch thơ là hai thể khác nhau. Nhƣng kịch thơ

của Hàn Mặc Tử về thực chất cũng là thơ trữ tình trong y phục kịch mà thôi. Nó là thế giới

tƣởng tƣợng của chính mình và về chính mình, cho nên tràn đầy chất chủ quan. Quách Tấn đã

có nhận xét chính xác rằng : “Còn Duyên kì ngộ và Quần tiên hội là hai giấc mộng tình, mà

nhân vật không ai khác hơn là tác giả và Thƣơng Thƣơng” [163,40]. Bởi thế, hình tƣợng

Nàng Thở cũng đi từ thế giới các tập thơ xuyên qua thế giới kịch này.

Nếu ở Xuân nhƣ ý và Thƣợng thanh khí là thế giới mang đậm chất Kitô giáo, thì ở

đây xem ra lại thuộc về Đạo giáo, một thứ Đạo giáo dân gian hóa, đúng hơn là Hàn Mặc Tử

hóa. Các Thánh nữ đã nhƣờng chỗ cho các Nàng tiên. Trƣớc hết là nàng Thƣơng Thƣơng

trong Duyên kì ngộ. Nàng đƣợc vẽ trong hình ảnh một “ngƣời thục nữ tìm vào Thiên thai /

Duyên còn ngậm kín, tình hoài miên man”. Nghĩa là trắng trong nguyên vẹn nhƣng cũng đầy

khát khao Xuân tình. Vẻ Xuân tình tuy không đƣợc đặc tả bằng những cảm giác cực mạnh

của nhục thể nhƣ hồi “Gái quê”, nhƣng cũng tràn trề Xuân sắc gợi tình: “Má ơi, má núng

đồng tiền / Môi sao ƣớt đỏ ta thèm biết bao / Nắng ơi nắng có lên cao / Làm sao da thịt hồng

hào thế kia”. CÙng với nét Xuân Tình là sự trinh trắng : “Nƣớc ta trong trắng ơi nàng / Dò

xem trinh tiết có phần thanh cao / Cởi xiêm cởi áo ra nào / Xuống đây nàng tắm cho dào dạt

thơ”. Còn toàn thân thì : “Tất cả em là trân châu vô giá / Dành cho anh riêng hƣởng hanh

phúc này / Em kết tinh ở bao thanh sắc lạ / Tòa thiên nhiên đúc sẵn để mê say”. Rồi nàng

Quỳnh tiên trong Quần tiên hội (cũng chính là Thƣơng Thƣơng), cùng những nàng khác nhƣ

Diệu Tiên, Đào Tiên, Nguyệt Tiên, Thiềm Tiên, Anh Tiên, Châu Tiên… ở kịch thơ này (cũng

chỉ là chị em káhc nhau của cùng một nàng Quỳnh Tiên, cùng những nhân hóa khác nhau của

một Thƣơng Thƣơng cả thôi) cũng hiện ra đầy Xuân tình nhƣ thế : “Để ý xem

112

nƣớc da có thắm dạy / Và đôi môi biểu lộ nét xuân tình”, hoặc “Ngập ngừng chỉ khi tình say

túy lúy / A hay hay, màu ngọc ửng thêm duyên”, “Bao luyến say trút hết ở đầu môi / Nhiều ân

ái mặn mà thêm biết mấy”… Thậm chí, chƣa có ở đâu trong thơ Tử, nàng Thơ lại táo bạo

nhƣ ở đây. Tình xuân nồng nàn và bốc lửa đến mức không thể kiềm nén đƣợc, đã cất thành

lời hổn hển khẩn khoản ái ân “Yêu nhau thôi nguồn thơm chan chứa mạch / Cho em lau mắt

lệ thế niềm say / Ngồi xuống đây cho tình em mơn trớn / Vẻ phấn hƣơng kề cận vơi tài hoa /

Nói đi anh bằg câu ca rờn rợn / Cho hồn em ớn lạnh đến ngoài da”, “Mơ say rồi cho em ân

ái với / Tình quân ơi si lắm lúc ban đầu”…Nhƣ thế, qua một chặng “Đau thƣơng” đến “Xuân

nhƣ ý” rồi lên “Thƣợng thanh khí”. Vẻ Xuân tình của Nàng Thơ có phần hao mòn phai lạt, thì

đến chặng này, nhƣ bỗng hồi xuân, lại tràn đầy dƣơng khí. Xuân sắc, Xuân tình lại bừng lên,

tràn trề, khêu gợi, quyến rũ. Tuy lời thơ bớt đi phần táo bạo, nhƣng hình ảnh Nàng thơ –

Nàng Tiên vẫn rạo rực khát khao và nguyên vẹn nguồn tƣơi. Có thể nói hình ảnh những giai

nhân ở hai kịch thơ này, về thực chất, cũng chính là những cô “Gái quê” bƣớc vào thế giới

Thiên thai mà thôi. Nói một cách khác, các nàng tiên chốn Đào nguyên này đã trở lại phong

độ của những nàng “Gái quê”. Nghĩa là họ vẫn nhất quán nguyên vẹn vẻ Xuân tình mà Thanh

khiết.

Vì sao trong những ngày bệnh tật hành hạ dữ dội, hi vọng khỏi bệnh mỗi ngày một

mong manh, mà Hàn Mặc Tử lại tạo ra đƣợc những hình ảnh khởe khoắn với một niềm đắm

say đầy chất trần thế đến vậy ? Dƣờng nhƣ sự trầm trọng của bệnh tật không phải là nguyên

nhân chính đẩy lòng Tử xa lánh cuộc đời, thoát li vào Tôn giáo. Nguyên nhân chính ở chỗ

khác. Ấy là tình đời. Nếu còn đƣợc yêu, Tử còn gắn chặt vào đời. Tình yêu của những ngƣời

con gái sẽ duy trì, sẽ phục sinh nguồn sống nguồn sáng tạo ở thi sĩ. Nhƣ đã biết, Đau thƣơng,

Xuân nhƣ ý và Thƣợng thanh khí là thời kì “sau Mộng Cầm”, thi sĩ

113

đang trải nghiệm nỗi đau phũ phàng. Rời bỏ Tử, dƣờng nhƣ Mộng Cầm cũng cuốn theo luôn

vẻ Xuân tình trần thế trên hình dáng Nàng thơ. Còn đến đây, Thƣơng Thƣơng đã từ cuộc đời

bƣớc vào hồn thơ của Tử. Và thế là Nàng đã thổi vào các giai nhân một sinh khí trần gian,

Nàng đã hóa thân vào các Nàng tiên khiến họ tràn đầy vẻ Xuân tình trần thế. Thƣơng Thƣơng

đã đem đến một mối dây mới, buộc Tử chặt hơn vào với đời. Ta hiểu vì sao đến đây hình ảnh

Nàng thơ của Hàn Mặc Tử, tuy đặt trong mối thiên duyên mà lại tràn trề xuân sắc trần gian,

thấm đẫm tình yêu trần tục nhƣ vậy. Nếu nhƣ Xuân nhƣ ý, Thƣợng thanh khí là một thoát

li vào cõi siêu hình cao tột bậc của tôn giáo, thì Duyên kì ngộ và Quần tiên hôi là vòng qua

cõi tiên mà về lại cõi trần. Nội dung hơn là cõi trần mang lốt cõi tiên.

Một điều rất đáng nói ở đây là sự chuyển tiếp trong không gian dành cho những giai

nhân. Nếu ở “Gái quê’ những Nƣờng Thơ của Hàn Mặc Tử thƣờng gắn liền với những bờ

liễu, nhành lê, khóm lau, bờ nƣớc… nghĩa là một khung cảnh trần thế, thì từ “Đau thƣơng”

trở đi, những giai nhân của Tử lại hay xuất hiện bên bờ Hàn giang – Sông Ngân Hà – Mê Hà :

“Ở trên kia,có một ngƣời / Ngồi bên bờ sông Ngân giặt lụa chơi”, “Tôi thấy nàng Tây Thi /

giặt sa trên bàn thạch”… Nghĩa là một không gian ở “Thƣợng tầng không khí”, không gian

trải từ tầm nhìn thực tới thiên đƣờng của huyền thoại. Mà đến “Chơi giữa mùa trăng”… một

bài thơ vƣan xuôi tuyệt bút, dựng lên một thế giới vừa rất gần với Xuân nhƣ ý và Thƣợng

thanh khí vừa phảng phất Duyên kì ngộ, nghĩa là một không gian thật huyền hoặc pha trộn

cả cõi trần, cõi tiên và cõi “xuất thế gian”.. Độc đáo nhất là chị Lê - chị gái của Tử, đã bƣớc

vào bài thơ này trở thành một Nàng Thơ đặc biệt. Có thể nói nên tìm một gƣơng mặt nào tiêu

biểu hơn cả cho Nàng thơ – hiện thân cho cái Đẹp theo quan niệm Tột cùng của Hàn Mặc

Tử, thì gƣơng mặt ấy phải là ngƣời chị trong “Chơi giữa mùa trăng” này

114

:”ánh sáng tràn trề, ánh sáng tràn lan, chị tôi và tôi đều ngả vạt áo ra bọc lấy, nhƣ bọc lấy

đồ châu báu… Tôi bỗng thấy chị tôi thanh thoát quá, tính không tƣơi tốt và oai nghi nhƣ pho

tƣợng Đức bà Maria là đức tính truyền chỉ thánh. Tôi muốn sốt sắng quỳ lạy mong ơn bào

chữa. Nhƣng sao đêm nay chi tôi đẹp đẽ thế này. Nƣớc da của chị tôi đã trắng, mà vận áo

quần bằng hàng trắng nữa trông thanh sạch quá đi./ Tôi nắm tay chị tôi giật lìa lịa mà hỏi

một câu hỏi tức cƣời làm sao: “Có phải chị không hở chị?”. Tôi run run khi tôi có cái ý nghĩ:

chị tôi là một nàng Ngọc nữa, một hồn ma hay một yêu tinh. Nhƣng tôi phải phì cƣời và vội

reo lên: “A ha, chị Lễ ơi, chị là trăng mà em đây cũng là trăng nữa!”./ Ngó lại chị tôi và tôi,

thì quả là trăng thiệt. Chị tôi hí hửng nhƣ xuân, chạy nhảy xênh xang cơ hồ đƣợc dịp phát

triên hết cà nẫy thơ của ngƣời con gái mƣời lăm tuổi, tôi ngắm mãi chị tôi, và tự vui sƣớng

trong lòng vô hạn. Có lúc tôi đã Kiêu ngạo thay cho cái sắc đẹp nhu mì ấy, mà dƣới trời thu

đêm nay tôi mới biết thƣởng thức.”. Có thể nói, chị lễ đã đƣợc lí tƣởng hóa theo cái nhìn của

một cậu em, một thi sĩ có đức tín thiên chúa giáo. Hình tƣợng ngƣời chị này đã kết tinh

những ảnh hình giai nhân thƣờng xuyên đi về trong thế giới thơ ca của Tử: một thiếu nữ, một

tiên nữ, một thành nữ tất cả đều phát sáng mãi không thôi cái vẻ đẹp rực rỡ Xuân Tình mà

tuyệt vời Thanh Khiết, một vẻ đẹp Tột cùng.

2.2.7. Xem xét hình ảnh giai nhân qua các chặng đƣờng thơ của Hàn Mặc Tử nhƣ thế, chúng

ta có thể thấy đƣợc: Thứ nhất, dù ở mỗi chặng, đối tƣợng cụ thể có đổi thay, nhứng những

đƣờng nét tổng quát thì bất biến, tất cả chỉ là những phân thân, những hóa thân khác nhau của

cùng một mẫu gốc duy nhất Nàng Thơ Xuân Tình mà Trinh bạch, đây chính là lõi cốt của

khát vọng thẩm mĩ của thi xã, là hiện thân bằng xƣơng bằng thịt cho cái đẹp ông vẫn gọi

bằng “vẻ trắng trong nguyên vẹn, nguồn tƣơi” những biểu tƣợng của Linh hồn thanh khiết mà

ông trọng đời ngƣỡng mộ: Thứ hai, sự vận động

115

Biến đổi trong hình tƣợng Nàng Thơ của Hàn Mặc Tử là có qui luật – nó là sản phẩm trực

tiếp của những biến động trong từ tƣởng thi sĩ, mà chung qui đến là những cung bậc của lòng

thiết tha với những vẻ đẹp thiêng liêng nhất của cõi này.

2.4. HÌNH TƢỢNG THẾ GIỚI THÂN QUEN MÀ KÌ DỊ

2.4.1. Hình tượng thế giới của một nhà thơ trữ tình.

Nhƣ chúng ta đã biết, văn học nghệ thuật là một loại hình đáp ứng nhu cầu biểu hiện mình

của con ngƣời trong thế giới này. Chắc chắn không thể nào hình dung đƣợc về con ngƣời nếu

thiếu đi thế giới xung quanh.Thế giới ấy vừa là đối tƣợng chiêm nghiệm vừa là phƣơng tiện

biểu hiện của chính Con ngƣời. Bởi thế, xem xét một thế giới nghệ thuật của một nghệ sĩ

thuộc bất cứ khuynh hƣớng sáng tác nào, bên cạnh việc khảo sát hình tƣợng con ngƣời,

không thể không khảo sát hình tƣợng thế giới đƣợc xây cất trong đó.

Và chúng ta cũng biết văn học Lãng mạn ra đời đẻ nói lên tiếng nói của Cái Tôi đòi giải

phóng. Cùng với nó là sự xuất hiện của loại hình nhà thơ Lãng mạn. Với loại hình nhà thơ

này, lần đầu tiên, thế giới đƣợc thụ cảm, đƣợc nhìn nhận bằng cái nhìn ,bằng kinh nghiệm

riêng của cá nhân. Nhìn ngắm thế giới, về thực chất, là quá trình có tính hai mặt: vừa nhận

diện nó nhƣ một đối lập để đây nó ra thành khách thể, vừa đồng hóa nó bằng những kinh

nghiệm riêng của chủ thể trữ tình. Có nghĩa là chủ thể trữ tình đã áp đạt Cái Tôi của mình lên

thế giới ấy. Nó trở thành thế giới của cá nhân: Thế giới của cái tôi và trong Cái Tôi.

Bới thế có thể thấy những hệ quả tất yếu Một măt, tuy đƣợc nhào nặn tái tạo trong lò luyện

cảm xúc của chủ thể trữ tình những Hình tƣợng thế giới chẳng nhƣng vẫn bắt nguồn hiện

thực,mà còn vẫn tƣơng ứng với một hiện thực nào đó bắng liền với chủ thể thi sĩ – nghĩa là

nó vẫn bị chê định bởi không gian và thời gian hiện thực, nói một cách khác không gian và

thời gian chính

116

Là hình thức tồn tại của thế giới ấy. Mặt khác tuy là hình tƣợng khách thể nhƣng nó

lại mạng đậm dấu ấn chủ quan. Thậm chí, có thể nói hình tƣợng khách thể trong thơ trữ t ĩnh

là anh em sinh đối của Hình tƣợng Cái Tôi thi sĩ – nó vừa độc lập vừa tƣơng ứng, tƣơng

chồng với chủ thể trữ tình. Cả hai còn xâm nhập lẫn nhau, mọi tuột hình vẻ của Thế giới xung

quanh đồng thời là một tâm hồn của chủ thể đáng hiển hiện, đang tƣợng hình trong những

hình sắc. Từ đó có thể thấy trong thế giời nghệ thuật, Hình tƣợng Cái Tôi không chỉ có sự

gắng bó nhƣ hình với bóng đối với Hình tƣợng Nàng Thơ, mà còn có sự chi phối chặt chẽ đối

với cả Hình tƣợng Thế giới của một thi sĩ.

Do bị chi phối bởi quan niệm thẩm mĩ riêng mang đậm màu sắc chủ quan, nên hình

tƣợng Thế giới của một thi sĩ trữ tình thƣờng đƣợc qui chiếu về những hình ảnh tổng quát nao

đó. Hình ảnh tổng quát này cũng nhƣ một thứ khuôn mẫu vừa vô hình vừa hữu hình, một thứ

quan niệm ẩn chìm chi phối việc cảm nhận vat thể hiện những cảnh sắc riêng biệt. Ví nhƣ

trong thơ Xuân Diệu, thế giới thƣờng đƣợc qui chiếu về hai hình ảnh tổng quát là “Mảnh

vƣờn tình ái” (Đem chim bƣớm thả vào Vƣờn tình ái) và “Hoang mạc cố liêu” (Và cõi dƣới

là Hoang mạc cô liêu). Trong thơ Huy Cận là những “không gian vô biên cô quạnh và

“Quấn chặc nhà bƣng”, ở Nguyễn Bính là “Vƣờn quê” và “Đất khách”… Dù các thi sĩ này

mơ là ở mỗi bài tho những bức tranh riêng rẽ, ở những thời điểm hết sức khác nhau của một

trong các hình ảnh tổng quát này hoặc là sự giao thoa nào đó giữa chúng. Hình ảnh tổng quát

đó tựa hồ nhƣ một “mẫu gốc” có tính năng sản, từ trong tâm thức thi sĩ lặng lẽ sản sinh ra

toàn bộ những ảnh hình cảnh sắc làm nên cái ta gọi là Hình tƣợng thế giới đó.

2.4.2. Hình tượng thế giới quen mà kì dị của Hàn Mặc Tử.

117

Nhƣ đã trình bày, hình tƣợng Cái tôi có quan hệ chi phối chặt chẽ đối với Hình tƣợng

thế giới. Nếu hình ảnh tổng quát của Cái Tôi kia đã là một Ngƣời tình, thì theo logic thông

thƣờng. Hình ảnh tổng quát của thế giới bao quanh sẽ phải là thế giới của Tình Yêu. Có

nhiên, không thể lƣơc qui một cách giản đơn nhƣ thế. Bởi có thì sĩ lãng mạn nào không hiện

ra trong thơ mình nhƣ một ngƣời tình. Vả chăng, Tình nhân kia cũng có ba bảy dƣờng. Có kẻ

que mùa, có ngƣời tỉnh thành, có ngƣời mộc mạc vụng dại có kẻ mấu me hào hoa, có ngƣời

bồng bột cƣơng sĩ, có kẻ âm thầm lặng lẽ, có ngƣời thiên thƣợng hƣởng thụ, có kẻ lại chỉ lùi

xa chiêm nghiệm bái vọng… Thế giới qua con mắt của họ hẳn là không thế giống nhau.

Trƣờng hợp Hàn Mặc Tử, hình tƣợng cái tôi của thi sĩ này hiện ra là một Tình nhân mãnh liệt

mà tuyệt vọng, và theo qui luật tƣơng sinh. Hinh tƣợng thế giới cũng sẽ thuộc về Thế giới của

Tình yêu tƣơng ứng theo một lẽ lối riêng nào đó.

Nếu ghép cả hai kích thơ (Duyên kì ngộ và Quần Tiên hội) của thi sĩ vào trong tổng

thể thế giới trữ tình của cũng một thi nhân, thi coi thơ Hàn Mặc Tử sẽ gồm ba cõi bờ chính:

Coi Trần gian, Cói tiên và Cõi xuất thế gian còn câu nệ về mặt thể loại để tách kịch thơ ra

khỏi thơ trữ tình thì chúng ta vẫn có thể thấy tính cách chỉnh thể của nó. Nhìn toàn bộ thơ

Hàn Mặc Tử nhƣ một cấu trúc tổng thể, thì ở dạng hoàn chỉnh nhất, có thể thấy HÌnh tƣợng

thế giới trong thơ ông trải ra theo hai trục hính: trục ngang và trục đứng. Trục ngang đƣợc

xác định bằng tuyến Trong này và Ngoài kia. Trục đứng đƣợc phân định băng Thế gian và

Xuất thế gian. Thế giới hình tƣợng của Hàn Mặc Tử đƣợc “thi công” dựa theo mẫu “thiết

kế”toàn cực đại quát nhƣ thế. Nếu trục thứ nhất đƣợc cảm quang nghiệm về tôn giáo. Dĩ

nhiên, chứng hiện ra trong thế giới nghệ thuật của thi sĩ không phải dƣới dạng phân biệt giản

đơn Và không phải ngay từ đầu nó đã định hình nhƣ vậy. Trái lại, nó là cả một quả tình với

nhiều chuyển hóa ràng rịt. nhìn theo tuyết thời gian và cũng một

118

Cách đại quát, thƣ từ “Gái Quê” qua “Đau Thƣơng” cho đến những tập thơ sau nay. Thế giới

thơ Hàn đƣờng nhƣ tuân theo hành trình từ Ngoài kia đến Trong này trên cái mặt bằng của

Thế gian và cuối cùng là bay đến cõi Xuât thế gian. Và bất cứ ở đâu nó cũng là cái môi

trƣờng trữ tình cho Cái Tôi và Nàng Thơ của Tử luyến ai giáo tình. Có nghĩa là dù cõi bờ nào

đi nữa trong Cái thế giới ấy, khi Cái Tôi dẫn Nàng Thơ của mình dặt chân tới thì nói đó cũng

lập tức trở thành thế giới của Tình yêu. Dĩ nhiên là một tình yêu mãnh liệt và đầy tuyệt vọng.

Sƣ phân định Ngoài kia và Trong này chỉ thực sự đến trọng thơ Hàn Mặc Tử bắt đầu từ tập

“Đau thƣơng”. Có thể thấy cái điều trong thơ đó bất nguồn từ một cảm giác về không gian

hoàn toàn có thật ở con bệnh Hàn Mặc Tử, Chúng ta đều biết Đau thƣơng đƣợc viết khi Hàn

Mặc Tử đã biết đích xác mình mang trọng bệnh, và vừa đôn đáo tìm thấy chạy chữa vừa chủ

động cách lí tuyệt giao với mọi ngƣời. Từ đã sống biết lập trong những căn lều ở xóm Động

Gò Bồi, xóm Tân Ghênh Ráng, cách xa ngƣời thân và cuộc sống bên ngời . Từ có lập mình

với cuộc đời. Bởi thế, dần dần hình thành một mặc cảm về nơi mình ở là chốn bất hạnh, còn

thế giới ngoài kia là thiên đƣờng hạnh phúc. Hiệu tại đau khổ là nơi đây. Quá khứ tƣơi đẹp và

cả Tƣơng lại vô định nữa đều thuộc ngoài kia. Cảm giác của một thi sĩ. Trong thơ Hàn Mặc

Tử bắt đầu thấy những hình ảnh, những biểu tƣợng là sản phẩm của sự phân định giữa. Trong

này và Ngoài kia. Hàn Mặc Tử hãy nói đến “ở đây” nhƣ là nơi mông lung mờ mịt – “ở đây

sƣơng khói mờ nhân ảnh”, nhƣ là lãnh cũng cấm cố còn mình là cung nữ xấu số bị đầy vĩnh

viễn vào lãnh cũng hoàn toàn không có chút nào hình bóng của cuộc sống. “Trầm ngán nghê

thay tỏng lãnh cung.. ngoài kia xuân đã thắm hay chƣa/ trời ở trong dây chẳng có mùa/

không có niềm trăng và ý nhạc/ Có năng cũng nữ nhớ thƣơng vua”.. nhƣ là một thứ Động

Huyền

119

Không –“Hãy mƣờng tƣợng một ngƣời thơ dang sống/ Trong im lìm lẻ loi, trong dãy động/

Cũng hình nhƣ, em hỡi, động Huyền Không”. Thậm chí, ở đây còn nhƣ một thứ lồng giếng

lạnh “Lòng giếng lạnh! Lòng giếng lạnh!/ Sào chẳng một ai hay/ Nghe nói mùa thu náu ở chỗ

này/ Tất cả âm dƣơng, đều tụ họ/… Miếng giếng hả ra/ Nuốt ực bảo là”… Nhƣ thế, Trong

này không chỉ là một phám vi hẹp chứa đựng bất hạnh nằm trong cùng một cõi đời, mà nó

còn đƣợc cảm nhận nhƣ một cói riêng cách biệt: cõi lƣu đày, cõi cô đơn, cõi hƣ vô. Mà điều

đáng nói là không phải là một tầm mức xách thực nào, cũng không phải cái cách đo đạc

không gian bằng nối tƣơng tƣ của những đôi lứa thông thƣờng vồn ƣa trầm trọng hóa những

khoảng cách hạn định ta vân gặp trong thơ Xuân Diệu, Nguyễn Bính… Trái lại, đối với tự nó

là cái khoảng cách giữa hai cõi trời – “ở xa xôi lặng nhìn anh khô heo? Bên kia trời, hãy chụp

cả hòn anh”, không phải trong cùng một thế giới mà cách muôn vàn thế giới – “Anh đứng

cách a hành thế giới / lặng nhìn trong mộng miệng em cƣời”, thậm chí nhƣ là sự cách biệt

giữa cõi thực và cõi chiêm bao. “Anh nằm ngoài sự thực/ Em ngồi trong chiêm bao”… Tóm

lại cái khoảng cách giữa Trong này và Ngoài kia đá bằng cả một tầm tuyệt vọng. Vì thế, gắn

với hai thế giới ấy có cả một quan niệm hầu nhƣ phải trái nhau. Ngoài kia: Thuộc vè Mùa

xuân Tắm Sắc, Đƣợm hƣơng, đầy Niềm trăng, Đầy ý nhạc, tràn trề Ánh sáng, là cuộc đời, là

Sự Sống, hi vọng, là Trafangian, Thiên đƣờng, là Hạnh phúc… trong này: Nơi ngự trị của

Mùa thu, Thậm chí “Chẳng có mùa”. Không ánh sáng, không trăng, không nhạc, mơ fmowf

nhân ản, là Lãnh cung, Trời sầu, là Địa ngục, là Bất hạnh.

2.4.2.1. Thế giới Ngoài kia hay là Chống nƣớc non thanh tú

Nhƣ thế, tuy ra đời trƣớc và chƣa phải là sản phẩm trực tiếp từ sự phản định của cái

nhìn Đau thƣơng, nhƣng Gái quê rõ ràng đã thuộc vào phần

120

Ngoài kia cùa thế giới Hàn Mặc Tử. Nghĩa là nó hoàn toàn đƣợc viết khi tác giả còn đƣơng ở

thế giới Ngoài kia, khi mà cái ý niệm về Trong này có lẽ là còn chƣa manh nha trong cảm

quan của thi sĩ. Cái tên của th iphẩm này có một sự chi phối lớn đối với thế giới nghệ thuật

của bản thân nó. “Gái quê” không chỉ xác định Hình tƣợng Nàng thơ ở đây là Gấi quê, mà

còn xác định cả cái hình tƣợng Thế giới ơ rđây cũng thuộc về quê nữa. Bằng khát khao mãnh

liệt của một cái Tôi trần thế. Thế giới quê ở chốn này thực chất đã là Thiên đƣờng trần gian.

Dó là mảnh đất ƣơm mầm cho những mối lƣơng duyên, nảy nở những ƣớc mơ luyến ái,

những khát vọng ái ân “nằm trong điều răn của Đức Chúa Trời”. Chúng ta hiểu vì sao Vƣờng

ở “Gái quê” nói riêng và thơ Hàn Mặc Tử nói chung lại là hình ảnh phổ biến và tổng quát

nhất. Dĩ nhiên, trƣớc hết là vƣờn quê.

Nghiên cứu Nguyễn Bính, có ngƣời đã khẳng định Vƣờn là một không gian, một

môtip có tính độc quyền của thi sĩ chân quê này. Và giải thích sự hiện diện cuảnó trong thơ

quê của Nguyễn Bính nhƣ là một dạng kí ức tập thế của Ngƣời Việt. Trong kí ức ấy, vƣờn

mang chức năng hoài niệm của cộng đồng về nơi canh tác khởi thủy xa xƣa [143, 140]. Thực

tế khảo sát cho thấy: Vƣờng không phải “của riêng” Nguyễn Bính. Có thể nói, vƣờng vốn là

một không gian, một môtip hết sức phổ biến trong thơ ca. Ở Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân,

Anh Thơ.. những thi sĩ cùng khuynh hƣớng với Nguyễn Bính cũng nhiều đã đành, mà trong

thơ Xuân Diệu, Tế Hanh, Tố Hữu.. thậm chí thơ Tagor (Ấn Độ), Exênin (Nga)… cũng hết

sức phổ biến không gian vƣờn, môtip vƣờn. Điều này có căn nguyên của nó. Cuộc sống con

ngƣời ở bất cứ nơi nào thời nào cũng không thể thiếu đƣợc mối tƣơng giao vơi thiên nhiên.

CÒn khung cảnh thiên nhiên bao quanh gần gũi nhất với côn ngƣời thì khó có gì sanh đƣợc

với vƣờn. Vƣờn không chỉ đƣợc thực hiện chức năng canh tác kinh tế, mà quan trọng hơn. Là

chức năng văn hoa tinh thần. Không phải ngẫu nhiên mà

121

cái không gian con ngƣời tạo ra để dành hẳn cho tình yêu nên khắp thế giới này thƣờng là

Vƣờn, là những Hoa viên. Rõ ràng, nét đặc thù chƣa thể khu biệt bằng vƣờn. Mà tính đặc thu

cần tìm ở sắc thái riêng cảu mỗi không gian vƣờn ấy.

Bởi thế, chúng ta khẳng định Vƣờn là môtip phổ biến ở Hàn Mặc Tử, trong không thể

chỉ bằng long với điều đó. Tử hay nói đến “vƣờn tiên”: “Vƣờn miền sáng láng nhƣ long

ngƣời thƣợng”… Tử hình dung toán cõi thơ mình bằng hình ảnh vƣờng: “Vƣờng thơ tôi rộng

rinh, không bờ bến Càng đi càng ớn lạnh”. Nhƣng dẫu sao đó vẫn là những lời nói ví von

hoặc ƣớc lệ tƣợng trƣng, chƣa phải là những khung cảnh vƣờn cụ thể. Trong “Gái quê”, ta có

thể gặp rất nheièu những vƣờn cam, vƣờng dâu, vƣờn dƣa, vƣờn me.. và cả những bài thơ thi

sĩ không trực tiếp nói đến vƣờn cái nền cảnh thấp thoáng trong mỗi bài ấy dƣờng nhƣ đều

thuộc về một mảnh vƣờn nào đó. Có lúc nó thu vào một góc nhỏ kín đáo, địa chỉ dành cho

những tình tự cấp, nhƣ một Tiểu Đào Nguyên. Có lúc nó mở rộng ra đến cả chân trời, cả đỉnh

trời, bao trùm khắp chốn nhƣ muốn thâu gồm tất cả đển biến thành một cõi Đào Nguyên. Cho

dù là những nẻo vƣờn xinh xắn hay trải ra khắp cả một miền quê, thì bao trùm lên khắp cả

Thế giới Ngoài Kia vẫn là một nguồn sáng hết sức đặc trƣng của Tử. Thế giới thơ Tử hầu nhƣ

không có mƣa. Đaya là một điều đặc biệt. Khảo sát toàn bộ thơ ca Hàn Mặc Tử, chúng tôi

nhận thấy ông tuyệt nhiên không viết một bài riêng nào về mƣa, và trong cái th ơ của Tử hẳn

nhƣ chƣa từng có hạn mƣa nào. Đây là một điều không dễ lí giải. Nhìn ở góc độc tƣ tƣởng

nghệ thuật mà luận án đã khảo sát , phải chăng trong hồn thơ ông đã có sự lựa chọn phù hợp:

một khi đã dành trọng cho vẻ đẹp trình khiết tinh khôi, cho vé xuân tình nồng nàn phơi phới

của thế giới này, thì nó sẽ không có chỗ cho những cơn mƣa làm ƣớt nhòe, làm phôi pha lạt

vẻ đẹp ấy, mƣa nhƣ là kẻ tƣơng phản.

122

Thử dịch?Bù lại ánh sáng kì lạ thì tràn ngập. Có thể thấy ngay rằng thế giới thơ Hàn Mặc Tử

ngày là cõi năng đến là cói trăng.

Nay là nắng, Nắng mới ban mai: “Nhận nắng hàng cau nắng mới lên”, Nắng đào:

“Trong làn năng ứng khỏi mơ tan”. Nắng chang chang ánh bạc: “Dọc bờ sống trắng nắng

chang chang”, Nắng rạo rực lao xao: “Ánh nắng lao vào trên dọt tre”… Những sắc năng ấy

hội tụ trạng trải khắp cả cõi ngày của thơ Tử, mà bất cứ ở đâu, ta soi nhìn thật kĩ, chúng cũng

đều bắt nguồn từ một thứ nắng tƣơi nồng tình khôi thiếu nữ: “Mây hờ không phủ đồi cao nữa/

vì cả trời xuân tắm nắng tƣơi/ hỡi nắng dịu dàng đầy nũng nịu/ Sau rào khẽ liếm cặp môi

tƣơi/ Môi tƣơi thiếu nữ vừa trang điểm/ Nắng mới âm thầm muộn kết hôn/ Đƣa má hồng hào

cho nắng nhuộm/ Tình thay một vẻ ngọt và ngọn/ Lá xuân sột soạt trong làn nắng/ Ta ngỡ em

ơi vạt áo hƣờng/ Thứ áo ngày xuân em mới măcj/ Lòng ta rộn rã nói yêu thƣơng”.. Nhƣ thế,

ngoài kia là thế giới của nắng. Nắng tô điểm cho cả thế giới ấy, cho mỗi một góc xuân, một

nẻo vƣờn. Những tâm điểm của nắng vẫn là Nàng Thơ. Nắng ôm trọng than hình tình bạch ấy

và làm ánh lên ở đó những rạo rực xuân tình vốn cấp thầm kín. Bới vị nàng bao giờ cũng là

tâm điểm của thế giới lãng mạn của thi sĩ.

Này là trăng. Trăng đầu tháng nhƣ luõi liềm đi hái lƣợm nồi tƣơng tƣ: “Trên đọt tre

già trăng lƣỡi liềm/ Hỡi trăng hãy chặt khóm thùy dƣơng/ Nghiêng mình trƣớc gió chiễu lởi

lả”. Trang náo nức những khát khao trần thế: “Trăng ngà giã bong mặt hồ êm”. Trăng náo

nức những khát khao trần thế: “Trăng ngà giải bóng mặt hồ êm”. Trăng náo nức những khát

khao trần thế: “Trăng nằm song soãi trên cành liễu/ Đợi gió dòng về để lả lơi”. Trăng nhập

vào làn nƣớc nhƣ Tiên Nga khỏa mình: “Bóng hằng trong chén ngả nghiêng/ lả lơi tắm mát

làm duyên gợi tinh”. Trăng thiếu nữ trút bỏ xiêm y, vô tình phô bày cả tòa thiên nhiên trinh

bạch tƣơi ròng trong suối ngọc làm hổn hết rạo rực cả nƣớc mây: “Ở kia bóng nguyệt trần

truồng tắm/ Lô cái khuôn vàng dƣới đáy khe”.. Thế là cả Nắng và Trăng đều tƣơi mát Nồng

nàn, Cả hai đều

123

Góp mình, trải mình tô điểm cho cái Thế giới Ngoài kia thành một vƣờn trần gian bát ngát

xuân tình, mà bất cứ góc nho rnào cuảnó cũng trở thành mọi địa chỉ gợi tình.

Làm nên hữu tình của cảnh sắc ở đây có vai trò rất lớn của tạo vật này: Dòng nƣớc Và

Khóm cây. Trong “Gái quê” nói riêng và thơ Tử nói chúng, chúng là những sƣ vật tình tử.

Vua là nơi hò hẹn, vừa là vật tô điểm, trang điểm; Vừa là kẻ môi mai, vừa là ngƣời che chắn;

vừa là vật để tỏ long, vừa nơi đẻn than thơ.. Không thể hình dung đƣợc về diện mạo Thế giới

Ngoài kia nếu thiếu đi những hình ảnh sinh động về chúng. Này là khóm tre: “trên đọt tre già

trăng lƣỡi liềm”, Khóm trúc: “Đêm qua trăng vƣớng trong cành trúc”, “Thầm thì với ai ngồi

dƣới trúc”, “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.. Này là khóm liễu:”Trăng nằm song soài trên

cành liễu”, “Dẫu ai trên bờ liễu/ dẫu ai dƣới lành lê”… Này là khóm thùy dƣơng: “Bên

khóm thùy dƣơng em thƣớt tha/ Bên này bờ liễu anh trông qua”.. Này là khóm lau:” Trong

khóm vĩ lau dào dạt mãi”, “Ta thích len vào trong đám lau/ tiếng ca chen lẫn từ trong ta’..

Rồi thì không, khóm dâu, khóm, gốc đa, cây ngô đồng, giàn thiên lí v.v… Tất cả những khóm

cây ấy đều làm cho cảnh dù đơn sơ ở vƣờn quê cũng trở nên thanh nhã hữu tình, khơi dậy

những khát khao luyến ai, nhen nhóm những xao động ái ân.

Nhƣ đã trình bày ở phần trên, đi trong thế giới Hàn Mặc Tử, ta không gắp một cơn

mƣa,một giõi mƣa nào. Nhƣng không vì thế mà ở đây thiếu đi nguồn tƣơi mát. Thay vi mƣa,

ở bất cứ đâu, ta cũng đi cùng những dòng nƣớc.Đây là Khe nƣớc, suối nƣớc, hồ nƣớc.. Nƣớc

là gƣơi soi: “Cô gái ngây thơ nhìn xuống hồ/ nƣớc trong nổi bật dáng hình cô”. Nƣớc là bến

tắm để thầm ngắm thân hình: “Tôi cũng trông thấy ngƣời tôi yêu/ Ngồi cạnh suối trong cởi

yếm đào”. Nƣớc là cơ hội thần tiên để phô bày da thịt tình tứ thanh thản: “Ở kia

124

bóng nguyệt trần truồng tắm/ Lộ cái khuôn vàng dƣới đáy khe”… Dòng nƣớc là nơi Nàng thơ

ngồi yêu kiều giặt lụa :”Từ ấy xuân em càng chin ửng / Ngày ngày giặt lụa bến sông con”. Là

nơi “chị ấy” vẫn thƣờng gánh thóc trong di vãng xa xôi : ”Chị ấy năm nay còn gánh thóc /

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang” . Là nơi nàng Thƣơng Thƣơng tắm mát. Là nơi quần

tiên dạ hội ô đùa… Khi rộn rực ái tình, nó thành lâu đài nƣớc mây vây quanh kẻ si tình :”Hổn

hển nhƣ lời của nƣớc mây”. Khi sầu tƣơng tƣ thì nó thành dòng nƣớc trôi chảy nhƣ muốn bỏ

lại sau cả chốn này :” Mây chiều quên dừng lại / Dòng nƣớc luôn trôi đi”. “Cùng với dòng

nƣớc chảy qua / Đi biệt / Không về”…( Thậm chí sau này, khi lên đến thƣợng tầng của cõi

xuất Thế gian, dòng nƣớc ấy sẽ hóa dòng trắng mà thành Ô giang, Ngân Hà… Và bấy giờ

Nàng Thơ sẽ có gƣơng mặt của Tây Thi ngồi giặt sa trên bàn thạch váy sóng song Ngân - “

Tây Thi nàng hỡi bao nhiêu tuổi / Vẻ đẹp mê tơi vẫn nõn nà”). Nhƣ thế dòng nƣớc với các

biến thể khác nhau của nó là nhân tố không thể thiếu kiến tạo nên cái diện mạo hữu tình của

thế giới Ngoài Kia nói tiêng và thời Hàn Mặc Tử nói chung.

Trong kịch thơ “ Duyên kì ngộ” – Vân đƣợc xem là giấc mơ của Tử, thi sĩ có dàn

dựng một cuộc gặp gỡ kì lạ giữa bản thân mình và nàng Thƣơng Thƣơng. Ngƣời trong mông

ƣớc và cảnh cũng trong mơ ƣớc. Cho nên cảnh ở đấy sẽ là cái hình tƣợng chuẩn nhất về thế

giới của chàng thi sĩ trần thế lãng mạn này. Tử gọi đó là “ chỗ nƣớc non thanh tú” . Ông viết :

“ Kịch này xảy ra ở chỗ nƣớc non thanh tú, chỉ có thi sĩ Hàn Mặc Tử và nàng Thƣơng

Thƣơng đóng kịch thì mới nổi” . Và Hàn đã vẽ cái chốn nƣớc non thanh tú đó nhƣ thế nào ?

Có thể nói, đó là cảnh Đào Nguyên ở giữa trần gian. Có suối trong lành thơm tho. Có cây cối

xinh xắn hữu tình. Có âm nhạc tình tứ với tiếng tiêu, tiếng sáo, với giọng suối lời chim quyến

luyến cùng mây trắng. Có nắng đào tô điểm cho làn môi them mọng, cho nƣớc da them

ngần… Nhƣ thế, Chốn

125

nƣớc non thanh tú chính là nơi gặp gỡ của ái linh thiêng. Nó là cái Hình tƣợng Thế giới lí

tƣởng của Tử. Là vẻ đẹp Tột cùng của một cảnh sắc trần gian. Nó chìm sâu trong tâm thức

sáng tạo của thi sĩ, mà lời hƣớng dẫn cho vở kịch kia chỉ là một dịp hiển ngôn, một dịp phát

biểu ra thành ý thức tự giác thôi. Cắt nghĩa hiện tƣợng này, không thể không bắt đầu bằng

câu hỏi : Chốn nước non thanh tú kia có ngọn nguồn từ đâu ? Có thể Hàn Mặc Tử có một

ấn tƣợng vô cùng sâu sắc trong nhƣng năm tháng tuổi thơ vê động cát Sa kì, nơi có cát mịn

nhƣ da thịt ngƣời tiên, có suối trong nhƣ nƣớc Ngọc Tuyền, có những bờ cây xinh xắn thanh

nhã [98, 345]. Và chắc chắn Hàn Mặc Tử cũng hết sức si mê ngƣời ngọc trong pho sách là

Nàng Tây Thi giặt lụa bên sông ở thôn Trừ La trong huyền sử Trung Quốc. Cho nên Nàng

Thơ của Tử thƣờng đƣợc vẽ lên ở khung cảnh nhƣ thế. Đồng thời kẻ si tình lãng mạn này hẳn

cũng đắm đuối với cảnh Thiên Thai, với chốn Đào Nguyên nơi Lƣu Nguyễn gặp tiên trong

huyền thoại. Nên không hề ngẫu nhiên mà trong thơ Tử, địa danh Đào Nguyên xuất hiện khá

nhiều, từ thơ lẻ in báo chƣa thành tập cho tới các tập thơ, kịch thơ và cả phần thơ văn xuôi

nhƣ “ Chơi giữa mùa trăng”. Và cũng không loại trừ chốn nƣớc non ấy còn là một há thân

nào đó của vƣờn Địa đàng mà một thi sĩ xuất thân kitô giáo không thể không từng lƣu vào kí

ức của mình từ thƣở thiếu thời. Những ấn tƣợng từ thực tế, những hình tƣợng thu lƣợm đƣợc

từ các nguồn văn hóa ấy đã chung đúc hòa trộn nhào nặn trong tâm thức sáng tạo của Tử mà

sinh thành cái mẫu “ gien” là Chốn nước non thanh tú. Đến lƣợt nó, Chốn nƣớc non thanh

tú kia sẽ đóng vai trò là mẫu gốc có khả năng sản sinh mỗi khi Tử hƣớng ra thế giới Ngoài

kia. Trong thế giới “ Gái quê”, mẫu gốc ấy đã sản sinh ra những Tiểu cảnh Đào nguyên

chân quê. Có nghĩa là những nẻo Vƣờn tình tứ nảy nở những mối duyên quê nồng nàn thanh

sạch. Và cũng có nghĩa là mỗi cảnh trí đó chỉ là những hiện thân, hóa thân, những biến thể,

những mảnh vỡ khác nhau của cái chốn nước non thanh tú kia thôi. Và trong thơ Tử, nó

còn “ đầu thai” vào nhiều cảnh trí khác nữa.

126

2.4.2.2. Thế giới Trong này hay là Trời sâu

“ Tôi đang còn đây hay ở đâu/ Ai đem tôi bỏ dƣới trời sâu/ Sao bông phƣợng nở

trong màu huyết/ Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu”. Có lẽ đây là lần đầu tiên Hàn Mặc

Tử ý thức về cái thực tại mới của mình bằng hình ảnh “ trời sâu” . “ Trời sâu” Hàn Mặc Tử

đƣợc vẽ ra bằng mặc cảm chia lìa. Nó là chốn lƣu đày của những thân phận bấy hạn, nơi đày

ải nhƣng kẻ xấu số. Đó là cỗi Cô đơn, là tiền trạm của Hƣ vô. Là cái thế giới của Đau thƣơng.

Hình ảnh bông phƣợng nở trong màu huyết nhỏ xuống lòng thi sĩ nhƣng giọt châu bao đau

đớn là hiện thân của những nỗi chết đang ngấm ngầm cào xé một tâm tƣ vốn tràn ngập niềm

yêu sống của Hàn Mặc Tử. Nếu nhƣ trong thơ Bandclaire, ám ảnh về cô đơn, vê hƣ vô, về cái

chết hiện ra trong hình ảnh “Vực thẳm”, thì những ám ảnh ấy của Hàn Mặc Tử lại hiện ra

bằng “Trời sâu”, “Lãnh cung”, “Động huyền không”, “Lòng giếng loạn”, và “ Vũng cô liêu”.

Và nói chung đây là một thế giới kì dị với những hình ảnh quằn quại đau thƣơng, âm khí u

ám.

Mùa xuân đã bỏ chốn này mà đi. Trời sâu là xứ sở Mùa thu ngự trị. Cũng không phải

mùa thu trong sáng của Thế Lữ, không phải mùa thu mơ màng huyền áo của Lƣu Trọng Lƣ,

không phải mùa thu âu sầu héo úa kiểu Chế Lan Viên… Mà là mùa thu héo hắt :” Em cố nghĩ

ra một chiều tàn úa / Lá trên cành héo hắt gió ngừng ru”. Là mùa thu xác xơ, tiều tụy, thoi

thóp :”Với buồn phơn phớt, vắng trơ vơ / Cây gì mảnh khảnh run cầm cập/ Điềm báo thu

vàng gầy xác xơ”. Nhất là bản thân cái hình hài mùa thu cũng bị hủy hoại tự bao giờ bởi

những niềm đau thƣơng ngấm ngầm, thỉnh thoảng có thể nghe thấy những tiếng nấc khan của

nó :” Thu héo nấc thành nhƣng tiếng khô”… Dƣới Trời sâu ấy, Cái tôi bất hạnh kia đang trải

qua “ Những ngày đau khổ nhuộm buồn thiu / Những áng mây lam dập dìu / Những mảnh

nhạc vàng rơi lả tả / Những niềm run rẩy của đêm yêu.”

127

Cùng với mùa xuân, Nắng nhƣ cũng đang bỏ chốn này mà đi. Bởi vì một ngày kia

“mặt nhật tan thành máu”, và thế giới này sẽ thành cái thế giới tan loãng. Tất cả sẽ trở nên u

ám, sẽ biến thành sƣơng khói. Bao phủ lên Trời sau này sẽ là sƣơng là khói là hơi mơ hồ

nhòe nhạt : “ Tôi đi trong áng sƣơng mờ”, “ Một hồn đau rã lần theo hƣơng khói”, “ Bóng

ngƣời thục nữ ẩn trong mơ / Trong lá trong hoa khói bụi mờ”, “ Ô hay ngƣời ngọc biến ra

hơi”, “ Ở đây sƣơng khói mờ nhân ảnh”… nhà nghiên cứu Phạm Dán Bình đã có một phát

hiện đáng chú ý về hiện tƣợng “ Tan loãng trong Hàn Mặc Tử”. Thực ra điều này không phải

là hiện tƣợng của thơ Hàn nói chung, mà nó chỉ ứng với một đời sống của thi sĩ khi chìm

trong mặc cảm chia lìa, nói khác đi là khi mặc cảm chia lìa đẩy Cái Tôi ấy xuống Trời sâu.

Khi ấy nhận xét của nhà nghiên cứu này tỏ ra rất sát hợp. Ông viết : “ Từ đây Hàn Mặc Tử

sống trong” buổi chập chờn” để nghe :” Thu héo nấc thành những tiếng khô”, để thấy”

những mảnh nhạc vàng rơi lả tả”, để theo “ trăng choáng váng với hoa tàn cũng ngã”, rồi

ngậm ngùi vì “ uyên ƣơng không đoàn tụ”, vì tình yêu dở dang nhƣ “ Một làn hƣơng mới

nửa lung sa ngã”. Và đúng là trong Trời sâu ấy “ những gì thƣờng liên tục, tuôn trào nhƣ

dòng đời, nguồn sông, thì cứng đọng lại ; còn những gì chắc chắn, có hình thù khối lƣợng,

thì tan loãng ra” – Bao giờ mặt nhật tan thành máu / Và khối lòng tôi cũng sợ si [ 35, 382

và 389] .

Trong Trời sâu tan loãng ấy, Vầng trăng của trần thế cũng cách một tầm tuyệt vọng.

Tử rất thèm muốn trăng về trong cái hiện tại ngắn ngủi của mình để xoa dịu cái thực tại đau

thƣơng “ Thuyền ai đậu bến sông trăng đó / Có chở trăng về kịp tối nay”. Và Tử cũng đang

phải cầu nguyện cho chính cái vầng trăng ngỡ nhƣ là đấng cứu tinh, cứu rỗi duy nhất cho bất

hạnh của mình ấy :” Tôi đang cầu nguyện cho trăng tôi ? Tôi lần cho trăng một tràng chuỗi/

Trăng mới là trăng của Rạng Ngời”. Và mặc cảm chia lìa cũng làm cho vầng trăng kia, biến

dạng, trăng choáng váng đau thƣơng :”Bỗng đêm nay trƣớc cửa

128

bóng trăng quỳ/ Sấp mặt xuống mình theo dáng liễu… Trăng choáng váng với hoa tàn cùng

ngả”, và trăng tan loãng thành vũng trăng, thành mảnh trăng, vụn trăng :” trăng rơi lả tả ngả

trên cành vàng”. Và cuối cùng là trăng tự tử, trăng cũng chết dƣới Trời sâu, giếng loạn :”Ta

nhảy ùm xuống giếng vớt xác trăng lên”… Thế là bóng trăng nằm sóng soãi trên cành liễu,

bóng nguyệt trần truồng tắm dƣới khe của niềm yêu sống đã thành trăng tự tử trong mặc cảm

chia lìa. Trong Trời sâu ấy không còn vầng trăng trần thế, mà chỉ còn xác trăng thôi. Nói

khác đi, ở Chốn nƣớc non thanh tú, trăng là “ dƣơng bản”, thì ở Trời sâu này, trăng chỉ là “

âm bản”.

Thay vì dòng nƣớc hữu tình trong chốn nƣớc non thanh tú, ở Trời sâu đây là những

vũng. Vũng nƣớc, vũng trăng, vũng máu đào, vũng hồn ta :” Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa/

Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô/ Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy/ Sáng dậy điên cuồng

mửa máu ra”, “ Cả niềm thƣơng ý nhớ cả một vùng/ Hòa thành vũng máu đào trong ác

lặn”,”Ôi ngông cuồng! Ôi rồ dại, rồ dại/ Ta đi thuyền trên mặt nƣớc lòng ta/ Ôi ngông

cuồng, ôi rồ dại, rồ dại/ Ta cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta”… Chính ở Trời sâu này, ta

thƣờng gặp những hiện tƣợng kinh dị bậc nhất của thơ Hàn Mặc Tử : Hồn lìa khỏi xác, một

xác thân mà thành nhiều nhân thân, nhiều hồn vía, Cái Tôi dắt hồn đi lang thang phiêu lãng,

khạc ra từng búng huyết, kạc ra từng búng thơ, đau thƣơng bên trong trào ra dâng lên ngập lụt

cả Trời sâu. Dòng sông trong Chỗ nƣớc non thanh tú là nơi nảy nở của ái tình, thế hiện niềm

yêu sống hăm hở mãnh liệt của Tử, còn những vũng này là những gì của lòng Tử đang tan

loãng, những gì thế giới này đang tiêu tán. Nó là những nỗi chết trong chia lìa đang dồn đọng

lại thành những vũng ấy. Nên nó là những vũng cô liêu nơi đày ải kẻ bị vây khốn trong chia

lìa :”Chao ôi ghê quá trong hƣ tƣởng/ Một vũng trong cô liêu cũ vạn đời”. Đáng sợ nhất là

dƣới đáy của Trời sâu ấy là Giếng loạn. Thi sĩ thấy :” Tiếng vàng rơi xuống giếng” ở đấy

cũng giống nhƣ

129

chỉ hình dung về thi sĩ Châm “Ngƣời lắng nghe, lắng nghe trong đấy tiêng/ Tiếng vàng chìm

ngỉm giữa Hƣ vô”, cũng nhƣ là “ ở cõi Hƣ vô dần dà chìm”, những khi linh hồn rƣớm máu

đau thƣơng. Hàn cũng muốn mọi thứ kết thúc ở lòng giếng ấy :” Thét chòm sao hoảng rơi

vào đáy giếng/ Mà muôn năm rƣớm máu trong không gian”. Hình ảnh giếng loạn không chỉ

là cái rốn của Trời sâu, nó chính là hiện thân của Hƣ vô : “Lòng giếng lạnh! Lòng giếng lạnh/

Sao chẳng một ai hay / Và trăng mây ngừng lại ở nơi đây /… Loạn rồi! Loạn rồi, ôi giếng

loạn / Ta hoảng hồn, hoảng vía, ta hoảng thiên / Nhảy ùm xuống giếng vớt xác trăng lên”.

Nếu nhƣ Bandelaire trong “ Những bông hoa ác”, có ám ảnh vực sâu nhƣ là ám ảnh Cái

chết, ám ảnh Hƣ vô, thì có thể nói ở Hàn Mặc Tử ám ảnh ấy chính là vũng cô liêu mà biến

thể gần gũi nhât vứi Vực sâu chính là lòng giếng loạn dễ sợ đó.

Tái hiện hình ảnh của hai Thế giới này, không thể không quan tâm đến mối quan hệ

của chúng và quan hệ giữa chúng với Hình Tƣợng Cái Tôi và hình tƣợng Nàng Thơ. Khảo sát

thơ Hàn Mặc Tử, ta dễ nhận thấy rằng : Hai thế giới ấy tuy ở giai đoạn sau mới phân chia rõ

rệt, nhƣng không có nghĩa là chúng phụ thuộc hoàn toàn vào không gian tồn tại ngoài đời của

bệnh nhân Hàn Mặc Tử. Sự thay đổi không gian sinh tồn (từ nơi sinh sống với gia đình

chuyển vào những nơi cách li để điều trị) chỉ là cơ sở hình thành ý niệm sơ khởi của sự phân

định này. Từ đó có thể thấy rằng không thể dung những đoạn lời cố định để phân định, cũng

không thể dùng những tập thơ tách biệt để làm tiêu chí phân định. Không phải Chốn nƣớc

non thanh tú chỉ có mặt trong thơ ông khi ông còn ở ngoài kia, hay chỉ có mặt ở riêng tập “

Gái quê” và “Duyên kì ngộ” mà nó vẫn hiện diện trong các tập khác khi Tử đã vào Trong

này. Đúng thế tuy Trời sâu chỉ bắt đầu có mặt ở tập “ Đau Thƣơng”, nhƣng những hiện thân

mờ nhạt của nó cũng đã lởn vởn đâu đó và còn đầu thai vào cả những

130

tập sau. Vậy tiêu chí toàn năng của sự phân đinh này là gì ? Xét đến cùng, là ở trong lòng,

chứ không phải trong không gian. Ấy là Lòng yêu sống của Hàn Mặc Tử. Vƣợt lên trên cả sự

hành hạ của bệnh tật, chỉ cần lòng Tử đang sống trong mối giao tình với ai đó ( dù có khi chỉ

là một cuộc tình tƣởng tƣợng), thì lập tức thế giới thơ của Tử có gƣơng mặt Ngoài kia. Còn

khi chìm vào Mặc cảm chia lìa thì sẽ hiện hình ngay thế giới Trong này . Trong tính tƣợng

trƣng của nó, nếu “Ngoài kia” là sản phẩm Tột cùng của Lòng yêu sống, thì ” Trong này” là

sản phẩm Tột cùng của Mặc cảm chia lìa. Bởi thế cho nên không phải ngẫu nhiên mà Hàn

Mặc Tử viết “Duyên kì ngộ” và “ Quần tuê hội” – hai vở kịch thơ cho mối tình Thƣơng

Thƣơng, dựng lên những khung cảnh thiên nhiên tình tứ đắm say, tựa nhƣ thế giới Ngoài kia

– ngay giữa những ngày bạo bệnh đang cầm tù ông ở thế giới Trong này.

Tƣơng ứng với Hình tƣợng thế giới, là hình tƣợng Cái tôi và Nàng Thơ. Chủ nhân của

Chốn nƣớc non thanh tú phải là Cá Tôi mạnh liệt và Nàng Gái quê Trinh bạch mà Xuân tình.

Bởi mối tình của chỉ chọn nơi ấy làm điểm hẹn, chọn nơi ấy để nảy nở; ngƣợc lại chỉ có một

thế giới nhƣ vậy mới xứng đáng, mới mai mối xe duyên đƣợc cho họ. Lạc vào Trời sâu là

Cái Tôi nghiêng về tuyệt vọng và Hình Tƣợng Nàng Thơ thƣờng chỉ hiện diện nhƣ những kí

ức đau thƣơng bên kia nơi thƣơng nhớ. Điều này là hiển nhiên. Bởi xét về bản chất sáng tạo,

Cái Tôi mãnh liệt là hiện thân của lòng yêu sống, còn Cái Tôi tuyệt vọng là sản phẩm trực

tiếp của Mặc cảm chia lìa. Chính vì vậy mà có thể nói: suy cho cùng Ngoài kia và Trong này,

Chốn nƣớc non thanh tú và Trời sâu giếng thẳm chỉ là hai hệ thống hính tƣợng tƣơng phản là

con đẻ của hai trạng thái cảm xúc trái chiều nhau làm nên cơ chế tinh thần, cơ chế sáng tạo

của Hàn Mặc Tử.

Nói chung, hình ảnh thế giới trong Chốn nƣớc non thanh tú nghiếng về cảnh sắc thực

và mang đậm tính trực quan; còn hình ảnh trong Trời sâu này lại

131

nghiêng về tƣợng trƣng, những vẻ đẹp có thể cảm nhận bằng trực quan giảm thiểu rất nhiều.

Điều này không thật khó hiểu. Về thực tế, chốn nƣớc non thanh tú là sự phản ánh trực tiếp

cảnh sắc trần giới, khi mà Hàn Mặc Tử hoặc đang còn nguyên là một ngƣời trái khi huyết

chƣa biết mình bị bạo bệnh, đang say mê tìm kiếm một hạnh phúc lứa đôi trần thế, hoặc là

đang chợt bừng lên một hi vọng nhân duyên, đƣợc nhen nhóm từ giai nhân nào đó mới xuất

hiện trong cuộc sống đau khổ của Hàn. Nghĩa là niềm yêu sống đang hƣớng tâm hồn thi sĩ về

phía cuộc đời, tâm hồn ấy lại ôm ghì hơn nữa cái cõi đời này. Còn Trời sâu dẫu sao cũng là

một tuyệt địa của tinh thần, khi ấy căn bệnh hiểm ác chặn mất lối về trần gian của Tử. Thực

tại trần gian bỗng trở nên sa vời, Thực tại đau thƣơng lại quá nhỡn tiền. Mặc cảm chia lìa

khiến cho thi sĩ chìm sâu mãi, sâu mãi vào những tƣởng tƣợng, những viễn cảnh thê lƣơng.

Viễn cảnh ấy lại đeo bám nhƣ một ám ảnh nặng nề choán hết lòng Tử, nhƣ một thứ “bóng

đè” làm “nghẹt thở” những hình sắc trần gian trong kí ức của Tử. Cái ”bóng đè” ấy đã ám

vào những viễn tƣởng thê lƣơng biến chúng thành những biểu tƣợng nặng nề ám khí. Về

khuynh hƣớng, Chốn nƣớc non thanh tú chủ yếu thuộc giai đoạn “Gái quê”, nghĩa là thuộc

khung hƣớng Lãng mạn. Mà tính tạo hình trực quan theo lối của mĩ thuật là một trong những

nguyên tác thi pháp của tƣ duy lãng mạn. Do vậy, chẳng những hình ảnh thi ca ở Chốn nƣớc

non thanh tú giàu tính trực quan sống động hơn, thực hơn, mà nó cũng dào dạt sinh khí hơn.

Còn Trời sâu là sản phẩm trực tiếp của “Đau thƣơng”. Khi Hàn Mặc Tử đã chuyển qua

khuynh hƣớng Tƣợng trƣng một cách rõ rệt, nhất là ảnh hƣởng nhân quan tƣợng trƣng, kinh

dị của Bandelane, bởi thế hình ảnh thi ca mang đạm tính biểu tƣợng và nhuốm màu kinh dị là

tất yếu.

2.4.2.3. Thế giới Huyền Diệu hay là Cõi Thuần linh

Cũng từ tập “ Đau thƣơng”, trong thơ Hàn Mặc Tử bắt đầu xuất hiện một cõi trời mới,

một thê giới mới nằm ở bên ngoài cõi này. Có lúc ông gọi là

132

“Trời mơ” :” Đâu phút thiêng liêng đã khởi đầu: / Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ!”, có

lúc ông lại gọi là “xứ mộng” :” Hƣơng khói ở câu ngoài xứ mộng”, có lúc ông lại định danh

một cách trang trọng là “ xứ Say Mơ” :” Đấy là tất cả ngƣời anh tiêu tán/ Cùng trăng sao

bang bạc xứ Say Mơ”… Cứ thế, nó còn đƣợc định danh bằng nhiều tên khác. Nào là “ cõi

thiên không” :”Một chiều xanh, một chiều xanh huyền hoặc / Sáng bao la vây lút cõi thiên

không”. Nào là “triều thiên”: “ Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang”. Nào là “Cõi siêu

hình” :” Cho hay cõi siêu hình cao tột bậc”… Rồi thì “ Cõi thiên đàng”, “ Nƣớc huyền vi”, “

chốn Phƣợng Trì”, thậm chí dùng cả cảm quan và ngôn ngữ của Phật với những tên gọi “Cõi

vô vi”, “Cõi xuất thế gian” :: ”Phật giáo chia thế giới làm hai cõi: Thế gian và Xuất thế gian,

tức là thế giới hữu hình và thế giới vô vi.” ( Lời chú của bản thân Hàn Mặc Tử)v.v… Thật là

quá ƣ đa dạng. Gộp những tên gọi thuộc về những hình dung mang tính thi ca, có thể gọi đó

là Thế giới Huyền diệu. Đây cũng chính là khái niệm Hàn Mặc Tử đã sử dụng một cách ý

thức khi viết về Bích Khê: “ở địa hạt Huyền Diệu, ta thấy thi nhân chú trọng âm thanh và

màu sắc…/ Âm thanh là một nửa tinh thần, anh hoa của thế giới Huyền Diệu”( Bích Khê, thi

sĩ thần linh). Theo quan niệm của Hàn Mặc Tử nói riêng và của các thành viên trƣờng thơ

Loạn nói chung, hành trình thơ tất yếu của một thi nhân chân chính là phải đến đƣợc “ Cõi

ƣớc mơ hoàn toàn”, nghĩa là đến tột cùng, tuyệt đối. Thế giới Huyền Diệu này chính là cõi

ấy, đó là Thế giới Thuần linh (không phải thần linh). Thế giới của sự Tột cùng.

Theo trục đứng trong hình tƣợng thế giới của Hàn Mặc Tử, nếu Chốn nƣớc non

thanh tú và Trời sâu đều thuộc phần Bên dƣới Thế gian, thì Cõi Thuần linh hay là Thế

giới Huyền Diệu thuộc phần Bên trên - Xuất thế gian. Nó là thế giới ƣớc mơ của một thi sĩ,

cũng là cõi cứu rỗi của một đạo hữu. Chính sự xuất hiện của cõi này mà giới nghiên cứu Hàn

Mặc Tử đã gặp nhiều

133

lúng túng, bất đồng trong việc nhận diện và định dạng yếu tố Tôn giáo hay chất Đạo trong

thơ ông.

Nếu Chốn nước non thanh tú và Trời sâu là hai thế giới tƣơng phản gay gắt nhƣ

Hạnh phúc với Bất hạnh, Ánh sáng với Bóng tối, thì thế giới huyền diệu nhƣ một sự hóa

giải. Không còn khát khao những tục tình trần thế, không còn quằn quại trong nỗi chia lìa với

luyến ái trần gian. Nếu ở những thế giới kia, Hàn Mặc Tử nghiêng về tìm kiếm vẻ xuân tình

trần tục, vẻ thanh khiết của một “ái tình thiêng”. Có thể nói, hành trình thơ của Hàn Mặc

Tử, về một mặt nào đó, là đi từ Mùa xuân đời và vẻ Xuân Tình trần thế của Chốn non

nƣớc thanh tú với ánh sáng tinh khôi, qua Mùa thu Đau thƣơng đầy Bóng tối rình rập”

nhƣ lòng ma quỷ” để đến với cõi xuân khác: Xuân thiêng, Xuân nhƣ ý tràn ngập một

ánh sáng Huyền diệu. Chúng ta có thể thấy một quan niệm về Xuân nhƣ thế của thi sĩ đã chi

phối thế giới Xuân thiêng này : ” vì chúng muôn xuân là lƣơng thực ngon ngọt,mĩ vị, ánh

sáng là nguồn tơ tƣởng thơm tho,tinh khiết, khí xuân là mạch trƣờng sinh bất tử,tình xuân là

cung cầm nguyệt mê li, tuổi xuân là Ngọc nhƣ ý(…) Và xuân là phong vị thái hòa của năm

muôn năm. Trời muôn trời, chân lƣu trên thƣợng tầng không khí, bang bạc dải Hà sa, chen

lẫn vô hồn tạo vật…” Hàn Mặc Tử gọi nó là “Cõi mơ ƣớc hoàn toàn”. Bởi thế giới ấy đƣợc

Tử gọi là” cõi thơm tho”, “ cõi tuyệt đối”, ở đó hội tụ tất cả những gì thiêng liêng nhất, là

ngọn nguồn của tất cả những gì sáng giá nhất, cao sang nhất , thank khiết nhất. Đó là “nguồn

hƣơng” “cho them ý nguồn hƣơng them đầy rẫy”, là “ nguồn ánh sáng” – “Ôi!Khí hậu lọc

bao nguồn ánh sáng “, là “nguồn ơn phƣớc” – “ Của tế lễ là nguồn ơn chan chứa”, là “nguồn

đạo” : “ Của nguồn đạo mà ngày xƣa thánh khí” ,là “nguồn trăng” , “là nguồn trăng yêu mến

Nữ Đồng Trinh”, là “nguồn đau” –“ Là nguồn đau chầu lụy Nữ Đồng Trinh, là

134

nguồn thiêng liêng: "Nguồn thiêng liêng yêu chuộng MẸ SẦU BI", là "nguồn thơ': "Giọng

thao thao bất tuyệt của nguồn thơ" là "nguồn tinh khí": "Thƣợng thanh khí tiết ra nguồn tinh

khí", rồi "nguồn tƣơi", v.v... Mà tựu trung là "nguồn trong trẻo". Nên nhớ rằng, cái quan niệm

"Ngƣời thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo" của Hàn Mặc Tử đƣợc bật lên ở chính giai

đoạn này. Thi sĩ tự họa nhƣ một kẻ đang thăng hoa vào thế giới ấy: "Trí ngƣời đã dâng cao

và thơ ngƣời dâng cao hơn nữa. Thì ra ngƣời đang say sƣa đi trong mơ ƣớc, trong huyền

diệu, trong sáng láng và vƣợt hẳn ra ngoài hƣ linh..." (Tựa "Thơ điên"). Trong thế giới này

vẻ Xuân tình đƣợc hình tƣợng hóa, tuyệt đối hóa bằng một mỹ nhân lý tƣởng muôn đời của

Phƣơng Đông là Nàng Tây Thi: "Tây Thi nàng hỡi bao nhiêu tuổi / Vẻ đẹp mê tơi vẫn nõn

nà". Còn vẻ Trinh khiết đƣợc tuyệt đối hóa bằng biểu tƣợng Đức Mẹ đồng trinh: "Đấng trinh

tuyền thánh vẹn". Nghĩa là bằng những kết tinh của Nguồn trong trẻo thành mĩ nhân và thánh

thể.

Gọi đó là Thế giới Thuần linh còn bởi thế giới ấy dƣờng nhƣ không phải đƣợc xây cất

bằng những vật liệu thực ở chốn phàm trần mà toàn bằng những vật liệu ƣớc lệ, tƣợng trƣng,

siêu thực. Trƣớc hết nó là thế giới của một thứ ánh sáng lạ. Khi thế giới ấy chợt mở ra, ta nhƣ

ngợp trƣớc một đại dƣơng hào quang diễm ảo, dƣờng nhƣ chƣa từng có trong kinh nghiệm

của ta. Không hẳn là ánh mặt trời, không hẳn là ánh trăng, mà là thứ ánh sáng huyền hoặc

linh thiêng: "Cho mau lên! Dồn ánh nguyệt vào đây... Lời thơ ta sẽ sáng trƣng nhƣ thất bảo.

Tình cảm ta sẽ nóng ran nhƣ mặt trời. Ý ta sẽ cao cƣờng nhƣ ngọn núi". "Một chiều xanh,

một chiều xanh huyền hoặc / Sáng bao la vây lút cõi thiên không", "ánh hào quang chan chói

ngất lƣu li", "Đƣờng trăng xa, ánh sáng tuyệt vời bay", "Trên triều thiên ngời chói vạn hào

quang"... Nó là ánh sáng của thiên nhiên đƣợc mỹ lệ hóa: "Sáng thơm tho nhƣ ánh ngọc hừng

đông", là ánh sáng của Thiên chúa đƣợc long trọng hóa: "Dâng cao dâng thần

135

nhạc sáng hơn trăng", nhƣng cũng là nguồn sáng từ một hồn thơ, một nguồn thơ tự phát sáng

kỳ lạ của Tử: "Ta há miệng cho nguồn thơm trào vọt / Đƣờng thơ bay sáng láng nhƣ sao

sa...". Tất cả đã hòa vào nhau thành một nguồn sáng huyền diệu. Tác giả Dũng Lạc Trần Cao

Tƣờng, trong một bài viết có tựa đề: "Thấy đƣợc những huyền bí bên kia cõi chết qua hiện

tƣợng Hàn Mặc Tử", đã thử vận dụng một số kinh nghiệm cận kề cái chết, hiện đang đƣợc

khoa Thần bí học và Siêu tâm lý học nghiên cứu, để lý giải về nguồn sáng ấy. Bằng các cứ

liệu lý thuyết và đối chiếu với tiểu sử cũng nhƣ thơ ca Hàn Mặc Tử, tác giả này đã khẳng

định nguồn sáng lạ lùng ấy chính là thứ ánh sáng hiện hữu đối với những ngƣời từng chết lâm

sàng nhƣ Hàn Mặc Tử. Nhà thơ đã thị kiến và biểu hiện nó một cách trực tiếp nhƣ: "Anh đã

thoát hồn anh ngoài xác thịt / Để chập chờn trong ánh sáng mông lung" [167, 6]. Về tâm lý,

có thể đó là một kinh nghiệm thực đối với thi sĩ, nhƣng nó vẫn là một thứ siêu nghiệm đối với

chúng ta. Còn về nghệ thuật, trí tƣởng tƣợng thi ca không phải là không tạo ra đƣợc nguồn

sáng nhƣ thế. Mặt khác, tìm kiếm trong thơ Tử, có thể thấy ý niệm về cái "thế giới thứ ba"

này đã đến với Tử từ rất sớm, hồi còn "Chơi giữa mùa trăng". Tử nói với nhân vật ngƣời chị:

"Không, không, chị ơi! Rồi ánh sáng hôm nay sẽ tan đi, ta sẽ buồn thƣơng và nhớ tiếc. Em

muốn bay thẳng lên trời để tìm ánh sáng muôn năm thôi...", và khi Tử còn đang đi trong Trời

sâu lại cứ muốn lang thang "Chơi trên trăng": "Tôi đi trong áng sƣơng mờ / Tìm con trăng lạc

ngoài bờ bến kia". Cái ham muốn tìm ánh sáng muôn năm đã xui khiến hồn thơ tìm đến một

thế giới khác, một cõi khác. "Ham muốn tìm ánh sáng muôn năm", về thực chất, là ham muốn

tìm một "nguồn trong trẻo" tuyệt đối, là ham muốn về một sự trinh bạch tinh khiết siêu việt

thiêng liêng. Nghĩa là một cách nói khác, một cung bậc khác - cung bậc tột cùng của tƣ tƣởng

nghệ thuật của thi sĩ này đó thôi. Thế là: Khát vọng thi ca của thi sĩ đã gặp gỡ và đã đồng

hóa vào nó cả ý thức của một ngƣời công giáo nói riêng một đạo hữu nói chung. Và lên

đến cõi Thƣợng Thanh khí này, thi sĩ

136

đã tìm thấy nó nhƣ đến đƣợc với thế giới của mơ ƣớc vậy. Và dù nó có cơ sở từ siêu nghiệm,

hay chỉ đơn thuần là sản phẩm của trí tƣởng tƣợng siêu việt của ngƣời làm thơ, thì nó cũng đã

tạo ra đƣợc một hình tƣợng ánh sáng độc đáo, giàu tính nghệ thuật. Mà đó mới là điều quyết

định đến giá trị của thi ca.

Đƣợc tắm trong thứ ánh sáng ấy, đƣợc nhào nặn chế tác trong ánh sáng ấy mà những

vật liệu đem từ trần gian lên, dƣờng nhƣ, đã đƣợc biến đổi bởi ánh sáng, đƣợc thánh hóa để

trở thành kim bảo. Có thể nói cái gì trong thế giới này cũng nhƣ phát sáng, có khả năng tỏa

sáng. "Đƣa ra nào là nhạc thơm, hƣơng gấm, mộng ngọc, và hoa trinh bạch, đàn li tao, tranh

tuyệt phẩm.../ Đƣa ra nào là gió chia biệt, trăng đoàn viên, chim tứ chiếng, mây giang hồ, và

nào là trời thanh sắc, lòng nhũ hƣơng, niềm mộc dƣợc / Vẫn chƣa bƣa, chƣa đã, chƣa nguôi

đƣợc chí muôn sao!.../ Phải mời cho đƣợc Xuân thiêng ra đời"... Chƣa có ở đâu thi sĩ lại huy

động một khối lƣợng ngọc ngà, mã não, lƣu li, trân châu, cẩm thạch, vàng, bạc, gấm, lụa...

nhiều đến thế để xây cất thế giới thi ca của mình. Ở đây trái cây bằng ngọc, vỏ cây bằng gấm,

mặt trời là một khối vàng ròng, con ngƣời đƣợc tạo bằng ánh trăng, cốt cách phong vận đều

ra chiều ngà ngọc: "Cây bằng gấm và lòng sông toàn ngọc", "Trái cây bằng ngọc vỏ bằng

gấm / Còn mặt trời kia tợ khối vàng / Có ngƣời trai mới in nhƣ nguyệt / Ngƣời thơ phong vận

nhƣ thơ ấy / Nào đã ra đời ngọc biết tên / Xuân gấm dấu trên giữa cõi đời", v.v....

Không chỉ có vật liệu là những bảo vật cao sang, Thế giới Huyền diệu còn đƣợc xây

cất bằng những dạng vật liệu siêu hình hơn nữa. Nếu vạn vật có thể chia ra thàh thể phách và

tinh anh, thì thế giới thực đƣợc xây cất bằng thể phách của vạn vật, còn thế giới Huyền

Diệu tạo dựng bằng tinh anh của vạn vật ấy. Hàn Mặc Tử đã chƣng cất vạn vật để chắt ra

những gì là tinh túy tinh hoa, những gì chỉ là dạng thức tinh thần để làm thành thanh khí mà

tạo ra cõi Huyền Diệu của mình. Cho nên cõi Huyền Diệu nhƣ thể khí, thể hơi, mà

137

đó là linh khí của trời đất. Gọi nó là Thế giới thuần linh còn vì nghĩa ấy, chứ không chỉ là

nơi hằng sống hằng ngự của "muôn vàn thần thánh sống cao sang". Chúng ta có thể thấy đây

là thế giới những hồn của hoa, hồn của ngọc, hồn của dòng nƣớc, hồn của mùa xuân, âm nhạc

của hƣơng thơm, âm nhạc của ánh sáng, âm nhạc của đức tin, hƣơng thơm của âm nhạc,

hƣơng thơm của từng tia trăng, hƣơng thơm của ánh mắt Nàng Thơ, ánh sáng của thơ, ánh

sáng của những nốt đàn, v.v... Tất cả quyện hòa vào nhau trong một nguồn cảm xúc say đắm

của tâm thế chiêm bái, quyện hòa vào nhau trong trạng thái thăng hoa của lòng mộ đạo sùng

tín. Bản thân Cái Tôi thi sĩ dƣờng nhƣ cũng đang biến tan ra thành dạng thức phù hợp với cõi

ấy - thành thanh khí. Bởi vì cõi Huyền Diệu cũng là cõi "Thƣợng Thanh khí". Nếu nhƣ, bƣớc

tới Trời sầu Đau Thƣơng, Cái Tôi ấy mới tìm đến trạng thái tiêu tán, tan loãng nhƣ một giải

pháp, thì đến cuối Trời sầu ấy, nhất là đến Xuân nhƣ ý và Thƣợng thanh khí, nó đã đi xa hơn,

nó đã thành thanh khí. Thanh khí nhƣ là biểu hiện, là kết quả của sự hóa giải ở cái tôi ấy để

nhập vào cõi tuyệt đối, cõi mơ ƣớc hoàn toàn, nhƣ cách hình dung của Tử: "Chúng ta biến,

em ơi, thành thanh khí / Cho tan ra hòa hợp với tinh anh / Của trời đất, của muôn vàn ý nhị /

Và tình ta sáng láng nhƣ trăng thanh"... Cùng với Xuân thiên, với nguồn sáng kỳ diệu tỏa ra

từ thiên chúa, ngƣời ta còn thấy ở đây đầy rẫy những vật liệu đƣợc lấy từ sách "Nhã ca", sách

"Khải huyền", trong kinh thánh của Đạo Thiên Chúa; nhƣng hình ảnh tráng lệ nhƣ dƣ hƣơng,

mộc dƣợc, cung cầm nguyệt, hoa phẩm tiết... "Ta sống mãi trong trăng sao gấm vóc / Trong

nắng thơm trong tiếng nhạc thần bay / Bút đề lên nến sáng báu năm mây / Thơ chen lấn vô

trong nguồn cảm giác / Ta uống hết dƣ hƣơng và mộc dƣợc / Ớn làm sao đầy một miệng hào

quang / Đƣa ta vơ cung cầm nguyệt mênh mang /Chan chứa ý ly tao giây sảng sốt". Có lẽ vì

sự có mặt của những vật liệu, hình ảnh, hình tƣợng ấy mà nhà nghiên cứu Đặng Tiến đã coi

đây là một căn cứ để khái quát rằng: "Những

138

hình ảnh tráng lệ nhƣ gấm vóc, trân châu, thất bảo, dƣ hƣơng, mộc dƣợc đều muốn gợi lên

một vinh hiển nhƣ khi sứ đồ tả thành Jerusalem mới trong sách Khải huyền: "Thành ấy chói

sáng nhƣ một viên bửu thạch, nhƣ bích ngọc rạng ngời... Tƣờng thì xây bằng bích ngọc thành

thì xây bằng vàng ròng, tợ nhƣ thủy tinh trong vắt. Mƣời hai cửa thì làm bằng mƣời hai hột

châu". Từ đó, tác giả này đi đến khái quát xa hơn: "Dựa theo sách Khải huyền, tôi cho rằng

những đêm dài dự tƣởng trong Hàn Mặc Tử là một phóng thể của đức tin Thiên Chúa, vì

cảnh Bồng Lai của Á Đông cảnh thần tiên của Đạo gia không có cái huy hoàng rực rỡ đó"

[145, 27]. Thậm chí, ông còn đi xa hơn nữa: "Tôi đã cố gắng chứng minh toàn tập thi phẩm

của Hàn Mặc Tử là một tiếng vọng của Thánh tự" [145, 29]. Trên thực tế không chỉ có riêng

tác giả Đặng Tiến có cách nghĩ về yếu tố tôn giáo trong thơ Hàn nhƣ thế. Từ sự khảo sát của

luận án, không thể không nói đôi chút về "chất Đạo" và "chất Đời" trong thế giới nghệ thuật

này.

Yếu tố tôn giáo có mặt rất đậm nét trong thơ Hàn Mặc Tử là thực tế không thể bác bỏ.

Nhƣng việc nhận diện thì hết sức phân hóa. Dựa hẳn vào con ngƣời công giáo của thi sĩ,

nhiều ngƣời đã mặc nhiên coi Hàn Mặc Tử là "nhà thơ công giáo" - tức là chỉ thừa nhận yếu

tố Kitô giáo mà thôi. Một số khác thì khách quan hơn, khoa học hơn, đã không suy diễn giản

đơn nhƣ vậy. Họ tìm kiếm yếu tố Kitô trong thực tế sáng tác để kết luận. Mà các yếu tố nhƣ

lớp ngôn từ, biểu tƣợng, nhân vật, cùng với tinh thần của những tín điều, những giáo lý...

trong các thi phẩm Hàn Mặc Tử, nhất là ở giai đoạn cuối, thì khó mà lƣợm lặt cho hết đƣợc.

Rõ ràng, ảnh hƣởng rất đậm của Thiên chúa giáo trong thơ Hàn cũng là thực tế khó mà bác

bỏ (Dấu vết của nó thể hiện trong cơ chế tƣ tƣởng của Thi sĩ từng đƣợc nói đến trong phần

"Tƣ tƣởng nghệ thuật Hàn Mặc Tử"). Hoài Thanh, Hoài Chân khẳng định khá sớm: "Hàn

Mặc Tử đã đi ngƣợc lại từ thơ Đƣờng đến Baudelaire, Edgar Poe và đi thêm một

139

đoạn nữa cho gặp Thánh kinh của Đạo Thiên chúa" [141, 36]. Mặc dù đã có khảo sát khách

quan để thấy sự có mặt của nhiều yếu tố thuộc các tôn giáo khác nhau trong thơ Tử, nhƣng

kết luận cuối cùng của nhà nghiên cứu Đặng Tiến vẫn là "toàn tập thi phẩm của Hàn là một

tiếng vọng của Thánh tự" [145, 6]. Võ Long Tê cũng chỉ ra tính phức tạp của các yếu tố tôn

giáo khá bện chặt vào, đan chéo với yếu tố thi ca, nhƣng tinh thần căn bản của luận điểm

chung là coi Hàn Mặc Tử "ban đầu là một ngƣời công giáo làm thơ về sau thành Nhà thơ

Công giáo" [35, 148]. Một căn cứ có thể làm hậu thuẫn khá vững vàng cho cách kiến giải ấy

là: chính Hàn Mặc Tử cũng có tự nhận mình là "Thi sĩ của đạo quân Thánh giá", cũng có coi

một bộ phận thơ mình là "Thơ cầu nguyện". Khác với luồng ý kiến ấy, một bạn thân của Hàn,

ngƣời đƣợc ủy nhiệm giữ bản quyền Hàn Mặc Tử là Quách Tấn, thì có thiên hƣóng giải thích

yếu tố Tôn giáo của thơ Tử theo tinh thần Phật giáo: "Tử đi tìm giải thoát và đã tìm thấy Cực

Lạc Quốc Độ của Phật A Di Đà... Những ánh sáng vô cùng, những "tiếng nhạc thiêng liêng

dồn trỗi khắp hƣ linh", những điệu nhạc rất trọng vọng rất thơm tho man mát", những cây

"bằng gấm và lòng sông toàn ngọc" ở trong thơ Tử là vang bóng của vô lƣợng quang trên thế

giới Cực Lạc mà Tử đã nhìn thấy qua kinh A Di Đà" [35, 40]. Có không ít ngƣời coi thơ Tử

nhƣ sự pha trộn tổng hợp nhiều tôn giáo nhƣng chất Đời vẫn là gốc vẫn là nền tảng và động

lực chủ đạo, nhƣ ý kiến Chế Lan Viên, Yến Lan... [153, 21 -22], [35, 474]. Rồi có ngƣời coi

tƣ duy thơ của Tử thuộc "Tƣ duy tôn giáo" và "Tôn giáo trong thơ Tử là tôn giáo vũ trụ" nhƣ

Đỗ Lai Thúy [143, 158], v.v... Xét duyệt khá nhiều ý kiến xoay quanh vấn đề này, nhà nghiên

cứu Phan Cự Đệ đã đi đến một kết luận dễ chấp nhận: "Nhƣng có lẽ chúng ta không cần phải

tranh luận đến cùng, xem Xuân nhƣ ý, Xuân thiên, Thế giới mới của Hàn Mặc Tử là thế giới

Phục sinh, thế giới Khải huyền của Đạo Thiên chúa, hay Cực lạc quốc độ của Phật A Di Đà

hay thế giới thần tiên của Đạo giáo. Vì Hàn Mặc Tử không phải nhà thơ tôn giáo hiểu theo

140

nghĩa là chuyên dùng thơ để truyền bá tôn giáo của mình". Và ông đồng ý với Phan Xuân

Sanh, khi tác giả này cho rằng Hàn Mặc Tử "trong khi ôm một lý tƣởng thơ đi tìm cảm hứng

đã gặp đạo và tìm đƣợc trong đạo nhiều đề tài, nhiều thanh sắc tƣ tƣởng để làm giàu cho thơ

mình. Theo thiển ý, Hàn Mặc Tử là ngƣời có nhiều lý tƣởng thơ và lý tƣởng thơ này đã bao

trùm cả niềm tin của ông về Tôn giáo" [35, 41-42]. Ở một mức khái lƣợc hơn, Thanh Lãng,

tác giả công trình "Bảng lƣợc đồ Văn học Việt Nam" cũng có một ý kiến gần gũi: "Hàn Mặc

Tử là một ngƣời công giáo, nhƣng đức tin của ông chỉ là một đức tin thi sĩ, nó thành thực

nhƣng mơ hồ, nhất là lãng mạn. Cũng nhƣ với các thi sĩ lãng mạn Pháp, tôn giáo của Hàn

Mặc Tử chỉ là một cái gì có sức làm cho con ngƣời cảm thấy êm dịu, thái bình, mơ mộgn,

nhất là tự cảm thấy đƣợc giải thoát. Tâm hồn thi sĩ lần lƣợt bị thôi thúc vừa bởi một niềm tin

mãnh liệt vừa bởi "một sự mong đợi tuyệt vọng" vào cuộc sống bất diệt" [79, 806-807].

Có lẽ, để làm sáng tỏ vấn đề phức tạp này, không thể không tách bạch hai thứ tôn

giáo. Thứ nhất, Tôn giáo đồng nghĩa với các giáo phái hiện hàh nhƣ Thiên chúa giáo, Phật

giáo, Hồi giáo... Ở đây tín ngƣỡng đƣợc hiểu theo nghĩa hẹp là sự sùng tín của các tín đồ

hƣớng tới giáo điều, giáo lý, giáo hội, giáo chủ của các giáo phái ấy. Căn cứ quan trọng của

nó là: thừa nhận có tồn tại một thế giới siêu tự nhiên, một thế giới sau cái chết, có thần linh

có ma quỷ. Thứ hai là, Tôn giáo nhƣ một nhu cầu tinh thần phổ biến, khi con ngƣời dành đức

tin trọn vẹn và mãnh liệt của mình cho những giá trị, những đối tƣợng mà mình tôn thờ.

Nghĩa là nhu cấu hƣớng tới cái Tuyệt đối, hƣớng tới cái Tột cùng. Khi ấy tín ngƣỡng đƣợc

hiểu nhƣ một niềm xác tín phổ quát. Và khi con ngƣời tuyệt đối trung thành với xác tín kia,

ấy là Đạo vậy. Giáo sƣ I. Xveitel của Trƣờng Đại học Mỹ Tenphu cho rằng: "Tôn giáo là một

loại giải thích về ý nghĩa tột cùng của đời sống, sự giải thích này là dựa trên siêu nghiệm và

141

thƣờng thức đời sống tƣơng ứng. Pôn Tilixơ cho rằng: Tôn giáo chỉ sự coi trọng về cái Tột

cùng, cái vô hạn, vô điều kiện trong đời sống tinh thần của loài ngƣời. Tức Tôn giáo là cái

quan tâm của loài ngƣời đối với cái Tột cùng" [70, 4-5]... Trong nghệ thuật, Tôn giáo hiểu

theo nghĩa thứ hai này không phải là hiếm. Bởi, về thực chất, nó chỉ là dạng thức tuyệt đối,

dạng thức tột cùng của niềm nhiệt hứng ở ngƣời nghệ sĩ. Nói cách khác, Tín ngƣỡng, Tôn

giáo hiểu theo nghĩa thứ hai này chính là dạng thức cực đoan của tƣ tƣởng nghệ thuật ở ngƣời

nghệ sĩ. Tình yêu không phải là một tôn giáo hiểu theo nghĩa hẹp, nhƣng nó đã thực sự trở

thành Tôn giáo trong thơ Vec-ne, Tagor, Nêruđa... Ở Việt Nam là Xuân Diệu. Cái Đẹp trở

thành tôn giáo của Nguyễn Tuân... Nhà thơ Đoàn Văn Cừ cũng phát biểu rằng Hồn quê đó là

tín ngƣỡng của ông. Điều phức tạp là ở chỗ, trong Hàn Mặc Tử cả hai ý thức tôn giáo này đều

tồn tại, và chúng tồn tại theo lối đan chéo đồng thời chuyển hóa sang nhau. Không thể phủ

nhận Hàn Mặc Tử là một con chiên Thiên chúa giáo và Đức tin Thiên chúa đã can thiệp khá

sâu sắc và phổ biến trong nghệ thuật của ông.

Nhƣng Hàn Mặc Tử có chịu bó hẹp đóng khung trong một Kitô giáo đơn thuần

không? Chắc chắn là không. Việc xem xét ý thức lý thuyết và cả thực tế sáng tác của Hàn

Mặc Tử cho thấy rõ điều đó. Một tín đồ độc tôn giáo phái của mình không thể viết: "Đức mẹ

chỉ có một, nhƣng bên Đạo Phật là Quan âm Bồ Tát, bên Đạo tiên gọi là Tây Vƣơng mẫu,

bên Đạo Thiên chúa gọi Thánh nữ đồng trinh Maria". Chế Lan Viên đã bình phẩm một cách

dí dỏm: "Cái câu này mà giáo hội biết thì Tử chết". Một kẻ độc tôn Thiên chúa giáo cũng

không thể viết những câu "qua mặt", "chơi trội" với Thƣợng đế nhƣ thế này đƣợc: "Ta chắp

hai tay lạy quỳ hoàn hảo / Ngửa trông cao cầu nguyện trắng không gian / Để vừa dâng vừa

hiệp bốn mùa xuân / Nở một lƣơt giàu sang hơn Thƣợng đế". Trong bài tựa nổi tiếng "Bích

Khê, thi sĩ thần linh",

142

xem xét về hành trình thơ của tác giả "Tình huyết", Hàn Mặc Tử đã nói đến Tôn giáo nhƣ là

địa hạt lý tƣởng cuối cùng và có tính tất yếu cần phải đến của thơ Bích Khê nói riêng và của

thơ ca nói chung: "Tìm mãi cái đẹp không thấy, vì tất cả mọi sự ở thế gian đều tầm thƣờng

cả, thi sĩ mới nhận ra rằng chỉ có cái gì đời đời, cái gì hằng sống (éternité) mới thỏa mãn

đƣợc nỗi khát khao thƣơng nhớ vô hạn của thi sĩ (....) Cho nên thơ chàng sắp bay sang thế

giới huyền bí để đi đến chỗ tuyệt đích là: Tôn giáo. Cần nhớ thêm là, sợ ngƣời đọc có thể

hiểu chữ "Tôn giáo" mình dùng theo nghĩa hẹp không đúng với tƣ tƣởng của mình, Hàn Mặc

Tử đã có lời chú thích rất đáng chú ý: "Xin hiểu nghĩa chữ ấy với tất cả tinh thần của nó" [68,

23]. Rõ ràng, Hàn Mặc Tử muốn hƣớng tới một tôn giáo theo nghĩa rộng, "với tất cả tinh thần

của nó". Tôn giáo với Tử, là địa hạt tuyệt đích, là cái địa hạt Tột cùng của Thơ. Là kẻ tiên

phong, kẻ "trị vì" Trƣờng thơ Loạn, trƣờng thơ chủ trƣơng "cái gì của nó cũng tột cùng", thì

việc tìm đến với một tôn giáo nhƣ thế của Tử là một tất yếu. Nhìn rộng hơn một chút, có thể

thấy, coi Tôn giáo (với tinh thần ấy) là địa hạt cuối cùng và tuyệt đích của thơ, cũng là quan

niệm của nhiều nhà thơ Pháp, và nhiều thi sĩ Việt Nam đồng thời, mà điển hình là nhóm

"Xuân thu nhã tập". Trong sáng tác, ở bài "Ra đời" mở đầu tập "Xuân nhƣ ý", khi dùng chữ

"Xuất thế gian", Hàn Mặc Tử cũng có chú thích riêng: Phật giáo chia thế giới làm hai cõi:

thế gian và xuất thế gian tức là thế giới hữu hình và thế giới vô vi; đây sánh xuất thế gian với

cõi thanh tịnh của lòng" [35, 275]. Điều này cho thấy, Hàn Mặc Tử chỉ mƣợn lớp chất liệu

tôn giáo (cả địa danh, cảnh vật, biểu tƣợng, nhân vật...) của những tôn giáo có sẵn để diến tả

một ý niệm thi ca của mình thôi. "Xuất thế gian" hay "thiên đƣờng" không phải là một "thế

giới sau cái chết" theo quan niệm chính thống của giáo lý Thiên chúa. Trái lại, nó chỉ là "cõi

thanh tịnh của lòng", do lòng riêng của thi sĩ tạo dựng lên, để dành cho lòng riêng và cũng chỉ

tồn tại trong cõi lòng riêng của thi sĩ. Có thể nó là hình bóng đƣợc phóng chiếu của "Thế giới

thiên đƣờng sau cái chết" qua

143

một lối huyễn tƣởng thi sĩ, nhƣng nó không phải và không đồng nhất với thiên đƣờng ấy. Mà

nhìn vào thực tế đời sống bệnh tật cũng nhƣ thực tiễn sáng tạo của Hàn Mặc Tử, nhất là ở

chặng cuối, Thiên đường của ông chỉ có một nghĩa thôi: ấy là "Cõi thanh tịnh của lòng".

Quằn quại trong đớn đau thân xác, tan nát rách xé trong bi kịch tinh thần, với ông, đến đƣợc

sự yên tịnh, làm cho lòng thanh tịnh ấy là đến Thiên đƣờng vậy. Thanh Tịnh chính là cứu rỗi

của Đau Thƣơng, chính là giải pháp cho Đau Thƣơng. Gọi Thiên đƣờng của thơ Tử là thế

giới Thanh Tịnh, thế giới Huyền Diệu, thế giới Thuần Linh là nhƣ thế. Về điểm này ý kiến

của Võ Long Tê có phần ngƣợc: "Các nhân vật và tác giả vận động trong một vũ trụ xem là

bản chuyển tải Thiên đƣờng Ki tô giáo theo một cấu trúc ngoại giáo", có lẽ ý kiến của Quách

Tấn phù hợp hơn: "Tử là một nhà thơ". Ông viết "đi vào vƣờn hoa tôn giáo chỉ để tìm hƣơng

phấn về ƣớp cùng hƣơng thơ đó thôi" [35, 41]. Nhƣ thế, có thể thấy những vang bóng của

Thế giới Phục sinh Khải Huyền, Thế giới Cực Lạc Quốc Độ, nhƣng Thế giới Huyền diệu mà

Hàn Mặc Tử dày công xây cất ở đây chỉ là "Cõi thanh tịnh của lòng" mà thôi. Khác với

"Chốn nƣớc non thanh tú" và "Trời sâu" là sự phản ánh thế giới Thực tại, là ý thức về một

thực tại hiện hữu, "Thế giới Huyền diệu" là thế giới của "Mơ ƣớc hoàn toàn", cho nên Hàn

Mặc Tử phải chƣng cất những gì là tinh túy, tinh anh của thực tại để sáng tạo, và nếu không

đủ dùng, ông phải vay mƣợn những vật liệu có sẵn của Đạo giáo, Phật giáo, đặc biệt là của

Thiên chúa giáo - giáo phái mà ông vốn là một con chiên, là điều dễ hiểu. Các thi liệu ấy ở

đây chẳng những "chung sống hòa bình" mà còn hóa thân chuyển nhƣợng lẫn nhau. Ngọc

ngà, lƣu li, mã não... không phải vật liệu độc quyền của riêng tôn giáo nào. "Cây bằng ngọc

vỏ bằng gấm" cũng không chỉ của Phật giáo hay Thiên chúa giáo. Nó là loại vật liệu cao sang

tuyệt đối mà Hàn sắm sanh nhằm để xây dựng "cõi mơ ƣớc hoàn toàn", "cõi tuyệt đối" của thi

sĩ. Đó là cõi Thƣợng Thanh khí, là "Cõi đẹp", là "chỗ tuyệt đích", là "Thế giới thuần linh", là

địa hạt cuối cùng, tột cùng của

144

thơ ca, theo quan niệm nghệ thuật của thi sĩ Hàn Mặc Tử. (Và cũng cần mở ngoặc đơn rằng

loại vật liệu này cũng đầy rẫy trong thơ Bích Khê - một thi sĩ không thuộc Thiên chúa giáo,

cũng không thuộc Phật giáo. Điều này thêm một lần nữa cho thấy việc coi Hàn Mặc Tử vay

mƣợn các vật liệu ấy chỉ vì ông là một con chiên, chỉ vì muốn làm cho thơ mình "là một tiếng

vọng của thánh tự" là chƣa thật tỉnh táo). Và cũng vì thế vũ trụ thơ của Hàn Mặc Tử trong cõi

ấy không chỉ đƣợc xây cất bằng có bốn nguyên tố là "trăng, hoa, nhạc, hƣơng" nhƣ có ai đó

đã khái quát một cách chƣa thật đầy đủ. Từ đó chúng ta thấy: ý thức Ki tô giáo của một con

chiên đã đƣợc hòa tan trong một ý thức tôn giáo rộng lớn hơn của một thi sĩ. Nhìn một cách

khái quát nhƣ thế, ta có thể gọi Tôn giáo ở Hàn Mặc Tử là xác tín phổ quát, là Tôn giáo Nghệ

sĩ. Một ý thức tôn giáo nhƣ vậy đã giúp Hàn Mặc Tử tạo ra đƣợc "cõi thanh tịnh của lòng"

trong diện mạo một Thế giới thuần linh, Thế giới Huyền diệu - Một thế giới của cái Tột

cùng. Trong cái thế giới Tột cùng ấy, ý niệm tôn giáo và ý niệm thơ ca đã đồng nhất. Hƣớng

tới cái Tột cùng vừa là Khát vọng thi ca vừa là Xác tín tôn giáo. Chinh phục cái Tột cùng vừa

là hành vi sáng tạo vừa là hành vi tín ngƣỡng của Hàn Mặc Tử. Nếu ở một mức nào đấy có

thể coi tƣ duy Hàn Mặc Tử có sắc màu của tƣ duy tôn giáo là dứt khoát phải theo nghĩa ấy

chứ không phải là theo một kiểu hình tƣ duy tôn giáo theo nghĩa hẹp thuộc hệ hình Thiên

chúa giáo nhƣ có ngƣời đã giải thích.

Lƣớt qua những mảng, những bình diện cơ bản của Hình tƣợng Thế giới trong thơ

Hàn Mặc Tử, chúng ta cũng phần nào thấy đƣợc hành trình tƣ tƣởng, hành trình thơ của thi sĩ

này cùng với nội dung hình tƣợng độc đáo của Thế giới nghệ thuật Hàn Mặc Tử trong tính

chỉnh thể của nó. Mọi khảo sát và kiến giải về từng phƣơng diện lẻ, từng bộ phận cục bộ chỉ

có thể đúng hƣớng khi đƣợc đặt trong chỉnh thể chung nhƣ thế để xem xét giải quyết.

145

CHƢƠNG 3: ..... VÀ MỘT LOẠI HÌNH THƠ ĐỘC ĐÁO

Về mặt loại hình, Hàn Mặc Tử viết cả Thơ dân gian, Thơ Đƣờng luật, cả thơ mới.

Giới nghiên cứu đã quan tâm đến cả mấy mảng này và có những thành tựu đáng kể. Những

phânt ích của Hoài Thanh (trong "Thi nhân Việt Nam"), Trần Thanh Mại (trong "Hàn Mặc

Tử, thân thế và thi văn"), Quách Tấn (trong "Hàn Mặc Tử với thơ Đƣờng luật") v.v... đã chỉ

ra nhiều khía cạnh quan trọng của thi pháp Hàn Mặc Tử. Ở đây, ngƣời viết muốn đề cập đến

một dạng thức thơ mà bất cứ ai, hễ đã nhắc đến Hàn Mặc Tử thì không thể không kể đến:

Thơ Điên. Có thể nói, ham muốn tột bậc của Hàn Mặc Tử là tìm đến một cõi thơ tuyệt đối,

tìm đến một thứ thơ mà ở đó cái gì cũng Tột cùng (Dĩ nhiên, Tột cùng đây là theo quan niệm

của Tử). Là thi phẩm vào loại đắc ý nhất của ham muốn ấy. Thơ Điên đã hiện rõ trong diện

mạo của mình cả sức mạnh cùng giới hạn của những cái Tột cùng ấy.

Trong phần tìm hiểu "quan niệm thơ" của Hàn Mặc Tử, chúng ta đã từng nói đến

"Thơ Điên" ở bình diện quan niệm nghệ thuật tổng quát, chi phối việc tạo dựng thế giới nghệ

thuật của thi sĩ này nói chung. Phần khảo sát cụ thể vào diện mạo loại hình hãy còn là một lời

hẹn. Đây là lúc trở lại với lời hẹn ấy.

Rất nhiều ngƣời đã vận dụng những tiêu chí của các khuynh hƣớng thơ quen thuộc

nhƣ Lãng mạn, Tƣợng trƣng, Siêu thực,... để khảo sát rồi xếp đật thơ Hàn Mặc Tử vào các

ngăn ô ấy. Nhiều ngƣời coi "Gái quê" là Lãng mạn, "Đau thƣơng" là Tƣợng trƣng, còn "Xuân

nhƣ ý" và Thƣợng thanh khí" là đã sang bến bờ Siêu thực, đến "Duyên kì ngộ" và "Quần tiên

hội" thơ Tử lại vòng về Lãng mạn. Không ít ngƣời đã đóng một cách nhìn nhận nhƣ nhà

nghiên cứu Phán Cự Đệ: "Thơ Hàn Mặc Tử từ Lệ thanh thi tập qua Gái quê, rồi từ Gái quê

qua Thơ Điên (Đau thƣơng), Xuân nhƣ ý, Thƣợng thanh khí, Cẩm châu

146

duyên... đã đi một chặng đƣờng dài từ cổ điển qua lãng mạn rồi từ lãng mạn chuyển nhanh

sang tƣợng trƣng, siêu thực ... "[35, 13], "Tập Đau thƣơng nhìn chung đã thấm đãm màu sắc

thơ Tƣợng trƣng" [35, 15], "Với Xuân nhƣ ý, Thƣợng thanh khí, Cẩm châu duyên, Duyên kì

ngộ, Quần tiên hội - Hàn Mặc Tử đã từ tƣợng trƣng chuyển dần sang siêu thực "[35m 15].

Trong khi đó nhiều ngƣời lại tán thành ý kiến Chế Lan Viên, khi nhà thơ này khẳng định thơ

Hàn về căn bản là lãng mạn. "Thơ Hàn Mặc Tử với thế giớ không phân biệt hƣ thực, nhiều

ngƣời nghĩ là thơ siêu thực, nhƣng nhà thơ Chế Lan Viên đã nhận định khá đúng đắn: "Hàn

Mặc Tử không phải là nhà thơ siêu thực. Trƣớc sau Anh vẫn là lãng mạn, dùng nhiều yếu tố

hiện thực, dùng nhiều yếu tố siêu thực: đó cũng là điều trƣớc đây cha ông đã dùng. Nhƣng

không ai dùng đậm đặc nhƣ Anh" [131, 154]. Hoàng Hƣng cũng khẳng định rất dứt khoát:

"Không có cơ sở gì để nói thơ Hàn Mặc Tử là "thơ siêu thực" (nhƣ ý kiến vài nhà nghiên cứu

phê bình văn học gần đây)" [59, 77-78]. Rồi bằng những nhận thức của mình về thơ Tƣợng

trƣng Âu Mĩ nhƣ "Với thơ Tƣợng trƣng các hình ảnh không còn là để diễn tả cuộc sống bình

thƣờng mà là những kí hiệu của đời sống siêu nhiên, những phát lộ về thế giới ám ảnh của

những giấc mơ. Câu thơ Tƣợng trƣng có sức khơi gợi rộng lớn của âm nhạc, lời thơ tƣợng

trƣng có sự phong phú của cảm giác giao hoà", Ông cho rằng "Đến Hàn Mặc Tử, Chế Lan

Viên, Xuân Thu Nhã tập, Thơ mới đã đi vào quĩ đạo của thơ Tƣợng trƣng Âu Mĩ". Đối với

riêng Hàn Mặc Tử, ông có đẩy xa hơn một chút là đã mon men đƣợc sang nẻo vƣờn hiện đại

"Chỉ có Hàn Mặc Tử lê tấm thân bệnh hoạn đau thƣơng của mình vào thơ nên nhiều lúc đã

vào đƣợc cõi hƣ ảo của tâm linh", nghĩa là mới Tƣợng trƣng một cách triệt để [59, 72]. Với

một liên tƣởng táo bạo, nhà phê bình Vƣơng trí Nhàn đã đặt Hàn Mặc Tử bên cạnh Salvador

Dali hoạ sĩ vĩ đại Tây Ban Nha thế kỉ XX ngƣời khai mở cho trƣờng phái hội hoạ hiện đại:

"Đặt trong hoàn cảnh thơ Việt Nam trƣớc 1945, phải nhận thơ Hàn Mặc Tử là một cái gì độc

đáo vƣơn ra thói quen cảm nhận thông

147

thƣờng nhƣ tranh của những S.Dali, II. Miroo, J.De Chinco... [98, 511]. Mà tiền thân của nó

là một hoạ sĩ Hà Lan trong thế kỉ, Jerome Bosch, ngƣời đã đem đến những kết hợp quái dị

trong hội hoạ "vẻ dịu dàng ở cạnh phút hấp hối, nét trinh bạch ôm ấp sự truỵ lạc, cảm xúc

hứng khởi xen lẫn cơn tởm lợm, khiến ngƣời xem tranh vừa sảng khoái vừa ớn lạnh" [98,

5/8]. Bất ngờ và kinh ngạc nhất vẫn là ý kiến của Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiên. Ông

cho rằng gọi Hàn Mặc Tử là Tƣợng trƣng, Siêu thực đều không ổn, mà phải là Siêu thức [52,

8] v.v... Thực ra, việc dùng những tiêu chí, những khuôn thƣớc đã thành mẫu mực để khảo

sát rồi trên cơ sở đó định danh khuynh hƣớng thơ Hàn Mặc Tử cũng là một điều cần thiết. Nó

cho ta một cái nhìn trong tƣơng quan với mạch vận động và với mặt bằng thơ nói chung để

định giá. Song, do đối tƣợng là một trƣờng hợp đa tạp không thuần nhất nên khó ứng với một

khuôn ô nào thật xác định rành mạch. Việc bất đồng là khó tránh khỏi và khó khắc phục. Từ

quan niệm thơ Hàn Mặc Tử là một sự tổng hợp độc đáo, hỗn dung nhiều yếu tố của nhiều

khuynh hƣớng khác nhau, Luận án không đi theo những hƣớng ấy. Lối đi mà luận án xác

định là từ mô tả và lí giảu những đặc trƣng nổi bật để hình dung về diện mạo của Thơ Điên

nhƣ một sản phẩm độc đoá của riêng Hàn Mặc Tử, theo quan niệm và thực tế sáng tạo của

chính ông ngƣời đã tích hợp đƣợc khá nhiều yếu tố thuộc các khuynh hƣớng thơ ca đó để tạo

ra một chất lƣợng riêng. Và cái diện mạo độc đáo của Thơ Điên không gì khác hơn chính là

Thi học của cái Tột cùng.

Mỗi một thi sĩ nói riêng, mọi thi phải nói chung, khi khẳng định sức sống chân chính

của mình trên thi đàn, bao giờ cũng cố gắng xác lập một thi hoặc một chuẩn mực nghệ thuật

của riêng mình. Hàn Mặc Tử và các thi hữu trong trƣờng thơ Loạn cũng không nằm ngoài cái

thông lệ dƣờng nhƣ đã thành một qui luật chung đó. Cho dù khi lên tiếng, họ không có những

diễn đàn chung để phát ngôn một cách chính thống và rầm rộ nhƣ nhóm "Xuân Thu Nhã

Tập"

148

hay nhóm "Dạ Đài" sau này. Họ cũng phát biểu và tuyên ngôn khá nhiều nhƣng phần đông là

rải rác, vụn vặt. Những tuyên ngôn của họ đã đủ trở thành một hệ thống nguyên tắc có tính

chuẩn mực một mô hình lí thuyết thi ca để chở hẳn ra một trƣờng phái, dẫn dắt một khuynh

hƣớng thi ca chƣa? Giới nghiên cứu còn phải tiếp tục tìm hiểu, khảo sát. Tuy nhiên, sức sống

căn bản của trƣờng thơ này (so với hai nhóm kia) vẫn là bằng sáng tác. Và dẫu sao, những gì

Hàn Mặc Tử đã tuyên ngôn và đã làm cũng cho thấy, ít nhất, nó cũng tạo ra đƣợc một diện

mạo thi ca riêng nào đó, đậm nhất là ở "Thơ Điên".

Coi Thơ Điên nhƣ một dạng thức, một loại hình, không có nghĩa là coi nó hoàn toàn

khác lạ, hay hoàn toàn đối lập với Thơ Mới nói chung. Thực ra, nó chỉ là một dạng thức khá

đặc biệt của Thơ Mới mà thôi. Các đặc trƣng đƣợc mô tả dƣới đây là những dấu hiệu nhất

định và đƣợc khái quát chủ yếu từ trong sáng tác, chứ không chủ yếu từ những tuyên ngôn có

tính ý thức lí thuyết. Trong thực tế, chúng tồn tại trong cách thế là đan xuyên nhau một cách

ràng rịt, thậm chi bao hàm nhau. Sự tách bạch ở đây chỉ là tƣơng đối và cũng chỉ trên những

nét khái lƣợc thôi.

3.1. Nguồn cảm xúc đặc thù của Thơ Điên: Đau Thƣơng

Coi một loại hình thơ nhƣ một chỉnh thể với một hệ thống những dấu hiệu xác định,

luận án không thể không bắt đầu bằng việc tìm kiếm hạt nhân của hệ thống ấy. Ngƣời nghiên

cứu Hàn Mặc Tử đều biết: tập "Đau thƣơng" còn có tên "cúng cơm", tên khai sinh là "Thơ

Điên". Đây mới là cái tên mà vị thân sinh của nó hàng ấp ủ trong quá trình hoài thai. Hai cái

tên có thể hoán trái cho nhau là một điều đáng để cho chúng ta xem xét. Đúng thế, nếu Đau

thƣơng là nội dung sáng tạo, thì Điên chính là hình thức của sự sáng tạo ấy. Nói cách khác

Điên chính là sự hiện hình, sự cất tiếng của Đau thƣơng ở Hàn Mặc Tử. Nhƣ vậy, cội nguồn

của Thơ Điên chính là Đau thƣơng. Tất cả những yếu tố hình thức dị thƣờng đến mức kì quái

nữa có mặt ở đây, sở dĩ có thể

149

thành thơ là nhờ nguồn tình cảm, nguồn sống đặc biệt ấy. Nhƣ đã phân tích kỉ ở phần "Quan

niệm thơ", Đau thƣơng là một dạng thức và cũng là một cung bậc - cung bậc tột cùng của

lòng yêu sống. Là dạng thức mãnh liệt đến gần đứt cả sự sống, nhƣ một dây đàn sắp sửa đứt

phăng. Không còn là một kinh nghiệm bình thƣờng, nó là một thứ siêu nghiệm. Nếu không có

một nguồn sống nhƣ thế, những yếu tố khác của nó sẽ thành kì quái khó chấp nhận. Có lẽ

chƣa cảm thông hết với nguồn sống đặc biệt này, mà Xuân Diệu, trong bài "Thơ của Ngƣời",

đã tỏ ý nghi ngờ thơ Điên. Còn Chế Lan Viên thì ngay từ đầu đã "tiền hô hậu ủng" với chủ

soái của trƣờng Thơ Loạn, và cho đến khi viết giới thiệu tuyển tập ông vẫn giữ ý kiến bảo vệ

sắc bén của mình. Ông dẫn một tiếng thơ Tử khác xa với truyền thống, có vẻ rất "điên" và chỉ

ra cái gì đã tạo nên sức truyền cảm, sức sống chân chính của nó: "Chúng ta cần có ngƣời tả

trăng là trăng. Nhƣng cũng có ngƣời vƣợt lễ thoái tập đoàn mà xẻ trăng ra làm hai nửa: Vầng

trăng ai xẻ làm đôi (Kiều). Cần truyền thống nhƣng cũng cần biến dị, cần nói những điều

chƣa ai nói (...) Hôm nay còn một nửa trăng thôi! Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi/ Ta nhớ mình

xa thƣơng đứt ruột/ Trời làm nên tội buổi chia phôi. Không phải ma thuật, kĩ thuật gì của óc

đang lạm phát ngôn từ. Lòng có bị cắn đôi, đời có bị tan vỡ, tình có bị đứt đoạn, nghĩa là có

một thảm sử gì làm trữ kim, làm bảo đảm, thì mới có thể phát ra những từ ấy. "[163, 12]. Rõ

ràng Đau thƣơng chính là thứ trữ kim đặc biệt của thơ Hàn. Nhờ có thứ trữ kim này ngƣời ta

chẳng những thấy đƣợc cái lí của những hình thức kì dị, quá xa lạ, mà còn xuyên qua rào cản

của những cảm giác kinh dị để nhận chân những nỗi niềm thơ chân chính của thi nhân. Thơ

Hàn Mặc Tử vì thế nhƣ tiếng nêu rỏ mãu của con chim đỗ quyên, là tiếng nói của những hụt

hẫng tan hoang, là tiếng nói của một con ngƣời bị dồn đẩy đến miệng vực của cái chết; chới

với bên miệng vực ấy mà ngoài nhìn đời, mà nuối đời, níu đời. Mỗi tiếng nói thơ ca khác nào

nhƣ một lời nguyện cuối, một lời tuyệt mệnh: "Tôi còn trìu mến biết bao ngƣời / Vẻ đẹp xa

hoa của một thời / Đây lọ

150

ly thƣơng đầy tuyệt vọng / Đây giờ hấp hối sắp chia phôi", "Ta trút linh hồn chƣa phút dây /

Gió sầu vô hạn nuối trong cây / Còn em sao chẳng lay gì cả / Cứ để tang anh đến vạn

ngày"... Không chỉ là đau đớn của thân xác bị bạo bệnh hành hạ, quan trọng hơn là Đau

thƣơng vì nỗi tuyệt vọng luôn choáng ngợp cõi lòng, vò xé tâm can: "Lòng thi sĩ chứa đầy

trang vĩnh biệt", "Than ơi Hỡi biệt li chan chứa / Tƣởng cùng em vui hƣởng thú tiêu dao /

Anh sắp đi và chỉ hàng lệ ứa / Cả đau thƣơng dồn dập xót tâm bào", "Sao thơ anh toàn

nhuộm màu li biệt / Rên không thôi và nức nở cả bao đêm"... Nhƣng lòng yêu của Tử thật lạ

lùng: Tuyệt vòng có thể chấm dứt hi vọng nhƣng không chấm dứt tình yêu; càng mãnh liệt,

càng tuyệt vọng và càng tuyệt vọng lại càng mãnh liệt. Vì Đau thƣơng và Tuyệt vọng nên

Thơ Điên hiện ra nhƣ một thế giới quằn quại của tinh thần. Trong đó có những giằng xé

quyết liệt giữa bóng tối của bệnh tật chết chóc, của ma quỉ và Ánh sáng của tình yêu sự sống,

của thần thánh, giữa Địa ngục và Thiên đàng, giữa khoan dung độ lƣợng cao cả và Cố chấp

thù hận hẹp hòi... Một mặt nó đau đớn nhƣ muốn biến thành hận thù, muốn xả những uất

nghẹn vào trong mọi cử chỉ mọi thao tác: "Tôi gò tay lại / Tôi kìm sao bay / Gió nào tràn

ngập xứ này / Và tràn ngập cả những ngày xa xôi / Không trào nƣớc mắt không thê thảm /

Tôi doạ không gian rủa tới cùng / Tôi khát vô cùng / Tôi riết thời gian trong nắm tay / Tôi vo

tiếc mến nhƣ vo lụa / Cất tiếng cƣời giòn xao động cả vùng mây", mặt khác nó lại muốn siêu

thoát lên, thăng hoa lên từ chính những đau đớn của mình, vƣợt thoát cái địa ngục của thân

xác để bay lên thiên giới của tinh thần: "Tôi nhập hồn tôi trong khúc hát / Để nhờ không khí

đẩy lên trăng / Để nghe tiếng nhạc nghe Thƣờng trối / Để hợp tinh anh của Nguyệt Cầm / Và

để thoát li ngoài thế giới / Để cƣời, để trửng, để vêu nhau.". Một mặt đau đớn không cùng vì

sự phụ phàng, đến mức muốn giết ngƣời trong mộng để trả thù duyên kiếp đằng ấy: "Làm sao

giết đƣợc ngƣời trong mộng / Trả thù duyên kiếp phụ phàng",

151

mặt khác lại dằn lòng, cố nén hết đau thƣơng, gùi gắng vƣợt lên bằng khoan dung, bằng tình

yêu vô điều kiện: "Dẫu đau đớn vì lời phụ rẫy / Nhƣng mà ta chẳng lấy làm điều / Trăm năm

vẫn một lòng yêu / Và còn yêu mãi rất nhiều em ơi"... Và cũng vì nỗi đau đớn tuyệt vọng ấy,

vì một thế giới tinh thần quằn quại ấy, mà Thơ Điên vừa là tiếng kêu thê thiết buột thẳng ra

từ những cơn đau, những cuộc giằng xé, vừa là thơ cầu nguyện - hai đối cực đều ở mức Tột

cùng. Ta gặp ở đây những tiếng gào, rú, hú, thét, than, van, rên siết... "Ha ha! ta đuổi theo

trăng / Chao ôi chúng tôi rú lên vì kinh động", "Trời hỡi! Làm sao cho khỏi đói", "Trời hỗi!

bao giờ tôi chết đi", "Ôi trời ơi là Phan Thiết! Phan Thiết", "Bắt! bắt! Thơ bay trong gió

loạn", "Khóc cƣời nức nở đau miệng / Là nghĩa, trời ơi, nghia deo don", "Nghệ hỡi Nghệ!

muôn năm sầu thảm / Nhớ thƣơng còn một nắm xƣơng thôi / Thân tàn ma dại đi rồi / Rẫu rầu

nƣớc mắt bời bời ruột gan", "Thôi em chán quá! Em buồn quá!" v.v... Ta cũng gặp ở đây phổ

biến những dáng điệu, những lời lẽ nguyện cầu. Nguyện cầu cho mình, nguyện cầu cho ngƣời

yêu, nguyện cầu cho trăng sao, cho thời gian chậm lại, cho những vẻ đẹp cứ tƣơi thắm lâu

bền vĩnh viễn: "Bây giờ tôi dại tôi điên / Chắp tay tôi lạy cả miền không gian", "Tôi điên tôi

nói nhƣ ngƣời dại / Van lạy không gian xoá những ngày", "Tôi lạy muôn vì tinh tú nhé / Xin

đừng luân chuyển để thời gian / Chậm đi cho kẻ tôi yêu mến / Vẫn giữ màu tƣơi một mỹ

nhân", "Tôi đang cầu nguyện cho trăng tôi / Tôi làm cho trăng một tràng chuỗi / Trăng mới

là trăng của Rạng Ngời / Trăng, Trăng! Là Trăng. Trăng, Trăng!"... Tất cả những biểu hiện

phản trái nghịch lí ấy đều là ngôn ngữ của Đau thƣơng. Đọc Hàn Mặc Tử, dƣờng nhƣ ít ai

không thấy cái dạng thức tột cùng, cái cung bậc tình cảm tột cùng đó làm nguồn cội cho tiếng

thơ độc đáo ấy.

3.2. Chủ thể của Thơ Điên: Một xác thân nhiều nhân cách

152

Hiện tƣợng phân thân, phân li của Chủ thể trữ tình trong thơ, không phải hiếm. Có lúc

nó là mình, có lúc nó nhập thân, hoá thân vào muôn vàn đối tƣợng khác để cất lên muôn vàn

tiếng nói trữ tình khác nhau. Nhƣng Chủ thể trữ tình của Thơ Điên dƣờng nhƣ muốn đi xa

hơn. Nó không phải sự phân li đến tính, giả định. Mà Nó là sự phân lập kiểu một xác thân

nhiều nhân cách dạng hiện và phản trái nhau. Có thể nói Chủ thể thơ Điên nhƣ một dạng thức

của chủ thể. Hay theo đúng cái tinh thần của nó: đó là hình thái Chủ thể Tột cùng.

Có lẽ Chế Lan Viên không định hù doạ hay loè ngƣời đọc, khi viết những dạng này

trong lời tựa cho tập Điêu tàn - nó đƣợc xem là tuyên ngôn của trƣờng thơ Loạn nói chung:

"Thi sĩ không phải là Ngƣời, Nó là Ngƣời Mơ, ngƣời Say, Ngƣời Điên, Nó là Tiên, là Ma, là

Quỉ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát hiện Tại. Nó xối trộn Dĩ vãng. Nó ôm trùm Tƣơng lai... Cái gì

của nó cũng tột cùng". Những lời ấy cũng không định thần bí hoá cái tôi thi sĩ. Mà chính là

đã vẽ ra bức chân dung của chủ thể thơ Loạn, Thơ Điên, theo quan niệm của thi phái này.

Một chân dung theo cấu trúc nghịch lí. Nó là sự dung hợp của những đối cực phản trái nhất,

thậm chí vừa thi ca nhất vừa phản thi ca nhất, vừa mĩ lệ nhất vừa phản thẩm mĩ nhất (cố

nhiên thẩm mĩ đây là nói theo quan niệm truyền thống). Đó là chủ trƣơng của cả trƣờng thơ

này. Có nhƣ thế, cá nhân mới có thể vừa sống trong dƣơng thế, vừa xuống giao tiếp với thế

giới ta "muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi", để giao hoà với oan hồn của những chiêm

hƣơng trong vƣơng quốc Chiêm Thành đã tiêu trầm từ bao thuở. Thì thân mới có thể đến định

cƣ ở những tinh cầu giá lạnh, nằm ngủ trong sao, vỗ lên đầu sao Khuê, Sao Đẩu, vỗ lên cả

Nguyệt Cầu mà trò chuyện với chúng, chia sẻ với chúng, "lên lớp" cho chúng... Nghĩa là

bằng cấu trúc nghịch lí một cái thân da nhân cách nhƣ thế, thi sĩ của trƣờng thơ nàymới đến

đƣợc với những cõi

153

mơ vƣơng quốc ấy. "Trong thơ ta dẫu chẫm luôn sống mãi / Trong thơ ta thƣơng máu khóc

không thôi". Thậm chí còn luôn sinh hoá, phân thân, hoá thân để đóng các vai khác nhau

trong cùng một lớp lịch, cùng một lúc xẻ ra nhiều vai, thành nhiều con ngƣời cảm tính đối

thoại nhau, chất vấn lẫn nhau. trong một ngƣời vừa có Ngƣời, vừa có Ma, có Yêu, vừa có

Tiên, vừa có Thần thánh. Bởi thế, thơ Loạn thơ Điên nhƣ một sự chuyển kênh các cõi, sự

giao hoa của các bến bờ.

Thơ Điên là tiếng nói của Hƣơng thơm và Mật đắng, của Máu cuồng và Hồn Điên.

Nhƣng Hàn Mặc Tử trong thơ Điên không chỉ hiện ra nhƣ một chủ thể lúc nào cũng mang

trong mình Hƣơng thơm và mật đắng. Máu cuồng và Hồn Điên. Mà Hàn còn nhƣ một xác

thân tiêu tán, một xác thân chập chờn bất định giữa Hiện tại và Quá khứ, giữa Thực tại và

Nguyện ƣớc, giữa Mộng và Thực, giữa Chiêm bao và Sự Thực, giữa Âm và Dƣơng, giữa

Trần gian và Thiên giới, giữa Thế gian và Xuất Thế gian... Một chủ thể vừa phân li, khuyếch

tán, vừa hội nhập, kết tụ chủ thể sinh hoá bất định. Bởi sự "dỗng xáo trộn" này mà Chủ thể

thơ Điên mới hiện ra nhƣ một kẻ Điên. Khi đối diện với chính mình, Hàn Mặc Tử kinh hãi và

thích thú vì thấy cùng một lúc từ mình tác ra đến mấy "mình". Mỗi "mình" ấy đang làm một

việc và đang ở những chốn, những cõi rất xa nhau: "Lụa trời ai dệt với ai căng / ai thả chim

bay đến Quảng Hàn / Và ai gánh máu đi trên tuyết / Mảnh áo da cừu ngâm nở nang" "Tôi

ngồi dƣới bến đợi Nƣơng mơ / ... Ai đi lẳng lặng trên làn nƣớc / Với lại ai ngồi khít cạnh tôi /

Mà sao ngậm kín thơ đầy miệng / Không nói không rằng nín cả hơi"... Nhiều ngƣời thân của

Tử, kể rằng sự phân thân lạ lùng này là một cảm giác thực đã từng xảy ra với thi sĩ vào một

đêm thu, một mình Tử ngồi bên bờ biển nhìn ra phía xa và bỗng dƣng thấy diễn ra nhỡn tiền

cảnh tƣợng hãi hùng đó. Điều này cho thấy cái đời sống thực thể của thi nhân, một cách ngẫu

nhiên đã rất phù hợp với quan niệm của thi sĩ thơ Điên. Cho nên, sự trải nghiệm trực tiếp lập

tức đƣợc cải biến thành thi liệu để bƣớc vào thơ Tử. Nơi

154

hãi hùng đó. Điều này cho thấy cái đời sống thực thể của thi nhân, một cách ngẫu nhiên đã rất

phù hợp với quan niệm của thi sĩ thơ Điên. Cho nên, sự trải nghiệm trực tiếp lập tức đƣợc cải

biến thành thi liệu để bƣớc vào thơ Tử. Nói ngẫu nhiên phụ hợp "vì trong thơ Chế Lan Viên

chẳng hạn, ta cũng gặp không ít cảnh phân thân tƣơng tự, mà trong thực tế thi sĩ có thấy

những cảnh trông nhƣ Tử thấy bao giờ đâu. Bằng một phép tƣởng tƣợng đơn thuần, một thi sĩ

thơ Điên vẫn có thể sáng tạo trong thơ hình ảnh ấy. Sự phân thân kinh dị ấy của Tử chính là

lúc nó thấy mình là Ngƣời Mơ, là Ngƣời Say, là Yêu, là Ma, là Tinh đó thôi. Hiện tƣợng

một xác thân da nhân cách phổ biến nhất Hàn Mặc Tử là sự sinh hoá, phân li Xác và

Hồn. Con ngƣời thực thể và con ngƣời tinh thần tách hẳn nhau, nhƣ hai nhân cách biệt lập.

Xác là cái Tôi thứ Nhất, là Ngƣời. Hồn là cái Tôi thứ Hai, thứ Ba, là Ma, là Yêu, là Tinh, là

nanh Khí... Có lẽ bởi điều này mà có ý kiến đã phân biệt thành Ngã và Siêu ngã - cái giúp cho

thi sĩ có thể đi vào, hoà nhập vào những cõi khác, nhất là những cõi anh linh huyền vi. [52,

8]. Đây là lúc Thi sĩ xuất hồn ra khỏi xác linh nhập vào xác khác, xác một cô gái Đồng trinh:

"Có tôi đây hồn phách ở đây / Tôi nhập vào xác thịt này". Đây là lúc Thi sĩ khạc hồn ra khỏi

miệng, cho hồn bay tít lên thiên không, hồn tìm kiếm mĩ nhân - bằng cách ấy cái Tôi thứ nhất

đã "lên" đến đƣợc bên nàg: "Ta khạc hồn ra ngoài lỗ miệng / Cho bay lên hí hửng giữa ngàn

khơi / Ở trên kia, có một ngƣời / Ngồi bến trăng Ngân giặt lụa chơi / Nƣớc hoá thành trăng,

trăng ra nƣớc / Lụa là ƣớt luôn cả nàng than / Ngƣời trăng ăn vận toàn trăng cả / Gò má

riêng thôi lại chƣờm / Ta hẳn đƣa tay choàng trăng để / Mơ màng ta lƣợm tơ trăng rồi". Nói

cùng, trăng tan, trăng dọng, trăng khô, trăng chết. Cũng trong khi đó Hồn lặng lẽ nhập lại vào

Xác kết thúc cuộc phiêu lƣu thiên giới để trở lại với thực tại đau thƣơng. Đối với chủ thể đặc

biệt này, phân li là trạng thái sống thực của nó. Còn khi hội nhập xác hồn lại là nỗi chết đến

với nó: "Gió rít tầng

155

mình ta tất cả Tình nhân: "Cả miệng ta trăng là trăng / Cả lòng ta vô số gái hồng nhan / Ta

nhả ra day một nàng / Cho mây lặng lờ cho nƣớc ngất ngây". Rồi chính trong phút ấy chủ thể

toàn năng bỗng thấy bên cạnh mình xuất hiện một "mình" nữa hay chính nàng hồng nhan kia

đã chợt biến thành "Bóng ai theo dõi bóng mình / Bóng nàng yêu tinh / Dịp cƣời nhƣ tiếng vờ

phả về". Song thoát cái, chủ thể toàn năng kia đã thay mình là hữu hạn. Ngiã là một cái Tôi

khác - Cái tôi thực thể khổ đau bệnh hoạn, cái Tôi nguyên bản tƣởng - xuất hiện: "Thƣa, tôi

không dám say me / Một mai tôi chế bên khe ngọc tuyền / Bây giờ tôi dại tôi điên / Chắp tay

tôi lạy cả miền không gian". Kết thúc sự phân hoá thành nhiều nhân cách. Nhƣng sự phân

thân đáng sợ nhất là việc Cái Tôi ấy xuất Hồn ra khỏi mìh, rồi Hồn ấy bám riết lấy cái tôi kia

nhƣ muốn cợt nhả, trêu chọc, muốn hù doạ, muốn ám mãi không chịu buông tha: "Hồn là ai?

là ai? tôi chẳng biết / Hồn theo tôi nhƣ muốn cợt tôi chơi / Mỗi dãy hƣơng tôi không dám

ngậm cƣời / Hồn vội mớm cho tôi bao ánh sáng ... Hồn là ai? Là ai? Tôi không hay . Dẫu

hồn đi ròng rã một đêm nay / Hồn mệt lả mà tôi thì chết giấc". Kinh hãi đến ghê ngƣời là

Hồn thoát ra ngoài Xác thành một vũng. Nó là Vũng máu nhƣng nó cũng là Vũng HỒn. Cái

Tôi ấy đi thuyền chính trên trên vũng hồn mình: "Ta muốn níu hồn ai đƣơng hiển hiện /

Trong lòng và đang tắm máu sông ta / ... Ôi ngông cuồng! Ôi rồ dại, rồ dại / Ta cắm thuyền

chính giữa vũng hồn ta"... Nhƣ thế, nguyên uỷ của cả Sự phân li lẫn Hội tụ trong chủ thể Thơ

Điên đều là ở Đau thƣơng: Đau thƣơng đã phá vỡ cái Nguyên Tôi, khiến nó tan thành muôn

mảnh, muôn cái Tôi phân liệt, rồi muôn mảnh ấy lại tìm về trong một Con ngƣời Tử mà

thống nhất lại trong nỗi Đau thƣơng.

Có ngƣời giải thích sự xuất hiện của Hồn, Ma, Yêu, Tinh ... trong thơ của Hà

Mặc Tử nói riêng và thơ của các thành viên trƣờng thơ Loạn nói chung là do ảnh hƣởng của

Văn Hoá Chăm [81, 66]. Các truyền thuyết của

156

ngƣời Chăm vùng thành Đồ Bàn, trong đó nói nhiều đến sự hiện hình của những ma Hời bao

bọc xung quanh đời sống văn hoá vùng này, chắc chắn có ảnh hƣởng không nhỏ đến các cây

bút ấy nhất là nhóm "bàn Thành Tứ Hữu", hơn cả là Chế Lan Viên. Nhƣng có lẽ nó không

ảnh hƣởng dƣới dạng những chất liệu, thi liệu vay mƣợn. Sâu hơn, nó ảnh hƣởng đến sự hình

thành quan cam, hình thành cái nết thi pháp Một xác thân nhiều nhân cách của chủ thể thơ

Điên đầy phân li sinh hoá ấy. Vì chính nguyên tắc này đã chi phối hiện tƣợng phân thân dễ sợ

kể trên.

3.3. Kênh hình ảnh tân kì của Thơ Điên: Những vẻ kì dị

Các nhà lập thuyết của Trƣờng thơ Loạn có tham vòng xây dựng một mĩ mọc riêng

cho thi phái của mình. Trong tiểu luận "Nghệ thuật là gì?", Hàn Mặc Tử có trình bày quan

niệm của mình, cái chí hƣớng nghệ thuật của Quăng mình đi giữa cái vũ trụ mệnh mông, rƣợt

nà theo những nguyện vọng cho xa, những cái ý nghĩa ấy là do cái năng lực tinh thần mạnh

mẽ nó thúc giục mình. Rồi ta tìm thấy sự vui mừng trong khi vạn vật đổi thay, luân chuyển./

Một tiếng gọi ở chốn xa xăm, thiêng liêng và huyền bí làm rung động cõi lòng ta... / Bồn

chồn, ta quyết đi tìm sự lạ" [35, 83]. Còn trong bài tựa "Bích nghệ, thi sĩ thần linh", khi viết

về sự thôi thúc tƣ tƣởng trong việc kiếm tìm những bến bờ mới cho thi ca của tác giả "Tinh

huyết", Hàn Mặc Tử đã cố suý: "Là vì luôn luôn, thi sĩ khát khao cái mới, cái đẹp, cái gì rung

cảm hồn phách chàng đến tê liệt, dại khờ, dù cái cao cả hay đê tiện, tinh khiết hay dơ bẩn,

nên là có tính chất gây nên đê mê khoái lạc.". Đơn giản vì, cả hai đều đồng chí hƣớng. Phải

"Quyết đi tìm sự lạ" là sự quyết chí của cả đời thơ Hàn Mặc Tử. Tìm kiếm cái mới lạ là ham

muốn không của riêng một nghệ sĩ nào. Nhƣng ở các thành viên Trƣờng thơ Loạn, cái mới lạ

ấy có một diện mạo riêng. Nếu nhƣ Baudelairc trong tập "Hoa ác" đã đi tìm chất thơ, tìm cái

đẹp trong cái Ác, thì các thành viên của trƣờng thơ này cũng đi tìm cái mới, cái

157

đẹp, tìm chất thơ trong sự Kinh dị. Đó là những cái mới lạ có phàn ma quái, ghê rợn. Và khi

đã đi đến tận cùng (đối với bút lực của mình). Hàn Mặc Tử đã tới Thơ Điên và mang lại Vẻ

đẹp kì dị cho thế giới thơ này. Chất thơ kì dị này là một điểm phân hoá ngƣời đọc: Ai cổ vũ

cho sự cách tân, ai thấy đƣợc sự ma quái cũng có vẻ đẹp riêng, ai cho rằng kinh dị cũng là

một nhu cầu thuộc cảm xúc thẩm mĩ của con ngƣời, thì mới dễ tiếp nhận Hàn Mặc Tử.

Nhiều ngƣời coi Thơ Điên với vẻ đẹp kì dị của Hàn Mặc Tử là một hiện tƣợng vô tiền

khoáng hậu. Lời đánh giá ấy thể hiện rõ một nhiệt tình, nhƣng e rằng chƣa thật công bằng.

Đúng là, sự xuất hiện của thơ Điên quả có nhƣ một "cú sốc", một sự nổi loạn đối với quan

niệm mĩ học của thi ca truyền thống. Nhƣng không có nghĩa là vẽ đẹp kì dị trong Thơ Điên

không ít nhiều có góc rẽ trong truyền thống. Nếu nhƣ ngƣời đọic Việt Nam đã từng say sƣa

với những yếu tố "kì" của những truyện cổ dân gian, của những Lĩnh Nam chích quái, Việt

diện u linh, Truyền kì mạn lục của Ta hoặc Liêu trai chí dị của Tàu, thì sẽ thấy vẻ kì dị ma

quái của thơ Điên không hoàn toàn xa lạ. Và chăng, đƣơng thời cái "kì" cũng ùa vào văn

chƣơng khá thoải mái với những sáng tác của Thế Lữ, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Bùi Hiển...

Đó thực sự là những tiền đề văn hoá, những đồng minh tƣơng tác cho các nhà thơ của trƣờng

thơ Loạn dễ dàng và say sƣa đi vào thế giới kì dị dễ sợ. Tuy nhiên dẫu sao đó vẫn mới chỉ

trong địa hạt văn xuôi. Cũng có ngƣời đã dẫn Truyện Kiều với những trang tả cái thế giới

huyện hô ma mị của Dạm Tiên, và xem đó ít nhiều nhƣ một tiền lệ của yếu tố kì trong thơ.

Nhƣng, sự xuất hiện của vẻ đẹp kì dị đối với các nhà thơ Bình Định cần đƣợc nhìn nhận trực

tiếp hơn từ nguồn ảnh hƣởng Baudelaire với tập "Hoa ác". Nhƣ đã nói ở phần "Quan niệm

thơ", dù Hàn Mặc Tử đã công nhiên phê phán nhiều luận điểm trong quan niệm thi ca của

Baudelaire, nhƣng cả trong quan niệm lãn trong sáng tác, Hàn Mặc Tử đã không thể thoát

khỏi trƣờng ảnh hƣởng quá rộng rãi và quá tinh vi của tác giả "Hoa ác". Có thể nói cả Xuân

Diệu mới nhất trong các nhà thơ Mới, lẫn Hàn

158

Mặc Tử - Lạ nhất trong các nhà Thơ Mới, đều chia nhau ảnh hƣởng từ bậc ý của chủ nghĩa

Tƣợng trƣng này. Nếu Xuân Diệu đã nhận Baudelaire từ tƣơng ứng - chủ yếu là tƣơng ứng

giữa giác quan - để đi vào "Thế giới dƣơng" của vẻ đẹp trần thế, thì Hàn Mặc Tử lại lĩnh từ

Baudelaire một cảm giác ma quái để đi mãi vào thế giới Đau thƣơng mà cứ bị hút theo, bị

thôi thúc bởi những vẻ đẹp kì dị, Baudelaire đã tìm kiếm chất thơ ở những sự vật man rợn,

kinh hãi nhƣ xác chết, máu me, xƣơng tuỷ, sự dâm đãng.v.v... thì đến lƣợt mình, Hàn Mặc Tử

và các thành viên của trƣờng thơ Loạn cũng nói đến những xác chết, đầu lâu, sọ dừa, xƣơng

khô, sự trần truồng... Trong thơ Hàn Mạc Tử có "Hƣơng thơm", có "Mật đắng", có "Máu

cuồng" và "Hồn điên". Còn trong thơ Bích Khê có cả những chủ điểm lớn "Nhạc và Lệ", cà

"Đẹp và Xấu" và cả "Cuồng và Ánh sáng". Trong Thơ Chế Lan Viên cũng đầy rẫy những

Ma, Tinh, Yêu, những Sọ ngƣời, Xƣơng máu... Điều này là bằng chứng cho thấy "Chất

Tƣợng trƣng Baudelaire" ngấm vào máu huyết của cả trƣờng thơ ấy. Tuy nhiên, nến các thi

hữu của mình nghiêng về sự tuân thủ những quan niệm mang tính lí thuyết, nghĩa là tuân theo

những mô thức do họ phác hoạ từ trƣớc, thì riêng Hàn Mặc Tử lại có một đời sống thực thể

rất gắn với cái thế giới kinh dị đó. Ông thƣờng xuyên rơi vào tình trạng cô đơn tuyệt đối, tinh

thần bị vây khốn giữa một thế giới đơn độc luôn bị ám ảnh bởi Nỗi chết của riêng mình, luôn

bị cái bóng của lƣỡi hái thần Chết rình rập, rồi những chặng nối còn hay trải nghiệm trạng

thái của ngƣời kề cận cái chết xuất hồn khỏi xác phiêu diêu trong ánh sáng huyền nhiệm, bầu

bạn với những biểu tƣợng kinh loạn nhất của thế giới khác. Từ đó có thể thấy, Hàn Mặc Tử

đến với vẻ đẹp kinh dị trong thơ vừa bởi một quan niệm thi ca, vừa nhƣ một nhu cầu tự biểu

hiện của tính nội tại. Có lẽ, phải nhờ hội đủ cả hai lí do đó mà Hàn Mặc Tử mới nói đến Cái

Kinh dị với một cƣờng độ lớn đến thế và tự nhiên nhƣ máu thịt đến thế. Có thể nói Hàn Mặc

Tử đã mở ra cả một "Kênh" hình ảnh kinh dị từ những động thái của Cái Tôi đến hình ảnh

Thế giới, thậm chí cả

159

hình ảnh Nàng Thơ. Không có "kênh" hình ảnh này thì Đau thƣơng cũng khó thể trở thành

thơ Điên. Vẻ đẹp kì dị kinh dị đã trở thành một nét thi pháp định của Thơ Điên là do thế.

Nói đến kiểu chủ thể một xác thân nhiều nhân cách với sự dung hợp đối cực phản trái

nhau thì đó đã là một biểu hiện của vẻ đẹp kinh dị rồi nhƣng xét động thái trữ tình thực sự

mang tính kinh dị của cái Tôi ấy thì phải đến hiện tƣợng phân li xác hồn liên miên, hiện

tƣợng tan hoang tiêu tán và những thi ảnh khẩu cảm hết sức đậm đặc trong thơ Hàn Mặc Tử.

Hồn lìa khỏi Xác là một Tôi, Hồn lại là một Tôi khác. Xác nắm tay Hồn dẫn nhau đi chơi -

"Hồn mệt lử còn tôi thì chế giấc", "Hồn anh sẽ nhập trong luồng gió lƣu luyến bên em chẳng

nói gì", "Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm / Cho trăng ngập trăng dồn lên tới ngực",

"Rồi hồn ngắm tử thì hồn than rã / Bèo anh ám khí loãng nguyệt cần xa", "Anh đã thoát hồn

anh ngaòi xác thịt / Để úp chòn trong ánh sáng mông lung"... Hồn đùa cợt, chọc ghẹo Xác

nhƣ là nhận dạng, nhân cách, thậm chí, hai nhân thân biệt lập với nhau... Tất cả những hình

ảnh kinh hãi ấy đều cho thấy và biểu hiện một cuộc vật lộn vật giữa Xác thân đau đớn với

Linh hồn thanh khiết. Trong đó ta có thể thay đổi với Hàn Mặc Tử Thơ là một sự thoát xác -

Thoát ra ngoài sự cầm tù u tối và nặng nề của thân xác bệnh hoạn. Từ góc nhìn vào một đề tài

lẻ trong thế giới thơ ràng rịt của Hàn Mặc Tử, nhà nghiên cứu Phạm Đán Bính nhận ra hiện

tƣợng tan loãng trong thơ Điên của thi sĩ này. Từ đoạn thơ đƣợc dẫn trong trƣờng tƣơng tƣ":

"Hãy mƣờng tƣợng một ngƣời thơ đang sống (...) / Một khối ảnh nức nở giữa âm u / Một hồn

đau rã lần theo hƣơng khối / Một bài thơ ấy lan trang nắng rọi / Một lời run hồi hộp giữa

không trung / Cả miền ven nhớ cả một vùng / Hoá thành vũng máu dào trong ác lặn". Ông đã

có cảm nhận rất tinh vi: "Đấy là tất cả ngƣời anh tiêu tán... Cái đặc biệt của đoạn này những

hình ảnh của nhà thơ về chính mình đều gợi nên ý niệm TAN

160

TRĂNG. Thi sĩ không nói đến thân xác mình ở đây. Có chăng, tiếng khóc ở trong phổi",

"trong tim", có thể ám chỉ rất xa một thân xác bị tàn phá vì bệnh, nhƣng sự rạn vỡ chính yếu

ở tận "đáy lòng" là sự rạn vỡ thầm kín "trong hồn". Lòng lên tiếng "nức nở", cũng là những

rạn vỡ về mặt âm thanh. Thân xác đau lòng thảm khốc bằng "hồn đau". Và hồn đau với "khối

tình", với cả "niềm tin, ý nhớ". đã bật thành tiếng khó, đã ngân lên "lời run", đã vang thành

"bài thơ", đã chảy trào nhƣ "máu". Và tất cả những cái ấy đều TAN, đều LOÃNG ra theo

hƣơng khói, với nắng, với màu trời hoàng hôn: "Cả niềm yêu, ý nhớ, một vùng / Hoá thành

vũng máu dào trong ác lặn" [35, 380-381]. Chúng ta cũng có thể tán thành với nhận xét:

"Hình ảnh khô cứng có khi xuất hiện nhƣ hình thức tƣơng phản, để gợi cảnh chết chóc, khi

sức sống rút dần hay tình yêu vơi cạn (...) những gì thƣờng xuyên liên tục tuôn trào nhƣ dòng

đời, luồn sống thì cúng dọng lại; còn những gì chắc chắn, có hình thù khơi dựng, thì tan loãng

ra." [35, 382]. Và tuy Phạm Đán Bình không tìm hiểu sâu bản chất của tuyệt vọng ở Hàn Mặc

Tử, song về hạt nhân, ý kiến của nhà nghiên cứu vẫn đề cập đƣợc nét đẹp thật sự của tấm

lòng yêu đời Hàn Mặc Tử nhƣng hình ảnh Tan loãng phong phú và thích hợp với tâm trạng

Hàn Mặc Tử hơn. Vì tiêu tán ở nơi họ Hàn không là tận tuyệt và không dẫn ĐẾN Hƣ vô,

phẫn uất và tuyệt vọng nhƣ ở Baudelaire. Hàn Mặc Tử có một thái độ thiết thực với cuộc

sống và càng thấy vơi cạn càng tha thiết." [35, 382]. Sự tan loãng phân tán phổ biến trong thơ

Điên đã góp phần tạo ra một cảm giác về một thể giới mà bao trùm lên nó là một sự quằn

quại để vƣợt thoát một nỗi Chết trong vồ chụp lấy nó nhƣ một cái bóng đề đến nghẹt

thở của Định mệnh.

Một nét kinh dị nữa cũng phổ biến góp vào cái diện mạo riêng khá ổn định của Thơ

Điên là Hàn Mặc Tử đã chuyển rất nhiều động thái vốn của các giác quan khác về một khí

quan đặc biệt là: miệng, Nhà nghiên cứu Bùi Xuân Đán gọi đó là những "thi ảnh khẩu cảm"

[35, 433-447]. Bên cạnh những khâu

161

khẩu âm thuộc vị giác đơn thuần và đem lại những thi vị vốn đã quen thuộc trong thơ, Hàn

Mặc Tử đã đƣa vào những thứ khẩu cảm lạ lùng thậm chí quái dị, mà ngƣời ta chẳng những

chƣa từng thấy đƣợc sử dụng trong thơ, hơn thế nữa, chúng hoàn toàn phản thơ theo quan

niệm truyền thống: "Trời hỡi làm sao cho khỏi đói / Gió trăng có sẵn làm sao ăn", "Tôi toan

hớp cả vầng trăng trời / Tôi toan hớp cả miếng cƣời trong khe", "Có ai nuốt ánh trăng vàng /

Có ai nuốt cả bóng nàng Tiên Nga", "Ta cắn lời thơ để máu trào". Ta há miệng cho nguồn

thơ trào vọt", "Dƣơng cầu xin ọc thơ ra đƣờng sữa / Ta ngất đi trong khoái lạc của hồn đau",

"Cả một miệng ta trăng trăng là trăng / Cả lòng ta vô số gái hồng nhan / Ta nhả ra đây một

nàng / Cho hƣơng lặng lờ cho nƣớc ngất ngây", "HỒn môi mớm cho tôi muôn ánh sáng",

"Cƣời no nê sặc sụa cả mùi trăng", "Lời thơ ngậm cứng không rên rỉ", "Ta khạc hồn ra ngoài

cửa miệng", "Hổm nay có một nửa trăng thôi / Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi", "Ta ngậm

hƣơng trăng đầy vô miệng / Cho ngây ngƣời mê dại cả tâm can" v.v... Với những thi ảnh

khẩu âm này, thơ Điên của Hàn Mặc Tử hiện ra thật kì dị, đúng là một sự nổi loạn đối với

những chuẩn mực thi ca truyền thống. Điều này giúp chủ thể thể hiện đƣợc những gì đau đớn

nhất đang hành hạ thân xác, và nỗi cô đơn khủng khiếp dƣờng nhƣ đã tƣớc đi của chủ thể

những nghi thức biểu cảm thông thƣờng, khiến cho cái lối biểu cảm thông thƣờng không còn

đủ sức đáp ứng, không còn tải đƣợc cái cung bậc đau thƣơng vốn dĩ quá tải của chủ thể, buộc

nó phải làm đến những kênh biểu hiện mới. Ở bình diện này lối biểu hiện kinh dị vừa nhƣ

một tìm tòi mới trong lối biểu hiện của thơ, nhƣng trƣớc tiên nó là một sự giải thoát, nghĩa là

một nhu cầu sống bức xúc của chủ thể trong thơ và bằng thơ.

Tuy nhiên, dù không thể phủ nhận cảm xúc kinh hãi có đem đến cho thơ một sức hấp

dẫn kì dị đáp ứng đƣợc một nhu cầu nào đó của ngƣời đọc thơ,

162

nhƣng nếu chỉ có thuần những vẻ kinh dị không thôi, chắc chắn cảm xúc của ngƣời đọc cũng

trở nên quá tải. Và thơ Điên cũng chắc chắn không chiếm đƣợc vị trí nào trong tâm trí ngƣời

đọc thơ. Vẻ đẹp kinh dị nổi trội nhƣ một nét đặc thù, nhƣng nó tồn tại đƣợc chính là nhờ đã

đƣợc kết hợp với những yếu tố thi ca khác. Có lẽ cần phải khẳng định ngay rằng vẻ kinh dị

chủ yếu tập trung trong Hình tƣợng Thế giới và Hình Tƣợng Cái Tôi, còn ở Hình tƣợng Làng

Thơ - hiện thân cho cái đẹp Xuân Tình mà Trinh khiết - chúng ta có thể thấy đôi nét kì dị chứ

không đến mức trở thành kinh dị. Có thể có lúc ta thấy xuất hiện "Yêu tinh" nhƣng Hàn Mặc

Tử lại xoá đi cái cảm giác ghê sợ có thể có bằng cách gọi luyến ái: "Nàng Yêu tinh", "Bóng

nàng yêu tinh / nhịp cƣời nhƣ tiếng vỡ pha lê". Nếu ở Xuân Diệu mới là tuyên bố "Khi chết

rồi thì tôi sẽ yêu ma", thì Thi sĩ thơ Đien này muốn đi xa hơn, đi hẳn vào thế giới của yêu ma

mà tái hiện lại một cách cụ thể cảm tính sự luyến ái ở cõi ấy. Nghĩa là thi sĩ muốn tạo ra một

phía khác của cảm xúc trữ tình bằng cách pha vào đó một phân lƣợng ghê lanh, gai gợn của

thế giới Liêu Trai. Hình ảnh kinh dị vào bậc nhất của Thơ Điên là Máu thì hầu nhƣ không

thấy xuất hiện trong việc phác hoạ Nàng Thơ. Trái lại Nàng Thơ thƣờng hiện ra cùng với

Trăng. Trăng chính là cái môi trƣờng lộng lẫy lí tƣởng nhất dể Hàn Mặc Tử làm nổi bật vẻ

đẹp Xuân Tình mà nhất là Thanh khiết, ngay cả khi thi sĩ đƣa vào đó cả một phân lƣợng nào

đó của cảm xúc kì dị: "Tôi run run khi có cái ý nghĩa: Chị là một Nàng Ngọc nữ, một hồn ma,

hay một yêu tinh. Nhƣng tôi lại phì cƣời và vội reo lên "A ha, chị Lễ ơi, chị là trăng mà em

đây cũng là trăng nửa!" Nhƣ thế trong cảm xúc của thi sĩ Thơ Điên, Ngọc nữ, Ma, Yêu tinh

là bình đẳng với nhau, chỉ là những phân thân khác nhau của Nàng Thơ giống nhƣ sự tán sắc

thành các sắc do phản trái nhau của ánh sáng. Nhƣng khi hoà hợp, chung lúc lại thành nhất

thể nó chỉ là một - là TRĂNG thôi! Cái đẹp kì dị kinh dị trong thơ Điên có một biên độ, một

nội hàm rộng lớn hơn rất nhiều so với cái nghĩa hạn hẹp của chữ kinh dị thông thƣờng.

163

Hay nói riêng hệ thống những hình ảnh gây thành ấn tƣợng tựa hồ một cú sốc" với ngƣời đọc,

từng đƣợc giới nghiên cứu để tâm từ rất sớm là Trăng sao - Máu cũng có thể thấy đƣợc cái

hàm nghĩa rất rộng đó. Nhƣng ngƣời coi Hàn Mặc Tử là Tƣợng trƣng đã căn cứ vào những

hình ảnh này rất nhiều. Số đông ngƣời ta chỉ thấy đấy là những biểu tƣợng kinh dị vào bậc

nhất của thơ Điên mà không thấy tính hai mặt của chúng. Một mặt đó là những hình dung kì

dị dễ sợ, mặt khác nó cũng là những hình tƣợng giàu chất thơ nhất có quan niệm truyền

thống. Đây là Máu: "Xin dâng này máu đang tƣơi / Nay nƣớc mắt giọng cƣời chen nhau",

"Sao bông phƣợng nở trong màu huyết / Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu"... Đây là Hồn:

"Chúng tôi là ngƣời của giấc mơ / không xác thịt chỉ có linh hồn đang mộng", "Ta muốn hồn

trào ra ngọn bút / Mỗi lời thơ đều dính não của ta" Trăng cũng thế có "Trăng tử", có "Gió rít

tầng cao trăng ngã ngửa / Vô tan thành vũng đọng vang vọng", nhƣng cũng có "trăng vàng

trăng ngọc", "Trăng vƣớng trong cành trúc", ngả nghiên dồi bao bọc trăng ngủ / Dẫy mình

lốm đốm nhƣng bao quanh", "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó / Có chở trăng về kịp tối

nay", Nƣớc hoá thành trăng, trăng ra nƣớc / Lụa là ƣớt đẫm cả trăng thâu", "Ở chỗ nào cũng

có trăng, có ánh sáng cả, tƣởng chừng nhƣ bầu thế giới chở chúng tôi nay cũng đang ngập

lụt trong trăng và bình bỗng đến một địa cầu khác / Ánh trăng tràn trề, ánh sáng tràn lan, chị

tôi và tôi đều ngả vụt áo ra bọc lấy, nhƣ bơ lấy đồ châu báu..." Trong mỗi biểu tƣợng ấy, đều

tháy có cả những gì kinh dị nhất cả những gì thanh khiết nhất, dƣờng nhƣ nó là dấu vết của

cuộc vật lộn nội tâm quằn quại của Hàn Mặc Tử giữa Đau thƣơng và sáng tạo, ta sống tranh

vật lộn không ngƣng giữa Thân xác bệnh hoạn tàn huỷ và Linh hồn thanh khiết. Đồng thời sự

hiện diện của hệ thống Trăng - Hồn - Máu còn ẩn cài trong Nhạc, Hƣơng, Hoa, Ngọc... nửa.

Sự hoà trộn này cũng khiến cho thơ Điên không trở thành kinh dị thái quá.

164

3.4. Mạch liên kết của Thơ Điên: Dòng tâm tƣ bất định

Không ít ngƣời trong giới "Han học" đã cảm nhận thấy một điều là: Thơ Hàn Mặc Tử,

nhất là trong Đau thƣơng, có một lối liên kết "kì cục", cứ nhƣ là dẫu Ngô mình Sở". Vũ Quần

Phƣơng và Lê Quang Hƣng đều gọi đó là kiểu Cóc nhảy". Những ý kiến kiểu này về thực

chất đã vô tình động chạmd dến một trong những nét đặc trƣng của thi pháp thơ Điên: Mạch

liên kết siêu lôgic của dòng, tâm tƣ bất định. Có nghĩa là sự liên kết trong thơ Hàn Mặc Tử cứ

cuốn tuột ra khỏi tầm kiểm soát của lí trí, các mảng thơ dính với nhau không dải do áp lực

của tính hợp lí thuộc một lôgíc thông thƣờng. Mà phải thế, nếu có tuân theo lôgíc thông

thƣờng thì đã không đƣợc gọi bằng thơ Điên. Điều này có cội nguồn riêng của nó.

Đọc những gì có thể gọi là quan niệm lí thuyết của Hàn Mặc Tử về thơ, ta không thấy

Tử nói đến "Câu thơ tự hành" nhƣ nhiều nhà thơ tƣợng trƣng và trên thực chủ trƣơng. Vậy là

kiểu liên kết siêu lôgíc này có lẽ không đến với sự tự nhận thức lý thuyết theo lối ngoại nhập.

Nó là nội sinh. Trƣớc hết là từ đến tƣ duy đặc biệt của Hàn Mặc Tử. Trong bài tiểu luận

"Chiêm bao với Sự thực", Ông tự nói về trạng thái sáng tạo thi ca của mình: "Ngoại cảnh đã

xâm phạm xác thịt và linh hồn tôi. Bao nhiêu là tinh anh của non sông đều xông vào rồi rút

hết tình tiết tôi. Tôi có thể bảo đây là một lối thần giao cách cảm, mà phải cảnh hay thâm tâm

đồng xáo dỗng (...) Chiêm bao rã rời trong khi ánh trăng sự thực rọi tới. Bây giờ ngoại cảnh

và nội tâm điều hoà, run lên nhƣ những nhịp tiêu thiêu thành bại... Tôi cảm thấy hồn tôi mất

đi một nửa, và tôi đƣơng sống trong sự mơ hồ... Và tôi sẽ kí thuyết minh một cách rất nhà

Phạt là xác cũng nhƣ không, Chết cũng nhƣ Sống, Gần nhƣ Xa và Hƣ cũng nhƣ thực...

Những điều phản trái ấy dẫu thế nào, cũng có liên lạc, mật thiết và thông cảm với nhau."

[164, 79-80-81]. Trạng thái này, nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiếu là "siêu thức", "là nhận

thức mà ở đó giữa những điều phản trái

165

không chỉ có sự đối lập mà có sự giao hoà, thông cảm: hƣ và thực gần và xa, chiêm bao và sự

thực, tinh thần và nhục cảm, mơ mộng u huyền và siêu thoát lang láng ... ở tầng "siêu thức",

những nguồn khoái cảm đe mê không phản trái hƣơng thơm tho trong sạch, thơ ca không

xung khắc với khoa học và luân lí, giác quan và tứ chi" của ngƣời thơ không tách bạch ra

khỏi hồn và phách, ý tứ thơ" [52, 8]. Trong trạng thái này, ý chí và lí trí của thi sĩ không thể

nắm chắc trò độc tôn để áp đặt cái quyền lực lôgíc vốn có của nó. Những sản phẩm thơ ca

Hàn Mặc Tử ra đời trong các trạng thái nhƣ thể dứt khoát không thể tuân theo một lôgíc

thông thƣờng. Có nghĩa chúng chỉ là những dòng nội tâm bất định đƣợc "tốc kí" một cách

trung thành. Nên nhớ rằng chính Hàn Mặc Tử cũng tự ý thức đƣợc rằng, lúc ấy ngoại cảnh và

nội tâm đồng xao động, cho nên đối với thi sĩ những hình ảnh kia cũng chập chờn bất định

tựa nhƣ những huyền ảnh thôi: "Có hay không, hƣ hay thực là những huyền ảnh chập chờn

trƣớc mắt" [164, 83]. Đã là huyền ảnh thì là sao có thể nói đến một lôgíc thông thƣờng đƣợc.

Cố nhiên, để nó vẫn là thơ chứ không phải một mớ chữ nghĩa điên loạn, vẫn cần phải có một

lôgíc riêng: ấy là Siêu lôgíc.

Nói cho cùng, liên kết thơ thƣờng là siêu lôgíc. Nhƣng siêu lôgíc ở Tử có câu sắc rất

riêng. Mỗi bài thơ của Tử hiện ra nhƣ một dòng tâm tƣ bất định: nhịp điệu liên tục chuyển

vần, hình tƣợng liên tục chuyển "kênh". Tất cả cứ nhƣ một thể lỏng trôi chảy vô định, nhƣ

một mạch liên tƣởng tuỳ tiện, đứt đoạn, "nhảy cóc". Nếu có thể tách bạch, một cách giả định,

một bài thơ làm từ văn bản: mạch hình tƣợng và mạch cảm xúc thì trong các bài thơ của Hàn

Mặc Tử, "văn bản hình tƣợng" ở bề mặt có vẻ hỗn loạn, trong khi đó "văn bản cảm xúc" lại

nguyên phiên, liền khối dù nó vẫn vụ qua nhiều cung bậc. Nhƣ thể, về liên kết, có thể ví Thơ

Điên tựa nhƣ khối ru bích: Các ô vuông màu thì hỗn loạn trên bề mặt, nhƣng tất cả lại châu

tuần xung quanh cái trục bí mật nằm trong lòng ru bích. Những hình ảnh tán loạn nhƣ những

mảnh vỡ vàng rất

166

giống nhau bởi một nỗi đau thƣơng lớn, tất sẽ lại châu tuần xung quanh chính nơi đau thƣơng

kia. Đó chính là bản chất của siêu lôgíc của thơ Hàn Mặc Tử.

Biểu hiện siêu lôgíc dễ thấy nhất có lẽ là ở những kết hợp hết sức tự do của một mối

dây liên hệ nào theo cách cảm cách nghĩ quen thuộc, ấy thế mà Hàn Mặc Tử đã ghép chúng

lại với nhau trong một quan hệ bất ngờ, khiến cho bật lên những ý nghĩa mới, những khía

cạnh lí thú mới: "Trăng tự tử", "vũng trăng", "trăng tái mặt", "trăng sơ sẩm", "trăng quỳ",

"trăng nằm sỏng soài", "Xác cô thơm quá thơ nhƣ ngọc", "Đức tin thơm hơn ngọc", "Tình ái

của nàng", "Nụ cƣời nhƣ tiếng vỡ pha lê", "anh cắn lời thơ", "Song lộc triêu uyên", "Phƣợng

tri" v.v...Nói riêng hai chữ này đã thấy cách kết hợp kì dị, có cách giải thích của Võ Long Tê

thì đây là hình ảnh lƣỡng hƣ chầu hồn suối tựa nhƣ cách tạo hình "Lƣỡng long chầu nguyệt"

theo nghệ thuật tạo hình cổ điển. Trong khi đó Nguyễn Bá Tín và Quách Tấn lại giải thích

rằng đây là tên ngƣời anh hùng cái thế rất đƣợc Hàn Mặc Tử ngƣỡng mộ trong một bộ phim

hai anh em từng xem thời thơ ấu [98, 420-421]. Do lối kết hợp tự sự hết sức phổ biến này mà

nhiều ngƣời đã xếp thơ Hàn Mặc Tử là thơ Siêu thực, dễ hiểu vì, một trong những nguyên tắc

thi pháp của thi phái siêu thực kết hợp tự do. Nhƣng Thơ Điên đâu chỉ có những kết hợp cục

bộ thế.

Tuy nhiên nói đến liên kết siêu logic thì quan trọng nhất vẫn là mối liên hệ giữa các

câu, các mảng trong một bài thơ, Bƣớc vào một bài thơ của Hàn Mặc Tử, ngƣời đọc không

khỏi có cảm giác phân tâm : trí dƣờng nhƣ ngơ ngác không theo kịp mạch vận động bất định

của các hình ảnh, nhƣng lòng lập thể

167

xâm chiếm, bị cuốn đi bởi cùng một cảm xúc đau thƣơng với những cung bậc khác nhau, khi

tràn trề khi ấn kín đằng sau những hình ấy. Dòng tâm tƣ ngầm ẩn dƣới mỗi bài thơ cuốn theo

lớp hình ảnh ken trên bề mặt thi phẩm. Vìa so sánh nhỏ vơi Xuân Diệu, Nguyễn Bính ta nhận

chân điều này có phần dễ dàng hơn. Nhìn một cách khái lƣợc, liên kết của thơ Xuân Diệu căn

bản là bằng Tứ, thì của Nguyễn Bính là Cốt, trong khi của Hàn Mặc Tử là bằng Dòng tâm

tƣ bất định. Tứ về chất là một cấu trúc ý tƣởng trong nghệ thuật. Không chỉ trong thơ ma

ngay cả trong văn, trong nhạc, trong hội họa... cũng tồn tại khái niệm. Và nói đến đây Tứ là

nói đến Cấu Tứ trong lao động nghệ sĩ. Thơ Xuân Diệu cả những bài ngỡ chỉ thuần những

cảm xúc tràn lan, vẫn có một cái Tứ hạt, nhiều khi còn chất chứa bên trong cả một mạch luận

lí mà cũng nên đơn cử bài Vội vàng , Bài thơ sôi trào một cảm xúc bồng bột hổn hển, nhìn kĩ

vẫn thấy một mạch luận lí rất chặt chẽ nhằm biện minh cho lẽ sống vội vàng. Bài thơ gồm hai

đoạn lớn, ngăn cách bằng cái mốc “ Ta muốn ôm”. Từ đó trở lên trên là phấn ý thức lí thuyết

vì sao cần sống vội vàng cái mạch ý hoàn toàn không khó nhận : một là, Trần gian với mùa

xuân đất trời là một bữa tiệc thật kì diệu hoàn hảo, nhƣng thật là ngắn ngủi; hai là con ngƣời

chỉ hƣởng thụ đƣợc bữa tiệc ấy vào Tuổi trẻ, mà tuổi trẻ lại càng ngắn ngủi; cho nên ba là,

cần phải thật vội vàng chạy đua với thời gian là phải . Có thể dẫn ra đây vài đoạn : “ Tôi

muốn tắt nắng đi/ Cho màu đừng nhạt mất/ Tôi muốn buộc gió lại/ Cho hƣơng đừng bay đi/

Của ong bƣớm này đây tuần tháng mật/ Nay đây hoa của đồng nội xanh rì/ Nay đây lá của

cành tơ phơ phất/ Của yến oanh này đây khúc tình si/ Và này đây ánh sáng chớp hàng mi/

Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa/ Tháng giêng ngon nhƣ một cặp môi gần(...). Xuân đang

tới nghĩa là xuân đang qua/ Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già/ Mà xuân hết nghĩa là tôi

cũng mất/ Lòng tôi rộng

168

nhƣng lƣợng trời cứ chật/ Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian/ Nói làm chi rằng xuân vẫn

tuần hoàn/ Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại(...) Mau đi thôi mùa chƣa ngả chiều hôm/ Ta

muốn ôm/ Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn/ Ta muốn riết mây bay và gió lƣợn/ Ta muốn say

cánh bƣớm với tình yêu/ Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều/ Và non nƣớc, và cây, và cỏ

rạng/ Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng/ Cho no nê thanh sắc của thời tƣơi/

Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngƣơi. Vậy là trong đó có cả bài chính luận. Liên kết theo

Tứ có nghĩa là , dù muốn không, mạch phải tuân thủ một trật tự do lí trí áp đặt.

Nguyễn Bính không giống thế. Chất tự sự trong thơ Nguyễn Bính rất, và thƣờng giành

lấy quyền tổ chức mạch thơ. Tình trong thơ Nguyễn Bính không phải là ít, lê thê nỉ non nửa

là khác, những nó vẫn phải yêu tình chuyên quyền của Sự trong vai trò điều hành mạch thơ.

Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ nào của Nguyễn Bính cũng nghiêng về điệu thức Kể lể

Tình, bài nào cũng nhƣ ngầm chứa một cái Cốt ở một mức độ nào đấy cần nói Mƣa xuân, Lỡ

bƣớc sang ngang, Ngƣời hàng xóm, Cô lái đò, Giấc mơ anh lái đò, Cô hái mơ... những bài

mà Cốt đã phơi lộ “ ra mặt”. Chỉ nói ngay Tƣơng tƣ, bài thơ mà nhân đề nghiêng hẳn về bộc

bạch tâm tình, nhƣng có thể tóm vào một cái Cốt. Có một chàng trai thôn Đoài ngồi nhớ

mong một cô gái thôn Đông từ bao giờ không rõ. Chỉ biết rằng khi bắt đầu hãy con xanh, đến

nay biết bao ngày tháng đằng đằng đã qua lá xanh đã thành cây lá vàng rồi, thế mà nàng vẫn

chƣa tới. Tƣơng tƣ còn mãi bao giờ, không biết rằng giờ đây đang cháy bỏng...Những cung

bậc cảm xúc với nhiều biến thái của nó diễn ra ở từng phần sinh động đã tam hóa cái mạch

Kể lể Sự Tình chung kia thôi. Đơn cử một vài đoạn: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Một

ngƣời chín nhớ mƣời mong một ngƣời/ Gió mƣa là bệnh của giời/ Tƣơng tƣ là bệnh của Tôi

yêu nàng (...) Ngày qua

169

ngày lại qua ngày/ Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng(...) Tƣơng tƣ thức mấy đêm rồi/ Biết

cho ai hỏi ai ngƣời biết cho/ Bao giờ bến mới gặp đò/ Hoa khuê các bƣớm giang hồ gặp

nhau/ Nhà em có một giàn giầu/ Nhà anh có một hàng cau liên phòng/ Thôn Đoài thì nhớ

thôn Đông/ Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào”

Nói chung, đã theo Cốt hay theo Tứ thì mạch thơ vẫn cứ có lớp lang khá rành mạch,

nghĩa là vẫn chụi sự dẫn dắt trực tiếp và thƣờng xuyên của ý thức ngƣời làm thơ. Còn, theo

cách nói của Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử thuộn típ sĩ bị thơ làm, nghĩa là thơ của ông cứ nhƣ

từ tiềm thức vẫn vũ mà tuôn trào cứ muốn ngằm ngoài tầm kiểm soát của một ý thức tỉnh táo.

Cho nên đối với Hàn Mạc Tử ngƣời ta nói đến một khái niệm kỳ quặc nhƣng phù hợp đó là

nhƣng cơn sáng tạo, từng hơi thở. Văn Chế Lan Viên xứng là tri kỉ của Tứ hơn hết, khi chỉ ra

phép đọc thơ của lối liên kết siêu logic này của Thơ Diệu đọc Hàn Mặc Tử là nhƣ vậy. Có khi

đọc từng câu, từng ý, cầm từng bộ phận ngƣời ta không hiểu. Nhƣng ào đi, đọc một hơi cả

bài, để cho nó cuốn ta đi trong dòng chảy của nó, cảm cho hết cái hồn, cái khí lực, cái không

khí, cái nhịp của toàn bài, vâng toàn bài, thì ta lại “ ngợ” ra. Cái rung động nhờ cảm toàn giúp

ta quay lại hiểu đƣợc từng chữ, từng câu, từng bộ phận. Bị truy kích với cái chết, Tử hối hả,

dồn dập sáng tạo chứ đâu có làm văn! Anh trút đời mình, lòng mình từng trận, từng hơi chứ

đâu có ngồi điêu khắc, chạm trổ từn câu, từng chữ. Ta hiểu anh không phải từng câu, từng

chữ mà từng hơi” [163-23]. Nhìn ở khía cạnh tƣ duy, phần nào gặp gỡ với cách hiểu về dạng

“ siêu ức” của Hoàng Ngọc Hiến, song ý kiến Chế Làn Viên sát sạt hơn với lao trong thơ.

Qua đó ta hình dung rõ hơn về hiên kết siêu logic trong mạch thơ ra Hàn: Câu chữ, hình ảnh

tuôn ra thành bài thơ bởi một áp lực vô song của những Tình cảm bị dồn nén đến độ Đau

thƣơng. Kết cấu thơ Tử dù ở bài ngắn, hay dài, dù ở bài tự do hau theo thể cách, về căn bản

là kết cấu của dòng tâm

170

hưởng bất định. Đây chính là cái trục bí mật của khối ru bích thơ Hàn Mặc Tử.

Chúng ta có thể chọn trƣờng hợp “ Đây thôn Vĩ Giạ” để khảo sát liên kết của nó.

Chọn bài này vì nó đƣợc theo thể cách, thành những khổ thở chỉnh, trong vức, mối liên kết

kia khó thấy hơn, do đó kết quả khảo sát sẽ điển hình. Không có sự phân li chủ thể theo kiểu

một xác thân nhiêu nhân cách, không có những tiếng kêu lạ nhƣ gào, rú, hú, hét, than van, rên

siêt....cũng không có những hình ảnh thật ma quái, kì dị. Bài thơ trong trẻo vào bậc nhất ra

thế giới Thơ Hàn Mặc Tử. Có lẽ vì những lí do đó mà nhiều ngƣời đã yên rằng Đây thôn Vĩ

Giạ là một ngoại lệ, nó nhƣ lạc vào phận thơ Điên chứ không phải một thành viên thứ thiệt

của nó. Không phải. Thì phẩm vẫn thuộc thơ Điên một cách chính thức bởi lối liên kết siêu

logic của nó. Toàn bài chỉ vỏn vện ba khổ:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.

Vƣờn ai mƣớt quá xanh nhƣ ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Gió theo lối gió, mây đƣờng mây,

Dòng nƣớc buồn thiu, hoa bắp lay…

Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó,

Có chở trăng về kịp tối nay?

Mơ khách đƣờng xa, khách đƣờng xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sƣơng khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

171

Cả Vũ Quàn Phƣơng, Lê Quang Hƣng, Nguyễn Hữu Tuyển đều nhận ra dịch thơ “

cóc nhảy”, “ đầu Ngô mình Sở”, “ với bề ngoài câu chu tƣởng nhƣ tất lỏng lẻo chẳng ăn nhập

gì với nhau” [121,40]. Mạch liên kết toàn bài rõ rằng khƣớc từ vài trò tổ chức của lí trí. Có

thể thấy rõ mạch liên tƣởng bất định đoạn “ cóc nhảy” trong chuỗi hình ảnh của ba khổ :

ngoại cảnh ( phần đầu) tâm cảnh (phần sau); tƣơi sáng ( vƣờn thôn Vĩ) với âm u ( ai biết tình

ai)v.v..Những mảng thơ phản trái nhau lại đã kết vào nhau ngỡ nhƣ chẳng cái lí gì! Vậy mà

vẫn liền khối, liền mạch. Hàn Mặc Tử có tự họa mình những hình ảnh nghịch lí : “ Mắt mơ lệ

ở sau hàng chữ gấm”. Hàng chữ gâm là đẹp bề mặt, mắt mờ lệ là nỗi đau bề sâu. Văn bản

hình tƣợng và văn bản hàm xúc trong mạch thơ thật tƣơng phản. Đó là cấu trúc nghịch lí của

phần lớn thơ Tử. Nhìn kĩ vào bài thơ này cũng thấy những phản trái kia chỉ là hai mặt cùng

một khối u hoài uẩn khúc: phía sáng của “ hàng chữ gâm” và phía tối “ mắt mờ lệ”. Với một

góc nhìn khác thì ở ngay trong từng khổ thơ đã thay từng chuyển điệu gấp khúc riêng nghĩa là

cũng có phía sáng và phía tối. Khổ đầu: một ƣớc ao thâm kín ngấm ngầm bên trong lại cất lên

nhƣ lời mời mọc từ bên ngoài, nỗi hoài niệm âm u lại mang gƣơng mặt sáng của khát khao

rực rỡ. Khổ hai : Một ƣớc mong khẩn thiết đang lên thoắt thành một hoài vọng chới với

nghẹn ngào. Khổ ba: một niềm mong ngóng vào nơi đƣơng tồn tại. Vậy là, nếu “ lối liên

tƣởng điên” tạo ra một hình tƣợng có vẻ “ đầu Ngô mình Sở”, thi dòng lƣu chuyển cảm xúc u

hoài lại tạo ra một âm điệu nhất quán, liền mạch, “ Phi logic” ở bề mặt, nguyên vẹn nguyên

điệu ở bề sâu, đó chính là vẻ đẹp lạ lùng của “ Đây thôn Vĩ Giạ” cũng là thực chất của liên

kết siêu logic ở đây.

Siêu logic của thôn Vĩ không chỉ thể hiện trong bố cục ba khổ , mạch chìm và mạch

nổi, mà còn thể hiện trong sự chuyển kênh quá ƣ bất ngờ, đột

172

ngột mà vẫn cứ tự nhiên nhƣ không của các miền không gian trong bài thơ. Nhƣ ở các phần

trên từng đề cập, kể từ Đau Thƣơng, trong thơ Tử bắt đầu có phân định nghiệt ngã giữa hai

không gian : NGOÀI KIA và TRONG NÀY, đó là hai thế giới hoàn toàn tƣơng phản nhƣ

Thiên Đƣờng Trần gian và Trời Lãnh cung, nhƣ Hạnh phúc và Bất hạnh, nhƣ Ánh sáng và

Bóng tối...Trong này chỉ về lại đƣợc. Ngoài kia bằng ƣớc ao thầm lén, bằng khắc khoải tuyệt

mà thôi. Tấm thiếp phong cảnh của Hoàng Cúc gửi vào lập tức danh vọng khát vọng về

ngoài kia . Thôn Vĩ Giạ chỉ là địa dạnh địa chỉ khởi đầu của Ngoài Kia. Nói cách khác Ngoài

kia trong cái giờ khắc ấy đã hiện lên bang gƣơng mặt Vĩ Giạ. Thèm về thăm thôn Vĩ cũng

chính là thèm khát về với Ngoài kia. Nghĩa là trong ý thức sáng tạo của Hàn Mặc Tử, Vĩ giạ

vừa là địa anh cụ thể vừa đƣợc tƣợng trƣng hóa. Trong văn bản bài thơ có thể thấy tƣơng

quan không gian ấy ở hai địa danh “ thôn Vĩ” ( ngoài kia) và “ ở ấy” ( trong này). Thi sĩ hiện

ra nhƣ một ngƣời đang ở đây, ở trong này mà khắc khoải ngóng trong hoài vọng về thôn Vĩ,

về Ngoài kia, vì thế trong bài thơ có một sự chuyển tiếp không gian tinh vi, kín mạch khó

thấy. Trong phần này của nội dung có thể thấy ba cảnh chính, ba đối tƣợng chính : vƣờn xa,

thuyền xa, khách đƣờng xa ( Chúng đều hiện lên ở dạng tột cùng - Vƣờn nhƣ ngọc, Sông

nƣớc hóa sông trăng. Thuyền thì chở trăng, Áo trắng tới độ nhìn ( chông ra), chúng hợp thành

thế giới NGOÀI KIA, để đối lập với Ở ĐÂY. Điều đáng nói là : nếu lối liên tƣởng bất định

tạo ra sự chuyển làn các cảnh không gian đột ngột, gấp khúc đến phi lí, thì âm điệu tự nhiên

nhuần nhuyễn cùng một lời thơ chia thành các khổ tề chỉnh vuông vức, tròn trịa lại lấp đầy,

sàn bằng những nếp gấp, vết ghép, khiến cho ngƣời đọc cứ mặc nhiên nhận bài thơ chỉ nhƣ

là sự nới rộng cùng một không gian Vĩ Giạ, mà không thấy đó là sự ghép nối giữa các miền

không gian rất xa nhau.( Theo tài liệu mới đây là của Phạm Xuân Tuyển, thì tên ban đầu của

bài thơ là “ ở đây thôn

173

Giạ” [158,131-134]. Nếu điều này là đúng, thì tƣơng quan không gian trong bài thơ càng cho

thấy rõ hơn cái khoảng cách ở đây và ngoài kia).

Ba khổ thơ đề cập đến ba cảnh sắc rất xa nhau, nhƣ lỏng lẻo “ cóc nhảy”, đƣợc liên

kết bởi một điều bí mật khác. Cả ba khổ rời nhau đều đƣợc nhât lại trong một cách tổ chức :

ba khổ đều vang lên trong ngữ điệu khổ nào cũng chứa một câu hỏi do đó toàn bài có cái

giọng điệu khắc khoải. Mà giọng điệu chính là sự hiện hình của cảm xúc. Giọng điệu chính là

mối liên kết vừa thuộc ngôn ngữ vừa “ siêu ngôn ngữ học”. Chúng ta chú ý những chữ “ai”.

Nếu chỉ có một chữ thì chƣa có gì thật đáng nói. Bởi ý nghĩa của nó chƣa vƣợt xa đƣợc là

bao so với cái nghĩa phiếm chỉ hóa các đôi dòng, mơ hồ hóa cảm giác. Các bài có tới bốn chữ

“ ai” nằm rải đều ở cả ba. Chúng gắn với nhau bằng cả sắc thái lẫn giọng điệu tạo thành một “

hệ vị” ở sâu trong lòng bài thơ, bên dƣới văn bản hình tƣợng, để chuyển tải cảm giác xe xót :

cảm giác về thực tại xa vời, về hiện tại ngắn ngủi cũng tồn tại mong manh : “ Vƣờn ai mƣớt

quá xanh nhƣ ngọc “, “ Thuyền ai đậu bến sông trăng đó” , “ Ai biết tình ai có đậm đa”. Tất

cả vần đẹp đẽ thế, lông tinh khôi thanh khiết thế, và đang hiên ra ngay trƣớc mắt đấy thôi, ấy

thế đã ở ngoài tầm tay, đã thuộc về ngoài kia, thuộc về cái thế giới của những, xa vời, nhòe

nhạt, mơ hồ, mông lung. Càng mơ tƣởng khắc khoải lại nhƣ xa vời, càng xa vời lại càng nhƣ

có núi về, bấu víu. Cái trục bí mật rubich - thơ Hàn Mặc Tử chính là giọt lệ đau thƣơng nằm

sâu nhƣng hang gấm đó. Vì thề vào cõi thơ Tử, không thể chỉ chú mục vào phần , mà cần đào

rất sâu vào tầng “ trầm tích” nữa.

3.5. Lớp ngôn từ nổi bật của Thơ Điên : Lớp từ cực tả

Làm nên diện mạo một loại hình thơ không thể không có vai trò của lớp từ riêng. Với

Thơ Điên, đó là lớp ngôn từ cực tả - hiểu theo nghĩa là từ có thiên hướng biểu tả ở mức cực

điểm. ( Dĩ nhiên đây là lớp ngôn từ

174

nổi bật chứ không phải là lớp ngôn từ duy nhất. Để có thể tạo thành một thế giới thơ ca, lớp

ngôn từ ấy phải đƣợc hòa trộn với những lớp ngôn từ khác ). Chúng ta đều biết, ngôn từ thơ

là phƣơng tiện trực tiếp để biểu thị tƣ tƣởng, biểu thì tình cảm, cảm xúc, cảm giác của thi

nhân. Một khi những vận động bên trong ấy đã đƣợc đẩy lên ở mức tột cùng, thì ngôn từ biểu

đạt dứt khoát phải ở mức cực tả. Dễ hiểu vì có nhƣ thế mới tƣơng hợp, đồng bộ. Một khi

những ái, ố, hỉ, nộ, sầu, oán...đã tột cùng: “ Nó gào vỡ sọ, nó thét dứt hầu, nó hóc trào máu

mắt, nó cƣời tràn cả tủy là tủy”, thì yêu tất sẽ “ Cuồng tâm dại rí”, buồn chia li tất phải là :”

Ngƣời đi một nửa hồn tôi mất/ một nửa hồn tôi bỗng dại khở”, nhớ nhung tất sẽ là : “Ta nhớ

minh xa thƣơng đứt ruột”, hận phải là : “Làm sao giết đƣợc ngƣời trong mộng/ Trả thù duyên

kiếp phũ phàng”v.v... Thơ Điên đã dung chứa trong nó một lớp ngôn từ đối nghịch gay gắt.

Có cả những tiêng rên siết thê thiết của một thân xác bị dày vò tàn hủy “ Trời hỡi làm sao cho

khỏi đói/ Gió trăng có sẵn làm sao ăn” , “Trời hỡi bào giờ tôi chết đi” , “ Ôi trời ơi là Phan

Thiết! Phan Thiết”...Vốn từ rên siết xuất hiện đầy rẫy trong Thơ Điên là điều hiểu đƣợc. Đơn

giản vì tác giả của nó có cả một chủ trƣơng kì dị về việc - “ Không rên siết là thờ vô nghĩa

lí”. Lại có cả những ngôn từ thuộc về những lời cầu nguyện xuất phát từ một tâm linh mộ đạo

thanh khiết : “ Tôi lạy muôn vì tình tứ nhé”, “ Tấu lạy bà , Ngƣời là đáng tinh truyền thánh

vẹn” , “ Nàng ! Lạy nàng, hãy nghe tôi cầu khẩn/ Hãy khoan tây cầm lại trí tƣơng tƣ” , “

Hãy quì lạy nhìn xem cho sƣớng đã/ Không gì tiên cho sánh kịp Nƣơng Thơ”... Hiện tƣợng

này cũng dễ hiệu, vì một chủ đích thi nổi tiếng của Hàn Mặc Tử là sáng tạo ra một loại hình

thơ đồng thời cũng là những lời cầu khẩn nguyện ƣớc làm nhịp cầu cho tâm linh đến đƣợc

với cõi siêu thoát, cõi Huyền Diệu, đến đƣợc với đấng thiêng liêng. Đó là “ Thơ - cầu

nguyện”. Ngôn từ trong thơ Tử thƣờng đƣợc đẩy lên đến mức chốt cùng của các xu hƣớng .

Hƣớng trực cảm thì dƣờng nhƣ ngôn từ không theo đƣợc những

175

cảm giác bén nhạy. Chỉ đơn cử cảm giác về màu sắc. Xanh thì phải “ mƣớt xanh nhƣ ngọc” (

Cần nhấn mạnh điều đã từng nói ở trên kia rằng : trong thơ Tử, ngọc bao giờ cũng là biểu thị

cho vẻ đẹp tuyệt đối, giá trị tuyệt so với ngọc là so sánh tuyệt đối), hoặc phải xanh đến độ “

xanh huyền” , đó thì phải “ đỏ hƣờm”, hoặc đỏ phải lênh láng màu vàng thì phải ánh, phải

thành từng mảng kim loại vàng “ từng mảnh nhạc vàng rơi lả tả, giếng vàng rơi xuống

giếng”, hông phải “ quá hƣng dòng”...Nhật là sắc trắng ngƣời say đắm vẻ đẹp tinh khiết, Tử

rất hay nói tới sắc trắng lạ lùng trong chỉ có màu mà nó còn hất lên cả ánh, màu trắng lóa : “

nắng chang chang”, trăng đến độ không còn nhìn ra đƣợc “áo em trắng quá nhìn không ra”,

trắng đến nội ngôn từ phải vặn mình lên mà diễn tả “ xiêm áo trắng nhƣ tinh”, ngôn từ phải

gồng lên mà chạy đua với cảm giác “ Động là một thứ hỗn nôn bằng cát, trắng quá, tra, trắng

hơn hơn da thịt ngƣời tiền, của lụa bạch hơn phẩm giá của tiết trinh một màu trắng mà tối

muồn làm lộn điên cuồng, hay áp má lên để hƣởng sức mát rƣợi dịu dàng của cái”v.v...

Hƣởng ƣớc lệ thì cũng đƣợc đẩy lên đến tuyệt đỉnh cao sang : “Trái cây bằng ngọc vỏ bằng

gấm”, “ Cây bằng gấm và sông toàn ngọc” , “ Đức tin thom hơn ngọc” , “ Có chàng trai mới/

Gió căng hơi và nhạc lên ngàn” , “ Lời thơ ta sẽ sáng trƣng nhƣ ta sẽ cao cƣờng nhƣ ngọn

núi”. “ Đƣờng thơ bay sáng láng nhƣ sao sa lụa trắng mƣời hai hàng chƣ ngọc / Thêu nhƣ

thêu rồng phƣợng” v.v.. Với lớp ngồn tƣ cực tả này, Thơ Điên đã tìm đƣợc cho mình một vật

liệu hữu hiệu nhất để truyền tải những cung bậc cảm xúc sắc độ cảm - giác - điên đặc thù của

mình. Đó cũng là thứ vật liệu giúp thi sĩ xây cất lên một thế giới mà Cái gì của nó cùng tột

cùng.

Năm điểm trên đây tạo thành một hệ thống khá chặt chẽ nhƣ những nguyên tắc thi

pháp cơ bản của Thơ Điên, chi phối từ gốc đến ngọn, từ nơi

176

lung đến hình thức, từ vĩ mô đên vi mô, chứa đựng khá trọn vẹn một quan niệm nhân sinh và

nghệ thuật mới lạ. Mà khía cạnh nổi bật ở quan niệm ấy là ham muốn chinh phục cái Tột

cùng của nhà thơ và bang thơ. Trong đó gốc rễ là Đau thƣơng. Đau thƣơng quyết định đến

loại hình chủ thể một xác thân thiếu nhân cách - lọa chủ thể luôn tan - hợp, tụ - tán. Nó

quyết định đến sự xuất hiện nhãn quan kinh dị, mở ra một kênh hình ảnh kì dị. Tiếng thơ

ấy làm đến mạch liên kết siêu logic thật lạ lùng của dòng tâm tƣ bất định. Và cuối cùng , nhƣ

một lựa chọn tất yếu , nó phải tìm đến lớp ngôn từ cực tả để làm vật liệu mà xây cất nên cái

thế giới kì dị của mình. Một điểm tụ rất dễ thấy của cả năm điểm này là cái lạ ở đó dƣờng

nhƣ đã bị đẩy đến nấc chót cùng. Nếu Đau thƣơng là dạng cảm xúc tột cùng, thì hình thái

chủ thể một xác thân nhiều nhân cách, nhân dạng, kênh hình ảnh kinh dị và mạch liên kết

siêu logic đều cũng là dạng thức tột cùng của mỗi bình diện thi pháp đó. Tất cả khiến cho thơ

Điên cứ chênh vênh, cheo leo trên ranh giới rất mạo hiểm giữa thơ và phi thơ, phản thơ. Chạy

theo cái tột cùng mà chỉ cần thiếu đi một chút chân thực, lập tức nó sẽ thành khoa trƣơng, sao

rỗng; hoặc chạy theo sự kinh dị quá bƣớc cùng lập tức thành phản cảm....Có thể nói Thơ Điên

đã đẩy mình đến miệng vực, đến sát lằn ranh mong manh của vƣơng quốc Thơ, bên này là

sinh địa bên kia là tuyệt địa của thơ. Đi cheo leo thế. Thơ Điên không phải là ít loạng choạng,

không ít mảnh thơ Điên đã hụt chân sa xuống vực.Và ở một nghĩa nào đó, đây cũng chính là

đƣờng ranh giới phân hóa ngƣời đọc của loại hình thơ này: Ngƣời “ chịu đƣợc” có thể coi đây

mới là thơ, thậm chí thơ cao siêu, ngƣời “ dị ứng” dễ bảo đây không phải thơ của Ngƣời

Điên này cũng đã đƣợc các nhà thơ thuộc trƣờng thơ Loạn tiên liệu [127,7]

Tất cả các bình diện thi pháp của thơ Điên đều hẹn nhau ở cái nấc chốt cùng này là dễ

hiểu. Bởi một chủ trƣơng, quan điểm bao trùm không nhân nhƣợng của thi phái này, mà ta

hằng nhấn mạnh, chính là : “Cái gì của nó

177

cũng Tột Cùng” [172,7]. Rõ ràng Siêu thực, Tƣởng trƣng, hay Hiện đại...đều những cái ô

chặt chội đối với thể hình ngoại chuẩn của Thơ Điên. Đƣờng Thơ Điên chỉ có thể là ...Thơ

Điên. Tiếng thơ của những cái Tột cùng. Nó vừa giống vừa không giống với những gì đã

có. Điều ấy xác định đóng góp độc đáo của Hàn Mặc Tử cho nên thi các của chúng ta. Mang

trong cái khát khao muốn đẩy thi ca đƣơng thời lên một trình độ mới. Thơ đáng đƣợc trân

trọng và có quyền sống chính đáng của nó.

178

KẾT LUẬN

1. Quả thật thế giới nghệ thuật của Hàn Mặc Tử là một cõi bờ thăm thẳm huyền bí, nó

trải ra trƣớc mắt, vừa mời gọi vừa muốn làm nản chí ngƣời đi những đặc thù trong hoàn cảnh

riêng - cả tình trạng bệnh tật, cả bi kịch trong tình yêu, cả địa bàn tồn tại lẫn cảnh quan văn

hóa tinh thần - mà Hàm Mặc Tử nhƣ một sự tổng hợp, dung hợp trong mình nhiều yếu tố văn

hóa, nghệ thuật. Thế giới của ông thật bộn bề, đa tạp, dung chứa đủ cả những gì trong trẻo

nhất ma quái nhất, cả những gì thân quen nhất lẫn kì dị nhất trong đó Cái gì của nó cũng Tột

Cùng. Nhƣng điều đáng nói là , Hàn Mặc Tử đã xây cất nên thế giới ấy bằng máu lệ của

mình. Ông dấn thân vào thơ không chỉ bằng việc trút hồn ra đầu ngọn bút để mỗi lời thơ đều

dính não an mình, mà ông còn luôn trăn trở nghiền ngẫm ý thức về nghệ thuật của anh. Nghĩa

là một lâu dài nghệ thuật đƣợc tạo dƣng trên nền móng của những quan niệm nghệ thuật chắc

chắn. Song không giống nhƣ các tiến hành của một tổng công trình sƣ ngành xây dựng hoàn

toàn dựa vào một bản thiết có sẵn. Không phải mọi tập thơ ra đời, mọi chặng đƣờng thơ đều

nhau nhất tuân theo một kịch bản đƣợc ông vạch sẵn từ trƣớc một cách cố định và tiên

nghiệm. Sáng tạo và luôn tự ý thức về sáng tạo, chính là quá trình hoàn thiện nhau qua những

trải nghiệm thực tế của Hàn Mặc Tử. Nghiên cứu hệ thống quan niệm nghệ thuật của ông

chẳng những để làm chủ một di sản tƣ tƣởng mĩ học quí giá đóng góp vào kho tàng tƣ tƣởng

văn nghệ của dân tộc, mà còn giúp ta soi sáng chính thế giới nghệ thuật nhƣ một đại ngàn

nguyên với tầng tầng lớp lớp những tán rừng cao thấp, những cội gốc gân guốc, quỷ quái,

chằng chịt những dây lep gai góc và chốc chốc lại lập lòe ánh lửa ma nơi này. Và du rằng bản

thân những phát biểu, tuyên ngôn của Hàn Mặc tử thơ ca cũng là cả một sự rậm rạp rối răm,

nhƣng chúng ta vẫn thấy đƣợc những nội dung căn bản trong quan niệm về Thơ, Ngƣời

Thơ và Việc làm

179

chúng châu tuần xung quanh một chữ Điên nhƣ là biểu hiện kì lạ và sống của cái Tột cùng.

Sức sống của các nội dung ấy trƣớc hết là nó đã trở thành một mô hình đối với chính thi sĩ

này và đời thơ ông cùng với Thế giới nghệ thuật kia là một đảm bảo tin cậy nhất.

2. Thế giới nghệ thuật của một thi sĩ theo quan niệm của luận án này bảo giờ cũng chi

phối bởi một áp lực toàn năng là tƣ tƣởng . Tƣ tƣởng vừa mang năng lực sản sinh ra thế giới

hình tƣợng vừa đóng vai trò điểm qui tụ. Thế giới tƣởng tƣợng phong phú đƣợc sinh ra bởi tƣ

tƣởng và luôn châu tuần xoay quanh tƣ tƣởng ấy. Nhƣ thế tƣ tƣởng của nghệ sĩ là nhân tố

kiến trúc tổng thể thế giới nghệ thuật ấy, chi phối ba hệ thống hình tƣợng cơ bản là Hình

tƣợng Cái Tôi, Hình tƣợng Nàng thơ và Hình Tƣợng Thế giới. Tƣ tƣởng là tâm hồn,

Hình tƣợng là phần xác của một thế giới nghệ thuật. Khi xác định căn bản tƣ tƣởng nghệ

thuật của Hàn Mặc Tử là một tình yêu mãnh liệt tuyệt vọng hƣớng về vẻ đẹp Xuân tình mà

Thanh khiết của cõi đời. Tƣ tƣởng ấy quyết định đến bản chất của hình tƣợng cái Tôi, nó tất

hiện ra nhƣ một tình nhân Mãnh liệt mà Tuyệt vọng. Nó sẽ quyết định đến hình tƣợng

trong thơ, nàng tất phải là hiện thân chói sáng nhất cho vẻ đẹp Xuân xanh mà Trinh

Khiết. Quan hệ giữa hình tƣợng Cái Tôi và Hình tƣợng Nàng thơ là mối quan hệ căn bản

nhất trong một thế giới trữ tình, thể hiện tập trung tƣ tƣởng nghệ thuật của ngƣời nghệ sĩ. Đối

với thơ trữ tình lãng mạn, một Cái Tôi thi sĩ sẽ hiện ra nhƣ một tinh nhân, Nàng thơ là ngƣời

tình của nó, thế giới này sẽ hiện ra nhƣ một Vƣờn Tình là điều tất yếu. Tuy nhiên, diện mạo

riêng của mỗi mảnh vƣờn tình kia không thể giống nhau. Ở Hàn Mặc Tử sự vận động từ

Chốn nƣớc non thanh tú đến Trời sầu và cuối cùng là đến thế giới thuần linh của cỗi

Huyền Diệu. Diện mạo của Hình tƣợng Cái Tối, hình tƣợng Nàng Thơ, Hình tƣợng Thế giới

có những biến đổi theo sự biến đổi gốc rễ là tƣ tƣởng của nghệ sĩ. Cho nên Thế giới nghệ

thuật nói chung,

180

thế giới Hàn Mặc Tử nói riêng bao giờ cũng Động, hằng biến chứ không phải Tĩnh, bất

biến . Có thể nói đó là những qui luật nội tại lớn chi phối một thế giới nghệ thuật thơ

Lãng mạn. Ý thức sâu sắc vấn đề này sẽ có một ý nghĩa phƣơng pháp luận trong việc

tiếp cận một thế giới nghệ thuật.

3.Trƣớc khi tìm đến Thơ Điên, Hàn Mặc Tử từng làm thơ dân gian, thơ cổ điển, thơ

theo thi pháp lãng mạn thuần túy ( trong Gái quê). Nhƣng chỉ có Thơ Điên mới thực sự là

dạng thức, là loại hình giúp thi sĩ bộc lộ mình một cách thoải mái nhất. Trong quá trình hình

thành, Thơ điên có thể đƣợc cổ súy bởi những quan niệm ngoại nhập Tây phƣơng nào đó.

Song về căn bản nó là nội sinh. Có nghĩa là một ƣớc mơ đột phá, bứt phá để vƣợt lên so với

Thơ đƣơng thời, thể hiện khát vọng nghệ thuật chân chính của cá nhân Hàn Mặc Tử nói riêng

và của trƣờng thơ loạn nói chung. Nhƣng khía cạnh nội sinh quan trọng hơn chính là bản thân

đời sống thực tại của Hàn Mặc Tử : do một cảnh ngộ bất hạnh dồn đẩy đã hằng ngày phải trải

nghiệm những Đau thƣơng và nó trở thành nguồn thi liệu trực tiếp không vay mƣợn cho Thơ

Điên của mình. Về ý thức lí thuyết, thi sĩ chƣa hình dung rạch ròi về những nguyên tắc thi

pháp chuẩn mực cho mình. Nhƣng thực tế sáng tạo sống động đã cho phép chúng ta có thể

khái quát đƣợc những nét phổ biến có giá trị thi pháp của loại hình thơ Điên Hàn Mặc Tử.

Với Năm điểm căn bản đã đƣợc mô tả và lí giải: Nguồn cảm xúc đặc thù của Thơ Điên- Đau

thƣơng, Chủ thể Thơ Điên - Một xác thân nhiều nhân cách, Kênh hình ảnh lạ lùng của thơ

Điên - Những vẻ kì dị , Mạch liên kết của Thơ Điên - Dòng tâm tƣ bất định, Lớp ngôn từ

nổi bật của Thơ Điên - Lớp từ cực tả, chúng ta có thể hình dung đƣợc ít nhiều về diện mạo

của loại hình thơ Điên độc đáo của thi sĩ này. Đó thực sự là những đóng góp lạ lùng của nhà

thi sĩ cho Phong trào Thơ Mới nói riêng, và thơ ca dân tộc nói chung. Ngƣời ta không thể

hình dung đƣợc đầy đủ về Thơ ca

181

kỉ này nếu thiếu đi Hàn Mặc Tử và thơ Điên của ông. Không còn nghi ngờ gì nữa, Hàn

Mặc Tử chính là một trong vài hiện tƣợng thơ tầm cỡ của thể kỉ XX này.

4. Để có đƣợc những điều đó, Hàn Mặc Tử đã phải đánh đổi bẳng giá trị của mình.

Thơ của ông là sự kết tinh của cả những đau đớn về thân xác những đau thƣơng về tinh thần.

Thơ là sự lên tiếng của thân phận, đó hản là định nghĩa thơ chuẩn nhất đối với thi sĩ này.

Trong khi những ngƣời có thể nói đến nghề thơ - nghề thơ cũng làm công phu, thì Thơ đối

với là một thứ nghiệp dĩ, nghiệp chƣớng. Ngƣời khác dùi mài làm thơ để nâng cao tay nghề

thì Hàn Mặc Tử bị thơ hành hạ, bị thơ ám. Những thơ là lẽ, là cuộc sống của ông. Ông sáng

tạo ra coi thơ của mình và thơ cũng chính là cõi sống của ông. Suốt đời ông cứ khát khao một

thứ thơ trên cả thơ, nhƣ ƣớc ao một thứ ánh sáng muôn năm, trên mọi thứ ánh sáng trần đời

muốn bay lên tìm kiếm mãi, tìm kiếm mãi. Cuối đời Thơ và Ánh sáng hòa vào nhau thành

Nguồn trong trẻo. Ông trở thành Ngƣời khách lạ dị của Nguồn trong trẻo đó để hái những lá

tinh hoa dâng tặng cho con ngƣời nguồn trong trẻo kia là nguồn Đạo hay là nguồn Đời? Chắc

chắn hơn nó là hòa hợp của ca hai theo một lời riêng của Hàn Mặc Tử? nó hòa hợp trong một

ý niệm về những giá trị Tột cùng. Và tất cả đã thành nguồn thơ, nguồn thơ của thi sĩ. Trong

bài “ Những giọt lệ” có một đoạn thơ thật đau thƣơng mà cũng thật đẹp đẽ cao cả: “ Tôi đang

ở đâu?/ Ai đem tôi bỏ với trời sâu?/ Sao bông phƣợng nở trong mầy huyết/ Nhỏ xuống lòng

ta những giọt chân”. Giọt Châu của thơ Tử chính là hóa thân của Giọt Máu, Giọt Lệ đó.

Cho nên ông vần còn mãi với nền thơ ca này bằng Giọt hâu kết tinh từ Tột cùng của

Máu Lệ mình.

182

CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Chu Văn Sơn, Thơ Điên của Hàn Mặc Tử - thi học của cái Tột cùng, Tạp chí văn

học, 11/2000,tr

2. Chu Văn Sơn, Bản sắc dân tộc và một hƣớng kiếm tìm nó trong thơ, Tạp chí Văn

học, số 11/1994, 40-44.

3. Chu Văn Sơn, Về một cách diễn dịch bài thơ “ Năng mới”. Tạp chí Trung học Phổ

thông, số 26/3 -1999,4-8.

4. Chu Văn Sơn, Ấn tƣợng Hoàng Cầm, Tạp chí Tác phẩm mới, Hội nhà Văn Việt

Nam, số 3/1992,26-28

6. Chu Văn Sơn, Sách “ Tinh hoa thơ mới, thẩm bình suy ngẫm” ( Viết chung),Nhà

xuất bản Giáo Dục, 1998

7. Chu Văn Sơn, Sách “ Giảng văn văn học Việt Nam hiện đại” ( Viết chung), Nhà

xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội 2000.

8. Chu Văn Sơn, Sách “ Phân tích bình giảng tác phẩm văn học lớp 11” ( Viết

chung), Nhà xuất bản Giáo Dục,1998

9. Chu Văn Sơn, Giáo trình Văn học ( tập 2) đào tạo Giáo viên hệ Tiểu học ( Viết

chung), Nhà xuất bản Giáo dục, 1998.

10. Chu Văn Sơn, Giáo trình Văn học ( Tập 3) đào tạo giáo viên Tiểu học, Nhà xuất

bản Giáo Dục,1998

183

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Huỳnh Phan Anh( 1967), “ Hàn Mặc Tử hay là hiện hữu của thơ” Tạp chí Văn (

số 7 - tháng 1 ) ,45- 53.

2. Huỳnh Phan Anh ( 1968), Hàn Mặc Sách Văn văn chƣơng và kinh nghiệm hƣ vô -

Hoàng Đông Phƣơng xuất bản - Sài gòn.

3. Vũ Tuấn Anh ( 1998), Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945 -1995 NXB Khoa học Xã

hội, Hà nội.

4. Aristôte (1999), Nghệ thuật thơ ca và Lƣu Hiệp - Văn tâm điệu lòng ( nhiều ngƣời

dịch) NXB Văn Học, Hà nội.

5. Lại Nguyên Ân (1991), “ Khi chất ngƣời miền Trung và nhà thơ Hàn Mặc Tử”,

Tạp chí văn học ( số 1) , 25- 31

6. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ Văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà nội.

7. Lại Nguyên Ân ( 1993), “ Cuộc cải cách của phong trào Thơ mới và tiến trình thơ

ca tiếng Việt”, Tạp chí Văn học ( số 1) 18 -28

8. Phạm Đình Ân (1980), “ Tâm hỗn, một thực thể thẩm mỹ của thơ ca trữ tình”,

Tạp chí Văn học ( số 1), 10-16.

9. Annaudôp (1978), Tâm lý học sáng tạo Văn học, NXB Văn hóa, HN.

10. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vinh Cƣ dịch Trƣờng Viết

văn Nguyễn Du, Hà Nội.

11. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Dotxtôiepxki, Trần Đỉnh Sử dịch, NXB

Giáo dục, HN.

184

12. Bùi Xuân Bào (1974), “ Thi ảnh khẩu cảm trong thơ Hàn Mặc Tử” - tập san

Khoa học nhân văn của Hội đồng quốc gia Khoa học Sài Gòn.

13. Baudelaire (1999), Les fleurs du Mal - Những bông hoa của nỗi đau, NXB

Edition Thế giới, Hà nội.

14. Phạm Đán Bình ( 1971), “ Tan loãng trong thơ Hàn Mặc Tử”, Văn ( số 1/6), Sai

gòn.

15. Nguyễn Bính ( 1995), Lỡ bƣớc sang ngang, NxB hội nhà văn ( tái bản), Hà nội.

16. Nguyễn Bính (1985), Tuyển tập, Nxb Văn Học, Hà nội.

17. Trần Mai Châu ( 1996), Thơ Pháp Thể kỷ XIX, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh.

18. Hoàng Cầm (1994), Về Kình Bắc, Nxb Văn hóa , Hà nội.

19. Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ - NXB Đại học và trung học chuyên

nghiệp, Hà nội.

20. Nguyễn Đình Chú (1994), “ Trở lại với Đây thôn Vĩ Dạ” - Văn học và tuổi trẻ,

Hà nội ( tập 2).

21. Nguyễn Kim Chƣơng (1974), “ Hàn Mặc Tử đau thƣơng và sáng tạo”, Văn học

(số 1),(11-15)

22. Võ Đình Cƣơng (1992), “ Huyền thoại về ngƣời tình đầu tiên của Hàn Mặc Tử

và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ”, Tập Văn thành đạo,(PL 2535)

23. Võ Đình Cƣờng (1992), “ Mối tình” Hàn Mặc Tử và Hoàng Thị Kim Cúc”, Tập

văn Thành đạo, (PL 2536)

24. Quỳnh Dao (1998), “Hàn Mặc Tử”, Ngƣời Hà Nội ( số 10/ ngày 7/3).

25. Hoàng Điệp (1971), Hàn Mặc Tử - Giải thƣởng phê bình của Trung tâm văn bút

Viết Nam, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn.

185

26. Xuân Diệu (1938), “ Thơ của ngƣời” Báo Ngày Nay,(7-8)

27. Xuân Diệu (1995), Thơ Thơ và Gửi Hƣơng cho gió NXB Hội Nhà Văn. Hà nội.

28. Xuân Diệu (1984), Công việc làm thơ, nxb Văn học, Hà Nội.

29. Xuân Diệu ( 1981), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, nxb Văn học, Hà nội.

30. Xuân Diệu ( 1982), Tuyển tập, Nxb Văn học, Hà nội.

31. Trƣơng Đăng Dung ( chủ biên) (1990), Các vấn đề của khoa học văn học, Nxb

KHXH, Hà nội.

32. Day (1998), Frơi đã thực sự nói gì Nxb Thế giới, Hà nội.

33. Đặng Anh Đào (1991), “ Cô gái Huế trong thơ”, Tạp chí Sông Hƣơng xuân Tân

Mùi, Huế.

34. Phan Cự Đệ ( 1982), Phong trào thơ mới, Nxb KHXH, Hà nội.

35. Phan Cự Đệ (1993), Hàn Mặc Tử phê bình và tƣởng niệm NxB Giáo dục, Hà nội.

36. Trần Thanh Địch (1940), “ Những kỷ niệm về Hàn Mặc Tử” Ngƣời mới, (số

23/11).

37. Trần Thanh Địch (1989), Chuyện tình của các danh nhân Việt Nam và thế giới,

Nxb Long An.

38. Trần Thanh Địch (1995), “Trắng, Hỗn, Chiêm bao với Hàn Mặc Tử”, Kiến thức

ngày nay (số 97)

39. Hà Minh Đức (1974), Thơ và mấy vấn đề trong thơ VN Hiện đại Nxb KHXH, Hà

nội

40. Hà Minh Đức và Bùi Văn Nguyên (1971) Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể

loại, Nxb KHXH, Hà nội.

41. Hà Mình Đức (1997) Về một thời đại thi ca, Nxb KHXH, Hà nội.

186

42. Hà Minh Đức và Huy Cận ( chủ biên) (1996), Nhìn lại một thời đại thơ ca mới,

Nxb Giáo dục, Hà nội.

43. Trinh Đƣờng (1990), “ Cảm nhận qua thơ Hàn Mặc Tử”, Ngƣời Hà Nội (16-2).

43. Nguyễn Mộng Giác (1994), “ Hàn Mặc Tử và sáng tạo cuồng nộ”, tạp chí Nhận

Thức ( tiếng nói sinh viên thanh niên hiện đại), ( số 2 tháng 3). ( chủ nhiệm Nguyễn Đắc

Xuân).

45. Văn Giá (1991), “ Thêm một lần cầm trên tay Mùa Xuân Chín” - tạp chí Sông

Hƣơng, Xuân Tân Mũi, Huế.

46. Quách Giao (1988), “ Đọc quyển” Hàn Mặc Tử anh tôi”, Bách khoa Văn học,

(soos2).

47. Nguyễn Lệ Hà (1995), Cảm quan tƣơng ứng của Bôđơle trong những bông hoa

ác, luận án phó tiến sĩ Ngữ văn.

48. Vũ Hải (1996), Hành trình thơ và sự trở lại chính mình của Hàn Mặc Tử, Nxb Đà

Nẵng.

49. Hêghen ( 1998), Mỹ học ( Nhữ Thành dịch), 2 tập Nxb Văn học, Hà Nội.

50. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Văn học và học văn, Nxb Văn học, Hà nội

51. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Tập bài giảng nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà

nội.

52. Hoàng Ngọc Hiến (1990), “ Tiếp cận cái Siêu trong thơ Hàn Mặc Tử”, báo Lao

động chủ nhật (9/12)

53. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, Nxb KHXH Mũi Cà Mau.

54. Phạm Hổ (1992), “ Nhân đọc lại bài thờ Những giọt lệ của Hàn Mặc Tử”, báo

Văn nghệ (22 -2)

187

55. Phạm Hổ (1996), “ Hàn Mặc Tử” và những nhà thơ trƣờng quốc học Quy

Nhơn”, báo Văn nghệ (21/9).

56. Đông Hoài (1992), Thơ Pháp nxb Văn học, Hà nội.

57. Mai Văn Hoan ( 1993), “ Về một câu thơ của Hàn Mặc Tử”, báo Văn nghệ, ( số

11 -9).

58. Mai Văn Hoan (1999), Cảm nhận thơ Hàn Mặc Tử, Nxb Thuận Hóa, Huế.

59. Hoàng Hƣng (1992), “ Thơ mới và thơ hôm nay” - Tạp chí Thế giới mới ( số 45),

Hợp Lƣu ( số 13)

60. Lê Quang Hƣng (1996), Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu trƣớc Cách mạng

tháng 8 Luận án phó tiến sĩ ngữ văn.

61. Quế Hƣơng (1990) “ Về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử”, báo Văn

nghệ , ( số 24/11)

62. Nguyễn Xuân Hoàng (1967), “ Nỗi khắc khoải siêu hình tƣợng thơ Hàn Mặc

Tử”, Văn ( số 7 - 4)

63. Dƣơng Nhật Huy (1991), “ Sao anh không về”, Kiến thức thời đại ( số 1). Phân

xã Đồng Nai xuất bản.

64. Thái Văn Kiểm (1960), Ungrand poéte Vietnamien ; Hàn Mặc Tử ( Một thi hào

Việt Nam ; Hàn Mặc Tử) - Chính bản in bằng hai thứ tiếng Việt Pháp, Sài Gòn

65. Lê Đình Kỵ (1994), Thơ mới, những bƣớc thăng trầm, Nxb Thành phố Hồ Chí

Minh.

66. Nguyễn Thụy Kha (1989), “ Từ Mùa xuân xanh của Nguyễn Bính đến Mùa Xuân

chín của Hàn Mặc Tử”, Báo Văn nghệ, ( số 1319 -1349), (4 - 2).

188

67. Nguyễn Thụy Kha (1994), Hàn Mặc Tử, thi sĩ đồng trinh, Nxb Thanh niên, Hà

nội.

68. Bích Khê (1995), Tinh huyết và Tinh hoa - NXB Hội Nhà văn, Hà nội

69. Khrapchenko. M.B (1978) Cá tính sáng tạo và sự phát triển văn học (dịch) Nxb

Tác phẩm mới, Hà nội

70. Trƣơng Khiết (1993), “ Tôn giáo hiện đại và chức năng xã hội của nó”, Tân hoa

Văn trích, số 6/, Bản dịch của Tạp chí cộng sản ( Tài liệu tham khảo kí hiệu TK - 26/94).

71. Nguyễn Hoành Khung (1984), “ Hàn Mặc Tử”, Từ điển Văn học, Nxb khxh,

Hà Nội.

72. Nguyễn Hoành Khung ( 1994), “ Một mùa thơ nở rộ”, Thơ Việt nam (1930 -

1945), Nxb Văn học, Hà Nội.

73. Phạm Văn Kí (1936), Tựa Gái quê/

74. Nguyễn Viết Lãm (1993), “ Nhớ Hàn Mặc Tử”, Sách Hàn Mặc Tử, phê bình và

tƣởng niệm, nxb Giáo dục, Hà nội.

75. Yến Lan - Tôi nhớ Hàn Mặc Tử ( Sách trên)

76. Yến Lan (1991), “ Đạo và Đời trong thơ Hàn Mặc Tử”, Sách Hàn Mặc Tử

hƣơng thơm và mật đắng, Nxb Hội nhà Văn, Hà nội

77. Mã Giang Lân ( 1997) , Tìm hiểu thơ, Nxb Thanh niên, Hà Nội

78. Mã Giang Lân (1999), Hàn Mặc Tử, thơ và lời bình, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

79. Thanh Lãng (1967), Bảng lƣợc đồ Văn học Việt Nam ( Quyển học), Nxb Trình

bày, Sài gòn.

80. Phong Lê (1993), “ Thập kỷ Thơ Mới trong thế kỷ XX của nền thơ ca Việt Nam”

TC Văn Học, ( Số 1).

189

81. Nguyễn Tấn Long (1996) Việt Nam thi nhân tiền chiến ( tái bản). Nxb Văn học,

Hà nội.

82. Phƣơng Lựu (1985), Về quan niệm Văn chƣơng cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà

nội.

83. Phƣơng Lựu (1989), Tinh hoa lí luận Văn học cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo

dục, Hà nội.

84. Trần Thanh Mại (1970), Hàn Mặc Tử, thân thể và thi văn, Tân việt Tái bản, Sài

gòn

85. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Dẫn luận nghiên cứu tác giả văn học, Trƣờng Đại

học sƣ phạm Hà nội 1.

86. Nguyễn Đăng Mạnh (1978), Nhà văn tƣ tƣởng và phong cách, Nxb Tác phẩm

mới, Hà nội.

87. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Mấy vấn đề phƣơng pháp phân tích tìm hiểu thơ Hồ

Chủ Tịch, Nxb Giáo dục, Hà nội.

88. Hoàng Trọng Miên (1940), “ Thơ Hàn Mặc Tử”, Ngƣời mới (23-11)

89. Phan Quỳnh Nga (1999), “ Thơ, ngƣời thơ, nghề thơ trong quan niệm của nhà

thơ Hàn Mặc Tử” - VNQĐ ( số 1)

90. Phan Ngọc (1986) Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong “ Truyện Kiều”, Nxb

KHXH, Hà nội.

91. Phan Ngọc (1999), Giải thích Văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí

Minh.

92. Trƣơng Văn Ngọc (1971), “Nhân đi thăm mộ Hàn Mặc Tử”, Văn ( 4-6)

93. Phạm Thế Ngũ (1997) Việt Nam văn học sử giản ƣớc tân biên (tái bản). Nxb

Đồng tháp.

94. Phạm Xuân Nguyên (1994), “ Đối thoại trong đêm với Hàn Mặc Tử”, Văn nghệ

Nha Trang, (số 8) (87 -92)

190

95. Phùng Quý Nhâm (1995), “ Đặc trƣng hồn thơ Hàn Mặc Tử”, Kiến thức ngày

nay ( số 47).

96. Vƣơng Trí Nhàn (1985), Bƣớc đầu đến với văn học, Nxb Tpm, Hà nội.

97. Vƣơng Trí Nhàn (1991), Những kiếp hóa dại - Nxb Hội nhà văn, Hà nội.

98. Vƣơng Trí Nhàn (1995), Hàn Mặc Tử, hôm qua và hôm nay, Nxb Hội nhà Văn,

Hà nội.

99. Nhiều tác giả (1999), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG Hà nội.

100. Nhiều tác giả (1974), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục.

101. Nhiều tác giả (1989) Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, Nxb ĐHVTHCN, Hà

nội.

102. Nhiều tác giả (1998), Tinh hoa thơ mới, thẩm bình và suy ngẫm , Nxb Giáo dục,

Hà nội.

103. Nhiều tác giả ( 1997), Hoàng Cầm, thơ văn và cuốc đời, Nxb VHTT, Hà nội.

104. Nhiều tác giả (1994), Văn học lớp 11, chƣơng trình phân ban KHXH, NXB

Giáo dục, Hà nội.

105. Nhiều tác giả ( 1997), Giáo trình Văn học Việt Nam (1900 - 1945). Nxb Giáo

dục, Hà nội.

106. Nhiều tác giả (1991), Giáo trình Lí luận Văn học, Nxb Giáo dục, Hà nội

107. Nhiều tác giả (1990), Giáo trình Văn học Phƣơng Tây, Nxb Giáo dục, Hà nội.

108. Nhiều tác giả (1988), Từ điển Tác giả Văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo

dục, Hà nội.

109. Nhiều tác giả (1983), Từ điểm Văn học, Nxb KHXH, Hà nội.

191

110. Nhiều tác giả (1995), Từ điền Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

111. Nhiều tác giả (1998), Thơ mới 1932 -1945, tác giả và tác phẩm, Nxb Hội nhà

văn, Hà nội.

112. Lê Huy Oanh (1974), “ Đọc lại Chơi giữa mùa trăng”, TCVH, Sài gòn (số 20 -

12).

113. Lê Lƣu Oanh (1997), Thơ trữ tình Việt Nam 1975 - 1990, Nxb ĐHQG, Hà nội.

114. Fracônar. M(1998), Từ Điển lịch sử Văn hóa - Văn học Thế kỉ XX, Nxb Chính

trị Quốc Gia, Hà nội.

115. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại, 1942, Nxb KHXH, Hà nội.

116. Thế Phong (1960), Hàn Mặc Tử và Quách Thoại, Sài gòn

117. Thế phong (1998), Hàn Mạc Tử nhà thơ siêu thoát, Nxb Đồng nai.

118. Ngô Văn Phú (1991), “ Hàn Mặc Tử một hồn thơ dị biệt”, sách “ Hàn Mặc Tử,

hƣơng thơm và mật đắng”.

119. Đào Trƣờng Phúc (1971), “ Hàn Mặc Tử, trăng và thơ”, Văn (4-6)

120. Trần Tái Phùng (1940), “Hàn Mặc Tử”, Báo Ngƣời mới, (số 23 -11).

121. Vũ Quần Phƣơng (1997), Thơ với lời bình Nxb Giáo dục, Hà nội.

122. Vũ Quần Phƣơng ( 1996), “ Hàn Mặc Tử”, sách Nhìn lại một cuộc cách mạng

trong thi ca, NXB Giáo dục, Hà nội.

123. Paul Claudel (1998), “ Tôn giáo và thơ ca”, Văn học nƣớc ngoài, (số 4)

124. Frend. S( 1996) Vật tổ và cấm kị ( Đoàn Văn Trúc dịch), Trung tâm văn hóa dân

tộc thành phố Hồ Chí Minh.

125. Tuệ Quang (1993), “ Góp phần tìm hiểu bài thơ “ Đây thôn Vĩ Giạ” TC Nha

Trang, (số 20/ Tháng 9 -10).

192

126. Nguyễn Quan (1994), “ Tôi đang còn đây”, sách Hàn Mặc Tử, hƣơng và mật

đắng”, Nxb Hội nhà văn, Hà nội.

127. Phạm Xuân Sanh (1959), “ Ảnh hƣởng Phật giáo trong thi ca Việt Nam”, TC

Đại Học, Sài gòn( số 9)

128. Phạm Văn Sĩ (1986), Về tƣ tƣởng và Văn Phƣơng Tây hiện đại - Nxb

ĐHVTHCN, Hà nội.

129. Svai ge. S(1996), Ba bậc thầy, Nxb Giáo dục, Hà nội.

130. Trần Đình Sử (1998), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Giáo dục, Hà nội.

131. Trần Đình Sử ( 1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Hội Nhà căn, Hà

nội,

132. Trần Đình Sử ( 1996), Lí luận và phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà nội.

133. Trần Đình Sử ( 1999), Mấy vấn đề Thi pháp học Văn học Trung đại, Nxb Giáo

dục, Hà nội.

134. Ngọc Sƣơng (1967), “ Tƣởng niệm Hàn Mặc Tử”, Văn ( số 7-1)

135. Văn Tâm (1991), Góp lời thiên cổ sử, Nxb Văn học, Hà nội.

136. Văn Tâm (1990), Giảng văn Văn học Lãng mạn, Nxb Giáo dục, Hà nội.

137. Quách Tấn (1940), “ Hàn Mặc Tử với thơ Đƣờng luật, Báo ngƣời mới, (số 31 -

41)

138. Quách Tấn ( 1967), “ Đôi nét về Hàn Mặc Tử”, Văn ( số 7-4)

139. Quách Tấn (1938), Một tấm lòng, tác giả xuất bản.

140. Quách Tấn ( kí là Trƣờng Xuyên) (1959), “ Bàn qua đôi điểm về Thánh nữ

Đồng trinh Maria”, Nguyệt san Lành mạnh, Huế, (1 -11)

141. Hoài Thanh và Hoài Chân (1988), Thi nhân Việt Nam 1932 - 1941, Nxb Văn

học, Hà nội.

193

142. Phạm Công Thiện (1971), “ Một định mệnh tàn khốc theo riết bên mình Hàn

Mặc Tử”, Văn (số 1-6)

143. Đỗ Lai Thúy (1992), Con mắt thơ, Nxb Lao động, Hà nội

144. Võ Long Tê (1972), Kinh nghiệm thơ và hành trình Tinh thần của Hàn Mặc Tử.

Tập sau BSEI quý IV, 1972 (Nguyên văn tiếng Pháp) tác giả có trích dịch cho cuốn “ Hàn

Mặc Tử, phê bình và tƣởng niệm”.

145. Đặng Tiến (1971), “ Đức tin trong hồn thơ Hàn Mặc Tử”, Văn (số 1 -6)

146. Đặng Tiến (không ghi rõ năm xuất bản), Vũ trụ thơ, Giao điểm xuất bản Sài

gòn.

147. Nguyễn Bá Tín (1991), Hàn Mặc Tử, anh tôi. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

148. Nguyễn Bá Tín (1994), Hàn Mặc Tử trong riêng tƣ, Nxb Hội nhà văn, Hà nội

149. Cao Xuân Thử (1994), “ Nhìn nhận luận giải” Mùa xuân chín” từ toàn bộ di

sản thơ ca Hàn Mặc Tử”, Xứ lạng ( so xuân).

150. Đào Thái Tôn (1994), “ Hàn Mặc Tử, anh là ai ?”, báo Văn nghệ (số 33/17 -8)

151. Trần Thị Huyền Trang (1994), Hàn Mặc Tử, hƣơng thơm và mật đắng, Nxb

Hội nhà văn, Hà nội.

152. Trần Thị Huyền Trang (1990), “ Chữ Thần”. Báo Văn Nghệ (sô 1411/24-11)

153. Trần Thị Huyền Trang (1994) Sau khi đọc “ Hàn Mặc Tử”, anh tôi , Báo Văn

Nghệ ( số 167/25.2)

154. Hoàng Trinh (1992), “ Đây thôn Vĩ Giạ” Sách Từ kí hiệu học đến thi pháp học,

Nxb KHXH, Hà nội.

194

155. Hà Bình Trị (1992), “ Tình yêu và Tình quê trong” Đây thôn Vĩ Giạ”, Báo Văn

Nghệ (số 1671/18 -1)

156. Nguyễn Tuân (1982, 1983), Tuyển Tập T1, T2, Nxb Văn học, Hà nội.

157. Nguyễn Hữu Tuyền (1990), “ Nỗi oan cần đƣợc giải”, Báo Văn Nghệ ( phụ

san) tháng 5

158. Phạm Xuân Tuyền (1997), Đi tìm chân dung Hàn Mặc Tử, Nxb Văn học, Hà

nội.

159. Lê Tuyên (1961 - 1962) Thơ ca hiện đại và nỗi lòng thành thật của Hàn Mặc Tử

Tập san ĐHSP,( tập 2)

160. Hàn Mặc Tử (1936), Gái quê (Tập thơ)

161. Hàn Mặc Tử (1959), Thơ ( tuyển), Tân Việt tái bản.

162. Hàn Mặc Tử (1987), Tuyển tập thơ văn, Nxb Văn Học, Hà nội

163. Hàn Mặc Tử (1988), Thơ Hàn Mặc Tử, Nxb Nghĩa Bình.

164. Hàn Mặc Tử (1969), Chơi giữa mùa trăng, An tiêm xuất bản, Sài Gòn.

165. Hàn Mặc Tử (1995), “ Bích khê, thi sĩ thần linh”, tựa tập thơ “ Tinh huyết” của

Bích Khê, Nxb Hội nhà văn (tái bản), Hà nội.

166. Hàn Mặc Tử (1939), “Bạt” cho tập thơ “ Một tấm lòng” của Quách Tấn, tác giả

xuất bản.

167. Dũng lạc Trần Cao Tƣờng (không ghi rõ xuất bản), Thấy đƣợc thế giới thần bí

bên kia cái chết qua hiện tƣợng Hàn Mặc Tử. Mục Hàn Mặc Tử, thi sĩ thần bí ( Tài liệu do

Phòng Lƣu niệm Hàn Mặc Tử cung cấp)

168. Chế Lan Viên (1987) Hàn Mặc Tử, anh là ai? Sách “ Tuyển tập Hàn Mặc Tử”,

Nxb Văn học, sau in vào “ Thơ Hàn Mặc Tử”, Nxb Nghĩa bình, 1988.

195

169. Chế Lan Viên (1940), Những kỉ niệm về Hàn Mặc Tử, Báo Ngƣời mới (số 23-

11)

170. Chế Lan Viên (1981), Nghĩ cạnh dòng thơ, Nxb văn học, Hà nội

171. Chế Lan Viên (1976), Bay theo dƣờng dân tộc đang bay, Nxb Văn học Giải

Phóng, Thành phố Hồ Chí Minh.

172. Chế Lan Viên (1995), Điêu tàn, Nxb Hội nhà văn ( tái bản), Hà nội

173. Chế Lan Viên (1984), Tuyển tập, Nxb Văn học, Hà nội.

174. Nguyễn Minh Vĩ (1994), “ Con ngƣời Hàn Mặc Tử qua thơ anh” , Tạp chí Nha

Trang ( số 5)

175. Nguyễn Vĩ (1971), Văn thi sĩ tiền chiến, Nxb Sài gòn.

176. Hà Vinh và Mã Giang Lan (1998) Hàn Mặc Tử, thơ và giai thoại, Nxb

VHTT,Hà nội

177. Thi Vũ (1971), “ Trên chọn lƣu dây của hải ngoại, nhớ về Hàn Mặc Tử ngƣời

anh hùng quê hƣơng”- Văn ( số 1-6), Sài gòn

178. Vƣgôtxki (1984). Tâm lí học nghệ thuật ( Hoài Lam dịch), Nxb KHXH Hà nội.

Tiếng Nga

179. В. В. Виноградов (1961). Проблема вторства и теория стилей -

издательсто “Наука”, Москва.

180. В. В. Виноградов (1967) Проблема литературных языков и закономностей

их образованиния и развития, - издательсто “Наука”, Москва.

181. A.P. Григориян (1966), Проблема стилей искусства - издательсто

“Наука”, Москва.

182. B. Дневров (1960), Проблема реализма, издательсто “Советский

идеатель”, Ленинград.