ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ®¹i häc quèc gia Hµ néi KHOA LUẬT KHOA LUẬT khoa luËt   

  

NGUYỄN THÀNH NAM bïi thÞ ph ¬ng lan NGUYỄN THÀNH NAM GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ph¸p luËt vÒ quyÒn t¸c gi¶ THEO THỦ TỤC RÚT GỌN TẠI VIỆT NAM trong qu¸ tr×nh héi nhËp quèc tÕ ë ViÖt Nam ĐỒNG TÍN DỤNG THEO THỦ TỤC RÚT GỌN TẠI VIỆT NAM luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

chuyªn ngµnh: luËt quèc tÕ

m· sè: 5.05.12 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020

HÀ NỘI - 2020

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

  

NGUYỄN THÀNH NAM

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

THEO THỦ TỤC RÚT GỌN TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự

Mã số: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. PHAN HỮU THƢ

HÀ NỘI - 2020

2

MỤC LỤC

Trang

1

Lời cảm ơn

2

Lời cam đoan

3

Mục lục

5

Danh mục các từ viết tắt trong luận văn

6

Mở đầu

Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về thủ tục rút gọn giải quyết các vụ 13

án dân sự

13 1.1 Khái niệm, cơ sở xây dựng chế định và đặc điểm của thủ

tục rút gọn theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam

1.2 Mục đích, yêu cầu của việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục tố 21

tụng rút gọn

23 1.3 Lịch sử hình thành và phát triển của thủ tục rút gọn tại Việt Nam

29 1.4 Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo pháp luật của một số nước trên

thế giới

1.5 Một số vấn đề lý luận về tranh chấp hợp đồng tín dụng và giải 33

quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng theo thủ tục rút gọn

Chƣơng 2: Quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về thủ tục 53

giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn

2.1 Quy định về việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn tại 53

Tòa án cấp sơ thẩm

58 2.2 Quy định về việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút

gọn tại Tòa án cấp phúc thẩm

60 2.3 Thủ tục xem xét lại bản án, quyết định theo thủ tục rút

gọn đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc

3

thẩm, tái thẩm

2.4 Quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp hợp 60

đồng tín dụng theo thủ tục rút gọn

2.5 Thực trạng và đánh giá về tình hình giải quyết vụ án dân sự, tranh 74

chấp hợp đồng tín dụng tại Toà án hiện nay và những yếu tố cơ

bản ảnh hưởng tới chất lượng bản án

Chƣơng 3: Thực tiễn áp dụng quy định về giải quyết vụ án dân sự theo 85

thủ tục rút gọn tại Tòa án, một số vấn đề qua hiện trạng xử lý nợ của

các tổ chức tín dụng bằng hình thức khởi kiện tại Tòa án và kiến nghị

hoàn thiện quy định về giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn

3.1 Những hạn chế và khó khăn khi áp dụng các quy định về thủ tục 85

rút gọn

89 3.2 Một số vấn đề liên quan đến thủ tục rút gọn qua thực tiễn

xử lý nợ của các tổ chức tín dụng bằng hình thức khởi

kiện tại Tòa án

3.3 Kiến nghị phương hướng và giải pháp hoàn thiện Thủ tục rút gọn 91

ở Việt Nam

3.4 Về vấn đề thành lập Tòa giản lược trong hệ thống Tòa án nhân 100

dân

112

Kết luận

4

Danh mục tài liệu tham khảo 114

BLDS

- Bộ luật Dân sự

BLTTDS

- Bộ luật Tố tụng dân sự

Nghị quyết

số

- Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý

42/2017/QH14

nợ xấu của các tổ chức tín dụng

Nghị quyết

số

- Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội

03/2018/NQ-

dồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng

HĐTP

một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về

xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu tại Tòa án

nhân dân

UBTVQH

- Ủy ban thường vụ Quốc hội

TAND

- Tòa án nhân dân

VKSND

- Viện kiểm sát nhân dân

UBND

- Ủy ban nhân dân

HĐTD

- Hợp đồng tín dụng

TCTD

- Tổ chức tín dụng

VAMC

- Công ty TNHH MTV Quản lý tài sản của các tổ chức tín

dụng Việt Nam

TTRG

- Thủ tục rút gọn

KDTM

- Kinh doanh thương mại

HNGĐ

- Hôn nhân gia đình

- Lao động

5

CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam luôn đặt ra những quy định về trình

tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ nhằm thực hiện mục tiêu xét xử khách quan, công

bằng, bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Tuy nhiên,

nhiều khi, những quy định chặt chẽ này vô hình chung đã hình thành nên

những thiết chế tố tụng phức tạp, khó tuân thủ và gây tốn kém. Thực tiễn giải

quyết nhiều vụ án dân sự, trong đó có những tranh chấp liên quan HĐTD, xử

lý tài sản bảo đảm của khoản vay tín dụng,… tuy đơn giản, chứng cứ rõ ràng

nhưng thời gian giải quyết lại kéo dài một cách không cần thiết trong khi Tòa

án có thể giải quyết nhanh hơn nếu không phải thực hiện đầy đủ các thủ tục

hiện hành nhưng vẫn bảo đảm được các mục tiêu xét xử. Thực tiễn này đặt ra

yêu cầu cần phải có một thủ tục đơn giản hơn, thuận lợi, ít tốn kém hơn cho

những vụ án đơn giản, có chứng cứ rõ ràng.

Trên thế giới, t y thuộc lựa chọn của m i quốc gia mà thủ tục rút gọn có

thể là một hoặc bao gồm các cơ chế như cơ chế giải quyết khiếu kiện nh , cơ

chế hối thúc trả nợ và cơ chế giải quyết đối với séc và hối phiếu. Kinh nghiệm

nhiều quốc gia như M , Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Canada, Philippines,…)

trong giải quyết các vụ án dân sự cho thấy, những thủ tục tố tụng này là một

trong những công cụ hữu ích của người dân cũng như Tòa án trong việc bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức một cách nhanh gọn, hiệu

quả.

Sau hai lần trình xây dựng dự thảo các quy định về TTRG trong tố tụng

dân sự năm 2004 và 2011 không thành công, BLTTDS năm 2015 được Quốc

hội khóa XIII thông qua, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, có quy định

riêng tại Phần thứ tư về giải quyết vụ án dân sự theo TTRG. Đồng thời, ngày

21/6/2017, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá XIV đã thông qua Nghị quyết số

6

42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD; theo đó tại Điều 8

Nghị quyết này quy định rõ “Tòa án áp dụng TTRG để giải quyết tranh chấp

về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm hoặc tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo

đảm của khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức

mua bán, xử lý nợ xấu” khi đáp ứng đầy đủ một số điều kiện nhất định và việc

giải quyết những tranh chấp này được thực hiện theo TTRG quy định tại

BLTTDS.

Việc xử lý nợ xấu gắn với cơ cấu lại các TCTD là vấn đề nhức nhối của

xã hội, gây ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế đất nước nên được xác

định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm tại Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ XII và Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng

khóa XII. Tại các kỳ họp Quốc hội gần đây, vấn đề xử lý nợ xấu được đặt ra

cấp bách, đòi h i sự quan tâm vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị. Do vậy,

có thể nói những quy định mới của BLTTDS năm 2015, Nghị quyết số

42/2017/QH14 là tín hiệu đáng mừng cho việc nâng cao chất lượng giải quyết

tranh chấp HĐTD nói chung và giải quyết nợ xấu nói riêng. Tuy nhiên, thực

tiễn áp dụng những quy định này như thế nào? Tính ph hợp và khả thi của

những quy định về giải quyết vụ án dân sự theo TTRG đối với tranh chấp

HĐTD vẫn là điều gây nhiều nghi ngại. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Giải quyết

tranh chấp hợp đồng tín dụng theo thủ tục rút gọn tại Việt Nam” để thực hiện

Luận văn thạc s chuyên ngành Luật dân sự và tố tụng dân sự.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Hiện nay, TTRG giải quyết vụ án dân sự không phải là vấn đề mới ở

Việt Nam, tuy nhiên những nghiên cứu về vấn đề này cũng chưa có nhiều. Qua

nghiên cứu sơ bộ, có một số tác giả nghiên cứu về vấn đề này như: TS. Trần

nh Tuấn “Vấn đề xây dựng thủ tục TTDS rút gọn theo yêu cầu cải cách tự

pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, thực trạng và giải pháp”- Đề tài cấp

Bộ năm 2014; Ths.Trương Hòa Bình “Vấn đề áp dụng thủ tục rút gọn trong xét

xử và thành lập Tòa giản lược trong hệ thống Tòa án nhân dân”, Tạp chí

7

TAND kỳ II- tháng 2/2014; “Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về áp dụng

TTRG trong giải quyết một số loại vụ việc dân sự cụ thể và đề xuất mô hình

khả thi cho Tòa án Việt Nam”- Báo cáo của Dự án “Tăng cường tiếp cận công

lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam” - Chương trình phát triển Liên hợp quốc -

2015; “Đánh giá chức năng của các phương thức giải quyết tranh chấp kinh

doanh, thương mại ở Việt Nam hiện nay”, Báo cáo nghiên cứu của Văn phòng

Luật sư LE DCO - 2007;...

Có thể thấy những nghiên cứu trên đây đều ở thời điểm trước khi

BLTTDS năm 2015 được Quốc hội ban hành. Do vậy, đề tài “Giải quyết tranh

chấp hợp đồng tín dụng theo thủ tục rút gọn tại Việt Nam” không tr ng phạm

vi nghiên cứu với bất cứ nghiên cứu nào.

3. Mục tiêu nghiên cứu

3.1. Mục tiêu tổng quát

Trên cơ sở phân tích, đánh giá các quy định của BLTTDS năm 2015 về

giải quyết vụ án dân sự theo TTRG, tình hình áp dụng các quy định này tại các

Tòa án trong giải quyết vụ án dân sự, đặc biệt là đối với các vụ án liên quan

tranh chấp HĐTD, hiện trạng xử lý nợ bằng hình thức khởi tiện tại Tòa án của

các TCTD; từ đó đề xuất, kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện quy định pháp

luật về giải quyết vụ án dân sự theo TTRG, nâng cao hiệu quả giải quyết tranh

chấp HĐTD, xử lý nợ xấu của các TCTD.

3.2. Mục tiêu cụ thể

Với mục tiêu hướng đến là góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về

giải quyết vụ án dân sự theo TTRG, nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp

HĐTD, luận văn giải quyết những mục tiêu cụ thể sau:

- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về TTRG giải quyết vụ

án dân sự.

- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về giải

quyết vụ án dân sự theo TTRG, so sánh với quy định của một số

nước trên thế giới nhằm rút ra kinh nghiệm đối với Việt Nam.

8

- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về giải quyết

vụ án dân sự theo TTRG qua hoạt động xét xử của Tòa án nói chung

và qua hoạt động xử lý nợ bằng hình thức khởi kiện tại Tòa án của

các TCTD.

Qua đó, luận văn kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định

pháp luật về giải quyết vụ án dân sự theo TTRG nhằm nâng cao hiệu quả giải

quyết tranh chấp HĐTD, xử lý nợ xấu của các TCTD.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng

Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về TTRG giải quyết

các vụ án dân sự; nghiên cứu các quy định về giải quyết vụ án dân sự theo

TTRG dưới góc độ là một chế định của BLTTDS và thực tiễn áp dụng các quy

định đó tại Tòa án, các TCTD; kinh nghiệm của một số nước trên thế giới quy

định về TTRG giải quyết vụ án dân sự.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn có phạm vi nghiên cứu gồm:

- Những vấn đề lý luận về TTRG giải quyết các vụ án dân sự.

- Quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết vụ án dân sự theo

TTRG. Trong đó nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển quy định về

TTRG ở Việt Nam, tập trung chủ yếu quy định của BLTTDS năm 2015 và một

số văn bản luật có liên quan.

- Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới có quy định về TTRG giải

quyết vụ án dân sự.

- Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về giải quyết vụ án dân sự theo

TTRG qua hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và qua hoạt động xử lý nợ

bằng hình thức khởi kiện tại các TCTD.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn sử dụng phối hợp nhiều

phương pháp khác nhau như:

9

- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích các vấn

đề liên quan đến chế định giải quyết vụ án dân sự theo TTRG và khái quát

những nội dung cơ bản được nghiên cứu trong luận văn.

- Phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu về TTRG

giải quyết các vụ việc qua các thời kì ở Việt Nam.

- Phương pháp so sánh được thực hiện nhằm tìm hiểu quy định của pháp

luật hiện hành với hệ thống luật trước đây của Việt Nam cũng như pháp luật

của một số nước khác quy định về giải quyết vụ án dân sự theo TTRG.

- Phương pháp thống kê được thực hiện trong quá trình nghiên cứu thực

tiễn áp dụng quy định pháp luật về giải quyết vụ án dân sự theo TTRG; thực

tiễn xử lý nợ tại một số TCTD bằng hình thức khởi kiện tại Tòa án.

6. Tính mới và những đóng góp của đề tài

6.1. Tính mới của đề tài

Luận văn nghiên cứu quy định về giải quyết vụ án dân sự theo TTRG

dưới góc độ là một chế định của pháp luật tố tụng dân sự. Theo đó, đây là thủ

tục lần đầu tiên được quy định như một chế định mới tại BLTTDS năm 2015

nhằm giải quyết nhanh chóng, hiệu quả và tiết kiệm đối với một số loại vụ án

dân sự đơn giản, chứng cứ rõ ràng, đáp ứng những yêu cầu nhất định.

Luận văn tìm hiểu và khái quát thực tiễn áp dụng các quy định của

BLTTDS và một số văn bản luật có liên quan về việc giải quyết vụ án dân sự

theo TTRG tại Tòa án và qua thực tiễn hoạt động xử lý nợ bằng hình thức khởi

kiện tại Tòa án của các TCTD.

6.2. Những đóng góp của đề tài

Từ việc nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng nêu

trên, luận văn làm rõ những hạn chế, vướng mắc của quy định pháp luật về giải

quyết vụ án dân sự theo TTRG và đưa ra một số kiến nghị dưới cả góc độ lý

luận và thực tiễn nhằm hoàn thiện các quy định này, nâng cao hiệu quả giải

quyết tranh chấp HĐTD, xử lý nợ xấu của các TCTD.

7. Dự kiến kết quả nghiên cứu của đề tài

10

Với đề tài “Giải quyết tranh chấp HĐTD theo TTRG tại Việt Nam”,

luận văn dự kiến đạt được một số kết quả sau:

- Phân tích một số vấn đề lý luận về TTRG giải quyết

các vụ án dân sự: đưa ra khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa

của TTRG giải quyết các vụ việc dân sự

- Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế

giới có quy định về TTRG.

- Phân tích quy định về giải quyết vụ án dân sự theo

TTRG theo quy định của BLTTDS năm 2015.

- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định về giải

quyết vụ án dân sự theo TTRG thông qua hoạt động xét xử của

Tòa án và hiện trạng xử lý nợ của các TCTD; từ đó có những so

sánh, đánh giá và đề xuất góp phần hoàn thiện quy định về giải

quyết vụ án dân sự theo TTRG; qua đó nâng cao hiệu quả giải

quyết các tranh chấp HĐTD.

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục Tài liệu tham khảo, nội

dung của luận văn gồm ba chương như sau:

Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về TTRG giải quyết các vụ án dân sự

Chƣơng 2: Quy định của BLTTDS năm 2015 về thủ tục giải quyết vụ

án dân sự theo TTRG

Chƣơng 3: Thực tiễn áp dụng quy định về giải quyết vụ án dân sự theo

TTRG tại Tòa án, một số vấn đề qua hiện trạng xử lý nợ của các TCTD bằng

hình thức khởi kiện tại Tòa án và kiến nghị hoàn thiện quy định về giải quyết

11

vụ án dân sự theo TTRG

Chƣơng 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN

GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ

1.1. Khái niệm, cơ sở xây dựng chế định và đặc điểm

của thủ tục rút gọn theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam

1.1.1. Khái niệm thủ tục rút gọn

Hiện nay, trong hệ thống pháp luật của nhiều nước trên thế giới đều có

xây dựng và áp dụng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn để giải quyết một số loại vụ

án dân sự nhất định. Xét một cách khái quát thì tuy pháp luật m i nước có

những đặc th riêng nhưng nhìn chung TTRG trong tố tụng dân sự được hiểu

là một thủ tục đơn giản hơn thủ tục tố tụng thông thường về thành phần hội

đồng xét xử, về thời gian tiến hành tố tụng… đối với các vụ án có nội dung

tranh chấp tương đối rõ ràng, bị đơn đã thừa nhận hoặc không phản đối yêu

cầu của nguyên đơn, các vụ án có giá ngạch thấp hoặc do các bên đương sự lựa

chọn giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn.

Trong mối quan hệ giữa xét xử theo thủ tục tố tụng thông thường và thủ

tục xét xử theo TTRG thì thủ tục tố tụng dân sự thông thường là cơ sở cho việc

áp dụng giải quyết vụ án theo TTRG và TTRG là sự lược hoá một số bước của

thủ tục tố tụng thông thường. Tuy nhiên, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn không

phải là thủ tục phụ thuộc vào thủ tục tố tụng thông thường mà TTRG là một

thủ tục tố tụng độc lập tương đối so với thủ tục tố tụng thông thường. Tính độc

lập của thủ tục tố tụng rút gọn thể hiện trong trường hợp nếu các điều kiện xét

xử theo thủ tục tố tụng rút gọn không còn đáp ứng thì vụ việc vẫn có thể được

giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường.

Từ những phân tích trên, tác giả cho rằng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn

là một quy trình tố tụng riêng biệt được Tòa án áp dụng để giải quyết các tranh

12

chấp dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động có nội dung đơn giản, rõ ràng,

có giá ngạch thấp hoặc các bên đương sự thoả thuận lựa chọn thủ tục này.

Theo đó, trong một thời hạn ngắn ngắn, Thẩm phán độc lập tiến hành xem xét

và ra phán quyết về vụ án tranh chấp mà không nhất thiết phải tuân theo tuần

tự các bước như trong thủ tục tố tụng thông thường.

1.1.2. Cơ sở xây dựng chế định thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng

dân sự Việt Nam

Chế định TTRG trong BLTTDS năm 2015 ra đời xuất phát từ nhu cầu

nội tại của các điều kiện kinh tế – xã hội.

Thứ nhất, việc xây dựng TTRG xuất phát từ nhu cầu đảm bảo tính hiệu

quả của hệ thống tư pháp.

Hoạt động của hệ thống tư pháp, cũng giống như hoạt động của bất kỳ

một tổ chức nào trong xã hội, đều cần có tính hiệu quả. Tính hiệu quả của pháp

luật nói chung và hoạt động của hệ thống tư pháp nói riêng đã là đối tượng

nghiên cứu của triết lý kinh tế luật từ những năm 60 của thế kỷ trước [12,

tr15].

Theo trường phái này, hiệu quả của hoạt động xét xử không chỉ được

căn cứ vào khả năng giải quyết tốt các tranh chấp mà còn thể hiện ở hiệu quả

của các quy phạm pháp luật [13, tr89]. Xuất phát từ quan điểm việc phân tích

về trình tự, thủ tục pháp lý trong tố tụng cũng giống như việc nhà kinh doanh

tính toán về hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty mình [12, tr20], triết lý

kinh tế luật cho rằng mục đích của hệ thống tố tụng nhìn từ góc độ kinh tế học

là nhằm giảm thiểu rủi ro xảy ra các sơ suất trong quá trình xét xử và cả chi phí

để vận hành hệ thống đó nữa [23, tr517]. Do đó, việc xác định quy trình tố

tụng cần phải cân nhắc đến tính hài hòa giữa chi phí b ra để vận hành bộ máy

tố tụng với những lợi ích được bảo vệ nhờ sự hoạt động của bộ máy tố tụng

này.

Căn cứ vào lý thuyết này có thể thấy nếu một lượng nguồn lực xã hội

với nghĩa là các khoản tài chính, nhân lực, thời gian … được sử dụng vào một

13

mục đích đem lại kết quả có giá trị là mà c ng với lượng nguồn lực đó nếu

sử dụng vào mục đích khác đem lại giá trị là + lớn hơn thì như vậy là

nguồn lực này đã không được sử dụng một cách hiệu quả nhất, còn nếu trong

trường hợp có giá trị nh hơn lượng nguồn lực đã b ra thì đấy là sự lãng phí

nguồn lực xã hội. Trong việc xây dựng TTRG, sự so sánh này là giữa một bên

là những lợi ích không lớn cần phải bảo vệ và một bên là những hao tổn, chi

phí của nhà nước và đương sự nếu việc giải quyết vụ án phải trải qua nhiều

giai đoạn, nhiều cấp xét xử [14, tr37-42, tr38].

TTRG được xây dựng để giải quyết các vụ án có tình tiết đơn giản, rõ

ràng hoặc có giá trị tranh chấp thấp giúp tiết kiệm chi phí tố tụng. Thủ tục tố

tụng thông thường đảm bảo ở mức độ cao khả năng tìm kiếm và bảo vệ công lý

đối với các vụ án dân sự được áp dụng. Tuy nhiên, việc áp dụng thủ tục thông

thường đối với các vụ án đơn giản, rõ ràng, hoặc có giá trị tranh chấp thấp là

một sự lãng phí về thời gian và tiền do phải trải qua nhiều hoạt động tố tụng

không cần thiết hoặc thời gian tố tụng kéo dài. Việc áp dụng TTRG trong các

trường hợp này đảm bảo được tính ph hợp giữa nhu cầu giải quyết vụ án và

phương thức giải quyết vụ án, từ đó đảm bảo được hiệu quả của hoạt động tố

tụng.

Thứ hai, việc xây dựng TTRG xuất phát từ nhu cầu của quá trình xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một

phần tất yếu trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

ở Việt Nam hiện nay. Phát triển về kinh tế đòi h i những thay đổi tương ứng

trong các thiết chế xã hội để ph hợp với nó. Sự tăng trưởng kinh tế, gia tăng

các quan hệ KDTM đồng nghĩa với khả năng xảy ra các vụ án dân sự nói

chung, tranh chấp KDTM nói riêng, và pháp luật tố tụng dân sự, với vai trò là

một cơ chế giải quyết các vụ án dân sự theo nghĩa rộng, cần phải có những

thay đổi nhất định.

Thực tiễn xét xử trong những năm vừa qua cho thấy, c ng với sự phát

14

triển của nền kinh tế từ những năm sau đổi mới, các tranh chấp về dân sự,

KDTM diễn ra ngày càng nhiều về số lượng và phức tạp về nội dung. Các vụ

án dân sự mà T ND các cấp thụ lý đã tăng từ 223.228 vụ năm 2005 lên đến

395.415 vụ năm 2013 trong đó số lượng các vụ án T ND cấp sơ thẩm thụ lý

và giải quyết là rất lớn, thường chiếm trên 90% số lượng án giải quyết của toàn

hệ thống, c ng với đó là số lượng án còn tồn đọng của Tòa án các cấp cũng

còn nhiều [16, tr22].

Trong nền kinh tế thị trường, các yếu tố liên quan đến đầu vào của quá

trình sản xuất, kinh doanh như thời gian, vốn, sức lao động…luôn luôn trong

quá trình vận động để tạo ra giá trị thặng dư. Do đó, sự tự do lưu thông của các

yếu tố này đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của

yếu tố kinh tế trong một xã hội, vai trò này càng lớn hơn khi nền kinh tế đang

trên đà phát triển. Trong các vụ án dân sự, các yếu tố này có thuộc tính đang

tranh chấp, đang bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đảm bảo thi hành

án… nên chúng mất đi tính tự do lưu thông và hệ quả là cản trở sự phát triển

của nền kinh tế. Thời gian giải quyết tranh chấp càng dài, chủ thể có quyền, lợi

ích hợp pháp đối với các yếu tố đó càng bị thiệt hại bởi không khai thác được

tính kinh tế của chúng. Yếu tố thời gian trong giải quyết tranh chấp không chỉ

ảnh hưởng riêng đến các bên trong quan hệ KDTM mà còn ảnh hưởng đến cả

các bên trong quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng. Ví dụ không chỉ các

doanh nghiệp cần vốn cho hoạt động kinh doanh mà ngay cả cá nhân có quyền

sở hữu trí tuệ, có quyền sử dụng đất hoặc các tài sản khác cũng có thể đưa tài

sản đó vào hoạt động kinh doanh tạo ra giá trị thặng dư.

Như vậy, thời gian giải quyết tranh chấp ngắn là một trong những yêu

cầu quan trọng của quá trình phát triển kinh tế thị trường đặt ra đối với pháp

luật tố tụng dân sự. Chỉ khi có cơ chế giải quyết tranh chấp linh hoạt, mềm

dẻo, nhanh gọn thì mới có thể tạo được niềm tin cho các doanh nghiệp, doanh

nhân an tâm đầu tư, phát triển sản xuất [15]. Việc xây dựng TTRG trong tố

tụng dân sự, vì thế có ý nghĩa lớn trong việc giảm thời gian giải quyết tranh

15

chấp, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.

Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là xây dựng một nhà

nước trong đó quyền con người, quyền công dân được đề cao và bảo vệ. Một

trong số những nội dung của quyền công dân là quyền tiếp cận công lý và được

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Bằng việc áp dụng TTRG đối với vụ

án có tình tiết đơn giản, chứng cứ rõ ràng hoặc giá trị tranh chấp thấp, pháp

luật cho phép các bên được sử dụng các quy trình tố tụng nhanh gọn mà vẫn

đảm bảo mục đích của tố tụng. Tiết kiệm thời gian và chi phí cũng giúp các

bên đỡ e ngại khi sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp hợp pháp là Tòa án thay

vì sử dụng các phương pháp tiêu cực như bắt cóc, tống tiền, đòi nợ thuê… [16,

tr28]. Thủ tục nhanh chóng, đơn giản và ít tốn kém cũng làm giảm sự bất bình

đẳng giữa các bên có tiềm lực tài chính khác biệt, nhất là trong các vụ án liên

quan đến quyền của người tiêu d ng.

Thứ ba, việc xây dựng TTRG xuất phát từ tính đa dạng của các tranh

chấp trong thực tiễn đời sống xã hội.

Xu hướng chung của pháp luật tố tụng dân sự là quy định một cách chặt

chẽ các bước tiến hành tố tụng để đảm bảo bất kỳ một vụ án dân sự nào khi

được giải quyết bằng quy trình đó sẽ có khả năng cao nhất đạt được mục đích

của tố tụng dân sự là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các

bên đương sự. Tuy nhiên, thực tiễn các vụ án dân sự trong xã hội mang tính đa

dạng, có những tranh chấp phức tạp, nhiều quan hệ pháp luật dân sự chồng

chéo, nhiều chủ thể trong tranh chấp nhưng cũng có những tranh chấp đơn

giản, dễ dàng xác định các quan hệ pháp luật dân sự; có những vụ tranh chấp

nhiều nghìn tỷ đồng nhưng cũng có những tranh chấp chỉ vài trăm ngàn đồng,

có những tranh chấp mà các chứng cứ khó thu thập, cần phải giám định, định

giá nhưng có những vụ án mà các bên đều thống nhất về giá trị tranh chấp,

chứng cứ rõ ràng, đầy đủ…Việc áp dụng chung các vụ án dân sự với c ng một

thủ tục tố tụng, c ng thời gian giải quyết tranh chấp sẽ là không hợp lý bởi nhu

cầu giải quyết đối với từng loại vụ án là khác nhau.

16

Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự cho thấy có nhiều loại vụ việc có

nhu cầu giải quyết bằng một thủ tục đơn giản hơn so với thủ tục tố tụng thông

thường, gồm những vụ kiện có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng, các sự

kiện đã được xác định, không cần phải thu thập thêm chứng cứ hoặc có giá trị

tranh chấp thấp. Các loại việc này bao gồm: những vụ kiện mà các bên không

có tranh chấp về nghĩa vụ phải thực hiện nhưng bị đơn không chịu thực hiện

nghĩa vụ của mình; Những tranh chấp có chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, các sự kiện

đã được xác định, việc giải quyết tranh chấp không cần xác minh, thu thập

thêm chứng cứ; Những vụ kiện có giá trị tranh chấp thấp [16, tr30].

1.1.3. Đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục rút gọn

Một số đặc điểm của TTRG:

 TTRG chỉ áp dụng giải quyết những tranh

chấp có chứng cứ rõ ràng, nội dung tranh chấp đơn giản, tài

sản tranh chấp có giá trị không lớn…

 TTRG được giản lược một số thủ tục tố

tụng so với thủ tục TTDS thông thường.

 Thời gian giải quyết vụ án theo thủ tục

TTDS sẽ được rút ngắn hơn so với thời gian giải quyết theo

thủ tục tố tụng thông thường.

 TTRG chỉ do một Thẩm phán tiến hành

giải quyết.

 Áp dụng TTRG không phải tuân thủ tất

các nguyên tắc cơ bản được quy định trong Luật TTDS.

 Giải quyết vụ án theo TTRG sẽ giảm thiểu chi

phí cho Nhà nước và đương sự.

Ý nghĩa to lớn của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn nằm ngay trong

chính tên gọi của thủ tục này với mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho người

dân có thể tiếp cận công lý một cách nhanh chóng. Việc xây dựng thủ tục tố

17

tụng dân sự rút gọn có ý nghĩa không chỉ đối với các đương sự, Tòa án mà nó

còn có ý nghĩa xã hội rộng lớn và sâu sắc.

Thứ nhất, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn góp phần đáp ứng yêu cầu cải

cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế và là sự hiện thực hoá chiến lược cải

cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta.

Trong xu thế hội nhập nền kinh tế quốc tế hiện nay đòi h i các thủ tục

tố tụng nói chung và thủ tục tố tụng tư pháp dân sự nói riêng phải đáp ứng

được yêu cầu về sự mềm dẻo, linh hoạt, nhanh chóng, thuận tiện để giải quyết

kịp thời các tranh chấp phát sinh. Việc cải cách thủ tục tố tụng tư pháp, trong

đó có thủ tục tố tụng dân sự theo hướng trên sẽ góp phần thúc đẩy các giao lưu

kinh tế, thương mại, dân sự…phát triển mạnh mẽ. Pháp luật tố tụng dân sự

Việt Nam hiện hành chưa còn chưa thực sự mềm dẻo, linh hoạt, thời hạn giải

quyết tranh chấp còn kéo dài, phải trải qua nhiều khâu, nhiều bước nên chưa

thực sự đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp trong điều kiện hội nhập kinh tế

quốc tế. Do vậy, việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn với trình tự giải

quyết đơn giản đặc biệt là thời hạn giải quyết ngắn…sẽ đáp ứng được nhu cầu

hội nhập kinh tế quốc tế và hiện thực hoá chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020 mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.

Thứ hai, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn sẽ giảm đáng kể các chi phí tố

tụng cho đương sự và Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án. Thông thường

pháp luật các nước có quy định về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn đều quy định

án phí mà đương sự phải chịu là thấp hơn so với thủ tục tố tụng thông thường.

Bên cạnh đó, do các vụ án đơn giản, xét xử nhanh nên các chi phí đi lại, thuê

luật sư không phát sinh. Tòa án cũng không phải tiến hành tất cả các trình tự,

thủ tục để đưa vụ án ra xét xử mà gần như chỉ căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ

do các bên đương sự cung cấp. Vì vậy, các chi phí phát sinh như định giá,

thẩm định tại ch , thu thập tài liệu, chứng cứ cũng không phát sinh.

Thứ ba, trong thủ tục tố tụng dân sự rút gọn, thời gian để tiến hành tố

tụng được rút gắn đi rất nhiều lần so với thủ tục tố tụng dân sự thông thường.

18

Do vậy, quyền lợi hợp pháp của đương sự sẽ được bảo vệ một cách nhanh

chóng, kịp thời.

Xét về thực tế thì do các bước về thủ tục được giản lược nên Tòa án

sẽ giảm được tối đa các công việc không cần thiết, số lần đi lại để triệu tập

đương sự, người làm chứng, thu thập chứng cứ cũng theo đó mà giảm đáng kể,

thời hạn giải quyết vụ án sẽ không bị kéo dài một cách không cần thiết.

Thứ tư, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn đáp ứng yêu cầu về bảo đảm

quyền tiếp cận công lý của công dân, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa

án có thể nhanh chóng giải quyết vụ án. Đối với công dân thì thủ tục tố tụng

dân sự rút gọn sẽ tạo điều kiện thuận lợi để họ tiến hành khởi kiện và tham gia

tố tụng tại Tòa án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trong các vụ án

có nội dung tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng…thì cả nguyên đơn và bị

đơn không phải trải qua tất cả các thủ tục tố tụng như trong thủ tục thông

thường, mà chỉ tiến hành một số thủ tục luật định cần thiết cho việc giải quyết

vụ án.

Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là phương tiện để Thẩm phán có thể

chủ động và linh hoạt trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự vì họ

không phải thực hiện tất cả các trình tự, thủ tục như thủ tục tố tụng dân sự

thông thường. Ngoài ra, với đặc điểm của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là thời

gian giải quyết nhanh chóng, trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng đơn giản nên

thủ tục này sẽ là một phương tiện được người dân tin cậy trong việc sử dụng để

nhanh chóng bảo vệ quyền lợi của mình. Từ đó hạn chế được các hiện tượng

tiêu cực hiện nay như khiếu kiện kéo dài hoặc người dân thiếu tin tưởng vào

tính hiệu quả của hệ thống Tòa án nên đã tự mình hành xử bằng cách bắt nợ,

đòi nợ thuê dẫn đến gây mất trật tự xã hội và có thể phát sinh thành các tội

phạm hình sự.

Thứ năm, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn góp phần giảm áp lực công

việc cho cán bộ ngành Tòa án, đặc biệt là đối với Thẩm phán khi mà số lượng

các vụ án tranh chấp về dân sự, KDTM, LĐ, HNGĐ ngày một gia tăng. Trong

19

điều kiện không thể tăng biên chế Thẩm phán tương ứng với sự gia tăng số

lượng công việc và ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp thì việc xây dựng thủ tục

tố tụng dân sự rút gọn với một trình tự, thủ tục đơn giản, thời gian giải quyết

ngắn sẽ giúp cho các Thẩm phán nâng cao hiệu quả trong công tác xét xử, chủ

động giải quyết được số các vụ án có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng, giá

ngạch thấp. Do vậy, Thẩm phán sẽ có thời gian tập trung nghiên cứu, giải

quyết các vụ án có tính chất phức tạp đòi h i một trình tự, thủ tục tố tụng chặt

chẽ.

1.2. Mục đích, yêu cầu của việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục

tố tụng rút gọn

1.2.1. Mục đích của việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng

rút gọn

- Thể chế hóa nhiệm vụ mà Đảng và nhà nước

đã đặt ra, đó là phải đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp,

trong đó phải kể đến công cuộc cải cách thủ tục TTDS. Nhờ

cải cách thủ tục TTDS sẽ góp phần đẩy nhanh công cuộc

xây dựng nhà nước ta trở thành nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

- Tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trong

việc giải quyết các vụ án dân sự một cách nhanh chóng, kịp

thời

- Giảm gánh nặng cho ngành Tòa án trong việc

giải quyết các vụ án dân sự. Nhất là hiện nay khi lượng án

cần Tòa án giải quyết tăng nhanh về số lượng, vì vậy việc

giải quyết theo TTRG sẽ giúp Tòa án giải quyết vụ án có

tình tiết đơn giản, chứng cứ rõ ràng được nhanh chóng, đơn

giản. Từ đó sẽ giảm bớt gánh nặng về số lượng án cần giải

quyết và sẽ hạn chế tình trạng án tồn đọng để quá hạn luật

định.

20

- Việc giải quyết một số vụ án theo thủ tục này

cũng giúp tiết kiệm chi phí, công sức cho nhà nước và nhân

dân.

- TTRG phải bảo đảm được những mục đích cơ

bản của TTDS là phải đảm bảo được quyền và lợi ích hợp

pháp của công dân, đem lại công bằng cho xã hội, giải

quyết đúng pháp luật.

1.2.2 Yêu cầu của việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng rút

gọn

Quy định về thủ tục tố tụng TTDS rút gọn trong việc giải quyết các vụ

án dân sự cần phải đáp ứng được các yêu cầu sau:

- Phải đáp ứng yêu cầu về chiến lược cải cách tư pháp

và hội nhập kinh tế quốc tế.

- Phải đảm bảo tính nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm

được chi phí cho nhân dân và nhà nước.

- Phải đảm bảo tính khách quan, công bằng, đảm bảo

được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và đảm bảo đúng

quy định pháp luật.

- Phải đảm bảo tính linh hoạt, mềm dẻo của thủ tục

TTDS và hiệu quả khi áp dụng trong thực tế.

- Việc xây dựng TTRG phải đáp ứng yêu cầu về tính

chủ động và đề cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán.

1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của thủ tục rút gọn tại Việt

Nam

Trong lịch sử lập pháp Việt Nam thì cơ chế xét xử một lần, xét xử một

Thẩm phán đã từng tồn tại. Đây là tiền đề thực tiễn quan trọng cho việc xây

dựng TTRG. Thực tiễn tố tụng tại Tòa án cũng cho thấy trong số các vụ án mà

ngành Tòa án thụ lý giải quyết hàng năm có không ít những vụ án có nội dung

đơn giản, chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận yêu cầu hoặc không phản đối yêu

21

cầu của nguyên đơn, vụ án tranh chấp có giá trị tài sản không lớn. Tuy nhiên,

do thiếu vắng TTRG trong pháp luật nên các Tòa án vẫn phải tiến hành giải

quyết theo thủ tục thông thường gây mất thời gian, tổn thất về tiền bạc, công

sức của cơ quan tiến hành tố tụng và của các đương sự.

* Thời kỳ 1945 -1959

Cách mạng tháng tám thành công mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch

sư dân tộc Việt Nam, lập lên nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà một nhà

nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngay sau ngày độc lập, để ổn định

tình hình kinh tế chính trị, củng cố chính quyền và đáp ứng những đòi h i mới

của đời sống dân sự, Đảng và Bác Hồ đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp

luật mới. Trong đó, các văn bản về xây dựng hệ thống tư pháp mới và thủ tục

tố tụng thì đáng chú ý là Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về “Tổ chức các

Tòa án và ngạch Thẩm phán”; Sắc lệnh 51/SL ngày 17/04/1946 về “Ấn định

thẩm quyền các Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án”; Sắc

lệnh số 112/SL ngày 28/6/1946 bổ khuyết sắc lệnh 51; Sắc Lệnh 185/SL ngày

26/5/1948 “Ấn định thẩm quyền các Tòa án sơ cấp và đệ nhị cấp”; Sắc lệnh số

88/SL ngày 02/8/1949 “Về quyền ban tư pháp xã”; Sắc lệnh 85/SL ngày

22/6/1950 “Về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng”.

Tại Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 thẩm quyền Tòa án các cấp căn cứ

theo giá ngạch được quy định một cách chi tiết. Tại Điều thứ 6 Sắc lệnh này

quy định về dân sự và thương sự Tòa án sơ cấp có thẩm quyền xét xử:

A. Chung thẩm:

1. Những việc kiện dân sự, thương sự về động sản mà giá ngạch do

nguyên đơn định không quá 150 đồng.

2. Những việc kiện về các khoản lệ phí đã phát sinh ra trước Tòa án ấy

không có giá ngạch nào.

B. Sơ thẩm:

Những việc dân sự hay thương sự về động sản mà giá ngạch do nguyên

đơn định trên 150 đồng nhưng dưới 450 đồng.

22

Theo quy định tại Điều thứ 11 Sắc lệnh 51/SL thì về dân sự và thương

sự Tòa án đệ nhị cấp có quyền xét xử:

A. Chung thẩm

1. Những án của toà sơ cấp bị kháng cáo

2. Những việc kiện về bất động sản mà giá ngạch theo thời giá hôm khởi

tố.

3. Những việc kiện về động sản mà giá ngạch trên 450 đồng nhưng dưới

750 đồng.

B. Sơ thẩm:

1. Những việc kiện về bất động sản mà giá ngạch theo thời giá hôm khởi

tố hay theo văn tự trên 150 đồng;

2. Những việc kiện về động sản mà giá ngạch trên 750 đồng;

3. Những việc kiện không thể định trước được giá ngạch;

4. Những việc kiện không cứ giá ngạch là bao nhiêu mà phải có án nghị

về thẩm quyền;

5. Những việc kiện có quan hệ đến thân phận hay căn cước của người

hoặc vấn đề tế tự.

Như vậy Sắc lệnh 51 đã quy định về cơ chế xét xử sơ thẩm và chung

thẩm về dân sự. Xét xử chung thẩm được hiểu theo hai hướng đó là xét xử các

bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị

(ngày nay gọi là xét xử phúc thẩm), và chung thẩm còn được hiểu là xét xử chỉ

một lần đối với các việc dân sự hay thương sự mà bản án có hiệu lực pháp luật

ngay cơ chế xét xử một lần). Cơ chế xét xử một lần được áp dụng cả ở Tòa án

sơ cấp và Tòa án đệ nhị cấp áp dụng cho các vụ án mà đối tượng tranh chấp là

những tài sản có giá trị nh định theo giá ngạch).

Cơ chế xét xử một lần tiếp tục được quy định tại Nghị định số 32/NĐ

ngày 06/4/1952 của Bộ Tư Pháp “Các Tòa án cấp huyện có thẩm quyền chung

thẩm các việc kiện dân sự về động sản có giá ngạch không quá 60 kg gạo và

các Tòa án nhân dân cấp tỉnh xử chung thẩm các việc kiện về bất động sản mà

23

giá ngạch không quá 60 kg gạo…”. Tại Thông tư số 4013/TTC ngày

09/5/1959 của Bộ Tư Pháp và Thông tư liên bộ Tư Pháp – Tòa án nhân dân tối

cao số 93/TC ngày 11/11/1959 cũng quy định các Tòa án cấp huyện có “quyền

xét xử chung thẩm các việc kiện dân sự mà giá ngạch không quá 60 đồng

không phân biệt động sản hay bất động sản”.

* Thời kỳ 1960 -1989

– Giai đoạn 1960 – 1980

Sau khi ban hành Hiến pháp năm 1959, ngày 17/4/1960 Quốc hội nước

Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã thông qua luật Tổ chức Tòa án nhân dân,

việc ban hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân đã đánh dấu một bước ngoặt lớn

trong ngành tư pháp nói chung và trong pháp luật tố tụng dân sự nói riêng.

Theo quy định của Hiến Pháp năm 1959 và Luật tổ chức Tòa án nhân

dân đầu năm 1960 quy định: “Tòa án nhân dân thực hành chế độ hai cấp xét

xử…”, thủ tục xét xử chung thẩm trong tố tụng dân sự đã được bãi b . Tuy

nhiên, vẫn còn quy định một ngoại lệ tại Điều 12 Luật tổ chức Tòa án nhân dân

“Khi sơ thẩm, Tòa án nhân dân gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân

dân; trường hợp xử những vụ án nh , giản đơn và không quan trọng thì Tòa án

nhân dân có thể xét xử không có Hội thẩm nhân dân” .

Bên cạnh đó, trong giai đoạn này còn quy định Tòa án xét xử bút lục ở

trình tự phúc thẩm bên cạnh đó trong giai đoạn này còn quy định Tòa án xét xử

theo bút lục ở trình tự phúc thẩm "Xét xử bút lục là Hội đồng xét xử căn cứ

những tài liệu có trong hồ sơ vụ án, mà những tài liệu này đã được Tòa án cấp

sơ thẩm đánh giá đầy đủ nên phiên toà sơ thẩm không cần triệu tập các đương

sự, chỉ cần có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp". Việc xét xử

bút lục ở giai đoạn phúc thẩm đối với vụ án dân sự được hướng dẫn tại Thông

tư 132/NCPL ngày 28/8/1972 khi đáp ứng các điều kiện nội dung vụ án rõ

ràng, chứng cứ đầy đủ, khả năng hoà giải không còn, bản án sơ thẩm đã xét xử

đúng pháp luật, hướng xét xử của Toà phúc thẩm cũng là y án sơ thẩm. Như

vậy xét xử theo bút lục ở giai đoạn phúc thẩm thời kỳ này đã chứa đựng những

24

yếu tố, nhân tố của TTRG.

– Giai đoạn 1981 – 1989

Ngày 25/4/1976, sau khi giải phóng hoàn toàn Miền Nam, nhân dân ta

đã bầu ra Quốc hội của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đến

ngày 18/12/1980, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp mới. Trên cơ sở Hiến

pháp năm 1980, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981, luật sửa đổi và bổ

sung Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1988 được ban hành.

Theo các văn bản tố tụng từ năm 1980 đến trước khi ban hành Pháp lệnh

thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989 thì việc xét xử vẫn được thực hiện

theo hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm, đồng thời trong các văn bản pháp luật cơ

chế xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm vẫn được quy định. Tại Điều 21 Luật

tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 và Điều 27 Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ

chức Tòa án nhân dân năm 1988, thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung thẩm

thuộc về Tòa án nhân dân Tối cao.

* Thời kỳ 1989 đến nay

- Giai đoạn 1989 đến 2004

Từ sau Đại hội đảng toàn quốc năm 1986, đất nước bước vảo thời kỳ đổi

mới toàn diện theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá thực hiện phát triển nền

kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày 29/11/1989 Hội

đồng nhà nước đã thông qua Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự có

hiệu lực thi hành ngày 01/01/1990. Đây là văn bản pháp luật có hiệu lực pháp

lý cao nhất từ trước đến nay, tạo ra một hành lang những chuẩn mực nhất định

điều chỉnh các quan hệ tố tụng dân sự, đánh dấu một bước tiến mới trong quá

trình phát triển của pháp luật tố tụng dân sự. Tại Điều 66 của pháp lệnh quy

định: Hội đồng xét xử phúc thẩm không phải mở phiên toà trong các trường

hợp sau:

1. Xét kháng cáo quá hạn.

2. Xét kháng cáo, kháng nghị về án phí.

3. Xét kháng cáo, kháng nghị những quyết định của Tòa án

25

Tại Nghị quyết số 03-NQ/HNTW ngày 18/6/1997 Hội nghị lần thứ 3

Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, Đảng ta đã chỉ rõ “nghiên cứu áp

dụng TTRG để xét xử kịp thời một số vụ án đơn giản, rõ ràng”. Thực hiện mục

tiêu đó, tại Dự thảo BLTTDS năm 2004 các nhà nghiên cứu lập pháp đã xây

dựng TTRG tại chương XV gồm 07 Điều (từ Điều 234 đến 243). Cho tới dự

thảo VIII thì phạm vi áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn bị thu hẹp còn 03 Điều

(từ Điều 267 đến 269) tại chương XV với tên gọi thủ tục thanh toán nợ. Tuy

nhiên cho tới dự thảo X và XI thì TTRG không còn tồn tại nữa.

- Giai đoạn 2004 đến 2015

BLTTDS đã được Quốc Hội thông qua ngày 15/6/2004. Đây là một

thành tựu quan trọng để giải quyết các tranh chấp phát sinh. Qua nghiên cứu

cho thấy BLTTDS đã có một bước đột phá là đã xây dựng được thủ tục giải

quyết việc dân sự trong Bộ luật này. Theo đó, việc dân sự sẽ sẽ do một Thẩm

phán hoặc hội đồng gồm 03 Thẩm phán với một thời hạn giải quyết ngắn…và

phán quyết của Tòa án vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc

thẩm…tuy nhiên, thì thủ tục giải quyết việc dân sự không phải là một TTRG

theo đúng nghĩa của nó.

Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 trong đó có nội dung: “Xây dựng cơ

chế xét xử theo TTRG đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”.

Vấn đề trên không được xây dựng trong luật chung (luật tố tụng) mà lại

được quy định ở luật chuyên ngành. Khoản 2 Điều 41 Luật Bảo vệ quyền lợi

người tiêu d ng năm 2010 quy định, vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người

tiêu d ng được giải quyết theo thủ tục đơn giản quy định trong pháp luật về tố

tụng dân sự khi có đủ các điều kiện sau đây:

“a) Cá nhân là người tiêu dùng khởi kiện; tổ chức, cá nhân trực tiếp cung

cấp hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng bị khởi kiện;

b) Vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng;

c) Giá trị giao dịch dưới 100 triệu đồng”.

26

Và BLTTDS năm 2004, được sửa đổi, bổ sung năm 2011 vẫn chưa “cho

phép” Tòa án được xét xử theo thủ tục đặc biệt này.

Như vậy, những tiền đề về cơ chế xét xử một lần, thẩm quyền độc lập

của Thẩm phán trong pháp luật và quá trình xây dựng TTRG ở Việt Nam đã

cho chúng ta có một cái nhìn thấu đáo hơn về bản chất của loại hình TTRG

này.

Như vậy, có thể nói rằng các quy định về cơ chế xét xử một Thẩm phán

và xét xử một lần trong lịch sử pháp luật tố tụng dân sự là cơ sở thực tiễn của

việc xây dựng TTRG.

1.4. Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo pháp luật của một số nƣớc

trên thế giới

Trên thế giới, bên cạnh thủ tục tố tụng thông thường, nhiều nước đã

xây dựng thủ tục tố tụng rút gọn summary procedure) để áp dụng xử lý những

vi phạm pháp luật nh , giải quyết những tranh chấp, khiếu kiện có giá trị thấp,

những vụ việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động

của Tòa án, khắc phục nhanh chóng những vấn đề nảy sinh trong xã hội, tiết

kiệm thời gian, vật chất cho Tòa án và các đương sự, không làm trầm trọng

thêm những vụ việc, có thể giải quyết nhanh, theo trình tự đơn giản, góp phần

ổn định xã hội.

1.4.1. Thủ tục tố tụng rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự Pháp

Hệ thống Tòa án tư pháp của Pháp hiện nay được tổ chức và hoạt

động theo tinh thần của Hiến pháp năm 1958 và Luật về tổ chức Tòa án tư

pháp. Theo đó, thẩm quyền giải quyết các vụ án đơn giản, những tranh chấp

nh được giao cho Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp. Cơ cấu tổ chức của hệ

thống Tòa án Pháp hiện có 476 Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp bên cạnh 185

Tòa án sơ thẩm thẩm quyền chung.

Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp chuyên xét xử các vụ án dân sự nh ,

có giá trị tranh chấp không vượt quá 10.000 EUR (các vụ án tranh chấp về hợp

đồng thuê nhà ở, giải quyết yêu cầu giám hộ, kê biên đối với tiền lương,

27

thưởng …). Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp xét xử vụ án bằng một Thẩm phán

duy nhất và các bên tham gia tố tụng không nhất thiết phải có luật sư.

Tại Tòa sơ thẩm thẩm quyền hẹp có thủ tục xét xử rút gọn để áp dụng

giải quyết đối với các vụ án có giá trị tranh chấp không vượt quá 4.000 EUR

tương đương 115 triệu đồng Việt Nam). Theo thủ tục này, người tham gia giải

quyết các vụ án không phải là Thẩm phán chuyên trách mà là các Thẩm phán

được tuyển chọn từ những người có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực

pháp luật, làm việc tại Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp. Những Thẩm phán này

không hưởng lương từ ngân sách nhà nước, được bổ nhiệm với nhiệm kỳ 7

năm và không được tái nhiệm.

Trong cơ cấu tổ chức của Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp có Tòa vi

cảnh (Tribunal de Police) có thẩm quyền xét xử các tội vi cảnh, những vi phạm

hình sự nh . Việc xét xử loại tội này của Tòa vi cảnh do 1 Thẩm phán tiến

hành.

1.4.2. Thủ tục ra lệnh thanh toán nợ theo pháp luật tố tụng dân sự

Nga

Trong pháp luật tố tụng dân sự Nga chỉ quy định một thủ tục chung là

thủ tục ra lệnh (ban hành quyết định). Theo Điều 121 BLTTDS Nga thì lệnh

của Tòa án – quyết định của Tòa án do một Thẩm phán ban hành dựa trên yêu

cầu đòi nợ hoặc đòi lại tài sản khi có đủ căn cứ theo quy định của pháp luật

Nga. Điều 121 BLTTDS Nga quy định Tòa án cấp lệnh, nếu:

Yêu cầu căn cứ vào giao dịch đã được công chứng; -

Yêu cầu căn cứ vào giao dịch được thực hiện dưới -

hình thức văn bản viết không cần công chứng, chứng thực;

Yêu cầu đòi tiền cấp dưỡng cho trẻ chưa thành niên -

không liên quan đến việc xác định cha, mẹ hoặc không liên quan

đến việc phải triệu tập thêm người khác;

Yêu cầu công dân nộp khoản thuế bị thất thu hoặc -

nộp những khoản tiền bắt buộc khác;

28

Yêu cầu đòi khoản tiền lương đã được chấm công -

nhưng chưa được trả người lao động.

- Yêu cầu của các cơ quan công an, cơ quan thuế vụ,

cơ quan thừa phát lại đòi hoàn trả chi phí cho việc tìm kiếm bị

đơn, người có nghĩa vụ và tài sản của người đó, hoặc chi phí cho

việc tìm kiếm trẻ em bị người có nghĩa vụ đem đi mất, hoặc chi

phí liên quan đến việc bảo quản tài sản của người có nghĩa vụ bị

thu giữ và bảo quản tài sản của người có nghĩa vụ khi bị buộc

chuyển đi nơi ở khác.

Về thủ tục ra lệnh thanh toán, theo quy định tại Điều 126 BLTTDS

Nga thì lệnh thanh toán được ban hành trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày thụ

lý đơn yêu cầu mà không cần phải mở phiên toà xét xử và không phải triệu tập

các bên để nghe lời giải thích của họ. Sau khi ra lệnh, Thẩm phán gửi bản sao

lệnh của Tòa án cho người có nghĩa vụ thi hành. Người có nghĩa vụ có quyền

phản đối trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận bản sao. Nếu người có nghĩa

vụ phản đối trong thời hạn luật định, Thẩm phán huỷ b lệnh của Tòa án.

Trong trường hợp hết thời hạn luật định mà người có nghĩa vụ không phản đối,

Tòa án chuyển cho người yêu cầu bản thứ hai lệnh của Tòa án để đưa ra thi

hành Điều 128, 129, 130 BLTTDS Nga).

1.4.3. Thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự Nhật Bản

Thẩm quyền giải quyết các vụ việc theo TTRG ở Nhật Bản được giao

cho Tòa án giản lược thực hiện. Hiện tại, Nhật Bản có 438 Tòa án giản lược

được thành lập ở các thành phố, thị trấn. Tòa giản lược có thẩm quyền xét xử

các vụ án dân sự có giá trị tranh chấp dưới 1.400.000 Yên tương đương 300

triệu đồng Việt Nam) và các vụ án hình sự nh , có mức hình phạt là phạt tiền

hoặc các hình phạt không nghiêm trọng. Theo nguyên tắc chung, Tòa án giản

lược không có thẩm quyền quyết định các hình phạt tù không lao động hoặc

các hình phạt tù nghiêm khắc hơn. Khi xác định hình phạt đối với bị cáo trong

vụ án có thể vượt quá khung hình phạt cho phép thì Tòa án giản lược chuyển

29

vụ án cho Tòa án sơ thẩm giải quyết.

Tòa án giản lược ở các thành phố lớn, nơi có các Tòa sơ thẩm thường

có một số Thẩm phán; ở những v ng ít dân cư thì chỉ có 1 Thẩm phán.

Thẩm phán của Tòa án giản lược phải là người đã qua 2 năm làm Phụ

thẩm, Công tố hoặc Luật sư. Tuy nhiên, người không được đào tạo về luật

nhưng có năng lực cũng có thể được bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án giản

lược.

Theo quy định của Luật Tòa án Nhật Bản, thì tại Tòa án giản lược,

các vụ án đều do 1 Thẩm phán xét xử; tính chất đơn giản trong tố tụng giản

lược được phản ánh trong các quy định của pháp luật tố tụng như: thủ tục khởi

kiện bằng miệng, thủ tục triệu tập được đơn giản hóa, biên bản xét xử đơn giản

và bản án ngắn gọn hơn các bản án của Tòa án thông thường. Chức năng hành

chính tại Tòa án giản lược do chính Thẩm phán thực hiện. Việc bổ nhiệm,

miễn nhiệm các công chức của Tòa án giản lược thuộc thẩm quyền của Tòa án

sơ thẩm.

1.4.4. Thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự Cộng hoà

nhân dân Trung Hoa

Hệ thống Tòa án Trung Quốc được tổ chức theo 4 cấp là: TAND tối

cao, TAND cấp cao, TAND trung cấp và TAND sơ cấp. Hiện tại, Trung Quốc

có hơn 10.000 TAND sơ cấp – Cấp Tòa án thấp nhất trong hệ thống Tòa án, có

thẩm quyền xét xử hầu hết các vụ án theo thủ tục sơ thẩm (trừ một số ít vụ án

quan trọng thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án cấp trên). Tại TAND

sơ cấp, TTRG được áp dụng đối với một số vụ án cụ thể trong cả lĩnh vực hình

sự và dân sự.

Theo quy định tại Điều 141 của BLTTDS Trung Quốc, thì việc xác

định vụ án được xét xử theo TTRG căn cứ vào ba tiêu chí như sau:

(1) Tranh chấp giữa các đương sự có sự thật rõ ràng mà hai bên đương

sự cơ bản nhất trí, chứng cứ đưa ra rõ ràng. Tòa án không cần phải tiến hành

công việc điều tra, thu thập chứng cứ mà vẫn có thể làm rõ được sự thật, đúng

30

sai của vụ án;

(2) Quan hệ pháp luật về tranh chấp giữa các bên đã rõ về việc bên

nào được hưởng quyền lợi, bên nào phải gánh vác nghĩa vụ. Đồng thời quan hệ

pháp luật về việc giải quyết tranh chấp đó cũng đã được quy định tương đối rõ

ràng;

(3) Tranh chấp mà hai bên không có bất đồng lớn về đúng sai, trách

nhiệm của các bên trong vụ án và các khoản chi phí tố tụng.

Điểm đặc biệt của TTRG trong tố tụng dân sự của Trung Quốc là việc

khởi kiện có thể thực hiện bằng miệng. Hai bên đương sự đồng thời đến Tòa án

để đề nghị giải quyết tranh chấp. Tùy từng trường hợp, TAND có thể xét xử

ngay hoặc có thể ấn định một ngày khác để xét xử. Tòa án có thể thông báo

bằng miệng hoặc bằng văn bản cho đương sự về nội dung khởi kiện mà không

cần phải tiến hành các thủ tục thông báo chính thức như đối với thủ tục thông

thường. Tòa án có thể sử dụng phương thức đơn giản để truyền gọi đương sự,

nhân chứng. Việc xét xử theo TTRG do một Thẩm phán tiến hành, không nhất

thiết phải tuân thủ lần lượt các trình tự, thủ tục mà có thể linh hoạt. Thời hạn

để Tòa án giải quyết vụ án theo TTRG phải kết thúc trong thời hạn 3 tháng kể

từ ngày lập án.

Ngoài ra, TTRG còn được quy định trong pháp luật tố tụng dân sự của

một số nước Châu Á khác như: Đài Loan, Thái Lan, Singapore…

1.5. Một số vấn đề lý luận về tranh chấp Hợp đồng tín dụng và giải

quyết tranh chấp Hợp đồng tín dụng theo thủ tục rút gọn

1.5.1. Khái niệm tranh chấp về Hợp đồng tín dụng

Vì tranh chấp HĐTD cũng là một loại tranh chấp hợp đồng nói chung,

do đó có đầy đủ những đặc điểm vốn có của một tranh chấp hợp đồng. Tuy

nhiên, với bản chất đặc th của HĐTD, tranh chấp HĐTD mang một số đặc

trưng riêng biệt để có thể phân biệt với các loại tranh chấp hợp đồng khác.

Giá trị của tranh chấp HĐTD thường có giá trị lớn hoặc thậm chí là rất

lớn: Khi ký kết HĐTD thì thường là do bên đi vay có nhu cầu về vốn mà

31

không thể tự mình xoay xở được. Nhu cầu đó thường là để bổ sung vốn kinh

doanh đối với tổ chức hoặc vay để phát triển kinh tế đối với cá nhân, hộ gia

đình. Do đó, số tiền này không phải là nh và dễ dàng vay được từ các tổ chức,

cá nhân ngoài xã hội mà không phải là ngân hàng.

Về phía bên cho vay là ngân hàng, bên cạnh vai trò là chủ thể cung ứng

vốn cho nền kinh tế thì TCTD còn đóng vai trò là người đi vay của các chủ thể

khác để cho vay lại. Để đạt được lợi nhuận cao thì các TCTD thường kí kết các

HĐTD có giá trị lớn dựa trên định giá tài sản đảm bảo tại thời điểm cho vay.

Do bên vay vốn d ng khoản vay này phần lớn để đầu tư cho hoạt động sản

xuất kinh doanh nên nếu bên vay không tuân thủ các cam kết trong hợp đồng,

không trả nợ cho các TCTD sẽ làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của TCTD

đó. Thực tế không hiếm các trường hợp các TCTD lâm vào tình trạng mất khả

năng chi trả do “nợ xấu”. Một khi khách hàng vay không thể thanh toán được

nợ, tranh chấp xảy ra thì TCTD sẽ là chủ thể bị thiệt hại lớn vì nguồn vốn bị ứ

đọng, phải thực hiện các biện pháp khắc phục, mục đích lợi nhuận ban đầu

không còn hoặc bị gián đoạn. Đặc biệt, nếu tranh chấp HĐTD phải khởi kiện

tại Tòa án thì càng gây khó khăn cho TCTD khi muốn thu hồi vốn. Bởi khi đã

bị khởi kiện tại Tòa án thì thường là người đi vay không còn có khả năng trả

nợ cho TCTD. Mặt khác, khi tranh chấp HĐTD xảy ra thì TCTD sẽ mất lòng

tin với khách hàng vay vốn, các HĐTD tiếp theo sẽ khó mà thực hiện, kể cả

khi bên đi vay chứng minh lại được khả năng tài chính của mình.

Bên cạnh đó, tranh chấp HĐTD được giải quyết dựa trên nguyên tắc tự

do th a thuận trong khuôn khổ pháp luật của các bên tham gia tranh chấp.

HĐTD về bản chất là hợp đồng dân sự mà quan hệ dân sự là quan hệ mang

tính th a thuận, tự định đoạt giữa các bên. Do đó, kể cả đối với việc giải quyết

tranh chấp phát sinh từ HĐTD thì các bên cũng có quyền th a thuận để đạt

được hiệu quả tối ưu nhất trong trường hợp có tranh chấp xảy ra. Việc tôn

trọng quyền định đoạt này có ý nghĩa vô c ng quan trọng vì quan hệ dân sự

giữa các bên mang tính bình đẳng, không phải là mối quan hệ mệnh lệnh -

32

phục t ng như các quan hệ hành chính nhà nước khác. Khi các bên tham gia

tranh chấp có thể th a thuận được với nhau thì việc giải quyết tranh chấp sẽ

diễn ra nhanh chóng, thuận lợi hơn, đồng thời giảm thiểu được thiệt hại về thời

gian, tiền bạc, công sức của các bên. Về phía các cơ quan tài phán, thi hành án

thì việc th a thuận này cũng có ý nghĩa trong việc giảm nhẹ khối lượng, áp lực

công việc trong điều kiện các tranh chấp ngày càng xảy ra nhiều và phức tạp

như hiện nay.

Đặc biệt, vấn đề th a thuận về phương thức giải quyết tranh chấp đối với

các TCTD là ngân hàng nước ngoài, ngân hàng nước ngoài có vai trò quan

trọng hơn bao giờ hết. Bởi các chủ thể này khác với các TCTD trong nước,

chịu sự điều chỉnh của cả pháp luật nước ngoài lẫn pháp luật Việt Nam và sự

khác nhau trong quy định của pháp luật giữa Việt Nam và nước khác là điều

không thể tránh kh i. Vì vậy, việc cho phép, tôn trọng quyền tự th a thuận của

các bên khi có tranh chấp xảy ra sẽ giảm thiểu tối đa những xung đột pháp luật

có thể xảy ra trong quá trình giải quyết các tranh chấp. Tuy nhiên, nguyên tắc

đối với các th a thuận này là phải ph hợp với các quy định của pháp luật Việt

Nam.

Ngoài ra, tranh chấp HĐTD luôn có sự tham gia của một bên là TCTD

và phần lớn các tranh chấp HĐTD thì nguyên đơn là TCTD cho vay, bị đơn là

bên đi vay. Với đặc th của hoạt động tín dụng là sự cung ứng nguồn vốn đến

những tổ chức, cá nhân có nhu cầu về vốn trên cơ sở huy động của các tổ chức,

cá nhân có thừa nguồn vốn trong xã hội nên TCTD luôn đóng vai trò trung

gian trong mối quan hệ này. Sự tham gia của TCTD là một dấu hiệu đặc trưng

nhằm phân biệt giữa tranh chấp HĐTD và tranh chấp hợp đồng vay tài sản

thông thường giữa các tổ chức, cá nhân khác mà không phải là TCTD.

Đồng thời, về mặt lý thuyết, khi tham gia ký kết HĐTD, các TCTD và

khách hàng có địa vị ngang bằng nhau tham gia th a thuận. Nhưng với tư cách

là chủ thể có nguồn vốn dồi dào, việc áp đặt các điều kiện cho vay đối với

khách hàng là điều không hiếm xảy ra. Hơn nữa, khi tham gia kí kết hợp đồng

33

thì hợp đồng thường do bên cho vay là các TCTD soạn thảo với đội ngũ cán bộ

có trình độ chuyên môn về mặt pháp lý nhất định. Trong khi đó, chủ thể đi vay

là khách hàng thường là các tổ chức, cá nhân, trình độ chuyên môn về mặt

pháp lý của họ còn thấp và nhiều khi không được chú trọng đúng mức. Và như

vậy là hợp đồng được kí kết với các điều khoản chặt chẽ nhằm bảo đảm cho

quyền lợi của TCTD khi bên vay không trả nợ hay trả không đúng nghĩa vụ.

Do đó, khi tranh chấp xảy ra thì TCTD luôn nắm đằng chuôi với các điều

khoản được ghi nhận một cách chặt chẽ, rõ ràng trong hợp đồng được sự đồng

thuận của cả hai bên. Vì vậy, nếu có tranh chấp xảy ra thì là do bên đi vay vi

phạm, chứ ít khi TCTD lại vi phạm chính những điều khoản do chính mình

soạn thảo.

Mặt khác, trong mối quan hệ HĐTD, các nghĩa vụ chính của bên đi vay

thường phát sinh sau thời điểm giải ngân. Trong khi đó, tại thời điểm hoàn tất

việc giải ngân cho khách hàng thì TCTD đã hoàn thành các nghĩa vụ của mình.

Các nghĩa vụ khác của bên cho vay như bảo mật thông tin, lưu trữ hồ sơ tín

dụng, nghĩa vụ thông báo, bảo quản tài sản bảo đảm, giải chấp tài sản đảm

bảo... là ít quan trọng và là nghĩa vụ phát sinh từ quyền của bên vay. Vì lý do

đó nên nếu có tranh chấp xảy ra thì thường là do bên vay vi phạm nghĩa vụ của

mình, rất hiếm gặp trường hợp bên đi vay khởi kiện TCTD.

Song, đa phần các tranh chấp liên quan đến HĐTD chính là các tranh

chấp liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả vốn, lãi của bên vay cho

TCTD, về mức lãi suất vay, về vấn đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong

HĐTD. Có rất nhiều loại tranh chấp phát sinh từ HĐTD như: Tranh chấp về

chủ thể xác lập, thực hiện HĐTD, tranh chấp liên quan đến bảo lãnh vay vốn,

tranh chấp liên quan đến mục đích sử dụng vốn vay... Tuy nhiên, tranh chấp

xảy ra nhiều nhất là tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi, về

mức lãi suất vay, về vấn đề bảo đảm. Sở dĩ như vậy bởi vì, những nghĩa vụ này

đóng vai trò nòng cốt trong quá trình thực hiện HĐTD của các bên và việc

thực hiện này có tác động trực tiếp đến quyền lợi của TCTD. Các tranh chấp

34

khác cũng có tác động đến các TCTD nhưng không phải là cơ bản nên ít xảy ra

hơn so với tranh chấp về nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi hay tranh chấp về lãi

suất, về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

Hơn nữa, tranh chấp HĐTD thường là tiền đề làm phát sinh và gắn liền

với một quan hệ hợp đồng khác: Hợp đồng bảo đảm tiền vay thông qua hình

thức cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Các TCTD khi tham gia

vào HĐTD đều có mục đích lợi nhuận từ việc cho vay đó vì bản chất của

TCTD là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Để giảm thiểu rủi ro trong trường

hợp bên vay không trả được nợ, thông thường TCTD chỉ đồng ý cho bên đi

vay được vay vốn khi họ có cầm cố, thế chấp bằng tài sản hoặc có bảo lãnh của

bên thứ ba. Các biện pháp bảo đảm này đóng vai trò là phương pháp dự phòng

của TCTD khi rủi ro xảy ra. Khi đó, để đảm bảo cho nghĩa vụ được đảm bảo

trong HĐTD thì các bên kí kết hợp đồng bảo đảm cho khoản vay. T y từng

trường hợp, đó có thể là hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp hay là dưới hình

thức chứng thư bảo lãnh của bên thứ ba. Những điều khoản về quyền và nghĩa

vụ trong các hợp đồng bảo đảm cho nghĩa vụ vay vốn là để bảo đảm cho việc

vay vốn, xuất phát từ HĐTD đã được kí kết và mục đích cuối c ng là bảo đảm

cho việc trả nợ của bên đi vay.

Thêm vào đó, tranh chấp HĐTD còn phát sinh từ sự xung đột về lợi ích

giữa các bên tham gia tranh chấp. Vì tranh chấp HĐTD cũng là một loại tranh

chấp hợp đồng nên phải xuất phát từ xung đột lợi ích của các bên trong hợp

đồng. Tuy nhiên, đối với tranh chấp phát sinh từ HĐTD thì chỉ có chính các

bên hay người đại diện hợp pháp của họ mới có quyền khởi kiện để bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của bên đi vay hay TCTD. Không có trường hợp

nào mà tranh chấp HĐTD phát sinh do tổ chức, cá nhân khác khởi kiện để bảo

vệ quyền lợi cho các bên tham gia HĐTD.

Từ những phân tích trên, có thể nhận thấy: Tranh chấp HĐTD là những

mâu thuẫn phát sinh từ quyền và nghĩa vụ trong HĐTD giữa bên cho vay (tổ

chức tín dụng) và bên vay (khách hàng). Đó là những tranh chấp về lãi suất, nợ

35

gốc, nợ lãi, việc giải ngân, xử lý tài sản đảm bảo…

1.5.2. Đặc điểm tranh chấp Hợp đồng tín dụng

- M

ột bên chủ thể của tranh chấp HĐTD luôn là ngân hàng, có thể là

nguyên đơn hoặc bị đơn khi tranh chấp này được Tòa án thụ lý

giải quyết. Đối tượng của tranh chấp thường là vốn tiền tệ cụ thể

đó là những tranh chấp về:

+ Hành vi vi phạm nghĩa vụ của một hoặc các bên trong hợp đồng. Hành

vi vi phạm nghĩa vụ này, có thể là hành vi của bên cho vay các ngân hàng và

các định chế tài chính khác) khi HĐTD có hiệu lực, việc giải ngân khoản tín

dụng mà hai bên đã thoả thuận là nghĩa vụ của bên cho vay. Tuy nhiên, trên

thực tế có nhiều trường hợp sau khi ký kết HĐTD với khách hàng bên cho vay

đã không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ giải ngân. Điều này,

làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của bên vay như bên vay không

tiến hành kế hoạch kinh doanh như dự kiến, không có vốn đầu tư vào dự án

đầu tư, đấu thầu đã được đăng ký. Hậu quả là bên cho vay bị tổn thất rất lớn về

hiệu quả kinh tế cũng như uy tín, danh dự, thậm chí thương hiệu của bên vay.

+ Việc vi phạm nghĩa vụ trả lãi và thậm chí cả gốc và lãi. Trên thực tế,

có trường hợp hai bên không thoả thuận rõ ràng về lãi suất đối với cả thời hạn

vay hoặc ban đầu do cần tiền để thực hiện kế hoạch của mình nên khách hàng

chấp nhận mức lãi suất đó nhưng sau một thời gian thực hiện hợp đồng phía

khách hàng nhận thấy lãi suất đó cao quá nên không đồng ý. Tuy nhiên, đa

phần là dạng tranh chấp về vi phạm nghĩa vụ trả nợ của khách hàng khi đáo

hạn.

+ Dạng tranh chấp cũng khá phổ biến của HĐTD đó là tranh chấp về

việc thực hiện biện pháp bảo đảm đối với HĐTD có bảo đảm bằng tài sản. Các

TCTD coi bảo đảm tín dụng là nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất

các lưu chuyển tiền tệ) không thể thanh toán được nợ. Các nguồn thu nợ thứ

nhất này thể hiện dưới hình thức lưu chuyển tiền tệ của bên vay. Trong hoạt

36

động kinh doanh có rất nhiều lý do dẫn đến nguồn thu nợ thứ nhất không thực

hiện được, nếu không có nguồn bổ sung chắc chắn các TCTD sẽ rơi vào tình

trạng rủi ro tín dụng.

+ Dạng tranh chấp nữa của HĐTD là tranh chấp về chủ thể xác lập, thực

hiện hợp đồng. Tranh chấp này ngày càng đa dạng và phức tạp nhất là trong

những trường hợp có yếu tố nước ngoài. Điều này gây không ít khó khăn cho

cơ quan giải quyết tranh chấp. Liên quan tới những TCTD 100% vốn nước

ngoài.

+ Dạng tranh chấp chiếm một tỷ lệ khá lớn trong HĐTD là dạng tranh

chấp về định giá, xử lý tài sản bảo đảm đối với những HĐTD có bảo đảm bằng

tài sản. Đối với những hợp đồng cho vay tiêu d ng, việc xác định tài sản bảo

đảm thuộc sở hữu của vợ chồng hay tài sản riêng của từng người có ý nghĩa

quan trọng đối với hoạt động xử lý tài sản này. Có nhiều trường hợp các nhân

viên ngân hàng thẩm định không k , kết quả thẩm định không chính xác dẫn

đến chấp nhận những tài sản bảo đảm không đúng quy định của pháp luật về

giao dịch bảo đảm. Đối với những hợp đồng cho vay kinh doanh, liên quan tới

xác định tài sản bảo đảm có thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên khách hàng

hay không, tổ chức đó có đủ tư cách pháp lý theo quy định của pháp luật để

tiến hành ký kết hợp đồng không? Trên thực tế, khi HĐTD được ký kết thì

phía ngân hàng mới biết bên khách hàng ký không đúng thẩm quyền.

+ Tranh chấp phát sinh từ HĐTD còn là những tranh chấp về luật áp

dụng và cơ quan giải quyết tranh chấp trường hợp một trong hai bên là bên

nước ngoài mà khi ký kết hợp đồng các bên đã không thoả thuận lựa chọn cơ

quan giải quyết tranh chấp cũng như luật áp dụng.

Tranh chấp phát sinh ngày càng nhiều, diễn biến cũng đa dạng và có tính

chất phức tạp. Do đó, việc tìm hiểu những đặc điểm, nguyên nhân dẫn đến

tranh chấp là hết sức cần thiết. Từ đó, có những biện pháp, đường lối, chính

sách nhằm khắc phục tình trạng tranh chấp để tiến tới giảm đáng kể số lượng

37

tranh chấp.

- Chứng cứ trong vụ án tranh chấp HĐTD được Tòa án

thụ lý giải quyết mà các bên đưa ra là HĐTD ở dạng văn bản mà

hai bên đã giao kết.

Cơ quan giải quyết tranh chấp HĐTD là TAND hoặc -

trọng tài thương mại nếu các bên có th a thuận.

Đa phần hoạt động thi hành án để đảm bảo việc thu -

hồi nợ của các tổ chức tín dụng là thông qua xử lý tài sản đảm

bảo.

1.5.3. Nguyên nhân tranh chấp Hợp đồng tín dụng

Nguyên nhân gây ra tranh chấp HĐTD rất đa dạng, có thể xem xét theo

nhiều tiêu thức khác nhau. Một trong những cách tiếp cận thông dụng là phân

tích nguyên nhân gây ra từ phía bên cho vay, bên vay và những quy định của

pháp luật.

 Nguyên nhân từ phía bên cho vay

Thông thường phía ngân hàng vi phạm nghĩa vụ giải ngân cho khách

hàng như trong hợp đồng. Các TCTD không tuân thủ chế độ tín dụng và điều

kiện cho vay. Đôi khi ngân hàng cho vay mà không tiến hành quy trình thẩm

định theo nguyên tắc 6cs, điều mà các định chế tài chính quốc tế luôn cảnh báo

là: 6cs tính cách người vay character), năng lực trả nợ capacity), dòng tiền

mặt cash follow), tài sản thế chấp collaral), các điều kiện môi trường

conditions), sự kiểm soát control), mà ngân hàng lại dựa vào nhận định của

các nhân viên của mình. Trên thực tế, khi tiến hành thẩm định bên cho vay

không thể kiểm tra được bên vay có thông qua một TCTD đen nào hay không.

Ở Việt Nam, ngân hàng chưa có chính sách hợp lý và quy trình cho vay

hiệu quả, cơ chế phân tích và quản lý rủi ro còn hạn chế.

Việc đánh giá biện pháp bảo đảm tiền vay còn hạn chế, chưa phân tích,

đánh giá các điều kiện về biện pháp bảo đảm tiền vay. TCTD đánh giá về biện

pháp bảo đảm tiền vay còn dựa vào tài liệu do bên vay xuất trình mà chưa có

38

sự kiểm tra thực tiễn. Trình độ thẩm định của nhân viên ngân hàng còn chưa

cao, nên có những sai xót và thiếu chặc chẽ - kết quả thẩm định chưa đạt yêu

cầu.

Mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng còn hạn chế - trong thực tế

bên ngân hàng không nắm rõ ràng các thông tin chính xác về khách hàng,

không biết chính xác là khách hàng vay vốn và có sử dụng vốn vay đúng mục

đích trong hợp đồng hay không.

Một số nhân viên ngân hàng còn thiếu phẩm chất đạo đức cũng như

thiếu năng lực nên trong việc cho vay có đảm bảo nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản

thế chấp mà bên vay vẫn được giữ cả giấy tờ gốc chứng minh tài sản thế chấp

của mình. Điều này dẫn đến có thể bên vay lại đem bán tài sản đã thế chấp ở

ngân hàng cho người thứ ba. Lúc này ngân hàng và người thứ ba có sự tranh

chấp về quyền tài sản – tài sản đã được thế chấp bằng danh nghĩa ở ngân hàng.

Thông qua phân tích trên ta nhận thấy, ngân hàng cần tuân thủ nghiêm

túc quy trình, điều kiện cho vay, các quy định của pháp luật liên quan, cần

nâng cao hơn nữa đội ngũ nhân viên ngân hàng, xây dựng và nâng cao hệ

thống thông tin tín dụng, có biện pháp để kiểm tra, giám sát hữu hiệu các hoạt

động của bên vay theo những cam kết trong hợp đồng.

 Nguyên nhân từ phía bên vay

Những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp HĐTD do người vay như:

Bên vay không đảm bảo nghĩa vụ hoặc thực hiện không đầy đủ những

nghĩa vụ của mình. Thông thường do hai nguyên nhân: nguyên nhân khách

quan và chủ quan.

Nguyên nhân khách quan: là những nguyên nhân tác động ngoài ý chí,

tầm kiểm soát của khách hàng như: do sự thay đổi của chính sách quản lý kinh

tế, do thiên tai, hoả hoạn, điều chỉnh quy hoạch, do thị trường biến động, quan

hệ cung cầu hàng hoá thay đổi … làm cho hoạt động của bên vay không thực

hiện như kế hoạch đề ra.

Nguyên nhân chủ quan: Cá nhân vay vốn không nắm được thông tin cần

39

thiết về kế hoạch đầu tư, sản xuất khi vay vốn – dẫn đến tình trạng vay vốn về

đầu tư không có hiệu quả. Có thể là do vốn tự có tham gia sản xuất kinh doanh

của doanh nghiệp không đáp ứng nhu cầu, năng lực điều hành còn hạn chế,

thiếu thông tin thị trường và thông tin về các đối tác, bạn hàng làm ảnh hưởng

tới quá trình sản xuất, công nghệ chưa được cải thiện nên sản phẩm tạo ra chưa

có tính cạnh tranh cao, hiệu quả kinh doanh kém, hậu quả là doanh nghiệp thua

l lâm vào tình trạng phá sản. Cũng có trường hợp do bên vay cố tình đưa ra

những thông tin sai sự thật ngay từ khi vay vốn nên khi về đầu tư hay sử dụng

vào mục đích của mình không có hiệu quả.

Nguyên nhân nữa là do bên vay còn thiếu hiểu biết về pháp luật, trình độ

hiểu biết của bên vay còn hạn chế về những kiến thức pháp luật liên quan. Có

trường hợp bên vay ký hợp đồng trong khi bản thân không hiểu rõ về pháp

luật, nên khả năng xảy ra những bất lợi cho mình là rất lớn.

 Nguyên nhân do quy định của pháp luật

Xã hội luôn thay đổi theo nhiều chiều hướng khác nhau, các mối quan hệ

xã hội cũng đổi mới không ngừng kéo theo các giao dịch trong xã hội cũng có

thêm nhiều yếu tố phức tạp và đa dạng hơn. Trái lại, trên thực tế pháp luật

nước ta chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội, chậm đổi mới dẫn tới hiện

tượng pháp luật “chạy theo” sự thay đổi của xã hội, chứ pháp luật chưa thể dự

kiến và điều chỉnh được các mối quan hệ xã hội sắp diễn ra. Một điều đáng lưu

ý là sự hiểu biết về pháp luật của các bên trong hợp đồng còn chưa rõ ràng,

mâu thuẫn với nhau về lợi ích giữa các bên dẫn đến nảy sinh tranh chấp. Pháp

luật nước ta quy định bên cho vay bắt buộc phải đưa ra các căn cứ pháp lý hay

những lý do chính đáng nếu muốn từ chối khách hàng, vấn đề này chưa có văn

bản hướng dẫn cụ thể. Nên bên cho vay cho rằng cho vay là quyền của mình

còn bên đi vay thì có quan điểm ngược lại, điều đó dễ dẫn đến mâu thuẫn.

Những HĐTD theo mẫu do ngân hàng đưa ra đa phần là rất chặt chẽ cả

về hình thức và nội dung. Thông thường những hợp đồng theo mẫu này gắn

40

liền với lợi ích của ngân hàng.

Các quy định của pháp luật còn chưa thống nhất, chồng chéo lẫn nhau

đặc biệt là các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm. Hiện nay, hành lang pháp lý

cho hoạt động giao dịch bảo đảm chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ và nhiều quy

định không thể thực hiện được trên thực tế. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm

thực hiện phân tán ở nhiều cơ quan khác nhau tạo kẽ hở trong quản lý. Theo

Nghị định số 163/2006/NĐ- CP và Nghị định 11/2012/NĐ-CP sửa đổi nghị

định 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm, cho phép

các TCTD được lựa chọn hình thức xử lý đa dạng như bán tài sản thế chấp,

nhận các khoản tiền và tài sản từ người thứ ba trong trường hợp thế chấp

quyền đòi nợ, phương thức khác do các bên thoả thuận. Trường hợp các bên

không thoả thuận được phương thức xử lý tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản

gắn liền với đất thì các tài sản này được đem bán đấu giá nhưng để thực hiện

được các bên lại phải ký hợp đồng uỷ quyền tại đơn vị bán đấu giá có thẩm

quyền. Điều này thường không thực hiện được do bên thế chấp không đồng ý

và khi đó các tổ chức cho vay không có cơ chế nào để bảo vệ được quyền lợi

của mình.

1.5.4. Phân biệt tranh chấp Hợp đồng tín dụng và các tranh chấp hợp

đồng dân sự khác

Tiêu chí Tranh chấp HĐTD Tranh chấp hợp đồng dân sự

Một bên chủ thể Ngoài ngân hàng ra, thì 1

của tranh chấp luôn là trong hai bên chủ thể có thể là cá

Về chủ thể ngân hàng có thể là nhân, tổ chức. có thể là nguyên

nguyên đơn/bị đơn khi đơn/bị đơn khi tranh chấp được

Tòa án thụ lý giải quyết) Tòa án thụ lý giải quyết)

Vốn tiền tệ, luật

áp dụng, định giá, xử lý Tài sản, quyền và nghĩa vụ Về đối tượng tài sản đảm bảo, thực giao kết trong hợp đồng, cơ quan

41

hiện biện pháp đảm bảo,

chủ thể xác lập thực

hiện hợp đồng, lãi

suất…

Có thể cao hơn, thấp hơn

Theo quy định lãi suất do cơ bản do Ngân hàng

Lãi suất của Ngân hàng Nhà Nhà nước quy định hoặc có thẻ

nước Việt Nam. không có lãi suất do các bên giao

kết th a thuận.

Nhằm đảm bảo quyền và Đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp cho các bên và lợi ích hợp pháp của đương sự nguyên đơn, bị đơn, ngân hàng hoặc khách người có quyền lợi nghĩa vụ liên Mục đích hàng, về: Tiền gốc, lãi quan) bao gồm cả chủ thể là suất, xử lý tài sản đảm ngân hàng, về: Tài sản vật, tiền, bảo, luật áp dụng,…khi giấy tờ có giá và các quyền tài có tranh chấp xảy ra. sản), quyền và nghĩa vụ,…

- Không áp dụng thời hiệu

khởi kiện. Điểm a, khoản 3,

Điều 159 BLTTDS sửa đổi, bổ Hai năm kể từ sung năm 2011). ngày quyền và lợi ích - Hai năm kể từ ngày Thời hiệu hợp pháp bị xâm phạm. quyền và lợi ích hợp pháp bị khởi kiện Điểm b, khoản 3, Điều xâm phạm Điểm b, khoản 3, 159 BLTTDS sửa đổi, Điều 159 BLTTDS sửa đổi, bổ bổ sung năm 2011). sung năm 2011), trừ trường hợp

sau khi bị khiếu nại, thương

42

nhân kinh doanh dịch vụ

logistics không nhận được thông

báo về việc bị kiện tại Trọng tài

hoặc Tòa án trong thời hạn 09

tháng kể từ ngày giao hàng

Điều 319 Luật Thương mại năm

2005)

- Một năm kể từ ngày trả

hàng hoặc lẽ ra phải trả hàng cho

người nhận hàng Điều 97 Bộ

luật Hàng hải Việt Nam năm

2005).

- Ba năm kể từ thời điểm

phát sinh tranh chấp Điều 30

Luật Kinh doanh bảo hiểm năm

2000).

Cơ quan giải Tòa án. Tòa án, Trọng tài. quyết

Bản án, quyết định công Bản án, quyết Hình thức xử nhận th a thuận của các đương định công nhận th a lý sự của Tòa án), Quyết định của thuận của các đương sự. trọng tài.

1.5.5. Các phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ Hợp

đồng tín dụng

Để bảo đảm quyền lợi của các chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp

HĐTD nên việc giải quyết tranh chấp này đòi h i phải đạt được

các yêu cầu sau:

Thứ nhất, tranh chấp phải được giải quyết một cách kịp thời, phải

43

đảm bảo nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật nhằm hạn chế đến mức

thấp nhất những rủi ro và có thể tận dụng được những cơ hội kinh doanh

mới cho các chủ thể tham gia tranh chấp.

Thứ hai, trong quá trình giải quyết tranh chấp phải bảo đảm giữ được

bí mật của hoạt động kinh doanh cũng như uy tín của các bên trong quan

hệ tranh chấp. Bởi vì, các bên còn nhiều đối tác quan hệ kinh doanh khác.

Thứ ba, quá trình giải quyết phải đảm bảo tính dân chủ và quyền tự

định đoạt của các bên với chi phí giải quyết thấp.

Pháp luật hiện hành quy định các phương thức giải quyết tranh chấp

phát sinh từ HĐTD cụ thể như: thương lượng, hòa giải, trọng

tài và Tòa án.

a) Thương lượng

Phương thức thương lượng là phương thức được các bên tranh chấp

lựa chọn trước tiên và trong thực tiễn phần lớn các tranh chấp phát sinh từ

HĐTD được giải quyết bằng phương thức này. Thông qua phương thức này,

các bên tranh chấp c ng nhau bàn bạc, tự tháo gỡ những bất đồng phát sinh để

loại b tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kỳ bên

thứ ba nào.

Phương pháp thương lượng là phương thức được các bên tiến hành đầu

tiên bởi các ưu điểm của nó như: thuận tiện, đơn giản, nhanh chóng, linh hoạt,

ít tốn kém về thời gian, về tiền bạc, không ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý

phức tạp, đảm bảo bí mật, uy tín của các bên. Nếu thương lượng thành công thì

ít gây phương hại đến quan hệ hợp tác vốn có của các bên thậm chí còn được

tăng cường về sự hiểu biết và hợp tác lẫn nhau khi kết thúc cuộc thương lượng.

Tuy vậy, bên cạnh các ưu điểm trên, thương lượng cũng có những nhược

điểm như: thương lượng thành công phụ thuộc vào các bên có thiện chí muốn

tìm giải pháp đối với tranh chấp. Nếu bên vay muốn d ng hình thức thương

lượng để kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ thì thương lượng chỉ làm tốn

kém và kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp hơn. Sự thực thi kết quả thương

44

lượng phụ thuộc vào ý chí tự nguyện thi hành của các bên tham gia. Cũng

chính vì, phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng không bị ràng

buộc bởi bất kỳ các cơ chế pháp lý nào nên kết quả thương lượng cũng không

được bảo đảm bởi bất kỳ cơ chế pháp lý nào dẫn đến tính bắt buộc thực hiện

không cao. Mặt khác, hình thức giải quyết khép kín, không công khai đôi khi

lại nảy sinh những tiêu cực, trái pháp luật.

b) Hoà giải

Hoà giải là các bên tranh chấp c ng nhau bàn bạc, th a thuận để giải

quyết các vấn đề tranh chấp nhưng khác là hoà giải có sự h trợ của bên

thứ ba là hòa giải viên. Hòa giải có ưu điểm như: thủ tục, thời gian, địa

điểm hoà giải có thể được th a thuận và điều chỉnh do các bên tham gia

giải quyết tranh chấp, các bên có quyền tự định đoạt, lựa chọn bất kỳ

người nào làm trung gian hòa giải. Hòa giải mang tính thân mật nhằm tiếp

tục giữ gìn và phát triển các mối quan hệ kinh doanh vì lợi ích của cả hai

bên. Trong hòa giải, các bên tranh chấp có thể nói chuyện, trao đổi, đàm

phán và thảo luận về các giải pháp trong toàn bộ quá trình. Quá trình hòa

giải tạo cơ hội cho m i bên bày t quan điểm của mình về tranh chấp,

không dẫn đến tình trạng đối đầu, thắng thua như quá trình kiện tụng tại

Tòa án, duy trì được mối quan hệ vốn có của các bên. Do hòa giải xuất phát

từ sự tự nguyện tham gia và tự do th a thuận của các bên, nên nội dung

th a thuận luôn hướng tới lợi ích của tất cả các bên. Mặt khác, là khi giải

quyết bằng con đường này các bên kiểm soát được những bí mật của mình

bởi phiên họp hòa giải được tổ chức kín, trong khi giải quyết tại Tòa án thì

các yêu cầu này không được đảm bảo do Tòa án thực hiện xét xử theo

nguyên tắc công khai. Bên cạnh những ưa điểm trên, giải quyết tranh chấp

HĐTD bằng phương pháp hòa giải vẫn còn tồn tại những

nhược điểm nhất định: việc hòa giải có được tiến hành hay không phụ

thuộc vào sự nhất trí của các bên, hòa giải viên không có quyền đưa ra một

quyết định ràng buộc hay áp đặt bất cứ vấn đề gì đối với các bên tranh

45

chấp th a thuận hòa giải, không có tính bắt buộc thi hành như phán quyết

của Trọng tài thương mại hay của Tòa án. Các th a thuận, cam kết từ kết

quả của quá trình hòa giải không có giá trị bắt buộc cưỡng chế thi hành mà

phụ thuộc vào thiện chí, sự tự nguyện của các bên. Vì vậy, phương pháp

này ít được sử dụng nếu các bên không có sự tin tưởng với nhau.

c) Trọng tài thương mại

Thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín

dụng bằng trọng tài thương mại cho thấy có một số ưu điểm sau:

Thứ nhất, phương pháp trọng tài thương mại trong giải quyết tranh

chấp có nguyên tắc xử kín nếu các bên không có th a thuận khác.

Thứ hai, quyết định của Trọng tài thương mại là chung thẩm và vì

vậy nó có giá trị bắt buộc đối với các bên, các bên không có quyền chống

án hay kháng cáo.

Thứ ba, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thể hiện tính

năng động, linh hoạt và mềm dẻo, tạo quyền chủ động cho các bên về địa

điểm, thời gian giải quyết tranh chấp, tiết kiệm được thời gian c thể rút

ngắn thủ tục tố tụng trọng tài.

Thứ tư, giải quyết trọng tài không bị giới hạn về mặt lãnh thổ do các

bên có quyền lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng tài nào để giải quyết tranh

chấp cho mình.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, phương pháp giải quyết tranh chấp bằng

trọng tài có những nhược điểm đáng kể như là: Quyết định trọng tài

thương mại không có tính cưỡng chế cao như quyết định của Tòa án; việc

thi hành quyết định trọng tài thương mại không phải lúc nào cũng trôi

chảy, thuận lợi như việc thi hành bản án mà phụ thuộc chủ yếu vào thiện

chí và sự hợp tác giải quyết của các bên. Giải quyết bằng phương thức

trọng tài đòi h i chi phí tương đối cao, vụ việc giải quyết càng kéo dài thì

phí trọng tài càng cao.

46

d) Giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án

Phương thức giải quyết tranh chấp HĐTD tại Tòa án là

hình thức cuối c ng mà các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp khi

không còn lựa chọn nào khác. Việc đưa tranh chấp ra xét xử tại Tòa án có

nhiều ưu điểm nhưng cũng có những nhược điểm nhất định. Ưu điểm của

hình thức giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án là: đặc trưng cơ bản của

thủ tục giải quyết tranh chấp bằng Tòa án là thông qua hoạt động của bộ

máy tư pháp và nhân danh quyền lực Nhà nước để đưa ra phán quyết buộc

các bên có nghĩa vụ thi hành. Vì vậy, quyết định của Tòa án có tính cưỡng

chế cao, quyền lợi của người thắng kiện sẽ được đảm bảo nếu như bên

thua kiện có tài sản để thi hành án. So với phương thức trọng tài thương

mại, việc giải quyết tranh chấp bằng Tòa án được thực hiện theo nguyên tắc

chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm hai cấp xét xử, nhờ vậy

mà những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp có khả năng được

phát hiện, khắc phục đảm bảo quyền lợi chính đáng của các bên tham gia.

Chi phí giải quyết tranh chấp bằng Tòa án ít hơn nhiều so với chi phí giải

quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Tuy vậy, việc lựa chọn hình

thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD bằng con đường

Tòa án cũng có những nhược điểm nhất định so với các hình thức khác

như: thủ tục giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án thường dài hơn so với

giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Hơn nữa, nguyên tắc xét

xử công khai tại Tòa án có thể làm sụt giảm uy tín của các bên trên thương

trường; tiết lộ các bí mật kinh doanh cản trở hoạt động đối với các chủ thể

bên vay là doanh nghiệp. Ngoài ra, bản án xét xử xong chưa được thi hành

ngay mà các bên có quyền kháng cáo, khiếu nại nên thời gian kéo dài ảnh

47

hưởng đến quá trình hoạt động của các bên tranh chấp.

Kết luận Chƣơng 1

Như vậy, TTRG là thủ tục được giản lược một số thủ tục tố tụng trong

thủ tục tố tụng thông thường nhằm mục đích giải quyết những vụ án đơn giản,

chứng cứ rõ ràng…… được nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm được chi phí cho

dương sự và cho nhà nước. Thủ tục này đã được nhiều nước trên thế giới áp

dụng và nó đang phát huy hiệu quả, áp dụng TTRG trong giải quyết vụ án sẽ

làm nâng cao hiệu quả công tác xét xử của ngành Tư pháp nói chung và của

Tòa án nói riêng. Đặc biệt do nhu cầu thực tế ở Việt Nam hiện nay, khi lượng

án dân sự cần giải quyết ngày càng tăng về số lượng và lượng án tồn của ngành

Tòa án m i năm là rất cao. Do Tòa án khi giải quyết vụ án dân sự đơn giản,

chứng cứ rõ ràng… cũng phải áp dụng thủ tục tố tụng như khi giải quyết

những vụ án phức tạp. Vì vậy, việc ban hành thủ tục tố tụng rút gọn trong

BLTTDS năm 2015 là hoàn toàn ph hợp với điều kiện thực tế trong nước. Để

ban hành được các quy định thủ tục TTDS mang tính khả thi cao thì ngoài việc

khi ban hành phải dựa trên hoàn cảnh thực tế ở nước ta hiện này còn phả học

h i kinh nghiệm của bạn bè quốc tế đã có rất nhiều kinh nghiệm trong việc ban

48

hành và áp dụng thủ tục này để giải quyết vụ án trong thực tế.

Chƣơng 2

QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015 VỀ

THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ, TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG

TÍN DỤNG THEO THỦ TỤC RÚT GỌN

2.1. Quy định về việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ

tục rút gọn tại Tòa án cấp sơ thẩm

2.1.1. Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn

Phạm vi áp dụng TTRG là giới hạn luật định áp dụng TTRG để giải

quyết vụ án dân sự. Theo quy định tại Điều 316 BLTTDS năm 2015 thì quy

định tại chương này về TTRG sẽ được áp dụng đối với mọi vụ án dân sự,

KDTM, LĐ, HNGĐ sẽ được giải quyết theo TTRG. Trong trường hợp chương

này không quy định thì áp dụng các quy định khác của Bộ luật này để áp dụng

giải quyết tranh chấp theo TTRG.

2.1.2. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn

Điều kiện áp dụng TTRG là những căn cứ mà BLTTDS quy định cần và

đủ để có thể áp dụng thủ tục này. Theo quy định tại Điều 317 BLTTDS năm

2015 thì TTRG chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện như:

- Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ

ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ,

bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu

thập tài liệu, chứng cứ.

Ta có thể hiểu rằng vụ án dân sự được coi là có tình tiết đơn giản, quan

hệ pháp luật rõ ràng là vụ án đã xác định rõ về quan hệ tranh chấp, về giá trị

tranh chấp và về tư cách tham gia tố tụng của các bên tranh chấp. Còn đương

sự đã thừa nhận nghĩa vụ được hiểu là bên có nghĩa vụ đã thừa nhận nghĩa vụ

chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền, ... cho bên có quyền trong vụ án

tranh chấp đó. Tài liệu chứng cứ đầy đủ là việc các bên đương sự đã nộp cho

49

Tòa án đầy đủ chứng cứ để chứng minh quyền của mình và chứng minh nghĩa

vụ của bên kia.

- Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ

ràng.

Điều kiện này được hiểu là phải xác định được rõ ràng, chính xác địa chỉ

nơi đương sự thường xuyên sinh sống hoặc đang sinh sống nếu đương sự là cá

nhân, còn đương sự là tổ chức thì phải xác định được rõ ràng, chính địa chỉ nơi

tổ chức có trụ sở, trụ sở ở đây được xác định là trụ sở chính hoặc chi nhánh.

- Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản

tranh chấp ở nước ngoài.

Đương sự không cứ trú ở nước ngoài được hiểu là vào thời điểm Tòa án

thụ lý vụ án đương sự là cá nhân, không phân biệt là người Việt Nam hay

người nước ngoài, phải đang sinh sống hoặc thường xuyên sinh sống trên lãnh

thổ nước ta, còn đương sự là cơ quan, tổ chức, không phân biệt là cơ quan, tổ

chức nước ngoài hay cơ quan, tổ chức Việt Nam phải có trụ sở, chi nhánh, văn

phòng đại diện tại Việt Nam. Và không có tài sản tranh chấp ở nước ngoài

được hiểu là tài sản tranh chấp đó không ở ngoài biên giới lãnh thổ nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ án dân sự đó.

- Tuy có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh

chấp ở nước ngoài, nhưng các đương sự ở nước ngoài và đương

sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo TTRG

hoặc các đương sự đã xuất trình được chứng cứ về quyền sở hữu

hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản

thì Tòa án vẫn áp dụng TTRG để giải quyết vụ án

Sở dĩ như vậy là vì trong quan hệ pháp luật dân sự nhà nước luôn tôn

trọng, đảm bảo và khuyến khích sự th a thuận của các đương sự. Do vậy ở

trường hợp này d đương sự là người nước ngoài nhưng nếu các đương sự ở

nước ngoài và các đương sự ở Việt Nam có th a thuận Tòa án giải quyết theo

TTRG thì Tòa án vẫn chấp nhận.

50

- Đối với vụ án lao động đã được thụ lý, giải quyết

theo TTRG mà người sử dụng lao động có quốc tịch nước ngoài

hoặc người đại diện theo pháp luật của họ đã rời khỏi địa chỉ nơi

cư trú, nơi có trụ sở mà không thông báo cho đương sự khác, Tòa

án thì bị coi là trường hợp cố tình giấu địa chỉ. Tòa án vẫn giải

quyết vụ án đó theo TTRG

Điều này được hiểu là nếu một vụ án lao động mà ban đầu vụ án đó đã

th a mãn các điều kiện áp dụng TTRG và Tòa án đã thụ lý, giải quyết theo

TTRG mà sau đó người sử dụng lao động có quốc tịch nước ngoài hoặc đại

diện theo pháp luật của họ rời kh i địa chỉ nơi họ đang sinh sống hoặc nơi họ

thường xuyên sinh sống thì Tòa án vẫn giải quyết vụ án theo TTRG. Như vậy

quy định này chỉ áp dụng với người sử dụng lao động có quốc tịch nước ngoài.

2.1.3. Khởi kiện và thụ lý vụ án theo thủ tục rút gọn

BLTTDS năm 2015 không có quy định một phần riêng về vấn đề thụ lý

đơn yêu cầu giải quyết vụ án dân sự theo TTRG. Như vậy, ta có thể hiểu quy

định về khởi kiện và thụ lý vụ án theo TTRG cũng tương tự trình tự thủ tục về

khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng thông thường. Theo quy

định tại Điều 3 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Hội

đồng Thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị

quyết số 103/2015/QH2013 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành

BLTTDS và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về

thi hành Luật tố tụng hành chính thì “Khi giải quyết vụ án dân sự, HNGĐ, kinh

doanh, thương mại, lao động, hành chính theo TTRG, Tòa án áp dụng mức tạm

ứng án phí, án phí bằng 50% mức tạm ứng án phí, án phí áp dụng đối với vụ án

giải quyết theo thủ tục thông thường cho đến khi có quy định mới của cơ quan

nhà nước có thẩm quyền về mức tạm ứng án phí, án phí áp dụng đối với vụ án

dân sự, HNGĐ, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính giải quyết theo

TTRG”. Mức tạm ứng án phí, án phí áp dụng đối với vụ án giải quyết theo thủ

tục thông thường được tính theo quy định của Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án

51

của ủy ban thường vụ Quốc hội số 10/2009/PL-UBTVQH12 ngày 27/2/2009.

2.1.4. Quy định việc xét xử sơ thẩm vụ án theo thủ tục tố tụng rút gọn

- Quyết định đưa vụ án ra xét xử

Khoản 1 Điều 318 BLTTDS quy định “Trong thời hạn không quá 01

tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 195

của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải ra quyết

định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG và mở phiên tòa xét xử trong thời hạn 10

ngày, kể từ ngày ra quyết định”. Thời hạn đưa vụ án xét xử theo TTRG đã

được rút ngắn hơn so với thủ tục thông thường. Quy định này bắt buộc trong

thời hạn không quá 01 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án Thẩm phán được phân

công giải quyết vụ án phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG và chỉ

được ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

- Khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến

nghị về quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG

Đối với quyết định đưa vụ án ra xét xử phiên tòa xét xử theo TTRG thì

đương sự có quyền khiếu nại, VKSND c ng cấp có quyền kiến nghị quyết định

này, đây cũng là điểm khác biệt so với thủ tục tố tụng thông thường. Chánh án

sẽ là người có quyền xem xét cuối c ng cuối c ng trong việc có áp dụng

TTRG hay không khi có đơn khiếu nại hay kiến nghị.

- Phiên tòa xét xử sơ thẩm theo TTRG

Khoản 1 Điều 320 BLTTDS 2015 quy định “Các đương sự, Kiểm sát

viên VKSND cùng cấp phải có mặt tại phiên tòa xét xử theo TTRG. Trường

hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử. Đương

sự có quyền đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu

tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì Thẩm phán vẫn tiến

hành phiên tòa”.

Sau khi xem xét sự có mặt, vắng mặt của đại diện VKSND cùng cấp,

của đương sự trong vụ án thì Thẩm phán chủ trì phiên tòa sẽ căn cứ vào sự

52

vắng mặt, có mặt của họ để xem xét có đủ điều kiện để hoãn phiên tòa hay

không. Trong trường hợp không đủ điều kiện để hoãn phiên tòa thì phiên tòa

xét xử vẫn được tiếp tục và “Thẩm phán tiến hành khai mạc phiên tòa theo quy

định tại Điều 239 của Bộ luật này”, khoản 2 Điều 320 BLTTDS 2015.

Sau khi khai mạc phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo TTRG thì

Thẩm phán chủ trì phiên tòa sẽ tiến hành hòa giải, được quy định tại khoản 3

Điều 320 BLTTDS 2015. “Trường hợp các đương sự thảo thuận được với nhau

về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán ra quyết định công nhận

sự th a thuận của các đương sự theo quy định tại Điều 212 Bộ luật nay.

Trường hợp các đương sự không th a thuận được với nhau về vấn đề phải giải

quyết trong vụ án thì Thẩm phán tiến hành xét xử ”. Trường hợp các bên

đương sự không th a thuận được với nhau về toàn bộ nội dung vụ án thì Thẩm

phán sẽ tiến hành xét xử vụ án, Thẩm phán để các đương sự trình bày, tranh

luận, đối đáp, đề xuất quan điểm về việc giải quyết vụ án và thủ tục này được

thực hiện theo quy định tại Mục 3 Chương XIV của BLTTDS năm 2015. Phần

tranh luận, đối đáp, đề xuất quan điểm về việc giải quyết vụ án theo TTRG sẽ

có thủ tục như thủ tục về phần tranh luận, đối đáp, đề xuất quan điểm về việc

giải quyết vụ án theo thủ tục thông thường.

Tại phiên tòa xét xử vụ án dân sự theo TTRG mà xuất hiện các tình tiết

mới trên thì Thẩm phán sẽ xem xét để ra quyết định chuyển vụ án sang giải

quyết theo thủ tục thông thường. Và thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án được tính

từ ngày ra quyết định. Còn nếu có tình tiết mới thì Thẩm phán sẽ ra bản án về

việc giải quyết vụ án dân sự.

- Hiệu lực của bản án, quyết định theo TTRG

Bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm xét xử theo TTRG sẽ không

có hiệu lực pháp luật ngay mà bản án, quyết định này có thể bị kháng cáo,

kháng nghị để xét xử theo thủ tục phúc thẩm hay có thể bị kháng nghị theo thủ

tục tái thẩm, giám đốc thẩm

2.2. Quy định về việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ

53

tục rút gọn tại Tòa án cấp phúc thẩm

2.2.1. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản

án, quyết định theo thủ tục rút gọn

Khi áp dụng TTRG để giải quyết tranh chấp thì bản án, quyết định của

Tòa án sơ thẩm cũng bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, thời hạn để đương sự kháng cáo và VKSND kháng nghị theo

TTRG được rút ngắn hơn so với thủ tục tố tụng thông thường.

2.2.2. Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo thủ

tục rút gọn

Sau thời hạn một tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân

công giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm phải ra một trong các quyết định:

đình chỉ, tạm đình chỉ hay đưa vụ án ra xét xử. Quyết định đưa vụ án ra xét xử

phải gửi ngay cho người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị và VKSND

c ng cấp.

2.2.3. Thủ tục xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút

gọn đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị

kháng cáo, kháng nghị

Đối với phiên tòa phúc thẩm theo TTRG cũng do một Thẩm phán tiến

hành. Quy định này cũng khác so với phiên Tòa phúc thẩm theo thủ tục thông

thường, phiên tòa này sẽ gồm một hội đồng xét xử phúc thẩm và phân công

một Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa. Sau thời hạn 15 ngày tính từ ngày có

quyết định đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán được phân công giải quyết theo thủ

tục phúc thẩm phải mở phiên tòa phúc thẩm.

Thành phần tham gia phiên tòa xét xử phúc thẩm cũng giống như thành

phần tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm phải gồm có đương sự, VKSND c ng

cấp. Tuy nhiên pháp luật cũng quy định trường hợp đại diện VKSND vắng mặt

tại phiên tòa thì phiên tòa vẫn được xét xử bình thường, trừ trường hợp vụ án

được xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm do VKSND có kháng nghị. Trong

trường hợp đương sự không kháng cáo được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt hay

54

các đương sự có đơn xin xét xử vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử bình

thường. Tại phiên tòa phúc thẩm Tòa án sẽ không tiến hành hòa giải giữa các

bên mà Thẩm phán giải quyết vụ án sẽ tóm tắt nội dung, quyết định bản án và

nghe các bên đương sự trình bày ý kiến kháng cáo của mình, VKSND trình

bày ý kiến về việc kháng nghị về nội dung vụ án. Sau khi để đương sự trình

bày ý kiến, Thẩm phán sẽ để các bên đương sự tranh luận, đối đáp và đề xuất

quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án. Sau khi hoàn tất các thủ tục trên

Thẩm phán sẽ nghiên cứu cách tài liệu, chứng cứ có trong vụ án, ý kiến của

các đương sự, ý kiến của VKSND, trong trường hợp VKSND có kháng nghị và

ra một trong các quyết định sau đây:

- Giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm;

- Sửa bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm;

- Hủy bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án

cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo TTRG hoặc theo thủ tục

thông thường nếu không còn đủ các điều kiện để giải quyết theo TTRG;

- Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án;

- Đình chỉ xét xử phúc thẩm và giữ nguyên bản án sơ thẩm

Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra bản án,

quyết định.

2.3. Thủ tục xem xét lại bản án, quyết định theo thủ

tục rút gọn đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc

thẩm, tái thẩm

Với bản án, quyết định của Tòa án theo TTRG đã có hiệu lực pháp luật

mà phát hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật và có đơn đề nghị hoặc có thông báo,

kiến nghị thì người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định có hiệu lực

pháp luật. Đương sự có quyền đề nghị bằng văn bản với người có thẩm quyền

kháng nghị để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Còn trong trường hợp vụ án có phát sinh thêm tình tiết mới mà các

đương sự không biết khi Tòa án ra quyết định, bản án đã có hiệu lực pháp luật

55

mà làm thay đổi nội dung quyết định, bản án đó thì VKSND có quyền kháng

nghị, đương sự có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền kháng nghị để xem

xét theo thủ tục tái thẩm.

Pháp luật TTDS 2015 chỉ quy định một trình tự, thủ tục xem xét lại bản

án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

Như vậy chúng ta có thể hiểu, d bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

d trước đó được giải quyết theo TTRG hay thủ tục chung thì trình tự, thủ tục

xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là giống nhau.

2.4. Quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết

tranh chấp hợp đồng tín dụng theo thủ tục rút gọn

2.4.1. Quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về giải quyết

tranh chấp Hợp đồng tín dụng theo thủ tục rút gọn

Hiện nay, thủ tục tố tụng dân sự giải quyết tranh chấp HĐTD chưa linh

hoạt, nhanh gọn xử lý vấn đề gây tốn kém về thời gian và chi phí cho các bên

tranh chấp. Theo quy định của BLTTDS, thủ tục giải quyết tranh chấp HĐTD

còn mất rất nhiều thời gian. Thông thường để giải quyết xong một tranh chấp

HĐTD phải mất gần hai năm. Trình tự, thủ tục ở Tòa án thường kéo dài lâu do

phải trải qua các khâu: thụ lý, Tòa án nghiên cứu và tiến hành hoà giải đến xét

xử sơ thẩm, phúc thẩm, (khiếu nại nếu có) cũng một thời gian khá dài, đến khi

bản án có hiệu lực pháp luật thì phải chờ cơ quan thi hành án xử lý. Trình tự,

thủ tục kéo dài nhiều thời gian như vậy khiến cho các bên trong tranh chấp

luôn ở trong tình trạng chờ đợi, mệt m i và chi phí kéo theo là tất yếu. Thực tế

này đòi h i công việc giải quyết tranh chấp ở Tòa án cần rút ngắn thời gian

làm cho quá trình giải quyết tranh chấp nhanh gọn, đúng pháp luật, đơn giản

nhưng vẫn bảo vệ quyền lợi các bên trong hợp đồng. Các tranh chấp phát sinh

từ HĐTD trước khi đã mang ra Tòa án giải quyết thì họ đã tiến hành các bước

thương lượng, hoà giải nên về các chứng cứ chứng minh vụ việc đã có tình tiết

rõ ràng và có căn cứ pháp lý.

Đối với những tranh chấp HĐTD mà chứng cứ rõ ràng, bị đơn có địa

56

chỉ, lai lịch cụ thể, họ thừa nhận nghĩa vụ của mình trước nguyên đơn, nếu

nguyên đơn xuất trình được chứng cứ bằng văn bản để chứng minh cho yêu

cầu của mình và nếu như bị đơn c ng tất cả những người liên quan khác trong

vụ tranh chấp không có sự phản đối về sự giả mạo của bằng chứng đó thì Tòa

án có thể khẳng định được tính chính xác và độ tin cậy của các thông tin trong

các văn bản đó. Do vậy, Tòa án không phải mất nhiều thời gian để điều tra, xác

minh mà vẫn có thể giải quyết đúng pháp luật vụ tranh chấp đó, đảm bảo giải

quyết nhanh gọn, hiệu quả. Mới đây, tại BLTTDS 2015 có hiệu lực từ ngày

01/07/2016 đã thêm trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo TTRG được

quy định từ điều 316 đến 324 của Bộ luật này.

Việc ban hành TTRG này sẽ giúp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động

của Tòa án, tạo cơ sở pháp lý để Tòa án giải quyết nhanh chóng các tranh chấp

phát sinh trong xã hội mà vẫn bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của cá

nhân, cơ quan, tổ chức; giảm nhẹ thời gian, chi phí tố tụng của Tòa án và thời

gian, chi phí của các đương sự cho việc tham gia tố tụng tại Tòa án. Tuy nhiên,

cần phải có cơ chế giám sát chặt chẽ trình tự tố tụng này để đảm bảo quyền lợi

cho bên vay, vì khi xảy ra tranh chấp HĐTD thì các TCTD bên cho vay) là

bên mong muốn được áp dụng giải quyết theo trình tự TTRG để nhanh chóng

thu hồi vốn và giải quyết nợ xấu do hoạt động tín dụng gây ra. Bổ sung thêm

các văn bản hướng dẫn về xử án theo TTRG của BLTTDS nhằm đảm bảo tính

chính xác khi áp dụng các vụ án theo thủ tục này.

Đồng thời, việc ban hành thêm hình thức gửi đơn kiện qua cổng trực

tuyến [2, Khoản 1 điều 190] và phương thức cấp, tống đạt, thông báo của Tòa

bằng phương tiện điện tử [2, Khoản 2 điều 173]. Theo đó, người khởi kiện có

thể gửi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đến Tòa án có thẩm quyền

giải quyết vụ án bằng phương thức gửi trực tuyến qua cổng thông tin điện tử

của Tòa án (nếu có). Ngày khởi kiện được xác định là ngày gửi đơn. Sau khi

nhận đơn trực tuyến, Tòa án in ra bản giấy và ghi vào sổ nhận đơn, thông báo

trên cổng thông tin điện tử của Tòa án đồng thời trả lời cho người khởi kiện

57

biết qua thư điện tử. Việc cấp, tống đạt, thông báo của Tòa cũng được thực

hiện qua thư điện tử. Điều sẽ góp phần giảm thời gian và chi phí đi lại của các

bên đương sự nếu muốn khởi kiện tranh chấp HĐTD ra Tòa án khi ở quá xa trụ

sợ Tòa án có thẩm quyền giải quyết.

Tuy nhiên, quy định về hoạt động gửi đơn trực tuyến vẫn còn gặp nhiều

vướng mắc, bất cập sau:

- Ngày đương sự gửi đơn khởi kiện đến Tòa án phải được xác định chính

xác trong hoạt động tố tụng, vì đây là thời điểm phát sinh các quyền, nghĩa vụ

của Người khởi kiện người tham gia tố tụng) và trách nhiệm của Thẩm phán

Người tiến hành tố tụng) khi được giao nhiệm vụ tiếp nhận, giải quyết đơn

khởi kiện. Nhưng trước thực tế hiện nay, hệ thống mạng Internet vẫn còn nhiều

bất cập, vấn đề an ninh mạng vẫn chưa được giải quyết triệt để, hiện tượng

mạng nội bộ bị “treo” nên đương sự không thể truy cập được để thực hiện

được thao tác gửi đơn; hoặc có trường hợp đương sự đã gửi văn bản đến đúng

địa chỉ cổng thông tin của Tòa án, nhưng bộ phận tiếp nhận đơn không thể

nhận, xử lý được dữ liệu. Dẫn đến việc, văn bản được gửi đi nhưng cấp có

thẩm quyền không tiếp nhận được nên không có căn cứ để giải quyết; còn

đương sự vẫn tiếp tục chờ đợi thông tin.

- Để có căn cứ chấp nhận hay bác đơn khởi kiện của đương sự, trong

suốt quá trình giải quyết kể từ lúc tiếp nhận đơn khởi kiện, Thẩm phán phải thu

thập chứng cứ là các tài liệu kèm theo đơn khởi kiện do Người khởi kiện giao

nộp. Trong 76 trường hợp đơn khởi kiện và tài liệu kèm theo đơn được gửi

trực tuyến bằng phương tiện điện tử qua cổng thông tin Tòa án, điều luật quy

định Thẩm phán phải in ra bản giấy vào sổ nhận đơn. Trên thực tế, cùng với

việc nộp đơn khởi kiện, đương sự hầu hết đều gửi nhiều tài liệu gốc có giá trị

chứng cứ. Nhưng BLTTDS năm 2015 chưa quy định hoạt động tiếp theo ngay

sau khi Thẩm phán in tài liệu ra bản giấy. Việc quy định này rất thuận lợi cho

người dân thực hiện quyền khởi kiện, nhưng gây khó khăn cho Thẩm phán khi

xét xử trong việc đánh giá tính khách quan của chứng cứ, vì Thẩm phán không

58

thể đánh giá chứng cứ trên cơ sở tài liệu được sao chép lại, không phải là bản

gốc. Việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản của Tòa án đến đương sự cũng gặp

trường hợp tương tự như vậy, vì cần phải có chữ ký xác nhận của các đương sự

làm căn cứ, để biết người trực tiếp tham gia tố tụng có nhận được văn bản của

Tòa hay không, làm căn cứ để thực hiện các bước xét xử tại Tòa án. Như vậy,

để các điều luật này thực sự phát huy tác dụng và có hiệu quả cao nhất khi đi

vào thực tiễn. Đề nghị trong thời gian tới, các ngành tư pháp trung ương cần

tiếp tục nghiên cứu, xem xét giải quyết những vướng mắc như sau:

- Sớm có văn bản hướng dẫn việc thu thập chứng cứ sau khi đương sự

gửi đơn khởi kiện trực tuyến, theo hướng: Thẩm phán có trách nhiệm yêu cầu

đương sự giao nộp tài bản chính đơn khởi kiện và tài liệu gốc kèm theo để lưu

hồ sơ và chỉ đánh giá chứng cứ trên cơ sở những văn bản, tài liệu gốc này, còn

chứng cứ thu thập trên cổng thông tin điện tử thì chỉ để mang tính chất tham

khảo.

- Đảm bảo sự vận hành thông suốt và nâng cấp an ninh của Công thông

tin điện tử nhằm khắc phục hiện tượng trang web không thể truy cập được

hoặc bị sao chép, “đánh cắp” thông tin. Với việc ban hành các quy định về gửi

đơn kiện, cấp tống đạt qua trực tuyến của BLTTDS 2015, TAND Tối cao cần

xây dựng thêm phiên tòa xét xử qua trực tuyến. Ví dụ: TAND tỉnh xử phúc

thẩm thì người dân ở huyện, tỉnh xa, hoặc ở nước ngoài, có thể tham gia phiên

tòa qua màn hình trực tuyến, để người dân bớt phải đi lại, di chuyển về tòa

tham dự trực tiếp, tiết kiệm tiền bạc, thời gian và công sức cho người dân, đảm

bảo quyền lợi của các bên đương sự không đến 77 được Tòa án do điều kiện

địa lý và bị xét xử vắng mặt. Để xây dựng mô hình này TAND Tối cao cần đẩy

mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hành chính tư pháp, tham khảo

mô hình xét xử này từ các nước phát triển để áp dụng vào xét xử thực tiễn tại

Việt Nam. Ngoài ra, cần bổ sung thủ tục yêu cầu thanh toán nợ vào những việc

thuộc thẩm quyền của Tòa án. Theo đó, trên cơ sở đơn của người có quyền yêu

cầu và các hồ sơ HĐTD, hợp đồng thế chấp. Tòa án xem xét và ra quyết định

59

buộc bên có nghĩa vụ phải thanh toán nghĩa vụ và ra quyết định việc xử lý tài

sản theo hợp đồng của các bên có nghĩa vụ không thanh toán được nghĩa vụ.

Việc ra quyết định là căn cứ để cho UBND, Công an, các tổ chức nhà nước

liên quan phối hợp với các bên tham trong hợp đồng trong quá trình xử lý tài

sản bảo đảm, nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên.

2.4.2. Quy định của Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp

dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ

xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu tại Tòa án nhân dân

Ngày 15/5/2018, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã ban hành Nghị

quyết số 03/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp

luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ

xấu tại T ND để triển khai thực hiện các chính sách tại Nghị quyết số

42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD. Nghị

quyết số 03/2018/NQ-HĐTP có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2018

đến ngày Nghị quyết số 42/2017/QH14 hết hiệu lực thi hành (15/08/2022) với

một số nội dung cơ bản như sau:

a) Về TTRG trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo

đảm của khoản nợ xấu

Để hướng dẫn áp dụng TTRG trong giải quyết tranh chấp liên quan đến

tài sản bảo đảm tại Tòa án theo quy định tại Điều 8 Nghị quyết 42/2017/QH14,

Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP quy định Tòa án giải quyết theo TTRG đối

với tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm, tranh chấp về quyền xử lý tài

sản bảo đảm của khoản nợ xấu đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại khoản 1

Điều 8 của Nghị quyết số 42/2017/QH14 và hướng dẫn của Nghị quyết số

03/2018/NQ-HĐTP.

Tại Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP có hướng dẫn một số nội dung

liên quan đến áp dụng TTRG nêu trên như sau:

Thứ nhất, về xác định tranh chấp nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm theo

khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết số 42/2017/QH14, Nghị quyết số 03/2018/NQ-

60

HĐTP quy định tranh chấp này là tranh chấp về việc bên bảo đảm, bên giữ tài

sản bảo đảm của khoản nợ xấu không giao tài sản bảo đảm hoặc giao không

đúng theo yêu cầu của bên nhận bảo đảm, bên có quyền xử lý tài sản bảo đảm

để xử lý tài sản đó nhằm giải quyết nợ xấu.

Để giải thích rõ, Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP có ví dụ về cách xác

định loại tranh chấp này như sau: Ngân hàng thương mại cổ phần A cho Công

ty trách nhiệm hữu hạn B vay 5.000.000.000 đồng Năm tỷ đồng). Để bảo đảm

cho khoản vay theo hợp đồng vay, Công ty trách nhiệm hữu hạn B (bên bảo

đảm) đã thế chấp ngôi nhà X thuộc sở hữu của mình cho Ngân hàng thương

mại cổ phần A (bên nhận bảo đảm). Khoản vay này được xác định là khoản nợ

xấu, Ngân hàng thương mại cổ phần A yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn B

giao ngôi nhà X (tài sản bảo đảm) để xử lý nhằm giải quyết nợ xấu nhưng

Công ty trách nhiệm hữu hạn B không giao. Khi đó, tranh chấp này được xác

định là "Tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu” theo

Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP.

Thứ hai, về tranh chấp quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu

theo khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết số 42/2017/QH14, Nghị quyết số

03/2018/NQ-HĐTP quy định tranh chấp này là tranh chấp về việc xác định

người có quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu. Tương tự, để giải

thích rõ, Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP có ví dụ cụ thể về cách xác định

loại tranh chấp này như sau: Ngân hàng thương mại cổ phần A cho Công ty

trách nhiệm hữu hạn B vay 5.000.000.000 đồng Năm tỷ đồng). Để bảo đảm

cho khoản vay theo hợp đồng vay, Công ty trách nhiệm hữu hạn B (bên bảo

đảm) đã thế chấp ngôi nhà X thuộc sở hữu của mình cho Ngân hàng thương

mại cổ phần A (bên nhận bảo đảm). Khoản vay này được xác định là khoản nợ

xấu, Ngân hàng thương mại cổ phần A yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn B

giao ngôi nhà X (tài sản bảo đảm) để xử lý nhằm giải quyết nợ xấu nhưng

Công ty trách nhiệm hữu hạn B không đồng ý vì cho rằng mình có quyền tự

chuyển nhượng ngôi nhà X để giải quyết nợ xấu. Theo đó, tranh chấp này được

61

xác định là “Tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu”

theo quy định của Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP.

Thứ ba, về th a thuận nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu,

tranh chấp “không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước

ngoài” tại khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết số 42/2017/QH14, Nghị quyết số

03/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn th a thuận này có thể được ghi nhận trong hợp

đồng bảo đảm, phụ lục hợp đồng bảo đảm hoặc văn bản khác có hiệu lực như

hợp đồng.

Ngoài ra, theo Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP, tranh chấp “không có

đương sự cư trú ở nước ngoài” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 của

Nghị quyết số 42/2017/QH14 phải là tranh chấp không thuộc các trường hợp

sau: i) Đương sự là người Việt Nam nhưng không cư trú ở Việt Nam tại thời

điểm Tòa án thụ lý đơn khởi kiện. Tòa án xác định việc cư trú của đương sự

theo quy định của Luật Cư trú; ii) Đương sự là người nước ngoài không

thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam tại thời điểm Tòa án thụ lý đơn khởi kiện.

Tòa án xác định việc thường trú hoặc tạm trú của người nước ngoài theo quy

định của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại

Việt Nam; iii) Đương sự là tổ chức nước ngoài theo quy định tại khoản 26

Điều 4 của Luật Doanh nghiệp mà không ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân ở

Việt Nam khởi kiện, tham gia tố tụng.

Đồng thời, Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP cũng quy định rõ tranh

chấp “không có tài sản tranh chấp ở nước ngoài” theo quy định tại Điều 8 của

Nghị quyết số 42/2017/QH14 là tranh chấp mà không có tài sản được xác định

theo quy định của BLDS ở ngoài lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam tại thời điểm Tòa án thụ lý đơn khởi kiện.

Thứ tư, về đơn khởi kiện, nộp đơn và thụ lý đơn khởi kiện, Nghị quyết

số 03/2018/NQ-HĐTP quy định hình thức, nội dung đơn khởi kiện thực hiện

theo quy định tại khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 189 của BLTTDS, Mẫu số 23-DS ban

hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13 tháng 01 năm 2017

62

của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao ban hành một số biểu mẫu trong tố

tụng dân sự và hướng dẫn tại Điều 6 của Nghị quyết này về ủy quyền khởi kiện

và tham gia tố tụng. Bên cạnh đó, Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP quy định

về tài liệu kèm theo đơn khởi kiện bao gồm: i) HĐTD; ii) Tài liệu, chứng cứ

chứng minh khoản nợ đang có tranh chấp là nợ xấu theo quy định tại Điều 4

của Nghị quyết số 42/2017/QH14; iii) Văn bản, hợp đồng bảo đảm và tài liệu,

chứng cứ chứng minh về việc đã đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc biện pháp

bảo đảm; (iv) Tài liệu, chứng cứ về nơi cư trú, làm việc của người bị kiện,

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân hoặc trụ sở của người bị

kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức.

Trường hợp có đương sự cư trú ở nước ngoài, Nghị quyết số

03/2018/NQ-HĐTP yêu cầu phải có thêm một trong các tài liệu, chứng cứ sau

đây: i) Văn bản th a thuận giữa đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt

Nam đề nghị Tòa án giải quyết theo TTRG có công chứng, chứng thực hợp

pháp. Trường hợp văn bản này được lập ở nước ngoài thì phải được hợp pháp

hóa lãnh sự, trừ trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định tại

khoản 1 và 2 Điều 9 của Nghị định số 111/2011/NĐ-CP ngày 01 tháng 12 năm

2011 của Chính phủ về chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự; (ii) Tài liệu,

chứng cứ chứng minh quyền sở hữu tài sản hợp pháp và th a thuận thống nhất

về việc xử lý tài sản của các đương sự có công chứng, chứng thực hợp pháp.

Trường hợp văn bản này được lập ở nước ngoài thì phải được hợp pháp hóa

lãnh sự, trừ trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định tại

khoản 1 và 2 Điều 9 của Nghị định số 111/2011/NĐ-CP ngày 01 tháng 12 năm

2011 của Chính phủ về chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự. Việc nộp

đơn và thụ lý đơn khởi kiện tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của

khoản nợ xấu được thực hiện theo quy định của BLTTDS và văn bản hướng

dẫn thi hành.

Thứ năm, về TTRG, Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP quy định Tòa án

áp dụng các quy định của BLTTDS về giải quyết vụ án dân sự theo TTRG, các

63

văn bản hướng dẫn thi hành BLTTDS có liên quan và hướng dẫn của Nghị

quyết số 03/2018/NQ-HĐTP để giải quyết các tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài

sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo TTRG.

Bên cạnh đó, Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP cũng hướng dẫn trường

hợp trong quá trình giải quyết vụ án HNGĐ, trước khi Tòa án ra quyết định

đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, nếu có đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết tranh

chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm, tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo

đảm của khoản nợ xấu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 8 của Nghị

quyết số 42/2017/QH14 mà tài sản bảo đảm đó là tài sản của vợ chồng thì Tòa

án có thể tách yêu cầu của đương sự đó để giải quyết bằng một vụ án khác theo

TTRG. Để làm rõ, Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn bằng ví dụ cụ

thể như sau: T ND thành phố HP đã thụ lý vụ án ly hôn giữa ông A và bà B.

Ngân hàng thương mại cổ phần X được xác định là người có quyền lợi, nghĩa

vụ liên quan. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Ngân hàng thương mại cổ phần

X có đơn đề nghị Tòa án giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo

đảm là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu ngôi nhà trên đất nằm trong khối tài

sản chung của vợ chồng ông A, bà B. Đồng thời, Ngân hàng thương mại cổ

phần X đề nghị Tòa án tách phần yêu cầu này giải quyết bằng vụ án khác theo

TTRG. Trường hợp này, nếu Ngân hàng thương mại cổ phần X cung cấp được

tài liệu, chứng cứ chứng minh tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm

giữa Ngân hàng thương mại cổ phần X và ông , bà B đáp ứng đầy đủ các

điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết số 42/2017/QH14 và

hướng dẫn của Nghị quyết này thì Tòa án tách yêu cầu của Ngân hàng thương

mại cổ phần X để giải quyết bằng một vụ án khác theo TTRG.

b) Về tài sản bảo đảm theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 7 của Nghị

quyết số 42/2017/QH14 liên quan đến điều kiện thực hiện quyền thu giữ tài

sản bảo đảm

Để hướng dẫn cụ thể về tài sản bảo đảm đủ điều kiện để TCTD, chi

nhánh ngân hàng nước ngoài, V MC được quyền thu giữ theo quy định tại

64

điểm d khoản 2 Điều 7 của Nghị quyết 42/2017/QH14, Nghị quyết số

03/2018/NQ-HĐTP quy định như sau: Thứ nhất, trường hợp tài sản bảo đảm

của khoản nợ xấu là tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đã bị Tòa án thụ lý

đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và đang trong quá trình giải quyết vụ việc phá

sản thì TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC không có quyền thu

giữ tài sản bảo đảm. Việc xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp này được

thực hiện theo quy định của Luật Phá sản. Thứ hai, trường hợp tài sản bảo đảm

của khoản nợ xấu là tài sản của bên thứ ba mà bên được bảo đảm là doanh

nghiệp, hợp tác xã đã bị Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và đang

trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản thì TCTD, chi nhánh ngân hàng

nước ngoài, VAMC có quyền thu giữ tài sản bảo đảm đó và xử lý theo quy

định của pháp luật hoặc đề nghị Tòa án có thẩm quyền giải quyết trong quá

trình giải quyết phá sản theo quy định của pháp luật.

c) Về ủy quyền khởi kiện, tham gia tố tụng

Về việc ủy quyền khởi kiện, tham gia tố tụng, Nghị quyết số

03/2018/NQ-HĐTP quy định: i) Cá nhân được quyền ủy quyền cho pháp nhân

hoặc cá nhân khác tham gia tố tụng tại Tòa án có thẩm quyền để giải quyết

tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu. Việc làm đơn

khởi kiện của cá nhân thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 189 của

BLTTDS. (ii) Pháp nhân có quyền ủy quyền cho pháp nhân hoặc cá nhân khác

khởi kiện, tham gia tố tụng tại Tòa án có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp

về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu. (iii) Cá nhân, pháp nhân

được ủy quyền được ủy quyền lại cho pháp nhân, cá nhân khác tham gia tố

tụng nếu bên ủy quyền đồng ý bằng văn bản. Việc ủy quyền nêu trên phải được

lập thành văn bản và xác định rõ phạm vi, nội dung ủy quyền.

Về việc ghi thông tin và ký đơn khởi kiện của pháp nhân, Nghị quyết số

03/2018/NQ-HĐTP quy định: i) Trường hợp người được ủy quyền khởi kiện

là cá nhân thì phần người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ của pháp nhân khởi

kiện và họ tên, địa chỉ của người đại diện theo ủy quyền; phần cuối đơn khởi

65

kiện ghi đại diện của người khởi kiện, người đại diện theo ủy quyền ký tên, ghi

rõ họ tên của người được ủy quyền. Người đại diện theo pháp luật của pháp

nhân ủy quyền không bắt buộc phải ký tên, đóng dấu vào phần cuối đơn khởi

kiện. ii) Trường hợp người được ủy quyền khởi kiện là pháp nhân thì phần

người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ của pháp nhân khởi kiện và tên, địa chỉ

của pháp nhân đại diện theo ủy quyền, họ tên và chức vụ của người đại diện

hợp pháp của pháp nhân được ủy quyền; phần cuối đơn ghi đại diện của người

khởi kiện, pháp nhân đại diện theo ủy quyền, người đại diện hợp pháp của

pháp nhân được ủy quyền ký tên, ghi rõ họ tên, chức vụ và đóng dấu của pháp

nhân được ủy quyền. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền

không bắt buộc phải ký tên, đóng dấu vào phần cuối đơn khởi kiện.

Ngoài ra, Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP cũng hướng dẫn xử lý

trường hợp các hợp đồng ủy quyền được xác lập trước ngày 01 tháng 01 năm

2017, theo đó, khi giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của

khoản nợ xấu nếu hợp đồng ủy quyền được xác lập trước ngày 01 tháng 01

năm 2017 giữa tổ chức, cá nhân chưa hoặc đang được thực hiện mà có nội

dung, hình thức phù hợp với quy định của BLDS năm 2015 và tại thời điểm

Tòa án thụ lý vụ án không phát sinh tranh chấp về hợp đồng ủy quyền đó thì

Tòa án công nhận hiệu lực của hợp đồng ủy quyền mà không yêu cầu các bên

phải xác lập lại.

d) Về kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng

Về kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng, theo Nghị quyết số 03/2018/NQ-

HĐTP, bên mua khoản nợ xấu, khoản nợ có nguồn gốc từ khoản nợ xấu của

TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, V MC được kế thừa quyền, nghĩa vụ

tố tụng của bên bán theo quy định tại khoản 4 Điều 74 của BLTTDS.

Ngoài ra, đối với vụ án dân sự đang được Tòa án thụ lý, giải quyết theo

thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm, tái thẩm mà đương sự thực

hiện việc mua bán khoản nợ xấu, khoản nợ có nguồn gốc từ khoản nợ xấu,

Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án

66

theo thủ tục chung và căn cứ vào hợp đồng mua bán nợ để bổ sung việc xác

định tư cách đương sự, người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự

như sau:

Thứ nhất, trường hợp bên mua một phần khoản nợ xấu, khoản nợ có

nguồn gốc từ khoản nợ xấu được kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng và xác định

tư cách đương sự như bên bán đối với phần khoản nợ đã mua. Tòa án ghi trong

các văn bản tố tụng tư cách của bên mua là “người kế thừa một phần quyền,

nghĩa vụ tố tụng” của bên bán (ghi rõ tên của bên bán nợ);

Thứ hai, trường hợp bên mua toàn bộ khoản nợ xấu, khoản nợ có nguồn

gốc từ khoản nợ xấu được kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ tố tụng và xác định

tư cách đương sự thay thế cho bên bán. Tòa án ghi trong các văn bản tố tụng tư

cách của bên mua là “người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng” của bên bán (ghi

rõ tên của bên bán nợ); Kể từ ngày Tòa án nhận được các tài liệu, chứng cứ

xác định hợp đồng mua bán nợ có hiệu lực, bên mua đã xác lập được quyền sở

hữu đối với tài sản mua theo quy định của pháp luật thì văn bản tố tụng phải

ghi bên mua là người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bên bán. Đồng thời, Nghị

quyết số 03/2018/NQ-HĐTP đưa ra ví dụ để làm rõ nội dung này, cụ thể: Ngân

hàng thương mại cổ phần là nguyên đơn trong vụ án “Tranh chấp về nghĩa

vụ giao tài sản bảo đảm”. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, Ngân hàng

thương mại cổ phần A bán toàn bộ khoản nợ xấu và quyền yêu cầu chuyển

giao tài sản bảo đảm cho Công ty trách nhiệm hữu hạn B. Kể từ ngày nhận

được các tài liệu, chứng cứ xác định bên mua đã xác lập quyền đòi khoản nợ

xấu đó thì Tòa án xác định Công ty trách nhiệm hữu hạn B là người kế thừa

quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn và văn bản tố tụng ghi: “Nguyên đơn:

Ngân hàng thương mại cổ phần A, trụ sở tại...; Công ty trách nhiệm hữu hạn B,

trụ sở tại... là người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của Ngân hàng thương mại

cổ phần ; người đại diện hợp pháp của nguyên đơn là ông Nguyễn Văn C -

Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn B”.

e) Về hướng dẫn chuyển tiếp

67

Để bảo đảm tính thống nhất trong áp dụng pháp luật, Nghị quyết số

03/2018/NQ-HĐTP quy định chuyển tiếp trong 03 trường hợp:

Một là, đối với những vụ án tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm

của khoản nợ xấu mà Tòa án đã thụ lý trước khi Nghị quyết này có hiệu lực thi

hành nhưng chưa xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm hoặc xét xử giám đốc

thẩm, tái thẩm thì áp dụng hướng dẫn của Nghị quyết này để giải quyết. Các

hoạt động tố tụng đã được tiến hành trước khi Nghị quyết này có hiệu lực mà

phù hợp với quy định của BLTTDS thì không phải thực hiện lại.

Hai là, đối với những vụ án tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm

của khoản nợ xấu mà Tòa án đã thụ lý trong thời gian Nghị quyết này có hiệu

lực thi hành nhưng vẫn đang giải quyết khi Nghị quyết này hết hiệu lực thi

hành thì Tòa án vẫn tiếp tục áp dụng những hướng dẫn của Nghị quyết này để

giải quyết.

Ba là, đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật

trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành thì không áp dụng hướng dẫn

của Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm,

trừ trường hợp kháng nghị vì lý do khác.

Bên cạnh các nội dung cơ bản trên đây, Nghị quyết số 03/2018/NQ-

HĐTP cũng quy định về nguyên tắc áp dụng pháp luật, theo đó, trường hợp có

sự khác nhau giữa Nghị quyết này và Nghị quyết khác hướng dẫn thi hành

BLTTDS về cùng một vấn đề thì áp dụng hướng dẫn tại Nghị quyết này.

2.5. Thực trạng và đánh giá về tình hình giải quyết vụ

án dân sự, tranh chấp Hợp đồng tín dụng tại Tòa án hiện nay

và những yếu tố cơ bản ảnh hƣởng tới chất lƣợng bản án

2.5.1. Thực trạng giải quyết các vụ án dân sự hiện nay

Theo số liệu thống kê tại Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao

trước Quốc hội hàng năm thì tính trung bình 05 năm gần đây, m i năm các Tòa

án nhân dân đã giải quyết trên 350.000 vụ việc dân sự, KDTM, HNGĐ và LĐ.

Trong đó vụ việc về kinh doanh, thương mại đều chiếm từ trên 17 nghìn vụ

68

việc trở lên; tỷ lệ các vụ việc mà Tòa án phải giải quyết hàng năm tăng khoảng

15%; các vụ việc về kinh doanh, thương mại và lao động có tỷ lệ tăng cao hơn

so với các vụ việc dân sự khác. Cụ thể:

- Năm 2019: thụ lý 496.770 vụ việc; đã giải quyết, xét xử được 387.428

vụ việc, đạt tỷ lệ 78% Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công

tác của các Tòa án trước Quốc hội, số 59/BC-TA ngày 10/10/2019).

- Năm 2018: thụ lý 446.224 vụ việc; đã giải quyết, xét xử được 345.98

vụ việc, đạt tỷ lệ 77,5% Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về

công tác của các Tòa án trước Quốc hội, số 50/BC-TA ngày 12/10/2018).

- Năm 2017: thụ lý 395.317 vụ việc, đã giải quyết, xét xử 356.586 vụ

việc, đạt tỷ lệ 90,2% Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công

tác của các Tòa án trước Quốc hội, số 39/BC-TA ngày 10/10/2017).

- Năm 2016: thụ lý 359.748 vụ việc, đã giải quyết, xét xử 332.896 vụ

việc, đạt tỷ lệ 92,5% Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công

tác của các Tòa án trước Quốc hội, số 5/BC-TA ngày 12/10/2016).

- Năm 2015: thụ lý 333.159 vụ việc, đã giải quyết, xét xử 308.585 vụ

việc, đạt 92,6% Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác

của các Tòa án trước Quốc hội, số 54/BC-TA ngày 09/10/2015).

Về án KDTM, các Tòa án thụ lý, giải quyết cụ thể như sau:

- Năm 2015 thụ lý 18.790 vụ việc; giải quyết, xét xử 16.228 vụ việc, đạt

tỷ lệ 86,4%.

- Năm 2016 thụ lý 17.593 vụ việc; giải quyết, xét xử 14.792 vụ việc, đạt

tỷ lệ 84,1%.

- Năm 2017 thụ lý 17.630 vụ việc; giải quyết, xét xử 13.442 vụ việc, đạt

tỷ lệ 76,2%. So với năm 2016 số thụ lý tăng 37 vụ việc, số giải quyết giảm

1.350 vụ việc.

- Năm 2018 thụ lý 17.624 vụ việc; giải quyết, xét xử 10.625 vụ việc, đạt

tỷ lệ 60,3%. So với năm 2017 số thụ lý giảm 6 vụ việc, số giải quyết giảm

2.817 vụ việc.

69

- Năm 2019 thụ lý 17.956 vụ việc; giải quyết, xét xử 11.269 vụ việc,

đạt tỷ lệ 62,7%. So với c ng kỳ năm 2018 số thụ lý tăng 1.910 vụ việc, số giải

quyết tăng 1.785 vụ việc.

Từ các số liệu trên ta thấy, số lượng các vụ án dân sự, HNGĐ, KDTM

và LĐ mà Tòa án nhân dân thụ lý và giải quyết là rất lớn. Trong tổng số các vụ

án mà toàn ngành Tòa án thụ lý, giải quyết nêu trên có không ít những vụ án có

chứng cứ rõ ràng, nội dung tranh chấp đơn giản, bị đơn thừa nhận hoặc không

phản đối yêu cầu của nguyên đơn, vụ án có giá ngạch thấp nhưng vẫn phải giải

quyết theo trình tự thủ tục tố tụng thông thường gây mất thời gian, tiền bạc,

công sức của cơ quan tố tụng và các đương sự. Hơn nữa, có rất nhiều các vụ án

bị đơn cố tình không thực hiện nghĩa vụ, lạm dụng quyền kháng cáo để kéo dài

thời gian giải quyết vụ án góp phần làm cho tình trạng án tồn đọng kéo dài và

gây sức ép không nh cho cán bộ nhất là các Thẩm phán đã giải quyết vụ án.

Ví dụ: Vụ án Phạm Văn Quang kiện Ngân hàng thương mại cổ phần

ngoại thương Việt Nam VCB) ra T ND quận 1, thành phố Hồ Chí Minh yêu

cầu bị đơn trả lại số tiền rất nh là 5.500 đồng phí TM. Theo nội dung vụ

kiện thì ngày 03/4/2013, nguyên đơn đến trụ TM của VCB đặt ở Quang

Trung Gò Vấp) để rút 15 triệu đồng. Những lần trước nguyên đơn chỉ cần

giao dịch ba lần m i lần rút được 05 triệu đồng) và chỉ mất phí rút tiền là

3.300 đồng. Tuy nhiên, thời điểm này trụ TM chỉ còn tiền mệnh giá 50.000

đồng nên nguyên đơn phải rút đến tám lần, m i lần rút 1.750.000 đồng và phải

chịu phí rút tiền là 8.800 đồng. Như vậy, so với mọi lần, nguyên đơn phải mất

thêm 5.500 đồng. Vì cho rằng đây là hành vi lừa dối khách hàng để thu lợi

thêm nên nguyên đơn làm đơn khởi kiện. Sau gần một năm thụ lý, ngày

23/01/2014 T ND quận 1, thành phố Hồ Chí Minh đã đưa vụ án ra xét xử sơ

thẩm bác yêu cầu của nguyên đơn đòi bị đơn trả lại 5.500 đồng phí TM.

Chính vì TTRG chưa được áp dụng nên những vụ án đơn giản, giá trị tranh

chấp chỉ 5.500 đồng mà gần một năm sau vụ việc mới được giải quyết, gây ảnh

hưởng đến quyền lợi của nguyên đơn cũng như uy tín của ngân hàng.

70

Với tình trạng án gia tăng và tồn đọng nhiều như hiện nay, ngành Tòa án

đã phải chịu một áp lực không nh từ công việc. Để khắc phục tình trạng này,

việc áp dụng TTRG để giải quyết nhanh chóng, đúng pháp luật những vụ án có

nội dung đơn giản, rõ ràng, có giá ngạch thấp như trên là điều rất cần thiết và

hợp lý.

Từ những phân tích nêu trên có thể thấy rằng, việc áp dụng TTRG trong

tố tụng dân sự là một bước chuyển biến mang tính cải cách quan trọng trong

quá trình đổi mới thủ tục tố tụng dân sự ở nước ta. Tuy nhiên, các quy định về

thủ tục tố tụng rút gọn mới chỉ mới được đưa vào BLTTDS năm 2015 và áp

dụng từ ngày BLTTDS 2015 có hiệu lực 01/7/2016), các quy định hướng dẫn

áp dụng thủ tục này còn chưa có, trong khi việc giải quyết các vụ án xảy ra trên

thực tế không phải lúc nào cũng có thể “dễ dàng” để áp dụng thủ tục này. Hơn

nữa, vì là quy định định mới cho nên tâm lý người Thẩm phán dường như vẫn

đang còn “e dè” trong việc áp dụng. Do đó, trong thời gian tới, cần có những

hướng dẫn cụ thể của T ND tối cao về cách thức áp dụng và điều kiện bắt

buộc phải áp dụng TTRG trên thực tế để cho thủ tục này thực sự phát huy được

vai trò, hiệu quả trong việc giải quyến các vụ án dân sự.

2.5.2. Đánh giá về tình hình giải quyết tranh chấp Hợp đồng tín dụng

tại Tòa án hiện nay

Quốc hội khoá X kỳ họp thứ X đã thông qua Luật các tổ chức Tòa án

nhân dân vào ngày 2/4/2002. Điều 1 của Luật quy định thẩm quyền của Tòa án

nhân dân xét xử các vụ án hình sự, hôn nhân – gia đình, hành chính, dân sự,

kinh tế và giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó,

BLTTDS 2004 được ban hành và có hiệu lực từ 1/1/2005. Qua mấy năm hoạt

động và thực hiện BLTTDS, các Tòa án nhân dân các cấp có thẩm quyền đã

từng bước vận dụng tối ưu các quy định của pháp luật để giải quyết các tranh

chấp. Việc giải quyết đã góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các

chủ thể kinh doanh, đảm bảo công khai, trực tiếp, bước đầu tạo niềm tin cho

các bên tranh chấp vào phương thức giải quyết tại Tòa án theo thủ tục tố tụng

71

dân sự. Tình hình thụ lý và giải quyết các tranh chấp HĐTD thời gian qua đã

có nhiều chuyển biến. Tranh chấp HĐTD chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các vụ

án đã thụ lý và giải quyết tại toà kinh tế. Năm 1999 chiếm 32,16%, năm 2000

chiếm 42,58% và 8 tháng 2001 chiếm 38,8%. Tỷ lệ các bản án, quyết định bị

huỷ là 2%, bị sửa là 3%. So với 2005, tỷ lệ các bản án, quyết định bị huỷ giảm

0,5%, bị sửa giảm 0,9%. Trong đó, tỷ lệ các bản án, quyết định của Tòa án cấp

sơ thẩm bị huỷ để giải quyết chiếm 2,3%, bị sửa chiếm 3,4%, tỷ lệ các bản án,

quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm bị huỷ chiếm 3,2%.

Qua thực tiễn giải quyết các tranh chấp HĐTD tại Tòa án thời gian qua

đã đạt được những kết quả nhất định. Cụ thể là:

Một là, BLTTDS đã quy định chi tiết về thời hạn Tòa án phải trả lời

nguyên đơn 5 ngày kể từ ngày Tòa án nhận được đơn khởi kiện), thời hạn

chuẩn bị xét xử từ 2 – 4 tháng) và thời hạn mở phiên toà sơ thẩm từ 1- 2

tháng kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử). Quy định này đã nâng cao

trách nhiệm của các Tòa án trong quá trình giải quyết các vụ án tranh chấp

HĐTD .

Hai là, việc giải quyết tranh chấp HĐTD đã được thống nhất theo một

thủ tục tố tụng chung- thủ tục tố tụng dân sự. Điều này đã khắc phục được hạn

chế lớn trước đây trong giải quyết tranh chấp HĐTD. Trước khi có BLTTDS,

Tòa án phải mất nhiều thời gian để xác định tranh chấp HĐTD cần được giải

quyết là vụ án dân sự hay tranh chấp kinh tế đ dụng quy định của Pháp lệnh

thủ tục giải quyết các vụ án dân sự hay kinh tế. Hiện nay, vấn đề này không đặt

ra nữa. Điều này, đã tiết kiệm được thời gian cho các cơ quan tư pháp và cho

chính các bên tranh chấp.

Ba là, Tòa án nhân dân các cấp đã không ngừng nâng cao chất lượng xét

xử, làm rõ những yêu cầu của đương sự trong vụ án, tăng cường phối hợp với

các cơ quan hữu quan để giải quyết vụ án.

Bốn là, công tác giải quyết tranh chấp về cơ bản được thực hiện đúng

các quy định của pháp luật, góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của

72

các bên tranh chấp.

Năm là, tình trạng sai phạm của các cán bộ ngành Tòa án đã bước đầu

được xử lý và tiến hành bồi thường cho các đối tượng bị xử oan sai, đảm bảo

thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Mặc d đã đạt được những kết quả nêu trên nhưng hoạt động của Tòa án

đối với giải quyết các tranh chấp HĐTD vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế khiến

quá trình giải quyết còn chưa thực sự có hiệu quả. Đó là:

Tình trạng để các vụ tranh chấp quá thời hạn không được giải quyết.

Theo báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án thì tình trạng này chiếm tỷ lệ cao

chủ yếu tập trung ở Tòa án cấp sơ thẩm, một số đơn vị còn nhiều vụ tranh chấp

tồn đọng như các Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện của thành phố Hồ Chí

Minh, Đồng Nai, Bến Tre…điều đáng chú ý là thành phố Hồ Chí Minh là

trung tâm kinh tế của cả nước nhưng lại là nơi có số lượng án tồn đọng nhiều

nhất cả nước.

Nhiều vụ tranh chấp để kéo dài, qua nhiều lần xét xử vẫn không tìm

được phương án giải quyết thoả đáng, làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của

các bên. Vẫn còn tình trạng một số bản án của Tòa án không rõ ràng, gây khó

khăn cho việc đảm bảo bản án của toà được thi hành.

Trong quá trình giải quyết tranh chấp, do việc nghiên cứu tài liệu, chứng

cứ không đầy đủ, rõ ràng, đánh giá chứng cứ không đúng với sự thật khách

quan, thậm chí có Thẩm phán còn xác định sai tư cách tố tụng của đương sự

hoặc triệu tập không đầy đủ những người bắt buộc phải tham gia phiên toà dẫn

đến nhiều phiên toà vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và kết quả là bản án

được tuyên bị huỷ vì vi phạm nghĩa vụ tố tụng.

Công tác thụ lý và giải quyết theo thủ tục phúc thẩm còn chậm, nhiều

bản án phúc thẩm còn giải quyết chưa thoả đáng, việc phát hiện những sai sót

của Tòa án sơ thẩm còn chưa tiến hành kịp thời để đưa ra những giải pháp

khắc phục. Số lượng bản án phúc thẩm bị xét lại theo tủ tục giám đốc thẩm, tái

thẩm còn chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng số vụ án thụ lý giải quyết. Việc tố

73

tụng chậm, sai, phiền hà đã ảnh hưởng tiêu cực tới các bên trong HĐTD. Đối

với các TCTD cho vay, việc giải quyết tranh chấp HĐTD kéo dài, bên cho vay

không thu hồi được vốn cho vay, ảnh hưởng tới hoạt động của tổ chức đó. Còn

đói với bên vay, tranh chấp kéo dài có thể làm cho việc ký kết những hợp đồng

vay với các TCTD cho vay khác để mở rộng nguồn vốn kinh doanh gặp khó

khăn. Ngoài ra, thủ tục tố tụng phiền hà còn tạo tâm lý e ngại sử dụng thủ tục

này của các bên trong tranh chấp HĐTD.

Đối với công tác giám đốc thẩm, tái thẩm và giải quyết khiếu nại vẫn

chưa đảm bảo được những quy định của pháp luật. Công tác kiểm tra, giám

đốc của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới còn hạn chế, nên chưa kịp

thời phát hiện các vi phạm để khắc phục và xử lý.

Một số văn bản pháp luật đã có hiệu lực thi hành trong một thời gian khá

dài nhưng nhiều quy định trong các văn bản đó chưc được Tòa án nhân dân tối

cao, VKSND nhân dân tối cao c ng các cơ quan hữu quan trong phạm vi thẩm

quyền ban hành những văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành nên có tình trạng

các toà áp dụng không thống nhất và kết quả các bản án hoàn toàn trái ngược

nhau giữa các toà.

Đội ngũ cán bộ Tòa án hiện nay còn thiếu về số lượng và yếu kém về

năng lực, có một số cán bộ Tòa án sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm

nghề nghiệp chưa cao nên đã có những hành vi vi phạm làm ảnh hưởng không

nh tới danh dự, uy tín của ngành tư pháp. Năm 2006, đã có 21 cán bộ Tòa án

bị xử lý kỷ luật, trong đó có 9 Thẩm phán, có 4 trường hợp bị truy cứu trách

nhiệm hình sự. Sự yếu kém về năng lực chuyên môn, không vững vàng về

quan điểm lập trường chính trị đã đưa đến nhiều hậu quả đáng tiếc ảnh hưởng

tới chất lượng xét xử cũng như uy tín của ngành Tòa án.

Hiện nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của Tòa án

còn nhiều hạn chế. Quá trình giải quyết các tranh chấp còn mất nhiều thời gian,

nhiều loại chi phí, nhiều đầu mối trung gian trong khi đó lĩnh vực tài chính

ngân hàng là lĩnh vực nhạy cảm yêu cầu giải quyết nhanh gọn để các bên có

74

thể tiến hành hoạt động bình thường.

Những hạn chế tồn tại trên do nhiều nguyên nhân trong đó các nguyên

nhân chủ quan là chủ yếu. Tinh thần trách nhiệm trong công tác xét xử, năng

lực quản lý và điều hành của các cán bộ ngành Tòa án, nhất là Tòa án địa

phương các quận, huyện còn nhiều hạn chế. Trình độ của các Thẩm phán còn

chưa đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn. Ở nhiều Tòa án, công tác đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ làm nguồn bổ nhiệm Thẩm phán còn chưa được chú trọng

đúng mức.

Ngoài ra, pháp luật của Việt Nam đang trong quá trình sửa đổi, bổ sung

để dần dần hoàn thiện. Vì thế, nhiều Bộ luật, luật được ban hành mà chưa có

văn bản dưới luật hướng dẫn chi tiết thi hành, nhiều quy định chồng chéo

không thực hiện được trên thực tế hoặc được áp dụng không thống nhất trong

hệ thông cơ quan tư pháp.

2.5.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng bản án

Thứ nhất, yếu tố đầu tiên và có ý nghĩa quyết định đến chất lượng bản án

là nhân tố con người mà trực tiếp là đội ngũ các Thẩm phán và hội thẩm nhân

dân – những người tham gia hoạt động xét xử tại phiên toà. Một bản án d

được nghị án thông qua trên cơ sở những quy định của pháp luật nhưng suy

cho c ng những quy định đó được hiểu và áp dụng thông qua lăng kính chủ

quan của con người – những thành viên trong hội đồng xét xử. Vì thế, các

Thẩm phán phải là những người có đầy đủ kiến thức về chuyên môn, am hiểu

kiến thức xã hội, có lập trường quan điểm tư tưởng vững vàng mới có thể đánh

giá đúng sự thật khách quan và đưa ra những phương án giải quyết vụ án theo

quy định của pháp luật.

Hiện nay, trình độ của các Thẩm phán còn bất cập như chưa đáp ứng về

chuyên môn, khả năng ngoại ngữ, kinh nghiệm xét xử nên trong những vụ

tranh chấp có yếu tố nước ngoài công tác giải quyết gặp rất nhiều khó khăn.

Không chỉ các Thẩm phán mà m i cá nhân các hội thẩm nhân dân khi tham gia

xét xử cũng phải trang bị những kiến thức pháp luật cần thiết để có thể xét xử

75

độc lập với Thẩm phán và tuân theo đúng quy định của pháp luật.

Thứ hai, đó là hoạt động cung cấp chứng cứ, tài liệu và việc chứng minh

của các chủ thể liên quan, nhất là các đương sự. Trước Tòa án, nếu các đương

sự không chứng minh được sự tồn tại quyền và lợi ích hợp pháp của họ thì

không thể thuyết phục được Tòa án bảo vệ quyền cho mình. Vì trên thực tế,

các Tòa án cũng có thể có sai lầm trong việc xác định các tình tiết, sự kiện của

vụ tranh chấp. Vì lý do này, một mặt dẫn tới việc giải quyết vụ án không đúng

với sự thật khách quan, mặt khác làm cho đương sự không bảo vệ được quyền

lợi của mình. Do vậy, chứng minh không chỉ có ý nghĩa bảo đảm quyền cho

đương sự mà còn có ý nghĩa giúp hội đồng xét xử có những căn cứ pháp lý để

giải quyết vụ án một cách chính xác và đúng luật.

Thứ ba, thực trạng các quy định của pháp luật. Để có một bản án tốt thì

nhất thiết các quy định của pháp luật phải thống nhất, được hiểu một cách nhất

quán tránh tình trạng các Toà rất lúng túng trong áp dụng những quy định

trong các luật liên quan. Những quy định trong các luật, Bộ luật mới dừng lại ở

việc quy định những nguyên tắc chung mang tính định hướng cho từng lĩnh

vực chuyên ngành đó. Vì thế, để thống nhất trong cách hiểu và các cơ quan tư

pháp nhất quán trong áp dụng giải quyết tranh chấp các văn bản pháp luật phải

rõ ràng, minh bạch hoặc phải kịp thời được hướng dẫn.

Thứ tư, vai trò của người tham gia tố tụng cũng góp phần quyết định tới

chất lượng bản án. Theo quy định của BLTTDS, đối với những phiên toà sơ

thẩm sự có mặt của một số người tham gia tố tụng là bắt buộc. Nhưng trên

thực tế, có nhiều phiên toà xét xử đã vi phạm nguyên tắc này, kết quả là Tòa án

đã tuyên bản án vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Đối với những bản án

như vậy, Tòa án cấp trên sẽ phải xử huỷ để xét xử lại tốn nhiều thời gian và chi

phí cho các bên cũng như cho Nhà nước.

Thứ năm, sự giám sát của VKSND đối với những hoạt động tố tụng của

Tòa án trong quá trình giải quyết tranh chấp cũng là một yếu tố ảnh hưởng tới

chất lượng bản án. VKSND thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong

76

việc giải quyết tranh chấp HĐTD thông qua những hoạt đông như: kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp HĐTD của Tòa án

như kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ, hoà giải, xét xử, ra bản án; kiểm sát việc

tuân theo pháp luật trong việc tham gia tố tụng của những người tham gia tố

tụng và những người liên quan trong quá trình giải quyết các tranh chấp

HĐTD; yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị các bản án, quyết định của Tòa án theo

quy định của pháp luật nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án được kịp thời,

đúng pháp luật; tham gia các phiên toà xét xử vụ án tranh chấp HĐTD; kiểm

sát việc tuân theo pháp luật của đương sự, cơ quan thi hành án, chấp hành viên,

cá nhân và tổ chức liên quan đến thi hành án. Sự tham gia của VKSND có ý

nghĩa quan trọng, để hoạt động tố tụng tại toà được đảm bảo tuân thủ đúng

77

pháp luật, nâng cao trách nhiệm của Tòa án đối với quá trình giải quyết.

Kết luận Chƣơng 2

Để thể chế hóa đường lối cải cách tư pháp về “đổi mới thủ tục hành

chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án các cấp nhằm tạo điều kiện thuận lợi

nhất cho người dân khi có công việc tại Tòa án” và cụ thể hóa quy định của

Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức T ND năm 2014 về việc Tòa án xét xử

tập thể, trừ trường hợp xét xử theo TTRG, BLTTDS năm 2015, có hiệu lực thi

hành từ ngày 01/7/2016, mà trong đó, phần thứ tư BLTTDS 2015 có quy định

về điều kiện áp dụng TTRG và trình tự thủ tục giải quyết vụ án theo TTRG tại

Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm. Quy định này đáp ứng yêu cầu đã đặt ra về cải

cách tư pháp của Đảng và Nhà nước, đáp ứng yêu cầu thực tế về việc đảm bảo

không để tình trạng án tồn, án kéo dài gây bức xức dư luận, đồng thời đảm bảo

được quyền và lợi ích của nhân dân được nhanh chóng, kịp thời và tiết kiệm

78

được chi phí tố tụng cho nhân dân.

Chƣơng 3

THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN

DÂN SỰ THEO THỦ TỤC RÚT GỌN TẠI TÒA ÁN, MỘT SỐ VẤN ĐỀ

QUA HIỆN TRẠNG XỬ LÝ NỢ CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

BẰNG HÌNH THỨC KHỞI KIỆN TẠI TÒA ÁN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN

THIỆN QUY ĐỊNH VỀ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ

TỤC RÚT GỌN

3.1. Những hạn chế và khó khăn khi áp dụng các quy định về thủ

tục rút gọn

3.1.1. Những hạn chế và khó khăn khi áp dụng quy định về điều kiện

áp dụng thủ tục rút gọn giải quyết vụ án dân sự

- Điều kiện thứ nhất: Vụ án có tình tiết đơn giản, quan

hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu,

chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa

án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ, khoản 1 Điều 317

BLTTDS năm 2015.

Hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể nào về cách hiểu thế nào là “vụ án

có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng”, điều này làm cho việc áp

dụng quy định này để xem xét vụ án nào đủ điều kiện áp dụng TTRG giải

quyết gặp rất nhiều khó khăn, thiếu sự đồng nhất giữa các Tòa án. Và việc

chưa có cách hiểu cụ thể về điều kiện này cũng gây ra khó khăn cho đương sự

trong việc lựa chọn thủ tục tố tụng rút gọn để giải quyết tranh chấp

Để áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn giải quyết vụ án dân sự thì điều kiện

tiếp theo là “đương sự trong vụ án đó phải thừa nhận nghĩa vụ của mình”. Trên

thực tế để đương sự trong vụ án thừa nhận nghĩa vụ của mình là rất khó khăn.

Qua thực tiễn xét xử vụ án dân sự, HNGĐ, KDTM, LĐ của ngành Tòa án cho

thấy những tranh chấp được gửi đến Tòa án thì thường bị đơn ngay từ đầu sẽ

79

không thừa nhận nghĩa vụ của mình. Họ chỉ thừa nhận nghĩa vụ của mình khi

đã được Tòa án báo họ lên Tòa án để giải quyết. Sở dĩ như vậy là do đối với vụ

án dân sự đã được gửi đến Tòa án thường là những tranh chấp mà các đương

sự thường đã không có tiếng nói chung, không thể thống nhất với nhau về việc

giải quyết nghĩa vụ của các bên, mâu thuẫn giữa các bên đã rất căng thẳng, do

vậy, để ngay từ đầu đương sự thừa nhận nghĩa vụ của mình là rất khó. Chính vì

vậy, để áp ứng được điều kiện “, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ” là rất khó

khăn.

- Điều kiện thứ 2: Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư

trú, trụ sở rõ ràng.

Hiện nay vẫn có cách hiểu không thống nhất nhau về việc xác định nơi

cư trú của các đương sự. Theo luật cư trú năm 2006 thì yêu tố có đăng ký

thường trú hoặc tạm trú vẫn được coi là yếu tố để xác định nơi cư trú của

đương sự. Trong trường hợp không xác định được nơi thường trú hay tạm trú

của đương sự thì nơi cư trú của đương sự là nơi đương sự đang sinh sống. Còn

đối với BLDS năm 2015 thì nơi cư trú ở đây được hiểu là nơi người đó thường

xuyên sinh sống, nếu không xác định được nơi người đó thường xuyên sinh

sống thì nới cư trú là nới người đó đang sinh sống. Do vậy để áp dụng điều

kiện này được chính xác thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có quy định

rõ về cách xác định nơi cư trú của đương sự cho thống nhất

Trường hợp, nguyên đơn gửi đơn khởi kiện đến Tòa án thì bị đơn vẫn có

nơi cư trú rõ ràng và sau khi Tòa án thụ lý và chọn áp dụng TTRG để giải

quyết vụ án. Nhưng sau đó bị đơn lại trốn tránh nên lại không xác định được

nơi cư trú rõ ràng của bị đơn thì trường hợp này sẽ phải giải quyết như thế nào.

Theo ý tác giả thì trong trường hợp này nếu nguyên đơn đã cũng cấp đầy đủ tài

liệu, chứng cứ để chứng minh đầy đủ, rõ ràng nghĩa vụ của bị đơn thì Tòa án

vẫn áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn để giải quyết vụ án này.

3.1.2. Những hạn chế và khó khăn khi áp dụng thủ tục rút gọn để giải

quyết vụ án dân sự

80

- Về thời hạn chuẩn bị xét xử:

Đối với TTRG thì Thẩm phán trong vòng một tháng bắt buộc chỉ được

ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Quy định này đã rút ngắn thời hạn chuẩn bị

xét xử theo TTRG so với thủ tục thông thường. Tuy nhiên, với quy định này

thì thời gian vụ án dân sự giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường có thể

được rút ngắn hơn so với giải quyết theo TTRG. Cụ thể với trường hợp giải

quyết theo thủ tục TTDS thông thường mà sau khi thụ lý các đương sự th a

thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án thì Thẩm phán

được phân công giải quyết vụ án ra quyết định công nhận sự th a thuận của

các đương sự sau thời gian 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành.

Nếu để giải quyết theo TTRG thì thời gian này tối thiểu là 01 tháng.

- Về thủ tục khiếu nại, kiến nghị về quyết định đưa vụ

án ra xét xử theo TTRG:

Việc quy định thêm thủ tục khiếu nại, kiến nghị về quyết định đưa vụ án

ra xét xử đối với TTRG sẽ làm mất đi bản chất của TTRG, xét xử nhanh

chóng, kịp thời.

- Về trình tự thủ tục tố tụng tại phiên Tòa xét xử dân

sự sơ thẩm theo TTRG: Trước khi tiến hành xét xử vụ án dân sự

theo TTRG thì Tòa án bắt buộc phải tiến hành hòa giải, trừ trường

hợp không được hòa giải theo quy định hoặc không tiến hành hòa

giải. Trường hợp các đương sự không th a thuận được với nhau

về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán mới tiến

hành xét xử. Vậy với những trường hợp vụ án sau khi đã khai mạc

phiên tòa mà vụ án không hòa giải được hoặc không được hòa

giải thì vụ án sẽ được giải quyết như thế nào. Có thể trong trường

hợp này chúng ta có thể ngầm hiểu là sẽ b qua thủ tục tiến hành

hòa giải và tiến hành xét xử, tuy nhiên để việc áp dụng quy định

được đồng bộ thì chúng ta cần có những hướng dẫn cụ thể về ấn

đề này.

81

Trong trường hợp các bên không th a thuận được với nhau về vấn đề

giải quyết vụ án thì Thẩm phán tiến hành xét xử. Việc trình bày, tranh luận, đối

đáp, đề xuất quan điểm về việc giải quyết vụ án được thực hiện theo quy định

tại Mục 3 Chương XIV của BLTTDS. Tuy nhiên, trước đó trong phiên hòa giải

Tòa án đã nghe các bên đương sự trình bày quan điểm và quan điểm giải quyết

vụ án của họ. Do vậy, khi xét xử vụ án chúng ta có thể b thủ tục nghe các bên

trình bày, đề xuất quan điểm về việc giải quyết vụ án.

- Về hiệu lực của bản án: Điều kiện để áp dụng TTRG

để giải quyết vụ án dân sự là “Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ

pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng

cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án

không phải thu thập tài liệu, chứng cứ…”, Điều 317 BLTTDS

2015. Vụ án dân sự th a mãn điều kiện như vậy thì việc giải quyết

vụ án đã không còn khó khăn, phúc tạp và việc Thẩm phán giải

quyết vụ án sẽ hầu như là đảm bảo được công bằng, đúng quy

định của pháp luật. Và với việc giải quyết theo TTRG là phải đảm

bảo việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, kịp thời Do vậy,

BLTTDS 2015 quy định đối với bản án sơ thẩm đã có hiệu lực

pháp luật hay với bản án phúc thẩm vẫn bị kháng nghị theo trình

tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm là không cần thiết

3.1.3. Những hạn chế và khó khăn về điều kiện phục vụ công tác xét

xử của Tòa án theo thủ tục rút gọn

Trong những năm qua, T ND đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, cơ

sở vật chất, trang thiết bị làm việc của ngành đã được tăng cường, nhưng so

với yêu cầu của cải cách tư pháp thì vẫn chưa đáp ứng được. Nhiều T ND cấp

quận, huyện hiện nay vẫn chỉ có duy nhất một phòng xử án, cơ sở vật chất

trong phòng xử án đã xuống cấp; số lượng biên chế Thẩm phán, thư ký ở một

số Tòa còn thiếu. Năng lực chuyên môn của một số Thẩm phán còn chưa đáp

ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.

82

3.2. Một số vấn đề liên quan đến thủ tục rút gọn qua

thực tiễn xử lý nợ của các tổ chức tín dụng bằng hình thức

khởi kiện tại Tòa án

Theo quy định của BLTTDS, thủ tục tố tụng thông thường hiện nay

được Tòa án áp dụng để giải quyết tất cả các tranh chấp dân sự kéo dài từ 04

tháng đến 06 tháng. Tại TAND, chỉ có một thủ tục TTDS chung và duy nhất

cho việc giải quyết tất cả các loại tranh chấp dân sự theo quy định của

BLTTDS. Như vậy, những vụ án đơn giản, có chứng cứ rõ ràng, bị đơn không

phản đối, giá ngạch thấp nhưng vẫn được giải quyết theo thủ tục tố tụng thông

thường gây lãng phí thời gian, chậm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

công dân, gây tốn kém cho Nhà nước và các bên đương sự. Trong một số

trường hợp, các đương sự không thiện chí có thể lợi dụng thời hạn tố tụng này

để kéo dài thời gian giải quyết, gây bất lợi và thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp

pháp của đối phương. Đồng thời, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường đòi

h i các tranh chấp phải được giải quyết nhanh chóng, có hiệu quả. Đặc biệt đối

với những tranh chấp thương mại, tín dụng ngân hàng,… có hợp đồng công

chứng hợp pháp, quyền, nghĩa vụ của các bên rõ ràng, thì cần được giải quyết

nhanh chóng để đảm bảo tính thanh khoản và sinh lợi của đồng tiền. Việc giải

quyết mọi tranh chấp đều phải tuân theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, kéo dài

nên đã có những tác động không tốt đến quá trình quay vòng đồng vốn, nhất là

các tranh chấp liên quan đến tiền, vàng trong điều kiện giá cả thị trường luôn

luôn biến động.

Trong thực tiễn, loại vụ kiện nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa

vụ trả nợ theo hợp đồng vay tài sản mà bị đơn không phản đối thường xuất

hiện dưới các dạng cụ thể sau:

Trường hợp thứ nhất: Trong các hợp đồng vay tài sản hoặc tín dụng

giữa ngân hàng với các doanh nghiệp, hoặc với cá nhân vay tiêu dùng. Bên cho

vay khởi kiện đòi số tiền cho vay đã quá thời hạn trả theo hợp đồng và xuất

trình được văn bản hợp đồng có công chứng hợp pháp làm chứng cứ chứng

83

minh. Bên vay tài sản thừa nhận nghĩa vụ của mình, không phản đối yêu cầu

đòi nợ nhưng vì một lý do nào đó mà chưa thực hiện được nghĩa vụ này. Hầu

hết các hợp đồng vay của các doanh nghiệp hoặc cá nhân không phải vay tiêu

d ng đều có tài sản thế chấp. Tuy nhiên, thủ tục tố tụng giải quyết và xử lý tài

sản thế chấp này để thu hồi vốn rất phức tạp và mất nhiều thời gian gây ảnh

hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các TCTD. Hoặc những trường hợp cá

nhân vay tiêu d ng thường có tài khoản lương làm tín chấp, do đó, thực tế chỉ

cần lệnh yêu cầu thanh toán của Tòa án được ban hành làm căn cứ để các

TCTD có thể thu hồi nợ từ tài khoản lương của người vay nợ theo định kỳ

hoặc theo tháng. Nên thủ tục tố tụng thông thường nếu được áp dụng cho

những trường hợp này là không cần thiết vì quá rườm rà, phức tạp.

Trường hợp thứ hai: Người bảo lãnh trong hợp đồng vay tài sản đã thừa

nhận nghĩa vụ của mình nhưng không chịu thực hiện nghĩa vụ, viện lý do chưa

có điều kiện thanh toán.

Trường hợp thứ ba: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải thực

hiện nghĩa vụ thanh toán phát sinh từ hợp đồng. Bị đơn không phản đối việc

kiện nhưng không thực hiện nghĩa vụ.

Tác giả cho rằng, đối với những loại vụ kiện xuất hiện trong thực tiễn

như đã đề cập ở trên, Tòa án có thể nhanh chóng ra một phán quyết buộc bên

có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của mình mà không cần phải xét xử. Bản

chất của loại vụ kiện này là quan hệ tranh chấp về nghĩa vụ đã rõ ràng, không

có tranh tụng giữa các bên, nguyên đơn chỉ cần có một phán quyết chính thức

của Tòa án để làm cơ sở pháp lý thúc đẩy bị đơn phải thi hành nghĩa vụ của

mình hoặc yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành khi cần thiết. Trong

những trường hợp này, Tòa án ra một phán quyết buộc bị đơn phải thực hiện

một nghĩa vụ mang tính đương nhiên dựa trên cơ sở nghĩa vụ đó đã được xác

định theo hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật và chính bản thân bị đơn

đã thừa nhận nghĩa vụ này.

3.3. Kiến nghị phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện thủ tục rút

84

gọn ở Việt Nam

3.3.1. Kiến nghị phương hướng và giải pháp hoàn thiện về điều kiện

để áp dụng thủ tục rút gọn

- Về điều kiện “Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ

pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu,

chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa

án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ” cần có hướng dẫn cụ

thể để việc áp dụng được thống nhất và thuận tiện. Theo tác giả

các tranh chấp sau có thể được coi là th a mãn điều kiện này. Cụ

thể:

a. Đối với vụ án có đầy đủ chứng cứ, chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận

hoặc không phản đối nghĩa vụ hoặc vụ án có chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng

pháp luật đơn giản:

- Đối với vụ án có đầy đủ chứng cứ, chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận

hoặc không phản đối nghĩa vụ.

- Đối với vụ án có chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật đơn giản.

b. Nhưng vụ tranh chấp có giá ngạch thấp:

Việc xác định tranh chấp có giá ngạch thấp nên dựa vào giáo trị tài sản

tranh chấp và giá trị tài sản bao nhiêu thì chúng ta nên tính toán cho ph hợp

với mức sống bình quân hiện nay ở nước ta. Và việc xác định giá ngạch thấp

còn phải dựa trên sự tương quan giữa các v ng miền khác nhau. Theo tác giả

những vụ án dân sự có giá ngạch thấp sau đây nên có thể xem xét áp dụng

TTRG cho d bị đơn không thừa nhận nghĩa vụ của mình:

“a) Ly hôn mà hai bên đương sự mới kết hôn không lâu, tranh chấp tài

sản không lớn;

b) Tranh chấp về thời gian và số tiền cấp dưỡng;

c) Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà có sự thật rõ

ràng, trách nhiệm rõ ràng và giá trị bồi thương không lớn;

d) Tranh chấp về hợp đồng mà giá trị hợp đồng không lớn;

85

đ) Yêu cẩu bảo vệ người tiêu d ng;

e) Các tranh chấp khác mà có sự thật rõ ràng, tình tiết đơn giản, nội dung

tranh chấp rõ ràng, giá trị tranh chấp không lớn”.

3.3.2. Về điều kiện “Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ

ràng”

Đương sự có địa chỉ nơi cư trú rõ ràng được hiểu là việc xác định được

nơi đương sự thường trú hoặc đang sinh sống.

Với trường hợp, nguyên đơn gửi đơn khởi kiện đến Tòa án thì bị đơn

vẫn có nơi cư trú rõ ràng và sau khi Tòa án thụ lý và chọn áp dụng TTRG để

giải quyết vụ án. Nhưng trong quá trình giải quyết bị đơn lại trốn tránh nên lại

không xác định được nơi cư trú rõ ràng của bị đơn thì trường hợp này nếu

nguyên đơn đã cũng cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ để chứng minh đầy đủ, rõ

ràng nghĩa vụ của bị đơn thì Tòa án vẫn áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn để giải

quyết vụ án này.

Theo tác giả thì tại Điều 317 BLDS năm 2015 cần quy định thêm một

điều khoản quy định “các vụ kiện khác không thuộc trường hợp quy định tại

khoản 1 Điều này có thể được giải quyết theo thủ tục đơn giản nếu các đương

sự trong cùng vụ án có yêu cầu và được Tòa án xem xét là phù hợp để áp dụng

thủ tục TTDS để giải quyết vụ án đó

3.3.3. Kiến nghị phương hướng và giải pháp hoàn thiện quy định về

thủ tục rút gọn

- Về khởi kiện và thụ lý vụ án theo TTRG

Vì theo quy định về điều kiện giải quyết vụ án theo TTRG thì đương sự

phải có địa chỉ, nơi cứ trú, trụ sở rõ ràng nên yêu cầu bắt buộc là người khởi

phải có căn cứ để xác định địa chỉ của người bị khởi kiện. Hay cũng với điều

kiện đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ của mình thì khi nộp đơn khởi kiện Tòa

án phải yêu cầu người khởi kiện có văn bản hoặc tài liệu chứng minh việc

người bị khởi kiện thừa nhận nghĩa vụ của mình… Đối với vụ án đã được thụ

lý giải quyết theo TTRG, theo ý kiến tác giả phần gửi thông báo thụ lý vụ án

86

nên yêu cầu người khởi kiện giao thông báo thụ lý vụ án cho người bị khởi

kiện. Tòa án chỉ cấp thông báo thụ lý vụ án và biên bản cấp tống đạt thông báo

cho người khởi kiện, người khởi kiện giao lại cho người bị kiện và yêu cầu

người bị kiện ký vào biên bản cấp tông đạt. Sau khi người bị khởi kiện ký vào

biên bản cấp tống đạt thì người khởi kiện phải gửi ngay lại biên bản này cho

Tòa án.

- Về thủ tục tố tụng giải quyết vụ án dân sự theo TTRG

- Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử theo TTRG

Theo tác giả quy định tại khoản 1 Điều 318 BLTTDS 2015 về thời hạn

chuẩn bị xét xử đối với TTRG nên quy định như sau “Trong thời hạn không

quá 01 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án theo quy định tại khoản 3 và khoản 4

Điều 195 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án tuỳ

từng trường hợp ra một trong các quyết định sau đây:

a) Công nhận sự thoả thuận của các đương sự;

b) Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;

c) Giải quyết vụ án tạm thời

d) Đưa vụ án ra xét xử.

- Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có quyết định

đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa”.

- Phiên tòa xét xử vụ án theo TTRG

tác giả luận văn cho rằng đối với phiên tòa xét xử sơ thẩm theo thủ tục tố

tụng rút gọn không nhất thiết phải tiến hành đầy đủ các trình tự, thủ tục như

phiên tòa xét xử sơ thẩm theo thủ tục thông thường, đó là thủ tục h i, thủ tục

tranh luận, nghị án và tuyên án mà có thể giản lược các bước không cần thiết.

Cụ thể là:

+ Thủ tục bắt đầu phiên tòa.

+ Thẩm phán công bố lời khai của các đương sự cũng như các chứng cứ,

tài liệu mà các bên đưa ra.

+ Thủ tục tiến hành hòa giải tại phiên Tòa, thủ tục này không áp dụng

87

với vụ án không thể hòa giải, không được hòa giải hoặc đã tiến hành hòa giải

trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.

+ Thẩm phán h i các bên có muốn đối chất với nhau về nội dung khởi

kiện tại phiên tòa không. Nếu một trong các bên có yêu cầu thì Thẩm phán cho

các đương sự tranh luận với nhau về chứng cứ cho đến khi các bên không có

tranh luận gì;

+ Sau khi nghe các bên đối chất (nếu có) thì tùy từng trường hợp cụ thể,

Thẩm phán có thể công bố ngay quyết định của Tòa án về giải quyết vụ án

hoặc tạm ngừng phiên tòa để nghị án và công bố sau khi có kết quả chính thức.

- Về hiệu lực pháp luật của quyết định theo TTRG

Đối với những vụ án được giải quyết theo TTRG thì đây là những vụ án

có tình tiết đơn giản, tài liệu, chứng cứ đã quá đầy đủ, rõ ràng ….để chứng

minh cho quyền và nghĩa vụ của đương sự và việc Thẩm phán áp dụng các quy

định của pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án này khá đơn giản. Vì vậy, bản

án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm theo TTRG phần lớn là đảm bảo đúng

pháp luật, đảm bảo được quyền và lợi ích của đương sự, nếu có sai sót thì cũng

chỉ sai sót phần áp dụng thủ tục tố tụng để giải quyết vụ án. Mặt khác TTRG là

sự giản lược một số thủ tục so với thủ tục tố tụng thông thường để việc giải

quyết vụ án được nhanh chóng, kịp thời. Do vậy việc quy định đương sự có

quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị đối với bản án, quyết

định của Tòa án theo tác giả là không đủ để đảm bảo vụ án được giải quyết

đúng pháp luật. Việc quy định đương sự có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm

quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để giải quyết

theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm là không cần thiết. Bởi lẽ, đương sự

có thể lợi dụng quy định này nhằm kéo dài vụ án, trì hoãn việc thi hành nghĩa

vụ của mình. Để bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn thì cần

quy định “Trong thời hạn 07 ngày đương sự có quyền kháng cáo, viện kiểm sát

có quyền kháng nghị Bản án, quyết định sơ thẩm theo TTRG để xét xử theo

thủ tục phúc thẩm theo TTRG. Quyết định, bản án sơ thẩm không bị kháng

88

cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định, quyết định, Bản án phúc thẩm theo

TTRG sẽ có hiệu lực ngay, buộc các bên phải tôn trọng và thực hiện.

- Về chuyển hóa từ TTRG sang thủ tục tố tụng thông thường

Pháp luật nên quy định theo hướng trong quá trình giải quyết các vụ án

nói trên, nếu Tòa án phát hiện vụ án không còn tính chất đơn giản, rõ ràng nữa

thì Tòa án sẽ quyết định chuyển sang giải quyết theo thủ tục thông thường

nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của bên đương sự có nghĩa vụ. Do vậy,

ngoài những tình tiết được quy định tại khoản 3 Điều 317 BLTTDS thì cần ghi

nhận thêm một điểm “ f. Những tình tiết khác theo quy định của pháp luật.”.

3.3.4. Nâng cao nhận thức trách nhiệm của người tiến hành tố tụng

trong việc giải quyết án rút gọn, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng

nghiệp vụ của đội ngũ làm công tác pháp luật

Cần nâng cao nhận thức của người tiến hành tố tụng, nhất là phải nâng

cao nhận thức của Thẩm phán về mục đích, ý nghĩa của TTRG. Phải xác định

việc áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn đối với những vụ án có đủ điều kiện không

chỉ là thẩm quyền mà là trách nhiệm của Tòa án. Đặc biệt, thủ tục xét xử tại

phiên tòa theo TTRG sẽ chỉ do một Thẩm phán chịu trách nhiệm giải quyết,

thời gian giải quyết án rút ngắn hơn so với thủ tục tố tụng thông thường, thủ

tục tố tụng được giản lược nên yêu cầu về trách nhiệm, năng lực, kinh nghiệm

và k năng của Thẩm phán càng cần phải được nâng cao hơn. Chính vì vậy,

theo tác giả sau khi cơ quan có thẩm quyền đã ban hành quy định hướng dẫn

về việc áp dụng TTRG cần tổ chức những buổi tập huấn về chuyên môn,

nghiệp vụ cho các cơ quan tiến hành tố tụng, cho những người tiên hành tố

tung, mà đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán. Thông qua những buổi tập huấn này

họ sẽ được hướng dẫn để hiểu đúng đắn và có sự áp dụng thống nhất về các

quy định về thủ tục này.

3.3.5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho

ngành Tòa án nói chung, cho Thẩm phán, thư ký nói riêng

Hiện nay, một số Tòa án cấp huyện có trụ sở làm việc đã xuống cấp,

89

phòng làm việc cho Thẩm phán, thư ký cũ k , phòng xử án nhiều Tòa vẫn có

duy nhất một phòng xử án, cơ sở vật chất trong phòng xử án đã xuống cấp.

Thẩm phán, thư ký còn chưa được trang bị đầy đủ các trang thiết bị cần thiết

phục vụ cho công tác của mình, như máy tính, máy in…. Chính vì vậy, việc

xây dựng mới trụ sở làm việc của nhưng Tòa án cơ sở vật chất còn cũ k , lạc

hậu cần phải được tiến hành ngay, đặc biệt là ở cấp huyện, quận, thị xã trụ sở

làm việc phả đảm bảo hiện đại, đầy đủ tiện nghi. Trang thiết bị của Thẩm phán

phải được trang bị đầy đủ, hiện đại.

a) Thường xuyên tăng cường công tác tập huấn nghiệp vụ, tổ chức hội

thảo khoa học về vấn đề áp dụng TTRG trong thực tiễn giải quyết các loại án

về dân sự, HNGĐ, KDTM và LĐ nhằm thống nhất, nâng cao nhận thức trong

việc triển khai áp dụng những quy định này trên thực tiễn. Từ đó đóng góp ý

kiến, kinh nghiệm để xây dựng và hoàn thiện TTRG trong tố tụng dân sự ở

Việt Nam.

b) Trong trường hợp đương sự khởi kiện tại Tòa án bằng miệng

Nội dung vụ án th a mãn điều kiện áp dụng theo TTRG, các bên đương

sự đồng thời đến Tòa án để đề nghị giải quyết tranh chấp. Thì t y từng trường

hợp T ND có thể xét xử ngay hoặc có thể ấn định một ngày khác để xét xử.

Tòa án có thể thông báo bằng miệng hoặc bằng văn bản cho đương sự về nội

dung khởi kiện mà không nhất thiết phải tiến hành các thủ tục thông báo chính

thức như đối với thủ tục thông thường.

c) Về hướng dẫn yêu cầu có bản khai và lấy lời khai của đương sự trong

vụ án được giải quyết theo TTRG

Khoản 1 Điều 98 BLTTDS năm 2015 quy định: “Thẩm phán chỉ tiến

hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung

bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Đương sự phải tự viết bản khai và ký tên của

mình. Trường hợp đương sự không thể tự viết được thì Thẩm phán lấy lời khai

của đương sự. Việc lấy lời khai của đương sự chỉ tập trung vào những tình tiết

mà đương sự khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Thẩm phán tự mình hoặc Thư ký Tòa

90

án ghi lại lời khai của đương sự vào biên bản…”. Quy định này được hiểu, cần

phải có bản khai của đương sự trong mọi trường hợp. Vấn đề đặt ra, đơn khởi

kiện và bản trả lời đơn khởi kiện của các đương sự trong vụ án có được coi là

bản khai không? Nếu các văn bản đó không được coi là bản khai thì cần phải

có bản khai của đương sự hoặc nếu không có thì Tòa án cần phải triệu tập

đương sự để lấy lời khai. Như vậy, rất khó có thể ra quyết định đưa vụ án ra

xét xử theo TTRG trong thời gian không quá 01 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án

theo quy định tại khoản 1 Điều 318 BLTTDS năm 2015. Do đó, cần có sự

hướng dẫn Điều 98 BLTTDS năm 2015 theo hướng đơn khởi kiện và văn bản

trả lời đơn khởi kiện của đương sự cũng được coi là bản khai của đương sự.

d) Về hướng dẫn việc cấp, tống đạt, thông báo bằng phương tiện điện tử

Việc cấp, tống đạt, thông báo bằng phương tiện điện tử hiện nay đã được

thực hiện khá phổ biến ở các nước tiên tiến trên thế giới. Để bảo đảm điều kiện

thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân nộp đơn khởi kiện; đồng thời tăng

cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động tố tụng, tiến tới xây dựng

“Tòa án điện tử”; khoản 2 Điều 173 BLTTDS năm 2015 bổ sung phương thức

cấp, tống đạt, thông báo bằng phương tiện điện tử, ph hợp với pháp luật về

giao dịch điện tử. Vì vậy, ngoài phương thức nộp đơn khởi kiện trực tiếp gửi

đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính, BLTTDS 2015 đã bổ sung phương

thức gửi đơn khởi kiện trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin

điện tử của Tòa án, đây là phương thức mới và có ý nghĩa quan trọng trong quá

trình giải quyết vụ án nói chung và nhất là đối với các vụ án được giải quyết

theo TTRG. Do đó, để việc áp dụng quy định này trên thực tế được thuận lợi,

đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền sớm ban hành hướng dẫn chi tiết thủ

tục gửi đơn qua cổng thông tin điện tử.

e) Xây dựng quy định có tính bắt buộc đi kèm chế tài xử lý trách nhiệm

đối với Thẩm phán khi có đủ điều kiện nhưng không áp dụng TTRG giải quyết

vụ án

Dù TTRG khi áp dụng vào thực tiễn giải quyết án chắc chắn sẽ gặp

91

nhiều khó khăn, vì là quy định mới trong pháp luật tố tụng dân sự, chính vì lẽ

đó, tâm lý chung của không ít Thẩm phán thường không “mặn mà”, “ngại”,

viện dẫn nhiều lý do khác nhau để “né” không áp dụng thủ tục này. Do vậy, để

mục đích tốt đẹp của quy định giải quyết các vụ án theo TTRG không bị triệt

tiêu trong thực tiễn áp dụng, tác giả đề xuất nên chăng T ND tối cao ban hành

quy định, mà theo đó, một trong những tiêu chí chấm điểm thi đua của cơ quan

về giải quyết án, của cá nhân khi xét thành tích khen thưởng trong đó có chỉ

tiêu phản ánh giải quyết án theo TTRG. Bên cạnh đó, cần ban hành quy định

tạo cơ chế kiểm soát việc áp dụng TTRG của Thẩm phán ngay từ thời điểm

nhận đơn khởi kiện và thụ lý thông qua kết quả xử lý đơn khởi kiện của Thẩm

phán được phản ánh trong sổ nhận đơn và thông báo cho người khởi kiện biết

việc áp dụng hoặc không áp dụng theo TTRG. Đây cũng chính là cơ sở để

người dân thực hiện quyền khiếu nại đối với quyết định của Tòa án trong việc

áp dụng hay không áp dụng TTRG khi giải quyết tranh chấp.

g) Những vụ án do các đương sự thoả thuận lựa chọn giải quyết theo

TTRG

Xuất phát từ nguyên tắc tự do, tự nguyện, cam kết thoả thuận là nguyên

tắc cơ bản, quan trọng của pháp luật dân sự. Các đương sự tự do, tự nguyện

giao kết dân sự thì đương nhiên cũng được tự do thoả thuận giải quyết các

tranh chấp. Họ có quyền lựa chọn trình tự giải quyết tranh chấp của mình theo

TTRG.

Tuy nhiên, để tránh việc lạm dụng thoả thuận giải quyết theo TTRG

nhằm để không thực hiện nghĩa vụ, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của

người thứ ba đồng thời để đảm bảo cho Tòa án giải quyết chính xác, đúng pháp

luật vụ việc theo quan điểm của tác giả thì các bên đương sự có quyền thoả

thuận giải quyết theo TTRG. Tuy nhiên, bên cạnh việc quy định đương sự có

quyền thoả thuận giải quyết theo TTRG thì Tòa án có quyền quyết định vụ án

đó có được tiến hành theo TTRG theo yêu cầu lựa chọn của các đương sự hay

không. Nếu xét thấy vụ án không đáp ứng được các yêu cầu để tiến hành theo

92

TTRG thì Tòa án sẽ quyết định không chấp nhận yêu cầu lựa chọn thủ tục này

và vụ án đó phải được giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường.

h) Về hiệu lực pháp luật của quyết định theo TTRG

Đối với vụ án có giá ngạch thấp thì để phát huy phong tục, tập quán,

truyền thống tốt đẹp, tinh thần đoàn kết tương thân, tương ái của người Việt,

tránh việc kiện tụng tuy rất nh nhặt nhưng vẫn phải qua nhiều lần xét xử thì

việc khôi phục lại cơ chế xét xử một lần là điều cần thiết. Tuy nhiên, xét về

thực tế thì ở những v ng miền núi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống thì

việc áp dụng TTRG với vụ kiện có giá ngạch thấp cũng cần phải cân nhắc. Do

nhận thức và quan niệm lạc hậu nên đôi khi trong những tranh chấp nh như

tranh chấp một con trâu, con bò nhưng họ sẵn sàng d ng cái chết để chứng

minh cho sự trong sạch của bản thân. Do vậy, nên chăng cần giới hạn và không

áp dụng TTRG đối với những đương sự là người thuộc các dân tộc thiểu số.

i) Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có làm ảnh hưởng đến thời

gian thụ lý vụ án hay không vì theo Điều 114 BLTTDS năm 2015 thì một số

biện pháp khẩn cấp tạm thời như: tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương

chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động; cấm chuyển

dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng

tài sản đang tranh chấp; cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ; cấm tiếp xúc

với nạn nhân bạo lực gia đình… sẽ không làm ảnh hưởng đáng kể đến thời

gian thụ lý, giải quyết vụ án, vì vậy, nên chăng, trong một số trường hợp, nếu

có áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì vụ án vẫn được xét xử theo TTRG.

3.4. Về vấn đề thành lập Tòa giản lược trong hệ thống tòa án nhân

dân

Hiện nay, T ND tối cao đang triển khai thực hiện các văn kiện, nghị

quyết của Đảng về cải cách tư pháp, với mục tiêu là xây dựng nền tư pháp

trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện

đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt

động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và

93

hiệu lực cao, trong đó có đặt ra yêu cầu nghiên cứu việc thành lập T ND sơ

thẩm khu vực; xây dựng cơ chế xét xử theo TTRG đối với những vụ án có đủ

một số điều kiện nhất định. Theo đó, Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực có thể

được thành lập ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện trong c ng một

đơn vị hành chính cấp tỉnh và có thẩm quyền xét xử sơ thẩm hầu hết các vụ,

việc thuộc thẩm quyền của Tòa án. Nếu theo phương án này, t y theo quy mô

công việc và đội ngũ Thẩm phán có thể cân nhắc việc thành lập các Tòa hoặc

phân Toà giản lược trực thuộc Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực T ND sơ

thẩm khu vực được lập ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện) để xét

xử các vụ án tiểu hình và các tranh chấp nh , có giá ngạch thấp về dân sự,

HNGĐ, KDTM, LĐ và hành chính theo TTRG. Việc xét xử, giải quyết các vụ

việc theo TTRG do các Thẩm phán chính ngạch và có thể do Thẩm phán ngoài

ngạch là người có chuyên môn sâu về một số lĩnh vực chuyên ngành, không

phải là công chức Tòa án, được Chánh án T ND tối cao bổ nhiệm làm Thẩm

phán ngoài ngạch) tiến hành. Tại trụ sở Tòa hoặc phân Tòa giản lược cũng là

nơi T ND sơ thẩm khu vực tổ chức tiếp công dân, thụ lý đơn và tổ chức xét

xử lưu động các vụ án sơ thẩm khác. Trong trường hợp này, không cần thiết

phải lập chi nhánh của Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực ở những nơi có địa

bàn xét xử rộng trên cơ sở hợp nhất 2-3 Tòa án cấp huyện khu vực miền núi,

v ng sâu, v ng xa) vì đã có Tòa hoặc phân Toà giản lược thuộc Tòa án nhân

dân sơ thẩm khu vực trên địa bàn của m i huyện. Việc thành lập và tổ chức các

Tòa hoặc phân Tòa giản lược trực thuộc T ND sơ thẩm khu vực theo hướng

này là phương thức để Tòa án giải quyết hiệu quả hơn các vụ việc thuộc thẩm

quyền, đồng thời cũng tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận với hoạt động của

Tòa án theo đúng tinh thần chỉ đạo đã được xác định trong Nghị quyết số 49-

NQ/TW của Bộ Chính trị.

Việc thành lập Tòa giản lược trong T ND và áp dụng TTRG để giải

quyết một số loại vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhằm nâng cao hiệu

quả công tác Tòa án trong bối cảnh chúng ta đang tích cực triển khai các chủ

94

trương, định hướng, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp và triển khai thi

hành Hiến pháp mới là hết sức cần thiết; tuy nhiên, đây là vấn đề lớn, cần được

nghiên cứu k để thống nhất trong nhận thức, từ đó cụ thể hóa trong Luật tổ

chức T ND sửa đổi) và các luật tố tụng trong thời gian tới đây.

3.4.1. Mục tiêu thành lập Tòa giản lược

a) Thành lập Tòa Giản lược nhằm mục đích hoàn thiện tổ chức hoạt

động của tòa án nhân dân

Như chúng ta đã biết bản chất của quyền tư pháp chính là quyền xét xử,

vì vậy vấn đề tổ chức, quản lý trong hệ thống T ND có ý nghĩa to lớn đối với

quá trình cải cách tư pháp. Tăng cường tổ chức, nâng cao năng lực của hệ

thống T ND không chỉ là nhu cầu đảm bảo một thiết chế thực hiện một quyền

quan trọng trong hệ thống quyền lực Nhà nước - Quyền lực tư pháp mà còn đòi

h i của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì

vậy, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức T ND nhằm đáp ứng

yêu cầu của việc tăng cường, đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà nước, phát

huy dân chủ tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa đã được đề cập trong các

nghị quyết của Đảng, nhất là trong các văn kiện của Đại hội lần thứ IX của

Đảng cụ thể là: Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ

quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp

trong công tác điều tra, bắt giữ, truy tố, xét xử, thi hành án để không xảy ra oan

sai… sắp xếp lại hệ thống T ND, phân định lại thẩm quyền của Tòa án các

cấp. Tăng cường đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cả về số lượng và

chất lượng.

Hiện nay các T ND ở nước ta được tổ chức theo nguyên tắc kết hợp

giữa thẩm quyền xét xử với tổ chức đơn vị hành chính lãnh thổ từ cấp huyện

trở lên, ở m i đơn vị huyện quận, thị xã, thành phố trực thuộc Tỉnh) có một

Tòa án cấp huyện. Ở m i tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có một Tòa án

cấp tỉnh và ở Trung ương có T NDTC. Cách thức tổ chức này như đã nói ở

trên tồn tại nhiều năm ở nước ta. Tuy có nhiều ưu điểm nhưng vẫn có những

95

hạn chế nhất định, chính vì vậy, cần xem xét, nghiên cứu thiết kế được mô

hình T ND cần bảo đảm được các yêu cầu thuận tiện cho nhân dân; tiết kiệm

cho Nhà nước; bảo đảm tính độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân

dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống Tòa án.

Luật Tổ chức T ND năm 2014 đã thay đổi cơ cấu tổ chức của T ND,

tuy nhiên việc thành lập các Tòa chuyên trách chậm được thực hiện, việc thành

lập Tòa Giản lược chưa được đặt ra nhưng đang là yêu cầu ph hợp với yêu

cầu cấp thiết để bảo đảm các mục tiêu phát triển và hoàn thiện hệ thống T ND

như nêu trên.

b) Thành lập Tòa Giản lược nhằm nâng cao tiến độ, chất lượng giải

quyết các vụ án đơn giản tại Tòa án nhân dân

Thực tiễn cho thấy trong những năm gần đây, hàng năm các T ND cấp

huyện và TAND cấp tỉnh giải quyết hàng ngàn các vụ việc hình sự, dân sự,

hành chính có tính chất đơn giản, giá trị tranh chấp thấp. Tuy TAND cấp

huyện xét xử theo thủ tục sơ thẩm phần lớn các vụ án tranh chấp quyền sử

dụng đất, nhưng khi bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì

TAND cấp tỉnh xét xử theo thủ tục phúc thẩm và việc giám đốc thẩm, tái thẩm

các bản án, quyết định phúc thẩm này phải do các Tòa chuyên trách thuộc

TAND cấp cao các khu vực có thẩm quyền thực hiện. Tuy nhiên, qua thực tiễn

xét xử các vụ án đơn giản cho thấy mô hình Tòa án có ảnh hưởng lớn đến việc

xét xử cũng như chất lượng xét xử.

Hàng năm các Tòa án phải tập trung một lực lượng lớn dành cho việc

điều tra, thẩm định, định giá bất động sản. Những tranh chấp này bình quân

nhiều gấp hai lần số vụ án hình sự mà các Tòa án phải xét xử sơ thẩm. Các

tranh chấp dân sự cũng như các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất

phát sinh trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế thị trường có sự quản lý của

nhà nước xã hội chủ nghĩa là những vấn đề mới, đa dạng, phức tạp. Vì vậy, số

việc mà Tòa án phải thụ lý, giải quyết rất lớn, tăng lên hàng năm, các Tòa án

đã rất cố gắng trong công tác thu thập chứng cứ, lập hồ sơ hòa giải, xét xử đạt

96

tỷ lệ cao. Theo số liệu báo cáo hàng năm của Chánh án TANDTC trước Quốc

hội thì tỷ lệ các vụ án dân sự, HNGĐ đã hòa giải và xét xử xong, nhìn chung

đều đạt tỷ lệ 80% trở lên. Tuy nhiên, việc giải quyết các vụ án dân sự cũng còn

trì trệ, hàng năm còn tồn đọng khoảng 10% số vụ việc đã được thụ lý. Những

vụ việc đã và đang giải quyết thì thời gian giải quyết dài, nhiều vụ việc phải

xét xử đi, xét xử lại nhiều lần; hiện tượng tồn đọng án quá hạn Luật định vẫn

còn, đặc biệt là việc tồn đọng án phúc thẩm ở TANDTC, do số lượng án hình

sự xét xử sơ thẩm giao cho TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương còn

quá nhiều, trong khi đó số lượng cán bộ, Thẩm phán của TANDTC không thể

đáp ứng được việc xét xử với số lượng vụ án thụ lý ngày càng gia tăng. Trong

khi đó, Nghị quyết số 19-NQ/TW yêu cầu đến năm 2021 phải giảm biên chế

10% so với năm 2015.

Với hiện trạng này, việc nghiên cứu mô hình Tòa Giản lược giải quyết

các vụ việc đơn giản là một trong những bước đi, biện pháp nâng cao hiệu lực,

hiệu quả xét xử của hệ thống Tòa án; đáp ứng yêu cầu giải quyết các vụ việc

trong xã hội khi Tòa án ngày càng được mở rộng thẩm quyền và phát triển với

vị trí là cơ quan thực hiện quyền tư pháp theo tinh thần của Hiến pháp năm

2013.

3.4.2. Kiến nghị giải pháp xây dựng Tòa Giản lược trong hệ thống tòa

án nhân dân ở Việt Nam

a) Thành lập Tòa Giản lược trong hệ thống tòa án nhân dân

Trên cơ sở nghiên cứu tình hình thực tiễn của Việt Nam, cơ cấu tổ chức

T ND, yêu cầu của cải cách tư pháp và học h i kinh nghiệm quốc tế, chúng

Tác giả cho rằng có nhiều phương án xây dựng cơ chế áp dụng TTRG trong tố

tụng tại T ND ở Việt Nam, cần được cân nhắc lựa chọn.

Việc xây dựng bộ phận chuyên trách giải quyết vụ việc dân sự theo

TTRG với đội ngũ cán bộ, Thẩm phán chuyên trách là một giải pháp ban đầu

có thể chi tăng kinh phí, nhưng trong chiến lược phát triển hệ thống T ND lâu

dài thì đây là một biện pháp hữu ích nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giải

97

quyết các vụ việc hình sự, dân sự, hành chính đơn giản bằng TTRG tại Tòa án.

Việc xây dựng bộ phận chuyên trách tại T ND giải quyết các vụ việc theo

TTRG là rất cần thiết nhưng xây dựng mô hình bộ phận chuyên trách này như

thế nào thì cũng có hai quan điểm khác nhau. Cụ thể:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, cần thiết phải xây dựng mô hình bộ phận

chuyên trách giải quyết vụ việc theo TTRG như một Tòa chuyên trách trong hệ

thống T ND. Theo đó, Tòa Giản lược có thể được tổ chức nằm trong T ND

cấp huyện. Mô hình này sẽ đảm bảo tối đa sự chuyên nghiệp, chuyên trách giải

quyết vụ việc hình sự, dân sự, hành chính đơn giản theo TTRG. Tòa chuyên

trách giải quyết vụ việc dân sự theo TTRG sẽ được tổ chức chủ yếu là các

Thẩm phán, Thư ký, Thẩm tra viên chuyên trách thực hiện, nghiên cứu và tổ

chức giải quyết các vụ việc dân sự theo TTRG. Với cách thức tổ chức mô hình

Tòa Giản lược như vậy, có thể thể hiện sơ đồ cơ cấu tổ chức của T ND các

98

cấp như sau: xin xem ở trang sau)

SƠ ĐỒ TỔ CHỨC CỦA TAND Theo mô hình có Tòa Giản lược là Tòa chuyên trách tại T ND cấp huyện)

Tòa án Quân sự TW

Bộ máy giúp việ c

Vụ giám đốc, kiể m tra 1

TAND TỐI CAO Hội đồng Thẩ m phán TANDTC

Vụ giám đốc, kiể m tra 2

Vụ giám đốc, kiể m tra 3

TAND Cấ p cao tạ i Hà Nội

TAND cấ p cao tạ i Thà nh phố Hồ Chí Minh

TAND Cấ p cao tạ i Đà Nẵ ng

Tòa án quân

sự

Tòa Kinh tế

Bộ máy giúp việ c

Tòa Hình sự

Tòa Dân sự

quân khu và cấp tƣơng đƣơng Ủy ban Thẩ m phán Bộ máy giúp việ c

Tòa gia đình và người chưa thà nh niên

TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng Ủy ban Thẩ m phán Tòa Lao động

Tòa Hà n h chín h

TAND huyệ n, quậ n, thị xã, thà nh phố thuộc tỉ nh

Tòa án quân sự khu vực

Bộ máy giúp việ c

Tòa Giả n lược

99

Các Tòa chuyên Quan điểm thứ hai cho rằng, trong bối cảnh hiện tại, khi việc nghiên cứu trách về mô hình TTRG giải quyết vụ việc tại Tòa án chưa được chín muồi thì chỉ

nên bố trí bộ phận chuyên trách giải quyết vụ việc theo TTRG là cấp phòng tại

các T ND. Việc bố trí bộ phận này sẽ phần nào bảo đảm được tính chuyên

nghiệp, chuyên trách giải quyết vụ việc theo TTRG của Tòa án, đồng thời,

cũng giảm thiểu kinh phí đầu tư, tránh tình trạng phình to về mặt cơ cấu, nhân

sự sẽ dễ vấp phải sự phản ứng của nhân dân, cũng như bộ ngành khác.

Đối với các nhà hoạt động thực tiễn là Thẩm phán cũng có nhiều loại ý

kiến khác nhau. Theo đó, phân thành bốn loại ý kiến: i) Cần thiết thành lập

Tòa Giản lược được tổ chức như một Tòa chuyên trách giải quyết vụ việc theo

TTRG trong hệ thống T ND; ii) Chỉ nên thành lập bộ phận chuyên trách giải

quyết vụ việc theo TTRG là cấp phòng trong các T ND; iii) Không xây dựng

bộ phận chuyên trách giải quyết vụ việc theo TTRG mà phân công Thẩm phán

chuyên trách giải quyết vụ việc theo TTRG trong các T ND; iv) Nên giữ

nguyên cách thức giải quyết như hiện nay, không xây dựng bộ phận chuyên

trách giải quyết vụ việc theo TTRG trong hệ thống T ND, khi thụ lý các vụ

việc đáp ứng các tiêu chí giải quyết theo TTRG thì Chánh án T ND sẽ phân

công Thẩm phán bất kỳ giải quyết vụ án đó.

Chúng Tác giả cho rằng, việc xây dựng bộ phận chuyên trách giải quyết

vụ việc theo TTRG là vấn đề tất yếu. Bởi lẽ, TTRG là chế định đã được thừa

nhận trong trong tất cả các lĩnh vực TTHS, TTDS, TTHC; đồng thời, khoản 1

Điều 45 Luật Tổ chức T ND năm 2014 quy định:

“TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có thể

có Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý

hành chính. Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định

thành lập Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án TAND tối cao.

Căn cứ quy định tại khoản này và yêu cầu, thực tế xét xử ở mỗi TAND huyện,

quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương, Chánh án TAND tối

cao quyết định việc tổ chức Tòa chuyên trách.”

Đây là một trong những căn cứ pháp lý mạnh mẽ cho việc tiếp tục

100

nghiên cứu, xây dựng bộ phận chuyên trách giải quyết vụ việc tại Tòa án theo

TTRG một cách chuyên nghiệp. Vấn đề đặt ra là cách thức và tiến trình xây

dựng cần được nghiên cứu k càng, ph hợp với điều kiện thực tiễn và cơ cấu

tổ chức của T ND theo tinh thần cải cách tư pháp được cụ thể hóa trong Luật

Tổ chức T ND năm 2014 mới được Quốc hội thông qua. Theo đó, cần nghiên

cứu tổ chức ph hợp với cơ cấu tổ chức Tòa án theo mô hình Tòa án sơ thẩm

cấp huyện. Việc xây dựng Tòa án chuyên trách giải quyết vụ việc dân sự theo

TTRG không nhất thiết phải xây dựng ở tất cả các Tòa án sơ thẩm cấp huyện

mà tổ chức theo nhu cầu thực tiễn của m i khu vực, thực hiện theo đúng tinh

thần của Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ chính trị “Việc thành lập Tòa

chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp Tòa án, từng khu

vực”. Theo đó, đối với những khu vực thực tiễn giải quyết nhiều vụ việc, thì

cần thành lập Tòa án khu vực. Đối với những khu vực số lượng vụ việc không

nhiều thì chỉ nên phân công Thẩm phán chuyên trách giải quyết vụ việc theo

TTRG.

Với cách thức như vậy, chúng Tác giả cho rằng việc nghiên cứu, xây

dựng bộ phận chuyên trách giải quyết vụ việc dân sự theo TTRG có thể được

thực hiện với hình thức thí điểm tại một số tỉnh, thành phố lớn trong một thời

gian nhất định để có cơ sở đánh giá hiệu quả của cơ chế này và quyết định hình

thức tổ chức bộ phận chuyên trách giải quyết vụ việc theo TTRG trong hệ

thống T ND cả nước ph hợp và hiệu quả.

b) Thẩm quyền của Tòa Giản lược

Nếu Tòa Giản lược được thành lập theo mô hình là Tòa chuyên trách

trực thuộc T ND cấp huyện, thì Tòa Giản lược có thẩm quyền giải quyết tất cả

các vụ việc hình sự, dân sự, hành chính đơn giản đáp ứng các tiêu chí theo quy

định của BLTTHS, BLTTDS và Luật TTHC. Đối với lĩnh vực TTDS, chúng

Tác giả cho rằng, ngoài các vụ án đáp ứng các tiêu chí theo quy định của

BLTTDS năm 2015, thì trong thời gian tới nếu sửa đổi BLTTDS, cần nghiên

cứu bổ sung TTRG theo hình thức ra quyết định áp dụng lệnh thanh toán đối

101

vớicác khoản vay nợ, nghĩa vụ tài chính rõ ràng giữa các bên như:

(i) Những khoản vay nợ có xác nhận nợ, chốt số tiền nợ gốc, số tiền nợ

lãi và ký xác nhận của bên cho vay, bên vay.

(ii) Những khoản vay tín dụng tiêu dùng không có tài sản bảo đảm mà

hợp đồng vay có công chứng theo quy định của pháp luật.

(iii) Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

(iv) Yêu cầu thanh toán tiền lương cho người lao động theo hợp đồng.

c) Nhân sự của Tòa Giản lược

Với đặc th giải quyết các vụ việc đơn giản, có chứng cứ rõ ràng và theo

một trình tự ngắn gọn, chúng Tác giả cho rằng yêu cầu đối với nhân sự của bộ

phận chuyên trách giải quyết vụ việc theo TTRG d là thiết kế hay mô hình

Tòa Giản lược hay bộ phận tương đương cấp phòng) không cần thiết phải khắt

khe như tiêu chuẩn Thẩm phán của T ND. Đối với những vụ việc cần tiến

hành thủ tục xét xử thì người tiến hành tố tụng phải là Thẩm phán, tuy nhiên

đối với những vụ việc mang tính chất phát hành lệnh thì không cần thiết phải là

Thẩm phán mà chỉ cần những người có chức danh Thư ký Tòa án hoặc Thẩm

tra viên là có thể thực hiện được. Chi tiết về hai thủ tục này chúng Tác giả sẽ

phân tích ở mục 3.2.4 sau đây.

TTRG là một quy định mới được đưa vào BLTTDS năm 2015. Có thể

nói đây là quy định tiến bộ, ph hợp yêu cầu đòi h i của xã hội và thực tiễn xét

xử của ngành T ND, đặc biệt trong tình hình hiện nay. Thủ tục này là cơ sở

bảo đảm để người dân có quyền tiếp cận công lý một cách nhanh chóng và

cũng là cơ sở để cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết nhanh chóng, kịp thời

nhiều vụ án, góp phần giải quyết tình trạng tồn đọng án kéo dài; tạo điều kiện

cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc tập trung vào việc giải quyết các vụ

án lớn, phức tạp hơn. Đồng thời, tiết kiệm được thời gian, tiền bạc, công sức

cho các đương sự và Nhà nước mà vẫn đảm bảo tính pháp chế trong việc giải

102

quyết các vụ án dân sự.

103

Kết luận Chƣơng 3

Để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và nhà nước đã đặt ra về hoàn thiện

pháp luật TTDS, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân được tiếp cận đến công

lý một cách nhanh chóng, đồng thời để bắt kịp xu thế tiến bộ của các nước

trên thế giới trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, thì việc xây dựng mô

hình TTRG trong BLTTDS 2015 là cần thiết. Do quy định này mới ban hành

nên việc người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng hiểu và áp dụng sẽ

thiếu sự thống nhất và đồng bộ nếu không có quy định hướng dẫn cụ thể của

pháp luật. Cũng do là quy định mới nên việc ban hành các quy định về TTRG

còn bộc lộ những hạn chế là không thể tránh kh i. Chính vì lẽ đó mà các cơ

quan có thẩm quyền cần xem xét, nghiên cứu để sửa đổi bổ sung các quy định

TTRG để khắc phục hạn chế còn tồn tại, nâng cao hiệu quả áp dụng quy định

này là hết sức cần thiết. Đồng thời, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng cần

có những hướng dẫn, giải thích để có cách hiểu và áp dụng đúng đắn và thống

nhất trên thực tế. Ngoài việc sửa đổi, giải thích pháp luật, thì việc nâng cao cơ

sở vật chất của ngành Tòa án được hiện đại, tiện nghi cũng là một nhiệm vụ để

nâng cao các biện pháp tổ chức triển khai áp dụng; các điều kiện về nhân lực,

vật lực cho ngành Tòa án nói chung, cho cơ quan Tòa án các cấp nói riêng.

KẾT LUẬN

Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là một chế định tiến bộ trong pháp luật

104

TTDS. Quy định về TTRG có trong pháp luật TTDS của nhiều nước trên thế

giới, ở Việt Nam quy định này đã được pháp luật ghi nhận trong BLTTDS năm

2015, việc ban hành quy định này là dựa trên sự ph hợp với điều kiện kinh tế

phát triển, ph hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng ở nước ta hiện nay.

Đặc điểm của TTRG là rút ngắn về thời gian, giản lược về thủ tục tố tụng. Với

đặc điểm đó TTRG có ý nghĩa quan trọng, góp phần giải quyết vụ án được

nhanh chóng, kịp thời bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân,

giảm chi phí cho Nhà nước và Nhân dân. Quy định về TTRG trong BLTTDS

năm 2015 mới được pháp luật TTDS ghi nhận nên quy định này còn bộc lộ

những hạn chế nhất định. Như cách hiểu và áp dụng quy định về thủ tục này

vẫn chưa có những hướng dẫn cụ thể của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Thời hạn tố tụng được rút ngắn nhiều so với thời hạn giải quyết vụ án dân sự

theo thủ tục chung, tuy nhiên một số quy định về thủ tục tố tụng rút gọn còn

chưa ph hợp và chưa rõ ràng. Ví dụ như đối với vụ án đủ điều kiện áp dụng

TTRG giải quyết vụ án thì trong thời hạn chuẩn bị xét xử Tòa án vẫn phải yêu

cầu đương sự làm bản tự khai, trong khi điều kiện để thụ lý là đương sự đã

thừa nhận nghĩa vụ của mình, các đương sự đã có đầy đủ tài liệu, chứng cứ

chứng minh cho quyền lợi của mình bị xâm phạm. Đến thời điểm hiện tại, khi

BLTTDS năm 2015 đã có hiệu lực pháp luật, vẫn chưa có vụ án nào được áp

dụng theo TTRG để giải quyết. Để các quy định này được áp dụng trong thực

tế thì cần có những quy định hướng dẫn chi tiết, cụ thể về cách hiểu, áp dụng

trong việc giải quyết vụ án dân sự. Đồng thời các cơ quan có thẩm quyền cần

tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về TTRG trong BLTTDS

năm 2015 để khắc phục được những hạn chế, nâng cao hiệu quả áp dụng quy

định này là rất cần thiết. Để TTRG không chỉ là quy định tiến bộ trên lý thuyết

mà trở thành biện pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp

dân sự nói chung và tranh chấp HĐTD nói riêng, kịp thời bảo vệ quyền và lợi

105

ích hợp pháp của các bên trong quan hệ dân sự.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt:

1. Hiến pháp năm 2013

2. BLTTDS năm 2015

3. BLDS năm 2005

106

4. BLDS năm 2015

5. Luật Tổ chức Tòa án năm 2014

6. Luật Bảo vệ người tiêu d ng năm 2010

7. Luật Đất đai năm 2013

8. Luật Nhà ở năm 2014

9. Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014

10. Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử

lý nợ xấu của các TCTD

11. Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm

phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật

trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản

nợ xấu tại TAND

12. Lê Nết 2006), Kinh tế luật, Tri Thức, thành phố Hồ Chí

Minh.

13. Mai Hồng Quỳ 1999), “Thực tiễn tranh chấp kinh tế với

việc hoàn thiện pháp luật kinh doanh”, Đề tài nghiên cứu khoa học và

công nghệ cấp Bộ, thành phố Hồ Chí Minh.

14. Nguyễn Thị Thu Thủy 2011), “Khả năng áp dụng TTRG

trong tố tụng dân sự ở Việt Nam”, Nhà nước và Pháp luật.

15. Đào Văn Hội 2004), Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh

chấp kinh tế ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Dự án “Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại

Việt Nam” 2015), Tài liệu hội thảo Góp ý Dự thảo báo cáo “Nghiên

cứu và đề xuất cơ chế, mô hình giải quyết tranh chấp dân sự theo TTRG

tại Tòa án Việt Nam”, Hà Nội.

17. Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ về “Vấn đề xây

dựng thủ tục TTDS rút gọn theo yêu cầu cải cách tự pháp và hội nhập

kinh tế quốc tế hiện nay, thực trạng và giải pháp” do Tiến sĩ Trần nh

Tuấn, Trưởng Bộ môn tố tụng dân sự Đại học luật Hà Nội làm chủ

107

nhiệm đề tài nghiên cứu, năm 2014.

18. Trần nh Tuấn 2015), Tham luận hội thảo Góp ý dự thảo

báo cáo “Nghiên cứu và đề xuất cơ chế, mô hình giải quyết tranh chấp

dân sự theo TTRG tại Tòa án Việt Nam”, Hà Nội.

19. Bài viết “Vấn đề áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử và

thành lập Tòa giản lược trong hệ thống Tòa án nhân dân” của

Ths.Trương Hòa Bình – Bí thư trung ương Đảng, Chánh án T NDTC.

20. Bài viết “Hệ thống và thủ tục xét xử tại Tòa án đã đến lúc

không thể trì hoãn nhu cầu cần có Tòa Đơn giản Thủ tục đơn giản” của

TS. Vũ Thị Minh Hồng, Phó Trưởng ban Dân chủ pháp luật, Ủy ban

Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

21. Các bài viết “Cơ chế giải quyết tranh chấp bảo vệ quyền

lợi người tiêu d ng bằng Tòa án”, “ ét xử theo thủ tục đơn giản vụ án

dân sự – nhu cầu và định hướng lập pháp” “Định hướng lập pháp về

thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự” của Ths. B i Thị Dung Huyền –

Trưởng phòng và Ths Lê Thế Phúc – Phó Trưởng phòng Phòng NCPL

Dân sự, Thương mại Viện Khoa học xét xử, T NDTC.

22. BLTTDS Liên bang Nga quy định việc ban hành lệnh của

Tòa án thuộc thẩm quyền của Thẩm phán hòa giải xét xử ở cấp sơ thẩm.

II. Tài liệu tiếng nƣớc ngoài:

Richard .A. Posner (2003), Economic Analysis of Law, 23.

Aspen Publishers, p.517.

24. Charles E. Clark and Charles U. Samenow 1929), “The

108

Summary Judgment”, Yale Law Journal. 38, p. 423-471