BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

…..o0o…..

NGUYỄN THỊ ANH THƯ

TÌM HIỂ U MỘT SỐ PHƯƠNG TIỆN GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ LỨA TUỔI MẦM NON

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Niên khoá: 1999-2003

Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Thanh Bình

Thành phố Hồ Chí Minh-2003

MỤC LỤC

MỤC LỤC ................................................................................................... 2

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ...................................................................... 4

1. Lý do chọn đề tài. .................................................................................................... 4

2. Nhiệm vụ nghiên cứu. ............................................................................................. 5

3. Đối tượng nghiên cứu. ............................................................................................. 5

4. Phương pháp nghiên cứu. ....................................................................................... 5

5. Khách thể nghiên cứu. ............................................................................................ 5

6. Giới hạn của đề tài. .................................................................................................. 5

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ................................................................... 6

1.1. Khái niệm về đạo đức. .......................................................................................... 6

1.2. Vai trò của giáo dục đạo đức trong việc hình thành nhân cách trẻ mầm non. ....................................................................................................................................... 7

1.3. Các nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non. ........................................... 8

1.4. Nội dung giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non. ................................................. 10

1.5. Nguyên tắc và phương pháp giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non. ................ 14

1. 5.1. Nguyên tắc giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non. .................................................. 14

1.5.2. Phương pháp giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non ................................................ 16

Chương 2: MỘT SỐ PHƯƠNG TIỆN GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ MẦM NON ...................................................................................... 20

2.1. Khái niệm về phương tiện. ................................................................................. 20

2.2. Trò chơi là phương tiện giáo dục đạo đức quan trọng cho trẻ lứa tuổi mầm non. .............................................................................................................................. 20

2.2.1. Đặc điểm của trò chơi. ............................................................................................ 20

2.2.2. Trò chơi và việc hình thành đạo đức cho trẻ mầm non. ....................................... 22

2.3. Tác phẩm văn học là phương tiện không thể thiếu trong giáo dục đạo đứccho trẻ mầm non ............................................................................................................... 27

2.3.1. Đặc điểm truyện thơ của trẻ mầm non................................................................... 27

2.3.2. Tác phẩm văn học là phương tiện không thể thiếu trong giáo dục đạo đức. ...... 29

2.4. Giao tiếp là con đường để trẻ lĩnh hội chính xác các chuẩn mực đạo đức của xã hội. .......................................................................................................................... 34

2.4.1. Đặc điểm giao tiếp của trẻ mầm non. ..................................................................... 34

2.4.2. Giao tiếp với việc lĩnh hội các chuẩn đạo đức của trẻ mầm non.......................... 37

2.5. Lao động cũng là một trong những phương tiện giáo dục đạo đức quan trọng cho trẻ mầm non. ....................................................................................................... 40

2.5.1. Đặc điểm lao động của trẻ mầm non. .................................................................... 40

2.5.2. Lao động và việc hình thành đạo đức. ................................................................... 42

Chương 3: MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH BAN ĐẦU VỀ SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG TIỆN GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC Ở TRƯỜNG MẦM NON . 48

KẾT LUẬN ............................................................................................... 51

1. MỘT SỐ KẾT LUẬN ........................................................................................... 51

2. MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT ............................................................................... 51

TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 53

PHỤ LỤC .................................................................................................. 54

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1. Lý do chọn đề tài.

Sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước đòi hỏi con người như một chủ thể sáng tạo ra

các giá trị vật chất và tinh thần, kể cả giá trị của chính bản thân mình - một nhân cách vững vàng về tư

tưởng chính trị và có phẩm chất đạo đức tốt có khả năng gìn giữ, kế thừa và tiếp thu có chọn lọc truyền

thông văn hóa dân tộc và văn minh thế giới mà vẫn giữ được bản sắc văn hóa Việt Nam; sử dụng sáng

tạo các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.

Đây chính là mẫu người mà xã hội đặt ra cho nền giáo dục trong thời đại mới, thời đại của khoa

học kỹ thuật, thời đại của công nghệ thông tin. Để góp phần hoàn thành được yêu cầu lớn lao ấy của

xã hội, mục tiêu đào tạo ngay từ bậc mầm non đã khẳng định "hình thành ở trẻ những cơ sở đầu tiên

của nhân cách con người mới XHCNVN". Rõ ràng mục tiêu chăm sóc giáo dục trẻ tuổi mầm non hiện

nay là hướng tới đào tạo cho thế kỷ 21 những con người có nhân cách phát triển, có đủ cả hai mặt "tài

và đức" trong đó đạo đức là mặt luôn được đề cao ở lứa tuổi mầm non bởi xưa nay đạo đức vẫn được

cha ông ta xem như là chuẩn mực để đánh giá sự trưởng thành của một con người. Chúng ta biết rằng

đứa trẻ khi mới sinh ra ở chúng chưa có một giá trị vật chất, tinh thần nào của con người được hình

thành. Dưới sự giáo dục của người lớn thì những giá trị đó đặc biệt là các giá trị đạo đức mới bắt đầu

hình thành và phát triển từ tuổi mầm non. Nếu trong giai đoạn này vì một lí do nào đó mà các giá trị

đạo đức không được hình thành ở trẻ thì sau này trẻ khó có thể trở thành một công dân tốt, một con

người tốt trong xã hội. Bác Hồ đã từng nói: "Muốn đào tạo thế hệ trẻ thành những công dân tốt, cán bộ

tốt, điều trước hết phải dạy cho trẻ hiểu biết về giá trị đạo đức", nhiều công trình nghiên cứu đã chứng

minh rằng : Ở 80% trẻ tư cách đạo đức đã được hình thành trong 6 năm đầu tiên của cuộc đời . Những

hành vi đạo đức sau này hầu như chỉ là sự kế thừa, đi theo con đường mà giai đoạn trước đã hình thành

(19). Như vậy việc giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non, đặc biệt là ở tuổi mẫu giáo là một việc làm rất

cần thiết và cấp bách.

Hiện nay các trường mầm non trong cả nước nói chung và trong thành phố Hồ Chí Minh nói

riêng khi chăm sóc giáo dục trẻ đã mạnh dạn sử dụng nhiều hình thức giáo dục đạo đức khác nhau.

Các hình thức này tuy khác nhau về tên gọi, hình thức nhưng chúng đều được xem là những phương

tiện giáo dục đạo đức quan trọng cho trẻ mầm non. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều trường nhiều giáo

viên còn gặp khó khăn trong việc áp dụng các hình thức này, có lẽ một mặt do điều kiện vật chất, tài

liệu sách vở ở một vài trường nhất là những trường ở vùng sâu vùng xa chưa được phổ biến đến tất cả

các giáo viên mặt khác do tính chất phong phú đa dạng của các phương tiện đó nên họ chưa hiểu rõ

công dụng của những phương tiện giáo dục đạo đức trên vì vậy mà kết quả thu được chưa cao, chưa

đồng đều trong các trường mầm non. Để giúp cho công tác giáo dục đạo đức cho trẻ ở tất cả các

trường mầm non đạt được hiệu quả cao đáp ứng được mục tiêu mà giáo dục mầm non đã đề ra chúng

tôi quyết định chọn đề tài "Tìm hiểu một số phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ lứa tuổi mầm

non". Hy vọng luận văn này sẽ giúp cho các giáo viên mầm non và bản thân tôi hiểu rõ thêm các

phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ.

2. Nhiệm vụ nghiên cứu.

Nghiên cứu một số cơ sở lí luận về việc giáo dục đạo đức cho trẻ lứa tuổi mầm non.

Nghiên cứu vai trò của một số phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non. Chủ yếu nghiên

cứu về những phương tiện sau :trò chơi, tác phẩm văn học, hoạt động giao tiếp, hoạt động lao động.

Từ kết quả nghiên cứu rút ra một số kết luận cần thiết cho việc giáo dục đạo đức cho trẻ lứa tuổi

mầm non ở các trường mầm non.

3. Đối tượng nghiên cứu.

Một số phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ lứa tuổi mầm non

4. Phương pháp nghiên cứu.

- Phân tích, tổng hợp tài liệu

- Phương pháp quan sát

- Trò truyện trực tiếp với trẻ

- Phỏng vấn cô giáo mầm non và phụ huynh trẻ

5. Khách thể nghiên cứu.

- 45 trẻ lớp lá và 40 trẻ lớp chồi trường Mầm Non Bán Công Tuổi Thơ 7 Q.3 và trường Măng

Non I Q.10

- 55 giáo viên của ba trường Mầm Non Bán Công Tuổi Thơ 7, Q.3 và trường Măng Non I, Q.10,

MG Thực nghiệm TW III.

- 55 phụ huynh của trường Măng Non I, Q.10, MG Thực nghiệm TW III.

6. Giới hạn của đề tài.

Đây là loại đề tài nghiên cứu lí thuyết, chúng tôi giới hạn ở việc nghiên cứu các phương tiện

giáo dục đạo đức qua tài liệu, sách vở và một số quan sát ban đầu.

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Khái niệm về đạo đức.

Tính cho đến nay xã hội loài người của chúng ta đã tồn tại phát triển qua 5 hình thái kinh tế xã

hội khác nhau (cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ

nghĩa) . Ở bất cứ hình thái xã hội nào con người cũng giao tiếp trực tiếp hay gián tiếp với nhau để tồn

tại và phát triển. Trong thời kỳ nguyên thủy mọi người trong xã hội giao tiếp với nhau đơn giản và

bình đẳng, không hề có lòng đố kỵ lẫn nhau bởi lúc đó xã hội chưa phát triển, con người chủ yếu sống

thành bầy thành đàn, của cải vật chất chia đều cho mỗi người. Cùng với sự phức tạp dần của xã hội thì

quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân và cộng đồng bắt đầu trở nên phức tạp đòi hỏi mỗi cá

nhẩn phải có cách ứng xử, giao tiếp, điều chỉnh thái độ hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích

chung của mọi người, cửa cộng đồng và xã hội, những cá nhân đó được xã hội và cộng đồng đánh giá

là con người có đạo đức còn những người có thái độ hành vi chỉ vì lợi ích của bản thân mà bất chấp lợi

ích của người khác của xã hội thì những người đó bị coi là người thiếu đạo đức.

Trong các tài liệu nghiên cứu hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về đạo đức:

- Theo quan niệm của đạo đức học Mác - Lênin thì đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là

tổng hợp những qui tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi

của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người trong quan hệ xã hội giữa người với

người, giữa cá nhân với xã hội.

- Đại tự điển của tiếng Việt quan niệm đạo đức là những tiêu chuẩn nguyên tắc được dư luận xã

hội thừa nhận, các nguyên tắc này qui định hành vi quan hệ của con người với nhau và đối với xã hội.

Cũng có quan niệm cho rằng đạo đức là toàn bộ những qui tắc, chuẩn mực dựa vào cái đó điều

chỉnh và đánh giá cách ứng xử của của mình và người khác trong quan hệ xã hộivà quan hệ với thế

giới tự nhiên.

Hay có quan niệm cho rằng đạo đức là toàn bộ những qui tắc chuẩn mực biểu hiện sự tự giác

trong quan hệ giữa người với người, giữa người với cộng đồng xã hội với tự nhiên và với cả bản thân

mình.

Dù có nhiều quan điểm khác nhau về đạo đức nhưng nhìn chung đạo đức vẫn được quan niệm

là một hiện tượng xã hội phản ánh các mối quan hệ hiện thực bắt nguồn từ bản thân cuộc sống

con người. Nó là một hệ thống các qui tắc ứng xử, các chuẩn mực xã hội mà cộng đồng tập thể xây

dựng nên, buộc con người trong quan hệ giao tiếp ứng xử với mọi người với tự nhiên, xã hội phải lấy

các qui tắc các chuẩn mực đó làm thước đo, làm cơ sở để điều chỉnh hành vi thái độ của mình sao cho

phù hợp với lợi ích chung của mọi người của cộng đồng và xã hội góp phần làm cho mọi người trong

xã hội ngày càng xích lại gần nhau, xã hội ngày càng xuất hiện nhiều cá nhân có những phẩm chất đạo

đức tốt đẹp hơn . Với trẻ mầm non đạo đức được xem như là những chuẩn mực đạo đức sơ đẳng nhất

về hành vi ứng xử cũng như thái độ thương, ghét, yêu quí, kính trọng, của trẻ đối với bạn bè, đối với

cha mẹ, ông bà, cô giáo những người thân yêu nhất của trẻ, đối với tất cả các sự vật hiện tượng hiện

diện xung quanh trẻ.

1.2. Vai trò của giáo dục đạo đức trong việc hình thành nhân cách trẻ mầm non.

Con người và con vật tuy là những cá thể sống trong cùng một hệ sinh thái nhưng giữa con

người và con vật có sự khác biệt rất lớn. Con người, nhất là người trưởng thành có thể giao tiếp với

nhau bằng ngôn ngữ, cư xử với nhau bằng những hành động, hành vi mang tính nhân đạo hay nói cách

khác là mang tính người, còn ỏ con vật và trẻ sơ sinh thì không có được những phẩm chất này. Chính

vì thế ta không bao giờ nói tới "nhân cách của con vật" hay "nhân cách của trẻ sơ sinh" mà nhân cách

chỉ được dùng cho những người trưởng thành có khả năng ý thức được mọi vấn đề của bản thân mình

và xã hội. Nhân cách là thước đo chính xác sự phát triển về chất của con người. Khi đánh giá người

này tốt hay xấu, lương thiện hay ác độc người ta đều lấy "nhân cách người" làm thang đánh giá. Rõ

ràng nhân cách là yếu tố quyết định sự trưởng thành và phát triển của một con người hay nói cách

khác nó quyết định xem cá nhân đó có phát triển thành người theo đúng nghĩa của nó chưa.

Đứa trẻ khi mới sinh ra tuy đã mang đầy đủ hình dáng của một con người nhưng chưa được xem

là một con người thật sự, bởi ở chúng ngoài những yêu cầu về dinh dưỡng đòi hỏi người lớn phải thỏa

mãn thì chưa có một năng lực phẩm chất nào của người được hình thành, chúng chỉ biết khóc khi đói,

khi rét và khi đã ăn no mặc ấm thì lại nín. Một cá nhân như thế chưa phải là người theo đúng nghĩa của

nó. Muốn trở thành người đứa trẻ phải có thời gian để lĩnh hội tất cả những di thức của xã hội loài

người. Bản thân trẻ không đủ khả năng để làm được điều đó mà cần phải có sự tác động của người lớn.

Người lớn bằng những hình thức giáo dục khác nhau sẽ cung cấp cho trẻ những tri thức khoa học của

loài người, sẽ cung cấp cho trẻ những khái niệm, những chuẩn đạo đức mà xã hội đã qui định cho một

con người trưởng thành, đồng thời với những hình thức giáo dục đó người lớn uốn nắn sửa chữa cho

trẻ những hành vi, thái độ đi lệch chuẩn mà xã hội yêu cầu nhằm hướng sự phát triển về chất của trẻ đi

theo chiều hướng tích cực. Điều này cũng đồng nghĩa với việc làm cho nhân cách của trẻ phát triển

theo hướng tốt. Dưới sự tác động của người lớn đứa trẻ ngay từ những tháng năm đầu tiên của cuộc

đời thực sự có thể lĩnh hội một số khái niệm, biểu tượng đạo đức đơn giản và có hành vi phù hợp với

những biểu tượng ấy. Trong khi giao tiếp với người lớn, trẻ được chứng kiến những hành vi của họ và

sự đánh giá "nên" "không nên" hay "được phép" "không được phép" của người lớn. Từ đó trẻ biết

được cái gì tốt cái gì xấu và trẻ nhanh chóng tiếp thu những điều đó như là cơ sở vững chắc cho sự

hình thành và phát triển nhân cách. Nếu trong khoang thời gian từ 0 - 6 tuổi trẻ không nhận được sự

tác động nào từ người lớn thì nhân cách của trẻ không được hình thành, đứa trẻ sẽ sống và hành động

như một con vật. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh "những đứa trẻ mồ côi sống xa gia đình

sớm luôn luôn sống thu mình, tự cô lập, thụ động có tính cục cằn nóng nảy"( 18, tr 3). Những nét tính

cách này làm cho nhân cách của trẻ phát triển theo hướng tiêu cực. Chính vì vậy nếu muốn nhân cách

của trẻ phát triển theo hướng tốt thì ngay từ tuổi mầm non chúng ta phải chăm lo giáo dục trẻ về mọi

mặt nhất là về mặt đạo đức. Phải kịp thời uốn nắn sửa chữa cho trẻ những nét tính cách, những phẩm

chất đạo đức đi lệch chuẩn.

Hiền dữ đâu phải là tính sẵn

Phần nhiều do giáo dục mà nên" (Lời Hồ Chủ Tịch)

Rõ ràng nhân cách của trẻ không phải tự nhiên mà có, nó chỉ được hình thành và phát triển dưới

ảnh hưởng trực tiếp của giáo dục nhất là giáo dục đạo đức. Giáo dục đạo đức thực sự có vai trò quan

trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ lứa tuổi mầm non. Giáo dục đạo đức giúp

hình thành những nét tính cách tốt ở trẻ như : Lòng nhân ái, thói quen giúp đỡ người khác, thói quen

nhường nhịn chia sẻ cùng bạn bè ... giúp hoàn thiện năng lực tự đánh giá mình và người khác, năng

lực tự điều chỉnh hành vi của mình, năng lực tự kiềm chế... Tất cả những nét tính cách và năng lực trên

tạo nên bản sắc và giá trị xã hội của một người hay nói rõ hơn nó tạo thành nhân cách của một con

người.

1.3. Các nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non.

Từ thời nền giáo dục còn sơ khai, cha ông ta đã rất coi trọng vấn đề giáo dục đạo đức cho trẻ nhỏ

đặc biệt là lứa tuổi mầm non bởi đối với trẻ thơ việc hình thành những dấu ấn ban đầu có ý nghĩa vô

cùng to lớn vì đó là mầm móng ban đầu của đạo đức sau này ở trẻ. Hơn nữa đối với trẻ em những gì

xảy ra trong thời thơ ấu thường để lại ấn tượng rất lâu và sâu trong suốt cả cuộc đời của trẻ sau này. So

với việc giáo dục thì việc cải tạo là cả một quá trình lâu dài và khó khăn hơn nhiều. Do đó nếu trong

giai đoạn mầm non người lớn có phương pháp cách thức giáo dục trẻ đúng đắn sẽ hạn chế được sự tích

lũy kinh nghiệm tiêu cực của trẻ, ngăn cản sự phát triển các kỷ xảo và thói quen hành vi xấu có thể có

ảnh hưởng không tốt đến sự hình thành những phẩm chất đạo đức sau này của trẻ. A.X.Macarenco

nhà giáo dục Xô viết vĩ đại đã từng nói "những gì không có được ở trẻ trước 5 tuổi thì sau này khó có

thể hình thành và sự hình thành nhân cách ban đầu bị lệch lạc thì sau này giáo dục lại rất khó khăn".

Cùng với tư tưởng đó của Macarenco cổ nhân ta từ xưa cũng đã cho rằng "Dạy con từ thuở còn thơ"

"Tre non dễ uốn, tre già nổ đốt" hay "Bé không vin lớn gãy cành" phải chăng những câu nói ấy cổ

nhân xưa nêu ra là để nhằm khẳng định ý nghĩa to lớn của việc giáo dục đạo đức đối với con người

nhất là ở độ tuổi mầm non , độ tuổi mà "biết ăn biết ngủ biết học hành là ngoan ".Vâng quả thật có lẽ

khi đọc những câu nói ấy tất cả những ai làm công tác giáo dục đều thấy được nhiệm vụ mà cổ nhân

xưa cũng như những nhà giáo dục nổi tiếng đặt ra cho ngành giáo dục đặc biệt là ngành giáo dục mầm

non. Nhiệm vụ ấy nhấn mạnh việc giáo dục đạo đức cho trẻ để làm nền cho việc trang bị những kiến

thức về kĩ năng.

Tiếp nối tư tưởng tốt đẹp ấy của cố nhân xưa, các nhà giáo dục trong thời đại công nghiệp hóa

hiện đại hóa cũng luôn đề cao công tác giáo dục đạo đức cho con người đặc biệt là lứa tuổi mầm non

trong suốt quá trình " trồng người" của mình. Điều này được thể hiện rất rõ trong mục tiêu giáo dục

mầm non phần nói về đạo đức cho trẻ : "hình thành ở trẻ những cơ sở đầu tiên của nhân cách con

người mới Xã hội chủ nghĩa Việt Nam : giàu lòng thương, biết quan tâm nhường nhịn giúp đỡ những

người gần gũi ( bố mẹ, bạn bè, cô giáo ...) thật thà, lễ phép, hồn nhiên. Đây chính là nhiệm vụ giáo dục

đạo đức chung cho trẻ tuổi mầm non. Từ nhiệm vụ chung đó các nhà giáo dục mầm non xây dựng

những nhiệm vụ giáo dục đạo đức riêng cho từng độ tuổi khác nhau để góp phần hoàn thành được các

nhiệm vụ chung lớn lao ấy. Cụ thể các nhà giáo dục đã xây dựng nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho trẻ

nhà trẻ và mẫu giáo như sau:

1. Nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho trẻ nhà trẻ

Nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho trẻ phức tạp dần theo lứa tuổi, theo khả năng nhận thức của trẻ.

- Giáo dục cho trẻ thái độ, quan hệ lành mạnh đối với mọi người gần gũi xung quanh:

+ Trẻ biết yêu thương, gắn bó quan tâm đến người thân như biết thể hiện tình thương của trẻ đối

với người thân bằng cách thơm vào má người thân biết mi gió...

+ Thái độ đúng mực, hồ hởi khi gặp người khác.

+ Biết thực hiện những yêu cầu của người lớn.

+ Thái độ thân thiện với bạn bè cùng tuổi.

- Giáo dục cho trẻ thói quen có kỷ luật, thật thà, vệ sinh, ngăn nắp như:

+ Giáo dục thói quen dọn đồ chơi sau khi chơi xong.

+ Biết gọi cô khi cần đi vệ sinh.

- Quan tâm giáo dục cho trẻ tính chăm chỉ, có tinh thần tự lập và một số qui tắc hành vi xã hội

đơn giản, ban đầu như:

+ Biết giữ gìn bảo quản đồ chơi, quần áo mặc : chơi không vứt đồ, không đập phá đồ chơi,

không bôi bẩn vào quần áo.

+ Khi giao tiếp không nói quá to, biết cảm ơn xin lỗi bằng lời.

+ Tiến hành thực hiện công việc được giao đến cùng V.V..

2. Nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo

Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo là hình thành ở trẻ những tình cảm đạo

đức, kỷ xảo và thói quen hành vi đạo đức trong sự thống nhất với những khái niệm đạo đức và động cơ

hành vi. Việc hình thành những tình cảm đạo đức có vị trí quan trọng nhất đối với trẻ từ những năm

đầu tiên. Điều đó phù hợp với sự xuất hiện những nhu cầu mang tính xã hội đầu tiên ở trẻ thể hiện

trong khi giao tiếp. Chính trong quá trình giao tiếp phải giáo dục trẻ tình cảm quyến luyến và yêu mến

người lớn, mong muốn hành động theo sự chỉ dẫn của người lớn để làm vừa lòng họ, kiềm hãm những

hành động làm họ buồn lòng. Trẻ phải cảm thấy xúc động khi người thân buồn rầu không hài lòng với

hành động nghịch ngợm của mình và cảm thấy vui sướng khi được người lớn khen ngợi.

Giáo đục đạo đức cho trẻ mẫu giáo còn nhấn mạnh đặc biệt đến sự chân thành trong tình cảm

với hành động của trẻ ở những độ tuổi khác nhau tình cảm phải được phát triển ở mức độ cao

hơn. Ở tuổi mẫu giáo tình cảm đạo đức phải có ý thức hơn do đó phải hình thành lòng tự trọng, tinh

thần nghĩa vụ và trách nhiệm với công việc được giao.

Chúng ta biết rằng trẻ mẫu giáo thường hay bắt chước hành động của người lớn nhưng ở trẻ

chưa thực sự phát triển tính tự giác của hành vi chưa biết kiểm tra hành động của mình, chưa hiểu

được nội dung đạo đức củahành vi. Điều này có thể dẫn đến những hành động xấu bởi thế phải hình

thành ở trẻ những kỷ xảo và thói quen hành vi khác nhau thể liên lòng kính trọng đối với người lớn,

thái độ tốt đối với bạn bè, ý thức giữ gìn các đồ vật đồ dùng và ý thức hành vi văn hóa ở nơi công

cộng. Ở các độ tuổi khác nhau yêu cầu về kỷ xảo và thói quen đạo đức được nâng cao dần. Cụ thể tuổi

mẫu giáo nhỏ tiếp tục hình thành các thói quen giao tiếp có văn hóa với người lớn bạn bè, thói quen

thật thà, ngăn nấp, cố gắng chăm chỉ lao động. Đến tuổi mẫu giáo lớn giáo dục cho trẻ những hành vi

có ý thức đúng với các tiêu chuẩn đạo đức ví dụ : có ý thức chào hỏi người lớn .

Ngoài ra quá trình giáo dục đạo đức có nhiệm vụ hình thành ở trẻ những khái niệm, các tiêu

chuẩn đạo đức của xa hội chủ nghĩa, trong quá trình giáo dục đạo đức cô phải giải thích cho trẻ hiểu rõ

các khái niệm đạo đức sơ đẳng như: lòng tốt sự công bằng khiêm tốn lịch thiệp ...để trên cơ sở đó hình

thành phát triển các động cơ hành vi, thúc đẩy trẻ đi đến những hành động đúng .

Với những gì đã trình bày ở trên ta có thể thấy rằng nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo

bao gồm 3 nhiệm vụ lớn sau:

- Giáo dục và hình thành ở trẻ nhữnhg tình cảm đạo đức như: lòng nhân ái, lòng yêu nước, yêu

lao động, yêu thiên nhiên và môi trường ...

- Giáo dục và hình thành ở trẻ những hành vi văn minh trong giao tiếp với bạn bè ( quan tâm

nhường nhịn bạn ) trong giao tiếp với người lớn ( kính trọng lễ phép với người lớn), ý thức giữ gìn đồ

vật đồ chơi( bảo vệ đồ chơi, xếp đồ chơi ngăn nấp gọn gàng sau khi chơi) ý thức hành vi văn hóa ở

nơi công cộng (không nói to, không làm ảnh hưởng đến người khác )

- Hình thành ở trẻ những khái niệm các tiêu chuẩn đạo đức của xã hội chủ nghĩa ví dụ : khái

niệm về sự công bằng, lòng tốt, khái niệm về sự lễ phép ...

1.4. Nội dung giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non.

Chúng ta biết rằng trẻ mẫu giáo có nhu cầu được sống vui chơi và giao tiếp với bạn bè rất cao.

Người lớn đặc biệt là giáo viên mầm non cần thỏa mãn nhu cầu này của trẻ bởi trong khi chơi với bạn

ngoài việc được thỏa mãn nhu cầu đứa trẻ còn có điều kiện giao tiếp để hiểu rõ các bạn trong lớp hơn

đồng thời cũng ý thức được về mình. Cụ thể trẻ biết tự đánh giá về mình và về bạn thông qua vai chơi

hành động chơi. Mặt khác trẻ mẫu giáo rất giàu tình cảm có thể nói ở giai đoạn này tình cảm ảnh

hưởng rất mạnh đến hành động của trẻ. Đứa trẻ chỉ thực hiện hành vi tốt với đối tượng khi chúng cảm

thây yêu đối tượng đó và có sự khuyến khích khen ngợi của người lớn. Rõ ràng trong quá trình giáo

dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo không thể không có sự giúp đỡ toàn diện của người lớn đặc biệt là

GVMN. Làm cách nào để sự giúp đỡ của người lớn thật sự có kết quả tốt trong quá trình hình thành

đạo đức cho trẻ mẫu giáo? Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng nếu biết vận dụng những

đặc điểm tâm lí ở từng độ tuổi để xây dựng nội dung giáo dục đạo đức cho phù hợp với trẻ thì sự giúp

đỡ ấy sẽ đạt kết quả cao trong quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ. Căn cứ vào những gì mà các công

trình nghiên cứu đã chứng minh có thể nói rằng muốn việc giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non đạt hiệu

quả cao điều cần làm trước tiên là xác định những nội dung giáo dục đạo đức cho phù hợp với trẻ mầm

non.

Giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non bao gồm các nội dung chính sau đây:

1) Đối với trẻ nhà trẻ

a. Phát triển xúc cảm lành mạnh cho trẻ nhỏ.

Trẻ nhỏ đặc biệt là ở lứa tuổi nhà trẻ rất tinh, ai tinh yêu nó, nó sẽ tin yêu lại và dễ nghe lời

người đó. Lời bảo ban dạy dỗ với tình thương là lời dạy bảo sâu lắng nhất có tác dụng nhất đối với trẻ

lứa tuổi này. Những lời dọa dẫm nạt nộ chỉ làm cho trẻ sợ mà làm theo chứ không phải là lời dạy bảo

tốt. Chính vì thế để tiến hành việc giáo dục đạo đức cho trẻ nhà trẻ cần tạo cho trẻ những xúc cảm tốt

đẹp nhất khi giao lưu với cô, mẹ và những người thân ( hoạt động chủ đạo của trẻ hài nhi). Trẻ có

sung sướng, thoải mái khi giao tiếp với mọi người thì mới vui vẻ, hồn nhiên , mới gắn bó với mọi

người. Chính yếu tố này là điều kiện đặc biệt quan trọng giúp cho trẻ ngoan và làm theo sự mong

muốn của người lớn. Trong vòng tay mẹ cùng với nhũng lời âu yếm và cử chỉ vuốt ve của mẹ trong

lúc cho trẻ bú, trong lúc ru trẻ ngủ đã gieo vào lòng trẻ biết bao cảm xúc đẹp đẽ êm đềm. Với những

hành động đó người mẹ đã làm cho tinh thần của trẻ được phong phú hơn, trẻ cảm thấy yêu mẹ, yêu

mọi người và thế giới xung quanh hơn. Sự thờ ơ lạnh nhạt của mẹ sẽ làm mất đi khả năng giao tiếp với

người khác, làm trẻ trở nên thô lỗ yếu đuối, bệnh tật. Rõ ràng muốn giáo dục tình cảm thái độ hành vi

đạo đức tốt đẹp cho trẻ chúng ta phải lấy việc phát triển xúc cảm lành mạnh cho trẻ làm cơ sở. Điều

này không phải tự nhiên mà có, nó do người lớn tạo nên trong quá trình giao lưu tiếp xúc với trẻ.

Muốn xúc cảm của trẻ phát triển trong giao tiếp người lớn cần tạo điều kiện cho trẻ được bộc lộ tình

cảm của mình đối với người thân( hôn mẹ, hôn cô, âu yếm người thân ...tỏ ra vui mừng khi mẹ đón và

khi mẹ đi làm về...) Tuyệt đối không được dọa trẻ (ma, cọp, bóng đêm, con ác thú ..) làm trẻ sợ hãi,

gây ảnh hưởng xấu đến hệ thần kinh trẻ nhỏ. Tập cho trẻ dễ làm quen, cởi mở với mọi người, giúp đỡ

và dạy trẻ trong giao lưu cảm xúc. Dạy trẻ biết vui mừng khi thỏa mãn nhu cầu ( biết cám ơn khi

người khác làm cho việc tốt, cho quà cho đồ chơi...)

Cũng nên nhớ rằng việc phát triển xúc cảm lành mạnh cho trẻ phải được đi theo hưởng ứng tích

cực không nên làm quá đáng để trẻ lúc nào cũng cần có người lớn bên cạnh, trở nên phụ thuộc tâm lí

vào cha mẹ.

b. Dạy trẻ biết yêu quí người thân gắn bó với bạn bè và biết nghe lời người lớn.

Yêu quí người thân, gắn bó với bạn bè và biết nghe lời người lớn là một trong những thói quen

đạo đức cần sớm được hình thành ở lứa tuổi nhà trẻ. Bởi trẻ hay bắt chước người lớn đề chứng tỏ mình

đã lớn, trẻ thích tự làm một mình, đôi khi bướng bỉnh cố ý làm sai lời người lớn. Nếu không kịp thời

uốn nắn hành vi đó sẽ trở thành thói quen và trẻ rát khó sửa chữa sau này. Do vậy người lớn phải chăm

lo dạy dỗ uốn nắn, tình cảm cách cư xử của trẻ một cách trực tiếp, phái làm cho trẻ bước đầu hiểu ra

cái gì là tốt, cái gì là không tốt, cái gì người lớn đồng ý, cái gì người lớn không đồng ý. Muốn vậy

người lớn phải tôn trọng trẻ, không áp đặt, không thả nổi sự phát triển của trẻ, người lớn phải kịp thời

động viên giúp đỡ khi trẻ gặp khó khăn không nên la mắng trẻ trước mặt người khác nhưng cũng cần

tỏ rõ thái độ của mình đối với hành vi của trẻ. Nếu trẻ hư người lổn cần tỏ rõ thái độ không đồng ý và

tìm cách khắc phục. Tạo mọi điều kiện cho trẻ hoạt động với đồ vật, đồ chơi để những nét tính cách

của trẻ được bộc lộ rõ ra ngoài, qua đó cô hiểu trẻ và giúp trẻ có được những thói quen biểu hiện hành

vi tốt đẹp trong cuộc sống của trẻ đồng thời giúp trẻ thích nghi dần với môi trường ở nhóm lớp nhà trẻ.

c. Giáo dục trẻ có được một số kỹ năng tự phục vụ.

Trẻ năm thứ 2 và năm thứ 3 mặc dù chưa có khả năng phục vụ mình trong sinh hoạt hằng ngày

nhưng dưới sự hướng dẫn, rèn luyện của người lớn trẻ đã nắm được một số kỹ năng tự phục vụ đơn

giản. Những kỹ năng này giúp cho trẻ có thể lĩnh hội dễ dàng một số kỷ năng lao động đơn giản ở lứa

tuổi tiếp theo. Cụ thể ở lứa tuổi này cần giáo dục cho trẻ một số kỹ năng tự phục vụ đơn giản như: tự

xúc cơm, uống nước, rữa tay, giữ quần áo gọn gàng sạch sẽ, biết lấy và cất đồ chơi đúng vào nơi qui

định. Những kỹ năng này mới hình thành chưa bền vững, người lớn cần thường xuyên luyện tập cũng

cố bằng việc làm cụ thể của trẻ để duy trì chúng .

d. Bước đầu hình thành cho trẻ những mối quan hệ bạn bè gần gũi và thân thiện

Mặc dù trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ chưa có nhu cầu chơi với nhau nhưng việc hình thành cho trẻ

những mối quan hệ bạn bè là điều cần thiết. Nó là cơ sở nền tảng để trẻ có thể chơi với nhau ở những

lứa tuổi tiếp theo. Ở lứa tuổi này thông qua chế độ sinh hoạt hằng ngày, giờ chơi, những giờ luyện tập

cùng nhau người lớn dạy trẻ biết cách giúp đỡ lẫn nhau, không tranh giành đồ chơi mà chia cho các

bạn cùng chơi chung. Ngoài ra ở lứa tuổi này chúng ta nên giáo dục cho trẻ có tình cảm với một số con

vật nuôi trong nhà ví dụ: con mèo, con chó.

Như vậy để có thể hoàn thành nhiệm vụ giáo dục đạo đức mà bộ giáo dục đã qui định đối với trẻ

nhà trẻ lứa tuổi chưa có khả năng phân biệt bản thân mình, chưa phân biệt được đúng sai chúng ta cần

thực hiện theo những nội dung sau:

- Phát triển xúc cảm lành mạnh cho trẻ nhỏ

- Dạy trẻ biết yêu quí người thân gắn bó với bạn bè và giúp trẻ biết nghe lời người lớn.

- Giáo dục trẻ có được một số kỹ năng tự phục vụ.

- Bước đầu hình thành cho trẻ những mối quan hệ bạn bè gần gũi và thân thiện

2. Đối với trẻ mẫu giáo

a. Giáo dục cho trẻ lòng nhân ái và những nhân tố sơ đẳng của lòng yêu nước

Sống trong tình thương là hạnh phúc của trẻ thơ, tình thương suy cho cùng cũng là gốc đạo đức

của con người. Do đó giáo dục tình thương đặc biệt là lòng nhân ái cần được coi là nhiệm vụ quan

trọng trong công tác giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo.Giáo dục lòng nhân ái cho trẻ phải bắt đầu từ

một số nội dung cơ bản sau:

- Giáo dục tình yêu gia đình: gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường giáo dục đầu tiên

của mỗi người, là môi trường gắn bó đầu tiên với người khác. ở gia đình có tình yêu và trách nhiệm

đầu tiên của mỗi người ( giữa ông bà, anh chị,..). Nếu không có được tình yêu và trách nhiệm trong

gia đình sẽ không có được lòng nhân ái và tinh thần trách nhiệm của người công dân sau này. Trong

quá trình giáo dục đạo đức cô phải làm cho trẻ hiểu rằng trong gia đình mọi người cần gắn bó với

nhau trên tình ruột thịt cần chăm sóc lẫn nhau, trong gia đình mọi người đều được bình đẳng về quyền

lợi và nghĩa vụ, đó là mối quan hệ hết sức nghiêm túc, cần cho mỗi gia đình mà mọi người phải tôn

trọng ( chẳng hạn tôn trọng quí mến cha mẹ anh chị là trẻ em không được khóc lóc quấy rầy cha mẹ

đang làm việc hoặc anh chị đang học bài.

- Giáo dục tình yêu và sự quan tâm đối với mọi người từ gia đình, bạn bè, trường lớp mẫu

giáo. Yêu cầu trẻ sẵn sàng giúp đỡ cô và bạn bè, kính trọng và quan tâm giúp đỡ mọi người, niềm nở

chan hòa với mọi người

- Giáo dục tình yêu thiên nhiên yêu cuộc sống, yêu vật nuôi cây cảnh, giáo dục trẻ ý thức

bảo vệ thiên nhiên, chăm sóc động thực vật, bảo vệ môi trường góp phần làm cho môi trường thêm

sạch đẹp

- Ngoài ra cần giáo dục cho trẻ những mầm mống ban đầu về lòng yêu nước, tự hào dân tộc,

yêu bác Hồ ...

b. Giáo dục quan hệ bạn bè xây dựng tình bạn trong nhốm chơi và tình bạn trong lớp học

- Đối với trẻ mẫu giáo bé cần khuyến khích trẻ làm quen với nhau, biết sống hòa thuận bên

nhau, biết tuân thủ những nguyên tắc đầu tiên của sinh hoạt tập thể ( chấp nhận sự phân công đồ chơi,

nhường nhịn giúp đỡ bạn) bước đầu tập cho trẻ biết chơi và phối hợp cùng nhau

- Đối với trẻ mẫu giáo nhỡ và mẫu giáo lớn cần mở rộng vốn kinh nghiệm về hoạt động chung

của trẻ, mở rộng hiểu biết của trẻ về người bạn tốt, tình bạn tốt, về cách cư xử như thế nào cho đúng (

đoàn kết, quan tâm đến nhau, giúp đỡ và học tập lẫn nhau ...) kịp thời biểu dương những hành vi tốt,

uốn nắn những hành vi xấu, hướng dẫn trẻ tự giải quyết những xung đột trong khi chơi một cách hợp

c. Giáo dục các qui tắc ứng xử và các hành vi văn hóa

Trong cuộc sống hàng ngày ngoài giao tiếp với bạn bè cùng tuổi đứa trẻ còn giao tiếp với người

lớn ( cô giáo, ông bà, cha mẹ ...) để tiếp thu lĩnh hội kinh nghiệm xã hội loài người. Vì thế đứa trẻ

không chỉ có quan hệ tốt với bạn bè trong trường mầm non mà còn phải có quan hệ tốt với người lớn

trong toàn xã hội đế có điều kiện học tập lĩnh hội nhữnh kinh nghiệm đó. Muốn có được quan hệ ấy

trong khi giao tiếp với người lớn trẻ phải có thái độ hành vi đúng đắn như: chào hỏi, cảm ơn khi nhận

được sự giúp đỡ, biết xin lỗi khi làm phiền người khác. Đứa trẻ càng lớn phạm vi hoạt động của trẻ

càng được mở rộng, trẻ không chỉ hoạt động ở trường mầm non mà còn hoạt động ở những nơi công

cộng ( công viên, đường phố...) do đó ngoài việc giáo dục cho trẻ những hành vi văn hóa trong trường

mầm non cô cũng nên cung cấp cho trẻ những hành vi ứng xử văn hóa nơi công cộng như: giữ gìn vệ

sinh, không vẽ bậy, không làm ồn, có cách cư xử văn hóa với mọi người, không trêu chọc người tàn

tật, nâng đỡ dỗ dành các em nhỏ bị ngã ... Ngoài ra để bộ mặt đạo đức của trẻ được phát triển hoàn

chỉnh hơn người lớn cần phải xây dựng 1 số đức tính tốt của trẻ trong lứa tuổi mẫu giáo như: tính tự

lập, tính mạnh dạn, tính ngăn nắp, tính kỷ luật.

Tóm lại để hoàn thành những nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo mà các nhà giáo dục

mầm non đã đặt ra, giáo viên mầm non (GVMN) cần thực hiện 3 nội dung giáo dục đạo đức sau:

- Giáo dục lòng nhân ái và những nhân tố sơ đẳng của lòng yêu nước

- Giáo dục quan hệ bạn bè xây dựng tình bạn trong nhóm chơi và tình bạn trong lớp học

- Giáo dục các qui tắc lễ phép và hành vi văn hóa.

1.5. Nguyên tắc và phương pháp giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non.

1. 5.1. Nguyên tắc giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non.

Bất kì một yếu tố nào được hình thành trong trẻ cũng chịu sự tác động tích cực có mục đích của

giáo dục và điều kiện sống của trẻ ở gia đình và trường mầm non. Những phẩm chất đạo đức được

hình thành trong trẻ cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng này. Để tổ chức và điều khiển quá trình đạo

đức khi giáo dục đạo đức cho trẻ cần tuân thủ các nguyên tắc sau

a. Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích của giáo dục

Trong hệ thống mục tiêu giáo dục mầm non bộ đã qui định rõ mục tiêu của đức dục đó là "hình

thành cho trẻ những phẩm chất đạo đức như giàu lòng thương. Việc giáo dục đạo đức cho trẻ mầm

non phải hướng đến mục tiêu này. Thực hiện tốt mục tiêu trên là góp phần hình thành cho trẻ những

cơ sở đầu tiên của nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam phù hợp với trình độ phát triển

của lứa tuổi này.

b. Nguyên tắc giáo dục trẻ trong hoạt động và trong giao tiếp

Khoa học giáo dục tiên tiến coi trẻ em vừa khách thể vừa là chủ thể của hoạt động. Từ luận điểm

mang tính biện chứng này muốn giáo dục hình thành đạo đức nói riêng và phát triển nhân cách nói

chung ta phải đưa trẻ vào hoạt động, hoạt động theo hoạt động chủ đạo của lứa tuổi. Tâm lí học lứa

tuổi mầm non đã khẳng định trẻ hài nhi có hoạt động chủ đạo là giao lưu cảm xúc trực tiếp, trẻ ấu nhi

là hoạt động với đồ vật, trẻ mẫu giáo là hoạt động vui chơi. Quán triệt nguyên tắc này đối việc giáo

dục đạo đức cho trẻ là tổ chức cho trẻ tiến hành hoạt động chủ đạo thông qua giao tiếp. Thông qua

việc tổ chức này người lớn sẽ hình thành và phát triển những hành vi đạo đức tốt cho trẻ. Thực chất

của công tác giáo dục là công tác tổ chức các hoạt động sư phạm cho trẻ và tổ chức cho trẻ tham gia

trực tiếp vào hoạt động, giao tiếp trong tập thể trong đời sống xã hội là con đường đúng đắn nhất để

giáo dục các phẩm chất đạo đức và hình thành nhân cách xã hội cho trẻ mầm non

c. Nguyên tắc tôn trọng nhân cách trẻ kết hợp vài việc nâng cao dẩn yêu cầu

A.X.Macarenco đã từng nói "Càng tôn trọng nhân cách trẻ bao nhiêu thì càng phải có yêu cầu

cao với trẻ bây nhiêu và ngược lại yêu cầu cao đối với trẻ là tôn trọng trẻ ". Như vậy tôn trọng và nâng

cao dần yêu cầu là hai mặt của một vấn đề. Trong công tác giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non cần phải

tuân thủ nguyên tắc này. Tôn trọng nhân cách trẻ kết hợp với việc nâng cao yêu cầu là nguyên tắc

quan trọng khi xác định các phương tiện và phương pháp giáo dục cho trẻ. Tôn trọng ở đây không có

nghĩa là cô và cha mẹ làm hộ trẻ mà chính là tạo điều kiện giúp trẻ và yêu cầu trẻ hoạt động. Nguyên

tắc này đòi hỏi người lớn phải tôn trọng trẻ, tin tưởng vào khả năng và sự phát triển của trẻ, tôn trọng

và bảo vệ phẩm giá cũng như thân thể trẻ. Mặt khác, nguyên tắc này đòi hỏi người lớn cũng đưa ra

những yêu cầu phù hợp với đặc điểm cá nhân và vốn sống của trẻ, đồng thời phải từng bước nâng cao

dần yêu cầu đó. Quán triệt nguyên tắc này sẽ giúp chúng ta tránh khỏi sai lầm cua nguyên tắc "giáo

dục tự do" thả nổi sự phát triển của trẻ, song không được áp đặt sự giáo dục trẻ. Muốn vậy những câu

đề ra phải xuất phát từ nhu cầu của trẻ phải nhằm thỏa mãn nhu cầu và hứng thú của trẻ để trẻ tích cực,

tự giác thực hiện ở trường mầm non

d. Nguyên tắc kết hợp giáo dục ở trường mầm non với gia đình

Trẻ mầm non rất hay bắt chước người lớn nói như J. A .Cômenki "Trẻ em như con khỉ hay hoặc

dở cũng đều bắt chước". Vì thế việc giáo dục trẻ thơ phải bằng tấm gương của môi trường trước hết là

của người lớn. Gia đình là môi trường đầu tiên của trẻ em chính là nhà giáo dục đầu tiên trẻ tiếp xúc.

Do đó mẹ và mọi người trong gia đình phải là tấm gương sáng cho trẻ noi theo. Rời xa mẹ trẻ đến với

trường mầm non. Lúc này thời gian trẻ ở trường nhiều hơn ở nhà nên mọi hoạt động của trẻ đều do cô

hướng dẫn, uốn nắn và giáo dục. Hay nói cách khác mọi hoạt động của trẻ lúc này đều bắt chước cô vì

thế cô phải là tấm gương sáng để trẻ noi theo. Ở lứa tuổi này khả năng nhận thức của trẻ chưa cao, trẻ

dễ tiếp thu nhưng cũng rất mau quên do đó cần phải có sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong

việc cũng cố kiến thức, kĩ năng đạo đức cho trẻ. Việc kết hợp này làm trẻ hiểu rõ và làm theo yêu cầu

một cách thống nhất. Nguyên tắc này đòi hỏi cô phải là cầu nối giữa gia đình và nhà trường. Cô phải

thường xuyên nắm bắt tình hình giáo dục trẻ ở nhàvà đặc điểm cá nhân cua trẻ để cùng gia đình có

biện pháp giáo dục trẻ hiệu quả. Gia đình cũng cần biết đến con mình ở trường mầm non ra sao để

cùng với nhà trường thống nhất yêu cầu tác động giáo dục. Quán triệt cao nguyên tắc này sẽ là cơ sở

cho giáo dục mầm non mang tính giáo dục gia đình, giáo dục trong chính cuộc sống hằng ngày.

Trong khi tiến hành giáo dục đạo đức cho trẻ chúng ta cần thực hiện nghiêm túc bốn nguyên tắc

trên. Nếu quán triệt cao bốn nguyên tắc ấy sẽ là cơ sở đảm bảo cho sự thành công trong việc giáo dục

đạo đức cho trẻ lứa tuổi mầm non.

1.5.2. Phương pháp giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non

Việc hình thành các phẩm chất đạo đức các thói quen đạo đức cho trẻ là cả một quá trình tác

động lâu dài về nhiều mặt cả về nhận thức, tình cảm, lẫn hành vi. Quá trình tác động này đòi hỏi phải

có sự phối hợp chặt chẽ giữa nguyên tắc, mục đích, phương pháp. Nếu mục đích giáo dục đã được xác

định, nguyên tắc giáo dục đã phản ánh tính khoa học và tất yếu, nhưng không có con đường chuyển tải

thì hiệu quả giáo dục sẽ rất thấp. Chính vì thế muốn giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non thành công cần

xác định phương pháp để giáo dục đạo đức. Phương pháp giáo dục đạo đức là cách thức tác động đến

trẻ của cô mầm non nhằm hình thành cho trẻ những phẩm chất đạo đức và thói quen hành vi đạo

đức theo mục tiêu giáo dục mầm non. Trong thực tế có nhiều phương pháp giáo dục đạo đức cho trẻ,

những phương pháp này không tách biệt nhau mà hỗ trợ, bổ sung cho nhau tạo ra những tác động tổng

hợp lên trẻ. Bằng thực tiễn giáo dục, khoa học giáo dục ngày nay đã chia phương pháp giáo dục đạo

đức cho trẻ thành những nhóm phương pháp

a. Nhóm xây dựng thói quen và tích lũy kinh nghiệm hành vi đạo đức

Trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non, nhóm phương pháp này đóng vai trò rất quan

trọng. Thông qua nhóm phương pháp này trẻ không những nắm vững những chuẩn mực hành vi đạo

đức mà còn khêu gợi ở trẻ lòng mong muốn thực hiện những hành vi đạo đức tốt. Nó còn là cơ sở giúp

trẻ rèn luyện, cũng cố những thói quen hành vi đạo đức mà xã hội đã qui định. Nhóm phương pháp

này bao gồm:

• Nêu gương

Chúng ta biết rằng trẻ lứa tuổi mầm non đã hiểu và thấm nhuần tương đối tốt những điều không

chỉ được nghe mà còn nhìn thấy. Nêu gương giúp ta có thể giáo dục trẻ bằng những hành động và việc

làm cụ thể có sức tác động một cách trực quan. Ví dụ trong lớp có một trẻ biết nhường đồ chơi cho

bạn, cô biêu dương hành vi ấy trước lớp và khuyến khích các trẻ khác bắt chước làm theo hay thông

qua việc cho trẻ thăm một lớp học vệ sinh, sạch đẹp. Cô hướng dẫn trẻ quan sát và động viên trẻ xây

dựng nề nếp của lớp đạt tới hình mẫu đã được quan sát. Bằng việc quan sát lớp học trẻ tích lũy những

chuẩn đạo đức về tính ngăn nắp, gọn gàng đồng thời cùng với sự động viên khuyến khích của cô trẻ sẽ

tự nguyện noi theo và xem những chuẩn đạo đức ấy là thước đo cho hành vi của mình.

Trẻ không phải bao giờ cũng nhận ra những tấm gương tốt do đó khi nêu gương cô cần làm cho

trẻ chú ý đến chính nội dung của bản thân hành động, đến giá trị của hành động chứ không phải đến cá

nhân được nêu gương. Cô cần giải thích cho trẻ vẻ dẹp của hành động, khêu gợi thái độ tích cực và

lòng mong muôn bắt chước hành động đó. Khi nêu gương những hành vi tốt của trẻ cô phải khéo léo

đừng quá khen trẻ này và đối lập với trẻ khác làm trẻ dễ sinh tính kêu ngạo vì một việc làm tốt đã đạt

được.

Những tấm gương tốt trong cuộc sống, trong truyện kể thơ ca có ảnh hưởng rất lớn đến việc

hình thành hành vi đạo đức cho trẻ. Bởi thế trong cuộc sống cũng như trong sinh hoạt hằng ngày cô

phải cho trẻ những tấm gương lao động tận tình, những hành động gan dạ, lòng yêu nước, yêu gia

đình của họ. Qua những tác phẩm nghệ thuật phải làm cho trẻ thấy được hành động tốt của nhân vật

đồng thời qua đó khêu gợi ở trẻ lòng mong muốn bắt chước các nhân vật trong truyện.

• Rèn luyện

Những phẩm chất hành vi đạo đức được hình thành trong trẻ hầu như chưa vững chắc do đó cần

có thời gian và điều kiện thuận lợi để củng cố, rèn luyện chúng. Có rất nhiều hình thức để rèn luyện,

củng cố những phẩm chất hành vi đạo đức cho trẻ. Trong sinh hoạt hằng ngày cô tận dụng mọi tình

huống hoặc chủ động tạo ra tình huống để trẻ tự ứng xử qua đó rèn cho trẻ những phẩm chất đạo đức

tốt đẹp. Chẳng hạn trong khi trẻ chơi với nhau cô có thể tạo tình huống bạn Lan buồn vì không có đồ

chơi, bé ngoan là bé biết nhường và chia sẻ đồ chơi cho bạn.

Thông qua hoạt động vui chơi cũng có thể rèn và cổng cố những phẩm chất đạo đức cho trẻ. Ví

dụ qua trò chơi "Bác sĩ" mỗi trẻ nhập một vai qua đó cô tập cho trẻ có được tính cách, quyền và nghĩa

vụ của bác sĩ, của bệnh nhân. Bác sĩ phải ân cần tận tụy cứu chữa cho bệnh nhân bệnh nhân phải nghe

lời bác sĩ. Với nhiều lần chơi như vậy trẻ sẽ có điều kiện để tôi luyện và điều chỉnh hành vi của mình

trong mối quan hệ với mọi người xung quanh.

Phẩm chất đạo đức của trẻ còn được rèn luyện cũng cố thông qua những lời nhắc nhở nhận xét

của cô. Nhắc trẻ giữ gìn nề nếp khi ngủ, khi chơi sẽ rèn cho trẻ tính nề nếp kỉ luật. Đồng thời giúp trẻ

nhận ra những sai phạm và kịp thời điều chỉnh cho phù hợp.

b. Nhóm phương pháp hình thành nhận thức

Nhận thức của trẻ mầm non còn yếu ớt và chưa hoàn chỉnh. Trẻ chưa thể hiểu đâu là tốt, đâu là

xấu tại sao phải hành động thế này mà không hành động kiểu khác. Điều này gây trở ngại cho quá

trình hình thành các phẩm chất đạo đức và thói quen đạo đức cho trẻ. Nhưng bằng lời nói của cô trẻ đã

hiểu được ý nghĩa và lí do phải thực hiện như vậy. Chẳng hạn qua lời giải thích của cô trẻ hiểu tại sao

phải sạch sẽ, tại sao phải trật tự khi chơi. Khi giải thích bằng lời với trẻ nên dùng lời ngắn gọn, phải

nêu lên động cơ của hành động, phải chỉ cho trẻ phương pháp thực hiện đồng thời khuyên khích trẻ

thực hiện. Giải thích bằng lời với trẻ được tiến hành nhiều hình thức

- Chỉ bảo trực tiếp: chỉ rõ cho trẻ biết phải hành động như thế nào và tại sao phải hành động

như vậy

- Trò chuyện trao đổi: cùng trò chuyện với trẻ qua đó nêu lên kinh nghiệm của trẻ, làm sáng tỏ

thêm kinh nghiệm, sữa chữa sai lầm và hình thành thái độ đúng với mọi người xung quanh

Bằng cách kể một câu truyện có sẵn hoặc chọn lấy một mẫu truyện có sẵn trong cuộc sống gần

gũi cùng trao đổi với trẻ cũng giúp hình thành cho trẻ những biểu tượng đúng đắn về đạo đức. Ví dụ

qua mẫu truyện "Dê đen và dê trắng" cô và trẻ cùng trò chuyện xem con dê nào tốt, con dê nào xấu, tại

sao và trẻ cần học những đức tính gì của con dê ấy. Tùy từng lứa tuổi và nhận thức của trẻ mà cô lựa

chọn truyện cho phù hợp. Trong khi kể nên kết hợp với trực quan để khắc sâu ấn tượng đạo đức cho

trẻ

Trò chuyện với chủ đích để giáo dục đạo đức cũng nằm trong nhóm phương pháp hình thành

nhận thức. Với những tình huống có sẵn hoặc những tình huống tự tạo trong sinh hoạt hằng ngày,

trong tiết học và trong hoạt động vui chơi cô giúp trẻ tự xử trí mọi hành động qua đó nâng dần sự hiểu

biết về các giá trị đạo đức. Chẳng hạn nhằm giúp trẻ hiểu được nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ cô

cho trẻ kể về những việc giúp mẹ ngày chủ nhật qua đó giúp trẻ tự đánh giá mình và đánh giá bạn

đồng thời cô kiểm tra nhận thức và hành vi đạo đức của trẻ để nhận xét đánh giá cũng cố niềm tin cho

trẻ.

c. Nhóm phương pháp khuyến khích hành vi

Nhóm phương pháp này tác động mạnh đến đời sống tình cảm của trẻ nhằm định hướng cho trẻ

nên làm những gì và khổng nên làm những gì trong nhận thức cũng như hành vi đạo đức của mình.

Nhóm phương pháp này bao gồm

• Nhắc nhở

Cô nhắc trẻ nói đúng làm đúng theo chuẩn đạo đức đã biết hoặc nhắc trẻ không nên làm thế vì

nó xấu. Nhắc nhở ở đây mang tính khích lệ động viên chứ không răn đe dọa dẫm vì vậy thái độ của cô

phải nhẹ nhàng ân cần tránh nói nặng xúc phạm trẻ

• Khen ngợi

Đây cũng là một phương pháp nhằm khuyến khích hành vi đạo đức của trẻ. Trẻ mầm non rất

thích được khen, mọi việc trẻ làm đều cốt ý để được người lớn khen. Được khen trẻ sẽ tự tin, mạnh

dạn làm tốt công việc đó. Khen ngợi còn là con đường để củng cố nhận thức niềm tin và động viên trẻ

khác noi theo. Trong giáo dục đạo đức cho trẻ khen ngợi phải xác đáng phải có tác dụng định hướng

cho hành vi nghĩa là chỉ cho trẻ thấy rõ khen cái gì và vì sao được khen. Không nên tập trung khen vào

một vài trẻ sẽ tạo cho trẻ thói tự cao "coi trời bằng vung" mà khen ngợi phải có chừng mực, chỉ nên

khen những trẻ có hành vi tốt, có cố gắng so với sức của mình. Đối với trẻ tự ti, nhút nhát không nên

tiết kiệm lời khen vì với trẻ đó là lời động viên để trẻ tự tin hơn. Khen ngợi không nhất thiết phải dùng

lời mà với nụ cười, ánh mắt trìu mến hay với cử chỉ âu yếm của cô cũng đủ để trẻ tự tin thực hiện hành

vi đạo đức. Cũng có thể sử dụng hình thức phát phiếu "bé ngoan" cuối tuần để khen ngợi những trẻ đạt

được chuẩn đạo đức của lớp đề ra. Hình thức này hiện nay được sử dụng phổ biến ở các trường mầm

non.

• Phê bình

Nếu khen ngợi là phương pháp để động viên khuyến khích trẻ bắt chước hành động tốt thì phê

bình là hình thức giúp trẻ nhận ra hành vi lệch chuẩn của mình nhằm kịp thời điều chỉnh cho phù hợp.

Sử dụng phương pháp này cô phải hết sức khéo léo phải chỉ cho trẻ thấy lí do bị phê bình là xứng đáng

và cần phải sửa chữa. Khi phê bình cần xét đến tâm trạng và đặc điểm tính cách của trẻ: cần phê bình

ngay tức thời "đúng lúc, đúng chỗ, đúng người, đúng việc" có khi phê bình trước lớp, phê bình riêng

đối với trẻ hoặc cũng có khi phê bình chậm hơn sự việc đã xảy ra để trẻ bình tĩnh chờ đợi thái độ của

cô. Lời phê bình của cô phải thẳng thắng song không được xúc phạm, nhục mạ và kéo dài ấn tượng

"định kiến" với trẻ bị phê bình

• Trách phạt

Mặc dù đã áp dụng tất cả các phương pháp giáo dục khác nhau nhưng hoạt động của một vài trẻ

cá biệt vẫn không thay đổi. Trẻ vẫn nói tục, trêu chọc bạn không tuân theo yêu cầu của người lớn.

Trong trường hợp này cô phải dùng đến phương pháp trách phạt, trách phạt là một phương pháp giáo

dục đạo đức cũng là một biện pháp trừng phạt. Khi sử dụng phương pháp này phải khéo léo và thận

trọng tuyệt đối không hắt hủi và xúc phạm trẻ mà phải để trẻ hiểu tại sao mình bị phạt và hình thức

phạt đó là xứng đáng và cần có. Trong trách phạt có thể dùng lời nói nghiêm nghị biểu hiện qua nét

mặt, thái độ của cô khi giao tiếp hoặc tạm thời đình chỉ một việc làm của trẻ mà nó đang thích. Tuy

nhiên không được làm nhục và xúc phạm trẻ cả về thể xác lẫn tinh thần. Sau khi trách phạt phải mau

chóng trở lại quan hệ bình thường với trẻ không được xa lánh bỏ rơi trẻ bị phạt.

Nhìn chung để công tác giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non đạt kết quả cao, chúng ta phải sử

dụng thường xuyên ba nhóm phương pháp trên. Khi sử dụng cô căn cứ vào nhiệm vụ điều kiện đặc

điểm cá nhân của từng trẻ để kết hợp sử dụng những phương pháp ấy một cách có hiệu quả nhất. Nên

nhớ rằng mọi chuẩn mực hành vi đạo đức có được hình thành trong trẻ hay không phần lớn phụ thuộc

vào cách tác động cũng như cách thức sử dụng các phương pháp giáo dục đạo đức của người lớn.

Chương 2: MỘT SỐ PHƯƠNG TIỆN GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ MẦM NON

2.1. Khái niệm về phương tiện.

Đại từ điển tiếng Việt năm 2000 định nghĩa: "phương tiện" là cái dùng để làm một việc gì,

nhằm đạt đến một mục đích nào đó. Có thể hiểu một cách nôm na phương tiện giúp cho con người

thực hiện một công việc nào đó nhằm đạt được mục đích nhất định ví dụ: Phương tiện giúp bác nông

dân cày ruộng là con trâu, cái cày. Phương tiện giúp nhà khoa học nghiên cứu tốt là kính hiển vi, kính

lúp, kính thiên văn và các dụng cụ khoa học.

Từ định nghĩa trên ta có thể định nghĩa phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ là công cụ để cô

tác động đến trẻ nhằm hình thành cho trẻ những phẩm chất đạo đức và thói quen hành vi đạo đức theo

mục tiêu giáo dục mầm non hay nói một cách khái quát hơn phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ là

công cụ để cô tác động đến trẻ nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đạo đức ở bậc mầm non ví dụ: nhằm

hình thành các thói quen hành vi đạo đức về lòng nhân ái quan hệ bạn bè cho trẻ cô đã sử dụng thơ ca

truyện kể, trò chơi...làm công cụ để cung cấp chuẩn mực về lòng nhân ái, khuyến khích những quan

hệ bạn bè tốt, đồng thời cũng cố cho trẻ biết thế nào là mối quan hệ bạn bè tốt, thế nào là con người có

lòng nhân ái.

2.2. Trò chơi là phương tiện giáo dục đạo đức quan trọng cho trẻ lứa tuổi mầm non.

Trò chơi là một trong những loại hoạt động có hiệu quả cao trong quá trình giáo dục đạo đức

cho con người đặt biệt là ở lứa tuổi mầm non. Bởi đối với trẻ ở lứa tuổi này trò chơi là nội dung chính

của cuộc sống, là hoạt động chủ đạo có liên hệ qua lại với hoạt động sống, với lao động và học tập của

trẻ mầm non. Nhiều hành vi đúng đắn của trẻ được thực hiện dưới hình thức vui chơi. Trong trò chơi

thể hiện tất cả các mặt nhân cách của đứa trẻ. Trẻ vận động nhiều, nói nhiều, tiếp thu suy nghĩ , tư duy

và trí nhớ tích cực hoạt động. Trò chơi đòi hỏi ở trẻ những cố gắng về ý chí. Theo K.Đ.Usinkin "trong

trò chơi đứa trẻ sống và dấu vết của cuộc sống đó sẽ lắng động sâu sắc trong bản thân đứa trẻ hơn cả

dấu vết của cuộc sống thật" với sức mạnh như vậy trò chơi thật sự là người bạn đừơng không thể thiếu

trong công tác giao dục đặc biệt là giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo. Để hiểu rõ hơn về trò chơi

chúng ta đi vào nghiên cứu một số cơ sở lý luận về trò chơi.

2.2.1. Đặc điểm của trò chơi.

- Vui chơi là hoạt động không mang tính bắt buộc. Bởi vui chơi không phải là hoạt động tạo ra

sản phẩm và hành động chơi không buộc phải tuân theo một phương thức chặt chẽ . Nguyên cớ thúc

đẩy trẻ tham gia vào trò chơi chính là sức hấp dẫn của bản thân trò chơi mà không hề bị ràng buộc bởi

những cái khác ngay cả kết quả của sự vui chơi đó. Chẳng hạn trong trò chơi "khám bệnh " cái hấp

dẫn trẻ chính là việc người "Bác sĩ" đeo cái ống nghe vào tai và hành động đặt ống nghe lên người

bệnh, kê đơn thuốc ... chứ không phải là việc có khám đúng bệnh và chữa khỏi bệnh hay không.

Như vậy có nghĩa là "Động cơ của hoạt động vui chơi nằm ngay trong quá trình hoạt động, chứ

không phải nằm ở kết quả của hành động". Chính vì vậy trò chơi của trẻ mang tính tự nguyện rất cao.

Trẻ thích chơi trò chơi nào, thì chơi một cách say mê trò chơi đó. Có vui thì mới chơi, mà đã chơi thì

phải vui đó chính là tính chất đặc biệt của hoạt động vui chơi. Mọi sự bắt buộc hoặc cưỡng bức đều

dẫn tới sự phá bỏ trò chơi.

- Trò chơi là một dạng hoạt động mang tính tự lập của trẻ .

Hơn bất cứ hoạt động nào, trong trò chơi mẫu giáo biểu hiện rất rõ ý thức làm chủ . Người lớn

không thể áp đặt, hay chơi hộ trẻ, người lớn chỉ có thể gợi ý, hướng dẫn mà thôi. Trẻ em cũng chỉ thực

hiện những điều gợi ý của người lớn khi thấy phù hợp với nhu cầu và hứng thú của mình. Do vậy, tác

dụng giáo dục của người lớn với trẻ trong trò chơi là ở chỗ người lớn biết biến những yêu cầu giáo dục

thành nội dung của trò chơi và hướng dẫn, vừa đạt được những yêu cầu giáo dục.

Vui chơi càng mang tính chất tự nguyện bao nhiêu, thì càng phát huy ở trẻ tính tích cực, chủ

động, độc lập bấy nhiêu.

- Trò chơi là một hoạt động mang tính tập thể.

Trò chơi của trẻ mẫu giáo bao giờ cũng phản ánh một mặt nào đó của xã hội người lớn xung

quanh, mà hoạt động của người lớn lại không mang tính chất riêng lẻ, đơn độc. Hoạt động của người

lớn trong xã hội bao giờ cũng có liên quan đến hoạt động của nhiều người, nghĩa là hoạt động của con

người bao giờ cũng mang tính xã hội. Sự hợp tác giữa nhiều người trong một cộng đồng hay của một

nhóm này với một nhóm khác là đặc trưng xã hội của loài người.Vì vậy, để có thể chơi được những

loại trò chơi mô phỏng lại đời sống xã hội thì buộc phải có nhiều trẻ cùng tham gia chơi cùng hợp tác

với nhau. Trò chơi của trẻ mẫu giáo bao giờ cũng được diễn ra trong một tập thể, một nhóm trẻ, nó

không bao giờ tiến hành được nếu chỉ có một cá nhân trẻ chơi. Chính nhờ đặc điểm này mà các phẩm

chất tâm lí cũng như các phẩm chất đạo đức mới ở trẻ có điều kiện được hình thành. Nhờ chơi trong

một tập thể mà trẻ dần dần biết điều chỉnh hành vi, biết tự nhận ra mình để phù hợp với yêu cầu của xã

hội mà trước hết là phù hợp với yêu cầu của xã hội trẻ em" trong trò chơi.

- Trò chơi mẫu giáo mang tính chất ký hiệu tượng trưng .

Trong khi chơi, mỗi đứa trẻ thường nhận cho mình một vai nào đó (thông thường là những vai

người lớn) và thực hiện hành động của vai chơi, nhưng đây chỉ là hành động ngụ ý (giả vờ) mà thôi.

Chẳng hạn, việc trẻ đóng vai "bác sỹ" thì cần phải đeo ống nghe và khám cho "bệnh nhân " mặc dầu

hành động đó chỉ là giả vờ. Hơn nữa trong khi chơi, trẻ còn lấy vật này thay thế cho vật kia và đặt tên

cho vật thay thế (trẻ gọi que tre là ông tiêm) rồi hành động với vật thay thế ấy cho phù hợp với tên gọi

của nó (trẻ cầm cái que chích vào bệnh nhân - tức là tiêm)

Việc ươm thử mình vào một nhân vật khạc và hành động ngụ ý vào hành động thay thế, tất cả

những điều đó là giả vờ, nhưng lại mang ý nghĩa rất thực vì nó phản ánh một điều rất thực đã xảy ra

như vậy trong cuộc sống thực. Đó là sự ra đời của một chức năng mới của ý thức - chức năng ký hiệu

tượng trưng. Tức là trẻ đã biết dùng những ký hiệu tượng trưng để nhận thức thế giới.

- Trò chơi là nơi mà trẻ được tự do thể hiện những xúc cảm tình cảm thật sự của mình

Nhiều nhà nghiên cứu về trò chơi trẻ em đã ghi nhận sức mạnh và tính chân thật của các xúc

cảm được thể nghiệm trong trò chơi. Có thể nói rằng các xúc cảm tình cảm này rất đa dạng và phong

phú. Trong khi chơi trò chơi đóng vai theo chủ đề đứa trẻ thể nghiệm những xúc cảm có liên quan đến

các vai mà trẻ đóng như sự quan tâm lo lắng, sự nhẹ nhàng âm áp của người mẹ", tinh thần trách

nhiệm của "bác tài xế" hoặc "bác sĩ"... Trong các trò chơi tập thể đứa trẻ thể hiện những tình cảm xã

hội ( tình bạn, tình đồng chí). Những thành công trong trò chơi làm cho trẻ vui sướng, ở trò chơi vận

động trẻ vui sướng do nhịp điệu của các vận động, do sự nhịp nhàng do việc thể hiện sự khéo léo dũng

cảm do những kết qua đạt được. Ở trò chơi yêu cầu sự suy nghĩ nhanh trí sáng tạo thì niềm vui sẽ

mang tính chất trí tuệ. Rõ ràng trong hầu hết các trò chơi của trẻ mẫu giáo đều mang những xúc cảm

thẩm mĩ, những xúc cảm tình cảm này có liên quan đến vẻ đẹp của những đồ chơi, vẻ đẹp của những

cử động chơi, những nhân tố nghệ thuật sáng tạo trong trò chơi A. X. Macarenco có viết về niềm vui

trong trò chơi là niềm vui của sự "sáng tạo, của sự chiến thắng, niềm vui thẩm mĩ, niềm vui của chất

lượng "Tuy vậy trong khi chơi ngoài việc thể hiện tình cảm xúc cảm tích cực của mình trẻ còn tỏ ra

dằn vặt, đau buồn về sự thất bại không thành công, không thỏa mãn với việc không đạt được kết quả,

buồn giận bạn chơi... Mặc dù vậy nhưng lúc nào trò chơi cũng mang đến cho trẻ niềm vui sướng tột

cùng, mang đến cho trẻ sự thỏa mãn bằng lòng, nên nhớ rằng "Trò chơi mà không có niềm vui sướng

thì nó không còn là trò chơi nữa"

2.2.2. Trò chơi và việc hình thành đạo đức cho trẻ mầm non.

Trẻ em khi mới sinh ra như một tờ giấy trắng, nhân cách của trẻ hoàn toàn chưa được hình thành

và phát triển mà phải qua một thời gian dài dưới sự tác động của người lớn thì nhân cách người mới

được hình thành. Nhiều nhà giáo dục học nổi tiếng trên thế giới đã chứng minh rằng mầm mống nhân

cách ở trẻ đã bắt đầu xuất hiện ở lứa tuổi ấu nhi và nó sẽ được phát triển tương đối hoàn chỉnh ở lứa

tuổi mẫu giáo. Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo đã ý thức rất rõ về bản thân mình chúng hiểu được mình là ai

mình mong muốn điều gì? Ở những lứa tuổi trước nếu trẻ chỉ muốn tìm hiểu khám phá bản thân mình

thì đến lứa tuổi mẫu giáo ngoài ý muốn trên trẻ còn mong muốn được thể hiện tình cảm đối với người

khác, trẻ mong muốn được người khác khen ngợi mình và chú ý đến mình. vẻ mặt cau có hay vui vẻ

của người lớn đối với một hành động nào của trẻ cũng đều làm trẻ quan tâm và muốn tìm hiểu. Có thể

nói ở giai đoạn này việc cung cấp cho trẻ những khái niệm về mặt đạo đức là hoàn toàn phù hợp và rất

cần thiết bởi nếu ở giai đoạn này người lớn không cung cấp cho trẻ những kiến thức về mặt đạo đức sẽ

làm nhân cách của trẻ không có điều kiện phát triển hoàn chỉnh dẫn đến đứa trẻ không lớn lên thành

người theo đúng nghĩa của nó. Bằng cách nào để người lớn đặc biệt là GVMN có thể làm tốt công tác

cung cấp khái niệm về mặt đạo đức cho trẻ mầm non. Phương tiện hiệu quả nhất giúp cô hoàn thành

nhiệm vụ trên chính là trò chơi. Trò chơi có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển đạo đức của trẻ trong

giai đoạn này đồng thời nó còn chi phối các hoạt động khác khiến cho các hoạt động khác mang màu

sắc của mình. Đánh giá vai trò của trò chơi N. K. Kupxkaia đã viết " Đối với trẻ em trước tuổi học thì

trò chơi có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, trò chơi đối với trẻ là học tập là lao động là hình thức giáo dục

nghiêm túc" ( 6, tr 158). Rõ ràng trong công tác giáo dục đặc biệt là giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo

trò chơi đóng vai trò rất lớn. Thông qua nội dung các trò chơi ta có thể tác động đến trẻ theo một mục

đích một hướng nhất định để đạt đến kết quả giáo dục. Những trò chơi có nội dung tốt sẽ giúp trẻ nắm

được những tiêu chuẩn hành vi, những phẩm chất đạo đức tốt của con người mới XHCN như: tính thật

thà, kiên nhẫn ... Qua trò chơi trẻ còn được hình thành chuẩn thái độ hành vi đúng đắn khi giao tiếp

với mọi người: thái độ ân cần nhẹ nhàng, nhiệt tình chăm sóc người khác ...Mặt khác khi chơi, trẻ

được người lớn hướng dẫn chỉ bảo, giúp trẻ biết đánh giá, nhận xét các hiện tượng xã hội, giáo dục trẻ

có thái độ đúng đắn với hiện tượng đó, từ đấy hình thành ở trẻ những phẩm chất đạo đức cá nhân tích

cực.

Trong cuốn "Đồ chơi, trò chơi và kỹ luật" Bearrit Todot Gard đã chứng minh trò chơi có khả

năng giáo dục trẻ tính sạch sẽ ngăn nắp, tình bạn bè và tính công bằng kỹ luật. Điều này thể hiện rất rõ

thông qua những trò chơi mang tính chất tập thể cần có sự phối hợp của nhiều người như trò chơi đóng

vai theo chủ đề, trò chơi đóng kịch, trò chơi vận động...N.K.Kupxkaia cũng cho rằng những trò chơi

mang tính tập thể có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục tình cảm tập thể cho trẻ. "Trong quá trình vui

chơi, đứa trẻ học được tính vượt khó khăn, nhận thức thế giới xung quanh và tìm cách giải quyết đúng

đắn các sự việc. Những trò chơi như vậy sẽ luyện tập cho các cháu trở thành những con người có tính

tổ chức, biết kiên trì vươn tới mục đích, biết lôi cuốn mọi người theo mình, biết tổ chức học" Đó là lời

của N.K.Kupxkaia khi nói về vai trò của vui chơi trong trường mẫu giáo ( 6,tr 159). Khi tham gia trò

chơi đóng vai theo chủ đề đứa trẻ sẽ được toi luyện về tình bạn, về tính thần tập thể, đứa trẻ dễ dàng

hướng tới cái đẹp trong hành vi của bạn, dễ tiếp thu cái đẹp trong quan hệ người với người. Từ đó giúp

các phẩm chất đạo đức được hình thành dễ dàng hơn. Khi tham gia vào vai chơi trẻ sẽ dễ dàng phục

tùng các qui tắc đạo đức ẩn sau vai chơi đó dần dần chuyển từ việc thực hiện các qui tắc "bên ngoài"

thành quá trình thực hiện các qui tắc "bên trong" làm cho sự ngăn cách giữa các biểu tượng đạo đức và

hành vi đạo đức không còn nữa. Ví dụ :Khi đóng vai "bác sĩ" trẻ phải thực hiện theo những qui tắc

"bên ngoài" như bác sĩ phải ân cần, chu đáo, thận trọng, ôn hòa khi khám bệnh cho bệnh nhân ...Sau

nhiều lần đóng vai "bác sĩ" và thực hiện các qui tắc đó đã hình thành ở trẻ một số phẩm chất tốt như

biết đối xử nhẹ nhàng với bạn bè (không quát bạn) thân thiện, ân cần với các em nhỏ...Như vậy các

qui tắc đạo đức ứng xử "bên ngoài" đã trở thành các phẩm chất đạo đức "bên trong" của cháu thông

qua vai chơi "bác sĩ"và biểu tượng đạo đức như lòng nhân ái, sự tốt bụng, ân cần chăm sóc người khác

đã được cụ thể hóa qua các hành động của bác sĩ đối với bệnh nhân. Không những thế khi tham gia

vào trò chơi đóng vai theo chủ đề các cơ sở đầu tiên về lòng nhân ái cũng được hình thành trong trẻ.

Đối với trẻ mầm non quá trình hình thành phẩm chất đạo đức phụ thuộc nhiều vào xúc cảm của chúng,

ở tuổi mầm non tình cảm có vai trò "thống soái" trong hành động và cách cư xử của trẻ, trải nghiệm và

xúc động sẽ ghi lại những dấu ấn sâu sắc và bền chặc trong nhân cách của chúng. Không có một hoạt

động nào ở tuổi mầm non lại có thể giúp cho trẻ bộc lộ xúc cảm, bộc lộ thái độ của mình như ở trò

chơi phân vai theo chủ đề (đặt biệt là thông qua vai chơi). Trẻ xúc động, sung sướng và đau khổ theo

vai mình đóng, theo hình mẫu mà chúng tái tạo trong trò chơi, chúng trải nghiệm số phận nhân vật của

mình. Chẳng hạn khi trẻ đóng vai "bà mẹ" có "con bị ốm" trẻ buồn rầu lo lắng như thật và khi "bác sĩ"

cho bé khỏi, thì cũng vui sướng "y như thật" hoặc "bác sĩ" khám bệnh cho "bệnh nhân" rất chăm chú

cẩn thận "y tá" rất dịu dàng, ôn hòa khi phát thuốc cho "bệnh nhân""ca sĩ" hát phục vụ "công nhân"

một cách say sưa, vui vẻ, tự hào. Cứ như vậy qua các vai chơi khác nhau, trẻ biết đặt mình vào vị trí

của người khác và đối xử với người khác như đối xử với bản thân mình và từ đó trẻ biết "thương người

như thể thương thân". Rõ ràng trong quá trình chơi nhờ được tham gia vào nhiều vai chơi nên trẻ đã ý

thức được " thân phận" của từng vai qua đó trẻ hiểu được thái độ hành động của mình là đúng hay sai

chẳng hạn trong trò chơi "trường phổ thông" khi cháu đóng vai cô giáo đã quát mắng, nói nặng lời với

học sinh của mình, cháu bị các bạn phê bình. Mấy hôm sau các bạn khác được đóng vai cô giáo, cháu

đóng vai học sinh. Cô giáo này" cũng quát mắng học sinh như cháu đã từng làm và chỉ khi cháu trực

tiếp nghe và chứng kiến những lời nói cũng như thái độ đó cháu mới thực sự hiểu mình đã chơi không

tốt vai cô giáo và đã có thái độ không đúng với các bạn. Việc luân chuyển vai chơi đã hướng chú ý của

trẻ vào các hoàn cảnh xã hội khác nhau, từ đó giáo dục cho trẻ lòng thông cảm, tình thân ái, tính ân

cần chu đáo - một chuẩn mực đạo đức cần có ở những con người năng động sáng tạo của thế kỷ 21.

Trong trò chơi phẩm chất ý chí của trẻ cũng được hình thành và phát triển mạnh mẽ. Khi tham

gia vào trò chơi trẻ nhận đóng một vai nào đó một cách có chủ đích, trẻ phải thể hiện những hành vi

của mình phù hợp với hành động vai mà nó mô phỏng - trẻ muốn được giống như người lớn - tức là

trong trò chơi trẻ không phải thích hành động thế nào cũng được, mà phải biết điều chỉnh hành vi của

mình cho phù hợp với vai chơi. Đồng thời trong trò chơi, trẻ tham gia vào các mối quan hệ với các bạn

cùng chơi nên buộc hành động của trẻ phải phục tùng những yêu cầu nhất định bắt nguồn từ ý đồ

chung của cuộc chơi. Nghĩa là trong trò chơi trẻ buộc phải điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp

với qui tắc chơi. Việc thực hiện qui tắc trò chơi trở thành một trong những yếu tố cơ bản của trò chơi

làm cho các thành viên hợp tác chặt chẽ với nhau để tiến hành chơi với nhau. Điều này giúp trẻ điều

tiết hành vi của mình phù hợp với chuẩn mực xã hội thông qua vai đóng, biết điều khiển hành vi của

mình bằng ý chí, đặt ý muốn riêng phục tùng mục đích chơi. Qua trò chơi trẻ còn được hình thành

những phẩm chất ý chí như tính mục đích, tính kỷ luật, tính dũng cảm. Những đức tính này do nội

dung trò chơi và vai chơi quyết định. Nếu trẻ đóng vai cô giáo thì phải gương mẫu tận tình, nếu trẻ

đóng vai người mẹ thì phải ân cần chu đáo.

Không chỉ trò chơi đóng vai theo chủ đề có vai trò quan trọng trong việc hình thành đạo đức cho

trẻ mầm non mà các loại trò chơi khác như trò chơi học tập, trò chơi vận động ... cũng có vai trò quan

trọng ấy. Trong quan điểm về trò chơi của mình E. I. Chikêeva rất coi trọng trò chơi vận động và trò

chơi học tập. Bà cho rằng những trò chơi có qui tắc sẽ phát triển cho trẻ những tình cảm quan hệ xã hội

biết chú ý không những đến hứng thú riêng của mình mà còn chú ý đến hứng thú của mọi người xung

quanh biết " kiềm chế quyền lợi riêng của mình vì lợi ích chung của tập thể". Nói một cách dễ hiểu E.

I. Chikêeva xem trò chơi vận động và trò chơi học tập như là một phương tiện quan trọng để giáo dục,

rèn luyện cho trẻ tính kỉ luật, phát triển cho trẻ tinh thần trách nhiệm tập thể. Quan sát một vài trò chơi

vận động và trò chơi học tập của trẻ mầm non ta sẽ thấy rõ điều này. Ví dụ trò chơi "Kéo co "với hình

thức chơi chia trẻ thành 2 nhóm có số người bằng nhau và tương đương sức nhau. Mỗi nhóm chọn

một cháu khoe nhất đứng đầu hàng và đứng hai bên của vạch chuẩn, hai trẻ này cầm chặt lấy tay nhau,

còn các trẻ khác của mỗi đội đứng theo hàng dọc sau người đứng đầu đội mình và ôm ngang thắt lưng

bạn đứng trước mình, người hơi cúi. Khi cô hô "1...3" thì tất cả kéo người về phía sau, người đứng đầu

của đội nào dẫm chân vào vạch chuẩn trước là thua". ( l0, tr 37). Đây là trò chơi cần đến sức mạnh tập

thể, để chơi được trẻ phải có tinh thần tập thể phải biết đoàn kết cùng nhau. Nếu trong nhóm chơi có

một cá nhân không chịu hợp tác lúc nào cũng cho lợi ích bản thân là quan trọng thì trò chơi mãi mãi

không diễn ra nhu cầu vui chơi của trẻ cũng không được thỏa mãn. Qua trò chơi này trẻ hiểu rõ hơn

vai trò của tập thể trẻ ý thức được tầm quan trọng của sự phối hợp tập thể đối với kết quả của trò chơi

từ đó giúp trẻ biết kiềm chế bản thân mình sẵn sàng hợp tác với tập thể. Đây là điều kiện tốt nhất để

giáo dục cho trẻ tinh thần trách nhiệm tập thể, tính tự ý thức kiềm chế bản thân mình trong môi trường

tập thể. Hay thông qua trò chơi học tập "chiếc túi kì lạ" trẻ sẽ được giáo dục về tính kỉ luật qua việc

phục tùng luật chơi. Chúng ta biết rằng trò chơi " chiếc túi kì lạ" là trò chơi có luật trẻ phải đoán tên

gọi và đặc điểm của một số loại hoa quả rau củ hay một số đồ dùng bằng cách tri giác bằng tay (cầm,

nắm, sờ, mó) tuyệt đối không được dùng mắt. Như vậy muốn chơi được trò chơi này buộc trẻ phải

tuân thủ luật chơi. Trong khi chơi chỉ dùng tay để nhận biết đối tượng nếu dùng bằng mắt xem như trẻ

vi phạm luật chơi và không được chơi tiếp nữa. Với những trò chơi học tập được xây dựng trên cơ sở

bình đẳng và tự nguyện được kiểm tra dưới các luật chơi. Thông qua luật chơi trẻ tự giác phục tùng

lẫn nhau về việc thực hiện luật chơi. Cụ thể trẻ tự điều chỉnh hành vi hoạt động của mình và của bạn

cho phù hợp với luật chơi. Điều này giáo dục trẻ tính thật thà, công bằng, tính tổ chức kỉ luật. Từ việc

phục tùng luật chơi trẻ có ý thức phục tùng các qui tắc, nội qui của trường lớp, của xã hội. Ngoài ra khi

tham gia vào những trò chơi học tập sẽ giúp trẻ biết cách tiếp xúc với bạn, biết phối hợp hành động

của mình với các bạn, qua đó giáo dục cho trẻ mối quan hệ bạn bè đúng đắn, giúp trẻ biết đánh giá

hành vi của bạn cũng như của mình trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của trò chơi. Chẳng hạn với trò

chơi " cửa hàng quần áo". ( 3, tr 44 ). Loại trò chơi này buộc trẻ trong khi chơi phải giao tiếp với nhau

nghĩa là phải có người đóng vai bán hàng và người mua hàng. Người bán và người mua phải có sự

phối hợp đồng bộ. Người mua phải miêu tả đặt điểm của món hàng cần mua và biết cảm ơn khi nhận

hàng, ví dụ trẻ đóng vai người mua nói " chị làm ơn bán cho tôi một chiếc váy màu đỏ "và khi nhận

hàng trẻ nói "cảm ơn cô". Người bán phải biết hỏi khách cần mua gì và biết cảm ơn khách khi nhận

tiền ví dụ trẻ đóng vai người bán hỏi trẻ đóng vai người mua "chị muốn mua gì". Sau khi đưa hàng và

nhận tiền trẻ nói cám ơn chị lần sau mời chị đến mua nữa nhé". Những lời giao tiếp cùng hành động

"nhận tiền - đưa tiền" " nhận hàng - đưa hàng" của hai trẻ trong trò chơi trên chính là hành động phối

hợp với nhau khi chơi, không có hành động này trò chơi sẽ không được thực hiện. Yếu tố này cho trẻ

thấy việc phối hợp với nhau trong khi chơi là rất cần thiết, có sự phối hợp đồng bộ giữa các thành viên

trong nhóm chơi trò chơi sẽ được diễn ra một cách trọn vẹn từ đó giúp trẻ biết cách tiếp xúc và phối

hợp với nhau trong trò chơi đồng thời giáo dục trẻ những chuẩn mực cư xử với bạn bè: niềm nở, chan

hòa, giúp trẻ đánh giá được hành vi của mình và của bạn một cách chính xác trong từng hoạt động để

kịp thời điều chỉnh cho phù hợp.

Mặc dù khi tham gia vào trò chơi nhiều phẩm chất đạo đức sẽ được hình thành trong trẻ nhưng

nếu không có người lớn thì những phẩm chất đạo đức ấy sẽ không được duy trì đôi khi phát triển lệch

lạc. Trẻ tuổi mầm non đời sống tình cảm đang phát triển nhưng chưa bền vững trẻ chưa thể tự đánh giá

hành vi của mình và của bạn mà phải phụ thuộc vào thái độ, biểu hiện ở nét mặt, ánh mắt của người

lớn. Chính vì thế trong trò chơi của trẻ không thể thiếu vai trò định hướng của người lớn là giáo viên

mầm non. Trong khi trẻ chơi cô cần thể hiện rõ thái độ của mình đối với từng hoạt động của trẻ.

Chẳng hạn khi trẻ nhẹ nhàng góp ý với bạn về hành vi của bạn khi chơi cô nên tán thưởng, khuyến

khích động viên trẻ nhưng nếu trẻ nặng lời khi bạn không tuân thủ luật chơi cô phải tỏ thái độ không

đồng ý và kịp thời ngăn chặn, sau đó lựa lời giải thích cho trẻ hiểu làm như thế là không nên. Việc làm

này góp phần củng cố những phẩm chất đạo đức đã được hình thành trong trẻ giúp trẻ biết được đâu là

hành vi tốt đâu là hành vi xấu từ đó trẻ nổ lực phát huy những phẩm chất tốt và kịp thời điều chỉnh

những phẩm chất xấu đi lệch chuẩn đạo đức của xã hội.

Tóm lại trò chơi đóng vai trò rất lớn trong giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non. Bằng trò chơi

được tổ chức đúng đắn chúng ta sẽ giáo dục cho trẻ rất nhiều phẩm chất đạo đức tốt đẹp về tình bạn,

tinh thần tập thể, lòng nhân ái, tính tổ chức kỉ luật, giúp hình thành và phát triển xúc cảm tình cảm

những phẩm chất ý chí như : tính mục đích, lòng dũng cảm. Tất cả các yếu tố này là điều kiện cần thiết

để hình thành nhân cách cho trẻ mầm non. Với ý nghĩa to lớn đó một lần nữa chúng ta hoàn toàn có

thể khẳng định "Trò chơi là phương tiện giáo dục đạo đức có hiệu quả ở lứa tuổi mầm non ".

2.3. Tác phẩm văn học là phương tiện không thể thiếu trong giáo dục đạo đứccho trẻ mầm non

2.3.1. Đặc điểm truyện thơ của trẻ mầm non.

So với truyện thơ của các lứa tuổi khác thì nhìn chung truyện thơ giành cho lứa tuổi mầm non có

nội dung phong phú hơn, đặc sắc hơn.

Nội dung của truyện thơ mầm non chủ yếu phản ánh những sự vật hiện tượng xảy ra trong thiên

nhiên và trong đời sống xã hội. Xem xét toàn bộ chương trình thơ ca truyện kể giành cho trẻ mầm non

chúng ta thấy nội dung của những tác phẩm này tập trung miêu tả vẻ đẹp của hoa cỏ trong thiên nhiên

:

"Hoa cà tim tím

Hoa mướp vàng vàng

Hoa lựu chói chang

Đỏ như đốm lửa ..." ( Hoa kết trái)

Hay miêu tả đặc điểm của một số con vật quen thuộc như:

" Hay chạy lon ton

Là gà mới nở

Cái mặt hay đỏ

Là con gà mào ..."

Khơi gợi ở trẻ những xúc cảm trìu mến với gia súc và hoa cỏ. Và phản ánh cả quan hệ của chúng với

nhau:

" Tu hú là chú bồ các

Bồ các là bác chim ri

Chim rí là dì sáu sậu..."

Với phạm vi phản ánh rộng lớn, truyện thơ mầm non không chỉ phản ánh thế giới thiên nhiên

mà còn mở rộng phạm vi phản ánh ra ngoài môi trường xã hội. Mượn hình ảnh những con vật quen

thuộc các nhà văn nhà thơ đã xây dựng nên những mối quan hệ giữa người và người trong xã hội. Ví

dụ mượn hình ảnh thỏ mẹ, thỏ con trong truyện "Thỏ con không vâng lời" để xây dựng mối quan hệ

mẹ con, hay mượn hình ảnh của gà trống, thỏ con trong truyện "Cáo thỏ và gà trống" để xây dựng mối

quan hệ bạn bè. Bên cạnh đó truyện thơ con miêu tả cho trẻ thấy qui trình sản xuất đồ dùng, đồ chơi,

lột tả cho trẻ thây sự vất vả cực nhọc của bác nông dân để làm ra thóc gạo phục vụ đời sống con người.

Các tác phẩm còn phản ánh những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc ta từ xưa đến nay như " Sự

tích cây nêu", "Sự tích bánh chưng bánh dày". Với nội dung phản ánh đa dạng phong phú truyện kể

thơ ca đã góp phẫn mở rộng hiểu biết của trẻ về thiên nhiên và xã hội. Bằng ngôn ngữ văn học, bằng

các thủ pháp nghệ thuật các tác phẩm đã phản ánh và giải thích cho trẻ hiểu những sự vật hiện tượng

trong thế giới xung quanh theo cách riêng của mình. Đằng sau sự giải thích và phản ánh đó là những

bài học về cách sống, cách cư xử với mọi người mà tác giả truyện kể thơ ca muốn nhắn giữ đến trẻ

mầm non. Đây chính là nét đặc sắc mà nội dung truyện kể thơ ca chứa đựng. Không một tác phẩm nào

của trẻ mầm non lại không ẩn chứa những bài học, những lời khuyên chân tình về tình bạn, tình cảm

gia đình, tình đoàn kết, tình yêu thiên nhiên và lao động ... Tiếp xúc với những tác phẩm này đứa trẻ sẽ

được lĩnh hội tất cả những bài học ấy như là cơ sở vững chắc để phát triển nhân cách của mình theo

chiều hướng tích cực.

Về mặt nghệ thuật thì thơ ca truyện kể mầm non mang đậm tính nghệ thuật và biểu cảm. Hầu

như trong các tác phẩm bao giờ cũng có sự hiện diện của các từ tượng thanh, tượng hình, các từ miêu

tả màu sắc ...

Truyện kể của trẻ mầm non thường có kết cấu đơn giản với hai tuyến nhân vật đối lập nhau rõ

rệt. Một bên là những nhân vật lương thiện tốt bụng đối lập với một bên là những nhân vật dối trá độc

ác. Sự đối lập này giúp trẻ nhận ra những khái niệm đạo đức tốt - xấu, thiện - ác, giúp trẻ thể hiện

chính xác tình cảm của mình đối với từng nhân vật trong truyện. Các tình tiết trong truyện thường

được kết cấu theo một trình tự nhất định: việc gì trước kể trước, việc gì sau kể sau. Cách kết cấu như

vậy giúp trẻ dễ nhớ, dễ nắm được nội dung của tác phẩm. Nhân vật trong truyện của trẻ mầm non là

những con vật quen thuộc hằng ngày như chó, mèo, gà, vịt... đã được tác giả nhân cách hoa thành

những cô bé cậu bé, được tác giả gán cho những hành động, thái độ của con người nhằm làm cho

những tác phẩm ấy đi vào tâm hồn trẻ thơ một cách nhẹ nhàng sâu sắc. Trong truyện ngoài những yếu

tố thực cũng có những yếu tố hư như: thần, tiên, bụt. Yếu tố hư chứa đựng khát vọng của con người

trong xã hội phong kiến muốn có tự do, bình đẳng, công bằng xã hội. Những yếu tố thần kì chỉ xuất

hiện khi nhân vật gặp khó khăn đến mức không thể vượt qua nổi. Những yếu tố thần kì chỉ giúp đỡ

những người hiền lành, tốt bụng, chăm chỉ còn những nhân vật độc ác sẽ bị yếu tố thần kì trừng trị.

Chính vì thế những nhân vật trong truyện luôn là tấm gương đạo đức tốt cho trẻ noi theo.

Thơ ca của trẻ mầm non cũng mang đậm tính hình tượng và tính biểu cảm. Các bài thơ giành

cho trẻ mầm non thường là những bài thơ viết theo thể thơ lục bát (sáng tác theo lối ca dao). Ví dụ

bài"Ảnh Bác", "Lên bốn", "Ong và Bướm" ... Ngoài ra còn có thể 5 từ như bài "Gấu qua cầu", "Bến

cảng Hải Phòng" ... những bài thơ này thường có lối gieo vần chân, vần lưng hoặc vần chân và vần

lưng xen kẽ. Trong khi sáng tác thơ cho trẻ mầm non các tác giả còn sử dụng rất nhiều biện pháp tu từ

khác nhau như sử dụng các từ tượng hình, tượng thanh từ láy để miêu tả vẻ đẹp của hoa đỗ.

" Ruộng đỗ xanh xanh

Nở hoa trắng trắng

Cánh hoa xinh xắn

Như cánh bướm non

Gió thôi rập rờn

Trông xinh xinh quá " ( Hoa đỗ)

Hay tác giả sử dụng hàng loạt định nghĩa để làm rõ ý cho một sự vật, con vật như bài thơ "Đàn gà con

":

Cái mỏ tí hon

Cái chân bé xíu

Lông vàng mát dịu

Mắt đen sáng ngời...

Đặc biệt trong các bài thơ ở tuổi mẫu giáo tác giả cũng thường sử dụng phép so sánh để tăng vẻ

biểu cảm của bài thơ như "trăng tròn như quả bóng" hay " trăng tròn như mắt cá" (Trăng ơi - Trần

Đăng Khoa). Cũng có tác giả dùng lối miêu tả từ xa đến gần, từ cụ thể đến trừu tượng như bài thơ

"Cây Đào" của Nhược Thủy. Với cách gieo vần và sử dụng các biện pháp tu từ như vậy làm cho thơ ca

ngày càng sinh động và thu hút trẻ tiềp xúc. Đây là điều kiện tốt để trẻ lĩnh hội, bắt chước hành động,

thái độ của các nhân vật mà tác giả đã phản ánh trong thơ, đồng thời kích thích trẻ yêu mến và giữ gìn

bản sắc văn hoa dân tộc, giữ gìn tiếng mẹ đẻ.

2.3.2. Tác phẩm văn học là phương tiện không thể thiếu trong giáo dục đạo đức.

Chúng ta biết rằng trẻ em ở lứa tuổi mầm non nhìn chung chưa ổn định về mặt xúc cảm tình

cảm. Chúng dễ xúc cảm và nhạy cảm với những gì xảy ra trong thế giới xung quanh. Vì thế chúng ta

thường thấy có hiện tượng trẻ oà lên khóc khi thấy cô Tấm bị mẹ con Cám lừa trèo lên hái càu rồi chặt

ngã cây. Hoặc có trẻ khi nghe đến đoạn chó Sói giả giọng Dê mẹ đến lừa Dê con trong truyện "Dê con

nhanh trí" lập tức quát to " đồ độc ác, đồ lừa dối, cút đi". Những hành động trên của trẻ chứng tỏ ngoài

việc lắng nghe người lớn kể chuyện trẻ còn biết thể hiện tình cảm của mình đối với từng nhân vật có

trong câu truyện. Trẻ đồng cảm thương xót cho những nhân vật bất hạnh, yêu mến những nhân vật tốt

bụng, căm ghét và tức giận đối với những nhân vật dối trá độc ác. Từ đó trong cuộc sống hàng ngày

trẻ luôn bắt chước hành động của những nhân vật tốt bụng. Như vậy có thể khẳng định trong suốt

quãng đời thơ ấu, ngoài trò chơi những câu truyện kể của bà, của mẹ cũng chi phối rất nhiều đến đời

sống tình cảm của trẻ nhất là đời sống tình cảm đạo đức.

Thông qua hành động của các nhân vật trong những câu truyện bài thơ mà người lớn kể, trẻ dễ

dàng hiểu được các phạm trù về đạo đức như: tốt, xấu, hiền, ngoan hơn là những lời giải thích suông

mang tính giáo điều. Cụ thể qua hành động của Thỏ trắng mời bác Gấu Đen vào nhà trú mưa, đốt lửa

cho bác sưởi, lấy bánh mời bác ăn ... trong truyện " Bác gấu đen và hai chú thỏ", Vịt con dũng cảm

cứu Gà con thoát khỏi miệng Cáo trong truyện " Đôi bạn tốt" hay hành động của đứa bé trong bài thơ

" Điều gì tốt điều gì xấu" của V.V. Maiakốpxki (Phạm Hổ dịch):

"Nhưng kìa có một bé Nếu bé nào hung hăng

Yêu bạn đứng ra bênh Đi bắt nạt bé khác

Cút đi đừng bắt nạt Sức nhỏ yếu hơn mình

Bé ấy rất đáng khen Thế thì thật đáng ghét"

Trẻ biết người tốt là người luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác mà không nghĩ gì đến lợi ích của

bản thân, người tốt luôn được mọi người yêu mến và quí trọng. Sự hiểu biết đó thôi thúc trẻ hành động

như những nhân vật Thỏ trắng, Vịt con... để được mọi người yêu mến. Hành động của các nhân vật

trong truyện không chỉ giúp trẻ hiểu rõ các phạm trù đạo đức còn giáo dục cho trẻ những bài học đạo

đức sâu sắc về tình bạn cao quý, về hành vi ứng xử với mọi người xung quanh.

Một đứa trẻ đến lớp lúc nào cũng giành đồ chơi với bạn lại còn hay bắt nạt những bạn mới. Hành

động này của trẻ quả thật là không tốt, nhưng trẻ lứa tuổi này không thể tự mình nhận ra điều đó. Qua

những bài thơ "Bạn mới, Gấu qua cầu" hay những câu truyện "Đôi bạn tốt, Bác gấu đen và hai chú

thỏ" cùng với giọng đọc truyền cảm của cô "trẻ hiểu những hành động của mình là không đúng, bắt

nạt bạn mới sẽ không được cô khen, cô chỉ khen những bé biết:

"Bạn mới tới trường Rủ bạn cùng chơi

Hãy còn nhút nhát Cô thấy, cô cười

Em dạy bạn hát Cô khen đoàn kết"

( Bạn mới - thơ ca mẫu giáo )

Rõ ràng qua những tác phẩm trên cô đã chỉ ra cho trẻ một chân lí: trong cuộc sống tình bạn là

cao quí, một tình bạn cao quí phải có sự nhường nhịn, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau. Có như vậy tình bạn

mới bền chặt, mới mang trọn vẹn ý nghĩa của nó. Nếu trẻ biết nhường nhịn đoàn kết với bạn khi chơi

thì sẽ được cô khen bạn quí. Thấm nhuần chân lí đó, trong sinh hoạt hằng ngày trẻ luôn cố gắng bắt

chước hành động tốt của các nhân vật, cốt sao để được cô khen là ngoan là giỏi. Thường xuyên bắt

chước những hành động tốt là cơ sở để hình thành cho trẻ thói quen giúp đỡ mọi người, thói quen

nhường nhịn em nhỏ - một nét phẩm chất đạo đức tốt được xã hội qui định trong hệ thống chuẩn mực

đạo đức của trẻ mầm non.

Được bay bổng trong thế giới truyện thơ là một điều vô cùng lí thú đối với trẻ mầm non. Trong

thế giới đó ngoài việc được đi khắp nơi từ miền ngược đến miền xuôi, được biết mọi thứ trên trái đất

như " từ những hạt quýt, nảy ra mầm non, ra hoa đầy cành, hoa lại thành quả, quýt vàng ngọt lành ...

(Vòng luân chuyển) hay "Mười quả trứng tròn, mẹ gà ấp ủ, hôm nay ra đủ, mười chú gà con, lòng

trắng lòng đỏ, thành mỏ thành chân ..." ( Đàn gà con ) trẻ còn được người lớn chỉ cho những tấm

gương đạo đức tốt đẹp mà tác giả của những câu truyện bài thơ đã mượn hình ảnh của các con vật

quen thuộc như chó, mèo, gà, vịt... để phiếm chỉ thái độ, hành vi, nét tính cách của các cô bé cậu bé

đối với người thân, đối với thiên nhiên cây cỏ, đối với vật nuôi và đối với cả những thành quả lao động

của người lớn. Các câu truyện "Dê con nhanh trí", "Ba cô gái", "Chú vịt xám", "Cô bé quàng khăn đỏ"

... hay các bài thơ "Con gà nghịch", "Ong và bướm" ...v.v sẽ giúp trẻ hiểu sự cần thiết phải vâng lời

ông bà cha mẹ, giúp trẻ cảm nhận được tình thương yêu, sự săn sóc của ông bà cha mẹ đối với trẻ và

ngược lại tình cảm của trẻ yêu quí ông bà cha mẹ.

" Con gà nghịch ngã xuống ao

Vịt không biết, hỏi "làm sao ướt đầm?"

Gà ta xấu hổ nói thầm

"Tôi không nghe mẹ chơi gần bờ ao"

( Con gà nghịch - Nhược Thủy- Thơ ca mẫu giáo)

Hay cô bé quàng khăn đỏ do không nghe lời mẹ dặn nên đã bị chó Sói ăn thịt. Với hình ảnh con

gà bị ngã xuống ao ướt đầm và hình ảnh cô bé quàng khăn đỏ bị chó Sói nuốt chửng vào bụng cô giáo

chỉ cho trẻ thấy những em bé không vâng lời người lớn, trong cuộc sống sẽ luôn gặp nguy hiểm,

không được mọi người yêu mến qua đó giáo dục trẻ ý thức vâng lời người lớn. Các tác phẩm trên còn

là phượng tiện giáo dục lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ cho trẻ. Hình ảnh người mẹ già tần tảo

sớm hôm nuôi nấng ba cô con gái khôn lớn thành người, để rồi một ngày kia bà ngã bệnh, muốn gặp

các con nhưng khi Sóc đến đưa tin thì chỉ có cô Út là vội vã chạy về thăm mẹ, chăm sóc cho mẹ, còn

cô Hai và cô Ba viện lí do bận cọ chậu, bận se chỉ nên chưa thể về thăm mẹ. Cuối cùng họ bị biến

thành những con vật xấu xí còn cô Út vì hiếu thảo với mẹ nên được sống sung sướng hạnh phúc suốt

đời. (Truyện Ba cô gái). Có thể nói sau khi nghe câu chuyện này, cùng với sự hướng dẫn giải thích của

cô trẻ sẽ cảm nhận được tình thương mà cha mẹ giành cho mình và trách nhiệm của mình đối với cha

mẹ. Những ai bỏ mặc cha mẹ lúc ốm đau bệnh tật sẽ bị trừng phạt như cô Hai, cô Ba, những ai hiếu

thảo với cha mẹ sẽ được sống hạnh phúc suồt đời như cô Út trong truyện "Ba cô gái". Yếu tố này của

truyện gián tiếp hình thành cho trẻ phẩm chất đạo đức về lòng hiếu thảo, sự thương yêu, quí trọng ông

bà cha mẹ.

Trực tiếp nghe những câu truyện bài thơ mà người lớn kể trẻ cảm thấy yêu thiên nhiên, cây cỏ

và cảm thấy ngày càng gần với nền văn hóa, gần với tinh thần cao quí của dân tộc. Điều này thôi thúc

trẻ có thái độ yêu mến, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, thiên nhiên, cây cỏ của đất nước Việt Nam.

" Hoa cà tim tím Này các bạn nhỏ

Hoa mướp vàng vàng Đừng hái hoa tươi

Hoa lựu chói chang Hoa yêu mọi người

Đỏ như đốm lửa ... Nên hoa kết trái"

( Hoa kết trái - Thu Hà - Thơ ca mẫu giáo).

Bằng giọng đọc truyền cảm của mình, cộng với tranh minh họa bài thơ, cô giáo đã mang đến

cho tâm hồn trẻ thơ một bức tranh muôn màu về thế giới thiên nhiên. Một thế giới mà trong đó các

loài hoa cỏ đua nhau khoe sắc thắm. Ẩn sau bức tranh muôn màu ấy là những bài học đạo đức về lòng

yêu thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên mà tác giả muốn nhắn gửi đến các cháu. Thiên nhiên cây cỏ làm

cho cuộc sống con người mang màu sắc tươi đẹp hơn do đó các cháu cần phải mầm non. Những tác

phẩm miêu tả quá trình lao động của người lớn để tạo ra đồ dùng đồ chơi như:

" Mẹ cha công tác Qua bàn tay mẹ

Nhà máy Bát Tràng Thành cái bát hoa

Mang về cho bé Nâng niu bé giữ

Cái bát xinh xinh... Mỗi bữa hằng ngày

Từ hòn đất sét Công cha, công mẹ

Qua bàn tay cha Bé cầm trên tay”

( Cái bát xinh xinh -Thanh Hoa báo Văn nghệ tháng 8/1980)

Tạo ra của cải vật chất phục vụ đời sống con người:

"Nhờ ai dệt vải

Em có áo quần

Yêu bác công nhân

Cho em mặc đẹp"

( Nhờ ai - Nhược Thúy - Thơ ca mẫu giáo)

hay:

" Bác nông dân Cho em ăn,

Chăm cày cấy. Bác nông dân

Có thóc mẩy Thật đáng quý"

(Bác nông dân - Thơ ca mẫu giáo)

Đã thúc đẩy việc giáo dục lòng kính yêu người lao động, bảo vệ thành quả lao động. Qua những

vần thơ này người lớn chỉ cho trẻ thấy sự vất vả cực nhọc mà các cô chú công nhân, nông nhân và cả

cha mẹ trẻ đã bỏ ra trong khi lao động tạo ra sản phẩm. Từ đó giáo dục trẻ ý thức bảo vệ các sản phẩm

lao động và thái độ biết ơn người lao động. Ngoài ra khi tiếp xúc với truyện thơ lòng ham muốn tự

mình lao động, ham muốn được cùng lao động với người lớn cũng được hình thành và gia tăng ở trẻ.

Những bài thơ, câu truyện có nội dung khen ngợi các cô bé cậu bé chăm chỉ làm việc, hăng hái phụ

giúp cha mẹ những công việc nhà như bài thơ:

"Hôm nay chủ nhật Áo quần xếp gọn,

Được nghỉ ở nhà Dỗ bé cùng chơi

Em giúp mẹ cha Cha mẹ vui cười

Nhặt rau, quét dọn; Khen con ngoan quá "

( Giúp mẹ - Nhược Thúy - Thơ ca mẫu giáo )

các cô bé cậu bé chăm chỉ làm việc, hăng hái phụ giúp cha mẹ những công việc nhà như bài thơ:

"Hôm nay chủ nhật

Được nghỉ ở nhà

Em giúp mẹ cha

Nhặt rau, quét dọn;

Ao quần xếp gọn,

Dỗ bé cùng chơi

Cha mẹ vui cười

Khen con ngoan quá "

( Giúp mẹ - Nhược Thúy - Thơ ca mẫu giáo )

hay bài thơ "Giúp cô" và truyện "Hai anh em" là cơ sở vững chắc để hình thành các đức tính trên cho

trẻ. Thấy cô bé cậu bé trong các tác phẩm được khen vì hăng hái phụ giúp người lớn làm công việc

nhà, trẻ rất thích. Nó cũng muốn được khen nên trong khi lao động với người lớn nó cũng tỏ ra hăng

hái không kém. Chúng tranh nhau nhặt lá bàng, tranh nhau thu dọn góc chơi, tranh nhau dọn bàn ăn

chỗ ngủ khi có cơ hội lao động cùng cô. Đây là điều kiện tốt để lòng ham muốn lao động cùng người

lớn ở trẻ được hình thành và phát triển.

Như vậy có thể khẳng định truyện kể thơ ca có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tình cảm đạo đức

của trẻ mầm non. Đối với trẻ thơ ca truyện kể không khác chi bầu sữa ngọt nuôi dưỡng nhân cách của

trẻ giúp trẻ khôn lớn và vững bước vào đời. Nhờ thơ ca truyện kể, đặc biệt là nhờ hành động của các

nhân vật trong các tác phẩm mà trẻ nhận thức được các khái niệm đạo đức, trẻ bộc lộ tình cảm đạo đức

đúng mức với các nhân vật và lấy đó làm bài học cho việc cư xử của mình, lấy đó làm chuẩn để điều

chỉnh thái độ hành vi của mình cho phù hợp với mọi người.

2.4. Giao tiếp là con đường để trẻ lĩnh hội chính xác các chuẩn mực đạo đức của xã hội.

Cùng với những phương tiện như: trò chơi, lao động, truyện thơ, giao tiếp cũng là một trong

những phương tiện có vai trò rất lớn trong việc hình thành và giáo dục các chuẩn mực đạo đức cho trẻ

lứa tuổi mầm non. Nếu những phương tiện khác giúp hình thành cũng cố những chuẩn mực đạo đức

của xã hội thì giao tiếp là con đường giúp trẻ lĩnh hội chính xác các chuẩn đạo đức của xã hội. Thông

qua giao tiếp trẻ lĩnh hội những chuẩn đạo đức gì ? Tìm hiểu đặc điểm giao tiếp và ảnh hưởng của giao

tiếp với việc hình thành đạo đức cho trẻ lứa tuổi mầm non ta sẽ trả lời được câu hỏi này.

2.4.1. Đặc điểm giao tiếp của trẻ mầm non.

M.U Lixina cho rằng trong 7 năm đầu tiên của cuộc sống giao tiếp của trẻ với người lớn và với

trẻ cùng tuổi có sự thay đổi về chất. Cụ thể giao tiếp của trẻ phức tạp dần theo lứa tuổi. Ở mỗi lứa tuổi

trẻ sẽ có một dạng giao tiếp khác nhau cả khi giao tiếp với người lớn lẫn khi giao tiếp với bạn cùng

tuổi.

- Đặc điểm giao tiếp của trẻ với người lớn

Vào khoảng tháng thứ hai sau khi sinh ở trẻ xuất hiện dạng giao tiếp đầu tiên với người lớn đó là

giao tiếp cảm xúc trực tiếp. Trẻ em mới sinh chưa có nhu cầu và kĩ năng giao tiếp. Tuy nhiên những

khả năng bẩm sinh cho phép trẻ tiếp nhận một cách nhạy cảm các tác động của người lớn và phản ứng

đáp lại những tác động đó. Cụ thể sau khi sinh một thời gian ngắn trẻ có thể nhận biết được âm sắc, độ

cao của âm thanh, trẻ bị lôi cuốn bởi những đồ vật mới lạ và phức tạp. Tất cả những điều này chứng tỏ

cuộc sống của trẻ không hề đơn điệu. Nhưng không một biểu hiện nào trong hành vi của trẻ cho phép

ta coi trẻ có nhu cầu giao tiếp. Không vì thế mà ta bỏ mặc trẻ, không giao tiếp với trẻ. Trong giai đoạn

này người lớn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển tiếp theo của trẻ. Người lớn tạo bầu không

khí, hoàn cảnh cho giao tiếp, thiết lập mối quan hệ mang tín hiệu, điều chỉnh hành vi của trẻ. Trẻ lứa

tuổi này thường không thể tín hiệu nào đối với mọi người xung quanh. Tiếng khóc của nó không

hướng đến ai. Trong tiếng khóc đó chỉ thể hiện cảm giác khó chịu. Nhưng sự kết hợp thường xuyên

giữa những vận động của trẻ và hành động trả lời của người lớn dẫn đến sự thiết lập mối quan hệ thực

tế giữa người lớn và trẻ. Trẻ dần hình thành những cách thức rõ rệt biểu hiện một số đòi hỏi của mình,

người lớn học cách hiểu chính xác những đòi hỏi đó của trẻ. Có thể nói 2 - 2,5 tuổi dưới sự giúp đỡ của

người lớn trẻ đã hình thành nhu cầu giao tiếp. Nhu cầu này có đặc điểm đặt biệt đó là trẻ và người lớn

trao đổi với nhau bằng cảm xúc tình cảm tích cực.

Khỏang cuối 6 tháng đầu năm khi trẻ đã bắt đầu nắm lấy đồ vật và nghịch ngợm với chúng thì

giao tiếp giữa trẻ và người lớn có sự thay đổi. Giao lưu cảm xúc trực tiếp lùi dần về phía sau nhường

chỗ cho loại giao tiếp tình huống công việc với người lớn. Dạng giao tiếp này xuất hiện khi trẻ có thể

nắm, bắt, giữ lấy đồ vật một cách chắc chắn và thực hiện những hành động đơn giản với đồ vật. Ngồi

trên tay cô, trẻ chăm chú mó máy những chiếc cúc áo trên áo cô, gỡ kính của cô, nhìn thấy cái đồng hồ

trên tay cô nó lập tức đưa ngón tay theo mặt đồng hồ và miệng lắp bắp cái gì đó. Được đặt vào giường

trẻ tháo tất cả ra và đưa về phía cô, hướng chú ý vào những bông hoa trên cửa sổ. Nó không nhận thấy

nụ cười âu yếm của cô. Nhưng khi cô cho nó chơi với những đồ chơi hình khối vuông trẻ trở nên tích

cực hẳn lên. Nó kéo cô về phía tủ đựng đồ chơi và đẩy tay cô ra khi cô vuốt đầu nó. Rõ ràng trẻ lứa

tuổi nhà trẻ rất khó chịu với kiểu giao tiếp tình cảm mà không được kết hợp với những hành động với

đồ vật. Bởi lứa tuổi này hành động với đồ vật chiếm ưu thế trong đời sống của trẻ và giao tiếp được

diễn ra trên nền của hành động đó. Giao tiếp không kết hợp với đồ vật chỉ gây ra sự hờn giận bực tức.

Trong lứa tuổi 3 - 5 giao tiếp của trẻ và người lớn mang tính gián tiếp nhưng nó được quyện

vào, lồng vào hoạt động nhận thức cùng với người lớn. Kiểu giao tiếp này gọi là giao tiếp nhận thức

ngoài tình huống. Kiểu giao tiếp này thường gặp ở những trẻ 3 tuổi. Chúng ta thường thấy những đứa

trẻ 3 tuổi cứ bi bô hỏi người lớn suốt ngày, tại sao trăng sáng vào ban đêm, tại sao con mèo kêu meo

meo, cái gì thế, nó làm gì thế... Những câu hỏi đầu tiên của trẻ dường như không phải là để chờ câu trả

lời mà đơn giản trẻ chỉ nói lên những thắc mắc những suy nghĩ của mình. Dần dần về sau câu hỏi của

trẻ mang tính nhận thức, mang đặc điểm của sự tìm tòi lâu dài và bền bỉ đòi hỏi sự hiểu biết nghiêm

túc đầy đủ của người lớn. Lúc này nếu nói chuyện với trẻ mà người lớn còn làm một việc gì khác trẻ

sẽ yêu cầu người lớn trả lời nó một cách nghiêm túc "mẹ trả lời con đi - cứ làm hoài. Trẻ 3 tuổi rất

nhạy cảm với kiểu giao tiếp nhận thức ngoài tình huống nhưng chỉ khi nào người lớn có thái độ đối

với câu hỏi của trẻ thì sự nhạy cảm ấy mới diễn ra. Do đó khi giao tiếp với trẻ lứa tuổi này người lớn

phải tôn trọng trẻ, phải có thái độ đối với câu hỏi của trẻ như đối với một cái gì quan trọng. Có như

vậy mới kích thích trẻ giao tiếp với người lớn.

Ở giai đoạn cuối của lứa tuổi mẫu giáo lớn ở trẻ xuất hiện một dạng giao tiếp mới cao hơn dạng

trước. Nó liên quan đến việc trẻ nắm được hệ thống các mối quan hệ của con người. Trẻ 5 - 6 tuổi

chủ yếu giao tiếp với người lớn về những chuyện xảy ra giữa mọi người và chúng cố gắng, kiên trì tìm

hiểu, làm thế nào để có thể có hành vi đúng. Những giao tiếp trao đổi này của trẻ mang tính suy luận

không phụ thuộc vào tình huống: đó là những câu hỏi tranh luận, trao đổi. Những cái này quyện vào

hoạt động nhận thức của trẻ nhưng chúng tập trung vào xã hội, con người chứ không tập trung quanh

chủ đề về sự vật như kiểu giao tiếp nhận thức ngoài tình huống. Trẻ nói về bản thân mình, về quá khứ,

tương lai của mình, hỏi người lớn về bạn bè, về người thân. Giao tiếp như vậy gọi là giao tiếp nhân

cách ngoài tình huống. Đây là dạng giao tiếp ở mức độ cao. Ơ dạng giao tiếp này trẻ vẫn coi trọng thái

độ của người lớn đối với những câu hỏi của chúng, chúng vui sướng khi được người lớn giải đáp câu

hỏi, được người lớn khen nhưng trẻ cũng cảm thấy thoải mái khi được góp ý, thay đổi ý kiến và thái

độ của mình đối với những vấn đề đang được bàn luận để đạt được cái chung trong thái độ và đánh giá

của người lớn.

Tóm lại trong lứa tuổi mầm non, xuất hiện 4 kiểu giao tiếp giữa trẻ với người lớn:

_ Nhân cách - tình huống ( 2 - 6 tháng)

_ Công việc - tình huống ( 6 - 3 tuổi)

_ Nhận thức - ngoài tình huống ( 3 - 5 tuổi)

_ Nhân cách - ngoài tình huống ( 5 - 6 tuổi)

Các kiểu giao tiếp này thay đổi theo nhu cầu giao tiếp của trẻ với người lớn. Sự xuất hiện những

nội dung mới của nhu cầu giao tiếp không loại bỏ những nội dung trước đó mà bổ sung thêm vào nội

dung trước tạo thành một mối liên kết mới phức tạp hơn.

- Đặc điểm giao tiếp giữa trẻ với trẻ

Bên cạnh việc giao tiếp với người lớn trẻ mầm non còn giao tiếp với bạn bè cùng lớp. Hoạt động

giao tiếp giữa trẻ với nhau xuất hiện vào cuối năm thứ 2 đầu năm thứ 3.

Ở giai đoạn đầu giao tiếp được thực hiện ở dạng hành động thực hành - tình cảm (2- 4 tuổi).

Năm thứ 3 và năm thứ 4 nhu cầu giao tiếp của trẻ thể hiện dưới dạng cùng nhau nô đùa, trẻ chỉ cần bạn

tham gia nô đùa với mình là đủ. Trẻ hời hợt và hiếm khi liên kết với nhau. Nhưng đến năm thứ 4 và

năm thứ 5 nhu cầu giao tiếp của trẻ được nâng lên. Nội dung nhu cầu giao tiếp giữa trẻ với bạn cùng

tuổi là sự hợp tác cùng nhau trên cơ sở công việc. Hay nói cách khác giao tiếp giữa trẻ với bạn cùng

tuổi ở giai đoạn này là giao tiếp công việc tình huống. Trong giao tiếp công việc tình huống trẻ tham

gia vào công việc chung mang tính tập thể, tất cả đều cố gắng phối hợp hành động để đạt chung mục

đích. Sự hợp tác giữa trẻ với trẻ khác biệt so với sự hợp tác giữa trẻ với người lớn. Nếu hợp tác giữa

trẻ với người lớn làm cho hoạt động của trẻ mang tính mục đích thì hợp tác giữa trẻ với trẻ chỉ làm

thoa mãn nhu cầu hoạt động của trẻ. Cũng giống như giao tiếp hành động thực hành xúc cảm, trong

giao tiếp công việc tình huống trẻ rất mong muốn trở thành đối tượng lôi cuốn hứng thú và nhận xét

đánh giá của bạn bè. Trong quan hệ với bạn bè ở thời điểm này trẻ chỉ nhìn thấy bản thân mình là

chính (thái độ của trẻ khác với chính mình) nhưng chỉ thấy ưu điểm. Muộn hơn trẻ cũng nhìn thấy thái

độ của nó đối với bạn nhưng trẻ lại nhận thấy nhược điểm. Hiện tượng không nhận thấy quan hệ của

bản thân với trẻ khác của trẻ mẫu giáo mang một nét đặc trưng là nó biểu hiện tính hờn ghen trong

hứng thú của nó đối với tất cả mọi cái mà bạn bè nó làm.

Cuối tuổi mẫu giáo, ở trẻ hình thành dạng giao tiếp mới đó là giao tiếp công việc ngoài tình

huống. Vào khỏang 5 - 6 tuổi những nét sơ dẳng của dạng giao tiếp này đã được hình thành một cách

rõ nét trong trẻ. Sự mong muốn cùng hợp tác hoạt độngthúc đẩy trẻ đến với các quan hệ giao tiếp phức

tạp hơn. Cũng như dạng giao tiếp công việc tình huống, giao tiếp ngoài tình huống cũng mang tính

chất thực hành, công việc được triển khai trên nền tảng của hoạt động vui chơi cùng nhau.

Như vậy trong giao tiếp giữa trẻ với trẻ, ở tuổi mầm non trãi qua 3 giai đoạn :

- Hành động thực hành - cảm xúc

- Giao tiếp công việc tình huống

- Giao tiếp công việc ngoài tình huống.

2.4.2. Giao tiếp với việc lĩnh hội các chuẩn đạo đức của trẻ mầm non.

Một đứa trẻ sinh ra như một con người bước vào thế giới. Nhưng hiện tại mới chỉ là tiềm năng.

Nó chỉ có những điều kiện to lớn: bộ não với hàng tỷ tế bào thần kinh, các cơ vận động, thanh quản

cho phép phát ra các âm thanh khác nhau ... nhưng chưa có sự phát triển người nào xuất hiện ở trẻ.

Dần dần qua quá trình tiếp thu kinh nghiệm của xã hội loài người dưới sự giúp đỡ của người lớn, các

yếu tố người ở trẻ mới hình thành và phát triển. Dưới sự giúp đỡ của người lớn xung quanh, trẻ được

họ truyền cho kinh nghiệm và dạy chúng phát triển thành người. Rõ ràng đối với trẻ người lớn đóng

vai trò là người thể hiện kinh nghiệm này. Những hành vi, việc làm của người lớn là chuẩn mực về

những gì cần làm và làm như thế nào đối với trẻ. Những ý kiến đánh giá nhận xét của người lớn tạo

điều kiện củng cố những hành động có ích và loại trừ những hành động không cần thiết và có hại ở trẻ,

đánh thức tính tích cực và hướng dẫn tính tích cực đó ở trẻ. Tất cả những điều trên được diễn ra trong

quá trình tác động qua lại và giao tiếp hằng ngày giữa người lớn và trẻ mầm non. Sự tiếp xúc và giao

tiếp với người lớn về cơ bản quyết định xu hướng và nhịp độ phát triển của trẻ nhất là phát triển đạo

đức. Chính trong quá trình giao tiếp với người lớn trẻ thu nhận được những ý niệm về các mẫu hành vi

trong thực tế và nắm vững chúng. Ví dụ trong qua trình giao tiếp với người lớn bằng tiếp xúc trực tiếp

tay cầm tay, má áp má, đến cử chỉ điệu bộ, ánh mắt, nụ cười, âm thanh ngôn ngữ của người lớn trẻ

nắm được các chuẩn hành vi ứng xử mà xã hội qui định trong quan hệ giữa người với người. Cụ thể

trong quan hệ với mẹ thì được tự nhiên, thoải mái, được quyền nũng nịu với mẹ. Nhưng trong quan hệ

với bố, hành vi thái độ phải dứt khoát rõ ràng, nói năng mạch lạc. Quan hệ với ông bà và người lớn

tuổi phải thể hiện được sự kính trọng, nói năng lễ phép, muốn xin phép điều gì phải khoanh tay trước

ngực. Quan hệ với bạn bè phải thể hiện sự nhường nhịn thương yêu quí trọng bạn.

Trong giao tiếp với người lớn ngoài những mẫu hành vi ứng xử giữa người và người trẻ còn tiếp

nhận những hành vi ứng xử giao tiếp với mọi người qua đồ vật. Ví dụ đưa cho cha mẹ, ông bà cái gì

phải đưa bằng hai tay cung kính. Rõ ràng những mẫu hành vi ứng xử dạng này đã hình thành cho trẻ

tính lễ phép, tôn trọng người lớn. Khuôn mẫu hành vi tự phục vụ bản thân như uống nước, mặc quần

áo, vệ sinh cá nhân hình thành cho trẻ nếp sống văn minh sạch sẽ. Như vậy trong quá trình giao tiếp

với người lớn trẻ tiếp nhận rất nhiều chuẩn mực hành vi ứng xử giữa người với người. Những chuẩn

mực hành vi này là tiền đề của nhân cách (một số nhà tâm lí học còn gọi là nhân cách gốc). Qua hướng

dẫn làm mẫu hoặc vô tình do người lớn truyền cho, trẻ tiếp nhận một cách chính xác những mẫu hành

vi này. Nếu không có sự giao tiếp trao đổi với người lớn chắc chắn trẻ sẽ không lĩnh hội được những

chuẩn mực ứng xử này. Điều này cũng đồng nghĩa với các chuẩn mực đạo đức ở trẻ không có cơ sở để

hình thành và phát triển. Vào cuối thế kỉ trước đầu thế kỉ này, ở trại tế bần, người ta tìm được những

đứa trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ, sống ngoài môi trường giáo dục. Những đứa trẻ này rất chậm phát triển

về thể chất, và đặc biệt là chậm phát triển về tâm lí. Trẻ ở đây sống tách biệt, tự thu mình lại, tự cô lập,

ở chúng xuất hiện thái độ tiêu cực đối với mọi người xung quanh xa lánh tất cả. Vì thế cho đến năm

thứ 3 những đức trẻ này vẫn không có được những thói quen tự phục vụ sơ đẳng nhất, không giữ được

vệ sinh gọn gàng, ngăn nắp, chúng hầu như không nói chuyện và tiếp nhận những tác động của giáo

dục rất kém. Do đó trong quan hệ với mọi người ở trẻ xuất hiện tính thụ động nặng nề, tính cục cằn

nóng nảy. (18) Ví dụ trên một lần nữa khẳng định vai trò của giao tiếp với sự phát triển tình cảm đạo

đức của trẻ lứa tuổi mầm non. Nhờ có giao tiếp mà các chuẩn hành vi ứng xử giữa người và người

được hình thành trong trẻ, làm cơ sở nền tảng cho các chuẩn đạo đức về quan hệ ứng xử với mọi

người, về thái độ lễ phép, về lối sống văn minh sạch sẽ được hình thành và phát triển.

Trong lứa tuổi nhà trẻ và mẫu giáo, giao tiếp có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển đạo đức của

trẻ. Ý nghĩa của giao tiếp đối với trẻ không giảm đi theo lứa tuổi mà tác động của nó ngày càng phức

tạp hơn, sâu sắc hơn. Nhiều nghiên cứu đã xác định ảnh hưởng tốt của giao tiếp được biểu hiện ở khả

năng thúc đẩy nhanh quá trình phát triển đạo đức của trẻ. Trong giao tiếp với người lớn nhất là giao

tiếp tình huống trẻ bắt đầu quan tâm đến mọi vật xung quanh, Cái gật đầu vừa ý hay vẻ mặt cau có của

người lớn trong khi giao tiếp đều được trẻ chú ý và bày tỏ thái độ rõ rệt. Trẻ vui mừng và tự tin tiếp tục

thực hiện công việc hay hành động nào đó nếu nhận được sự đồng tình ủng hộ của người lớn, ngược

lại trẻ sẽ nhanh chóng nhận ra việc làm hoặc hành động đó của mình là không đúng và kịp thời điều

chỉnh nếu nhận thấy vẻ mặt khó chịu hay những cái lắc đầu không vừa ý. Đây là điều kiện tốt giúp trẻ

đánh giá được hành động của mình đồng thời còn giúp trẻ lĩnh hội chính xác về chuẩn hành vi tốt,

hành vi xấu mà xã hội đã qui định. Từ việc lĩnh hội này trẻ sẽ có ý thức điều tiết hành vi của mình sao

cho phù hợp với mọi người xung quanh. Ý thức tự kiềm chế gián tiếp được hình thành trong trẻ thông

qua yếu tố trên. Bé Bảo Trân thường ngày chơi với bạn rất tốt nhưng hôm nay lại lớn tiếng với bạn "

tớ đóng vai cô giáo. Cậu không được giành với tớ, hiểu chưa "chỉ vì bạn giành đóng vai cô giáo - một

vai mà Trân rất thích. Từ góc gia đình cô giáo My đã nghe tất cả. Cô đến chỗ Trân và các bạn bằng

thái độ nghiêm nghị" Trân nói như vậy là không ngoan, cô và các bạn không thương nữa. Hôm qua

Trân đóng vai cô giáo rồi, hôm nay Trân phải nhường bạn chứ. Có như vậy mới đúng là bé ngoan của

lớp chồi C". Nhìn thái độ nghiêm nghị cùng những lời giải thích của cô giáo My, Bảo Trân hiểu hành

động của mình đối với bạn ban nãy là không đúng. Bé lập tức xin lỗi và nhường cho bạn đóng vai cô

giáo còn rết vui vẻ nhận vai học trò. Đây là câu chuyện có thật xảy ra tại lớp chồi c thuộc trường mầm

non Bán Công Tuổi Thơ 7 Quận 3. Qua câu chuyện trên chúng ta thấy rằng rõ ràng nhờ được giao tiếp

cùng cô nên bé Trân đã nhận ra hành vi sai trái của mình đồng thời bé cũng nhận biết được đâu là hành

vi tốt, đâu là hành vi xấu. Từ đó trong giao tiếp với mọi người Trân biết tự điều chỉnh hành vi của

mình cho phù hợp. Tính tự kiềm chế gián tiếp được hình thành trong Trân.

Ngoài ra khi giao tiếp, tiếp xúc với người lớn cũng làm xuất hiện ở trẻ mong muốn cùng chia sẻ

với người lớn những tình cảm, cảm xúc của mình đồng thời cũng xuất hiện khả năng đồng cảm với họ.

Nhìn thấy người lớn xuýt xoa một đứa bé bị ngã, trẻ cũng bắt chước xuýt xoa "bạn đau lắm nhỉ" khi

bạn bị ngã. Trong khi giao tiếp trẻ có cơ hội hiểu biết mình và những người khác cùng giao tiếp với

mình. Có cơ hội để so sánh mình với người khác, nhận thức các hành động, quan điểm, sự đánh giá, sự

hiểu biết những khả năng tiềm tàng của bản thân và của người khác, cho phép trẻ so sánh mình với

người khác, hiểu người khác đánh giá mình như thế nào. Những mối liên hệ tình cảm với người lớn ở

trẻ được hình thành. Điều này tạo điều kiện cho việc hình thành ở trẻ thái độ tốt đối với mọi người, với

thế giới xung quanh, lòng tự tin vào chính mình. Đức tính trung thực ở trẻ cũng được xuất hiện và phát

triển thông qua giao tiếp. Ở một trường mẫu giáo nọ, có một đứa trẻ 4 tuổi rất hay lấy đồ ở lớp về nhà.

Khi mẹ hỏi, nó bảo cô giáo cho nó, người mẹ mang chuyện này kể cho cô nghe. Cô giáo phát hiện tính

trung thực chưa hình thành ở đứa bé này. Ngày hôm sau khi trẻ đến lớp cô kể cho trẻ nghe câu truyện

"Làm cách nào hay hơn" và cùng đàm thoại với trẻ về nội dung câu truyện ấy.

• Trong câu truyện có những ai?

• Ai được bố khen là ngoan ?

• Vì sao đứa bé thứ ba lại được bố khen ?

• Điều gì đã xảy ra với hai đứa trẻ nói dối ?

Sau khi đàm thoại trao đổi với cô về nội dung truyện đứa trẻ dần nhận thức được thế nào là

trung thực, thế nào là không trung thực, nó hiểu được hậu quả của việc không trung thực là gì. Từ đó

đứa bé không bao giờ dám nói dối mọi người nữa. Điều này có nghĩa tính trung thực đã được hình

thành trong trẻ. Rõ ràng nhờ trò truyện với cô mà trẻ nắm được chuẩn đạo đức về lòng trung thực

cũng nhờ đó trẻ kịp thời chỉnh sửa những hành vi mà ban đầu chính trẻ chưa nhận thức được thế nào

là không trung thực. Khái niệm trung thực và hành vi trung thực sẽ vô nghĩa nếu không sử dụng trong

giao tiếp với mọi người trong các quan hệ xã hội.

Trong cuộc sống của mình trẻ không chỉ giao tiếp với người lớn mà chúng còn giao tiếp với

nhau. Lúc này mỗi đứa trẻ là một thành viên trong hoạt động cùng nhau, chúng quan tâm trước hết

đến việc lôi cuốn, chú ý của bạn bè đến bản thân mình, chúng bắt đầu để ý đến sự đánh giá của bạn bè

về hoạt động của mình. Nhờ đó phát triển ở trẻ tính tích cực, năng động, bởi vì trẻ cảm thấy bình

đẳng, độc lập với nhau trong hoạt động cùng nhau. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển tình

cảm, xúc cảm phong phú của trẻ góp phần tích cực cho việc hình thành tự ý thức và cơ sở ban đầu cho

nhân cách trẻ. Nó giúp trẻ nhận thức được năng lực của bản thân mình.

Như vậy có thể khẳng định rằng hoạt động giao tiếp là con đường đảm bảo cho trẻ tri giác một

cách tự nhiên những chuẩn mực hành vi ứng xử của mọi người xung quanh. Đảm bảo hình thành cho

trẻ tất cả các yếu tố, phẩm chất đạo đức cần cho quá trình phát triển nhân cách như: tính trung thực, ý

thức tự kiềm chế, nếp sống văn minh sạch sẽ, thái độ lễ phép và tôn trọng người lớn. Ngoài ra nó còn

đảm bảo cho trẻ sẵn sàng thay đổi các hành động của mình phù hợp với yêu cầu của mọi người xung

quanh và cởi mở với mọi người. Nếu không có hoạt động giao tiếp hay vì một lí do nào đó mà hoạt

động giao tiếp không được diễn ra chắc chắn nhân cách của trẻ cũng không có điều kiện để hình

thành, đứa trẻ không thể lớn lên thành người theo đúng nghĩa của nó. Rõ ràng giao tiếp là phương tiện

khổng thể thiếu trong công tác giáo dục đạo đức và hình thành nhân cách cho trẻ lứa tuổi mầm non.

2.5. Lao động cũng là một trong những phương tiện giáo dục đạo đức quan trọng cho trẻ mầm non.

2.5.1. Đặc điểm lao động của trẻ mầm non.

Có thể nói lao động của trẻ mầm non hoàn toàn khác với lao động của người lớn. Nếu lao động

của người lớn là những hành động có mục đích thì ở trẻ mầm non những hành động này hoàn toàn

chưa mang tính mục đích. Căn cứ vào đâu ta lại kết luận như vậy? Xem xét tất cả những yếu tố tạo nên

bản chất của quá trình lao động ở trẻ sẽ giải đáp chính xác câu hỏi trên.

- Đặt mục đích

Trẻ lứa tuổi mầm non chưa biết đặt mục đích cho hành động lao động của mình, những hành

động của lứa tuổi này chỉ là những hành động theo trình tự. Hành động theo trình tự khác với hành

động có mục đích ở chỗ nó có thể nhắc lại nhiều lần mà không đeo đuổi một nhiệm vụ nhất định, trẻ

hành động vì thấy thích. Rõ ràng tính chất hợp lí của các hành động (có đặc tính của hành động với đồ

vật) xuất hiện trên cơ sở bắt chước. Sự bắt chước của trẻ ngay từ đầu đã có tính chất rất tinh khôn. Khi

bắt chước hành động phức tạp của người lớn trẻ hiểu ý nghĩa của chúng. Cụ thể khi hành động với đồ

vật trẻ sẽ hiểu công dụng và cách sử dụng nó. Chẳng hạn khi bắt chước hành động cầm thìa xúc cơm

và cầm ly uống nước của người lớn trẻ hiểu thìa dùng để xúc cơm, ly dùng uống nước chứ không phải

để ném đi như trước đây trẻ vẫn làm. Hoặc những hành động mà trẻ 1 tuổi rưỡi, 2 tuổi thường bắt

chước người lớn như tự mặc quần áo, tự mang giày... sẽ giúp trẻ hiểu công dụng của quần áo, giày dép

và cách sử dụng chúng. Mặc dù những hành động bắt chước này còn thô sơ nhưng chúng lại có ý

nghĩa rất lớn vì trong đa số trường hợp trẻ đạt được mục đích do hoàn thành hành động độc nhất này.

Những hành động này không còn là trò chơi mà nó tiến hành trong thực tế có sự xuất hiện của mầm

mống lao động. Sau này ở lứa tuổi 3 - 4 tuổi đó là những hình thức lao động trong gia đình, lao động

tự phục vụ và lao động thủ cổng.

Trẻ 2 -3 tuổi thường đặt ra mục đích mà không thể thực hiện được. Trẻ muốn làm một cái gì đó

nhưng chưa hình dung là có thể làm được hay không. Sau này trẻ không muốn làm những việc quá sức

vì theo kinh nghiệm trẻ biết những việc không trôi chảy dễ gây chán nản. Do đó khi hình thành hành

động có mục đích nên tránh những việc làm quá sức trẻ. Trong thời gian này mục đích lao động đối

với trẻ phải cụ thể trực quan.

Trẻ 5 - 6 tuổi đã có khả năng đặt mục đích trong những công việc quen thuộc thường ngày

như : thu dọn đồ chơi, sách vở, tự giặt quần áo cho búp bê ... Những hành động có mục đích của trẻ lứa

tuổi này rất bền vững vì có những động cơ mang tính chất xã hội.

- Đặt kế hoạch hoạt động:

Trong lao động tính tích cực sáng tạo của trẻ có ý nghĩa quan trọng: suy nghĩ đến công việc sắp

làm: chọn các vật liệu, dụng cụ cần thiết, khắc phục khó khăn để đạt kết quả đề ra. Đó là việc xây

dựng kế hoạch hoạt động.

Lúc đầu trẻ chưa có khả năng đặt kế hoạch hoạt động nên giáo viên sẽ đặt hộ. Trẻ 5 -6 tuổi có

thể đặt kế hoạch sơ bộ đơn giản. Khả năng đặt kế hoạch hoạt động được hình thành dần dần từ những

hành động đơn giản được thực hiện theo trình tự logic. Ví dụ trẻ mẫu giáo bé có thể đề ra yêu cầu hành

động có tổ chức trong quá trình sinh hoạt. Lúc đầu làm gì, sau đó làm gì, vì sau làm theo trình tự này

chứ không làm theo một trình tự khác (Đi rửa mặt: mở vòi nước, sát xà phòng, rửa sạch, lau khô). Từ

cách đặt kế hoạch đơn giản dần dần chuyển sang những hình thức đặt kế hoạch phức tạp hơn đối với

trẻ mẫu giáo nhỡ và lớn. Trong một số quá trình lao động rất phổ biến của lớp nhỡ và lớn phải thường

xuyên qui định trình tự logic của hành động, tạo ra cho kế hoạch hành động đơn giản nhất. Ví dụ khi

chăm sóc cây cỏ trong phòng, nên bố trí thế nào để trẻ tiện lau chùi, tưới cây. Muốn vậy đầu tiên phải

mang chậu hoa từ trên kệ vào bàn, sau đó lau lá, tưới cây, lau kệ rồi mới đem chậu hoa đặt lên chỗ cũ.

Nếu không có kế hoạch trẻ sẽ làm lộn xộn. Trong quá trình làm việc phải lưu ý trẻ đến trình tự logic

của hành động dẫn đến kết quả tốt đẹp nhất (mất ít thời gian, công sức, lại tiện lợi nhất). Nếu hoạt

động của trẻ không có phương hướng trẻ sẽ làm nhiều động tác thừa không cần thiết dẫn đến kết quả

không cao. Nếu không có kĩ xảo đặt kế hoạch trẻ phải thử và sai phạm nhiều lần, điều này làm trẻ mất

sức và không hài lòng với kết quả thu được. Muốn dạy trẻ cách đặt kế hoạch phải tập cho trẻ suy nghĩ

sơ bộ về hoạt động của mình, phải đặt câu hỏi cho trẻ "cháu sẽ làm như thế nào, làm với những dụng

cụ nào ..." Nên đặt trẻ vào điều kiện bắt buộc phải suy nghĩ sơ bộ về quá trình hoạt động, nên vạch cho

trẻ những nhiệm vụ mới. Như vậy trong quá trình lao động trẻ tập đặt kế hoạch. Việc hoàn thành kĩ

xảo đặt kế hoạch diễn ra trong công việc hằng ngày như (trực nhật, chăm sóc góc thiên nhiên) có thể

thông qua tranh ảnh mô tả trình tự lao động...

- Kết quả lao động

Hoạt động lao động bao giờ cũng đòi hỏi nổ lực cố gắng để đạt kết quả. Đó là đặt điểm của lao

động, nó khác với trò chơi là hình thức có thể kết thúc hoặc không kết thúc. Trong trò chơi, kết quả

không phải lúc nào cũng cần thiết. Nhưng trong lao động, kết quả là thành phần bắt buộc của hoạt

động. Kết quả được coi như thước đo sức lực bỏ ra để đạt mục đích. Tuy vậy không thể coi kết quả là

nhiệm vụ chính của hoạt động trong trường mẫu giáo. Việc đạt kết quả trước hết có ý nghĩa như là một

yếu tố sư phạm có tác dụng giáo dục cho trẻ hứng thú lao động, giúp trẻ biết đánh giá đúng kết quả lao

động, so sánh với thành tích của bạn. Việc dẫn đến kết quả khi kết thúc công việc có ảnh hưởng nhất

định đến trẻ. Phải làm cho trẻ thấy được thành tích của mình. Muốn vậy giáo viên phải luôn nhận xét,

xác nhận những thành tích của trẻ một cách công bằng đồng thời sử dụng mọi hoàn cảnh khác nhau để

rèn luyện kĩ xảo cho trẻ.

- Lao động và trò chơi

Lao động của trẻ mầm non gắn liền với trò chơi. Mối liên hệ qua lại này thể hiện ở các hình thức

khác nhau: hành động của trẻ trong trò chơi thường nhằm mô tả lại quá trình lao động của người lớn,

các yếu tố của hành động lao động được thể hiện trong trò chơi, hoạt động lao động phục vụ cho trò

chơi. Song lao động và trò chơi là hai hoạt động khác nhau và có đặc trưng riêng.

Tính chất, nội dung, nguyên nhân xuất hiện hoặc động cơ của lao động và trò chơi khác nhau.

Trong quá trình lao động bao giờ cũng phải đặt ra mục đích, tìm phương tiện và tiến trình hành động

để đi đến kết quả. Còn trò chơi không đem lại kết quả rõ rệt nhưng làm cho trẻ thích thú, thỏa mãn, bởi

trong khi chơi trẻ không quan tâm đến kết quả của trồ chơi. Do đó trò chơi có thể kết thúc trong mọi

giai đoạn phát triển của nó nhưng lao động bao giờ cũng có kết quả cuối cùng đó là ý nghĩa cơ bản của

nó.

2.5.2. Lao động và việc hình thành đạo đức.

Học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin đánh giá rất cao vai trò của lao động. Các ông cho rằng

lao động sản xuất là lao động của con người, lao động sản xuất đã sáng tạo ra xã hội loài người và góp

phần to lớn vào sự tồn tại, phát triển của xã hội loài người. Trẻ mầm non tuy chưa có khả năng lao

động như người lớn nhưng ở trẻ cũng đã xuất hiện những mầm mống của hoạt động lao động. Lao

động của trẻ mầm non được hiểu là những hình thức hoạt động đơn giản nhằm tự phục vụ bản thân

mình, nhằm giữ gìn lớp học ngăn nắp, sân trường sạch sẽ và tạo ra những sản phẩm, đồ chơi đơn giản

phục vụ cho mọi hoạt động trong cuộc sống hằng ngày của trẻ. Như vậy mục đích lao động của trẻ

mầm non không cao như của người lớn. Trẻ lao động là để tự phục vụ bản thân mình, là để thỏa mãn

nhu cầu muốn làm người lớn. Chúng ta thường thấy trẻ tuổi mẫu giáo rất quan tâm đến lao động của

người lớn, trong trò chơi, trong sinh hoạt trẻ muốn bắt chước người lớn và tự mình làm việc gì đó.

Đến 6 tuổi trẻ dễ dàng nắm các kĩ năng lao động đơn giản trong việc tự phục vụ, giữ gìn sạch sẽ ngăn

nắp trường lớp, nhà cửa và chăm sóc cây cỏ như: quét nhà, xếp gọn giường ngủ, kê bàn ăn, dọn góc

thiên nhiên ...

Cũng giống như các hoạt động khác lao động ở tuổi mầm non có tác động sâu sắc đến thế hệ trẻ

và đến việc hình thành đời sống cá nhân. Nhờ hoạt động lao động mà trẻ lĩnh hội được nhiều kiến thức

khác nhau về lao động, về các vật liệu và dụng cụ, về tính chất của quá trình hoạt động cũng như vai

trò của lao động trong đời sống con người từ đó trẻ hiểu những người cần cù chăm chỉ lao động sẽ

được sống hạnh phúc còn những kẻ lười biếng trốn lao động sẽ sống rất khó khăn. Nói đến khía cạnh

này A.X.Macarenco có viết: "Lao động không những có ý nghĩa sản xuất xã hội, mà còn có ý nghĩa to

lớn trong đời sống cá nhân. Chúng ta điều biết rõ, những người biết làm nhiều việc, những người về

mọi mặt điều làm rất kết quả và có thành tích, những người không chút lúng túng trong bất cứ hoàn

cảnh nào, những người biết quản lí các đồ vật và điều khiển các đồ vật có thể sống rất sung sướng và

hạnh phúc. Ngược lại, những người luôn chịu bó tay trước mọi chuyện cỏn con, người không biết tự

mình phục vụ cho mình, mà luôn luôn lúc thì cần cô bảo mẫu, lúc thì cần sự phục vụ của bạn bè, lúc

thì cần giúp đỡ và nếu như không có ai giúp đỡ thì sẽ sống rất khó khăn, lúng túng, vụn về những

người như thế thường làm cho chúng ta thương hại" (A.X.Mạcarenco. tuyển tập. Nhà xuất bản giáo

dục 1946 trang 271). Rõ ràng A.X.Macarenco tuyệt đối đề cao vai trò của lao động không những đối

với đời sống của cá nhân mà còn đối với sự phát triển toàn diện của cá nhân. Nói đến phát tiến toàn

diện là nói đến sự phát triển của 4 mặt "Trí, đức, thể, mĩ". Bất cứ một hoạt động nào ở tuổi mầm non

cũng nhằm mục đích là phát triển 4 mặt trên. Hoạt động lao động cũng không nằm ngoài mục đích

này. Trong khi lao động đứa trẻ sẽ được phát triển về "Trí, đức, thể, mĩ". Đây là tiêu chuẩn mà xã hội

đặt ra cho con người trong thế kỉ 21 nó cũng chính là mục tiêu mà ngành giáo dục mầm non hướng tới

trong thế kỉ mới: thế kỉ của công nghệ thông tin và nhiều ngành khoa học tiên tiến. Quả thật chính nhờ

có hoạt động lao động mà trẻ trở nên khỏe mạnh, cơ thể tăng trưởng tốt, có sức đề kháng cao để kháng

lại mọi bệnh tật. Trong thời gian lao động, tất cả các quá trình như: hô hấp, tuần hoàn máu, quá trình

trao đổi chất đều được tăng cường. Đồng thời hoạt động lao động thực hành làm giảm bớt sự mệt mỏi

của trẻ khi áp lực học tập ngày một tăng cao. Bên cạnh đó trong quá trình lao động, lúc trực tiếp sử

dụng chế tạo các vật bằng các vật liệu khác nhau thông qua các phương pháp đơn giản nhất trẻ nắm

được tính chất các vật liệu và nhiều tri thức mới. Việc vận dụng vào thực tế các kiến thức đã học giúp

những kiến thức trở nên cụ thể, sống động, bền vững hơn về thế giới xung quanh. Điều này làm cho trí

tuệ của trẻ được củng cố và phát triển cao hơn.

Hoạt động lao động của trẻ mầm non bao giờ cũng gắn liền với hoạt động tạo hình. Trong quá

trình lao động trẻ tập sáng tạo ra cái đẹp, tập phân biệt cái thô kệch với cái xù xì. Điều này giúp trẻ

nhận diện chính xác cái đẹp, gia tăng lòng yêu mến cái đẹp trong trẻ. Như vậy lao động không chỉ làm

phát triển thể lực, trí tuệ cho trẻ mà nó còn góp phần quan trọng vào việc phát triển xúc cảm, tình cảm

thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi mầm non. Trong khi lao động ngoài việc tạo ra cái đẹp còn đòi hỏi các động

tác và từng vận động của trẻ phải có trật tự chính xác hợp lí, mà tính chính xác hợp lí lại là một trong

những cơ sở của mĩ dục. Trẻ tham gia lao động sẽ được cô hình thành cho tính nhịp nhàng đều đặn và

uyển chuyển của vận động nghĩa là hình thành vẻ đẹp của động tác lao động. Những yếu tố thẩm mĩ

và sự đánh giá về phương diện thẩm mĩ tính chất và kết quả của lao động đẩy mạnh việc nâng cao văn

hóa lao động.

Trong 4 mặt của quá trình phát triển toàn diện, có lẽ hoạt động lao động sẽ chi phối nhiều nhất

đến việc hình thành và phát triển những phẩm chất đạo đức cho trẻ. Hay noi đúng hơn trong công tác

giáo dục đạo đức cho trẻ lứa tuổi mầm non người ta sử dụng lao động như là một phương tiện giáo dục

đạo đức quan trọng.

Quá trình lao động đảm bảo việc hình thành những phẩm chất đạo đức như: lòng yêu lao động,

sẵn sàng lao động không chỉ cho mình, cho người thân, mà còn cho xã hội, cho tổ quốc. Trong quá

trình lao động, dưới sự hướng dẫn của người lớn trẻ hình thành được tính mục đích, tính kiên trì, tính

độc lập, năng lực cố gắng lao động, và óc sáng tạo. Hình thức lao động trong tự nhiên là một trong

những hình thức lao động có ảnh hưởng sâu sắc đến việc hình thành các đặc tính trên cho trẻ. Lao

động trong tự nhiên góp phần phát triển óc quan sát, tính ham học, giáo dục trẻ hứng thú lao động

nông nghiệp, kính trọng người lao động và khơi gợi lòng yêu thiên nhiên ở trẻ. Khi lao động ở vườn

trường hay ở góc thiên nhiên ngoài việc có được những kỉ xảo thực hành đơn giản nhất để sử dụng các

nông cụ, nắm được cách thức chăm sóc cây trồng, hiểu biết nhiều về sự sinh trưởng và phát triển của

cây trẻ còn cảm thấy hứng thú với lao động. Bởi không những trẻ được trực tiếp cầm cuốc, cầm

xẻng(những dụng cụ này phải phù hợp với trẻ) để đào xới đất mà còn được tận mắt nhìn thấy thành

quả lao động của mình. Cây cối ở góc thiên nhiên trở nên xanh tươi hơn hay lớp học có thêm một cây

mới do chính trẻ trồng sẽ làm trẻ thích thú hơn, hãnh diện hơn vì chính việc làm trên đã góp phần làm

cho thiên nhiên xung quanh trẻ phong phú đa dạng và tốt tươi. Như vậy có thể khẳng định hứng thú

đối với lao động của trẻ sẽ được tăng lên rất nhiều nếu trẻ trực tiếp tham gia vào đó, dù là ít, trẻ vui

sướng vì được tham gia lao động, nhìn thấy kết quả lao động của mình, sau này trẻ sẽ lao động tự giác

để thực hiện những nhiệm vụ nhỏ ở nhà và ở trường. Không phải chỉ có hình thức lao động trong thiên

nhiên mới hình thành hứng thú lao động cho trẻ mà trong thực tế mọi hình thức lao động có thể có ở

lứa tuổi mầm non đều thực hiện được vấn đề này. Tận mắt nhìn thấy những sản phẩm tạo hình, những

đồ chơi đơn giản hay tận mắt nhìn thấy lớp học gọn gàng hơn sau khi tham cùng các bạn thu dọn cũng

làm tre hãnh diện và cảm thấy thích thú với hoạt động lao động. Những thành quả của lao động trong

thiên nhiên còn có tác dựng hình thành cho trẻ tính kiên trì, nhẫn nại, một đức tính không thể thiếu ở

con người năng động sáng tạo của thế kỉ 21. Chúng ta biết rằng thành quả lao động trong thiên nhiên

khác với thành quả của các dạng lao động khác ở chỗ những thành quả này không có ngay sau quá

trình trẻ lao động mà phải trải qua một thời gian dài trẻ mới đạt được kết quả chẳng hạn khi tham gia

tưới nước cho cây trẻ không thấy được vẻ tươi tốt của cây ngay mà qua một, hai tuần trẻ mới nhận

thấy điều đó. Rõ ràng phải mất một thời gian dài trẻ mới đạt được mục đích, nhưng để đạt được mục

đích này trẻ phải nỗ lực kiên trì làm việc tỉ mỉ hằng ngày. Đây là điều kiện tốt để giáo dục cho trẻ tính

kiên trì nhẫn nại.

Cùng với hình thức lao động trong thiên nhiên, hình thức lao động thủ công làm đồ chơi và đồ

dùng cũng là phương tiện giúp hình thành các phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho trẻ mầm non. Lao động

làm vật dụng lúc đầu do giáo viên hướng dẫn sau đó trẻ tự làm có tác dụng rèn luyện phát triển khả

năng đạt mục đích, kiên trì đạt mục đích, khắc phục khó khăn của trẻ. Trẻ tập vạch ra những biện pháp

thực hiện mục đích đặt ra, suy nghĩ về trình tự công việc, cách xử lí và cách gắn các vật liệu.

Hoạt động lao động thường được tiến hành trong tập thể đó là điều kiện để hình thành những

quan hệ tập thể cho trẻ như: tinh thần tương trợ, niềm vui vì thành công của tập thể, sự thông cảm đối

với bạn bè khi họ thất bại, và tinh thần sẩn sàng giúp đỡ họ... Quan sát hoạt động cùng nhau nhặt lá

bàng dưới sân trường của một nhóm trẻ lớp chồi ở trường mầm non bán công Tuổi Thơ 7 ta sẽ thấy rõ

điều này.

Một buổi sáng cô giáo My dẫn trẻ ra sân và nói "Hôm nay chúng ta cùng nhau nhặt tất cả những

lá bàng ở sân trường nhé". Rồi trẻ bắt đầu nhặt. Bé gái thì nhặt lá cho vào sọt còn bé trai thì mang

những sọt đó đến khu đổ rác của trường. Chúng làm việc với nhau rất vui vẻ, có lúc sọt lá quá đầy hai

trẻ không thể khiêng nổi, cô gợi ý cho vài trẻ đến giúp bạn. Những đứa trẻ được cô gợi ý tranh nhau

chạy đến giúp bạn thế là tinh thần giúp đỡ mọi người được hình thành trong trẻ, không những thế quan

hệ bạn bè của trẻ cũng được cũng cố. Hai đứa trẻ được giúp đỡ cảm thấy yêu các bạn hơn, còn những

đứa trẻ kia cảm thấy tự hào về hành động của mình. Khi đã nhặt hết lá bàng trên sân trường chúng tự

hào khoe với nhau "sân sạch đẹp là do con gái chúng tớ đã nhặt hết lá trên sân, còn bọn con trai chúng

tớ đã mang chúng đến khu đổ rác của trường đó". Những lời nói trên cùng với vẻ mặt hớn hở của trẻ

chứng tỏ chúng rất hãnh diện về thành quả lao động của mình đồng thời hiểu rõ hơn lợi ích mà lao

động mang đến cho xã hội loài người từ đó hình thành cho trẻ lòng kính trọng và yêu quí đối với

những người lao động, căm ghét những kẻ cố tình trốn tránh lao động, tìm cách lợi dụng lao động của

người khác phục vụ lợi ích riêng của mình.

Ở trường mầm non ngoài tham gia lao động với bạn trẻ còn có thể tham gia lao động cùng cô.

Lao động cùng cô giúp làm sáng tỏ những khái niệm của trẻ, kích thích tính ham học, quan tâm đến

hoạt động của người lớn rèn luyện thái độ lao động đúng, ý thức tôn trọng lao động. Điều gì đã thu hút

trẻ tham gia vào công việc chung với người lớn, điều gì thúc đẩy trẻ bắt chước lao động của người lớn

? Người lớn làm việc khéo léo và nhanh nhẹn sẽ làm trẻ thích thú và khâm phục. Các cháu trầm trồ "

các bác biết làm mọi thứ". Trước mắt trẻ là những thay đổi kì diệu : tấm kính dần dần sáng bóng, chiếc

ghế, chiếc xe bị hỏng trong đôi tay khéo léo lại trở thành mới mẻ. (8) Người lớn làm ra những đồ chơi

hấp dẫn còn trẻ mong muốn nắm được kĩ năng này. Lao động chung sẽ hiệu quả hơn vì tính vụng về

của trẻ được đổi tay khéo léo của cô tạo ra các sản phẩm không kém phần đẹp mắt. Trẻ phấn khởi vì

đạt kết quả tốt từ đó có thái độ lao động tốt và có nguyện vọng lao động. Lao động với người lớn giúp

trẻ khắc phục khó khăn làm trẻ thêm tin tưởng vào sức mình. Rõ ràng lao động chung cùng người lớn

ảnh hưởng nhiều đến quá trình hình thành đạo đức cho trẻ. Do đó người lớn cần lao động có văn hóa

trước mặt trẻ, chẳng hạn trong lúc tưới cây ở góc thiên nhiên đứa trẻ chỉ biết múc nước vào bình, rồi

mang đến tưới vào các gốc cây, chúng không cần biết đối với những loại cây này phải tưới một lượng

nước bao nhiêu là đủ, chúng cũng không hề để ý đến cách lấy nước vào bình như thế nào để khi di

chuyển không bị đổ ra ngoài. Nhưng khi quan sát cô làm công việc đó trẻ thấy cô không múc nước

đầy vào bình tưới như trẻ mà chỉ múc khoang 2/3 bình rồi mang đến tưới vào các cây ở góc thiên

nhiên, thao tác tưới cây của cô cũng khác trẻ, cô tưới nhanh qua các ngọn cây một lần sau đó tưới vào

từng gốc cây, những cây thân to cô tưới nước nhiều hơn những cây thân nhỏ và khi tưới xong cô mang

bình cất vào chỗ cũ. Nhìn góc thiên nhiên khô ráo sạch sẽ và tất cả cây đều xanh tốt mượt mà hơn sau

khi tưới, trẻ nhận thấy cách làm của cô so với chúng gọn gàng hơn, có trình tự và có hiệu quả hơn vậy

là trẻ nhanh chóng tiếp thu cách làm có văn hóa của cô. Người lớn cũng cần tạo điều kiện thuận lợi để

lôi cuốn trẻ tham gia vào quá trình lao động bằng cách giao cho trẻ những nhiệm vụ vừa sức và bước

đầu hợp tác với trẻ. Ví dụ cô có thể giao cho trẻ một số nhiệm vụ trong các hoạt động lao động sau :

- Thu dọn phòng ngủ: cô thu dọn nệm và khăn trãi giường, trẻ mang gối đi cất và xếp giường lại

(hai cháu mang một cái hoặc kéo lê trên sàn)

- Thu dọn sau bữa ăn trưa: cô cùng trẻ mang tất cả chén bát từ trên lớp xuống nhà bếp

- Chuẩn bị giờ tạo hình : cô pha màu, quấy hồ, gọt bút chì, trẻ cắt giấy đổ hồ và bột màu vào đĩa

- Lao động trong sân trường: cô bắt sâu cho cây, trẻ nhặt lá vàng và tưới nước còn nhiều và nhiều

hình thức lao động khác nữa. Khi chọn các hình thức lao động để phối hợp giữa người lớn và trẻ

cần tuân thủ các nguyên tắc : lao động phải thật tự nhiên, cần thiết và có ý nghĩa đối với trẻ, nó

phải phù hợp về mặt giáo dục và vệ sinh, trong đó hoạt động chung với sự phân công chức năng

giữa -trẻ và người lớn phải được thực hiện một cách dễ dàng và tự nhiên.

Thông qua lao động trẻ còn được giáo dục về ý thức gọn gàng và ý thức tôn trọng kết quả lao

động của con người. Việc giáo dục trẻ ý thức giữ gìn mọi vật: giữ gìn quần áo giày dép sạch sẽ, sửa

chữa đồ chơi ...cùng với việc nhấn mạnh giữ gìn quần áo giày dép sạch sẽ là để tỏ lòng biết ơn cha mẹ

đã mua những thứ này của cô sẽ giúp hình thành ở trẻ các yếu tố trên.

Tóm lại thông qua lao động nhiều chuẩn mực đạo đức sẽ được hình thành trong trẻ. Nếu sử

dụng tốt phương tiện này sẽ góp phần rất lớn vào công tác giáo dục đạo đức cho trẻ lứa tuổi mầm non.

Chương 3: MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH BAN ĐẦU VỀ SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG TIỆN GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC Ở TRƯỜNG MẦM NON

Ở các trường mầm non hiện nay ít nhiều đã chú trọng đến việc giáo dục đạo đức cho trẻ mầm

non. Đội ngũ giáo viên đã nhận ra vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển

nhân cách trẻ. Qua thăm dò 55 giáo viên của ba trường mầm non Tuổi Thơ 7 - Quận 3 & Măng Non 1

- Quận l0 và mẫu giáo thực nghiệm TW 3 thì 100% giáo viên đều cho rằng những khái niệm đạo đức

tốt xấu, hiền ngoan và những chuẩn mực đạo đức về lòng nhân ái, tình bạn bè, tình cảm gia đình, tình

yêu lao động V.V.... thật sự là cơ sở tốt cho nhân cách trẻ hình thành và phát triển. Từ sự nhìn nhận đó

nên mọi hoạt động hằng ngày của trẻ ở trường mầm non được giáo viên sử dụng như là một phương

tiện có hiệu quả để giáo dục đạo đức cho trẻ . Giờ học, giờ chơi, giờ lao động ở lớp, ở sân trường đều

là những phương tiện mà giáo viên ở các trường Mầm non hiện nay đã sử dụng để giáo dục đạo đức

cho trẻ từ 0 đến 6 tuổi.

Sau khi dự giờ quan sát 04 giờ học của trẻ các lứa tuổi (cơm thường, mầm, chồi, lá ở trường

Mầm non Bán công Tuổi Thơ 7 - Quận 3 & Măng Non 1 -Quận 10 chúng tôi thấy rằng trong giờ học

nhất là những giờ làm quen với tác phẩm văn học thì việc giáo dục đạo đức cho trẻ được cô phát huy

một cách tối đa. Nói đúng hơn, giáo viên mầm non đã sử dụng có hiệu quả những giờ học này để giáo

dục đạo đức cho trẻ lứa tuổi mầm non. Đầu giờ học, cô đặt ra yêu cầu của giờ học cho trẻ : "Con phải

ngồi ngoan, muốn phát biểu phải giơ tay, khi trả lời câu hỏi của cô phải thưa cô ..." là để giáo dục cho

trẻ tính trật tự, kỉ luật, nghiêm chỉnh chấp hành nội quy. Bên cạnh đó, còn giáo dục cho trẻ thói quen

nói năng lễ phép, biết thưa gửi khi trả lời. Với cách làm này hầu hết trẻ đều trật tự khi học, biết giơ tay

khi muốn phát biểu, biết thưa gửi khi trả lời câu hỏi của cô. Những trẻ nào chưa thực hiện tốt các yêu

cầu đó giáo viên nhắc nhở và chỉnh sửa ngay.

Ngoài việc đặt ra yêu cầu trong giờ học giáo viên còn sử dụng ngay chính nội dung của tác

phẩm để giáo dục những bài học đạo đức cho trẻ. Bằng hệ thống câu hỏi xoay quanh nội dụng tác

phẩm giáo viên thật sự đã trang bị cho trẻ những khái niệm và chuẩn mực đạo đức cần thiết ở lứa tuổi

mầm non. Cụ thể giờ dạy trẻ làm quen với bài thơ "Bác Hồ của em" ở lớp chồi B với hệ thống câu hỏi:

- Ngày 19/05 là ngày gì ? (Trẻ trả lời: Thưa cô, ngày sinh nhật Bác)

- Khi các con ra đời có còn Bác không ? (Trẻ trả lời: Thưa cô, không)

- Ai biết gì về Bác Hồ ? ( Trẻ trả lời: Thưa cô, Bác Hồ là người hướng dẫn các chú bộ đội

đánh giặc cứu nước, Bác là người rất yêu mến các bạn thiếu nhi.)

- Bài thơ nói về điều gì ? (Trẻ trả lời : Thưa cô, bài thơ nói về tình cảm của các bạn nhỏ

đối với Bác)

- Các cháu có yêu Bác Hồ không ? (Trẻ trả lời: Thưa cô, có ạ!)

Với hệ thống câu hỏi trên, cô đã cung cấp cho trẻ những hiểu biết về Bác cũng như tình cảm của

mọi người đối với Bác. Qua đó, giáo dục trẻ lòng kính yêu Bác Hồ, kính yêu lãnh tụ và những người

đã có công dựng nước, giữ nước. Đây là mầm móng của lòng yêu quê hương đất nước sau này.

Có thể nói ở các trường mầm non hiện nay đều sử dụng tác phẩm văn học như là một phương

tiện giáo dục đạo đức cho trẻ. Ở trường mầm non phương tiện này được tổ chức dưới nhiều hình thức

khác nhau như: Cô đọc trực tiếp cho trẻ nghe sau đó đàm thoại cùng trẻ, trẻ tập hoa thân vào các nhân

vật và diễn lại toàn bộ hay một đoạn nào đó của tác phẩm hoặc cũng có thể trẻ tập kể lại toàn bộ tác

phẩm. Mặc dù được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng kết quả giáo dục đạo đức thu được

từ những hình thức ấy là tương đối cao, hầu hết trẻ đều lĩnh hội được những bài học đạo đức sâu sắc từ

những hình thức trên (lấy từ kết quả quan sát 4 giờ học của trẻ các lứa tuổi).

Cùng với giờ học thì giờ hoạt động vui chơi của trẻ cũng được giáo viên ở các trường mầm non

thường xuyên sử dụng để giáo dục cho trẻ những nét tính cách: thật thà, ngăn nắp, lễ phép những

phẩm chất đạo đức: lòng nhãn ái, tinh thần đoàn kết, cư xử có văn hoa đối với mọi người... Qua thăm

dò trao với một số giáo viên hiện đang dạy ở các trường mầm non, hầu hết họ đều cho rằng việc giáo

dục đạo đức cho trẻ trong giờ chơi cũng thu được kết quả cao. Trong khi chơi trẻ được tự do thể hiện

những gì nó biết, được tự do hoạt động theo ý nó hay nói đúng hơn khi chơi trẻ sẽ thể hiện rõ tính cách

và phẩm chất của bản thân mình. Nếu quan sát kĩ giáo viên sẽ dễ dàng nhận ra tính cách của trẻ đồng

thời dễ phát hiện ra những hành vi thái độ đi lệch chuẩn ở trẻ và kịp thời uốn nắn sửa chữa cho trẻ. (

Trích một giờ hoạt động vui chơi ở góc bán hàng của trẻ lớp chồi C) chúng ta thấy Phương Nghi đóng

vai bán hàng và hỏi:

- Muốn mua gì?

- Mạnh Hiệp: Tôi muốn mua một dĩa bánh bao, một trái thơm và một dĩa trái

cây

- Phương Nghi: nè, đưa tiền đây!

- Mạnh Hiệp : Gởi chị 20.000 đồng

- Phương Nghi: Tiền rách không xài được, đổi tờ khác đi!

Qua lời đối thoại của người bán hàng Phương Nghi và người mua hàng Mạnh Hiệp thì rõ ràng bé

Phương Nghi chưa thể hiện đúng hành vi thái độ của người bán hàng. Bé hay nói trống không và luôn

ra lệnh với khác hàng. Điều này trái với chuẩn mực đạo đức của xã hội. Quan sát hai trẻ chơi, lúc này

cô giáo mới giả đóng vai người mua hàng và đến cửa hàng của Phương Nghi để mua.

- Cô giáo: Xin chào chị. Chị vui lòng bán cho tôi một cân cá, một cân cải

- Phương Nghi: Nè, đưa tiền đây

- Cô giáo: Tôi vừa mua hoa ở cửa hàng hoa. Ở đó chị bán hàng không nói "nè đưa tiền đây" như

chị mà khi đưa hàng cho khách họ bảo "đây tôi xin gởi chị" . Mọi khách đến cửa hàng hoa đều

khen người bán hàng lịch sự và đến mua rất đông. Chị có muốn nhiều người đến mua hàng

như ở cửa hàng hoa không?

- Phương Nghi: Muốn ạ

- Cô giáo: Vậy thì chị phải nói nhẹ nhàng với khách hàng. Nhận tiền của khách phải biết cám

ơn. Như vậy mới có nhiều người đến của hàng của chị để mua.

Sau khi nghe cô giáo nói vậy chúng tôi quan sát thấy bé Phương Nghi thay đổi thái độ hành vi

đối với khách hàng. Bé đã biết hỏi khách cần mua gì để mình giúp, đã biết cảm ơn khách khi nhận

tiền. Bằng cách hoa thân vào vai chơi với trẻ cô giáo đã kịp thời uốn nắn sửa chữa có hiệu quả những

hành vi đi lệch chuẩn đồng thời giáo dục trẻ thái độ cư xử, lịch sự nhã nhặn đối với mọi người xung

quanh. Điều này chứng tỏ trong thực tế trò chơi đã được giáo viên mầm non sử dụng có hiệu quả trong

việc giáo dục đạo đức cho trẻ. Giáo viên không trực tiếp uốn nắn, truyền thụ những bài học đạo đức

mà bằng hình thức tham gia chơi cùng trẻ, giáo viên lấy tư cách là một thành viên của trò chơi để nhận

xét đánh gia thái độ hành vi của trẻ. Điều này giúp trẻ dễ chấp nhận khuyết điểm đồng thời nhanh

chóng điều chỉnh thái độ hành vi của mình để tiếp tục được chơi.

Ngoài ra, chúng tôi cũng thực hiện khảo sát với 55 cha mẹ trẻ mẫu giáo qua phiếu điều tra và

nhận thấy các bậc cha mẹ có những hiểu biết nhất định về lao động của con mình, về vai trò của lao

động đối với việc hình thành các phẩm chất đạo đức, ví dụ cho trẻ tham gia vào các công việc nhà,

giúp trẻ tự lập, yêu quý và giữ gìn thành quả lao động, kiên nhẫn, chăm chỉ, sáng ý, ngăn nắp và biết

sắp xếp công việc hợp lý v.v... Cha mẹ trẻ cũng ghi nhận, trẻ thích thú được tham gia giúp đỡ cha mẹ,

thích được dẹp bàn ăn, lặt rau, xếp áo quần, thích được phụ mẹ xách đồ đi chợ về, cảm thấy trưởng

thành khi được cha mẹ khen.

Một thái độ yêu thích tham gia vào lao động của người lớn cũng được các cô giáo mầm non ghi

nhận qua 55 phiếu thăm dò ý kiến của giáo viên mầm non về ảnh hưởng của lao động đối với việc

hình thành và phát triển đạo đức của trẻ.

Ở lớp trẻ hăng hái phụ cô chuẩn bị giờ chơi, giờ học, phát học cụ cho các bạn, dọn chén bát

trước và sau khi ăn, trực nhật lớp, lau lá cây, tưới cây, xách đồ chơi lên giá, lên kệ v.v... Các cô cho

rằng lao động đơn giản và vừa sức với trẻ giúp trẻ biết sắp xếp công việc hợp lý, tự tin, có tính kí luật

cao ...Các cô còn quan sát thấy trẻ rất nhiệt tình, tự hào khi được cô giao việc, chứng tỏ đặc điểm của

trẻ là thích được làm việc và lấy chúng là cơ sở để chúng ta giáo dục thái độ lao động cho trẻ em.

KẾT LUẬN

1. MỘT SỐ KẾT LUẬN

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, qua phân tích tổng hợp tài liệu và quan sát thăm dò thực tế

việc sử dụng các phương tiện giáo dục đạo đức ở các trường mầm non hiện nay cho phép chúng tôi rút

ra một số kết luận sau:

• Đạo đức là hạt nhân cơ bản của nhân cách con người. Những phẩm chất hành vi đạo đức

quyết định sự trường thành của một con người thực thụ. Chính vì thế việc giáo dục trẻ

trở thành người có đầy đủ phẩm chất đạo đức, trí tuệ đang là mục tiêu giáo dục mà xã

hội đặt ra cho các bậc học kể cả bậc giáo dục mầm non - giai đoạn đầu tiên hình thành

• Có thể khẳng định trong quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ thì các phương tiện trò chơi,

nhân cách con người.

truyện kể thơ ca, giao tiếp, lao động là những công cụ tác động rất tích cực đến trẻ. Dưới

sự tác động của những phương tiện này, được sự hướng dẫn của người lớn đứa trẻ đã

• Các phương tiện này cần sử dụng kết hợp với nhau thì mới thu được kết quả tốt bởi các

lĩnh hội được các khái niệm đạo đức đầu tiên đơn giản nhất.

phẩm chất hành vi đạo đức không chỉ hình thành trong một hoạt động mà nó được hình

thành trong mọi hoạt động hằng ngày của trẻ.

• Các phẩm chất đạo đức của trẻ sẽ được hình thành và tồn tại bền vững đồng thời việc sử

dụng các phương tiện cũng sẽ phát huy kết quả tối đa nếu người lớn biết kết hợp chúng

mọi lúc mọi nơi, kết hợp với gia đình và cha mẹ trẻ.

2. MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT

Sau khi nghiên cứu lí luận và quan sát thăm dò thực tế vai trò của chúng đối với việc giáo dục

đạo đức cho trẻ mầm non cũng như thực trạng sử dụng các phương tiện này vào việc giáo dục đạo đức

cho trẻ ở các trường mầm non hiện nay chúng tôi xin đề xuất một sô ý kiến nhằm giải quyết vân đề

trên:

• Để mọi người thấy rõ vai trò quan trọng của việc giáo dục đạo đức đồng thời hiểu rõ hơn về

vai trò của một số phương tiện giáo dục đạo đức cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng

về nội dung, nhiệm vụ giáo dục đạo đức và tầm quan trọng của giáo dục đạo đức đối vời sự

phát triển nhân cách của trẻ mầm non cho tất cả mọi người trong xã hội; từ cha mẹ trẻ đến giáo

• Được trực tiếp tham gia vào mọi hoạt động là điều kiện tốt để các phẩm chất đạo đức hình

viên mầm non - những người trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ trong độ tuổi từ 0 -6 tuổi.

thành. Vì thế, trong qua trình giáo dục đạo đức cho trẻ, người lớn cần tạo môi trường hoạt

động sao cho có thể kích thích trẻ tham gia tích cực vào đó. Ở trường mầm non, bằng những

lời động viên, khen ngợi cô cần kích thích trẻ tham gia vào các hoạt động ở lớp như: lao động

tự phục vụ, trật nhật, chăm sóc cây cối... Ở nhà cha mẹ cần tạo điều kiện cho trẻ được làm

• Ngoài ra trong quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ thì việc đẩy mạnh công tác phối hợp giáo

những việc vừa sức.

dục giữa gia đình nhà trường và xã hội, tăng cường các buổi trò chuyện trao đổi giữa phụ

huynh và nhà trường, chú trọng xây dựng các góc thông tin ở trường lớp sẽ là cầu nối vững

chắc để nhà trường và gia đình phối hợp với nhau trong quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Thanh Âm - Giáo dục học mầm non - Trường Đại học Sư phạm HN.

2. M.K. Bogoliupxkaia & v.v Septsenco (Lê Đức Mẩn dịch) - Đọc và kể chuyện văn học ở vườn

trẻ - NXB Giáo dục 1978.

3. Vũ Minh Hồng,Trương Kim Oanh & Phan Huỳnh Hoa - Trò chơi học tập -NXB Giáo dục 1982.

4. AI Xarokina- Giáo dục học mẫu giáo - NXB Giáo dục 1977.

5. Iacopxơn (sách dịch) - Đời sống tình cảm của học sinh - NXB Giáo dục 1978.

6. N.Kupxkaia - Giáo dục học mẫu giáo - NXB Giáo dục.

7. Valeria Mukhina (Trần Thanh Đạm dịch ) – Lớn lên thành người hay sự ra đời của nhân

cách - NXB Tiến bộ Moscova 1984.

8. Nhe-cha-e-va - Giáo dục trẻ mẫu giáo trong lao động - NXB Giáo dục 1979.

9. Nguyễn Thị Nhất -Thơ ca mẫugiáo - NXB Giáo dục 1976.

10. Trương Kim Oanh & Đỗ Mộng Liên - Những trò chơi lý thú và bổ ích -NXB Giáo dục 1987.

11. Nguyễn Ánh Tuyết - Giáo dục học - NXB Giáo dục.

12. Nguyễn Ánh Tuyết - Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non - NXB Giáo dục.

13. Nguyễn Thu Thủy - Giáo dục trẻ mẫu giáo qua truyện và thơ - NXB Giáo dục 1986.

14. Lê Minh Thuận - Nhân cách và sự hình thành nhân cách ở lứa tuổi mẫu

giáo - NXB Giáo dục 1989.

15. Nguyễn Thị Thanh Hà - Phương pháp hướng dẫn trẻ 2 đến 3 tuổi chơi trò chơi phản ánh sinh

hoạt - Luận án Tiến sĩ KHGD, Hà Nội 2002.

16. Nguyễn Thị Hằng - Sự hình thành hành vi đạo đức ở trẻ mẫu giáo 5 đến 6 tuổi thống qua trò

chơi đóng vai theo chủ đề - Luận án Th.sĩ KHGD 1998.

17. P.G.Xamarucôva (Phạm Thị Phúc dịch) - Trò chơi trẻ em - Sở GD TP.HCM 1986

18. A.Ryscai (Vũ Thị Ẩn dịch) - Bài giảng về sự phát triển giao tiếp của trẻ với người lớn và bạn

cùng tuổi - Tạp chí Giáo dục học mẫu giáo số 2/3/1998.

19. Lê Xuân Họng - Giao tiếp con đường hình thành nhân cách cho trẻ - Tạp

chí Khoa học Giáo dục tháng 3/1995.

PHỤ LỤC

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN CHA MẸ HỌC SINH

Xin chào Anh (Chị) ! Chúng tôi là nhóm sinh viên hiện đang nghiên cứu việc ảnh hưởng của hoạt động lao động đối với việc hình thành đạo đức cho trẻ lứa tuổi mầm non. Đê giúp chúng tôi có thể đánh giá đúng ảnh hưởng của lao động đối với việc hình thành đạo đức cho trẻ. Xin Anh (Chị) vui lòng trả lời các câu hỏi dưới đây bằng cách đánh dấu X vào ô trống mà Anh (Chị) cho là cần thiết

1) Ở nhà Anh (Chị) có thường cho con phụ giúp những công việc nhà không?

Có Không □ □

2) Bé thường giúp Anh (Chị) những công việc nào dưới đây ?

Xếp quần áo xếp giày dép Dọn cơm Quét nhà Bỏ quần áo vào máy giặt Những công việc khác .............................................................................. □ □ □ □ □ □

3) Ý thức của trẻ khi làm những công việc này ?

□ Tự giác □ Khi người lớn yêu cầu

4) Theo Anh (Chị) tham gia làm việc cùng người lớn giúp hình thành và phát triển những nét tính cách nào ở trẻ?

5) Cháu có thích được làm không ? Cháu biểu hiện như thế nào?

6) Theo Anh (Chị) có nên cho trẻ làm việc nhà không? Vì sao?

Cảm ơn Anh (Chị)

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN GIÁO VIÊN MẦM NON VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA LAO ĐỘNG ĐẾN VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC CHUẨN ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ

Lao động là một trong những phương tiện giáo dục đạo đức quan trọng. Để tìm hiểu ảnh hưởng của lao động đến việc hình thành đạo đức, rất mong Chị đóng góp ý kiến của mìnhbằng cách đánh dâu X vào ô trống mà Chị cho là cần thiết.

Có Không

1) Ở trường mầm non hiện nay trẻ có thường tham gia lao động cùng cô không? □ □ 2) Ớ trường trẻ tham gia vào những hình thức lao động nào ? …………………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………………

3) Theo Chị lao động có vai trò như thế nào đối với việc hình thành các chuẩn đạo đức cho trẻ ?

Quan trọng Không quan trọng

□ □ 4) Vì sao?

............. ………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………….

Tự giác Không tự giác

5) Ý thức của trẻ khi tham gia lao động ở trường □ □ 6) Theo Chị sử dụng phương tiện lao động để giáo dục đạo đức cho trẻ, sẽ giúp hình

thành ở trẻ những đức tính nào ? □ Tinh thần tập thể □ Tình bạn □ Lòng yêu lao động □ Tính mục đích □ Tính kiên trì nhẫn nại □ Thái độ trân trọng, bao vệ thành quả lao động □ Các đức tính khác ( xin ghi rõ)

7) Các biểu hiện của trẻ khi lao động?

…………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………………..

8) Hiện nay khỉ sử dụng phương tiện lao động để giáo dục đạo đức cho trẻ Chị thường gặp những khó khăn gì ?

MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA

CÁC PHƯƠNG TIỆN GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC

Những phẩm chất đạo đức tốt sẽ được hình thành ở trẻ qua giờ làm quen với Tác Phẩm Văn Học ở

trường Mầm non.

Chơi xong phải biết dẹp đồ chơi chứ!

Tập cho bé làm nội trợ, giúp bé hiểu được lao động của bác cấp dưỡng

Giáo dục đạo đức cho trẻ qua lao động chăm sóc cây ở góc thiên nhiên

Tập cho bé tự xếp quần áo là giáo dục cho bé thói quen tự phục vụ

Em xin chân thành cảm ơn cô NGUYỀN THỊ THANH BÌNH đã tận tình hướng dẫn, giúp

nhiều ý kiến cho em hoàn thành luận văn này. m Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu cùng tập thể giáo viên của trường Măng Non 1 - Quận 10 và trường Tuổi Thơ 7 - Quận 3, Mẫu giáo thực

nghiệm TW 3 đã tận tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình làm luận

văn.

Cũng nhân dịp này em xin chân thành cảm ơn quí thầy cô khoa GDMN đã tận tình hướng dẫn,

truyền thụ cho em những kiến thức vô cùng quí báu về ngành học này trong suốt 4 năm qua.

Thành Phố Hồ Chí Minh 2003

NGUYỄN THỊ ANH THƯ

- 63 -