ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ®¹i häc quèc gia Hµ néi KHOA LUẬT KHOA LUẬT khoa luËt
NGUYỄN THÀNH NAM bïi thÞ ph ¬ng lan NGUYỄN THÀNH NAM GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ph¸p luËt vÒ quyÒn t¸c gi¶ THEO THỦ TỤC RÚT GỌN TẠI VIỆT NAM trong qu¸ tr×nh héi nhËp quèc tÕ ë ViÖt Nam ĐỒNG TÍN DỤNG THEO THỦ TỤC RÚT GỌN TẠI VIỆT NAM luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
chuyªn ngµnh: luËt quèc tÕ
m· sè: 5.05.12 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
HÀ NỘI - 2020
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THÀNH NAM
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
THEO THỦ TỤC RÚT GỌN TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. PHAN HỮU THƢ
HÀ NỘI - 2020
2
MỤC LỤC
Trang
1
Lời cảm ơn
2
Lời cam đoan
3
Mục lục
5
Danh mục các từ viết tắt trong luận văn
6
Mở đầu
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về thủ tục rút gọn giải quyết các vụ 13
án dân sự
13 1.1 Khái niệm, cơ sở xây dựng chế định và đặc điểm của thủ
tục rút gọn theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
1.2 Mục đích, yêu cầu của việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục tố 21
tụng rút gọn
23 1.3 Lịch sử hình thành và phát triển của thủ tục rút gọn tại Việt Nam
29 1.4 Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo pháp luật của một số nước trên
thế giới
1.5 Một số vấn đề lý luận về tranh chấp hợp đồng tín dụng và giải 33
quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng theo thủ tục rút gọn
Chƣơng 2: Quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về thủ tục 53
giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn
2.1 Quy định về việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn tại 53
Tòa án cấp sơ thẩm
58 2.2 Quy định về việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút
gọn tại Tòa án cấp phúc thẩm
60 2.3 Thủ tục xem xét lại bản án, quyết định theo thủ tục rút
gọn đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc
3
thẩm, tái thẩm
2.4 Quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp hợp 60
đồng tín dụng theo thủ tục rút gọn
2.5 Thực trạng và đánh giá về tình hình giải quyết vụ án dân sự, tranh 74
chấp hợp đồng tín dụng tại Toà án hiện nay và những yếu tố cơ
bản ảnh hưởng tới chất lượng bản án
Chƣơng 3: Thực tiễn áp dụng quy định về giải quyết vụ án dân sự theo 85
thủ tục rút gọn tại Tòa án, một số vấn đề qua hiện trạng xử lý nợ của
các tổ chức tín dụng bằng hình thức khởi kiện tại Tòa án và kiến nghị
hoàn thiện quy định về giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn
3.1 Những hạn chế và khó khăn khi áp dụng các quy định về thủ tục 85
rút gọn
89 3.2 Một số vấn đề liên quan đến thủ tục rút gọn qua thực tiễn
xử lý nợ của các tổ chức tín dụng bằng hình thức khởi
kiện tại Tòa án
3.3 Kiến nghị phương hướng và giải pháp hoàn thiện Thủ tục rút gọn 91
ở Việt Nam
3.4 Về vấn đề thành lập Tòa giản lược trong hệ thống Tòa án nhân 100
dân
112
Kết luận
4
Danh mục tài liệu tham khảo 114
BLDS
- Bộ luật Dân sự
BLTTDS
- Bộ luật Tố tụng dân sự
Nghị quyết
số
- Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý
42/2017/QH14
nợ xấu của các tổ chức tín dụng
Nghị quyết
số
- Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội
03/2018/NQ-
dồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
HĐTP
một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về
xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu tại Tòa án
nhân dân
UBTVQH
- Ủy ban thường vụ Quốc hội
TAND
- Tòa án nhân dân
VKSND
- Viện kiểm sát nhân dân
UBND
- Ủy ban nhân dân
HĐTD
- Hợp đồng tín dụng
TCTD
- Tổ chức tín dụng
VAMC
- Công ty TNHH MTV Quản lý tài sản của các tổ chức tín
dụng Việt Nam
TTRG
- Thủ tục rút gọn
KDTM
- Kinh doanh thương mại
HNGĐ
- Hôn nhân gia đình
LĐ
- Lao động
5
CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam luôn đặt ra những quy định về trình
tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ nhằm thực hiện mục tiêu xét xử khách quan, công
bằng, bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Tuy nhiên,
nhiều khi, những quy định chặt chẽ này vô hình chung đã hình thành nên
những thiết chế tố tụng phức tạp, khó tuân thủ và gây tốn kém. Thực tiễn giải
quyết nhiều vụ án dân sự, trong đó có những tranh chấp liên quan HĐTD, xử
lý tài sản bảo đảm của khoản vay tín dụng,… tuy đơn giản, chứng cứ rõ ràng
nhưng thời gian giải quyết lại kéo dài một cách không cần thiết trong khi Tòa
án có thể giải quyết nhanh hơn nếu không phải thực hiện đầy đủ các thủ tục
hiện hành nhưng vẫn bảo đảm được các mục tiêu xét xử. Thực tiễn này đặt ra
yêu cầu cần phải có một thủ tục đơn giản hơn, thuận lợi, ít tốn kém hơn cho
những vụ án đơn giản, có chứng cứ rõ ràng.
Trên thế giới, t y thuộc lựa chọn của m i quốc gia mà thủ tục rút gọn có
thể là một hoặc bao gồm các cơ chế như cơ chế giải quyết khiếu kiện nh , cơ
chế hối thúc trả nợ và cơ chế giải quyết đối với séc và hối phiếu. Kinh nghiệm
nhiều quốc gia như M , Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Canada, Philippines,…)
trong giải quyết các vụ án dân sự cho thấy, những thủ tục tố tụng này là một
trong những công cụ hữu ích của người dân cũng như Tòa án trong việc bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức một cách nhanh gọn, hiệu
quả.
Sau hai lần trình xây dựng dự thảo các quy định về TTRG trong tố tụng
dân sự năm 2004 và 2011 không thành công, BLTTDS năm 2015 được Quốc
hội khóa XIII thông qua, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, có quy định
riêng tại Phần thứ tư về giải quyết vụ án dân sự theo TTRG. Đồng thời, ngày
21/6/2017, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá XIV đã thông qua Nghị quyết số
6
42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD; theo đó tại Điều 8
Nghị quyết này quy định rõ “Tòa án áp dụng TTRG để giải quyết tranh chấp
về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm hoặc tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo
đảm của khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức
mua bán, xử lý nợ xấu” khi đáp ứng đầy đủ một số điều kiện nhất định và việc
giải quyết những tranh chấp này được thực hiện theo TTRG quy định tại
BLTTDS.
Việc xử lý nợ xấu gắn với cơ cấu lại các TCTD là vấn đề nhức nhối của
xã hội, gây ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế đất nước nên được xác
định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm tại Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XII và Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII. Tại các kỳ họp Quốc hội gần đây, vấn đề xử lý nợ xấu được đặt ra
cấp bách, đòi h i sự quan tâm vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị. Do vậy,
có thể nói những quy định mới của BLTTDS năm 2015, Nghị quyết số
42/2017/QH14 là tín hiệu đáng mừng cho việc nâng cao chất lượng giải quyết
tranh chấp HĐTD nói chung và giải quyết nợ xấu nói riêng. Tuy nhiên, thực
tiễn áp dụng những quy định này như thế nào? Tính ph hợp và khả thi của
những quy định về giải quyết vụ án dân sự theo TTRG đối với tranh chấp
HĐTD vẫn là điều gây nhiều nghi ngại. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Giải quyết
tranh chấp hợp đồng tín dụng theo thủ tục rút gọn tại Việt Nam” để thực hiện
Luận văn thạc s chuyên ngành Luật dân sự và tố tụng dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, TTRG giải quyết vụ án dân sự không phải là vấn đề mới ở
Việt Nam, tuy nhiên những nghiên cứu về vấn đề này cũng chưa có nhiều. Qua
nghiên cứu sơ bộ, có một số tác giả nghiên cứu về vấn đề này như: TS. Trần
nh Tuấn “Vấn đề xây dựng thủ tục TTDS rút gọn theo yêu cầu cải cách tự
pháp và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, thực trạng và giải pháp”- Đề tài cấp
Bộ năm 2014; Ths.Trương Hòa Bình “Vấn đề áp dụng thủ tục rút gọn trong xét
xử và thành lập Tòa giản lược trong hệ thống Tòa án nhân dân”, Tạp chí
7
TAND kỳ II- tháng 2/2014; “Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về áp dụng
TTRG trong giải quyết một số loại vụ việc dân sự cụ thể và đề xuất mô hình
khả thi cho Tòa án Việt Nam”- Báo cáo của Dự án “Tăng cường tiếp cận công
lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam” - Chương trình phát triển Liên hợp quốc -
2015; “Đánh giá chức năng của các phương thức giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại ở Việt Nam hiện nay”, Báo cáo nghiên cứu của Văn phòng
Luật sư LE DCO - 2007;...
Có thể thấy những nghiên cứu trên đây đều ở thời điểm trước khi
BLTTDS năm 2015 được Quốc hội ban hành. Do vậy, đề tài “Giải quyết tranh
chấp hợp đồng tín dụng theo thủ tục rút gọn tại Việt Nam” không tr ng phạm
vi nghiên cứu với bất cứ nghiên cứu nào.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Trên cơ sở phân tích, đánh giá các quy định của BLTTDS năm 2015 về
giải quyết vụ án dân sự theo TTRG, tình hình áp dụng các quy định này tại các
Tòa án trong giải quyết vụ án dân sự, đặc biệt là đối với các vụ án liên quan
tranh chấp HĐTD, hiện trạng xử lý nợ bằng hình thức khởi tiện tại Tòa án của
các TCTD; từ đó đề xuất, kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện quy định pháp
luật về giải quyết vụ án dân sự theo TTRG, nâng cao hiệu quả giải quyết tranh
chấp HĐTD, xử lý nợ xấu của các TCTD.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Với mục tiêu hướng đến là góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về
giải quyết vụ án dân sự theo TTRG, nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
HĐTD, luận văn giải quyết những mục tiêu cụ thể sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về TTRG giải quyết vụ
án dân sự.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về giải
quyết vụ án dân sự theo TTRG, so sánh với quy định của một số
nước trên thế giới nhằm rút ra kinh nghiệm đối với Việt Nam.
8
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về giải quyết
vụ án dân sự theo TTRG qua hoạt động xét xử của Tòa án nói chung
và qua hoạt động xử lý nợ bằng hình thức khởi kiện tại Tòa án của
các TCTD.
Qua đó, luận văn kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định
pháp luật về giải quyết vụ án dân sự theo TTRG nhằm nâng cao hiệu quả giải
quyết tranh chấp HĐTD, xử lý nợ xấu của các TCTD.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về TTRG giải quyết
các vụ án dân sự; nghiên cứu các quy định về giải quyết vụ án dân sự theo
TTRG dưới góc độ là một chế định của BLTTDS và thực tiễn áp dụng các quy
định đó tại Tòa án, các TCTD; kinh nghiệm của một số nước trên thế giới quy
định về TTRG giải quyết vụ án dân sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn có phạm vi nghiên cứu gồm:
- Những vấn đề lý luận về TTRG giải quyết các vụ án dân sự.
- Quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết vụ án dân sự theo
TTRG. Trong đó nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển quy định về
TTRG ở Việt Nam, tập trung chủ yếu quy định của BLTTDS năm 2015 và một
số văn bản luật có liên quan.
- Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới có quy định về TTRG giải
quyết vụ án dân sự.
- Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về giải quyết vụ án dân sự theo
TTRG qua hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và qua hoạt động xử lý nợ
bằng hình thức khởi kiện tại các TCTD.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn sử dụng phối hợp nhiều
phương pháp khác nhau như:
9
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích các vấn
đề liên quan đến chế định giải quyết vụ án dân sự theo TTRG và khái quát
những nội dung cơ bản được nghiên cứu trong luận văn.
- Phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu về TTRG
giải quyết các vụ việc qua các thời kì ở Việt Nam.
- Phương pháp so sánh được thực hiện nhằm tìm hiểu quy định của pháp
luật hiện hành với hệ thống luật trước đây của Việt Nam cũng như pháp luật
của một số nước khác quy định về giải quyết vụ án dân sự theo TTRG.
- Phương pháp thống kê được thực hiện trong quá trình nghiên cứu thực
tiễn áp dụng quy định pháp luật về giải quyết vụ án dân sự theo TTRG; thực
tiễn xử lý nợ tại một số TCTD bằng hình thức khởi kiện tại Tòa án.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
6.1. Tính mới của đề tài
Luận văn nghiên cứu quy định về giải quyết vụ án dân sự theo TTRG
dưới góc độ là một chế định của pháp luật tố tụng dân sự. Theo đó, đây là thủ
tục lần đầu tiên được quy định như một chế định mới tại BLTTDS năm 2015
nhằm giải quyết nhanh chóng, hiệu quả và tiết kiệm đối với một số loại vụ án
dân sự đơn giản, chứng cứ rõ ràng, đáp ứng những yêu cầu nhất định.
Luận văn tìm hiểu và khái quát thực tiễn áp dụng các quy định của
BLTTDS và một số văn bản luật có liên quan về việc giải quyết vụ án dân sự
theo TTRG tại Tòa án và qua thực tiễn hoạt động xử lý nợ bằng hình thức khởi
kiện tại Tòa án của các TCTD.
6.2. Những đóng góp của đề tài
Từ việc nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng nêu
trên, luận văn làm rõ những hạn chế, vướng mắc của quy định pháp luật về giải
quyết vụ án dân sự theo TTRG và đưa ra một số kiến nghị dưới cả góc độ lý
luận và thực tiễn nhằm hoàn thiện các quy định này, nâng cao hiệu quả giải
quyết tranh chấp HĐTD, xử lý nợ xấu của các TCTD.
7. Dự kiến kết quả nghiên cứu của đề tài
10
Với đề tài “Giải quyết tranh chấp HĐTD theo TTRG tại Việt Nam”,
luận văn dự kiến đạt được một số kết quả sau:
- Phân tích một số vấn đề lý luận về TTRG giải quyết
các vụ án dân sự: đưa ra khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa
của TTRG giải quyết các vụ việc dân sự
- Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế
giới có quy định về TTRG.
- Phân tích quy định về giải quyết vụ án dân sự theo
TTRG theo quy định của BLTTDS năm 2015.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định về giải
quyết vụ án dân sự theo TTRG thông qua hoạt động xét xử của
Tòa án và hiện trạng xử lý nợ của các TCTD; từ đó có những so
sánh, đánh giá và đề xuất góp phần hoàn thiện quy định về giải
quyết vụ án dân sự theo TTRG; qua đó nâng cao hiệu quả giải
quyết các tranh chấp HĐTD.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục Tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm ba chương như sau:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về TTRG giải quyết các vụ án dân sự
Chƣơng 2: Quy định của BLTTDS năm 2015 về thủ tục giải quyết vụ
án dân sự theo TTRG
Chƣơng 3: Thực tiễn áp dụng quy định về giải quyết vụ án dân sự theo
TTRG tại Tòa án, một số vấn đề qua hiện trạng xử lý nợ của các TCTD bằng
hình thức khởi kiện tại Tòa án và kiến nghị hoàn thiện quy định về giải quyết
11
vụ án dân sự theo TTRG
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN
GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, cơ sở xây dựng chế định và đặc điểm
của thủ tục rút gọn theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm thủ tục rút gọn
Hiện nay, trong hệ thống pháp luật của nhiều nước trên thế giới đều có
xây dựng và áp dụng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn để giải quyết một số loại vụ
án dân sự nhất định. Xét một cách khái quát thì tuy pháp luật m i nước có
những đặc th riêng nhưng nhìn chung TTRG trong tố tụng dân sự được hiểu
là một thủ tục đơn giản hơn thủ tục tố tụng thông thường về thành phần hội
đồng xét xử, về thời gian tiến hành tố tụng… đối với các vụ án có nội dung
tranh chấp tương đối rõ ràng, bị đơn đã thừa nhận hoặc không phản đối yêu
cầu của nguyên đơn, các vụ án có giá ngạch thấp hoặc do các bên đương sự lựa
chọn giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn.
Trong mối quan hệ giữa xét xử theo thủ tục tố tụng thông thường và thủ
tục xét xử theo TTRG thì thủ tục tố tụng dân sự thông thường là cơ sở cho việc
áp dụng giải quyết vụ án theo TTRG và TTRG là sự lược hoá một số bước của
thủ tục tố tụng thông thường. Tuy nhiên, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn không
phải là thủ tục phụ thuộc vào thủ tục tố tụng thông thường mà TTRG là một
thủ tục tố tụng độc lập tương đối so với thủ tục tố tụng thông thường. Tính độc
lập của thủ tục tố tụng rút gọn thể hiện trong trường hợp nếu các điều kiện xét
xử theo thủ tục tố tụng rút gọn không còn đáp ứng thì vụ việc vẫn có thể được
giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường.
Từ những phân tích trên, tác giả cho rằng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
là một quy trình tố tụng riêng biệt được Tòa án áp dụng để giải quyết các tranh
12
chấp dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động có nội dung đơn giản, rõ ràng,
có giá ngạch thấp hoặc các bên đương sự thoả thuận lựa chọn thủ tục này.
Theo đó, trong một thời hạn ngắn ngắn, Thẩm phán độc lập tiến hành xem xét
và ra phán quyết về vụ án tranh chấp mà không nhất thiết phải tuân theo tuần
tự các bước như trong thủ tục tố tụng thông thường.
1.1.2. Cơ sở xây dựng chế định thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam
Chế định TTRG trong BLTTDS năm 2015 ra đời xuất phát từ nhu cầu
nội tại của các điều kiện kinh tế – xã hội.
Thứ nhất, việc xây dựng TTRG xuất phát từ nhu cầu đảm bảo tính hiệu
quả của hệ thống tư pháp.
Hoạt động của hệ thống tư pháp, cũng giống như hoạt động của bất kỳ
một tổ chức nào trong xã hội, đều cần có tính hiệu quả. Tính hiệu quả của pháp
luật nói chung và hoạt động của hệ thống tư pháp nói riêng đã là đối tượng
nghiên cứu của triết lý kinh tế luật từ những năm 60 của thế kỷ trước [12,
tr15].
Theo trường phái này, hiệu quả của hoạt động xét xử không chỉ được
căn cứ vào khả năng giải quyết tốt các tranh chấp mà còn thể hiện ở hiệu quả
của các quy phạm pháp luật [13, tr89]. Xuất phát từ quan điểm việc phân tích
về trình tự, thủ tục pháp lý trong tố tụng cũng giống như việc nhà kinh doanh
tính toán về hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty mình [12, tr20], triết lý
kinh tế luật cho rằng mục đích của hệ thống tố tụng nhìn từ góc độ kinh tế học
là nhằm giảm thiểu rủi ro xảy ra các sơ suất trong quá trình xét xử và cả chi phí
để vận hành hệ thống đó nữa [23, tr517]. Do đó, việc xác định quy trình tố
tụng cần phải cân nhắc đến tính hài hòa giữa chi phí b ra để vận hành bộ máy
tố tụng với những lợi ích được bảo vệ nhờ sự hoạt động của bộ máy tố tụng
này.
Căn cứ vào lý thuyết này có thể thấy nếu một lượng nguồn lực xã hội
với nghĩa là các khoản tài chính, nhân lực, thời gian … được sử dụng vào một
13
mục đích đem lại kết quả có giá trị là mà c ng với lượng nguồn lực đó nếu
sử dụng vào mục đích khác đem lại giá trị là + lớn hơn thì như vậy là
nguồn lực này đã không được sử dụng một cách hiệu quả nhất, còn nếu trong
trường hợp có giá trị nh hơn lượng nguồn lực đã b ra thì đấy là sự lãng phí
nguồn lực xã hội. Trong việc xây dựng TTRG, sự so sánh này là giữa một bên
là những lợi ích không lớn cần phải bảo vệ và một bên là những hao tổn, chi
phí của nhà nước và đương sự nếu việc giải quyết vụ án phải trải qua nhiều
giai đoạn, nhiều cấp xét xử [14, tr37-42, tr38].
TTRG được xây dựng để giải quyết các vụ án có tình tiết đơn giản, rõ
ràng hoặc có giá trị tranh chấp thấp giúp tiết kiệm chi phí tố tụng. Thủ tục tố
tụng thông thường đảm bảo ở mức độ cao khả năng tìm kiếm và bảo vệ công lý
đối với các vụ án dân sự được áp dụng. Tuy nhiên, việc áp dụng thủ tục thông
thường đối với các vụ án đơn giản, rõ ràng, hoặc có giá trị tranh chấp thấp là
một sự lãng phí về thời gian và tiền do phải trải qua nhiều hoạt động tố tụng
không cần thiết hoặc thời gian tố tụng kéo dài. Việc áp dụng TTRG trong các
trường hợp này đảm bảo được tính ph hợp giữa nhu cầu giải quyết vụ án và
phương thức giải quyết vụ án, từ đó đảm bảo được hiệu quả của hoạt động tố
tụng.
Thứ hai, việc xây dựng TTRG xuất phát từ nhu cầu của quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một
phần tất yếu trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay. Phát triển về kinh tế đòi h i những thay đổi tương ứng
trong các thiết chế xã hội để ph hợp với nó. Sự tăng trưởng kinh tế, gia tăng
các quan hệ KDTM đồng nghĩa với khả năng xảy ra các vụ án dân sự nói
chung, tranh chấp KDTM nói riêng, và pháp luật tố tụng dân sự, với vai trò là
một cơ chế giải quyết các vụ án dân sự theo nghĩa rộng, cần phải có những
thay đổi nhất định.
Thực tiễn xét xử trong những năm vừa qua cho thấy, c ng với sự phát
14
triển của nền kinh tế từ những năm sau đổi mới, các tranh chấp về dân sự,
KDTM diễn ra ngày càng nhiều về số lượng và phức tạp về nội dung. Các vụ
án dân sự mà T ND các cấp thụ lý đã tăng từ 223.228 vụ năm 2005 lên đến
395.415 vụ năm 2013 trong đó số lượng các vụ án T ND cấp sơ thẩm thụ lý
và giải quyết là rất lớn, thường chiếm trên 90% số lượng án giải quyết của toàn
hệ thống, c ng với đó là số lượng án còn tồn đọng của Tòa án các cấp cũng
còn nhiều [16, tr22].
Trong nền kinh tế thị trường, các yếu tố liên quan đến đầu vào của quá
trình sản xuất, kinh doanh như thời gian, vốn, sức lao động…luôn luôn trong
quá trình vận động để tạo ra giá trị thặng dư. Do đó, sự tự do lưu thông của các
yếu tố này đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của
yếu tố kinh tế trong một xã hội, vai trò này càng lớn hơn khi nền kinh tế đang
trên đà phát triển. Trong các vụ án dân sự, các yếu tố này có thuộc tính đang
tranh chấp, đang bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đảm bảo thi hành
án… nên chúng mất đi tính tự do lưu thông và hệ quả là cản trở sự phát triển
của nền kinh tế. Thời gian giải quyết tranh chấp càng dài, chủ thể có quyền, lợi
ích hợp pháp đối với các yếu tố đó càng bị thiệt hại bởi không khai thác được
tính kinh tế của chúng. Yếu tố thời gian trong giải quyết tranh chấp không chỉ
ảnh hưởng riêng đến các bên trong quan hệ KDTM mà còn ảnh hưởng đến cả
các bên trong quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng. Ví dụ không chỉ các
doanh nghiệp cần vốn cho hoạt động kinh doanh mà ngay cả cá nhân có quyền
sở hữu trí tuệ, có quyền sử dụng đất hoặc các tài sản khác cũng có thể đưa tài
sản đó vào hoạt động kinh doanh tạo ra giá trị thặng dư.
Như vậy, thời gian giải quyết tranh chấp ngắn là một trong những yêu
cầu quan trọng của quá trình phát triển kinh tế thị trường đặt ra đối với pháp
luật tố tụng dân sự. Chỉ khi có cơ chế giải quyết tranh chấp linh hoạt, mềm
dẻo, nhanh gọn thì mới có thể tạo được niềm tin cho các doanh nghiệp, doanh
nhân an tâm đầu tư, phát triển sản xuất [15]. Việc xây dựng TTRG trong tố
tụng dân sự, vì thế có ý nghĩa lớn trong việc giảm thời gian giải quyết tranh
15
chấp, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là xây dựng một nhà
nước trong đó quyền con người, quyền công dân được đề cao và bảo vệ. Một
trong số những nội dung của quyền công dân là quyền tiếp cận công lý và được
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Bằng việc áp dụng TTRG đối với vụ
án có tình tiết đơn giản, chứng cứ rõ ràng hoặc giá trị tranh chấp thấp, pháp
luật cho phép các bên được sử dụng các quy trình tố tụng nhanh gọn mà vẫn
đảm bảo mục đích của tố tụng. Tiết kiệm thời gian và chi phí cũng giúp các
bên đỡ e ngại khi sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp hợp pháp là Tòa án thay
vì sử dụng các phương pháp tiêu cực như bắt cóc, tống tiền, đòi nợ thuê… [16,
tr28]. Thủ tục nhanh chóng, đơn giản và ít tốn kém cũng làm giảm sự bất bình
đẳng giữa các bên có tiềm lực tài chính khác biệt, nhất là trong các vụ án liên
quan đến quyền của người tiêu d ng.
Thứ ba, việc xây dựng TTRG xuất phát từ tính đa dạng của các tranh
chấp trong thực tiễn đời sống xã hội.
Xu hướng chung của pháp luật tố tụng dân sự là quy định một cách chặt
chẽ các bước tiến hành tố tụng để đảm bảo bất kỳ một vụ án dân sự nào khi
được giải quyết bằng quy trình đó sẽ có khả năng cao nhất đạt được mục đích
của tố tụng dân sự là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các
bên đương sự. Tuy nhiên, thực tiễn các vụ án dân sự trong xã hội mang tính đa
dạng, có những tranh chấp phức tạp, nhiều quan hệ pháp luật dân sự chồng
chéo, nhiều chủ thể trong tranh chấp nhưng cũng có những tranh chấp đơn
giản, dễ dàng xác định các quan hệ pháp luật dân sự; có những vụ tranh chấp
nhiều nghìn tỷ đồng nhưng cũng có những tranh chấp chỉ vài trăm ngàn đồng,
có những tranh chấp mà các chứng cứ khó thu thập, cần phải giám định, định
giá nhưng có những vụ án mà các bên đều thống nhất về giá trị tranh chấp,
chứng cứ rõ ràng, đầy đủ…Việc áp dụng chung các vụ án dân sự với c ng một
thủ tục tố tụng, c ng thời gian giải quyết tranh chấp sẽ là không hợp lý bởi nhu
cầu giải quyết đối với từng loại vụ án là khác nhau.
16
Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự cho thấy có nhiều loại vụ việc có
nhu cầu giải quyết bằng một thủ tục đơn giản hơn so với thủ tục tố tụng thông
thường, gồm những vụ kiện có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng, các sự
kiện đã được xác định, không cần phải thu thập thêm chứng cứ hoặc có giá trị
tranh chấp thấp. Các loại việc này bao gồm: những vụ kiện mà các bên không
có tranh chấp về nghĩa vụ phải thực hiện nhưng bị đơn không chịu thực hiện
nghĩa vụ của mình; Những tranh chấp có chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, các sự kiện
đã được xác định, việc giải quyết tranh chấp không cần xác minh, thu thập
thêm chứng cứ; Những vụ kiện có giá trị tranh chấp thấp [16, tr30].
1.1.3. Đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục rút gọn
Một số đặc điểm của TTRG:
TTRG chỉ áp dụng giải quyết những tranh
chấp có chứng cứ rõ ràng, nội dung tranh chấp đơn giản, tài
sản tranh chấp có giá trị không lớn…
TTRG được giản lược một số thủ tục tố
tụng so với thủ tục TTDS thông thường.
Thời gian giải quyết vụ án theo thủ tục
TTDS sẽ được rút ngắn hơn so với thời gian giải quyết theo
thủ tục tố tụng thông thường.
TTRG chỉ do một Thẩm phán tiến hành
giải quyết.
Áp dụng TTRG không phải tuân thủ tất
các nguyên tắc cơ bản được quy định trong Luật TTDS.
Giải quyết vụ án theo TTRG sẽ giảm thiểu chi
phí cho Nhà nước và đương sự.
Ý nghĩa to lớn của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn nằm ngay trong
chính tên gọi của thủ tục này với mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho người
dân có thể tiếp cận công lý một cách nhanh chóng. Việc xây dựng thủ tục tố
17
tụng dân sự rút gọn có ý nghĩa không chỉ đối với các đương sự, Tòa án mà nó
còn có ý nghĩa xã hội rộng lớn và sâu sắc.
Thứ nhất, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn góp phần đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế và là sự hiện thực hoá chiến lược cải
cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta.
Trong xu thế hội nhập nền kinh tế quốc tế hiện nay đòi h i các thủ tục
tố tụng nói chung và thủ tục tố tụng tư pháp dân sự nói riêng phải đáp ứng
được yêu cầu về sự mềm dẻo, linh hoạt, nhanh chóng, thuận tiện để giải quyết
kịp thời các tranh chấp phát sinh. Việc cải cách thủ tục tố tụng tư pháp, trong
đó có thủ tục tố tụng dân sự theo hướng trên sẽ góp phần thúc đẩy các giao lưu
kinh tế, thương mại, dân sự…phát triển mạnh mẽ. Pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện hành chưa còn chưa thực sự mềm dẻo, linh hoạt, thời hạn giải
quyết tranh chấp còn kéo dài, phải trải qua nhiều khâu, nhiều bước nên chưa
thực sự đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế. Do vậy, việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn với trình tự giải
quyết đơn giản đặc biệt là thời hạn giải quyết ngắn…sẽ đáp ứng được nhu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế và hiện thực hoá chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Thứ hai, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn sẽ giảm đáng kể các chi phí tố
tụng cho đương sự và Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án. Thông thường
pháp luật các nước có quy định về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn đều quy định
án phí mà đương sự phải chịu là thấp hơn so với thủ tục tố tụng thông thường.
Bên cạnh đó, do các vụ án đơn giản, xét xử nhanh nên các chi phí đi lại, thuê
luật sư không phát sinh. Tòa án cũng không phải tiến hành tất cả các trình tự,
thủ tục để đưa vụ án ra xét xử mà gần như chỉ căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ
do các bên đương sự cung cấp. Vì vậy, các chi phí phát sinh như định giá,
thẩm định tại ch , thu thập tài liệu, chứng cứ cũng không phát sinh.
Thứ ba, trong thủ tục tố tụng dân sự rút gọn, thời gian để tiến hành tố
tụng được rút gắn đi rất nhiều lần so với thủ tục tố tụng dân sự thông thường.
18
Do vậy, quyền lợi hợp pháp của đương sự sẽ được bảo vệ một cách nhanh
chóng, kịp thời.
Xét về thực tế thì do các bước về thủ tục được giản lược nên Tòa án
sẽ giảm được tối đa các công việc không cần thiết, số lần đi lại để triệu tập
đương sự, người làm chứng, thu thập chứng cứ cũng theo đó mà giảm đáng kể,
thời hạn giải quyết vụ án sẽ không bị kéo dài một cách không cần thiết.
Thứ tư, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn đáp ứng yêu cầu về bảo đảm
quyền tiếp cận công lý của công dân, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa
án có thể nhanh chóng giải quyết vụ án. Đối với công dân thì thủ tục tố tụng
dân sự rút gọn sẽ tạo điều kiện thuận lợi để họ tiến hành khởi kiện và tham gia
tố tụng tại Tòa án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trong các vụ án
có nội dung tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng…thì cả nguyên đơn và bị
đơn không phải trải qua tất cả các thủ tục tố tụng như trong thủ tục thông
thường, mà chỉ tiến hành một số thủ tục luật định cần thiết cho việc giải quyết
vụ án.
Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là phương tiện để Thẩm phán có thể
chủ động và linh hoạt trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự vì họ
không phải thực hiện tất cả các trình tự, thủ tục như thủ tục tố tụng dân sự
thông thường. Ngoài ra, với đặc điểm của thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là thời
gian giải quyết nhanh chóng, trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng đơn giản nên
thủ tục này sẽ là một phương tiện được người dân tin cậy trong việc sử dụng để
nhanh chóng bảo vệ quyền lợi của mình. Từ đó hạn chế được các hiện tượng
tiêu cực hiện nay như khiếu kiện kéo dài hoặc người dân thiếu tin tưởng vào
tính hiệu quả của hệ thống Tòa án nên đã tự mình hành xử bằng cách bắt nợ,
đòi nợ thuê dẫn đến gây mất trật tự xã hội và có thể phát sinh thành các tội
phạm hình sự.
Thứ năm, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn góp phần giảm áp lực công
việc cho cán bộ ngành Tòa án, đặc biệt là đối với Thẩm phán khi mà số lượng
các vụ án tranh chấp về dân sự, KDTM, LĐ, HNGĐ ngày một gia tăng. Trong
19
điều kiện không thể tăng biên chế Thẩm phán tương ứng với sự gia tăng số
lượng công việc và ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp thì việc xây dựng thủ tục
tố tụng dân sự rút gọn với một trình tự, thủ tục đơn giản, thời gian giải quyết
ngắn sẽ giúp cho các Thẩm phán nâng cao hiệu quả trong công tác xét xử, chủ
động giải quyết được số các vụ án có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng, giá
ngạch thấp. Do vậy, Thẩm phán sẽ có thời gian tập trung nghiên cứu, giải
quyết các vụ án có tính chất phức tạp đòi h i một trình tự, thủ tục tố tụng chặt
chẽ.
1.2. Mục đích, yêu cầu của việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục
tố tụng rút gọn
1.2.1. Mục đích của việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng
rút gọn
- Thể chế hóa nhiệm vụ mà Đảng và nhà nước
đã đặt ra, đó là phải đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp,
trong đó phải kể đến công cuộc cải cách thủ tục TTDS. Nhờ
cải cách thủ tục TTDS sẽ góp phần đẩy nhanh công cuộc
xây dựng nhà nước ta trở thành nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trong
việc giải quyết các vụ án dân sự một cách nhanh chóng, kịp
thời
- Giảm gánh nặng cho ngành Tòa án trong việc
giải quyết các vụ án dân sự. Nhất là hiện nay khi lượng án
cần Tòa án giải quyết tăng nhanh về số lượng, vì vậy việc
giải quyết theo TTRG sẽ giúp Tòa án giải quyết vụ án có
tình tiết đơn giản, chứng cứ rõ ràng được nhanh chóng, đơn
giản. Từ đó sẽ giảm bớt gánh nặng về số lượng án cần giải
quyết và sẽ hạn chế tình trạng án tồn đọng để quá hạn luật
định.
20
- Việc giải quyết một số vụ án theo thủ tục này
cũng giúp tiết kiệm chi phí, công sức cho nhà nước và nhân
dân.
- TTRG phải bảo đảm được những mục đích cơ
bản của TTDS là phải đảm bảo được quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, đem lại công bằng cho xã hội, giải
quyết đúng pháp luật.
1.2.2 Yêu cầu của việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng rút
gọn
Quy định về thủ tục tố tụng TTDS rút gọn trong việc giải quyết các vụ
án dân sự cần phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Phải đáp ứng yêu cầu về chiến lược cải cách tư pháp
và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phải đảm bảo tính nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm
được chi phí cho nhân dân và nhà nước.
- Phải đảm bảo tính khách quan, công bằng, đảm bảo
được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và đảm bảo đúng
quy định pháp luật.
- Phải đảm bảo tính linh hoạt, mềm dẻo của thủ tục
TTDS và hiệu quả khi áp dụng trong thực tế.
- Việc xây dựng TTRG phải đáp ứng yêu cầu về tính
chủ động và đề cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán.
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của thủ tục rút gọn tại Việt
Nam
Trong lịch sử lập pháp Việt Nam thì cơ chế xét xử một lần, xét xử một
Thẩm phán đã từng tồn tại. Đây là tiền đề thực tiễn quan trọng cho việc xây
dựng TTRG. Thực tiễn tố tụng tại Tòa án cũng cho thấy trong số các vụ án mà
ngành Tòa án thụ lý giải quyết hàng năm có không ít những vụ án có nội dung
đơn giản, chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận yêu cầu hoặc không phản đối yêu
21
cầu của nguyên đơn, vụ án tranh chấp có giá trị tài sản không lớn. Tuy nhiên,
do thiếu vắng TTRG trong pháp luật nên các Tòa án vẫn phải tiến hành giải
quyết theo thủ tục thông thường gây mất thời gian, tổn thất về tiền bạc, công
sức của cơ quan tiến hành tố tụng và của các đương sự.
* Thời kỳ 1945 -1959
Cách mạng tháng tám thành công mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch
sư dân tộc Việt Nam, lập lên nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà một nhà
nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngay sau ngày độc lập, để ổn định
tình hình kinh tế chính trị, củng cố chính quyền và đáp ứng những đòi h i mới
của đời sống dân sự, Đảng và Bác Hồ đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp
luật mới. Trong đó, các văn bản về xây dựng hệ thống tư pháp mới và thủ tục
tố tụng thì đáng chú ý là Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về “Tổ chức các
Tòa án và ngạch Thẩm phán”; Sắc lệnh 51/SL ngày 17/04/1946 về “Ấn định
thẩm quyền các Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án”; Sắc
lệnh số 112/SL ngày 28/6/1946 bổ khuyết sắc lệnh 51; Sắc Lệnh 185/SL ngày
26/5/1948 “Ấn định thẩm quyền các Tòa án sơ cấp và đệ nhị cấp”; Sắc lệnh số
88/SL ngày 02/8/1949 “Về quyền ban tư pháp xã”; Sắc lệnh 85/SL ngày
22/6/1950 “Về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng”.
Tại Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 thẩm quyền Tòa án các cấp căn cứ
theo giá ngạch được quy định một cách chi tiết. Tại Điều thứ 6 Sắc lệnh này
quy định về dân sự và thương sự Tòa án sơ cấp có thẩm quyền xét xử:
A. Chung thẩm:
1. Những việc kiện dân sự, thương sự về động sản mà giá ngạch do
nguyên đơn định không quá 150 đồng.
2. Những việc kiện về các khoản lệ phí đã phát sinh ra trước Tòa án ấy
không có giá ngạch nào.
B. Sơ thẩm:
Những việc dân sự hay thương sự về động sản mà giá ngạch do nguyên
đơn định trên 150 đồng nhưng dưới 450 đồng.
22
Theo quy định tại Điều thứ 11 Sắc lệnh 51/SL thì về dân sự và thương
sự Tòa án đệ nhị cấp có quyền xét xử:
A. Chung thẩm
1. Những án của toà sơ cấp bị kháng cáo
2. Những việc kiện về bất động sản mà giá ngạch theo thời giá hôm khởi
tố.
3. Những việc kiện về động sản mà giá ngạch trên 450 đồng nhưng dưới
750 đồng.
B. Sơ thẩm:
1. Những việc kiện về bất động sản mà giá ngạch theo thời giá hôm khởi
tố hay theo văn tự trên 150 đồng;
2. Những việc kiện về động sản mà giá ngạch trên 750 đồng;
3. Những việc kiện không thể định trước được giá ngạch;
4. Những việc kiện không cứ giá ngạch là bao nhiêu mà phải có án nghị
về thẩm quyền;
5. Những việc kiện có quan hệ đến thân phận hay căn cước của người
hoặc vấn đề tế tự.
Như vậy Sắc lệnh 51 đã quy định về cơ chế xét xử sơ thẩm và chung
thẩm về dân sự. Xét xử chung thẩm được hiểu theo hai hướng đó là xét xử các
bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị
(ngày nay gọi là xét xử phúc thẩm), và chung thẩm còn được hiểu là xét xử chỉ
một lần đối với các việc dân sự hay thương sự mà bản án có hiệu lực pháp luật
ngay cơ chế xét xử một lần). Cơ chế xét xử một lần được áp dụng cả ở Tòa án
sơ cấp và Tòa án đệ nhị cấp áp dụng cho các vụ án mà đối tượng tranh chấp là
những tài sản có giá trị nh định theo giá ngạch).
Cơ chế xét xử một lần tiếp tục được quy định tại Nghị định số 32/NĐ
ngày 06/4/1952 của Bộ Tư Pháp “Các Tòa án cấp huyện có thẩm quyền chung
thẩm các việc kiện dân sự về động sản có giá ngạch không quá 60 kg gạo và
các Tòa án nhân dân cấp tỉnh xử chung thẩm các việc kiện về bất động sản mà
23
giá ngạch không quá 60 kg gạo…”. Tại Thông tư số 4013/TTC ngày
09/5/1959 của Bộ Tư Pháp và Thông tư liên bộ Tư Pháp – Tòa án nhân dân tối
cao số 93/TC ngày 11/11/1959 cũng quy định các Tòa án cấp huyện có “quyền
xét xử chung thẩm các việc kiện dân sự mà giá ngạch không quá 60 đồng
không phân biệt động sản hay bất động sản”.
* Thời kỳ 1960 -1989
– Giai đoạn 1960 – 1980
Sau khi ban hành Hiến pháp năm 1959, ngày 17/4/1960 Quốc hội nước
Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã thông qua luật Tổ chức Tòa án nhân dân,
việc ban hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân đã đánh dấu một bước ngoặt lớn
trong ngành tư pháp nói chung và trong pháp luật tố tụng dân sự nói riêng.
Theo quy định của Hiến Pháp năm 1959 và Luật tổ chức Tòa án nhân
dân đầu năm 1960 quy định: “Tòa án nhân dân thực hành chế độ hai cấp xét
xử…”, thủ tục xét xử chung thẩm trong tố tụng dân sự đã được bãi b . Tuy
nhiên, vẫn còn quy định một ngoại lệ tại Điều 12 Luật tổ chức Tòa án nhân dân
“Khi sơ thẩm, Tòa án nhân dân gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân
dân; trường hợp xử những vụ án nh , giản đơn và không quan trọng thì Tòa án
nhân dân có thể xét xử không có Hội thẩm nhân dân” .
Bên cạnh đó, trong giai đoạn này còn quy định Tòa án xét xử bút lục ở
trình tự phúc thẩm bên cạnh đó trong giai đoạn này còn quy định Tòa án xét xử
theo bút lục ở trình tự phúc thẩm "Xét xử bút lục là Hội đồng xét xử căn cứ
những tài liệu có trong hồ sơ vụ án, mà những tài liệu này đã được Tòa án cấp
sơ thẩm đánh giá đầy đủ nên phiên toà sơ thẩm không cần triệu tập các đương
sự, chỉ cần có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp". Việc xét xử
bút lục ở giai đoạn phúc thẩm đối với vụ án dân sự được hướng dẫn tại Thông
tư 132/NCPL ngày 28/8/1972 khi đáp ứng các điều kiện nội dung vụ án rõ
ràng, chứng cứ đầy đủ, khả năng hoà giải không còn, bản án sơ thẩm đã xét xử
đúng pháp luật, hướng xét xử của Toà phúc thẩm cũng là y án sơ thẩm. Như
vậy xét xử theo bút lục ở giai đoạn phúc thẩm thời kỳ này đã chứa đựng những
24
yếu tố, nhân tố của TTRG.
– Giai đoạn 1981 – 1989
Ngày 25/4/1976, sau khi giải phóng hoàn toàn Miền Nam, nhân dân ta
đã bầu ra Quốc hội của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đến
ngày 18/12/1980, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp mới. Trên cơ sở Hiến
pháp năm 1980, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981, luật sửa đổi và bổ
sung Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1988 được ban hành.
Theo các văn bản tố tụng từ năm 1980 đến trước khi ban hành Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989 thì việc xét xử vẫn được thực hiện
theo hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm, đồng thời trong các văn bản pháp luật cơ
chế xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm vẫn được quy định. Tại Điều 21 Luật
tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 và Điều 27 Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 1988, thẩm quyền sơ thẩm đồng thời chung thẩm
thuộc về Tòa án nhân dân Tối cao.
* Thời kỳ 1989 đến nay
- Giai đoạn 1989 đến 2004
Từ sau Đại hội đảng toàn quốc năm 1986, đất nước bước vảo thời kỳ đổi
mới toàn diện theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá thực hiện phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày 29/11/1989 Hội
đồng nhà nước đã thông qua Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự có
hiệu lực thi hành ngày 01/01/1990. Đây là văn bản pháp luật có hiệu lực pháp
lý cao nhất từ trước đến nay, tạo ra một hành lang những chuẩn mực nhất định
điều chỉnh các quan hệ tố tụng dân sự, đánh dấu một bước tiến mới trong quá
trình phát triển của pháp luật tố tụng dân sự. Tại Điều 66 của pháp lệnh quy
định: Hội đồng xét xử phúc thẩm không phải mở phiên toà trong các trường
hợp sau:
1. Xét kháng cáo quá hạn.
2. Xét kháng cáo, kháng nghị về án phí.
3. Xét kháng cáo, kháng nghị những quyết định của Tòa án
25
Tại Nghị quyết số 03-NQ/HNTW ngày 18/6/1997 Hội nghị lần thứ 3
Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, Đảng ta đã chỉ rõ “nghiên cứu áp
dụng TTRG để xét xử kịp thời một số vụ án đơn giản, rõ ràng”. Thực hiện mục
tiêu đó, tại Dự thảo BLTTDS năm 2004 các nhà nghiên cứu lập pháp đã xây
dựng TTRG tại chương XV gồm 07 Điều (từ Điều 234 đến 243). Cho tới dự
thảo VIII thì phạm vi áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn bị thu hẹp còn 03 Điều
(từ Điều 267 đến 269) tại chương XV với tên gọi thủ tục thanh toán nợ. Tuy
nhiên cho tới dự thảo X và XI thì TTRG không còn tồn tại nữa.
- Giai đoạn 2004 đến 2015
BLTTDS đã được Quốc Hội thông qua ngày 15/6/2004. Đây là một
thành tựu quan trọng để giải quyết các tranh chấp phát sinh. Qua nghiên cứu
cho thấy BLTTDS đã có một bước đột phá là đã xây dựng được thủ tục giải
quyết việc dân sự trong Bộ luật này. Theo đó, việc dân sự sẽ sẽ do một Thẩm
phán hoặc hội đồng gồm 03 Thẩm phán với một thời hạn giải quyết ngắn…và
phán quyết của Tòa án vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm…tuy nhiên, thì thủ tục giải quyết việc dân sự không phải là một TTRG
theo đúng nghĩa của nó.
Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 trong đó có nội dung: “Xây dựng cơ
chế xét xử theo TTRG đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”.
Vấn đề trên không được xây dựng trong luật chung (luật tố tụng) mà lại
được quy định ở luật chuyên ngành. Khoản 2 Điều 41 Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu d ng năm 2010 quy định, vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người
tiêu d ng được giải quyết theo thủ tục đơn giản quy định trong pháp luật về tố
tụng dân sự khi có đủ các điều kiện sau đây:
“a) Cá nhân là người tiêu dùng khởi kiện; tổ chức, cá nhân trực tiếp cung
cấp hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng bị khởi kiện;
b) Vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng;
c) Giá trị giao dịch dưới 100 triệu đồng”.
26
Và BLTTDS năm 2004, được sửa đổi, bổ sung năm 2011 vẫn chưa “cho
phép” Tòa án được xét xử theo thủ tục đặc biệt này.
Như vậy, những tiền đề về cơ chế xét xử một lần, thẩm quyền độc lập
của Thẩm phán trong pháp luật và quá trình xây dựng TTRG ở Việt Nam đã
cho chúng ta có một cái nhìn thấu đáo hơn về bản chất của loại hình TTRG
này.
Như vậy, có thể nói rằng các quy định về cơ chế xét xử một Thẩm phán
và xét xử một lần trong lịch sử pháp luật tố tụng dân sự là cơ sở thực tiễn của
việc xây dựng TTRG.
1.4. Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn theo pháp luật của một số nƣớc
trên thế giới
Trên thế giới, bên cạnh thủ tục tố tụng thông thường, nhiều nước đã
xây dựng thủ tục tố tụng rút gọn summary procedure) để áp dụng xử lý những
vi phạm pháp luật nh , giải quyết những tranh chấp, khiếu kiện có giá trị thấp,
những vụ việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của Tòa án, khắc phục nhanh chóng những vấn đề nảy sinh trong xã hội, tiết
kiệm thời gian, vật chất cho Tòa án và các đương sự, không làm trầm trọng
thêm những vụ việc, có thể giải quyết nhanh, theo trình tự đơn giản, góp phần
ổn định xã hội.
1.4.1. Thủ tục tố tụng rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự Pháp
Hệ thống Tòa án tư pháp của Pháp hiện nay được tổ chức và hoạt
động theo tinh thần của Hiến pháp năm 1958 và Luật về tổ chức Tòa án tư
pháp. Theo đó, thẩm quyền giải quyết các vụ án đơn giản, những tranh chấp
nh được giao cho Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp. Cơ cấu tổ chức của hệ
thống Tòa án Pháp hiện có 476 Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp bên cạnh 185
Tòa án sơ thẩm thẩm quyền chung.
Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp chuyên xét xử các vụ án dân sự nh ,
có giá trị tranh chấp không vượt quá 10.000 EUR (các vụ án tranh chấp về hợp
đồng thuê nhà ở, giải quyết yêu cầu giám hộ, kê biên đối với tiền lương,
27
thưởng …). Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp xét xử vụ án bằng một Thẩm phán
duy nhất và các bên tham gia tố tụng không nhất thiết phải có luật sư.
Tại Tòa sơ thẩm thẩm quyền hẹp có thủ tục xét xử rút gọn để áp dụng
giải quyết đối với các vụ án có giá trị tranh chấp không vượt quá 4.000 EUR
tương đương 115 triệu đồng Việt Nam). Theo thủ tục này, người tham gia giải
quyết các vụ án không phải là Thẩm phán chuyên trách mà là các Thẩm phán
được tuyển chọn từ những người có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực
pháp luật, làm việc tại Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp. Những Thẩm phán này
không hưởng lương từ ngân sách nhà nước, được bổ nhiệm với nhiệm kỳ 7
năm và không được tái nhiệm.
Trong cơ cấu tổ chức của Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp có Tòa vi
cảnh (Tribunal de Police) có thẩm quyền xét xử các tội vi cảnh, những vi phạm
hình sự nh . Việc xét xử loại tội này của Tòa vi cảnh do 1 Thẩm phán tiến
hành.
1.4.2. Thủ tục ra lệnh thanh toán nợ theo pháp luật tố tụng dân sự
Nga
Trong pháp luật tố tụng dân sự Nga chỉ quy định một thủ tục chung là
thủ tục ra lệnh (ban hành quyết định). Theo Điều 121 BLTTDS Nga thì lệnh
của Tòa án – quyết định của Tòa án do một Thẩm phán ban hành dựa trên yêu
cầu đòi nợ hoặc đòi lại tài sản khi có đủ căn cứ theo quy định của pháp luật
Nga. Điều 121 BLTTDS Nga quy định Tòa án cấp lệnh, nếu:
Yêu cầu căn cứ vào giao dịch đã được công chứng; -
Yêu cầu căn cứ vào giao dịch được thực hiện dưới -
hình thức văn bản viết không cần công chứng, chứng thực;
Yêu cầu đòi tiền cấp dưỡng cho trẻ chưa thành niên -
không liên quan đến việc xác định cha, mẹ hoặc không liên quan
đến việc phải triệu tập thêm người khác;
Yêu cầu công dân nộp khoản thuế bị thất thu hoặc -
nộp những khoản tiền bắt buộc khác;
28
Yêu cầu đòi khoản tiền lương đã được chấm công -
nhưng chưa được trả người lao động.
- Yêu cầu của các cơ quan công an, cơ quan thuế vụ,
cơ quan thừa phát lại đòi hoàn trả chi phí cho việc tìm kiếm bị
đơn, người có nghĩa vụ và tài sản của người đó, hoặc chi phí cho
việc tìm kiếm trẻ em bị người có nghĩa vụ đem đi mất, hoặc chi
phí liên quan đến việc bảo quản tài sản của người có nghĩa vụ bị
thu giữ và bảo quản tài sản của người có nghĩa vụ khi bị buộc
chuyển đi nơi ở khác.
Về thủ tục ra lệnh thanh toán, theo quy định tại Điều 126 BLTTDS
Nga thì lệnh thanh toán được ban hành trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày thụ
lý đơn yêu cầu mà không cần phải mở phiên toà xét xử và không phải triệu tập
các bên để nghe lời giải thích của họ. Sau khi ra lệnh, Thẩm phán gửi bản sao
lệnh của Tòa án cho người có nghĩa vụ thi hành. Người có nghĩa vụ có quyền
phản đối trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận bản sao. Nếu người có nghĩa
vụ phản đối trong thời hạn luật định, Thẩm phán huỷ b lệnh của Tòa án.
Trong trường hợp hết thời hạn luật định mà người có nghĩa vụ không phản đối,
Tòa án chuyển cho người yêu cầu bản thứ hai lệnh của Tòa án để đưa ra thi
hành Điều 128, 129, 130 BLTTDS Nga).
1.4.3. Thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự Nhật Bản
Thẩm quyền giải quyết các vụ việc theo TTRG ở Nhật Bản được giao
cho Tòa án giản lược thực hiện. Hiện tại, Nhật Bản có 438 Tòa án giản lược
được thành lập ở các thành phố, thị trấn. Tòa giản lược có thẩm quyền xét xử
các vụ án dân sự có giá trị tranh chấp dưới 1.400.000 Yên tương đương 300
triệu đồng Việt Nam) và các vụ án hình sự nh , có mức hình phạt là phạt tiền
hoặc các hình phạt không nghiêm trọng. Theo nguyên tắc chung, Tòa án giản
lược không có thẩm quyền quyết định các hình phạt tù không lao động hoặc
các hình phạt tù nghiêm khắc hơn. Khi xác định hình phạt đối với bị cáo trong
vụ án có thể vượt quá khung hình phạt cho phép thì Tòa án giản lược chuyển
29
vụ án cho Tòa án sơ thẩm giải quyết.
Tòa án giản lược ở các thành phố lớn, nơi có các Tòa sơ thẩm thường
có một số Thẩm phán; ở những v ng ít dân cư thì chỉ có 1 Thẩm phán.
Thẩm phán của Tòa án giản lược phải là người đã qua 2 năm làm Phụ
thẩm, Công tố hoặc Luật sư. Tuy nhiên, người không được đào tạo về luật
nhưng có năng lực cũng có thể được bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án giản
lược.
Theo quy định của Luật Tòa án Nhật Bản, thì tại Tòa án giản lược,
các vụ án đều do 1 Thẩm phán xét xử; tính chất đơn giản trong tố tụng giản
lược được phản ánh trong các quy định của pháp luật tố tụng như: thủ tục khởi
kiện bằng miệng, thủ tục triệu tập được đơn giản hóa, biên bản xét xử đơn giản
và bản án ngắn gọn hơn các bản án của Tòa án thông thường. Chức năng hành
chính tại Tòa án giản lược do chính Thẩm phán thực hiện. Việc bổ nhiệm,
miễn nhiệm các công chức của Tòa án giản lược thuộc thẩm quyền của Tòa án
sơ thẩm.
1.4.4. Thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự Cộng hoà
nhân dân Trung Hoa
Hệ thống Tòa án Trung Quốc được tổ chức theo 4 cấp là: TAND tối
cao, TAND cấp cao, TAND trung cấp và TAND sơ cấp. Hiện tại, Trung Quốc
có hơn 10.000 TAND sơ cấp – Cấp Tòa án thấp nhất trong hệ thống Tòa án, có
thẩm quyền xét xử hầu hết các vụ án theo thủ tục sơ thẩm (trừ một số ít vụ án
quan trọng thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án cấp trên). Tại TAND
sơ cấp, TTRG được áp dụng đối với một số vụ án cụ thể trong cả lĩnh vực hình
sự và dân sự.
Theo quy định tại Điều 141 của BLTTDS Trung Quốc, thì việc xác
định vụ án được xét xử theo TTRG căn cứ vào ba tiêu chí như sau:
(1) Tranh chấp giữa các đương sự có sự thật rõ ràng mà hai bên đương
sự cơ bản nhất trí, chứng cứ đưa ra rõ ràng. Tòa án không cần phải tiến hành
công việc điều tra, thu thập chứng cứ mà vẫn có thể làm rõ được sự thật, đúng
30
sai của vụ án;
(2) Quan hệ pháp luật về tranh chấp giữa các bên đã rõ về việc bên
nào được hưởng quyền lợi, bên nào phải gánh vác nghĩa vụ. Đồng thời quan hệ
pháp luật về việc giải quyết tranh chấp đó cũng đã được quy định tương đối rõ
ràng;
(3) Tranh chấp mà hai bên không có bất đồng lớn về đúng sai, trách
nhiệm của các bên trong vụ án và các khoản chi phí tố tụng.
Điểm đặc biệt của TTRG trong tố tụng dân sự của Trung Quốc là việc
khởi kiện có thể thực hiện bằng miệng. Hai bên đương sự đồng thời đến Tòa án
để đề nghị giải quyết tranh chấp. Tùy từng trường hợp, TAND có thể xét xử
ngay hoặc có thể ấn định một ngày khác để xét xử. Tòa án có thể thông báo
bằng miệng hoặc bằng văn bản cho đương sự về nội dung khởi kiện mà không
cần phải tiến hành các thủ tục thông báo chính thức như đối với thủ tục thông
thường. Tòa án có thể sử dụng phương thức đơn giản để truyền gọi đương sự,
nhân chứng. Việc xét xử theo TTRG do một Thẩm phán tiến hành, không nhất
thiết phải tuân thủ lần lượt các trình tự, thủ tục mà có thể linh hoạt. Thời hạn
để Tòa án giải quyết vụ án theo TTRG phải kết thúc trong thời hạn 3 tháng kể
từ ngày lập án.
Ngoài ra, TTRG còn được quy định trong pháp luật tố tụng dân sự của
một số nước Châu Á khác như: Đài Loan, Thái Lan, Singapore…
1.5. Một số vấn đề lý luận về tranh chấp Hợp đồng tín dụng và giải
quyết tranh chấp Hợp đồng tín dụng theo thủ tục rút gọn
1.5.1. Khái niệm tranh chấp về Hợp đồng tín dụng
Vì tranh chấp HĐTD cũng là một loại tranh chấp hợp đồng nói chung,
do đó có đầy đủ những đặc điểm vốn có của một tranh chấp hợp đồng. Tuy
nhiên, với bản chất đặc th của HĐTD, tranh chấp HĐTD mang một số đặc
trưng riêng biệt để có thể phân biệt với các loại tranh chấp hợp đồng khác.
Giá trị của tranh chấp HĐTD thường có giá trị lớn hoặc thậm chí là rất
lớn: Khi ký kết HĐTD thì thường là do bên đi vay có nhu cầu về vốn mà
31
không thể tự mình xoay xở được. Nhu cầu đó thường là để bổ sung vốn kinh
doanh đối với tổ chức hoặc vay để phát triển kinh tế đối với cá nhân, hộ gia
đình. Do đó, số tiền này không phải là nh và dễ dàng vay được từ các tổ chức,
cá nhân ngoài xã hội mà không phải là ngân hàng.
Về phía bên cho vay là ngân hàng, bên cạnh vai trò là chủ thể cung ứng
vốn cho nền kinh tế thì TCTD còn đóng vai trò là người đi vay của các chủ thể
khác để cho vay lại. Để đạt được lợi nhuận cao thì các TCTD thường kí kết các
HĐTD có giá trị lớn dựa trên định giá tài sản đảm bảo tại thời điểm cho vay.
Do bên vay vốn d ng khoản vay này phần lớn để đầu tư cho hoạt động sản
xuất kinh doanh nên nếu bên vay không tuân thủ các cam kết trong hợp đồng,
không trả nợ cho các TCTD sẽ làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của TCTD
đó. Thực tế không hiếm các trường hợp các TCTD lâm vào tình trạng mất khả
năng chi trả do “nợ xấu”. Một khi khách hàng vay không thể thanh toán được
nợ, tranh chấp xảy ra thì TCTD sẽ là chủ thể bị thiệt hại lớn vì nguồn vốn bị ứ
đọng, phải thực hiện các biện pháp khắc phục, mục đích lợi nhuận ban đầu
không còn hoặc bị gián đoạn. Đặc biệt, nếu tranh chấp HĐTD phải khởi kiện
tại Tòa án thì càng gây khó khăn cho TCTD khi muốn thu hồi vốn. Bởi khi đã
bị khởi kiện tại Tòa án thì thường là người đi vay không còn có khả năng trả
nợ cho TCTD. Mặt khác, khi tranh chấp HĐTD xảy ra thì TCTD sẽ mất lòng
tin với khách hàng vay vốn, các HĐTD tiếp theo sẽ khó mà thực hiện, kể cả
khi bên đi vay chứng minh lại được khả năng tài chính của mình.
Bên cạnh đó, tranh chấp HĐTD được giải quyết dựa trên nguyên tắc tự
do th a thuận trong khuôn khổ pháp luật của các bên tham gia tranh chấp.
HĐTD về bản chất là hợp đồng dân sự mà quan hệ dân sự là quan hệ mang
tính th a thuận, tự định đoạt giữa các bên. Do đó, kể cả đối với việc giải quyết
tranh chấp phát sinh từ HĐTD thì các bên cũng có quyền th a thuận để đạt
được hiệu quả tối ưu nhất trong trường hợp có tranh chấp xảy ra. Việc tôn
trọng quyền định đoạt này có ý nghĩa vô c ng quan trọng vì quan hệ dân sự
giữa các bên mang tính bình đẳng, không phải là mối quan hệ mệnh lệnh -
32
phục t ng như các quan hệ hành chính nhà nước khác. Khi các bên tham gia
tranh chấp có thể th a thuận được với nhau thì việc giải quyết tranh chấp sẽ
diễn ra nhanh chóng, thuận lợi hơn, đồng thời giảm thiểu được thiệt hại về thời
gian, tiền bạc, công sức của các bên. Về phía các cơ quan tài phán, thi hành án
thì việc th a thuận này cũng có ý nghĩa trong việc giảm nhẹ khối lượng, áp lực
công việc trong điều kiện các tranh chấp ngày càng xảy ra nhiều và phức tạp
như hiện nay.
Đặc biệt, vấn đề th a thuận về phương thức giải quyết tranh chấp đối với
các TCTD là ngân hàng nước ngoài, ngân hàng nước ngoài có vai trò quan
trọng hơn bao giờ hết. Bởi các chủ thể này khác với các TCTD trong nước,
chịu sự điều chỉnh của cả pháp luật nước ngoài lẫn pháp luật Việt Nam và sự
khác nhau trong quy định của pháp luật giữa Việt Nam và nước khác là điều
không thể tránh kh i. Vì vậy, việc cho phép, tôn trọng quyền tự th a thuận của
các bên khi có tranh chấp xảy ra sẽ giảm thiểu tối đa những xung đột pháp luật
có thể xảy ra trong quá trình giải quyết các tranh chấp. Tuy nhiên, nguyên tắc
đối với các th a thuận này là phải ph hợp với các quy định của pháp luật Việt
Nam.
Ngoài ra, tranh chấp HĐTD luôn có sự tham gia của một bên là TCTD
và phần lớn các tranh chấp HĐTD thì nguyên đơn là TCTD cho vay, bị đơn là
bên đi vay. Với đặc th của hoạt động tín dụng là sự cung ứng nguồn vốn đến
những tổ chức, cá nhân có nhu cầu về vốn trên cơ sở huy động của các tổ chức,
cá nhân có thừa nguồn vốn trong xã hội nên TCTD luôn đóng vai trò trung
gian trong mối quan hệ này. Sự tham gia của TCTD là một dấu hiệu đặc trưng
nhằm phân biệt giữa tranh chấp HĐTD và tranh chấp hợp đồng vay tài sản
thông thường giữa các tổ chức, cá nhân khác mà không phải là TCTD.
Đồng thời, về mặt lý thuyết, khi tham gia ký kết HĐTD, các TCTD và
khách hàng có địa vị ngang bằng nhau tham gia th a thuận. Nhưng với tư cách
là chủ thể có nguồn vốn dồi dào, việc áp đặt các điều kiện cho vay đối với
khách hàng là điều không hiếm xảy ra. Hơn nữa, khi tham gia kí kết hợp đồng
33
thì hợp đồng thường do bên cho vay là các TCTD soạn thảo với đội ngũ cán bộ
có trình độ chuyên môn về mặt pháp lý nhất định. Trong khi đó, chủ thể đi vay
là khách hàng thường là các tổ chức, cá nhân, trình độ chuyên môn về mặt
pháp lý của họ còn thấp và nhiều khi không được chú trọng đúng mức. Và như
vậy là hợp đồng được kí kết với các điều khoản chặt chẽ nhằm bảo đảm cho
quyền lợi của TCTD khi bên vay không trả nợ hay trả không đúng nghĩa vụ.
Do đó, khi tranh chấp xảy ra thì TCTD luôn nắm đằng chuôi với các điều
khoản được ghi nhận một cách chặt chẽ, rõ ràng trong hợp đồng được sự đồng
thuận của cả hai bên. Vì vậy, nếu có tranh chấp xảy ra thì là do bên đi vay vi
phạm, chứ ít khi TCTD lại vi phạm chính những điều khoản do chính mình
soạn thảo.
Mặt khác, trong mối quan hệ HĐTD, các nghĩa vụ chính của bên đi vay
thường phát sinh sau thời điểm giải ngân. Trong khi đó, tại thời điểm hoàn tất
việc giải ngân cho khách hàng thì TCTD đã hoàn thành các nghĩa vụ của mình.
Các nghĩa vụ khác của bên cho vay như bảo mật thông tin, lưu trữ hồ sơ tín
dụng, nghĩa vụ thông báo, bảo quản tài sản bảo đảm, giải chấp tài sản đảm
bảo... là ít quan trọng và là nghĩa vụ phát sinh từ quyền của bên vay. Vì lý do
đó nên nếu có tranh chấp xảy ra thì thường là do bên vay vi phạm nghĩa vụ của
mình, rất hiếm gặp trường hợp bên đi vay khởi kiện TCTD.
Song, đa phần các tranh chấp liên quan đến HĐTD chính là các tranh
chấp liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả vốn, lãi của bên vay cho
TCTD, về mức lãi suất vay, về vấn đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong
HĐTD. Có rất nhiều loại tranh chấp phát sinh từ HĐTD như: Tranh chấp về
chủ thể xác lập, thực hiện HĐTD, tranh chấp liên quan đến bảo lãnh vay vốn,
tranh chấp liên quan đến mục đích sử dụng vốn vay... Tuy nhiên, tranh chấp
xảy ra nhiều nhất là tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi, về
mức lãi suất vay, về vấn đề bảo đảm. Sở dĩ như vậy bởi vì, những nghĩa vụ này
đóng vai trò nòng cốt trong quá trình thực hiện HĐTD của các bên và việc
thực hiện này có tác động trực tiếp đến quyền lợi của TCTD. Các tranh chấp
34
khác cũng có tác động đến các TCTD nhưng không phải là cơ bản nên ít xảy ra
hơn so với tranh chấp về nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi hay tranh chấp về lãi
suất, về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Hơn nữa, tranh chấp HĐTD thường là tiền đề làm phát sinh và gắn liền
với một quan hệ hợp đồng khác: Hợp đồng bảo đảm tiền vay thông qua hình
thức cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Các TCTD khi tham gia
vào HĐTD đều có mục đích lợi nhuận từ việc cho vay đó vì bản chất của
TCTD là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Để giảm thiểu rủi ro trong trường
hợp bên vay không trả được nợ, thông thường TCTD chỉ đồng ý cho bên đi
vay được vay vốn khi họ có cầm cố, thế chấp bằng tài sản hoặc có bảo lãnh của
bên thứ ba. Các biện pháp bảo đảm này đóng vai trò là phương pháp dự phòng
của TCTD khi rủi ro xảy ra. Khi đó, để đảm bảo cho nghĩa vụ được đảm bảo
trong HĐTD thì các bên kí kết hợp đồng bảo đảm cho khoản vay. T y từng
trường hợp, đó có thể là hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp hay là dưới hình
thức chứng thư bảo lãnh của bên thứ ba. Những điều khoản về quyền và nghĩa
vụ trong các hợp đồng bảo đảm cho nghĩa vụ vay vốn là để bảo đảm cho việc
vay vốn, xuất phát từ HĐTD đã được kí kết và mục đích cuối c ng là bảo đảm
cho việc trả nợ của bên đi vay.
Thêm vào đó, tranh chấp HĐTD còn phát sinh từ sự xung đột về lợi ích
giữa các bên tham gia tranh chấp. Vì tranh chấp HĐTD cũng là một loại tranh
chấp hợp đồng nên phải xuất phát từ xung đột lợi ích của các bên trong hợp
đồng. Tuy nhiên, đối với tranh chấp phát sinh từ HĐTD thì chỉ có chính các
bên hay người đại diện hợp pháp của họ mới có quyền khởi kiện để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bên đi vay hay TCTD. Không có trường hợp
nào mà tranh chấp HĐTD phát sinh do tổ chức, cá nhân khác khởi kiện để bảo
vệ quyền lợi cho các bên tham gia HĐTD.
Từ những phân tích trên, có thể nhận thấy: Tranh chấp HĐTD là những
mâu thuẫn phát sinh từ quyền và nghĩa vụ trong HĐTD giữa bên cho vay (tổ
chức tín dụng) và bên vay (khách hàng). Đó là những tranh chấp về lãi suất, nợ
35
gốc, nợ lãi, việc giải ngân, xử lý tài sản đảm bảo…
1.5.2. Đặc điểm tranh chấp Hợp đồng tín dụng
- M
ột bên chủ thể của tranh chấp HĐTD luôn là ngân hàng, có thể là
nguyên đơn hoặc bị đơn khi tranh chấp này được Tòa án thụ lý
giải quyết. Đối tượng của tranh chấp thường là vốn tiền tệ cụ thể
đó là những tranh chấp về:
+ Hành vi vi phạm nghĩa vụ của một hoặc các bên trong hợp đồng. Hành
vi vi phạm nghĩa vụ này, có thể là hành vi của bên cho vay các ngân hàng và
các định chế tài chính khác) khi HĐTD có hiệu lực, việc giải ngân khoản tín
dụng mà hai bên đã thoả thuận là nghĩa vụ của bên cho vay. Tuy nhiên, trên
thực tế có nhiều trường hợp sau khi ký kết HĐTD với khách hàng bên cho vay
đã không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ giải ngân. Điều này,
làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của bên vay như bên vay không
tiến hành kế hoạch kinh doanh như dự kiến, không có vốn đầu tư vào dự án
đầu tư, đấu thầu đã được đăng ký. Hậu quả là bên cho vay bị tổn thất rất lớn về
hiệu quả kinh tế cũng như uy tín, danh dự, thậm chí thương hiệu của bên vay.
+ Việc vi phạm nghĩa vụ trả lãi và thậm chí cả gốc và lãi. Trên thực tế,
có trường hợp hai bên không thoả thuận rõ ràng về lãi suất đối với cả thời hạn
vay hoặc ban đầu do cần tiền để thực hiện kế hoạch của mình nên khách hàng
chấp nhận mức lãi suất đó nhưng sau một thời gian thực hiện hợp đồng phía
khách hàng nhận thấy lãi suất đó cao quá nên không đồng ý. Tuy nhiên, đa
phần là dạng tranh chấp về vi phạm nghĩa vụ trả nợ của khách hàng khi đáo
hạn.
+ Dạng tranh chấp cũng khá phổ biến của HĐTD đó là tranh chấp về
việc thực hiện biện pháp bảo đảm đối với HĐTD có bảo đảm bằng tài sản. Các
TCTD coi bảo đảm tín dụng là nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất
các lưu chuyển tiền tệ) không thể thanh toán được nợ. Các nguồn thu nợ thứ
nhất này thể hiện dưới hình thức lưu chuyển tiền tệ của bên vay. Trong hoạt
36
động kinh doanh có rất nhiều lý do dẫn đến nguồn thu nợ thứ nhất không thực
hiện được, nếu không có nguồn bổ sung chắc chắn các TCTD sẽ rơi vào tình
trạng rủi ro tín dụng.
+ Dạng tranh chấp nữa của HĐTD là tranh chấp về chủ thể xác lập, thực
hiện hợp đồng. Tranh chấp này ngày càng đa dạng và phức tạp nhất là trong
những trường hợp có yếu tố nước ngoài. Điều này gây không ít khó khăn cho
cơ quan giải quyết tranh chấp. Liên quan tới những TCTD 100% vốn nước
ngoài.
+ Dạng tranh chấp chiếm một tỷ lệ khá lớn trong HĐTD là dạng tranh
chấp về định giá, xử lý tài sản bảo đảm đối với những HĐTD có bảo đảm bằng
tài sản. Đối với những hợp đồng cho vay tiêu d ng, việc xác định tài sản bảo
đảm thuộc sở hữu của vợ chồng hay tài sản riêng của từng người có ý nghĩa
quan trọng đối với hoạt động xử lý tài sản này. Có nhiều trường hợp các nhân
viên ngân hàng thẩm định không k , kết quả thẩm định không chính xác dẫn
đến chấp nhận những tài sản bảo đảm không đúng quy định của pháp luật về
giao dịch bảo đảm. Đối với những hợp đồng cho vay kinh doanh, liên quan tới
xác định tài sản bảo đảm có thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên khách hàng
hay không, tổ chức đó có đủ tư cách pháp lý theo quy định của pháp luật để
tiến hành ký kết hợp đồng không? Trên thực tế, khi HĐTD được ký kết thì
phía ngân hàng mới biết bên khách hàng ký không đúng thẩm quyền.
+ Tranh chấp phát sinh từ HĐTD còn là những tranh chấp về luật áp
dụng và cơ quan giải quyết tranh chấp trường hợp một trong hai bên là bên
nước ngoài mà khi ký kết hợp đồng các bên đã không thoả thuận lựa chọn cơ
quan giải quyết tranh chấp cũng như luật áp dụng.
Tranh chấp phát sinh ngày càng nhiều, diễn biến cũng đa dạng và có tính
chất phức tạp. Do đó, việc tìm hiểu những đặc điểm, nguyên nhân dẫn đến
tranh chấp là hết sức cần thiết. Từ đó, có những biện pháp, đường lối, chính
sách nhằm khắc phục tình trạng tranh chấp để tiến tới giảm đáng kể số lượng
37
tranh chấp.
- Chứng cứ trong vụ án tranh chấp HĐTD được Tòa án
thụ lý giải quyết mà các bên đưa ra là HĐTD ở dạng văn bản mà
hai bên đã giao kết.
Cơ quan giải quyết tranh chấp HĐTD là TAND hoặc -
trọng tài thương mại nếu các bên có th a thuận.
Đa phần hoạt động thi hành án để đảm bảo việc thu -
hồi nợ của các tổ chức tín dụng là thông qua xử lý tài sản đảm
bảo.
1.5.3. Nguyên nhân tranh chấp Hợp đồng tín dụng
Nguyên nhân gây ra tranh chấp HĐTD rất đa dạng, có thể xem xét theo
nhiều tiêu thức khác nhau. Một trong những cách tiếp cận thông dụng là phân
tích nguyên nhân gây ra từ phía bên cho vay, bên vay và những quy định của
pháp luật.
Nguyên nhân từ phía bên cho vay
Thông thường phía ngân hàng vi phạm nghĩa vụ giải ngân cho khách
hàng như trong hợp đồng. Các TCTD không tuân thủ chế độ tín dụng và điều
kiện cho vay. Đôi khi ngân hàng cho vay mà không tiến hành quy trình thẩm
định theo nguyên tắc 6cs, điều mà các định chế tài chính quốc tế luôn cảnh báo
là: 6cs tính cách người vay character), năng lực trả nợ capacity), dòng tiền
mặt cash follow), tài sản thế chấp collaral), các điều kiện môi trường
conditions), sự kiểm soát control), mà ngân hàng lại dựa vào nhận định của
các nhân viên của mình. Trên thực tế, khi tiến hành thẩm định bên cho vay
không thể kiểm tra được bên vay có thông qua một TCTD đen nào hay không.
Ở Việt Nam, ngân hàng chưa có chính sách hợp lý và quy trình cho vay
hiệu quả, cơ chế phân tích và quản lý rủi ro còn hạn chế.
Việc đánh giá biện pháp bảo đảm tiền vay còn hạn chế, chưa phân tích,
đánh giá các điều kiện về biện pháp bảo đảm tiền vay. TCTD đánh giá về biện
pháp bảo đảm tiền vay còn dựa vào tài liệu do bên vay xuất trình mà chưa có
38
sự kiểm tra thực tiễn. Trình độ thẩm định của nhân viên ngân hàng còn chưa
cao, nên có những sai xót và thiếu chặc chẽ - kết quả thẩm định chưa đạt yêu
cầu.
Mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng còn hạn chế - trong thực tế
bên ngân hàng không nắm rõ ràng các thông tin chính xác về khách hàng,
không biết chính xác là khách hàng vay vốn và có sử dụng vốn vay đúng mục
đích trong hợp đồng hay không.
Một số nhân viên ngân hàng còn thiếu phẩm chất đạo đức cũng như
thiếu năng lực nên trong việc cho vay có đảm bảo nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản
thế chấp mà bên vay vẫn được giữ cả giấy tờ gốc chứng minh tài sản thế chấp
của mình. Điều này dẫn đến có thể bên vay lại đem bán tài sản đã thế chấp ở
ngân hàng cho người thứ ba. Lúc này ngân hàng và người thứ ba có sự tranh
chấp về quyền tài sản – tài sản đã được thế chấp bằng danh nghĩa ở ngân hàng.
Thông qua phân tích trên ta nhận thấy, ngân hàng cần tuân thủ nghiêm
túc quy trình, điều kiện cho vay, các quy định của pháp luật liên quan, cần
nâng cao hơn nữa đội ngũ nhân viên ngân hàng, xây dựng và nâng cao hệ
thống thông tin tín dụng, có biện pháp để kiểm tra, giám sát hữu hiệu các hoạt
động của bên vay theo những cam kết trong hợp đồng.
Nguyên nhân từ phía bên vay
Những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp HĐTD do người vay như:
Bên vay không đảm bảo nghĩa vụ hoặc thực hiện không đầy đủ những
nghĩa vụ của mình. Thông thường do hai nguyên nhân: nguyên nhân khách
quan và chủ quan.
Nguyên nhân khách quan: là những nguyên nhân tác động ngoài ý chí,
tầm kiểm soát của khách hàng như: do sự thay đổi của chính sách quản lý kinh
tế, do thiên tai, hoả hoạn, điều chỉnh quy hoạch, do thị trường biến động, quan
hệ cung cầu hàng hoá thay đổi … làm cho hoạt động của bên vay không thực
hiện như kế hoạch đề ra.
Nguyên nhân chủ quan: Cá nhân vay vốn không nắm được thông tin cần
39
thiết về kế hoạch đầu tư, sản xuất khi vay vốn – dẫn đến tình trạng vay vốn về
đầu tư không có hiệu quả. Có thể là do vốn tự có tham gia sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp không đáp ứng nhu cầu, năng lực điều hành còn hạn chế,
thiếu thông tin thị trường và thông tin về các đối tác, bạn hàng làm ảnh hưởng
tới quá trình sản xuất, công nghệ chưa được cải thiện nên sản phẩm tạo ra chưa
có tính cạnh tranh cao, hiệu quả kinh doanh kém, hậu quả là doanh nghiệp thua
l lâm vào tình trạng phá sản. Cũng có trường hợp do bên vay cố tình đưa ra
những thông tin sai sự thật ngay từ khi vay vốn nên khi về đầu tư hay sử dụng
vào mục đích của mình không có hiệu quả.
Nguyên nhân nữa là do bên vay còn thiếu hiểu biết về pháp luật, trình độ
hiểu biết của bên vay còn hạn chế về những kiến thức pháp luật liên quan. Có
trường hợp bên vay ký hợp đồng trong khi bản thân không hiểu rõ về pháp
luật, nên khả năng xảy ra những bất lợi cho mình là rất lớn.
Nguyên nhân do quy định của pháp luật
Xã hội luôn thay đổi theo nhiều chiều hướng khác nhau, các mối quan hệ
xã hội cũng đổi mới không ngừng kéo theo các giao dịch trong xã hội cũng có
thêm nhiều yếu tố phức tạp và đa dạng hơn. Trái lại, trên thực tế pháp luật
nước ta chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội, chậm đổi mới dẫn tới hiện
tượng pháp luật “chạy theo” sự thay đổi của xã hội, chứ pháp luật chưa thể dự
kiến và điều chỉnh được các mối quan hệ xã hội sắp diễn ra. Một điều đáng lưu
ý là sự hiểu biết về pháp luật của các bên trong hợp đồng còn chưa rõ ràng,
mâu thuẫn với nhau về lợi ích giữa các bên dẫn đến nảy sinh tranh chấp. Pháp
luật nước ta quy định bên cho vay bắt buộc phải đưa ra các căn cứ pháp lý hay
những lý do chính đáng nếu muốn từ chối khách hàng, vấn đề này chưa có văn
bản hướng dẫn cụ thể. Nên bên cho vay cho rằng cho vay là quyền của mình
còn bên đi vay thì có quan điểm ngược lại, điều đó dễ dẫn đến mâu thuẫn.
Những HĐTD theo mẫu do ngân hàng đưa ra đa phần là rất chặt chẽ cả
về hình thức và nội dung. Thông thường những hợp đồng theo mẫu này gắn
40
liền với lợi ích của ngân hàng.
Các quy định của pháp luật còn chưa thống nhất, chồng chéo lẫn nhau
đặc biệt là các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm. Hiện nay, hành lang pháp lý
cho hoạt động giao dịch bảo đảm chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ và nhiều quy
định không thể thực hiện được trên thực tế. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm
thực hiện phân tán ở nhiều cơ quan khác nhau tạo kẽ hở trong quản lý. Theo
Nghị định số 163/2006/NĐ- CP và Nghị định 11/2012/NĐ-CP sửa đổi nghị
định 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm, cho phép
các TCTD được lựa chọn hình thức xử lý đa dạng như bán tài sản thế chấp,
nhận các khoản tiền và tài sản từ người thứ ba trong trường hợp thế chấp
quyền đòi nợ, phương thức khác do các bên thoả thuận. Trường hợp các bên
không thoả thuận được phương thức xử lý tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản
gắn liền với đất thì các tài sản này được đem bán đấu giá nhưng để thực hiện
được các bên lại phải ký hợp đồng uỷ quyền tại đơn vị bán đấu giá có thẩm
quyền. Điều này thường không thực hiện được do bên thế chấp không đồng ý
và khi đó các tổ chức cho vay không có cơ chế nào để bảo vệ được quyền lợi
của mình.
1.5.4. Phân biệt tranh chấp Hợp đồng tín dụng và các tranh chấp hợp
đồng dân sự khác
Tiêu chí Tranh chấp HĐTD Tranh chấp hợp đồng dân sự
Một bên chủ thể Ngoài ngân hàng ra, thì 1
của tranh chấp luôn là trong hai bên chủ thể có thể là cá
Về chủ thể ngân hàng có thể là nhân, tổ chức. có thể là nguyên
nguyên đơn/bị đơn khi đơn/bị đơn khi tranh chấp được
Tòa án thụ lý giải quyết) Tòa án thụ lý giải quyết)
Vốn tiền tệ, luật
áp dụng, định giá, xử lý Tài sản, quyền và nghĩa vụ Về đối tượng tài sản đảm bảo, thực giao kết trong hợp đồng, cơ quan
41
hiện biện pháp đảm bảo,
chủ thể xác lập thực
hiện hợp đồng, lãi
suất…
Có thể cao hơn, thấp hơn
Theo quy định lãi suất do cơ bản do Ngân hàng
Lãi suất của Ngân hàng Nhà Nhà nước quy định hoặc có thẻ
nước Việt Nam. không có lãi suất do các bên giao
kết th a thuận.
Nhằm đảm bảo quyền và Đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp cho các bên và lợi ích hợp pháp của đương sự nguyên đơn, bị đơn, ngân hàng hoặc khách người có quyền lợi nghĩa vụ liên Mục đích hàng, về: Tiền gốc, lãi quan) bao gồm cả chủ thể là suất, xử lý tài sản đảm ngân hàng, về: Tài sản vật, tiền, bảo, luật áp dụng,…khi giấy tờ có giá và các quyền tài có tranh chấp xảy ra. sản), quyền và nghĩa vụ,…
- Không áp dụng thời hiệu
khởi kiện. Điểm a, khoản 3,
Điều 159 BLTTDS sửa đổi, bổ Hai năm kể từ sung năm 2011). ngày quyền và lợi ích - Hai năm kể từ ngày Thời hiệu hợp pháp bị xâm phạm. quyền và lợi ích hợp pháp bị khởi kiện Điểm b, khoản 3, Điều xâm phạm Điểm b, khoản 3, 159 BLTTDS sửa đổi, Điều 159 BLTTDS sửa đổi, bổ bổ sung năm 2011). sung năm 2011), trừ trường hợp
sau khi bị khiếu nại, thương
42
nhân kinh doanh dịch vụ
logistics không nhận được thông
báo về việc bị kiện tại Trọng tài
hoặc Tòa án trong thời hạn 09
tháng kể từ ngày giao hàng
Điều 319 Luật Thương mại năm
2005)
- Một năm kể từ ngày trả
hàng hoặc lẽ ra phải trả hàng cho
người nhận hàng Điều 97 Bộ
luật Hàng hải Việt Nam năm
2005).
- Ba năm kể từ thời điểm
phát sinh tranh chấp Điều 30
Luật Kinh doanh bảo hiểm năm
2000).
Cơ quan giải Tòa án. Tòa án, Trọng tài. quyết
Bản án, quyết định công Bản án, quyết Hình thức xử nhận th a thuận của các đương định công nhận th a lý sự của Tòa án), Quyết định của thuận của các đương sự. trọng tài.
1.5.5. Các phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ Hợp
đồng tín dụng
Để bảo đảm quyền lợi của các chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp
HĐTD nên việc giải quyết tranh chấp này đòi h i phải đạt được
các yêu cầu sau:
Thứ nhất, tranh chấp phải được giải quyết một cách kịp thời, phải
43
đảm bảo nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật nhằm hạn chế đến mức
thấp nhất những rủi ro và có thể tận dụng được những cơ hội kinh doanh
mới cho các chủ thể tham gia tranh chấp.
Thứ hai, trong quá trình giải quyết tranh chấp phải bảo đảm giữ được
bí mật của hoạt động kinh doanh cũng như uy tín của các bên trong quan
hệ tranh chấp. Bởi vì, các bên còn nhiều đối tác quan hệ kinh doanh khác.
Thứ ba, quá trình giải quyết phải đảm bảo tính dân chủ và quyền tự
định đoạt của các bên với chi phí giải quyết thấp.
Pháp luật hiện hành quy định các phương thức giải quyết tranh chấp
phát sinh từ HĐTD cụ thể như: thương lượng, hòa giải, trọng
tài và Tòa án.
a) Thương lượng
Phương thức thương lượng là phương thức được các bên tranh chấp
lựa chọn trước tiên và trong thực tiễn phần lớn các tranh chấp phát sinh từ
HĐTD được giải quyết bằng phương thức này. Thông qua phương thức này,
các bên tranh chấp c ng nhau bàn bạc, tự tháo gỡ những bất đồng phát sinh để
loại b tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kỳ bên
thứ ba nào.
Phương pháp thương lượng là phương thức được các bên tiến hành đầu
tiên bởi các ưu điểm của nó như: thuận tiện, đơn giản, nhanh chóng, linh hoạt,
ít tốn kém về thời gian, về tiền bạc, không ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý
phức tạp, đảm bảo bí mật, uy tín của các bên. Nếu thương lượng thành công thì
ít gây phương hại đến quan hệ hợp tác vốn có của các bên thậm chí còn được
tăng cường về sự hiểu biết và hợp tác lẫn nhau khi kết thúc cuộc thương lượng.
Tuy vậy, bên cạnh các ưu điểm trên, thương lượng cũng có những nhược
điểm như: thương lượng thành công phụ thuộc vào các bên có thiện chí muốn
tìm giải pháp đối với tranh chấp. Nếu bên vay muốn d ng hình thức thương
lượng để kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ thì thương lượng chỉ làm tốn
kém và kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp hơn. Sự thực thi kết quả thương
44
lượng phụ thuộc vào ý chí tự nguyện thi hành của các bên tham gia. Cũng
chính vì, phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng không bị ràng
buộc bởi bất kỳ các cơ chế pháp lý nào nên kết quả thương lượng cũng không
được bảo đảm bởi bất kỳ cơ chế pháp lý nào dẫn đến tính bắt buộc thực hiện
không cao. Mặt khác, hình thức giải quyết khép kín, không công khai đôi khi
lại nảy sinh những tiêu cực, trái pháp luật.
b) Hoà giải
Hoà giải là các bên tranh chấp c ng nhau bàn bạc, th a thuận để giải
quyết các vấn đề tranh chấp nhưng khác là hoà giải có sự h trợ của bên
thứ ba là hòa giải viên. Hòa giải có ưu điểm như: thủ tục, thời gian, địa
điểm hoà giải có thể được th a thuận và điều chỉnh do các bên tham gia
giải quyết tranh chấp, các bên có quyền tự định đoạt, lựa chọn bất kỳ
người nào làm trung gian hòa giải. Hòa giải mang tính thân mật nhằm tiếp
tục giữ gìn và phát triển các mối quan hệ kinh doanh vì lợi ích của cả hai
bên. Trong hòa giải, các bên tranh chấp có thể nói chuyện, trao đổi, đàm
phán và thảo luận về các giải pháp trong toàn bộ quá trình. Quá trình hòa
giải tạo cơ hội cho m i bên bày t quan điểm của mình về tranh chấp,
không dẫn đến tình trạng đối đầu, thắng thua như quá trình kiện tụng tại
Tòa án, duy trì được mối quan hệ vốn có của các bên. Do hòa giải xuất phát
từ sự tự nguyện tham gia và tự do th a thuận của các bên, nên nội dung
th a thuận luôn hướng tới lợi ích của tất cả các bên. Mặt khác, là khi giải
quyết bằng con đường này các bên kiểm soát được những bí mật của mình
bởi phiên họp hòa giải được tổ chức kín, trong khi giải quyết tại Tòa án thì
các yêu cầu này không được đảm bảo do Tòa án thực hiện xét xử theo
nguyên tắc công khai. Bên cạnh những ưa điểm trên, giải quyết tranh chấp
HĐTD bằng phương pháp hòa giải vẫn còn tồn tại những
nhược điểm nhất định: việc hòa giải có được tiến hành hay không phụ
thuộc vào sự nhất trí của các bên, hòa giải viên không có quyền đưa ra một
quyết định ràng buộc hay áp đặt bất cứ vấn đề gì đối với các bên tranh
45
chấp th a thuận hòa giải, không có tính bắt buộc thi hành như phán quyết
của Trọng tài thương mại hay của Tòa án. Các th a thuận, cam kết từ kết
quả của quá trình hòa giải không có giá trị bắt buộc cưỡng chế thi hành mà
phụ thuộc vào thiện chí, sự tự nguyện của các bên. Vì vậy, phương pháp
này ít được sử dụng nếu các bên không có sự tin tưởng với nhau.
c) Trọng tài thương mại
Thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín
dụng bằng trọng tài thương mại cho thấy có một số ưu điểm sau:
Thứ nhất, phương pháp trọng tài thương mại trong giải quyết tranh
chấp có nguyên tắc xử kín nếu các bên không có th a thuận khác.
Thứ hai, quyết định của Trọng tài thương mại là chung thẩm và vì
vậy nó có giá trị bắt buộc đối với các bên, các bên không có quyền chống
án hay kháng cáo.
Thứ ba, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thể hiện tính
năng động, linh hoạt và mềm dẻo, tạo quyền chủ động cho các bên về địa
điểm, thời gian giải quyết tranh chấp, tiết kiệm được thời gian c thể rút
ngắn thủ tục tố tụng trọng tài.
Thứ tư, giải quyết trọng tài không bị giới hạn về mặt lãnh thổ do các
bên có quyền lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng tài nào để giải quyết tranh
chấp cho mình.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, phương pháp giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài có những nhược điểm đáng kể như là: Quyết định trọng tài
thương mại không có tính cưỡng chế cao như quyết định của Tòa án; việc
thi hành quyết định trọng tài thương mại không phải lúc nào cũng trôi
chảy, thuận lợi như việc thi hành bản án mà phụ thuộc chủ yếu vào thiện
chí và sự hợp tác giải quyết của các bên. Giải quyết bằng phương thức
trọng tài đòi h i chi phí tương đối cao, vụ việc giải quyết càng kéo dài thì
phí trọng tài càng cao.
46
d) Giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án
Phương thức giải quyết tranh chấp HĐTD tại Tòa án là
hình thức cuối c ng mà các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp khi
không còn lựa chọn nào khác. Việc đưa tranh chấp ra xét xử tại Tòa án có
nhiều ưu điểm nhưng cũng có những nhược điểm nhất định. Ưu điểm của
hình thức giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án là: đặc trưng cơ bản của
thủ tục giải quyết tranh chấp bằng Tòa án là thông qua hoạt động của bộ
máy tư pháp và nhân danh quyền lực Nhà nước để đưa ra phán quyết buộc
các bên có nghĩa vụ thi hành. Vì vậy, quyết định của Tòa án có tính cưỡng
chế cao, quyền lợi của người thắng kiện sẽ được đảm bảo nếu như bên
thua kiện có tài sản để thi hành án. So với phương thức trọng tài thương
mại, việc giải quyết tranh chấp bằng Tòa án được thực hiện theo nguyên tắc
chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm hai cấp xét xử, nhờ vậy
mà những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp có khả năng được
phát hiện, khắc phục đảm bảo quyền lợi chính đáng của các bên tham gia.
Chi phí giải quyết tranh chấp bằng Tòa án ít hơn nhiều so với chi phí giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Tuy vậy, việc lựa chọn hình
thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD bằng con đường
Tòa án cũng có những nhược điểm nhất định so với các hình thức khác
như: thủ tục giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án thường dài hơn so với
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Hơn nữa, nguyên tắc xét
xử công khai tại Tòa án có thể làm sụt giảm uy tín của các bên trên thương
trường; tiết lộ các bí mật kinh doanh cản trở hoạt động đối với các chủ thể
bên vay là doanh nghiệp. Ngoài ra, bản án xét xử xong chưa được thi hành
ngay mà các bên có quyền kháng cáo, khiếu nại nên thời gian kéo dài ảnh
47
hưởng đến quá trình hoạt động của các bên tranh chấp.
Kết luận Chƣơng 1
Như vậy, TTRG là thủ tục được giản lược một số thủ tục tố tụng trong
thủ tục tố tụng thông thường nhằm mục đích giải quyết những vụ án đơn giản,
chứng cứ rõ ràng…… được nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm được chi phí cho
dương sự và cho nhà nước. Thủ tục này đã được nhiều nước trên thế giới áp
dụng và nó đang phát huy hiệu quả, áp dụng TTRG trong giải quyết vụ án sẽ
làm nâng cao hiệu quả công tác xét xử của ngành Tư pháp nói chung và của
Tòa án nói riêng. Đặc biệt do nhu cầu thực tế ở Việt Nam hiện nay, khi lượng
án dân sự cần giải quyết ngày càng tăng về số lượng và lượng án tồn của ngành
Tòa án m i năm là rất cao. Do Tòa án khi giải quyết vụ án dân sự đơn giản,
chứng cứ rõ ràng… cũng phải áp dụng thủ tục tố tụng như khi giải quyết
những vụ án phức tạp. Vì vậy, việc ban hành thủ tục tố tụng rút gọn trong
BLTTDS năm 2015 là hoàn toàn ph hợp với điều kiện thực tế trong nước. Để
ban hành được các quy định thủ tục TTDS mang tính khả thi cao thì ngoài việc
khi ban hành phải dựa trên hoàn cảnh thực tế ở nước ta hiện này còn phả học
h i kinh nghiệm của bạn bè quốc tế đã có rất nhiều kinh nghiệm trong việc ban
48
hành và áp dụng thủ tục này để giải quyết vụ án trong thực tế.
Chƣơng 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015 VỀ
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ, TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
TÍN DỤNG THEO THỦ TỤC RÚT GỌN
2.1. Quy định về việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ
tục rút gọn tại Tòa án cấp sơ thẩm
2.1.1. Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn
Phạm vi áp dụng TTRG là giới hạn luật định áp dụng TTRG để giải
quyết vụ án dân sự. Theo quy định tại Điều 316 BLTTDS năm 2015 thì quy
định tại chương này về TTRG sẽ được áp dụng đối với mọi vụ án dân sự,
KDTM, LĐ, HNGĐ sẽ được giải quyết theo TTRG. Trong trường hợp chương
này không quy định thì áp dụng các quy định khác của Bộ luật này để áp dụng
giải quyết tranh chấp theo TTRG.
2.1.2. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn
Điều kiện áp dụng TTRG là những căn cứ mà BLTTDS quy định cần và
đủ để có thể áp dụng thủ tục này. Theo quy định tại Điều 317 BLTTDS năm
2015 thì TTRG chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện như:
- Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ
ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ,
bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu
thập tài liệu, chứng cứ.
Ta có thể hiểu rằng vụ án dân sự được coi là có tình tiết đơn giản, quan
hệ pháp luật rõ ràng là vụ án đã xác định rõ về quan hệ tranh chấp, về giá trị
tranh chấp và về tư cách tham gia tố tụng của các bên tranh chấp. Còn đương
sự đã thừa nhận nghĩa vụ được hiểu là bên có nghĩa vụ đã thừa nhận nghĩa vụ
chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền, ... cho bên có quyền trong vụ án
tranh chấp đó. Tài liệu chứng cứ đầy đủ là việc các bên đương sự đã nộp cho
49
Tòa án đầy đủ chứng cứ để chứng minh quyền của mình và chứng minh nghĩa
vụ của bên kia.
- Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ
ràng.
Điều kiện này được hiểu là phải xác định được rõ ràng, chính xác địa chỉ
nơi đương sự thường xuyên sinh sống hoặc đang sinh sống nếu đương sự là cá
nhân, còn đương sự là tổ chức thì phải xác định được rõ ràng, chính địa chỉ nơi
tổ chức có trụ sở, trụ sở ở đây được xác định là trụ sở chính hoặc chi nhánh.
- Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản
tranh chấp ở nước ngoài.
Đương sự không cứ trú ở nước ngoài được hiểu là vào thời điểm Tòa án
thụ lý vụ án đương sự là cá nhân, không phân biệt là người Việt Nam hay
người nước ngoài, phải đang sinh sống hoặc thường xuyên sinh sống trên lãnh
thổ nước ta, còn đương sự là cơ quan, tổ chức, không phân biệt là cơ quan, tổ
chức nước ngoài hay cơ quan, tổ chức Việt Nam phải có trụ sở, chi nhánh, văn
phòng đại diện tại Việt Nam. Và không có tài sản tranh chấp ở nước ngoài
được hiểu là tài sản tranh chấp đó không ở ngoài biên giới lãnh thổ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ án dân sự đó.
- Tuy có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh
chấp ở nước ngoài, nhưng các đương sự ở nước ngoài và đương
sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo TTRG
hoặc các đương sự đã xuất trình được chứng cứ về quyền sở hữu
hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản
thì Tòa án vẫn áp dụng TTRG để giải quyết vụ án
Sở dĩ như vậy là vì trong quan hệ pháp luật dân sự nhà nước luôn tôn
trọng, đảm bảo và khuyến khích sự th a thuận của các đương sự. Do vậy ở
trường hợp này d đương sự là người nước ngoài nhưng nếu các đương sự ở
nước ngoài và các đương sự ở Việt Nam có th a thuận Tòa án giải quyết theo
TTRG thì Tòa án vẫn chấp nhận.
50
- Đối với vụ án lao động đã được thụ lý, giải quyết
theo TTRG mà người sử dụng lao động có quốc tịch nước ngoài
hoặc người đại diện theo pháp luật của họ đã rời khỏi địa chỉ nơi
cư trú, nơi có trụ sở mà không thông báo cho đương sự khác, Tòa
án thì bị coi là trường hợp cố tình giấu địa chỉ. Tòa án vẫn giải
quyết vụ án đó theo TTRG
Điều này được hiểu là nếu một vụ án lao động mà ban đầu vụ án đó đã
th a mãn các điều kiện áp dụng TTRG và Tòa án đã thụ lý, giải quyết theo
TTRG mà sau đó người sử dụng lao động có quốc tịch nước ngoài hoặc đại
diện theo pháp luật của họ rời kh i địa chỉ nơi họ đang sinh sống hoặc nơi họ
thường xuyên sinh sống thì Tòa án vẫn giải quyết vụ án theo TTRG. Như vậy
quy định này chỉ áp dụng với người sử dụng lao động có quốc tịch nước ngoài.
2.1.3. Khởi kiện và thụ lý vụ án theo thủ tục rút gọn
BLTTDS năm 2015 không có quy định một phần riêng về vấn đề thụ lý
đơn yêu cầu giải quyết vụ án dân sự theo TTRG. Như vậy, ta có thể hiểu quy
định về khởi kiện và thụ lý vụ án theo TTRG cũng tương tự trình tự thủ tục về
khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng thông thường. Theo quy
định tại Điều 3 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Hội
đồng Thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị
quyết số 103/2015/QH2013 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành
BLTTDS và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về
thi hành Luật tố tụng hành chính thì “Khi giải quyết vụ án dân sự, HNGĐ, kinh
doanh, thương mại, lao động, hành chính theo TTRG, Tòa án áp dụng mức tạm
ứng án phí, án phí bằng 50% mức tạm ứng án phí, án phí áp dụng đối với vụ án
giải quyết theo thủ tục thông thường cho đến khi có quy định mới của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền về mức tạm ứng án phí, án phí áp dụng đối với vụ án
dân sự, HNGĐ, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính giải quyết theo
TTRG”. Mức tạm ứng án phí, án phí áp dụng đối với vụ án giải quyết theo thủ
tục thông thường được tính theo quy định của Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án
51
của ủy ban thường vụ Quốc hội số 10/2009/PL-UBTVQH12 ngày 27/2/2009.
2.1.4. Quy định việc xét xử sơ thẩm vụ án theo thủ tục tố tụng rút gọn
- Quyết định đưa vụ án ra xét xử
Khoản 1 Điều 318 BLTTDS quy định “Trong thời hạn không quá 01
tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 195
của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG và mở phiên tòa xét xử trong thời hạn 10
ngày, kể từ ngày ra quyết định”. Thời hạn đưa vụ án xét xử theo TTRG đã
được rút ngắn hơn so với thủ tục thông thường. Quy định này bắt buộc trong
thời hạn không quá 01 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án Thẩm phán được phân
công giải quyết vụ án phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG và chỉ
được ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
- Khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến
nghị về quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG
Đối với quyết định đưa vụ án ra xét xử phiên tòa xét xử theo TTRG thì
đương sự có quyền khiếu nại, VKSND c ng cấp có quyền kiến nghị quyết định
này, đây cũng là điểm khác biệt so với thủ tục tố tụng thông thường. Chánh án
sẽ là người có quyền xem xét cuối c ng cuối c ng trong việc có áp dụng
TTRG hay không khi có đơn khiếu nại hay kiến nghị.
- Phiên tòa xét xử sơ thẩm theo TTRG
Khoản 1 Điều 320 BLTTDS 2015 quy định “Các đương sự, Kiểm sát
viên VKSND cùng cấp phải có mặt tại phiên tòa xét xử theo TTRG. Trường
hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử. Đương
sự có quyền đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.
Trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu
tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì Thẩm phán vẫn tiến
hành phiên tòa”.
Sau khi xem xét sự có mặt, vắng mặt của đại diện VKSND cùng cấp,
của đương sự trong vụ án thì Thẩm phán chủ trì phiên tòa sẽ căn cứ vào sự
52
vắng mặt, có mặt của họ để xem xét có đủ điều kiện để hoãn phiên tòa hay
không. Trong trường hợp không đủ điều kiện để hoãn phiên tòa thì phiên tòa
xét xử vẫn được tiếp tục và “Thẩm phán tiến hành khai mạc phiên tòa theo quy
định tại Điều 239 của Bộ luật này”, khoản 2 Điều 320 BLTTDS 2015.
Sau khi khai mạc phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo TTRG thì
Thẩm phán chủ trì phiên tòa sẽ tiến hành hòa giải, được quy định tại khoản 3
Điều 320 BLTTDS 2015. “Trường hợp các đương sự thảo thuận được với nhau
về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán ra quyết định công nhận
sự th a thuận của các đương sự theo quy định tại Điều 212 Bộ luật nay.
Trường hợp các đương sự không th a thuận được với nhau về vấn đề phải giải
quyết trong vụ án thì Thẩm phán tiến hành xét xử ”. Trường hợp các bên
đương sự không th a thuận được với nhau về toàn bộ nội dung vụ án thì Thẩm
phán sẽ tiến hành xét xử vụ án, Thẩm phán để các đương sự trình bày, tranh
luận, đối đáp, đề xuất quan điểm về việc giải quyết vụ án và thủ tục này được
thực hiện theo quy định tại Mục 3 Chương XIV của BLTTDS năm 2015. Phần
tranh luận, đối đáp, đề xuất quan điểm về việc giải quyết vụ án theo TTRG sẽ
có thủ tục như thủ tục về phần tranh luận, đối đáp, đề xuất quan điểm về việc
giải quyết vụ án theo thủ tục thông thường.
Tại phiên tòa xét xử vụ án dân sự theo TTRG mà xuất hiện các tình tiết
mới trên thì Thẩm phán sẽ xem xét để ra quyết định chuyển vụ án sang giải
quyết theo thủ tục thông thường. Và thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án được tính
từ ngày ra quyết định. Còn nếu có tình tiết mới thì Thẩm phán sẽ ra bản án về
việc giải quyết vụ án dân sự.
- Hiệu lực của bản án, quyết định theo TTRG
Bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm xét xử theo TTRG sẽ không
có hiệu lực pháp luật ngay mà bản án, quyết định này có thể bị kháng cáo,
kháng nghị để xét xử theo thủ tục phúc thẩm hay có thể bị kháng nghị theo thủ
tục tái thẩm, giám đốc thẩm
2.2. Quy định về việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ
53
tục rút gọn tại Tòa án cấp phúc thẩm
2.2.1. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản
án, quyết định theo thủ tục rút gọn
Khi áp dụng TTRG để giải quyết tranh chấp thì bản án, quyết định của
Tòa án sơ thẩm cũng bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, thời hạn để đương sự kháng cáo và VKSND kháng nghị theo
TTRG được rút ngắn hơn so với thủ tục tố tụng thông thường.
2.2.2. Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo thủ
tục rút gọn
Sau thời hạn một tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân
công giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm phải ra một trong các quyết định:
đình chỉ, tạm đình chỉ hay đưa vụ án ra xét xử. Quyết định đưa vụ án ra xét xử
phải gửi ngay cho người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị và VKSND
c ng cấp.
2.2.3. Thủ tục xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút
gọn đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị
Đối với phiên tòa phúc thẩm theo TTRG cũng do một Thẩm phán tiến
hành. Quy định này cũng khác so với phiên Tòa phúc thẩm theo thủ tục thông
thường, phiên tòa này sẽ gồm một hội đồng xét xử phúc thẩm và phân công
một Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa. Sau thời hạn 15 ngày tính từ ngày có
quyết định đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán được phân công giải quyết theo thủ
tục phúc thẩm phải mở phiên tòa phúc thẩm.
Thành phần tham gia phiên tòa xét xử phúc thẩm cũng giống như thành
phần tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm phải gồm có đương sự, VKSND c ng
cấp. Tuy nhiên pháp luật cũng quy định trường hợp đại diện VKSND vắng mặt
tại phiên tòa thì phiên tòa vẫn được xét xử bình thường, trừ trường hợp vụ án
được xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm do VKSND có kháng nghị. Trong
trường hợp đương sự không kháng cáo được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt hay
54
các đương sự có đơn xin xét xử vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử bình
thường. Tại phiên tòa phúc thẩm Tòa án sẽ không tiến hành hòa giải giữa các
bên mà Thẩm phán giải quyết vụ án sẽ tóm tắt nội dung, quyết định bản án và
nghe các bên đương sự trình bày ý kiến kháng cáo của mình, VKSND trình
bày ý kiến về việc kháng nghị về nội dung vụ án. Sau khi để đương sự trình
bày ý kiến, Thẩm phán sẽ để các bên đương sự tranh luận, đối đáp và đề xuất
quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án. Sau khi hoàn tất các thủ tục trên
Thẩm phán sẽ nghiên cứu cách tài liệu, chứng cứ có trong vụ án, ý kiến của
các đương sự, ý kiến của VKSND, trong trường hợp VKSND có kháng nghị và
ra một trong các quyết định sau đây:
- Giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm;
- Sửa bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm;
- Hủy bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án
cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo TTRG hoặc theo thủ tục
thông thường nếu không còn đủ các điều kiện để giải quyết theo TTRG;
- Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án;
- Đình chỉ xét xử phúc thẩm và giữ nguyên bản án sơ thẩm
Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra bản án,
quyết định.
2.3. Thủ tục xem xét lại bản án, quyết định theo thủ
tục rút gọn đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm
Với bản án, quyết định của Tòa án theo TTRG đã có hiệu lực pháp luật
mà phát hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật và có đơn đề nghị hoặc có thông báo,
kiến nghị thì người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật. Đương sự có quyền đề nghị bằng văn bản với người có thẩm quyền
kháng nghị để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Còn trong trường hợp vụ án có phát sinh thêm tình tiết mới mà các
đương sự không biết khi Tòa án ra quyết định, bản án đã có hiệu lực pháp luật
55
mà làm thay đổi nội dung quyết định, bản án đó thì VKSND có quyền kháng
nghị, đương sự có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền kháng nghị để xem
xét theo thủ tục tái thẩm.
Pháp luật TTDS 2015 chỉ quy định một trình tự, thủ tục xem xét lại bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Như vậy chúng ta có thể hiểu, d bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
d trước đó được giải quyết theo TTRG hay thủ tục chung thì trình tự, thủ tục
xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là giống nhau.
2.4. Quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết
tranh chấp hợp đồng tín dụng theo thủ tục rút gọn
2.4.1. Quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về giải quyết
tranh chấp Hợp đồng tín dụng theo thủ tục rút gọn
Hiện nay, thủ tục tố tụng dân sự giải quyết tranh chấp HĐTD chưa linh
hoạt, nhanh gọn xử lý vấn đề gây tốn kém về thời gian và chi phí cho các bên
tranh chấp. Theo quy định của BLTTDS, thủ tục giải quyết tranh chấp HĐTD
còn mất rất nhiều thời gian. Thông thường để giải quyết xong một tranh chấp
HĐTD phải mất gần hai năm. Trình tự, thủ tục ở Tòa án thường kéo dài lâu do
phải trải qua các khâu: thụ lý, Tòa án nghiên cứu và tiến hành hoà giải đến xét
xử sơ thẩm, phúc thẩm, (khiếu nại nếu có) cũng một thời gian khá dài, đến khi
bản án có hiệu lực pháp luật thì phải chờ cơ quan thi hành án xử lý. Trình tự,
thủ tục kéo dài nhiều thời gian như vậy khiến cho các bên trong tranh chấp
luôn ở trong tình trạng chờ đợi, mệt m i và chi phí kéo theo là tất yếu. Thực tế
này đòi h i công việc giải quyết tranh chấp ở Tòa án cần rút ngắn thời gian
làm cho quá trình giải quyết tranh chấp nhanh gọn, đúng pháp luật, đơn giản
nhưng vẫn bảo vệ quyền lợi các bên trong hợp đồng. Các tranh chấp phát sinh
từ HĐTD trước khi đã mang ra Tòa án giải quyết thì họ đã tiến hành các bước
thương lượng, hoà giải nên về các chứng cứ chứng minh vụ việc đã có tình tiết
rõ ràng và có căn cứ pháp lý.
Đối với những tranh chấp HĐTD mà chứng cứ rõ ràng, bị đơn có địa
56
chỉ, lai lịch cụ thể, họ thừa nhận nghĩa vụ của mình trước nguyên đơn, nếu
nguyên đơn xuất trình được chứng cứ bằng văn bản để chứng minh cho yêu
cầu của mình và nếu như bị đơn c ng tất cả những người liên quan khác trong
vụ tranh chấp không có sự phản đối về sự giả mạo của bằng chứng đó thì Tòa
án có thể khẳng định được tính chính xác và độ tin cậy của các thông tin trong
các văn bản đó. Do vậy, Tòa án không phải mất nhiều thời gian để điều tra, xác
minh mà vẫn có thể giải quyết đúng pháp luật vụ tranh chấp đó, đảm bảo giải
quyết nhanh gọn, hiệu quả. Mới đây, tại BLTTDS 2015 có hiệu lực từ ngày
01/07/2016 đã thêm trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo TTRG được
quy định từ điều 316 đến 324 của Bộ luật này.
Việc ban hành TTRG này sẽ giúp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
của Tòa án, tạo cơ sở pháp lý để Tòa án giải quyết nhanh chóng các tranh chấp
phát sinh trong xã hội mà vẫn bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức; giảm nhẹ thời gian, chi phí tố tụng của Tòa án và thời
gian, chi phí của các đương sự cho việc tham gia tố tụng tại Tòa án. Tuy nhiên,
cần phải có cơ chế giám sát chặt chẽ trình tự tố tụng này để đảm bảo quyền lợi
cho bên vay, vì khi xảy ra tranh chấp HĐTD thì các TCTD bên cho vay) là
bên mong muốn được áp dụng giải quyết theo trình tự TTRG để nhanh chóng
thu hồi vốn và giải quyết nợ xấu do hoạt động tín dụng gây ra. Bổ sung thêm
các văn bản hướng dẫn về xử án theo TTRG của BLTTDS nhằm đảm bảo tính
chính xác khi áp dụng các vụ án theo thủ tục này.
Đồng thời, việc ban hành thêm hình thức gửi đơn kiện qua cổng trực
tuyến [2, Khoản 1 điều 190] và phương thức cấp, tống đạt, thông báo của Tòa
bằng phương tiện điện tử [2, Khoản 2 điều 173]. Theo đó, người khởi kiện có
thể gửi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đến Tòa án có thẩm quyền
giải quyết vụ án bằng phương thức gửi trực tuyến qua cổng thông tin điện tử
của Tòa án (nếu có). Ngày khởi kiện được xác định là ngày gửi đơn. Sau khi
nhận đơn trực tuyến, Tòa án in ra bản giấy và ghi vào sổ nhận đơn, thông báo
trên cổng thông tin điện tử của Tòa án đồng thời trả lời cho người khởi kiện
57
biết qua thư điện tử. Việc cấp, tống đạt, thông báo của Tòa cũng được thực
hiện qua thư điện tử. Điều sẽ góp phần giảm thời gian và chi phí đi lại của các
bên đương sự nếu muốn khởi kiện tranh chấp HĐTD ra Tòa án khi ở quá xa trụ
sợ Tòa án có thẩm quyền giải quyết.
Tuy nhiên, quy định về hoạt động gửi đơn trực tuyến vẫn còn gặp nhiều
vướng mắc, bất cập sau:
- Ngày đương sự gửi đơn khởi kiện đến Tòa án phải được xác định chính
xác trong hoạt động tố tụng, vì đây là thời điểm phát sinh các quyền, nghĩa vụ
của Người khởi kiện người tham gia tố tụng) và trách nhiệm của Thẩm phán
Người tiến hành tố tụng) khi được giao nhiệm vụ tiếp nhận, giải quyết đơn
khởi kiện. Nhưng trước thực tế hiện nay, hệ thống mạng Internet vẫn còn nhiều
bất cập, vấn đề an ninh mạng vẫn chưa được giải quyết triệt để, hiện tượng
mạng nội bộ bị “treo” nên đương sự không thể truy cập được để thực hiện
được thao tác gửi đơn; hoặc có trường hợp đương sự đã gửi văn bản đến đúng
địa chỉ cổng thông tin của Tòa án, nhưng bộ phận tiếp nhận đơn không thể
nhận, xử lý được dữ liệu. Dẫn đến việc, văn bản được gửi đi nhưng cấp có
thẩm quyền không tiếp nhận được nên không có căn cứ để giải quyết; còn
đương sự vẫn tiếp tục chờ đợi thông tin.
- Để có căn cứ chấp nhận hay bác đơn khởi kiện của đương sự, trong
suốt quá trình giải quyết kể từ lúc tiếp nhận đơn khởi kiện, Thẩm phán phải thu
thập chứng cứ là các tài liệu kèm theo đơn khởi kiện do Người khởi kiện giao
nộp. Trong 76 trường hợp đơn khởi kiện và tài liệu kèm theo đơn được gửi
trực tuyến bằng phương tiện điện tử qua cổng thông tin Tòa án, điều luật quy
định Thẩm phán phải in ra bản giấy vào sổ nhận đơn. Trên thực tế, cùng với
việc nộp đơn khởi kiện, đương sự hầu hết đều gửi nhiều tài liệu gốc có giá trị
chứng cứ. Nhưng BLTTDS năm 2015 chưa quy định hoạt động tiếp theo ngay
sau khi Thẩm phán in tài liệu ra bản giấy. Việc quy định này rất thuận lợi cho
người dân thực hiện quyền khởi kiện, nhưng gây khó khăn cho Thẩm phán khi
xét xử trong việc đánh giá tính khách quan của chứng cứ, vì Thẩm phán không
58
thể đánh giá chứng cứ trên cơ sở tài liệu được sao chép lại, không phải là bản
gốc. Việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản của Tòa án đến đương sự cũng gặp
trường hợp tương tự như vậy, vì cần phải có chữ ký xác nhận của các đương sự
làm căn cứ, để biết người trực tiếp tham gia tố tụng có nhận được văn bản của
Tòa hay không, làm căn cứ để thực hiện các bước xét xử tại Tòa án. Như vậy,
để các điều luật này thực sự phát huy tác dụng và có hiệu quả cao nhất khi đi
vào thực tiễn. Đề nghị trong thời gian tới, các ngành tư pháp trung ương cần
tiếp tục nghiên cứu, xem xét giải quyết những vướng mắc như sau:
- Sớm có văn bản hướng dẫn việc thu thập chứng cứ sau khi đương sự
gửi đơn khởi kiện trực tuyến, theo hướng: Thẩm phán có trách nhiệm yêu cầu
đương sự giao nộp tài bản chính đơn khởi kiện và tài liệu gốc kèm theo để lưu
hồ sơ và chỉ đánh giá chứng cứ trên cơ sở những văn bản, tài liệu gốc này, còn
chứng cứ thu thập trên cổng thông tin điện tử thì chỉ để mang tính chất tham
khảo.
- Đảm bảo sự vận hành thông suốt và nâng cấp an ninh của Công thông
tin điện tử nhằm khắc phục hiện tượng trang web không thể truy cập được
hoặc bị sao chép, “đánh cắp” thông tin. Với việc ban hành các quy định về gửi
đơn kiện, cấp tống đạt qua trực tuyến của BLTTDS 2015, TAND Tối cao cần
xây dựng thêm phiên tòa xét xử qua trực tuyến. Ví dụ: TAND tỉnh xử phúc
thẩm thì người dân ở huyện, tỉnh xa, hoặc ở nước ngoài, có thể tham gia phiên
tòa qua màn hình trực tuyến, để người dân bớt phải đi lại, di chuyển về tòa
tham dự trực tiếp, tiết kiệm tiền bạc, thời gian và công sức cho người dân, đảm
bảo quyền lợi của các bên đương sự không đến 77 được Tòa án do điều kiện
địa lý và bị xét xử vắng mặt. Để xây dựng mô hình này TAND Tối cao cần đẩy
mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hành chính tư pháp, tham khảo
mô hình xét xử này từ các nước phát triển để áp dụng vào xét xử thực tiễn tại
Việt Nam. Ngoài ra, cần bổ sung thủ tục yêu cầu thanh toán nợ vào những việc
thuộc thẩm quyền của Tòa án. Theo đó, trên cơ sở đơn của người có quyền yêu
cầu và các hồ sơ HĐTD, hợp đồng thế chấp. Tòa án xem xét và ra quyết định
59
buộc bên có nghĩa vụ phải thanh toán nghĩa vụ và ra quyết định việc xử lý tài
sản theo hợp đồng của các bên có nghĩa vụ không thanh toán được nghĩa vụ.
Việc ra quyết định là căn cứ để cho UBND, Công an, các tổ chức nhà nước
liên quan phối hợp với các bên tham trong hợp đồng trong quá trình xử lý tài
sản bảo đảm, nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên.
2.4.2. Quy định của Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp
dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ
xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu tại Tòa án nhân dân
Ngày 15/5/2018, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã ban hành Nghị
quyết số 03/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp
luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ
xấu tại T ND để triển khai thực hiện các chính sách tại Nghị quyết số
42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD. Nghị
quyết số 03/2018/NQ-HĐTP có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2018
đến ngày Nghị quyết số 42/2017/QH14 hết hiệu lực thi hành (15/08/2022) với
một số nội dung cơ bản như sau:
a) Về TTRG trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo
đảm của khoản nợ xấu
Để hướng dẫn áp dụng TTRG trong giải quyết tranh chấp liên quan đến
tài sản bảo đảm tại Tòa án theo quy định tại Điều 8 Nghị quyết 42/2017/QH14,
Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP quy định Tòa án giải quyết theo TTRG đối
với tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm, tranh chấp về quyền xử lý tài
sản bảo đảm của khoản nợ xấu đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại khoản 1
Điều 8 của Nghị quyết số 42/2017/QH14 và hướng dẫn của Nghị quyết số
03/2018/NQ-HĐTP.
Tại Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP có hướng dẫn một số nội dung
liên quan đến áp dụng TTRG nêu trên như sau:
Thứ nhất, về xác định tranh chấp nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm theo
khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết số 42/2017/QH14, Nghị quyết số 03/2018/NQ-
60
HĐTP quy định tranh chấp này là tranh chấp về việc bên bảo đảm, bên giữ tài
sản bảo đảm của khoản nợ xấu không giao tài sản bảo đảm hoặc giao không
đúng theo yêu cầu của bên nhận bảo đảm, bên có quyền xử lý tài sản bảo đảm
để xử lý tài sản đó nhằm giải quyết nợ xấu.
Để giải thích rõ, Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP có ví dụ về cách xác
định loại tranh chấp này như sau: Ngân hàng thương mại cổ phần A cho Công
ty trách nhiệm hữu hạn B vay 5.000.000.000 đồng Năm tỷ đồng). Để bảo đảm
cho khoản vay theo hợp đồng vay, Công ty trách nhiệm hữu hạn B (bên bảo
đảm) đã thế chấp ngôi nhà X thuộc sở hữu của mình cho Ngân hàng thương
mại cổ phần A (bên nhận bảo đảm). Khoản vay này được xác định là khoản nợ
xấu, Ngân hàng thương mại cổ phần A yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn B
giao ngôi nhà X (tài sản bảo đảm) để xử lý nhằm giải quyết nợ xấu nhưng
Công ty trách nhiệm hữu hạn B không giao. Khi đó, tranh chấp này được xác
định là "Tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu” theo
Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP.
Thứ hai, về tranh chấp quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu
theo khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết số 42/2017/QH14, Nghị quyết số
03/2018/NQ-HĐTP quy định tranh chấp này là tranh chấp về việc xác định
người có quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu. Tương tự, để giải
thích rõ, Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP có ví dụ cụ thể về cách xác định
loại tranh chấp này như sau: Ngân hàng thương mại cổ phần A cho Công ty
trách nhiệm hữu hạn B vay 5.000.000.000 đồng Năm tỷ đồng). Để bảo đảm
cho khoản vay theo hợp đồng vay, Công ty trách nhiệm hữu hạn B (bên bảo
đảm) đã thế chấp ngôi nhà X thuộc sở hữu của mình cho Ngân hàng thương
mại cổ phần A (bên nhận bảo đảm). Khoản vay này được xác định là khoản nợ
xấu, Ngân hàng thương mại cổ phần A yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn B
giao ngôi nhà X (tài sản bảo đảm) để xử lý nhằm giải quyết nợ xấu nhưng
Công ty trách nhiệm hữu hạn B không đồng ý vì cho rằng mình có quyền tự
chuyển nhượng ngôi nhà X để giải quyết nợ xấu. Theo đó, tranh chấp này được
61
xác định là “Tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu”
theo quy định của Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP.
Thứ ba, về th a thuận nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu,
tranh chấp “không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước
ngoài” tại khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết số 42/2017/QH14, Nghị quyết số
03/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn th a thuận này có thể được ghi nhận trong hợp
đồng bảo đảm, phụ lục hợp đồng bảo đảm hoặc văn bản khác có hiệu lực như
hợp đồng.
Ngoài ra, theo Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP, tranh chấp “không có
đương sự cư trú ở nước ngoài” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 của
Nghị quyết số 42/2017/QH14 phải là tranh chấp không thuộc các trường hợp
sau: i) Đương sự là người Việt Nam nhưng không cư trú ở Việt Nam tại thời
điểm Tòa án thụ lý đơn khởi kiện. Tòa án xác định việc cư trú của đương sự
theo quy định của Luật Cư trú; ii) Đương sự là người nước ngoài không
thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam tại thời điểm Tòa án thụ lý đơn khởi kiện.
Tòa án xác định việc thường trú hoặc tạm trú của người nước ngoài theo quy
định của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại
Việt Nam; iii) Đương sự là tổ chức nước ngoài theo quy định tại khoản 26
Điều 4 của Luật Doanh nghiệp mà không ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân ở
Việt Nam khởi kiện, tham gia tố tụng.
Đồng thời, Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP cũng quy định rõ tranh
chấp “không có tài sản tranh chấp ở nước ngoài” theo quy định tại Điều 8 của
Nghị quyết số 42/2017/QH14 là tranh chấp mà không có tài sản được xác định
theo quy định của BLDS ở ngoài lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam tại thời điểm Tòa án thụ lý đơn khởi kiện.
Thứ tư, về đơn khởi kiện, nộp đơn và thụ lý đơn khởi kiện, Nghị quyết
số 03/2018/NQ-HĐTP quy định hình thức, nội dung đơn khởi kiện thực hiện
theo quy định tại khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 189 của BLTTDS, Mẫu số 23-DS ban
hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13 tháng 01 năm 2017
62
của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao ban hành một số biểu mẫu trong tố
tụng dân sự và hướng dẫn tại Điều 6 của Nghị quyết này về ủy quyền khởi kiện
và tham gia tố tụng. Bên cạnh đó, Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP quy định
về tài liệu kèm theo đơn khởi kiện bao gồm: i) HĐTD; ii) Tài liệu, chứng cứ
chứng minh khoản nợ đang có tranh chấp là nợ xấu theo quy định tại Điều 4
của Nghị quyết số 42/2017/QH14; iii) Văn bản, hợp đồng bảo đảm và tài liệu,
chứng cứ chứng minh về việc đã đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc biện pháp
bảo đảm; (iv) Tài liệu, chứng cứ về nơi cư trú, làm việc của người bị kiện,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân hoặc trụ sở của người bị
kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức.
Trường hợp có đương sự cư trú ở nước ngoài, Nghị quyết số
03/2018/NQ-HĐTP yêu cầu phải có thêm một trong các tài liệu, chứng cứ sau
đây: i) Văn bản th a thuận giữa đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt
Nam đề nghị Tòa án giải quyết theo TTRG có công chứng, chứng thực hợp
pháp. Trường hợp văn bản này được lập ở nước ngoài thì phải được hợp pháp
hóa lãnh sự, trừ trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định tại
khoản 1 và 2 Điều 9 của Nghị định số 111/2011/NĐ-CP ngày 01 tháng 12 năm
2011 của Chính phủ về chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự; (ii) Tài liệu,
chứng cứ chứng minh quyền sở hữu tài sản hợp pháp và th a thuận thống nhất
về việc xử lý tài sản của các đương sự có công chứng, chứng thực hợp pháp.
Trường hợp văn bản này được lập ở nước ngoài thì phải được hợp pháp hóa
lãnh sự, trừ trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định tại
khoản 1 và 2 Điều 9 của Nghị định số 111/2011/NĐ-CP ngày 01 tháng 12 năm
2011 của Chính phủ về chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự. Việc nộp
đơn và thụ lý đơn khởi kiện tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của
khoản nợ xấu được thực hiện theo quy định của BLTTDS và văn bản hướng
dẫn thi hành.
Thứ năm, về TTRG, Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP quy định Tòa án
áp dụng các quy định của BLTTDS về giải quyết vụ án dân sự theo TTRG, các
63
văn bản hướng dẫn thi hành BLTTDS có liên quan và hướng dẫn của Nghị
quyết số 03/2018/NQ-HĐTP để giải quyết các tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài
sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo TTRG.
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP cũng hướng dẫn trường
hợp trong quá trình giải quyết vụ án HNGĐ, trước khi Tòa án ra quyết định
đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, nếu có đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết tranh
chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm, tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo
đảm của khoản nợ xấu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 8 của Nghị
quyết số 42/2017/QH14 mà tài sản bảo đảm đó là tài sản của vợ chồng thì Tòa
án có thể tách yêu cầu của đương sự đó để giải quyết bằng một vụ án khác theo
TTRG. Để làm rõ, Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn bằng ví dụ cụ
thể như sau: T ND thành phố HP đã thụ lý vụ án ly hôn giữa ông A và bà B.
Ngân hàng thương mại cổ phần X được xác định là người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Ngân hàng thương mại cổ phần
X có đơn đề nghị Tòa án giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo
đảm là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu ngôi nhà trên đất nằm trong khối tài
sản chung của vợ chồng ông A, bà B. Đồng thời, Ngân hàng thương mại cổ
phần X đề nghị Tòa án tách phần yêu cầu này giải quyết bằng vụ án khác theo
TTRG. Trường hợp này, nếu Ngân hàng thương mại cổ phần X cung cấp được
tài liệu, chứng cứ chứng minh tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm
giữa Ngân hàng thương mại cổ phần X và ông , bà B đáp ứng đầy đủ các
điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết số 42/2017/QH14 và
hướng dẫn của Nghị quyết này thì Tòa án tách yêu cầu của Ngân hàng thương
mại cổ phần X để giải quyết bằng một vụ án khác theo TTRG.
b) Về tài sản bảo đảm theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 7 của Nghị
quyết số 42/2017/QH14 liên quan đến điều kiện thực hiện quyền thu giữ tài
sản bảo đảm
Để hướng dẫn cụ thể về tài sản bảo đảm đủ điều kiện để TCTD, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, V MC được quyền thu giữ theo quy định tại
64
điểm d khoản 2 Điều 7 của Nghị quyết 42/2017/QH14, Nghị quyết số
03/2018/NQ-HĐTP quy định như sau: Thứ nhất, trường hợp tài sản bảo đảm
của khoản nợ xấu là tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đã bị Tòa án thụ lý
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và đang trong quá trình giải quyết vụ việc phá
sản thì TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC không có quyền thu
giữ tài sản bảo đảm. Việc xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp này được
thực hiện theo quy định của Luật Phá sản. Thứ hai, trường hợp tài sản bảo đảm
của khoản nợ xấu là tài sản của bên thứ ba mà bên được bảo đảm là doanh
nghiệp, hợp tác xã đã bị Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và đang
trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản thì TCTD, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, VAMC có quyền thu giữ tài sản bảo đảm đó và xử lý theo quy
định của pháp luật hoặc đề nghị Tòa án có thẩm quyền giải quyết trong quá
trình giải quyết phá sản theo quy định của pháp luật.
c) Về ủy quyền khởi kiện, tham gia tố tụng
Về việc ủy quyền khởi kiện, tham gia tố tụng, Nghị quyết số
03/2018/NQ-HĐTP quy định: i) Cá nhân được quyền ủy quyền cho pháp nhân
hoặc cá nhân khác tham gia tố tụng tại Tòa án có thẩm quyền để giải quyết
tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu. Việc làm đơn
khởi kiện của cá nhân thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 189 của
BLTTDS. (ii) Pháp nhân có quyền ủy quyền cho pháp nhân hoặc cá nhân khác
khởi kiện, tham gia tố tụng tại Tòa án có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp
về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu. (iii) Cá nhân, pháp nhân
được ủy quyền được ủy quyền lại cho pháp nhân, cá nhân khác tham gia tố
tụng nếu bên ủy quyền đồng ý bằng văn bản. Việc ủy quyền nêu trên phải được
lập thành văn bản và xác định rõ phạm vi, nội dung ủy quyền.
Về việc ghi thông tin và ký đơn khởi kiện của pháp nhân, Nghị quyết số
03/2018/NQ-HĐTP quy định: i) Trường hợp người được ủy quyền khởi kiện
là cá nhân thì phần người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ của pháp nhân khởi
kiện và họ tên, địa chỉ của người đại diện theo ủy quyền; phần cuối đơn khởi
65
kiện ghi đại diện của người khởi kiện, người đại diện theo ủy quyền ký tên, ghi
rõ họ tên của người được ủy quyền. Người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân ủy quyền không bắt buộc phải ký tên, đóng dấu vào phần cuối đơn khởi
kiện. ii) Trường hợp người được ủy quyền khởi kiện là pháp nhân thì phần
người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ của pháp nhân khởi kiện và tên, địa chỉ
của pháp nhân đại diện theo ủy quyền, họ tên và chức vụ của người đại diện
hợp pháp của pháp nhân được ủy quyền; phần cuối đơn ghi đại diện của người
khởi kiện, pháp nhân đại diện theo ủy quyền, người đại diện hợp pháp của
pháp nhân được ủy quyền ký tên, ghi rõ họ tên, chức vụ và đóng dấu của pháp
nhân được ủy quyền. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền
không bắt buộc phải ký tên, đóng dấu vào phần cuối đơn khởi kiện.
Ngoài ra, Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP cũng hướng dẫn xử lý
trường hợp các hợp đồng ủy quyền được xác lập trước ngày 01 tháng 01 năm
2017, theo đó, khi giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của
khoản nợ xấu nếu hợp đồng ủy quyền được xác lập trước ngày 01 tháng 01
năm 2017 giữa tổ chức, cá nhân chưa hoặc đang được thực hiện mà có nội
dung, hình thức phù hợp với quy định của BLDS năm 2015 và tại thời điểm
Tòa án thụ lý vụ án không phát sinh tranh chấp về hợp đồng ủy quyền đó thì
Tòa án công nhận hiệu lực của hợp đồng ủy quyền mà không yêu cầu các bên
phải xác lập lại.
d) Về kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng
Về kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng, theo Nghị quyết số 03/2018/NQ-
HĐTP, bên mua khoản nợ xấu, khoản nợ có nguồn gốc từ khoản nợ xấu của
TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, V MC được kế thừa quyền, nghĩa vụ
tố tụng của bên bán theo quy định tại khoản 4 Điều 74 của BLTTDS.
Ngoài ra, đối với vụ án dân sự đang được Tòa án thụ lý, giải quyết theo
thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm, tái thẩm mà đương sự thực
hiện việc mua bán khoản nợ xấu, khoản nợ có nguồn gốc từ khoản nợ xấu,
Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án
66
theo thủ tục chung và căn cứ vào hợp đồng mua bán nợ để bổ sung việc xác
định tư cách đương sự, người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự
như sau:
Thứ nhất, trường hợp bên mua một phần khoản nợ xấu, khoản nợ có
nguồn gốc từ khoản nợ xấu được kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng và xác định
tư cách đương sự như bên bán đối với phần khoản nợ đã mua. Tòa án ghi trong
các văn bản tố tụng tư cách của bên mua là “người kế thừa một phần quyền,
nghĩa vụ tố tụng” của bên bán (ghi rõ tên của bên bán nợ);
Thứ hai, trường hợp bên mua toàn bộ khoản nợ xấu, khoản nợ có nguồn
gốc từ khoản nợ xấu được kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ tố tụng và xác định
tư cách đương sự thay thế cho bên bán. Tòa án ghi trong các văn bản tố tụng tư
cách của bên mua là “người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng” của bên bán (ghi
rõ tên của bên bán nợ); Kể từ ngày Tòa án nhận được các tài liệu, chứng cứ
xác định hợp đồng mua bán nợ có hiệu lực, bên mua đã xác lập được quyền sở
hữu đối với tài sản mua theo quy định của pháp luật thì văn bản tố tụng phải
ghi bên mua là người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bên bán. Đồng thời, Nghị
quyết số 03/2018/NQ-HĐTP đưa ra ví dụ để làm rõ nội dung này, cụ thể: Ngân
hàng thương mại cổ phần là nguyên đơn trong vụ án “Tranh chấp về nghĩa
vụ giao tài sản bảo đảm”. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, Ngân hàng
thương mại cổ phần A bán toàn bộ khoản nợ xấu và quyền yêu cầu chuyển
giao tài sản bảo đảm cho Công ty trách nhiệm hữu hạn B. Kể từ ngày nhận
được các tài liệu, chứng cứ xác định bên mua đã xác lập quyền đòi khoản nợ
xấu đó thì Tòa án xác định Công ty trách nhiệm hữu hạn B là người kế thừa
quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn và văn bản tố tụng ghi: “Nguyên đơn:
Ngân hàng thương mại cổ phần A, trụ sở tại...; Công ty trách nhiệm hữu hạn B,
trụ sở tại... là người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của Ngân hàng thương mại
cổ phần ; người đại diện hợp pháp của nguyên đơn là ông Nguyễn Văn C -
Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn B”.
e) Về hướng dẫn chuyển tiếp
67
Để bảo đảm tính thống nhất trong áp dụng pháp luật, Nghị quyết số
03/2018/NQ-HĐTP quy định chuyển tiếp trong 03 trường hợp:
Một là, đối với những vụ án tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm
của khoản nợ xấu mà Tòa án đã thụ lý trước khi Nghị quyết này có hiệu lực thi
hành nhưng chưa xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm hoặc xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm thì áp dụng hướng dẫn của Nghị quyết này để giải quyết. Các
hoạt động tố tụng đã được tiến hành trước khi Nghị quyết này có hiệu lực mà
phù hợp với quy định của BLTTDS thì không phải thực hiện lại.
Hai là, đối với những vụ án tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm
của khoản nợ xấu mà Tòa án đã thụ lý trong thời gian Nghị quyết này có hiệu
lực thi hành nhưng vẫn đang giải quyết khi Nghị quyết này hết hiệu lực thi
hành thì Tòa án vẫn tiếp tục áp dụng những hướng dẫn của Nghị quyết này để
giải quyết.
Ba là, đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành thì không áp dụng hướng dẫn
của Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm,
trừ trường hợp kháng nghị vì lý do khác.
Bên cạnh các nội dung cơ bản trên đây, Nghị quyết số 03/2018/NQ-
HĐTP cũng quy định về nguyên tắc áp dụng pháp luật, theo đó, trường hợp có
sự khác nhau giữa Nghị quyết này và Nghị quyết khác hướng dẫn thi hành
BLTTDS về cùng một vấn đề thì áp dụng hướng dẫn tại Nghị quyết này.
2.5. Thực trạng và đánh giá về tình hình giải quyết vụ
án dân sự, tranh chấp Hợp đồng tín dụng tại Tòa án hiện nay
và những yếu tố cơ bản ảnh hƣởng tới chất lƣợng bản án
2.5.1. Thực trạng giải quyết các vụ án dân sự hiện nay
Theo số liệu thống kê tại Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
trước Quốc hội hàng năm thì tính trung bình 05 năm gần đây, m i năm các Tòa
án nhân dân đã giải quyết trên 350.000 vụ việc dân sự, KDTM, HNGĐ và LĐ.
Trong đó vụ việc về kinh doanh, thương mại đều chiếm từ trên 17 nghìn vụ
68
việc trở lên; tỷ lệ các vụ việc mà Tòa án phải giải quyết hàng năm tăng khoảng
15%; các vụ việc về kinh doanh, thương mại và lao động có tỷ lệ tăng cao hơn
so với các vụ việc dân sự khác. Cụ thể:
- Năm 2019: thụ lý 496.770 vụ việc; đã giải quyết, xét xử được 387.428
vụ việc, đạt tỷ lệ 78% Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công
tác của các Tòa án trước Quốc hội, số 59/BC-TA ngày 10/10/2019).
- Năm 2018: thụ lý 446.224 vụ việc; đã giải quyết, xét xử được 345.98
vụ việc, đạt tỷ lệ 77,5% Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về
công tác của các Tòa án trước Quốc hội, số 50/BC-TA ngày 12/10/2018).
- Năm 2017: thụ lý 395.317 vụ việc, đã giải quyết, xét xử 356.586 vụ
việc, đạt tỷ lệ 90,2% Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công
tác của các Tòa án trước Quốc hội, số 39/BC-TA ngày 10/10/2017).
- Năm 2016: thụ lý 359.748 vụ việc, đã giải quyết, xét xử 332.896 vụ
việc, đạt tỷ lệ 92,5% Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công
tác của các Tòa án trước Quốc hội, số 5/BC-TA ngày 12/10/2016).
- Năm 2015: thụ lý 333.159 vụ việc, đã giải quyết, xét xử 308.585 vụ
việc, đạt 92,6% Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác
của các Tòa án trước Quốc hội, số 54/BC-TA ngày 09/10/2015).
Về án KDTM, các Tòa án thụ lý, giải quyết cụ thể như sau:
- Năm 2015 thụ lý 18.790 vụ việc; giải quyết, xét xử 16.228 vụ việc, đạt
tỷ lệ 86,4%.
- Năm 2016 thụ lý 17.593 vụ việc; giải quyết, xét xử 14.792 vụ việc, đạt
tỷ lệ 84,1%.
- Năm 2017 thụ lý 17.630 vụ việc; giải quyết, xét xử 13.442 vụ việc, đạt
tỷ lệ 76,2%. So với năm 2016 số thụ lý tăng 37 vụ việc, số giải quyết giảm
1.350 vụ việc.
- Năm 2018 thụ lý 17.624 vụ việc; giải quyết, xét xử 10.625 vụ việc, đạt
tỷ lệ 60,3%. So với năm 2017 số thụ lý giảm 6 vụ việc, số giải quyết giảm
2.817 vụ việc.
69
- Năm 2019 thụ lý 17.956 vụ việc; giải quyết, xét xử 11.269 vụ việc,
đạt tỷ lệ 62,7%. So với c ng kỳ năm 2018 số thụ lý tăng 1.910 vụ việc, số giải
quyết tăng 1.785 vụ việc.
Từ các số liệu trên ta thấy, số lượng các vụ án dân sự, HNGĐ, KDTM
và LĐ mà Tòa án nhân dân thụ lý và giải quyết là rất lớn. Trong tổng số các vụ
án mà toàn ngành Tòa án thụ lý, giải quyết nêu trên có không ít những vụ án có
chứng cứ rõ ràng, nội dung tranh chấp đơn giản, bị đơn thừa nhận hoặc không
phản đối yêu cầu của nguyên đơn, vụ án có giá ngạch thấp nhưng vẫn phải giải
quyết theo trình tự thủ tục tố tụng thông thường gây mất thời gian, tiền bạc,
công sức của cơ quan tố tụng và các đương sự. Hơn nữa, có rất nhiều các vụ án
bị đơn cố tình không thực hiện nghĩa vụ, lạm dụng quyền kháng cáo để kéo dài
thời gian giải quyết vụ án góp phần làm cho tình trạng án tồn đọng kéo dài và
gây sức ép không nh cho cán bộ nhất là các Thẩm phán đã giải quyết vụ án.
Ví dụ: Vụ án Phạm Văn Quang kiện Ngân hàng thương mại cổ phần
ngoại thương Việt Nam VCB) ra T ND quận 1, thành phố Hồ Chí Minh yêu
cầu bị đơn trả lại số tiền rất nh là 5.500 đồng phí TM. Theo nội dung vụ
kiện thì ngày 03/4/2013, nguyên đơn đến trụ TM của VCB đặt ở Quang
Trung Gò Vấp) để rút 15 triệu đồng. Những lần trước nguyên đơn chỉ cần
giao dịch ba lần m i lần rút được 05 triệu đồng) và chỉ mất phí rút tiền là
3.300 đồng. Tuy nhiên, thời điểm này trụ TM chỉ còn tiền mệnh giá 50.000
đồng nên nguyên đơn phải rút đến tám lần, m i lần rút 1.750.000 đồng và phải
chịu phí rút tiền là 8.800 đồng. Như vậy, so với mọi lần, nguyên đơn phải mất
thêm 5.500 đồng. Vì cho rằng đây là hành vi lừa dối khách hàng để thu lợi
thêm nên nguyên đơn làm đơn khởi kiện. Sau gần một năm thụ lý, ngày
23/01/2014 T ND quận 1, thành phố Hồ Chí Minh đã đưa vụ án ra xét xử sơ
thẩm bác yêu cầu của nguyên đơn đòi bị đơn trả lại 5.500 đồng phí TM.
Chính vì TTRG chưa được áp dụng nên những vụ án đơn giản, giá trị tranh
chấp chỉ 5.500 đồng mà gần một năm sau vụ việc mới được giải quyết, gây ảnh
hưởng đến quyền lợi của nguyên đơn cũng như uy tín của ngân hàng.
70
Với tình trạng án gia tăng và tồn đọng nhiều như hiện nay, ngành Tòa án
đã phải chịu một áp lực không nh từ công việc. Để khắc phục tình trạng này,
việc áp dụng TTRG để giải quyết nhanh chóng, đúng pháp luật những vụ án có
nội dung đơn giản, rõ ràng, có giá ngạch thấp như trên là điều rất cần thiết và
hợp lý.
Từ những phân tích nêu trên có thể thấy rằng, việc áp dụng TTRG trong
tố tụng dân sự là một bước chuyển biến mang tính cải cách quan trọng trong
quá trình đổi mới thủ tục tố tụng dân sự ở nước ta. Tuy nhiên, các quy định về
thủ tục tố tụng rút gọn mới chỉ mới được đưa vào BLTTDS năm 2015 và áp
dụng từ ngày BLTTDS 2015 có hiệu lực 01/7/2016), các quy định hướng dẫn
áp dụng thủ tục này còn chưa có, trong khi việc giải quyết các vụ án xảy ra trên
thực tế không phải lúc nào cũng có thể “dễ dàng” để áp dụng thủ tục này. Hơn
nữa, vì là quy định định mới cho nên tâm lý người Thẩm phán dường như vẫn
đang còn “e dè” trong việc áp dụng. Do đó, trong thời gian tới, cần có những
hướng dẫn cụ thể của T ND tối cao về cách thức áp dụng và điều kiện bắt
buộc phải áp dụng TTRG trên thực tế để cho thủ tục này thực sự phát huy được
vai trò, hiệu quả trong việc giải quyến các vụ án dân sự.
2.5.2. Đánh giá về tình hình giải quyết tranh chấp Hợp đồng tín dụng
tại Tòa án hiện nay
Quốc hội khoá X kỳ họp thứ X đã thông qua Luật các tổ chức Tòa án
nhân dân vào ngày 2/4/2002. Điều 1 của Luật quy định thẩm quyền của Tòa án
nhân dân xét xử các vụ án hình sự, hôn nhân – gia đình, hành chính, dân sự,
kinh tế và giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó,
BLTTDS 2004 được ban hành và có hiệu lực từ 1/1/2005. Qua mấy năm hoạt
động và thực hiện BLTTDS, các Tòa án nhân dân các cấp có thẩm quyền đã
từng bước vận dụng tối ưu các quy định của pháp luật để giải quyết các tranh
chấp. Việc giải quyết đã góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các
chủ thể kinh doanh, đảm bảo công khai, trực tiếp, bước đầu tạo niềm tin cho
các bên tranh chấp vào phương thức giải quyết tại Tòa án theo thủ tục tố tụng
71
dân sự. Tình hình thụ lý và giải quyết các tranh chấp HĐTD thời gian qua đã
có nhiều chuyển biến. Tranh chấp HĐTD chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các vụ
án đã thụ lý và giải quyết tại toà kinh tế. Năm 1999 chiếm 32,16%, năm 2000
chiếm 42,58% và 8 tháng 2001 chiếm 38,8%. Tỷ lệ các bản án, quyết định bị
huỷ là 2%, bị sửa là 3%. So với 2005, tỷ lệ các bản án, quyết định bị huỷ giảm
0,5%, bị sửa giảm 0,9%. Trong đó, tỷ lệ các bản án, quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm bị huỷ để giải quyết chiếm 2,3%, bị sửa chiếm 3,4%, tỷ lệ các bản án,
quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm bị huỷ chiếm 3,2%.
Qua thực tiễn giải quyết các tranh chấp HĐTD tại Tòa án thời gian qua
đã đạt được những kết quả nhất định. Cụ thể là:
Một là, BLTTDS đã quy định chi tiết về thời hạn Tòa án phải trả lời
nguyên đơn 5 ngày kể từ ngày Tòa án nhận được đơn khởi kiện), thời hạn
chuẩn bị xét xử từ 2 – 4 tháng) và thời hạn mở phiên toà sơ thẩm từ 1- 2
tháng kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử). Quy định này đã nâng cao
trách nhiệm của các Tòa án trong quá trình giải quyết các vụ án tranh chấp
HĐTD .
Hai là, việc giải quyết tranh chấp HĐTD đã được thống nhất theo một
thủ tục tố tụng chung- thủ tục tố tụng dân sự. Điều này đã khắc phục được hạn
chế lớn trước đây trong giải quyết tranh chấp HĐTD. Trước khi có BLTTDS,
Tòa án phải mất nhiều thời gian để xác định tranh chấp HĐTD cần được giải
quyết là vụ án dân sự hay tranh chấp kinh tế đ dụng quy định của Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án dân sự hay kinh tế. Hiện nay, vấn đề này không đặt
ra nữa. Điều này, đã tiết kiệm được thời gian cho các cơ quan tư pháp và cho
chính các bên tranh chấp.
Ba là, Tòa án nhân dân các cấp đã không ngừng nâng cao chất lượng xét
xử, làm rõ những yêu cầu của đương sự trong vụ án, tăng cường phối hợp với
các cơ quan hữu quan để giải quyết vụ án.
Bốn là, công tác giải quyết tranh chấp về cơ bản được thực hiện đúng
các quy định của pháp luật, góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
72
các bên tranh chấp.
Năm là, tình trạng sai phạm của các cán bộ ngành Tòa án đã bước đầu
được xử lý và tiến hành bồi thường cho các đối tượng bị xử oan sai, đảm bảo
thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Mặc d đã đạt được những kết quả nêu trên nhưng hoạt động của Tòa án
đối với giải quyết các tranh chấp HĐTD vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế khiến
quá trình giải quyết còn chưa thực sự có hiệu quả. Đó là:
Tình trạng để các vụ tranh chấp quá thời hạn không được giải quyết.
Theo báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án thì tình trạng này chiếm tỷ lệ cao
chủ yếu tập trung ở Tòa án cấp sơ thẩm, một số đơn vị còn nhiều vụ tranh chấp
tồn đọng như các Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện của thành phố Hồ Chí
Minh, Đồng Nai, Bến Tre…điều đáng chú ý là thành phố Hồ Chí Minh là
trung tâm kinh tế của cả nước nhưng lại là nơi có số lượng án tồn đọng nhiều
nhất cả nước.
Nhiều vụ tranh chấp để kéo dài, qua nhiều lần xét xử vẫn không tìm
được phương án giải quyết thoả đáng, làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của
các bên. Vẫn còn tình trạng một số bản án của Tòa án không rõ ràng, gây khó
khăn cho việc đảm bảo bản án của toà được thi hành.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, do việc nghiên cứu tài liệu, chứng
cứ không đầy đủ, rõ ràng, đánh giá chứng cứ không đúng với sự thật khách
quan, thậm chí có Thẩm phán còn xác định sai tư cách tố tụng của đương sự
hoặc triệu tập không đầy đủ những người bắt buộc phải tham gia phiên toà dẫn
đến nhiều phiên toà vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và kết quả là bản án
được tuyên bị huỷ vì vi phạm nghĩa vụ tố tụng.
Công tác thụ lý và giải quyết theo thủ tục phúc thẩm còn chậm, nhiều
bản án phúc thẩm còn giải quyết chưa thoả đáng, việc phát hiện những sai sót
của Tòa án sơ thẩm còn chưa tiến hành kịp thời để đưa ra những giải pháp
khắc phục. Số lượng bản án phúc thẩm bị xét lại theo tủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm còn chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng số vụ án thụ lý giải quyết. Việc tố
73
tụng chậm, sai, phiền hà đã ảnh hưởng tiêu cực tới các bên trong HĐTD. Đối
với các TCTD cho vay, việc giải quyết tranh chấp HĐTD kéo dài, bên cho vay
không thu hồi được vốn cho vay, ảnh hưởng tới hoạt động của tổ chức đó. Còn
đói với bên vay, tranh chấp kéo dài có thể làm cho việc ký kết những hợp đồng
vay với các TCTD cho vay khác để mở rộng nguồn vốn kinh doanh gặp khó
khăn. Ngoài ra, thủ tục tố tụng phiền hà còn tạo tâm lý e ngại sử dụng thủ tục
này của các bên trong tranh chấp HĐTD.
Đối với công tác giám đốc thẩm, tái thẩm và giải quyết khiếu nại vẫn
chưa đảm bảo được những quy định của pháp luật. Công tác kiểm tra, giám
đốc của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới còn hạn chế, nên chưa kịp
thời phát hiện các vi phạm để khắc phục và xử lý.
Một số văn bản pháp luật đã có hiệu lực thi hành trong một thời gian khá
dài nhưng nhiều quy định trong các văn bản đó chưc được Tòa án nhân dân tối
cao, VKSND nhân dân tối cao c ng các cơ quan hữu quan trong phạm vi thẩm
quyền ban hành những văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành nên có tình trạng
các toà áp dụng không thống nhất và kết quả các bản án hoàn toàn trái ngược
nhau giữa các toà.
Đội ngũ cán bộ Tòa án hiện nay còn thiếu về số lượng và yếu kém về
năng lực, có một số cán bộ Tòa án sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm
nghề nghiệp chưa cao nên đã có những hành vi vi phạm làm ảnh hưởng không
nh tới danh dự, uy tín của ngành tư pháp. Năm 2006, đã có 21 cán bộ Tòa án
bị xử lý kỷ luật, trong đó có 9 Thẩm phán, có 4 trường hợp bị truy cứu trách
nhiệm hình sự. Sự yếu kém về năng lực chuyên môn, không vững vàng về
quan điểm lập trường chính trị đã đưa đến nhiều hậu quả đáng tiếc ảnh hưởng
tới chất lượng xét xử cũng như uy tín của ngành Tòa án.
Hiện nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của Tòa án
còn nhiều hạn chế. Quá trình giải quyết các tranh chấp còn mất nhiều thời gian,
nhiều loại chi phí, nhiều đầu mối trung gian trong khi đó lĩnh vực tài chính
ngân hàng là lĩnh vực nhạy cảm yêu cầu giải quyết nhanh gọn để các bên có
74
thể tiến hành hoạt động bình thường.
Những hạn chế tồn tại trên do nhiều nguyên nhân trong đó các nguyên
nhân chủ quan là chủ yếu. Tinh thần trách nhiệm trong công tác xét xử, năng
lực quản lý và điều hành của các cán bộ ngành Tòa án, nhất là Tòa án địa
phương các quận, huyện còn nhiều hạn chế. Trình độ của các Thẩm phán còn
chưa đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn. Ở nhiều Tòa án, công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ làm nguồn bổ nhiệm Thẩm phán còn chưa được chú trọng
đúng mức.
Ngoài ra, pháp luật của Việt Nam đang trong quá trình sửa đổi, bổ sung
để dần dần hoàn thiện. Vì thế, nhiều Bộ luật, luật được ban hành mà chưa có
văn bản dưới luật hướng dẫn chi tiết thi hành, nhiều quy định chồng chéo
không thực hiện được trên thực tế hoặc được áp dụng không thống nhất trong
hệ thông cơ quan tư pháp.
2.5.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng bản án
Thứ nhất, yếu tố đầu tiên và có ý nghĩa quyết định đến chất lượng bản án
là nhân tố con người mà trực tiếp là đội ngũ các Thẩm phán và hội thẩm nhân
dân – những người tham gia hoạt động xét xử tại phiên toà. Một bản án d
được nghị án thông qua trên cơ sở những quy định của pháp luật nhưng suy
cho c ng những quy định đó được hiểu và áp dụng thông qua lăng kính chủ
quan của con người – những thành viên trong hội đồng xét xử. Vì thế, các
Thẩm phán phải là những người có đầy đủ kiến thức về chuyên môn, am hiểu
kiến thức xã hội, có lập trường quan điểm tư tưởng vững vàng mới có thể đánh
giá đúng sự thật khách quan và đưa ra những phương án giải quyết vụ án theo
quy định của pháp luật.
Hiện nay, trình độ của các Thẩm phán còn bất cập như chưa đáp ứng về
chuyên môn, khả năng ngoại ngữ, kinh nghiệm xét xử nên trong những vụ
tranh chấp có yếu tố nước ngoài công tác giải quyết gặp rất nhiều khó khăn.
Không chỉ các Thẩm phán mà m i cá nhân các hội thẩm nhân dân khi tham gia
xét xử cũng phải trang bị những kiến thức pháp luật cần thiết để có thể xét xử
75
độc lập với Thẩm phán và tuân theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ hai, đó là hoạt động cung cấp chứng cứ, tài liệu và việc chứng minh
của các chủ thể liên quan, nhất là các đương sự. Trước Tòa án, nếu các đương
sự không chứng minh được sự tồn tại quyền và lợi ích hợp pháp của họ thì
không thể thuyết phục được Tòa án bảo vệ quyền cho mình. Vì trên thực tế,
các Tòa án cũng có thể có sai lầm trong việc xác định các tình tiết, sự kiện của
vụ tranh chấp. Vì lý do này, một mặt dẫn tới việc giải quyết vụ án không đúng
với sự thật khách quan, mặt khác làm cho đương sự không bảo vệ được quyền
lợi của mình. Do vậy, chứng minh không chỉ có ý nghĩa bảo đảm quyền cho
đương sự mà còn có ý nghĩa giúp hội đồng xét xử có những căn cứ pháp lý để
giải quyết vụ án một cách chính xác và đúng luật.
Thứ ba, thực trạng các quy định của pháp luật. Để có một bản án tốt thì
nhất thiết các quy định của pháp luật phải thống nhất, được hiểu một cách nhất
quán tránh tình trạng các Toà rất lúng túng trong áp dụng những quy định
trong các luật liên quan. Những quy định trong các luật, Bộ luật mới dừng lại ở
việc quy định những nguyên tắc chung mang tính định hướng cho từng lĩnh
vực chuyên ngành đó. Vì thế, để thống nhất trong cách hiểu và các cơ quan tư
pháp nhất quán trong áp dụng giải quyết tranh chấp các văn bản pháp luật phải
rõ ràng, minh bạch hoặc phải kịp thời được hướng dẫn.
Thứ tư, vai trò của người tham gia tố tụng cũng góp phần quyết định tới
chất lượng bản án. Theo quy định của BLTTDS, đối với những phiên toà sơ
thẩm sự có mặt của một số người tham gia tố tụng là bắt buộc. Nhưng trên
thực tế, có nhiều phiên toà xét xử đã vi phạm nguyên tắc này, kết quả là Tòa án
đã tuyên bản án vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Đối với những bản án
như vậy, Tòa án cấp trên sẽ phải xử huỷ để xét xử lại tốn nhiều thời gian và chi
phí cho các bên cũng như cho Nhà nước.
Thứ năm, sự giám sát của VKSND đối với những hoạt động tố tụng của
Tòa án trong quá trình giải quyết tranh chấp cũng là một yếu tố ảnh hưởng tới
chất lượng bản án. VKSND thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
76
việc giải quyết tranh chấp HĐTD thông qua những hoạt đông như: kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp HĐTD của Tòa án
như kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ, hoà giải, xét xử, ra bản án; kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc tham gia tố tụng của những người tham gia tố
tụng và những người liên quan trong quá trình giải quyết các tranh chấp
HĐTD; yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị các bản án, quyết định của Tòa án theo
quy định của pháp luật nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án được kịp thời,
đúng pháp luật; tham gia các phiên toà xét xử vụ án tranh chấp HĐTD; kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của đương sự, cơ quan thi hành án, chấp hành viên,
cá nhân và tổ chức liên quan đến thi hành án. Sự tham gia của VKSND có ý
nghĩa quan trọng, để hoạt động tố tụng tại toà được đảm bảo tuân thủ đúng
77
pháp luật, nâng cao trách nhiệm của Tòa án đối với quá trình giải quyết.
Kết luận Chƣơng 2
Để thể chế hóa đường lối cải cách tư pháp về “đổi mới thủ tục hành
chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án các cấp nhằm tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho người dân khi có công việc tại Tòa án” và cụ thể hóa quy định của
Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức T ND năm 2014 về việc Tòa án xét xử
tập thể, trừ trường hợp xét xử theo TTRG, BLTTDS năm 2015, có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/7/2016, mà trong đó, phần thứ tư BLTTDS 2015 có quy định
về điều kiện áp dụng TTRG và trình tự thủ tục giải quyết vụ án theo TTRG tại
Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm. Quy định này đáp ứng yêu cầu đã đặt ra về cải
cách tư pháp của Đảng và Nhà nước, đáp ứng yêu cầu thực tế về việc đảm bảo
không để tình trạng án tồn, án kéo dài gây bức xức dư luận, đồng thời đảm bảo
được quyền và lợi ích của nhân dân được nhanh chóng, kịp thời và tiết kiệm
78
được chi phí tố tụng cho nhân dân.
Chƣơng 3
THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
DÂN SỰ THEO THỦ TỤC RÚT GỌN TẠI TÒA ÁN, MỘT SỐ VẤN ĐỀ
QUA HIỆN TRẠNG XỬ LÝ NỢ CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
BẰNG HÌNH THỨC KHỞI KIỆN TẠI TÒA ÁN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN QUY ĐỊNH VỀ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ
TỤC RÚT GỌN
3.1. Những hạn chế và khó khăn khi áp dụng các quy định về thủ
tục rút gọn
3.1.1. Những hạn chế và khó khăn khi áp dụng quy định về điều kiện
áp dụng thủ tục rút gọn giải quyết vụ án dân sự
- Điều kiện thứ nhất: Vụ án có tình tiết đơn giản, quan
hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu,
chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa
án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ, khoản 1 Điều 317
BLTTDS năm 2015.
Hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể nào về cách hiểu thế nào là “vụ án
có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng”, điều này làm cho việc áp
dụng quy định này để xem xét vụ án nào đủ điều kiện áp dụng TTRG giải
quyết gặp rất nhiều khó khăn, thiếu sự đồng nhất giữa các Tòa án. Và việc
chưa có cách hiểu cụ thể về điều kiện này cũng gây ra khó khăn cho đương sự
trong việc lựa chọn thủ tục tố tụng rút gọn để giải quyết tranh chấp
Để áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn giải quyết vụ án dân sự thì điều kiện
tiếp theo là “đương sự trong vụ án đó phải thừa nhận nghĩa vụ của mình”. Trên
thực tế để đương sự trong vụ án thừa nhận nghĩa vụ của mình là rất khó khăn.
Qua thực tiễn xét xử vụ án dân sự, HNGĐ, KDTM, LĐ của ngành Tòa án cho
thấy những tranh chấp được gửi đến Tòa án thì thường bị đơn ngay từ đầu sẽ
79
không thừa nhận nghĩa vụ của mình. Họ chỉ thừa nhận nghĩa vụ của mình khi
đã được Tòa án báo họ lên Tòa án để giải quyết. Sở dĩ như vậy là do đối với vụ
án dân sự đã được gửi đến Tòa án thường là những tranh chấp mà các đương
sự thường đã không có tiếng nói chung, không thể thống nhất với nhau về việc
giải quyết nghĩa vụ của các bên, mâu thuẫn giữa các bên đã rất căng thẳng, do
vậy, để ngay từ đầu đương sự thừa nhận nghĩa vụ của mình là rất khó. Chính vì
vậy, để áp ứng được điều kiện “, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ” là rất khó
khăn.
- Điều kiện thứ 2: Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư
trú, trụ sở rõ ràng.
Hiện nay vẫn có cách hiểu không thống nhất nhau về việc xác định nơi
cư trú của các đương sự. Theo luật cư trú năm 2006 thì yêu tố có đăng ký
thường trú hoặc tạm trú vẫn được coi là yếu tố để xác định nơi cư trú của
đương sự. Trong trường hợp không xác định được nơi thường trú hay tạm trú
của đương sự thì nơi cư trú của đương sự là nơi đương sự đang sinh sống. Còn
đối với BLDS năm 2015 thì nơi cư trú ở đây được hiểu là nơi người đó thường
xuyên sinh sống, nếu không xác định được nơi người đó thường xuyên sinh
sống thì nới cư trú là nới người đó đang sinh sống. Do vậy để áp dụng điều
kiện này được chính xác thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có quy định
rõ về cách xác định nơi cư trú của đương sự cho thống nhất
Trường hợp, nguyên đơn gửi đơn khởi kiện đến Tòa án thì bị đơn vẫn có
nơi cư trú rõ ràng và sau khi Tòa án thụ lý và chọn áp dụng TTRG để giải
quyết vụ án. Nhưng sau đó bị đơn lại trốn tránh nên lại không xác định được
nơi cư trú rõ ràng của bị đơn thì trường hợp này sẽ phải giải quyết như thế nào.
Theo ý tác giả thì trong trường hợp này nếu nguyên đơn đã cũng cấp đầy đủ tài
liệu, chứng cứ để chứng minh đầy đủ, rõ ràng nghĩa vụ của bị đơn thì Tòa án
vẫn áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn để giải quyết vụ án này.
3.1.2. Những hạn chế và khó khăn khi áp dụng thủ tục rút gọn để giải
quyết vụ án dân sự
80
- Về thời hạn chuẩn bị xét xử:
Đối với TTRG thì Thẩm phán trong vòng một tháng bắt buộc chỉ được
ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Quy định này đã rút ngắn thời hạn chuẩn bị
xét xử theo TTRG so với thủ tục thông thường. Tuy nhiên, với quy định này
thì thời gian vụ án dân sự giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường có thể
được rút ngắn hơn so với giải quyết theo TTRG. Cụ thể với trường hợp giải
quyết theo thủ tục TTDS thông thường mà sau khi thụ lý các đương sự th a
thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án thì Thẩm phán
được phân công giải quyết vụ án ra quyết định công nhận sự th a thuận của
các đương sự sau thời gian 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành.
Nếu để giải quyết theo TTRG thì thời gian này tối thiểu là 01 tháng.
- Về thủ tục khiếu nại, kiến nghị về quyết định đưa vụ
án ra xét xử theo TTRG:
Việc quy định thêm thủ tục khiếu nại, kiến nghị về quyết định đưa vụ án
ra xét xử đối với TTRG sẽ làm mất đi bản chất của TTRG, xét xử nhanh
chóng, kịp thời.
- Về trình tự thủ tục tố tụng tại phiên Tòa xét xử dân
sự sơ thẩm theo TTRG: Trước khi tiến hành xét xử vụ án dân sự
theo TTRG thì Tòa án bắt buộc phải tiến hành hòa giải, trừ trường
hợp không được hòa giải theo quy định hoặc không tiến hành hòa
giải. Trường hợp các đương sự không th a thuận được với nhau
về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán mới tiến
hành xét xử. Vậy với những trường hợp vụ án sau khi đã khai mạc
phiên tòa mà vụ án không hòa giải được hoặc không được hòa
giải thì vụ án sẽ được giải quyết như thế nào. Có thể trong trường
hợp này chúng ta có thể ngầm hiểu là sẽ b qua thủ tục tiến hành
hòa giải và tiến hành xét xử, tuy nhiên để việc áp dụng quy định
được đồng bộ thì chúng ta cần có những hướng dẫn cụ thể về ấn
đề này.
81
Trong trường hợp các bên không th a thuận được với nhau về vấn đề
giải quyết vụ án thì Thẩm phán tiến hành xét xử. Việc trình bày, tranh luận, đối
đáp, đề xuất quan điểm về việc giải quyết vụ án được thực hiện theo quy định
tại Mục 3 Chương XIV của BLTTDS. Tuy nhiên, trước đó trong phiên hòa giải
Tòa án đã nghe các bên đương sự trình bày quan điểm và quan điểm giải quyết
vụ án của họ. Do vậy, khi xét xử vụ án chúng ta có thể b thủ tục nghe các bên
trình bày, đề xuất quan điểm về việc giải quyết vụ án.
- Về hiệu lực của bản án: Điều kiện để áp dụng TTRG
để giải quyết vụ án dân sự là “Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ
pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng
cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án
không phải thu thập tài liệu, chứng cứ…”, Điều 317 BLTTDS
2015. Vụ án dân sự th a mãn điều kiện như vậy thì việc giải quyết
vụ án đã không còn khó khăn, phúc tạp và việc Thẩm phán giải
quyết vụ án sẽ hầu như là đảm bảo được công bằng, đúng quy
định của pháp luật. Và với việc giải quyết theo TTRG là phải đảm
bảo việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, kịp thời Do vậy,
BLTTDS 2015 quy định đối với bản án sơ thẩm đã có hiệu lực
pháp luật hay với bản án phúc thẩm vẫn bị kháng nghị theo trình
tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm là không cần thiết
3.1.3. Những hạn chế và khó khăn về điều kiện phục vụ công tác xét
xử của Tòa án theo thủ tục rút gọn
Trong những năm qua, T ND đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, cơ
sở vật chất, trang thiết bị làm việc của ngành đã được tăng cường, nhưng so
với yêu cầu của cải cách tư pháp thì vẫn chưa đáp ứng được. Nhiều T ND cấp
quận, huyện hiện nay vẫn chỉ có duy nhất một phòng xử án, cơ sở vật chất
trong phòng xử án đã xuống cấp; số lượng biên chế Thẩm phán, thư ký ở một
số Tòa còn thiếu. Năng lực chuyên môn của một số Thẩm phán còn chưa đáp
ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
82
3.2. Một số vấn đề liên quan đến thủ tục rút gọn qua
thực tiễn xử lý nợ của các tổ chức tín dụng bằng hình thức
khởi kiện tại Tòa án
Theo quy định của BLTTDS, thủ tục tố tụng thông thường hiện nay
được Tòa án áp dụng để giải quyết tất cả các tranh chấp dân sự kéo dài từ 04
tháng đến 06 tháng. Tại TAND, chỉ có một thủ tục TTDS chung và duy nhất
cho việc giải quyết tất cả các loại tranh chấp dân sự theo quy định của
BLTTDS. Như vậy, những vụ án đơn giản, có chứng cứ rõ ràng, bị đơn không
phản đối, giá ngạch thấp nhưng vẫn được giải quyết theo thủ tục tố tụng thông
thường gây lãng phí thời gian, chậm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, gây tốn kém cho Nhà nước và các bên đương sự. Trong một số
trường hợp, các đương sự không thiện chí có thể lợi dụng thời hạn tố tụng này
để kéo dài thời gian giải quyết, gây bất lợi và thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp
pháp của đối phương. Đồng thời, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường đòi
h i các tranh chấp phải được giải quyết nhanh chóng, có hiệu quả. Đặc biệt đối
với những tranh chấp thương mại, tín dụng ngân hàng,… có hợp đồng công
chứng hợp pháp, quyền, nghĩa vụ của các bên rõ ràng, thì cần được giải quyết
nhanh chóng để đảm bảo tính thanh khoản và sinh lợi của đồng tiền. Việc giải
quyết mọi tranh chấp đều phải tuân theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, kéo dài
nên đã có những tác động không tốt đến quá trình quay vòng đồng vốn, nhất là
các tranh chấp liên quan đến tiền, vàng trong điều kiện giá cả thị trường luôn
luôn biến động.
Trong thực tiễn, loại vụ kiện nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa
vụ trả nợ theo hợp đồng vay tài sản mà bị đơn không phản đối thường xuất
hiện dưới các dạng cụ thể sau:
Trường hợp thứ nhất: Trong các hợp đồng vay tài sản hoặc tín dụng
giữa ngân hàng với các doanh nghiệp, hoặc với cá nhân vay tiêu dùng. Bên cho
vay khởi kiện đòi số tiền cho vay đã quá thời hạn trả theo hợp đồng và xuất
trình được văn bản hợp đồng có công chứng hợp pháp làm chứng cứ chứng
83
minh. Bên vay tài sản thừa nhận nghĩa vụ của mình, không phản đối yêu cầu
đòi nợ nhưng vì một lý do nào đó mà chưa thực hiện được nghĩa vụ này. Hầu
hết các hợp đồng vay của các doanh nghiệp hoặc cá nhân không phải vay tiêu
d ng đều có tài sản thế chấp. Tuy nhiên, thủ tục tố tụng giải quyết và xử lý tài
sản thế chấp này để thu hồi vốn rất phức tạp và mất nhiều thời gian gây ảnh
hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các TCTD. Hoặc những trường hợp cá
nhân vay tiêu d ng thường có tài khoản lương làm tín chấp, do đó, thực tế chỉ
cần lệnh yêu cầu thanh toán của Tòa án được ban hành làm căn cứ để các
TCTD có thể thu hồi nợ từ tài khoản lương của người vay nợ theo định kỳ
hoặc theo tháng. Nên thủ tục tố tụng thông thường nếu được áp dụng cho
những trường hợp này là không cần thiết vì quá rườm rà, phức tạp.
Trường hợp thứ hai: Người bảo lãnh trong hợp đồng vay tài sản đã thừa
nhận nghĩa vụ của mình nhưng không chịu thực hiện nghĩa vụ, viện lý do chưa
có điều kiện thanh toán.
Trường hợp thứ ba: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải thực
hiện nghĩa vụ thanh toán phát sinh từ hợp đồng. Bị đơn không phản đối việc
kiện nhưng không thực hiện nghĩa vụ.
Tác giả cho rằng, đối với những loại vụ kiện xuất hiện trong thực tiễn
như đã đề cập ở trên, Tòa án có thể nhanh chóng ra một phán quyết buộc bên
có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của mình mà không cần phải xét xử. Bản
chất của loại vụ kiện này là quan hệ tranh chấp về nghĩa vụ đã rõ ràng, không
có tranh tụng giữa các bên, nguyên đơn chỉ cần có một phán quyết chính thức
của Tòa án để làm cơ sở pháp lý thúc đẩy bị đơn phải thi hành nghĩa vụ của
mình hoặc yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành khi cần thiết. Trong
những trường hợp này, Tòa án ra một phán quyết buộc bị đơn phải thực hiện
một nghĩa vụ mang tính đương nhiên dựa trên cơ sở nghĩa vụ đó đã được xác
định theo hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật và chính bản thân bị đơn
đã thừa nhận nghĩa vụ này.
3.3. Kiến nghị phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện thủ tục rút
84
gọn ở Việt Nam
3.3.1. Kiến nghị phương hướng và giải pháp hoàn thiện về điều kiện
để áp dụng thủ tục rút gọn
- Về điều kiện “Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ
pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu,
chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa
án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ” cần có hướng dẫn cụ
thể để việc áp dụng được thống nhất và thuận tiện. Theo tác giả
các tranh chấp sau có thể được coi là th a mãn điều kiện này. Cụ
thể:
a. Đối với vụ án có đầy đủ chứng cứ, chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận
hoặc không phản đối nghĩa vụ hoặc vụ án có chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng
pháp luật đơn giản:
- Đối với vụ án có đầy đủ chứng cứ, chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận
hoặc không phản đối nghĩa vụ.
- Đối với vụ án có chứng cứ rõ ràng, việc áp dụng pháp luật đơn giản.
b. Nhưng vụ tranh chấp có giá ngạch thấp:
Việc xác định tranh chấp có giá ngạch thấp nên dựa vào giáo trị tài sản
tranh chấp và giá trị tài sản bao nhiêu thì chúng ta nên tính toán cho ph hợp
với mức sống bình quân hiện nay ở nước ta. Và việc xác định giá ngạch thấp
còn phải dựa trên sự tương quan giữa các v ng miền khác nhau. Theo tác giả
những vụ án dân sự có giá ngạch thấp sau đây nên có thể xem xét áp dụng
TTRG cho d bị đơn không thừa nhận nghĩa vụ của mình:
“a) Ly hôn mà hai bên đương sự mới kết hôn không lâu, tranh chấp tài
sản không lớn;
b) Tranh chấp về thời gian và số tiền cấp dưỡng;
c) Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà có sự thật rõ
ràng, trách nhiệm rõ ràng và giá trị bồi thương không lớn;
d) Tranh chấp về hợp đồng mà giá trị hợp đồng không lớn;
85
đ) Yêu cẩu bảo vệ người tiêu d ng;
e) Các tranh chấp khác mà có sự thật rõ ràng, tình tiết đơn giản, nội dung
tranh chấp rõ ràng, giá trị tranh chấp không lớn”.
3.3.2. Về điều kiện “Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ
ràng”
Đương sự có địa chỉ nơi cư trú rõ ràng được hiểu là việc xác định được
nơi đương sự thường trú hoặc đang sinh sống.
Với trường hợp, nguyên đơn gửi đơn khởi kiện đến Tòa án thì bị đơn
vẫn có nơi cư trú rõ ràng và sau khi Tòa án thụ lý và chọn áp dụng TTRG để
giải quyết vụ án. Nhưng trong quá trình giải quyết bị đơn lại trốn tránh nên lại
không xác định được nơi cư trú rõ ràng của bị đơn thì trường hợp này nếu
nguyên đơn đã cũng cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ để chứng minh đầy đủ, rõ
ràng nghĩa vụ của bị đơn thì Tòa án vẫn áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn để giải
quyết vụ án này.
Theo tác giả thì tại Điều 317 BLDS năm 2015 cần quy định thêm một
điều khoản quy định “các vụ kiện khác không thuộc trường hợp quy định tại
khoản 1 Điều này có thể được giải quyết theo thủ tục đơn giản nếu các đương
sự trong cùng vụ án có yêu cầu và được Tòa án xem xét là phù hợp để áp dụng
thủ tục TTDS để giải quyết vụ án đó
3.3.3. Kiến nghị phương hướng và giải pháp hoàn thiện quy định về
thủ tục rút gọn
- Về khởi kiện và thụ lý vụ án theo TTRG
Vì theo quy định về điều kiện giải quyết vụ án theo TTRG thì đương sự
phải có địa chỉ, nơi cứ trú, trụ sở rõ ràng nên yêu cầu bắt buộc là người khởi
phải có căn cứ để xác định địa chỉ của người bị khởi kiện. Hay cũng với điều
kiện đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ của mình thì khi nộp đơn khởi kiện Tòa
án phải yêu cầu người khởi kiện có văn bản hoặc tài liệu chứng minh việc
người bị khởi kiện thừa nhận nghĩa vụ của mình… Đối với vụ án đã được thụ
lý giải quyết theo TTRG, theo ý kiến tác giả phần gửi thông báo thụ lý vụ án
86
nên yêu cầu người khởi kiện giao thông báo thụ lý vụ án cho người bị khởi
kiện. Tòa án chỉ cấp thông báo thụ lý vụ án và biên bản cấp tống đạt thông báo
cho người khởi kiện, người khởi kiện giao lại cho người bị kiện và yêu cầu
người bị kiện ký vào biên bản cấp tông đạt. Sau khi người bị khởi kiện ký vào
biên bản cấp tống đạt thì người khởi kiện phải gửi ngay lại biên bản này cho
Tòa án.
- Về thủ tục tố tụng giải quyết vụ án dân sự theo TTRG
- Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử theo TTRG
Theo tác giả quy định tại khoản 1 Điều 318 BLTTDS 2015 về thời hạn
chuẩn bị xét xử đối với TTRG nên quy định như sau “Trong thời hạn không
quá 01 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án theo quy định tại khoản 3 và khoản 4
Điều 195 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án tuỳ
từng trường hợp ra một trong các quyết định sau đây:
a) Công nhận sự thoả thuận của các đương sự;
b) Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;
c) Giải quyết vụ án tạm thời
d) Đưa vụ án ra xét xử.
- Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có quyết định
đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa”.
- Phiên tòa xét xử vụ án theo TTRG
tác giả luận văn cho rằng đối với phiên tòa xét xử sơ thẩm theo thủ tục tố
tụng rút gọn không nhất thiết phải tiến hành đầy đủ các trình tự, thủ tục như
phiên tòa xét xử sơ thẩm theo thủ tục thông thường, đó là thủ tục h i, thủ tục
tranh luận, nghị án và tuyên án mà có thể giản lược các bước không cần thiết.
Cụ thể là:
+ Thủ tục bắt đầu phiên tòa.
+ Thẩm phán công bố lời khai của các đương sự cũng như các chứng cứ,
tài liệu mà các bên đưa ra.
+ Thủ tục tiến hành hòa giải tại phiên Tòa, thủ tục này không áp dụng
87
với vụ án không thể hòa giải, không được hòa giải hoặc đã tiến hành hòa giải
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
+ Thẩm phán h i các bên có muốn đối chất với nhau về nội dung khởi
kiện tại phiên tòa không. Nếu một trong các bên có yêu cầu thì Thẩm phán cho
các đương sự tranh luận với nhau về chứng cứ cho đến khi các bên không có
tranh luận gì;
+ Sau khi nghe các bên đối chất (nếu có) thì tùy từng trường hợp cụ thể,
Thẩm phán có thể công bố ngay quyết định của Tòa án về giải quyết vụ án
hoặc tạm ngừng phiên tòa để nghị án và công bố sau khi có kết quả chính thức.
- Về hiệu lực pháp luật của quyết định theo TTRG
Đối với những vụ án được giải quyết theo TTRG thì đây là những vụ án
có tình tiết đơn giản, tài liệu, chứng cứ đã quá đầy đủ, rõ ràng ….để chứng
minh cho quyền và nghĩa vụ của đương sự và việc Thẩm phán áp dụng các quy
định của pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án này khá đơn giản. Vì vậy, bản
án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm theo TTRG phần lớn là đảm bảo đúng
pháp luật, đảm bảo được quyền và lợi ích của đương sự, nếu có sai sót thì cũng
chỉ sai sót phần áp dụng thủ tục tố tụng để giải quyết vụ án. Mặt khác TTRG là
sự giản lược một số thủ tục so với thủ tục tố tụng thông thường để việc giải
quyết vụ án được nhanh chóng, kịp thời. Do vậy việc quy định đương sự có
quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị đối với bản án, quyết
định của Tòa án theo tác giả là không đủ để đảm bảo vụ án được giải quyết
đúng pháp luật. Việc quy định đương sự có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm
quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để giải quyết
theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm là không cần thiết. Bởi lẽ, đương sự
có thể lợi dụng quy định này nhằm kéo dài vụ án, trì hoãn việc thi hành nghĩa
vụ của mình. Để bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn thì cần
quy định “Trong thời hạn 07 ngày đương sự có quyền kháng cáo, viện kiểm sát
có quyền kháng nghị Bản án, quyết định sơ thẩm theo TTRG để xét xử theo
thủ tục phúc thẩm theo TTRG. Quyết định, bản án sơ thẩm không bị kháng
88
cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định, quyết định, Bản án phúc thẩm theo
TTRG sẽ có hiệu lực ngay, buộc các bên phải tôn trọng và thực hiện.
- Về chuyển hóa từ TTRG sang thủ tục tố tụng thông thường
Pháp luật nên quy định theo hướng trong quá trình giải quyết các vụ án
nói trên, nếu Tòa án phát hiện vụ án không còn tính chất đơn giản, rõ ràng nữa
thì Tòa án sẽ quyết định chuyển sang giải quyết theo thủ tục thông thường
nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của bên đương sự có nghĩa vụ. Do vậy,
ngoài những tình tiết được quy định tại khoản 3 Điều 317 BLTTDS thì cần ghi
nhận thêm một điểm “ f. Những tình tiết khác theo quy định của pháp luật.”.
3.3.4. Nâng cao nhận thức trách nhiệm của người tiến hành tố tụng
trong việc giải quyết án rút gọn, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng
nghiệp vụ của đội ngũ làm công tác pháp luật
Cần nâng cao nhận thức của người tiến hành tố tụng, nhất là phải nâng
cao nhận thức của Thẩm phán về mục đích, ý nghĩa của TTRG. Phải xác định
việc áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn đối với những vụ án có đủ điều kiện không
chỉ là thẩm quyền mà là trách nhiệm của Tòa án. Đặc biệt, thủ tục xét xử tại
phiên tòa theo TTRG sẽ chỉ do một Thẩm phán chịu trách nhiệm giải quyết,
thời gian giải quyết án rút ngắn hơn so với thủ tục tố tụng thông thường, thủ
tục tố tụng được giản lược nên yêu cầu về trách nhiệm, năng lực, kinh nghiệm
và k năng của Thẩm phán càng cần phải được nâng cao hơn. Chính vì vậy,
theo tác giả sau khi cơ quan có thẩm quyền đã ban hành quy định hướng dẫn
về việc áp dụng TTRG cần tổ chức những buổi tập huấn về chuyên môn,
nghiệp vụ cho các cơ quan tiến hành tố tụng, cho những người tiên hành tố
tung, mà đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán. Thông qua những buổi tập huấn này
họ sẽ được hướng dẫn để hiểu đúng đắn và có sự áp dụng thống nhất về các
quy định về thủ tục này.
3.3.5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho
ngành Tòa án nói chung, cho Thẩm phán, thư ký nói riêng
Hiện nay, một số Tòa án cấp huyện có trụ sở làm việc đã xuống cấp,
89
phòng làm việc cho Thẩm phán, thư ký cũ k , phòng xử án nhiều Tòa vẫn có
duy nhất một phòng xử án, cơ sở vật chất trong phòng xử án đã xuống cấp.
Thẩm phán, thư ký còn chưa được trang bị đầy đủ các trang thiết bị cần thiết
phục vụ cho công tác của mình, như máy tính, máy in…. Chính vì vậy, việc
xây dựng mới trụ sở làm việc của nhưng Tòa án cơ sở vật chất còn cũ k , lạc
hậu cần phải được tiến hành ngay, đặc biệt là ở cấp huyện, quận, thị xã trụ sở
làm việc phả đảm bảo hiện đại, đầy đủ tiện nghi. Trang thiết bị của Thẩm phán
phải được trang bị đầy đủ, hiện đại.
a) Thường xuyên tăng cường công tác tập huấn nghiệp vụ, tổ chức hội
thảo khoa học về vấn đề áp dụng TTRG trong thực tiễn giải quyết các loại án
về dân sự, HNGĐ, KDTM và LĐ nhằm thống nhất, nâng cao nhận thức trong
việc triển khai áp dụng những quy định này trên thực tiễn. Từ đó đóng góp ý
kiến, kinh nghiệm để xây dựng và hoàn thiện TTRG trong tố tụng dân sự ở
Việt Nam.
b) Trong trường hợp đương sự khởi kiện tại Tòa án bằng miệng
Nội dung vụ án th a mãn điều kiện áp dụng theo TTRG, các bên đương
sự đồng thời đến Tòa án để đề nghị giải quyết tranh chấp. Thì t y từng trường
hợp T ND có thể xét xử ngay hoặc có thể ấn định một ngày khác để xét xử.
Tòa án có thể thông báo bằng miệng hoặc bằng văn bản cho đương sự về nội
dung khởi kiện mà không nhất thiết phải tiến hành các thủ tục thông báo chính
thức như đối với thủ tục thông thường.
c) Về hướng dẫn yêu cầu có bản khai và lấy lời khai của đương sự trong
vụ án được giải quyết theo TTRG
Khoản 1 Điều 98 BLTTDS năm 2015 quy định: “Thẩm phán chỉ tiến
hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung
bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Đương sự phải tự viết bản khai và ký tên của
mình. Trường hợp đương sự không thể tự viết được thì Thẩm phán lấy lời khai
của đương sự. Việc lấy lời khai của đương sự chỉ tập trung vào những tình tiết
mà đương sự khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Thẩm phán tự mình hoặc Thư ký Tòa
90
án ghi lại lời khai của đương sự vào biên bản…”. Quy định này được hiểu, cần
phải có bản khai của đương sự trong mọi trường hợp. Vấn đề đặt ra, đơn khởi
kiện và bản trả lời đơn khởi kiện của các đương sự trong vụ án có được coi là
bản khai không? Nếu các văn bản đó không được coi là bản khai thì cần phải
có bản khai của đương sự hoặc nếu không có thì Tòa án cần phải triệu tập
đương sự để lấy lời khai. Như vậy, rất khó có thể ra quyết định đưa vụ án ra
xét xử theo TTRG trong thời gian không quá 01 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án
theo quy định tại khoản 1 Điều 318 BLTTDS năm 2015. Do đó, cần có sự
hướng dẫn Điều 98 BLTTDS năm 2015 theo hướng đơn khởi kiện và văn bản
trả lời đơn khởi kiện của đương sự cũng được coi là bản khai của đương sự.
d) Về hướng dẫn việc cấp, tống đạt, thông báo bằng phương tiện điện tử
Việc cấp, tống đạt, thông báo bằng phương tiện điện tử hiện nay đã được
thực hiện khá phổ biến ở các nước tiên tiến trên thế giới. Để bảo đảm điều kiện
thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân nộp đơn khởi kiện; đồng thời tăng
cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động tố tụng, tiến tới xây dựng
“Tòa án điện tử”; khoản 2 Điều 173 BLTTDS năm 2015 bổ sung phương thức
cấp, tống đạt, thông báo bằng phương tiện điện tử, ph hợp với pháp luật về
giao dịch điện tử. Vì vậy, ngoài phương thức nộp đơn khởi kiện trực tiếp gửi
đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính, BLTTDS 2015 đã bổ sung phương
thức gửi đơn khởi kiện trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin
điện tử của Tòa án, đây là phương thức mới và có ý nghĩa quan trọng trong quá
trình giải quyết vụ án nói chung và nhất là đối với các vụ án được giải quyết
theo TTRG. Do đó, để việc áp dụng quy định này trên thực tế được thuận lợi,
đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền sớm ban hành hướng dẫn chi tiết thủ
tục gửi đơn qua cổng thông tin điện tử.
e) Xây dựng quy định có tính bắt buộc đi kèm chế tài xử lý trách nhiệm
đối với Thẩm phán khi có đủ điều kiện nhưng không áp dụng TTRG giải quyết
vụ án
Dù TTRG khi áp dụng vào thực tiễn giải quyết án chắc chắn sẽ gặp
91
nhiều khó khăn, vì là quy định mới trong pháp luật tố tụng dân sự, chính vì lẽ
đó, tâm lý chung của không ít Thẩm phán thường không “mặn mà”, “ngại”,
viện dẫn nhiều lý do khác nhau để “né” không áp dụng thủ tục này. Do vậy, để
mục đích tốt đẹp của quy định giải quyết các vụ án theo TTRG không bị triệt
tiêu trong thực tiễn áp dụng, tác giả đề xuất nên chăng T ND tối cao ban hành
quy định, mà theo đó, một trong những tiêu chí chấm điểm thi đua của cơ quan
về giải quyết án, của cá nhân khi xét thành tích khen thưởng trong đó có chỉ
tiêu phản ánh giải quyết án theo TTRG. Bên cạnh đó, cần ban hành quy định
tạo cơ chế kiểm soát việc áp dụng TTRG của Thẩm phán ngay từ thời điểm
nhận đơn khởi kiện và thụ lý thông qua kết quả xử lý đơn khởi kiện của Thẩm
phán được phản ánh trong sổ nhận đơn và thông báo cho người khởi kiện biết
việc áp dụng hoặc không áp dụng theo TTRG. Đây cũng chính là cơ sở để
người dân thực hiện quyền khiếu nại đối với quyết định của Tòa án trong việc
áp dụng hay không áp dụng TTRG khi giải quyết tranh chấp.
g) Những vụ án do các đương sự thoả thuận lựa chọn giải quyết theo
TTRG
Xuất phát từ nguyên tắc tự do, tự nguyện, cam kết thoả thuận là nguyên
tắc cơ bản, quan trọng của pháp luật dân sự. Các đương sự tự do, tự nguyện
giao kết dân sự thì đương nhiên cũng được tự do thoả thuận giải quyết các
tranh chấp. Họ có quyền lựa chọn trình tự giải quyết tranh chấp của mình theo
TTRG.
Tuy nhiên, để tránh việc lạm dụng thoả thuận giải quyết theo TTRG
nhằm để không thực hiện nghĩa vụ, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của
người thứ ba đồng thời để đảm bảo cho Tòa án giải quyết chính xác, đúng pháp
luật vụ việc theo quan điểm của tác giả thì các bên đương sự có quyền thoả
thuận giải quyết theo TTRG. Tuy nhiên, bên cạnh việc quy định đương sự có
quyền thoả thuận giải quyết theo TTRG thì Tòa án có quyền quyết định vụ án
đó có được tiến hành theo TTRG theo yêu cầu lựa chọn của các đương sự hay
không. Nếu xét thấy vụ án không đáp ứng được các yêu cầu để tiến hành theo
92
TTRG thì Tòa án sẽ quyết định không chấp nhận yêu cầu lựa chọn thủ tục này
và vụ án đó phải được giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường.
h) Về hiệu lực pháp luật của quyết định theo TTRG
Đối với vụ án có giá ngạch thấp thì để phát huy phong tục, tập quán,
truyền thống tốt đẹp, tinh thần đoàn kết tương thân, tương ái của người Việt,
tránh việc kiện tụng tuy rất nh nhặt nhưng vẫn phải qua nhiều lần xét xử thì
việc khôi phục lại cơ chế xét xử một lần là điều cần thiết. Tuy nhiên, xét về
thực tế thì ở những v ng miền núi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống thì
việc áp dụng TTRG với vụ kiện có giá ngạch thấp cũng cần phải cân nhắc. Do
nhận thức và quan niệm lạc hậu nên đôi khi trong những tranh chấp nh như
tranh chấp một con trâu, con bò nhưng họ sẵn sàng d ng cái chết để chứng
minh cho sự trong sạch của bản thân. Do vậy, nên chăng cần giới hạn và không
áp dụng TTRG đối với những đương sự là người thuộc các dân tộc thiểu số.
i) Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có làm ảnh hưởng đến thời
gian thụ lý vụ án hay không vì theo Điều 114 BLTTDS năm 2015 thì một số
biện pháp khẩn cấp tạm thời như: tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động; cấm chuyển
dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng
tài sản đang tranh chấp; cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ; cấm tiếp xúc
với nạn nhân bạo lực gia đình… sẽ không làm ảnh hưởng đáng kể đến thời
gian thụ lý, giải quyết vụ án, vì vậy, nên chăng, trong một số trường hợp, nếu
có áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì vụ án vẫn được xét xử theo TTRG.
3.4. Về vấn đề thành lập Tòa giản lược trong hệ thống tòa án nhân
dân
Hiện nay, T ND tối cao đang triển khai thực hiện các văn kiện, nghị
quyết của Đảng về cải cách tư pháp, với mục tiêu là xây dựng nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện
đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt
động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và
93
hiệu lực cao, trong đó có đặt ra yêu cầu nghiên cứu việc thành lập T ND sơ
thẩm khu vực; xây dựng cơ chế xét xử theo TTRG đối với những vụ án có đủ
một số điều kiện nhất định. Theo đó, Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực có thể
được thành lập ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện trong c ng một
đơn vị hành chính cấp tỉnh và có thẩm quyền xét xử sơ thẩm hầu hết các vụ,
việc thuộc thẩm quyền của Tòa án. Nếu theo phương án này, t y theo quy mô
công việc và đội ngũ Thẩm phán có thể cân nhắc việc thành lập các Tòa hoặc
phân Toà giản lược trực thuộc Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực T ND sơ
thẩm khu vực được lập ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện) để xét
xử các vụ án tiểu hình và các tranh chấp nh , có giá ngạch thấp về dân sự,
HNGĐ, KDTM, LĐ và hành chính theo TTRG. Việc xét xử, giải quyết các vụ
việc theo TTRG do các Thẩm phán chính ngạch và có thể do Thẩm phán ngoài
ngạch là người có chuyên môn sâu về một số lĩnh vực chuyên ngành, không
phải là công chức Tòa án, được Chánh án T ND tối cao bổ nhiệm làm Thẩm
phán ngoài ngạch) tiến hành. Tại trụ sở Tòa hoặc phân Tòa giản lược cũng là
nơi T ND sơ thẩm khu vực tổ chức tiếp công dân, thụ lý đơn và tổ chức xét
xử lưu động các vụ án sơ thẩm khác. Trong trường hợp này, không cần thiết
phải lập chi nhánh của Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực ở những nơi có địa
bàn xét xử rộng trên cơ sở hợp nhất 2-3 Tòa án cấp huyện khu vực miền núi,
v ng sâu, v ng xa) vì đã có Tòa hoặc phân Toà giản lược thuộc Tòa án nhân
dân sơ thẩm khu vực trên địa bàn của m i huyện. Việc thành lập và tổ chức các
Tòa hoặc phân Tòa giản lược trực thuộc T ND sơ thẩm khu vực theo hướng
này là phương thức để Tòa án giải quyết hiệu quả hơn các vụ việc thuộc thẩm
quyền, đồng thời cũng tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận với hoạt động của
Tòa án theo đúng tinh thần chỉ đạo đã được xác định trong Nghị quyết số 49-
NQ/TW của Bộ Chính trị.
Việc thành lập Tòa giản lược trong T ND và áp dụng TTRG để giải
quyết một số loại vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhằm nâng cao hiệu
quả công tác Tòa án trong bối cảnh chúng ta đang tích cực triển khai các chủ
94
trương, định hướng, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp và triển khai thi
hành Hiến pháp mới là hết sức cần thiết; tuy nhiên, đây là vấn đề lớn, cần được
nghiên cứu k để thống nhất trong nhận thức, từ đó cụ thể hóa trong Luật tổ
chức T ND sửa đổi) và các luật tố tụng trong thời gian tới đây.
3.4.1. Mục tiêu thành lập Tòa giản lược
a) Thành lập Tòa Giản lược nhằm mục đích hoàn thiện tổ chức hoạt
động của tòa án nhân dân
Như chúng ta đã biết bản chất của quyền tư pháp chính là quyền xét xử,
vì vậy vấn đề tổ chức, quản lý trong hệ thống T ND có ý nghĩa to lớn đối với
quá trình cải cách tư pháp. Tăng cường tổ chức, nâng cao năng lực của hệ
thống T ND không chỉ là nhu cầu đảm bảo một thiết chế thực hiện một quyền
quan trọng trong hệ thống quyền lực Nhà nước - Quyền lực tư pháp mà còn đòi
h i của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì
vậy, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức T ND nhằm đáp ứng
yêu cầu của việc tăng cường, đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà nước, phát
huy dân chủ tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa đã được đề cập trong các
nghị quyết của Đảng, nhất là trong các văn kiện của Đại hội lần thứ IX của
Đảng cụ thể là: Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ
quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp
trong công tác điều tra, bắt giữ, truy tố, xét xử, thi hành án để không xảy ra oan
sai… sắp xếp lại hệ thống T ND, phân định lại thẩm quyền của Tòa án các
cấp. Tăng cường đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cả về số lượng và
chất lượng.
Hiện nay các T ND ở nước ta được tổ chức theo nguyên tắc kết hợp
giữa thẩm quyền xét xử với tổ chức đơn vị hành chính lãnh thổ từ cấp huyện
trở lên, ở m i đơn vị huyện quận, thị xã, thành phố trực thuộc Tỉnh) có một
Tòa án cấp huyện. Ở m i tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có một Tòa án
cấp tỉnh và ở Trung ương có T NDTC. Cách thức tổ chức này như đã nói ở
trên tồn tại nhiều năm ở nước ta. Tuy có nhiều ưu điểm nhưng vẫn có những
95
hạn chế nhất định, chính vì vậy, cần xem xét, nghiên cứu thiết kế được mô
hình T ND cần bảo đảm được các yêu cầu thuận tiện cho nhân dân; tiết kiệm
cho Nhà nước; bảo đảm tính độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống Tòa án.
Luật Tổ chức T ND năm 2014 đã thay đổi cơ cấu tổ chức của T ND,
tuy nhiên việc thành lập các Tòa chuyên trách chậm được thực hiện, việc thành
lập Tòa Giản lược chưa được đặt ra nhưng đang là yêu cầu ph hợp với yêu
cầu cấp thiết để bảo đảm các mục tiêu phát triển và hoàn thiện hệ thống T ND
như nêu trên.
b) Thành lập Tòa Giản lược nhằm nâng cao tiến độ, chất lượng giải
quyết các vụ án đơn giản tại Tòa án nhân dân
Thực tiễn cho thấy trong những năm gần đây, hàng năm các T ND cấp
huyện và TAND cấp tỉnh giải quyết hàng ngàn các vụ việc hình sự, dân sự,
hành chính có tính chất đơn giản, giá trị tranh chấp thấp. Tuy TAND cấp
huyện xét xử theo thủ tục sơ thẩm phần lớn các vụ án tranh chấp quyền sử
dụng đất, nhưng khi bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì
TAND cấp tỉnh xét xử theo thủ tục phúc thẩm và việc giám đốc thẩm, tái thẩm
các bản án, quyết định phúc thẩm này phải do các Tòa chuyên trách thuộc
TAND cấp cao các khu vực có thẩm quyền thực hiện. Tuy nhiên, qua thực tiễn
xét xử các vụ án đơn giản cho thấy mô hình Tòa án có ảnh hưởng lớn đến việc
xét xử cũng như chất lượng xét xử.
Hàng năm các Tòa án phải tập trung một lực lượng lớn dành cho việc
điều tra, thẩm định, định giá bất động sản. Những tranh chấp này bình quân
nhiều gấp hai lần số vụ án hình sự mà các Tòa án phải xét xử sơ thẩm. Các
tranh chấp dân sự cũng như các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất
phát sinh trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước xã hội chủ nghĩa là những vấn đề mới, đa dạng, phức tạp. Vì vậy, số
việc mà Tòa án phải thụ lý, giải quyết rất lớn, tăng lên hàng năm, các Tòa án
đã rất cố gắng trong công tác thu thập chứng cứ, lập hồ sơ hòa giải, xét xử đạt
96
tỷ lệ cao. Theo số liệu báo cáo hàng năm của Chánh án TANDTC trước Quốc
hội thì tỷ lệ các vụ án dân sự, HNGĐ đã hòa giải và xét xử xong, nhìn chung
đều đạt tỷ lệ 80% trở lên. Tuy nhiên, việc giải quyết các vụ án dân sự cũng còn
trì trệ, hàng năm còn tồn đọng khoảng 10% số vụ việc đã được thụ lý. Những
vụ việc đã và đang giải quyết thì thời gian giải quyết dài, nhiều vụ việc phải
xét xử đi, xét xử lại nhiều lần; hiện tượng tồn đọng án quá hạn Luật định vẫn
còn, đặc biệt là việc tồn đọng án phúc thẩm ở TANDTC, do số lượng án hình
sự xét xử sơ thẩm giao cho TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương còn
quá nhiều, trong khi đó số lượng cán bộ, Thẩm phán của TANDTC không thể
đáp ứng được việc xét xử với số lượng vụ án thụ lý ngày càng gia tăng. Trong
khi đó, Nghị quyết số 19-NQ/TW yêu cầu đến năm 2021 phải giảm biên chế
10% so với năm 2015.
Với hiện trạng này, việc nghiên cứu mô hình Tòa Giản lược giải quyết
các vụ việc đơn giản là một trong những bước đi, biện pháp nâng cao hiệu lực,
hiệu quả xét xử của hệ thống Tòa án; đáp ứng yêu cầu giải quyết các vụ việc
trong xã hội khi Tòa án ngày càng được mở rộng thẩm quyền và phát triển với
vị trí là cơ quan thực hiện quyền tư pháp theo tinh thần của Hiến pháp năm
2013.
3.4.2. Kiến nghị giải pháp xây dựng Tòa Giản lược trong hệ thống tòa
án nhân dân ở Việt Nam
a) Thành lập Tòa Giản lược trong hệ thống tòa án nhân dân
Trên cơ sở nghiên cứu tình hình thực tiễn của Việt Nam, cơ cấu tổ chức
T ND, yêu cầu của cải cách tư pháp và học h i kinh nghiệm quốc tế, chúng
Tác giả cho rằng có nhiều phương án xây dựng cơ chế áp dụng TTRG trong tố
tụng tại T ND ở Việt Nam, cần được cân nhắc lựa chọn.
Việc xây dựng bộ phận chuyên trách giải quyết vụ việc dân sự theo
TTRG với đội ngũ cán bộ, Thẩm phán chuyên trách là một giải pháp ban đầu
có thể chi tăng kinh phí, nhưng trong chiến lược phát triển hệ thống T ND lâu
dài thì đây là một biện pháp hữu ích nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giải
97
quyết các vụ việc hình sự, dân sự, hành chính đơn giản bằng TTRG tại Tòa án.
Việc xây dựng bộ phận chuyên trách tại T ND giải quyết các vụ việc theo
TTRG là rất cần thiết nhưng xây dựng mô hình bộ phận chuyên trách này như
thế nào thì cũng có hai quan điểm khác nhau. Cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, cần thiết phải xây dựng mô hình bộ phận
chuyên trách giải quyết vụ việc theo TTRG như một Tòa chuyên trách trong hệ
thống T ND. Theo đó, Tòa Giản lược có thể được tổ chức nằm trong T ND
cấp huyện. Mô hình này sẽ đảm bảo tối đa sự chuyên nghiệp, chuyên trách giải
quyết vụ việc hình sự, dân sự, hành chính đơn giản theo TTRG. Tòa chuyên
trách giải quyết vụ việc dân sự theo TTRG sẽ được tổ chức chủ yếu là các
Thẩm phán, Thư ký, Thẩm tra viên chuyên trách thực hiện, nghiên cứu và tổ
chức giải quyết các vụ việc dân sự theo TTRG. Với cách thức tổ chức mô hình
Tòa Giản lược như vậy, có thể thể hiện sơ đồ cơ cấu tổ chức của T ND các
98
cấp như sau: xin xem ở trang sau)
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC CỦA TAND Theo mô hình có Tòa Giản lược là Tòa chuyên trách tại T ND cấp huyện)
Tòa án Quân sự TW
Bộ máy giúp việ c
Vụ giám đốc, kiể m tra 1
TAND TỐI CAO Hội đồng Thẩ m phán TANDTC
Vụ giám đốc, kiể m tra 2
Vụ giám đốc, kiể m tra 3
TAND Cấ p cao tạ i Hà Nội
TAND cấ p cao tạ i Thà nh phố Hồ Chí Minh
TAND Cấ p cao tạ i Đà Nẵ ng
Tòa án quân
sự
Tòa Kinh tế
Bộ máy giúp việ c
Tòa Hình sự
Tòa Dân sự
quân khu và cấp tƣơng đƣơng Ủy ban Thẩ m phán Bộ máy giúp việ c
Tòa gia đình và người chưa thà nh niên
TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng Ủy ban Thẩ m phán Tòa Lao động
Tòa Hà n h chín h
TAND huyệ n, quậ n, thị xã, thà nh phố thuộc tỉ nh
Tòa án quân sự khu vực
Bộ máy giúp việ c
Tòa Giả n lược
99
Các Tòa chuyên Quan điểm thứ hai cho rằng, trong bối cảnh hiện tại, khi việc nghiên cứu trách về mô hình TTRG giải quyết vụ việc tại Tòa án chưa được chín muồi thì chỉ
nên bố trí bộ phận chuyên trách giải quyết vụ việc theo TTRG là cấp phòng tại
các T ND. Việc bố trí bộ phận này sẽ phần nào bảo đảm được tính chuyên
nghiệp, chuyên trách giải quyết vụ việc theo TTRG của Tòa án, đồng thời,
cũng giảm thiểu kinh phí đầu tư, tránh tình trạng phình to về mặt cơ cấu, nhân
sự sẽ dễ vấp phải sự phản ứng của nhân dân, cũng như bộ ngành khác.
Đối với các nhà hoạt động thực tiễn là Thẩm phán cũng có nhiều loại ý
kiến khác nhau. Theo đó, phân thành bốn loại ý kiến: i) Cần thiết thành lập
Tòa Giản lược được tổ chức như một Tòa chuyên trách giải quyết vụ việc theo
TTRG trong hệ thống T ND; ii) Chỉ nên thành lập bộ phận chuyên trách giải
quyết vụ việc theo TTRG là cấp phòng trong các T ND; iii) Không xây dựng
bộ phận chuyên trách giải quyết vụ việc theo TTRG mà phân công Thẩm phán
chuyên trách giải quyết vụ việc theo TTRG trong các T ND; iv) Nên giữ
nguyên cách thức giải quyết như hiện nay, không xây dựng bộ phận chuyên
trách giải quyết vụ việc theo TTRG trong hệ thống T ND, khi thụ lý các vụ
việc đáp ứng các tiêu chí giải quyết theo TTRG thì Chánh án T ND sẽ phân
công Thẩm phán bất kỳ giải quyết vụ án đó.
Chúng Tác giả cho rằng, việc xây dựng bộ phận chuyên trách giải quyết
vụ việc theo TTRG là vấn đề tất yếu. Bởi lẽ, TTRG là chế định đã được thừa
nhận trong trong tất cả các lĩnh vực TTHS, TTDS, TTHC; đồng thời, khoản 1
Điều 45 Luật Tổ chức T ND năm 2014 quy định:
“TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có thể
có Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý
hành chính. Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định
thành lập Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án TAND tối cao.
Căn cứ quy định tại khoản này và yêu cầu, thực tế xét xử ở mỗi TAND huyện,
quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương, Chánh án TAND tối
cao quyết định việc tổ chức Tòa chuyên trách.”
Đây là một trong những căn cứ pháp lý mạnh mẽ cho việc tiếp tục
100
nghiên cứu, xây dựng bộ phận chuyên trách giải quyết vụ việc tại Tòa án theo
TTRG một cách chuyên nghiệp. Vấn đề đặt ra là cách thức và tiến trình xây
dựng cần được nghiên cứu k càng, ph hợp với điều kiện thực tiễn và cơ cấu
tổ chức của T ND theo tinh thần cải cách tư pháp được cụ thể hóa trong Luật
Tổ chức T ND năm 2014 mới được Quốc hội thông qua. Theo đó, cần nghiên
cứu tổ chức ph hợp với cơ cấu tổ chức Tòa án theo mô hình Tòa án sơ thẩm
cấp huyện. Việc xây dựng Tòa án chuyên trách giải quyết vụ việc dân sự theo
TTRG không nhất thiết phải xây dựng ở tất cả các Tòa án sơ thẩm cấp huyện
mà tổ chức theo nhu cầu thực tiễn của m i khu vực, thực hiện theo đúng tinh
thần của Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ chính trị “Việc thành lập Tòa
chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp Tòa án, từng khu
vực”. Theo đó, đối với những khu vực thực tiễn giải quyết nhiều vụ việc, thì
cần thành lập Tòa án khu vực. Đối với những khu vực số lượng vụ việc không
nhiều thì chỉ nên phân công Thẩm phán chuyên trách giải quyết vụ việc theo
TTRG.
Với cách thức như vậy, chúng Tác giả cho rằng việc nghiên cứu, xây
dựng bộ phận chuyên trách giải quyết vụ việc dân sự theo TTRG có thể được
thực hiện với hình thức thí điểm tại một số tỉnh, thành phố lớn trong một thời
gian nhất định để có cơ sở đánh giá hiệu quả của cơ chế này và quyết định hình
thức tổ chức bộ phận chuyên trách giải quyết vụ việc theo TTRG trong hệ
thống T ND cả nước ph hợp và hiệu quả.
b) Thẩm quyền của Tòa Giản lược
Nếu Tòa Giản lược được thành lập theo mô hình là Tòa chuyên trách
trực thuộc T ND cấp huyện, thì Tòa Giản lược có thẩm quyền giải quyết tất cả
các vụ việc hình sự, dân sự, hành chính đơn giản đáp ứng các tiêu chí theo quy
định của BLTTHS, BLTTDS và Luật TTHC. Đối với lĩnh vực TTDS, chúng
Tác giả cho rằng, ngoài các vụ án đáp ứng các tiêu chí theo quy định của
BLTTDS năm 2015, thì trong thời gian tới nếu sửa đổi BLTTDS, cần nghiên
cứu bổ sung TTRG theo hình thức ra quyết định áp dụng lệnh thanh toán đối
101
vớicác khoản vay nợ, nghĩa vụ tài chính rõ ràng giữa các bên như:
(i) Những khoản vay nợ có xác nhận nợ, chốt số tiền nợ gốc, số tiền nợ
lãi và ký xác nhận của bên cho vay, bên vay.
(ii) Những khoản vay tín dụng tiêu dùng không có tài sản bảo đảm mà
hợp đồng vay có công chứng theo quy định của pháp luật.
(iii) Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
(iv) Yêu cầu thanh toán tiền lương cho người lao động theo hợp đồng.
c) Nhân sự của Tòa Giản lược
Với đặc th giải quyết các vụ việc đơn giản, có chứng cứ rõ ràng và theo
một trình tự ngắn gọn, chúng Tác giả cho rằng yêu cầu đối với nhân sự của bộ
phận chuyên trách giải quyết vụ việc theo TTRG d là thiết kế hay mô hình
Tòa Giản lược hay bộ phận tương đương cấp phòng) không cần thiết phải khắt
khe như tiêu chuẩn Thẩm phán của T ND. Đối với những vụ việc cần tiến
hành thủ tục xét xử thì người tiến hành tố tụng phải là Thẩm phán, tuy nhiên
đối với những vụ việc mang tính chất phát hành lệnh thì không cần thiết phải là
Thẩm phán mà chỉ cần những người có chức danh Thư ký Tòa án hoặc Thẩm
tra viên là có thể thực hiện được. Chi tiết về hai thủ tục này chúng Tác giả sẽ
phân tích ở mục 3.2.4 sau đây.
TTRG là một quy định mới được đưa vào BLTTDS năm 2015. Có thể
nói đây là quy định tiến bộ, ph hợp yêu cầu đòi h i của xã hội và thực tiễn xét
xử của ngành T ND, đặc biệt trong tình hình hiện nay. Thủ tục này là cơ sở
bảo đảm để người dân có quyền tiếp cận công lý một cách nhanh chóng và
cũng là cơ sở để cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết nhanh chóng, kịp thời
nhiều vụ án, góp phần giải quyết tình trạng tồn đọng án kéo dài; tạo điều kiện
cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc tập trung vào việc giải quyết các vụ
án lớn, phức tạp hơn. Đồng thời, tiết kiệm được thời gian, tiền bạc, công sức
cho các đương sự và Nhà nước mà vẫn đảm bảo tính pháp chế trong việc giải
102
quyết các vụ án dân sự.
103
Kết luận Chƣơng 3
Để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và nhà nước đã đặt ra về hoàn thiện
pháp luật TTDS, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân được tiếp cận đến công
lý một cách nhanh chóng, đồng thời để bắt kịp xu thế tiến bộ của các nước
trên thế giới trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, thì việc xây dựng mô
hình TTRG trong BLTTDS 2015 là cần thiết. Do quy định này mới ban hành
nên việc người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng hiểu và áp dụng sẽ
thiếu sự thống nhất và đồng bộ nếu không có quy định hướng dẫn cụ thể của
pháp luật. Cũng do là quy định mới nên việc ban hành các quy định về TTRG
còn bộc lộ những hạn chế là không thể tránh kh i. Chính vì lẽ đó mà các cơ
quan có thẩm quyền cần xem xét, nghiên cứu để sửa đổi bổ sung các quy định
TTRG để khắc phục hạn chế còn tồn tại, nâng cao hiệu quả áp dụng quy định
này là hết sức cần thiết. Đồng thời, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng cần
có những hướng dẫn, giải thích để có cách hiểu và áp dụng đúng đắn và thống
nhất trên thực tế. Ngoài việc sửa đổi, giải thích pháp luật, thì việc nâng cao cơ
sở vật chất của ngành Tòa án được hiện đại, tiện nghi cũng là một nhiệm vụ để
nâng cao các biện pháp tổ chức triển khai áp dụng; các điều kiện về nhân lực,
vật lực cho ngành Tòa án nói chung, cho cơ quan Tòa án các cấp nói riêng.
KẾT LUẬN
Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là một chế định tiến bộ trong pháp luật
104
TTDS. Quy định về TTRG có trong pháp luật TTDS của nhiều nước trên thế
giới, ở Việt Nam quy định này đã được pháp luật ghi nhận trong BLTTDS năm
2015, việc ban hành quy định này là dựa trên sự ph hợp với điều kiện kinh tế
phát triển, ph hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng ở nước ta hiện nay.
Đặc điểm của TTRG là rút ngắn về thời gian, giản lược về thủ tục tố tụng. Với
đặc điểm đó TTRG có ý nghĩa quan trọng, góp phần giải quyết vụ án được
nhanh chóng, kịp thời bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân,
giảm chi phí cho Nhà nước và Nhân dân. Quy định về TTRG trong BLTTDS
năm 2015 mới được pháp luật TTDS ghi nhận nên quy định này còn bộc lộ
những hạn chế nhất định. Như cách hiểu và áp dụng quy định về thủ tục này
vẫn chưa có những hướng dẫn cụ thể của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thời hạn tố tụng được rút ngắn nhiều so với thời hạn giải quyết vụ án dân sự
theo thủ tục chung, tuy nhiên một số quy định về thủ tục tố tụng rút gọn còn
chưa ph hợp và chưa rõ ràng. Ví dụ như đối với vụ án đủ điều kiện áp dụng
TTRG giải quyết vụ án thì trong thời hạn chuẩn bị xét xử Tòa án vẫn phải yêu
cầu đương sự làm bản tự khai, trong khi điều kiện để thụ lý là đương sự đã
thừa nhận nghĩa vụ của mình, các đương sự đã có đầy đủ tài liệu, chứng cứ
chứng minh cho quyền lợi của mình bị xâm phạm. Đến thời điểm hiện tại, khi
BLTTDS năm 2015 đã có hiệu lực pháp luật, vẫn chưa có vụ án nào được áp
dụng theo TTRG để giải quyết. Để các quy định này được áp dụng trong thực
tế thì cần có những quy định hướng dẫn chi tiết, cụ thể về cách hiểu, áp dụng
trong việc giải quyết vụ án dân sự. Đồng thời các cơ quan có thẩm quyền cần
tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về TTRG trong BLTTDS
năm 2015 để khắc phục được những hạn chế, nâng cao hiệu quả áp dụng quy
định này là rất cần thiết. Để TTRG không chỉ là quy định tiến bộ trên lý thuyết
mà trở thành biện pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp
dân sự nói chung và tranh chấp HĐTD nói riêng, kịp thời bảo vệ quyền và lợi
105
ích hợp pháp của các bên trong quan hệ dân sự.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt:
1. Hiến pháp năm 2013
2. BLTTDS năm 2015
3. BLDS năm 2005
106
4. BLDS năm 2015
5. Luật Tổ chức Tòa án năm 2014
6. Luật Bảo vệ người tiêu d ng năm 2010
7. Luật Đất đai năm 2013
8. Luật Nhà ở năm 2014
9. Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014
10. Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử
lý nợ xấu của các TCTD
11. Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm
phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật
trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản
nợ xấu tại TAND
12. Lê Nết 2006), Kinh tế luật, Tri Thức, thành phố Hồ Chí
Minh.
13. Mai Hồng Quỳ 1999), “Thực tiễn tranh chấp kinh tế với
việc hoàn thiện pháp luật kinh doanh”, Đề tài nghiên cứu khoa học và
công nghệ cấp Bộ, thành phố Hồ Chí Minh.
14. Nguyễn Thị Thu Thủy 2011), “Khả năng áp dụng TTRG
trong tố tụng dân sự ở Việt Nam”, Nhà nước và Pháp luật.
15. Đào Văn Hội 2004), Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh
chấp kinh tế ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Dự án “Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại
Việt Nam” 2015), Tài liệu hội thảo Góp ý Dự thảo báo cáo “Nghiên
cứu và đề xuất cơ chế, mô hình giải quyết tranh chấp dân sự theo TTRG
tại Tòa án Việt Nam”, Hà Nội.
17. Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ về “Vấn đề xây
dựng thủ tục TTDS rút gọn theo yêu cầu cải cách tự pháp và hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay, thực trạng và giải pháp” do Tiến sĩ Trần nh
Tuấn, Trưởng Bộ môn tố tụng dân sự Đại học luật Hà Nội làm chủ
107
nhiệm đề tài nghiên cứu, năm 2014.
18. Trần nh Tuấn 2015), Tham luận hội thảo Góp ý dự thảo
báo cáo “Nghiên cứu và đề xuất cơ chế, mô hình giải quyết tranh chấp
dân sự theo TTRG tại Tòa án Việt Nam”, Hà Nội.
19. Bài viết “Vấn đề áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử và
thành lập Tòa giản lược trong hệ thống Tòa án nhân dân” của
Ths.Trương Hòa Bình – Bí thư trung ương Đảng, Chánh án T NDTC.
20. Bài viết “Hệ thống và thủ tục xét xử tại Tòa án đã đến lúc
không thể trì hoãn nhu cầu cần có Tòa Đơn giản Thủ tục đơn giản” của
TS. Vũ Thị Minh Hồng, Phó Trưởng ban Dân chủ pháp luật, Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
21. Các bài viết “Cơ chế giải quyết tranh chấp bảo vệ quyền
lợi người tiêu d ng bằng Tòa án”, “ ét xử theo thủ tục đơn giản vụ án
dân sự – nhu cầu và định hướng lập pháp” “Định hướng lập pháp về
thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự” của Ths. B i Thị Dung Huyền –
Trưởng phòng và Ths Lê Thế Phúc – Phó Trưởng phòng Phòng NCPL
Dân sự, Thương mại Viện Khoa học xét xử, T NDTC.
22. BLTTDS Liên bang Nga quy định việc ban hành lệnh của
Tòa án thuộc thẩm quyền của Thẩm phán hòa giải xét xử ở cấp sơ thẩm.
II. Tài liệu tiếng nƣớc ngoài:
Richard .A. Posner (2003), Economic Analysis of Law, 23.
Aspen Publishers, p.517.
24. Charles E. Clark and Charles U. Samenow 1929), “The
108
Summary Judgment”, Yale Law Journal. 38, p. 423-471