BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Hoàng Thịnh
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG THƠ TRỮ TÌNH VIỆT NAM
THẾ KỶ XVIII - XIX
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Hoàng Thịnh
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG THƠ TRỮ TÌNH VIỆT NAM
THẾ KỶ XVIII - XIX
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN KIM CHÂU
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian đầu tư thực hiện, luận văn Hình tượng người phụ nữ trong
thơ trữ tình Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX đã được hoàn thành đúng thời hạn. Đó là
kết quả của một quá trình làm việc nghiêm túc với sự hỗ trợ nhiều mặt từ phía nhà
trường, quý thầy cô cùng bạn bè, đồng nghiệp. Dù rất cố gắng nhưng luận văn vẫn
không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong nhận được ý kiến đóng góp,
đề xuất để công trình nghiên cứu của chúng tôi hoàn thiện hơn.
Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến Tiến sĩ
Nguyễn Kim Châu - người đã hướng dẫn tôi thực hiện đề tài luận văn nói trên. Sự
quan tâm, hướng dẫn, chỉ bảo tận tâm của Thầy đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt
thời gian thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến phòng Sau đại học trường Đại học sư phạm
TP. HCM, các giảng viên cùng cán bộ thư viện trường Đại học Sư phạm TP. HCM
đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho học viên cao học chuyên ngành Văn học Việt Nam
khóa 21 chúng tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn tại trường.
Sau cùng, tôi xin được cảm ơn những người thân trong gia đình, những
người bạn, những người đồng nghiệp đã luôn động viên, khích lệ và giúp đỡ tôi
trong cả quá trình học tập và nghiên cứu luận văn.
Nguyễn Hoàng Thịnh
MỤC LỤC
DẪN NHẬP ................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 4
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 5
6. Kết cấu của luận văn ........................................................................................... 6
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ THƠ TRỮ TÌNH VIẾT VỀ NGƯỜI PHỤ
NỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM .......................................... 7
1.1. Khái quát về thơ trữ tình trung đại ............................................................... 7
1.1.1. Khái niệm thơ trữ tình ........................................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm và sự phát triển của thơ trữ tình trung đại ............................ 9
1.2. Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam trước thế kỷ XVIII
........................................................................................................................... 24
1.2.1. Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình thế kỷ X - XIV .............. 24
1.2.2. Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình thế kỷ XV - XVII .......... 28
1.3. Sự phát triển phong phú và đa dạng của thơ trữ tình viết về người phụ nữ
thế kỷ XVIII - XIX ............................................................................................ 38
1.3.1. Sự phong phú về tác giả và tác phẩm .................................................. 38
1.3.2. Sự phong phú về kiểu loại nhân vật .................................................... 40
1.3.3. Sự đa dạng trong cách thể hiện ........................................................... 44
1.3.4. Nguyên nhân phát triển ....................................................................... 49
CHƯƠNG 2. CHÂN DUNG NGƯỜI PHỤ NỮ52 TRONG THƠ TRỮ TÌNH
THẾ KỶ XVIII - XIX ......................................................................................... 52
2.1. Vẻ đẹp và tài năng của người phụ nữ......................................................... 52
2.1.1. Vẻ đẹp của người phụ nữ .................................................................... 52
2.1.2. Tài năng của người phụ nữ ................................................................. 60
2.2. Số phận của người phụ nữ .......................................................................... 65
2.2.1. Sắc đẹp và tài năng bị vùi dập tàn phai, mai một ............................... 65
2.2.2. Đời sống tình cảm nhiều bất hạnh ....................................................... 69
2.3. Khát vọng của người phụ nữ ...................................................................... 77
2.3.1. Khát vọng tình yêu, hạnh phúc ........................................................... 77
2.3.2. Khát vọng bình đẳng giới .................................................................... 82
2.4. Thái độ, tình cảm của tác giả khi miêu tả hình tượng người phụ nữ ......... 87
CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT KHẮC HỌA CHÂN DUNG NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG THƠ TRỮ TÌNH THẾ KỶ XVIII - XIX ........................................... 97
3.1. Thể thơ ....................................................................................................... 97
3.1.1. Thể tứ tuyệt ......................................................................................... 97
3.1.2. Thể bát cú .......................................................................................... 104
3.1.3. Thể trường thiên ................................................................................ 109
3.2. Nghệ thuật sử dụng hình ảnh ................................................................... 112
3.2.1. Các hình ảnh tượng trưng, công thức ................................................ 113
3.2.2. Các hình ảnh đời thường gần gũi, dung dị ........................................ 119
3.3. Ngôn từ ..................................................................................................... 123
3.3.1. Chất bác học của ngôn từ .................................................................. 125
3.3.2. Chất bình dân của ngôn từ ................................................................ 129
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 136
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 138
1
DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Văn học trung đại Việt Nam (còn được gọi là Văn học cổ Việt Nam, Văn học
Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX…) đánh dấu sự ra đời của dòng văn học
viết từ thế kỷ X với hai bộ phận: văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm. Theo từng
giai đoạn của tiến trình phát triển, văn học đạt được những thành tựu rực rỡ với
những bước tiến đáng kinh ngạc về cả nội dung và nghệ thuật. Trong đó, thơ trữ
tình có chỗ đứng riêng vững chắc do ảnh hưởng của thời đại với sự xuất hiện của
nhiều danh gia kiệt tác.
Thơ trữ tình xuất hiện từ rất sớm trong tiến trình văn học nước nhà (thậm chí,
đã có những biểu hiện rõ nét của chất trữ tình trong ca dao của người Việt xưa) và
đạt được những thành tựu nhất định qua từng thời kỳ. Hình thức và nội dung thơ
cũng ngày một phát triển phong phú theo hướng hoàn thiện, cách tân mới mẻ. Mười
thế kỷ đầy sóng gió của lịch sử nước nhà cũng là khoảng thời gian văn học chịu
nhiều biến động, thăng trầm. Thay đổi đáng ghi nhận là sự mở rộng nội dung về
phía đời sống, đưa văn học ngày càng gần gũi, gắn bó với quần chúng. Cùng với đó,
các nhân vật nữ cũng xuất hiện trong thơ trữ tình với tần suất ngày một nhiều hơn
theo chiều dọc tiến trình văn học viết (đặc biệt là ở bộ phận thơ Nôm từ nửa sau thế
kỷ XVIII). Người phụ nữ đã xuất hiện trong văn học viết (bao gồm trong thơ trữ
tình) ngay từ những thế kỷ đầu và ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò của
mình, góp phần hoàn chỉnh diện mạo văn học dân tộc.
Thơ của các nhà văn trung đại biểu hiện cách nhìn, cách cảm, cách suy nghĩ
của họ đối với những vấn đề trong cuộc sống, thế nên, thơ trữ tình trung đại đều ít
nhiều có biểu hiện của “cái tôi”, của việc định hình phong cách tác giả. Tìm hiểu
“Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX”, chúng
tôi mong muốn được đi sâu vào đặc trưng thể loại thơ trữ tình Việt Nam (về cả nội
dung và đặc điểm nghệ thuật) thế kỷ XVIII - XIX, khai thác hình ảnh người phụ nữ
để có cái nhìn đa chiều, đa diện về cuộc sống của một bộ phận người trong xã hội
Việt Nam thời bấy giờ.
2
2. Lịch sử vấn đề
Văn học gắn liền với dân tộc và chặng đường phát triển kinh tế - văn hóa - xã
hội của nước nhà, yếu tố thời đại đã tác động mạnh mẽ đến số phận và quá trình
sáng tác của các tác giả thời trung đại. Chưa có một công trình nghiên cứu nào đi
sâu vào hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình (thế kỷ XVIII - XIX hoặc các
thời kỳ trước đó). Dẫu chưa thật sự rõ nét nhưng thơ trữ tình Việt Nam trung đại đã
được nhiều nhà nghiên cứu đề cập ở rất nhiều phạm vi, góc độ và mức độ khác
nhau. Đề cập đến thơ trữ tình Việt Nam trung đại và hình tượng người phụ nữ trong
văn học, có thể kể đến một vài công trình có liên quan:
Trong Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Trần Đình Sử đề
cập đến nhiều vấn đề về thi pháp văn học trung đại Việt Nam. Trong đó, có chương
“Các thể thơ trữ tình” [32, tr.167] miêu tả phạm vi, diện mạo và tiến trình thơ trung
đại Việt nam, đồng thời đi vào một số đặc điểm thế loại cụ thể như: thơ tự tình,
ngâm khúc, hát nói.
Bùi Duy Tân với tác phẩm Khảo và luận một số thể loại - tác gia - tác phẩm
văn học trung đại Việt Nam (tập II) đã khảo sát “Về quan niệm văn học trung đại
Việt Nam” [33, tr.38), “Sơ lược về một số thể loại văn học trung đại Việt Nam” [33,
tr.83] và “Vấn đề thể loại trong văn học Việt Nam thời cổ” [33, tr.95] có nói đến
một số thể thơ chính và tiêu chí phân chia thể loại thơ trung đại Việt Nam.
Nguyễn Đăng Điệp trong tác phẩm Giọng điệu trong thơ trữ tình có nhắc
đến một số vấn đề về “Giọng điệu trong thơ ca trung đại” [12, tr.138], công trình
này đặt thơ ca trung đại trong hệ thống thơ ca dân tộc từ thơ ca truyền thống đến
hiện đại. Tác giả cho rằng: “Yếu tố giọng điệu của chủ thể sáng tạo dù đã xuất hiện
trong thơ trữ tình trung đại, thể hiện ý thức quẫy đạp của các nhà thơ khỏi những
ràng buộc quy phạm đã có từ ngàn năm, song nhìn chung chưa thật rõ nét”; “giọng
điệu cá nhân chưa phát triển... khi xuất hiện những yếu tố của “tinh thần Phục
Hưng” (đặc biệt trong văn học nửa đầu thế kỷ XVIII), yếu tố cá nhân bắt đầu manh
nha được bộc lộ”...
3
Trần Nho Thìn với tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn
văn hóa có đề cập đến “Sáng tác thơ ca thời cổ và sự thể hiện “cái tôi” tác giả”
(tr.80) và “Sự thể hiện con người trong văn chương cổ” [36, tr.101], “Trào lưu chủ
tình của văn học Việt Nam thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX và dấu vết ảnh hưởng của
sách Thế thuyết tân ngữ” [36, tr.523] nói đến vai trò của “cái chủ quan”, cách thức
thể hiện “cái tôi” của nhà Nho trong thơ ca.
Trong quyển Văn học Việt Nam - Văn học trung đại (Những công trình
nghiên cứu) do Lê Thu Yến chủ biên đã tập hợp một số công trình nghiên cứu có
liên quan đến các tác giả mà chúng tôi khảo sát trong luận văn như những bài viết:
Thơ Bà Huyện Thanh Quan - Niềm vui và nỗi buồn (Trần Thị Băng Thanh), Văn
chương cô Xuân Hương (Hoàng Ngọc Phách), Góp thêm một tiếng nói trong việc
đánh giá thơ Hồ Xuân Hương (Đặng Thanh Lê), Tìm hiểu ý thức tư tưởng chủ đạo
trong thơ Hồ Xuân Hương (Nguyễn Nghiệp), Nhà thơ dòng Việt, Bà chúa thơ Nôm
(Xuân Diệu). Việc tìm hiểu về những nhà thơ và sự nghiệp sáng tác của họ tạo nên
tính hệ thống cho công trình nghiên cứu.
Nhìn chung, đây là vấn đề đã được đề cập riêng lẻ khi khảo sát tác phẩm của
một số nhà thơ tiêu biểu nhưng chưa có một công trình có hệ thống khảo sát trên
bình diện chung để thấy được toàn bộ diện mạo của người phụ nữ thơ ca giai đoạn
này. Qua việc tìm hiểu đề tài Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
thế kỷ XVIII - XIX, chúng tôi hy vọng góp thêm những hướng nghiên cứu mới, cách
tiếp cận mới về mảng thơ ca trữ tình Việt Nam trung đại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Những sáng tác văn học Việt Nam trong thế kỷ XVIII và XIX hết sức đồ sộ
ở nhiều thể loại khác nhau với đề tài, nội dung lẫn hình thức biểu hiện phong phú,
đa dạng. Đề tài Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam thế kỷ XVIII -
XIX giới hạn khảo sát những bài thơ trữ tình dung lượng ngắn (ở các thể thơ: tứ
tuyệt, bát cú, trường thiên) có sự xuất hiện của người phụ nữ (bao gồm cả bộ phận
thơ chữ Hán và chữ Nôm) trong cả tiến trình văn học Việt Nam trung đại, nhưng
4
đặc biệt đi sâu tìm hiểu hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình thế kỷ XVIII -
XIX ở cả hai bình diện nội dung và nghệ thuật.
Quá trình tổng hợp và phân loại những bài thơ được đề cập trong nghiên cứu
này chủ yếu dựa trên những bộ sách mang tính tổng hợp:
- Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (thế kỷ X - XIX) do Nhà xuất bản
Giáo dục phát hành.
- Tinh tuyển văn học Việt Nam do Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn
quốc gia, Nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành.
- “Tổng tập” tác phẩm của một số tác giả có vị trí quan trọng trong tiến trình
văn học trung đại và một số công trình khảo cứu có liên quan
Qua khảo sát những tác phẩm nói trên, chúng tôi tìm được một số bài thơ thể
loại thơ trữ tình của nhiều tác giả có đề cập vẻ đẹp ngoại hình, vẻ đẹp nội tâm, hoàn
cảnh, số phận hoặc tính cách của người phụ nữ, tình cảm của nhà văn đối với người
phụ nữ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam thế kỷ XVIII -
XIX đặt ra yêu cầu làm nổi bật những đặc điểm của hình tượng người phụ nữ trong
mảng thơ trữ tình văn học Việt Nam trung đại thế kỷ XVIII - XIX. Để giải quyết
những yêu cầu của đề tài, người viết sử dụng những phương pháp khoa học sau
trong quá trình nghiên cứu:
Phương pháp lịch sử - xã hội: Tìm hiểu về quá trình hình thành và phát
triển của thể loại thơ trữ tình, đồng thời tìm hiểu, đánh giá tần suất và nội dung của
thơ trữ tình viết về người phụ nữ trong văn học viết các giai đoạn trước. Qua đó,
xem xét ảnh hưởng của thời đại đến mối quan tâm đặc biệt của các nhà văn đối với
người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX.
Phương pháp loại hình: Sử dụng phương pháp loại hình để tìm hiểu đặc
điểm loại hình các thể thơ trữ tình nói chung, thơ trữ tình ở các dạng thức trọng
điểm mà đề tài đề cập đến nói riêng. Từ đó, rút ra những đặc trưng phân biệt thơ trữ
tình với các thể loại thơ khác. Đặc biệt, đề tài đi sâu vào những dạng thức tứ tuyệt,
5
bát cú, trường thiên, đồng thời tìm hiểu những biểu hiện của yếu tố trữ tình trong
các dạng thơ này.
Phương pháp phân tích - so sánh: Tìm hiểu những đặc trưng của thơ
Đường, của thơ ca dân gian Việt Nam để có một cái nhìn khái quát về tiến trình văn
học trung đại. Đồng thời, xem xét những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển văn
học viết nói chung, thơ trữ tình thế kỷ XVIII - XIX nói riêng, từ đó thấy được quá
trình phát triển trong mối tương quan nhiều mặt.
Phương pháp tâm lý học: Tìm hiểu tâm lý học sáng tác để có cái nhìn rõ nét
về cách thể hiện hình ảnh người phụ nữ, cách lựa chọn dạng thức thơ phù hợp trong
thể loại thơ trữ tình của các tác giả trung đại Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX. Bên
cạnh đó, tìm hiểu tâm lý học tiếp nhận để có cái nhìn tổng quan trong việc tiếp nhận
văn học qua sự đánh giá của nhiều thành phần độc giả khác nhau.
Phương pháp hệ thống: Đặt các tác phẩm nghiên cứu vào hệ thống thể loại
thơ để làm nổi bật đặc trưng thể loại, liên hệ tác phẩm với các tác phẩm của cùng
tác giả hoặc các tác phẩm có liên quan để có sự tiếp nhận, đánh giá một cách khách
quan về các tác phẩm nghiên cứu.
Phương pháp tổng hợp: Sưu tầm và tìm hiểu các tác phẩm trong mối tương
quan thời đại để có cái nhìn chính xác về sự phát triển của thơ trữ tình và hình
tượng người phụ nữ trong văn học Việt Nam trung đại.
Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp này không hoàn toàn tách rời
mà kết hợp lẫn nhau, bổ sung và hỗ trợ cho nhau để làm sáng tỏ vấn đề đặt ra.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài “Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam thế kỷ
XVIII - XIX”, trước hết, chúng tôi hy vọng đóng góp được một cái nhìn tương đối
bao quát và toàn diện về hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình thế kỷ XVIII -
XIX ở cả phương diện nội dung và nghệ thuật, bởi từ trước đến nay, mảng thơ này
tương đối ít được đề cập đến hoặc nếu có cũng chỉ là nội dung thơ của một vài tác
giả tiêu biểu. Quá trình tìm hiểu về hình tượng người phụ nữ từ thế kỷ X - XVII sẽ
6
tạo được cái nhìn bao quát, toàn diện về đối tượng nghiên cứu, trở thành bước đệm
khẳng định thành tựu của thơ trữ tình thế kỷ XVIII - XIX về người phụ nữ.
Thông qua những kết quả nghiên cứu đạt được, chúng tôi cũng hy vọng góp
phần chứng minh cho những thành tựu của văn học thế kỷ XVIII - XIX, giai đoạn
được đánh giá là phát triển rực rỡ và toàn diện nhất trong lịch sử văn học trung đại.
6. Kết cấu của luận văn
Xác định lý do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, đối tượng - phạm vi nghiên cứu,
mục đích và phương pháp nghiên cứu như trên. Để làm rõ những yêu cầu mà đề tài
đặt ra, chúng tôi trình bày hướng phát triển của đề tài như sau:
Chương 1. Khái quát về thơ trữ tình viết về người phụ nữ trong văn học
trung đại Việt Nam
Ở chương này, chúng tôi trình bày khái quát về đặc điểm thơ trữ tình Việt
Nam trung đại (thế kỷ X - XIX), tìm hiểu hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ
tình thế kỷ X - XVII và sự phát triển phong phú, đa dạng của thơ trữ tình viết về
người phụ nữ thế kỷ XVIII - XIX.
Chương 2. Chân dung người phụ nữ trong thơ trữ tình thế kỷ XVIII -
XIX
Chúng tôi đi sâu khai thác hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình thế kỷ
XVIII - XIX ở phương diện nội dung. Cụ thể là tìm hiểu về đối tượng ở khía cạnh
vẻ đẹp, tài năng, số phận và khát vọng của người phụ nữ qua cái nhìn của các tác
giả đương thời. Đồng thời tìm hiểu thái độ, tình cảm của tác giả khi miêu tả hình
tượng người phụ nữ.
Chương 3. Nghệ thuật khắc họa chân dung người phụ nữ trong thơ trữ
tình thế kỷ XVIII - XIX
Nghiên cứu nghệ thuật thể hiện chân dung người phụ nữ ở thể thơ, nghệ
thuật sử dụng hình ảnh và ngôn từ. Qua đó, xem xét đặc trưng của hai bộ phận thơ
chữ Hán và chữ Nôm đã ảnh hưởng như thế nào đến các phương diện nghệ thuật ấy.
Phần kết luận - Kết luận ngắn gọn về những vấn đề đã nêu ở phần nội dung,
khẳng định sự phát triển của hình tượng người phụ nữ trong văn học (XVIII - XIX).
7
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ THƠ TRỮ TÌNH
VIẾT VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
1.1. Khái quát về thơ trữ tình trung đại
1.1.1. Khái niệm thơ trữ tình
Văn học Việt Nam trung đại từ thế kỷ X đến hết XIX là một chặng đường dài
với sự thay đổi, phát triển nhiều mặt được thể hiện qua những tác phẩm của một lực
lượng sáng tác đông đảo bao gồm nhiều thành phần. Tỉ lệ thuận với sự phong phú
trong nội dung là sự phát triển về hình thức của tác phẩm văn học. Riêng với những
sáng tác thơ, sự phát triển hình thức thể hiện ở cách tác giả sáng tạo ra những hình
thức phù hợp với nội dung muốn chuyển tải, tạo ra những thể tài mới từ nguồn
nguyên liệu cũ (những cái sẵn có).
Thuật ngữ “thơ trữ tình” được chúng tôi sử dụng để giới hạn, làm rõ đối
tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài. Khái niệm “thơ trữ tình” là một khái niệm
hiện đại, bởi các nhà thơ trung đại chưa bao giờ gọi thơ mình là “thơ trữ tình”. Thơ
trữ tình trung đại Việt Nam phong phú về thể thơ, phần lớn được các tác giả “làm
trong các dịp tiễn tặng, họa thơ người khác, đề thơ làm kỷ niệm, tức cảnh, tức sự,
thư sự, tức là làm thơ theo sự đòi hỏi, khêu gợi của ngoại cảnh. Và khi muốn bộc lộ
nỗi lòng thì họ gọi là “Ngôn hoài”, “Thuật hoài”, “Ngôn chí”, “Tự tình”, “Tự
thuật”, “Mạn thuật”, “Trần tình”. Những tên gọi này rất đáng chú ý. “Chí”,
“tình”, “hoài”, “sự”, “cảnh”… là nội dung trữ tình, còn “thuật”, “ngôn”, “tự”,
“trần”… là cách trữ tình. “Thuật” là kể, “tự” cũng là kể, “ngôn” là nói ra, là
tuyên bố cho mọi người biết, “trần” là bày tỏ. Có thể xem đó là những dấu hiệu đặc
trưng của ý thức trữ tình truyền thống: trữ tình bằng cách thuật kể nỗi lòng mình,
cảm xúc, chí hướng của mình” [32, tr.170-171].
Con người trong thơ trữ tình được đặt trong hệ tọa độ của cuộc sống đời
thường, phản ánh tâm tư tình cảm con người bình thường với vai trò bình thường
gắn với gia đình, với xã hội. Nội dung thơ trữ tình rất phong phú, đa dạng và không
hạn chế, bó hẹp trong một khuôn khổ nhất định nào. Các tác giả làm thơ có thể chỉ
đơn giản là bộc lộ sự rung động trước một cảnh thiên nhiên đẹp, một con người đẹp,
8
một hành động đẹp… hoặc thể hiện cách nhìn, quan điểm trước nhiều vấn đề: từ
những vấn đề mang tính chất xã hội đến những vấn đề trong phạm vi cá nhân riêng
tư. Tóm lại, những bài thơ có tính chất bộc lộ cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ, chí
hướng của tác giả đều có thể xem là thơ trữ tình. Về hình thức, thơ trữ tình trung đại
từ thế kỷ X - XIX được sáng tác ở nhiều thể nhưng phổ biến nhất vẫn là các thể thơ
Đường luật: tứ tuyệt, bát cú, trường thiên bằng cả chữ Hán và chữ Nôm.
Khi phân chia thể loại (hay thể tài) tác phẩm văn học, người ta thường căn cứ
vào ba loại tiêu chí chủ yếu là: “tố chất thẩm mĩ chủ đạo”, “giọng điệu”, “dung
lượng và cấu trúc chung của tác phẩm” [1, tr.188]. Một tổng hòa các tiêu chí như
vậy làm nên “nòng cốt” (hay mô hình) thể loại. Nhìn từ góc nhìn loại hình, khái
niệm thơ trữ tình là một khái niệm quy định nội dung của một tác phẩm văn học ở
phương thức phản ánh đời sống. Thơ trữ tình là sự kết hợp giữa thể thơ (thể song
thất lục bát, thể thất ngôn tứ tuyệt, thể thất ngôn bát cú, thể trường thiên…) và loại
trữ tình tạo nên thể loại thơ mang đậm chất trữ tình. Thơ chất chứa tâm tư tình cảm
của tác giả nhưng vẫn tuân theo quy định của thể thơ. Thơ có thể rất ngắn (bốn câu
như thơ tứ tuyệt) hoặc dài hơn (vài chục câu đến hàng trăm câu như thể trường
thiên) tùy thuộc vào mạch cảm xúc của tác giả, thơ trữ tình hoàn toàn khác với
truyện thơ (là sự kết hợp giữa loại tự sự và loại trữ tình) hoặc những khúc ngâm, hát
nói… về mặt thể loại.
Đề tài của chúng tôi tập trung khai thác những bài thơ trữ tình miêu tả hình
tượng người phụ nữ thế kỷ XVIII - XIX… Cụ thể, chúng tôi đi sâu khai thác những
bài thơ tứ tuyệt, bát cú, trường thiên (mà số từ ở câu thơ có thể là ngũ ngôn, lục
ngôn, thất ngôn…) trong cả thơ tự do (giống như thơ cổ phong Trung Quốc - chỉ có
vần chứ không tuân theo niêm luật bằng trắc nhưng vẫn đảm bảo tính nhạc điệu của
thơ) và thơ Đường luật miêu tả trực tiếp chân dung người phụ nữ hoặc gián tiếp thể
hiện tình cảm của các tác giả đối với người phụ nữ.
Như vậy, theo đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, có thể định nghĩa
thơ trữ tình trung đại là những bài thơ có dung lượng ngắn từ vài câu cho đến hàng
trăm câu ghi nhận cảm xúc, bộc lộ suy nghĩ, tâm trạng và chí hướng của tác giả.
9
Thơ trữ tình là một bộ phận quan trọng cấu thành tổng thể của nền văn học
trung đại Việt Nam rực rỡ thành tựu. Trải qua mỗi thời kỳ, thơ trữ tình cùng với
những thể loại văn học khác luôn luôn vận động và phát triển theo hướng phát triển
của lịch sử dân tộc, từng bước thoát ra khỏi tầm ảnh hưởng của văn chương Trung
Hoa, khẳng định bản sắc dân tộc đậm nét.
1.1.2. Đặc điểm và sự phát triển của thơ trữ tình trung đại
Văn học Việt Nam trung đại được xác định cột mốc từ thế kỷ X đến hết thế
kỷ XIX bao gồm hai bộ phận lớn là bộ phận văn học chữ Hán và bộ phận văn học
chữ Nôm. Ở cả hai bộ phận ấy, thơ trữ tình phát triển một cách phong phú và đa
dạng về cả nội dung lẫn hình thức. Hầu hết các tác giả trung đại đều có sáng tác thơ
trữ tình, số lượng lẫn chất lượng thơ được ghi nhận với một lực lượng sáng tác đông
đảo, hùng hậu.
1.1.2.1. Đặc điểm và sự phát triển của thơ trữ tình trong văn học thượng
kỳ trung đại
Giai đoạn thượng kỳ trung đại là giai đoạn hết sức quan trọng, đóng vai trò
nền móng cho toàn bộ nền văn học Việt Nam. Đây là thời kỳ văn học Việt Nam
phát triển trong quá trình hoàn chỉnh dần những đặc trưng về nội dung và hình thức
nghệ thuật dân tộc cổ truyền, trên cơ sở tiếp thu ảnh hưởng của văn hóa văn học
nước ngoài. Tính chất nền móng sẽ quy định hệ thống cấu trúc cũng như quy mô,
phương hướng phát triển của văn học sau này.
Ở giai đoạn đầu của nền văn học viết, nội dung của các tác phẩm tuy không
bó hẹp trong một đối tượng cụ thể nào nhưng phần lớn đề tài văn học vẫn là những
vấn đề mang tính chất cộng đồng. Nội dung văn học rất phù hợp với đặc điểm
chung của bộ phận văn học chữ Hán - ghi nhận những cảm xúc, suy nghĩ mang tính
chất nghiêm túc, trang trọng. Văn học Việt Nam giai đoạn thượng kỳ trung đại phát
triển trong hoàn cảnh đất nước liên tục giành những chiến thắng rực rỡ với ngoại
bang phương Bắc: hai lần chiến thắng quân Tống, ba lần chiến thắng quân Nguyên
Mông, kết thúc hai mươi năm chiến đấu và chiến thắng quân Minh. Hòa cùng
không khí chiến đấu và chiến thắng của dân tộc, văn học thời kỳ này xem khẳng
10
định dân tộc là chủ đề cơ bản, là tinh thần, là cảm hứng chủ đạo, đồng thời là nội
dung trực tiếp, là phương hướng tư tưởng dẫn dắt việc lựa chọn đề tài và loại thể
văn học. Cảm hứng yêu nước, tự hào dân tộc là cảm hứng chủ đạo, chi phối những
cảm hứng khác.
Bộ phận văn học chữ Nôm xuất hiện vào thế kỷ XIII đánh dấu bước nhảy vọt
của tinh thần văn hóa dân tộc. Những tác phẩm văn chương chữ Nôm đã bắt đầu
xuất hiện từ cuối thế kỉ XIII nhưng chưa ghi được dấu ấn đáng kể (Quốc âm thi tập
của Nguyễn Trãi là thành tựu lớn nhất của bộ phận văn học chữ Nôm giai đoạn
đầu). Thành tựu văn học giai đoạn này được ghi nhận chủ yếu là các tác phẩm văn
chương viết bằng chữ Hán bao trùm hào khí Đông A thể hiện tinh thần yêu nước,
chống xâm lược và tự hào dân tộc:
- “Đề thi khắc vu thạch
Trấn ngã Việt tây ngô”
(Thân chinh phục Lễ Châu - Lê Thái Tổ)
- “Đạo bút phải dùng tài đã vẹn
Chỉ thư này chép việc càng chuyên
Vệ Nam mãi mãi ra tay thước
Điện Bắc đà đà yên phận tiên”
(Bảo kính cảnh giới VI - Nguyễn Trãi)
Đây “là giai đoạn thịnh đạt của văn chương bác học theo thể chế, khuôn
thước Đường Tống, gồm thơ, phú và rất ít văn. Thơ, phú phát triển mạnh và có
những thành tựu cao, văn chính luận cũng vậy, nhưng cổ văn theo khuôn khổ
Đường Tống bát đại gia thì cực kỳ hiếm” [33, tr.135]. Nghĩa là, so với phú, kí và
các thể loại văn chính luận như chiếu, biểu, hịch, cáo… thì thơ trữ tình giai đoạn
này không thua kém cả về số lượng và chất lượng.
Từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XIII, thơ trữ tình tồn tại chủ yếu dưới hình thức
những bài kệ của các thiền sư thể hiện cảm hứng vô vi theo tư tưởng Phật giáo:
Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt), Đáp quốc vương quốc tộ chi vấn (Pháp Thuận
thiền sư), Vương lang quy từ (Ngô Chân lưu), Thị đệ tử, Tật lê trầm Bắc thủy (Vạn
11
Hạnh thiền sư), Cáo tật thị chúng (Mãn Giác thiền sư), Sinh lão bệnh tử (Diệu Nhân
ni sư), Thị tật (Quảng Nghiêm thiền sư), Đáp Từ Đạo Hạnh vấn chân tâm (Kiều Trí
Huyền), Thất châu (Đạo Hạnh thiền sư), Cảm hoài (Kiều Phù), Quy thanh chướng
(Phan Trường Nguyên), Quy tịch (Bảo Giác)… và thơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng
thiền (thơ thiền): Thị chư Thiền lão tham vấn Thiền chỉ (Lý Thái Tông), Truy tán
Vạn Hạnh thiền sư, Tán Giác Hải thiền sư, Thông Huyền đạo nhân (Lý Nhân
Tông), Tặng Quảng Trí thiền sư, Điệu Chân Không thiền sư (Đoàn Văn Khâm), Sắc
không (Lê Thị Ỷ Lan)… Thơ thiền là một mảng sáng tác nổi bật của văn học
thượng kỳ trung đại. Các tác giả cảm nhận sự toàn vẹn của thế giới, của vũ trụ, của
tự nhiên trong mối giao hòa, đồng điệu với con người. Mọi cảm xúc, cảm giác diễn
ra tự nhiên được cô đúc lại bằng ngôn từ hàm súc, người viết cảm nhận bằng tâm và
người đọc cũng tiếp nhận bằng tâm. Ở đây, tính chất phi ngã của văn chương Việt
Nam trung đại bộc lộ hết sức rõ nét:
- “Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”
(Cáo tật thị chúng - Mãn Giác Thiền Sư)
- “Khách lai bất vấn nhân gian sự,
Cộng ỷ lan can khán thúy vi”
(Xuân cảnh - Trần Nhân Tông)
Tính chất phi ngã tạo nên một thế giới thơ thiền vừa khép kín lại vừa rộng
mở, vừa đơn giản lại vừa thâm thúy sâu xa… Nghiêm Vũ trong Thương lang thi
thoại đã cảm nhận về thơ: “Thơ có tài riêng không liên quan đến sách. Thơ có thú
riêng không liên quan đến lý. Đạo thơ ở chỗ diệu ngộ. Chỗ diệu kỳ của nó thấu
triệt, lung linh, không thể nắm bắt như thanh âm giữa trời, sắc đẹp trong dung
nhan, ánh trăng dưới đáy nước. Lời có hạn mà ý vô cùng” [tr.377].
Khoảng cuối thế kỷ XIII - XIV, số lượng tác giả và tác phẩm dần tăng lên,
thơ trữ tình phần nhiều được ghi nhận trong các tập thơ: Thái Tông thi tập (Trần
12
Thái Tông), Thánh Tông di tập (Trần Thánh Tông), Nhân Tông thi tập (Trần Nhân
Tông), Lạc đạo tập (Trần Quang Khải), Phi sa tập (Nguyễn Thuyện), Cúc hoa bách
vịnh (Trương Hán Siêu), Tiều Ẩn thi tập (Chu Văn An), Hiệp Thạch tập (Phạm Sư
Mạnh), Nhị Khê thi tập (Nguyễn Phi Khanh)… cùng một số bài thơ có giá trị khác
của các tác giả: Đặng Dung (Cảm hoài), Lê Cảnh Tuân (Cống Châu giang trung
phùng tiên tỉ kỵ nhật, Nguyên nhật, Mông Lý dịch ngẫu thành), Phạm Ngũ Lão
(Thuật hoài, Vãn thượng tướng quốc công Hưng Đạo đại vương), Phạm Ngộ (Yết
vạn tai từ đường, Đại Than dạ bạc, Thu dạ tức sự, Hỷ tình, Vãn cảnh)… Hầu hết là
thơ vịnh cảnh, thơ đi sứ, trong đó, rất nhiều thơ vịnh cảnh và thơ “ngôn chí” được
làm trong lúc các tác giả đi sứ.
- “Hào cảnh phùng nguyên nhật,
Vô gia mẫn thử thân”
(Cảnh đẹp lại ngày đầu năm,
Thương thân vì nước xa xăm quê nhà)
(Nguyên nhật giang dịch - Lê Cảnh Tuân)
- “Trí chúa hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà”
(Giúp chúa những lăm giằng cốt đất,
Rửa dòng không thể vén sông mây)
(Cảm hoài - Đặng Dung)
Nửa đầu thế kỷ XV lực lượng sáng tác (hầu hết là các nho sĩ) có nhiều biến
động do tình hình lịch sử - xã hội của đất nước. Một số nhà nho có thái độ tích cực,
tham gia vào cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước khi kháng chiến thắng lợi như
Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Đào Công Soạn, Nguyễn Thiên
Tích, Phan Phu Tiên, Lê Thiếu Dĩnh… một số khác không chịu cộng tác với giặc
nên đã chọn giải pháp ẩn dật, lánh đời như Nguyễn Húc, Lý Tử Cấu, Vũ Mộng
Nguyên… Tác phẩm của các tác giả này khá phong phú về thể loại (phú, cáo, thơ).
Thơ trữ tình có thể kể đến: Ức Trai thi tập (Nguyễn Trãi), Chuyết Am thi tập (Lý Tử
Tấn), Cúc Pha thi tập (Nguyễn Mộng Tuân), Vị Khê thi tập (Vũ Mộng Nguyên), Hạ
13
Trai thi tập (Lý Tử Cấu), Tiết Trai thi tập (Lê Thiếu Dĩnh), Trúc Khê thi tập (Trình
Thanh)… Đặc biệt, thơ Nôm thời kỳ này có bước tiến mới với Quốc âm thi tập (còn
lại 254 bài thơ) của Nguyễn Trãi sử dụng hoàn toàn chữ Nôm với ý thức vận dụng
tính chất độc đáo của ngôn ngữ dân tộc để nêu cao bản sắc Việt Nam:
- “Tay ai thì lại làm nuôi miệng,
Làm biếng ngồi ăn lở núi non”
(Bảo kính cảnh giới, XXII )
- “Ngõ tênh hênh, nằm cửa trúc,
Say lểu thểu, đứng đường thông”
(Thuật hứng, XVI)
- “Nếu có ăn thì có lo,
Chẳng bằng cài cửa ngáy pho pho”
(Ngôn chí, XIX)
Nửa sau thế kỷ XV, văn học được thúc đẩy mạnh mẽ với lực lượng sáng tác
là vua, quan và các nhà nho. Văn học chữ Hán nhìn chung vẫn trên đà phát triển
mạnh mẽ: Châu cơ thắng thưởng, Chinh tây kỷ hành, Minh lương cẩm tú, Văn minh
cổ xúy, Quỳnh uyển cửu ca, Cổ tâm bách vịnh (Lê Thánh Tông), Châu Khê thi tập
(Nguyễn Bảo), Hu Liêu tập (Nguyễn Trực), Hợp tuyển thơ Nôm Hồng Đức Quốc
âm thi tập (nhiều tác giả)…
Do điều kiện lịch sử quy định, văn hóa Việt Nam đã chịu ảnh hưởng của
nhiều nền văn hóa nước ngoài, trong đó, ảnh hưởng sâu sắc nhất là từ văn hóa
Trung Quốc, Ấn Độ, Pháp... Ở giai đoạn thượng kỳ trung đại, nước ta tuy đã thoát
khỏi ách thống trị của phong kiến phương Bắc và xây dựng nền độc lập tự chủ dân
tộc nhưng ở một mức độ nhất định, vẫn còn chịu sự chi phối nhiều mặt (quan niệm
thẩm mỹ, quan niệm văn chương, ngôn ngữ văn tự và thể loại văn học) của Trung
Quốc. Đặc biệt là ảnh hưởng một cách sâu rộng về văn hóa gây ra sự chi phối suốt
một chặng đường dài văn học trung đại Việt Nam. Sự thâm nhập và truyền bá Phật
giáo, Nho giáo, Đạo giáo đã tạo nên dấu ấn rõ nét trong các sáng tác ở giai đoạn đầu
mà lực lượng sáng tác chủ yếu là tầng lớp trên (vua, quan, các nhà nho…). Biểu
14
hiện “Văn dĩ tải đạo” (văn chở đạo) và “Thi dĩ ngôn chí” (thơ để nói chí) là hai
biểu hiện đặc trưng cho quan niệm văn học Nho giáo từ Trung Quốc ảnh hưởng đến
nhiều phương diện của cả nền văn học trung đại nước ta.
Thơ trữ tình trung đại với kiểu nhà thơ “ngôn chí” đặt việc tỏ lòng lên hàng
đầu là một ảnh hưởng của mô hình kiểu nhà thơ trung đại Trung Hoa - kiểu nhà thơ
“tâm vật cảm ứng”. Trong kiểu tác giả này, “việc “ngôn chí” được nêu lên hàng
đầu, như một yêu cầu tu dưỡng, khẳng định lý tưởng, lẽ sống. Nhà Nho coi trọng
tính độc lập của nhân cách theo lời dạy của Khổng Tử: “Chí ư đạo, cứ ư đức, y ư
nhân, du ư nghệ”, nghĩa là: chí hướng về đạo, dựa vào đức, nương theo nhân, tìm
thú vui trong lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số. Đặc biệt đề cao khí tiết thanh cao, mạnh
mẽ” [32, tr.106]. Thơ ngôn chí thiên về khẳng định chí hướng, lí tưởng, hoài bão,
tấm lòng; mang tính chất tuyên ngôn, công bố lập trường, thái độ có tính chất lí
tính.
Vắng bóng cái tôi trữ tình cá thể là một nguyên tắc thi pháp và là một cách
thể hiện nghệ thuật của thơ ca trung đại. Đây là một biểu hiện của cấu tứ thơ Đường
Trung Hoa - trọng quần thể nhẹ cá thể - các nhà thơ khéo léo ẩn giấu cái tôi cá nhân
đi mà đứng trên một lập trường tách biệt để phát biểu, cũng có nghĩa là các tác giả
không phát ngôn với tư cách cá nhân mà phát ngôn với tư cách cộng đồng, nói
những vấn đề của cộng đồng. “Ai cũng mong “chở đạo đi xa” thu nhỏ cá nhân
mình lại và tránh phải đưa ra những ý kiến riêng tư độc đáo của mình. Cái tôi trữ
tình, thậm chí cái ta đạo lý ít nhiều đều bị hạn chế” [33, tr.32]. Thơ ca trung đại
mang tính chất vô ngã, các nhà thơ trung đại có ý thức giấu đi bản ngã bởi theo
quan niệm của các nhà thơ thời bấy giờ, cái tôi càng ẩn kín thì thơ càng hàm súc,
gợi mở. Thơ trữ tình giai đoạn này cũng không nằm ngoài sự chi phối của đặc điểm
trên.
Tính chất phi ngã trong văn học còn là để thực hiện chức năng giáo hóa, tính
chất giáo huấn. Để làm tốt nhiệm vụ “tải đạo”, “ngôn chí” các tác giả thường chú
trọng đến việc nêu bật đạo lý thánh hiền, cố gắng xóa nhòa cá nhân mình để tạo ra
sức lan tỏa, tính đại chúng cho tác phẩm. “Lời thơ trong thơ trung đại không nhấn
15
mạnh chủ ngữ, ít có dấu giọng, ngữ điệu lời nói rất hiếm khi xuất hiện” [12, tr.157].
Do sự thiếu vắng của chủ thể trữ tình, hình tượng tác giả trong thơ trữ tình trung đại
được giấu kín, cái tôi ít xuất hiện một cách trần trụi, con người không là của chính
mình mà là của cộng đồng, “lời thơ trung đại là lời thơ không của ai cả” [12,
tr.152]. Nhà thơ không bộc lộ toàn bộ cách nhìn, cách cảm của mình, tiếng nói của
tác giả thông qua thơ không mang tính chất phát ngôn đúng nghĩa. Thơ trung đại do
vậy nên có tính mở cao, hướng ra cộng đồng chứ không bó hẹp trong phạm vi cá
nhân tác giả, người phát ngôn thơ ấy không đồng nhất với tác giả.
Ở giai đoạn thế kỷ X - XV, các tác giả chú trọng đề cao mục đích giáo huấn,
tôn thờ tư tưởng trung quân ái quốc. Nội dung của thơ trữ tình không tách rời khỏi
“đạo” và “chí”:
- “Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng”
(Thuật hứng 5 - Nguyễn Trãi)
- “Đội trời đạp đất chốn trần ai,
Chí khí đường đường há chịu sai”
(Ngôn hoài - Nguyễn Chế Nghĩa)
- “Nam nhi vi liễu công danh trái,
Tư thính nhân gian thuyết Vũ hầu”
(Thuật hoài - Phạm Ngũ Lão)
Thơ trữ tình thời gian đầu phảng phất phong vị Trung Hoa ở cách các tác giả
chọn thể loại, ngôn từ; cảm hứng trách nhiệm (thường viết về các đề tài chính trị,
thời sự, nhân sinh), cảm hứng thuận tự nhiên (vô vi, vô vi nhi vô bất vi), cảm hứng
thoát tục, trọng quần thể nhẹ cá thể (xem trọng cái cộng đồng hơn cá nhân), tìm
kiếm sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người, các nguyên tắc biểu hiện (gợi mà
không tả, ngôn ngoại chi ý…). Nhưng vượt lên trên những ảnh hưởng mang tính
chất tất yếu đó thì “người Việt Nam thông minh, năng động và giàu bản lĩnh, văn
hóa Việt Nam hòa nhập những không hòa tan. Cái phần tinh túy nhất của thơ
Đường nói riêng và thơ cổ Trung Quốc nói chung đã được ông cha ta tiếp thu, Việt
16
Nam hóa để làm giàu thêm truyền thống văn hóa của chúng ta” [36, tr.29]. Văn học
nước ta đã tạo được nét đặc sắc bởi sự sáng tạo từ trong chính những ảnh hưởng đó.
Ngay trong giai đoạn thế kỷ X - XV, các tác giả đã bước đầu thấy được tác dụng
nhận thức cuộc đời từ quan niệm “Văn dĩ tải đạo” trong văn học:
“Nhân gian thử cảnh thùy miêu đắc
Tá dữ thi ông vị tả chân”
(Cảnh nhân gian này ai vẽ nên được
Hãy để cho nhà thơ mượn để tả chân)
(Tầm Mai kiều ngoạn nguyệt - Phạm Nhữ Dực)
Sự thâm nhập của văn học Trung Quốc dẫu đã tạo nên ảnh hưởng toàn diện
và to lớn đến hầu hết các mặt của một tác phẩm văn học nhưng các tác giả đã dần có
ý thức thoát ra khỏi những ảnh hưởng đó để tạo ra một nền văn chương mang đậm
bản sắc dân tộc. Quá trình tiếp thu và thay đổi để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh
của dân tộc đó “là điều hiếm thấy trong quan hệ giao lưu văn hóa giữa các dân
tộc” [36, tr.27]. Tuy khẳng định văn học Việt Nam trung đại chịu ảnh hưởng hết
sức sâu đậm từ văn học Trung Hoa nhưng cũng không thể phủ nhận những nỗ lực,
những đóng góp tích cực để sáng tạo cái mới song song với việc tiếp thu cái đã có
của các tác giả trung đại Việt Nam. Đây là một trong những yếu tố mang tính chất
quyết định diện mạo và tiến trình văn học Việt Nam.
“Nước Việt Nam ta lấy văn hiến dựng nước, thi ca thai nghén từ đời Lý,
thịnh vượng ở đời Trần, dấy lên rầm rộ vào thời Hồng Đức triều Lê. Một bộ phận
Toàn Việt thi lục về cổ thể thì không nhường thi ca đời Đường, Tống, Nguyên,
Minh… nhả ngọc phun châu thật đáng coi là “thi ca chi bang”.
Lội qua bến bờ của Trình Hạo, Chu Hy, vượt lên vương quốc của Khuất
Nguyên Tống Ngọc, đi vào cung thất của Y Doãn, Chu Đán, ra khỏi con đường của
Lý Bạch, Đỗ Phủ…” (Bài tựa trong Tinh sà kỉ hành của Phan Huy Ích) [37, tr.29].
Có thể nói, về nội dung, thơ trữ tình thế kỷ X - XV chủ yếu xoay quanh các
vấn đề: đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc; ảnh hưởng rõ nét của triết lý
Thiền tông (tư tưởng Phật giáo); các tác giả có xu hướng sáng tác nhằm thể hiện chí
17
hướng, thở than về thời cuộc (nói đạo, nói chí). Về hình thức, thơ được sáng tác chủ
yếu bằng chữ Hán, ở thể thất ngôn tứ tuyệt và thất ngôn bát cú (thể ngũ ngôn hoặc
trường thiên cổ phong gần như không đáng kể). Bút pháp thơ chịu ảnh hưởng sâu
sắc của văn chương Trung Hoa về nhiều mặt, nhưng xét riêng ở phương diện thơ
mang hơi hướng Phật giáo, cũng đã tạo được một khoảng trống riêng cho sự sáng
tạo của người nghệ sĩ, phần nào thoát khỏi những quy chuẩn mang tính chất sáo
mòn cũ. Thơ trữ tình bằng chữ Nôm tuy chưa nhiều và chưa ghi được dấu ấn đậm
nét nhưng cũng đã có ý nghĩa nền tảng cho sự phát triển của bộ phận văn học chữ
Nôm các thế kỷ kế tiếp.
Như vậy, thơ trữ tình Việt Nam giai đoạn thượng kỳ trung đại có đội ngũ tác
giả đông đảo, tác phẩm phong phú đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Các tác
phẩm giai đoạn này tập trung khai thác cảm hứng thời đại, song hành cùng lịch sử
dân tộc. “Văn học đã phản ánh trung thực một xã hội khá vui tươi và hạnh phúc,
một đời sống tinh thần đặc biệt cởi mở, nhiều chất dân chủ và tự do nuôi lớn những
con người có tâm hồn cao rộng, khí phách hào hùng và bản lĩnh mạnh mẽ” [39,
tr.50]. Tuy bộ phận văn học chữ Hán vẫn giữ vị trí chính thống nhưng văn học chữ
Nôm đã sớm xuất hiện, đặt nền móng cho những sáng tác có vị trí trên diễn đàn văn
học ở những thế kỷ sau.
1.1.2.2. Đặc điểm và sự phát triển của thơ trữ tình trong giai đoạn hạ kỳ
trung đại
Thơ trữ tình thế kỷ XVI đến hết thế kỷ XIX tiếp nối những thành tựu của văn
học giai đoạn trước cả về nội dung và hình thức với những tác gia - tác giả nổi bật,
bên cạnh đó, cũng có những bước phát triển mới vượt bậc tạo tiền đề cho văn học
giai đoạn sau.
Thành lũy của ý thức hệ phong kiến rạn nứt và sụp đổ đã kéo theo sự thoái
trào không cưỡng lại được của văn chương giáo lý nhà Nho. Không còn sự ràng
buộc về nhiều mặt, văn học giai đoạn này có điều kiện phát triển phong phú cả về
nội dung và hình thức. Với những thành quả đáng tự hào về cả số lượng và chất
lượng tác phẩm, văn học dần trưởng thành theo từng chặng đường lịch sử của dân
18
tộc. Văn học từ sau thế kỷ XV mà đặc biệt là văn học thế kỷ XVIII - XIX được
đánh giá là bước chuyển mình quan trọng, đưa văn học Việt Nam chuyển từ thời kỳ
trung đại sang hiện đại.
Nhu cầu bộc lộ tình cảm riêng tư, ý thức cá nhân của các nhà thơ trỗi dậy
mạnh mẽ (thể hiện qua nội dung tác phẩm). Bên cạnh bộ phận thơ chữ Hán vẫn
đang tiếp tục phát triển, thơ Nôm Đường luật với những bước đầu thể nghiệm ở
cuối giai đoạn thượng kỳ trung đại (từ nửa sau thế kỷ XVIII trở đi) đã có bước phát
triển và dần đạt đến độ hoàn thiện. Với những sáng tác của các tác giả nổi bật:
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Công Trứ,
Phan Văn Trị, Trịnh Doanh, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương… thơ Nôm Đường
luật đã có một bước phát triển vượt trội, chiếm vị trí chủ đạo với sự xuất hiện của
nhiều danh gia - kiệt tác, tạo được một chỗ đứng vững chắc trong tiến trình văn học
dân tộc.
Từ khoảng thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XVIII, chủ đề cơ bản của văn học
là khẳng định nhà nước phong kiến, đồng nghĩa với khẳng định chính quyền, đạo
đức, lễ giáo… phong kiến. Thế nhưng, bên cạnh khuynh hướng ca ngợi nhà nước
phong kiến một cách tuyệt đối thì văn học đã xuất hiện một khuynh hướng khác phê
phán những yếu kém, suy đồi của nhà nước phong kiến. Tuy nhiên, phê phán không
phải để phủ nhận xã hội phong kiến mà mục đích của việc phê phán này là để xã hội
phong kiến khắc phục những ung nhọt đang có, trở lại thời cực thịnh như lúc trước.
Cũng chính do quan niệm của Nho giáo thừa nhận cái chung mà không thừa nhận
cái riêng, thấy nghĩa vụ và bổn phận của con người, thấy đạo đức mà không thấy
cuộc sống nên văn học những thế kỷ này vẫn chưa xây dựng được những hoàn cảnh
mang tính chất tiêu biểu, chưa thật sự đi sâu và bám sát hiện thực.
- “Ngã kim dục triển phù nguy lực,
Vãn khước quan hà cựu đế thành”
(Ta muốn phù nguy ra sức giúp,
Quan hà thu lại cự kinh thành)
(Cự ngao đới sơn - Nguyễn Bỉnh Khiêm)
19
- “Mục kích ngoa bi thành cảm khái,
Bình Ngô công đức đối thương thương”
(Nhìn thấy tấm bia nằm mà lòng ngậm ngùi,
Công đức bình Ngô đối sánh với trời xanh)
(Phỏng Lam Sơn ngẫu thành, kỳ nhất - Giáp Hải)
Văn học trung đại thường xem trọng những khuôn phép của xã hội phong
kiến, nhấn mạnh tính chất giáo huấn với tính quy phạm cao, đến giai đoạn này đã có
một sự cơi nới về đối tượng. Văn học xuất phát từ cuộc sống và hướng đến con
người, các tác giả đã bắt đầu chú ý hơn đến những vấn đề mang tính chất đời
thường bao gồm nhiều vấn đề liên quan đến đạo đức, đến cuộc sống thực tại với
nhiều tầng lớp người, đến quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc và thân phận chịu
nhiều bất công của người phụ nữ… Đây là biểu hiện của trào lưu nhân đạo chủ
nghĩa trong văn học Việt Nam. Các tác giả lớn thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ
XVIII có thể kể đến Nguyễn Bỉnh Khiêm (tập thơ chữ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi
tập, tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập), Đào Nghiễm (Phượng thành tảo phát,
Lạng Sơn đạo trung, Thu hoài thứ ủy quan diêu kinh lịch thi vận, Kinh Liễu
Châu…), Vũ Cẩn (Bắc sứ Nhị Hà sơ phát, Pha Lũy dịch, Niệm Nhai ngẫu thành,
Minh Giang dịch…), Phùng Khắc Khoan (các tập thơ Ngôn chí thi tập, Huấn đồng
thi tập, Đa thức tập, Mai lĩnh sứ hoa thi tập), Nguyễn Đình Sách (Hoàng hoa thập
vịnh), Nguyễn Danh Nho (Cảm hứng, Mộ xuân cảm tác, Hoàng Hạc Lâu…),
Nguyễn Cư Trinh (Hà Tiên thập vịnh, Đạm Am thi tập, Quảng Ngãi thập nhị cảnh),
Mạc Thiên Tích (Hà Tiên thập vịnh)… Thơ đi sứ phong phú với rất nhiều thi tập
của các tác giả: Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Đình Sách, Đặng Đình Tướng, Nguyễn
Kiều, Đinh Nho Hoàn, Nguyễn Công Hãng, Nguyễn Tông Khuê…
- “Hà tất sơn trung minh nhiên hảo,
Phù sinh thiên nhật kỷ phân âm”
(Việc gì phải ở trong rừng và ngủ kỹ,
Nghìn ngày ở cõi phù sinh đáng mấy phân âm)
(Dạ ẩm - Phùng Khắc Khoan)
20
- “Bạc vàng là của trữ tiêu dùng,
Thành thị vốn đua tranh giành giật”
(Thơ Nôm, bài 69 - Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX, thành tựu của thơ trữ tình được
ghi nhận bởi một đội ngũ sáng tác đông đảo, hùng hậu, giàu vốn sống và trải
nghiệm: Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Phạm Thái,
Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ… Nhiều
tập thơ chữ Hán đặc sắc của Phạm Nguyễn Du, Ngô Thì Sĩ, Ngô Thế Lân, Nguyễn
Du, Cao Bá Quát, Tùng Thiện Vương… xuất hiện và gây được tiếng vang. Xuân
Hương thi tập của Hồ Xuân Hương được xem là thành tựu xuất sắc nhất của dòng
thơ Nôm Đường luật cuối thế kỷ XVIII bởi nội dung sắc sảo mang tính chất thời
đại, nghệ thuật điêu luyện vượt bậc. Khoảng cuối thế kỷ XVIII trở đi cũng là thời
gian “những cảm xúc suy ngẫm chân thành ít nhiều bao hàm yêu sách dân chủ và
nhân bản” [30, tr.464] được gieo mầm trong thơ Nguyễn Du, Nguyễn Huy Tự,
Đoàn Thị Điểm, Phạm Thái, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ,
Nguyễn Khuê, Dương Khuê… góp phần tạo nên sự bùng nổ của “cái khát vọng
thành thực” trong phong trào thơ mới sau này.
Cuối thế kỷ XIX, văn học hòa cùng không khí chống giặc ngoại xâm của dân
tộc, âm hưởng của nó là tinh thần yêu nước chống ngoại xâm. Văn học cuối thế kỷ
XIX nói chung, thơ trữ tình cuối thế kỷ XIX nói riêng đề cao vị thế của người nông
dân trong chiến đấu. Đây là một dấu ấn mới, chưa từng thấy trong văn học các giai
đoạn trước. Các tác giả Nguyễn Đình Chiểu, Miên Thẩm, Phạm Văn Nghị, Đào
Tấn, Vũ Phạm Khải, Nguyễn Thông, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Quang Bích,
Nguyễn Thiện Kế, Lê Trung Đình, Phan Đình Phùng… đã dùng văn học để bộc lộ
quan điểm, chí hướng của mình trước những biến cố của dân tộc. Những nhà thơ
này thể hiện lòng yêu nước, căm thù giặc cao độ, cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc, bất hợp tác với kẻ thù, phê phán những kẻ “rước voi
về giày mả tổ”, nêu cao tấm gương anh dũng của các vị anh hùng ngã xuống cho
đất nước:
21
- “Linh hồn nay đã tách theo thần,
Sáu tỉnh còn roi dấu tướng quân”
(Điếu Trương Định - Nguyễn Đình Chiểu)
- “Tuy rằng muông cẩu có ân ba,
Răng rụng lâu năm nó phải già”
(Chó già - Huỳnh Mẫn Đạt)
- “Thử thân hà túc tích,
Xã tắc ái kỳ khu”
(Thân này có tiếc chi,
Chỉ thương cho xã tắc)
(Tuyệt mệnh thi - Lê Trung Đình)
Bên cạnh nhu cầu “ngôn chí”, “tải đạo”, văn học thế kỷ XVI đến hết thế kỷ
XIX đã bắt đầu xuất hiện và phát triển nhanh chóng loại thơ trữ tình ghi nhận tâm
trạng, cảm xúc của tác giả trước “những điều trông thấy”. Các tác giả lưu ý đến việc
ghi lại cảm xúc, tâm tư, tình cảm, hoài bão của cá nhân mình chứ không sáng tác
theo yêu cầu của thời đại, nói thay tiếng nói của cộng đồng nữa (làm thơ do sự đòi
hỏi, khêu gợi của ngoại cảnh, không nhất định phải nói về cùng một vấn đề mang
tính xã hội mà mọi người đang nói, không nhất thiết phải có quan điểm trùng với
quan điểm của moi người). Cũng chính vì thế, nội dung thơ giai đoạn này phong
phú hơn với sự chuyển tải nhiều mặt đời sống xã hội, đề cập đến nhiều tầng lớp
người trong xã hội, nhiều vấn đề từ lớn đến bé mà trước đây các tác giả ít (hoặc
không) đề cập đến: Sơn hành ngẫu tác (Nguyễn Kiều) ghi lại cuộc hành trình đi
đường núi của tác giả; Thi hạ dã ngân khoáng hữu cảm (Lê Quý Đôn) thể hiện cảm
xúc của tác giả về vấn đề kinh tế của đất nước; Đổ bản quốc phụ nữ phiêu bạt nội
địa hữu cảm thứ huệ hiên vận (Lê Quý Đôn), Đồ ngộ đảm nhi tầm phu giả (Đoàn
Nguyễn Tuấn) bày tỏ sự thương cảm với những người phụ nữ phải sống cảnh tha
phương cầu thực; Đồ gian ngẫu ký (Phạm Nguyễn Du) ghi nhận cuộc sống khổ sở,
vất vả của người dân; Nhiệt hà công quán trung thu mạn hứng (Vũ Huy Tấn) bày tỏ
nỗi nhớ khi xa quê hương, xa gia đình…
22
Ở giai đoạn hạ kỳ trung đại, các thể thơ có xu hướng bung mở cấu trúc để
chuyển tải trọn vẹn thế giới tâm trạng phong phú của nhân vật trữ tình (chùm thơ tứ
tuyệt, chùm thơ bát cú, trường thiên). Thực chất, hình thức xâu chuỗi hiều bài thơ
ngắn này đã xuất hiện ở những thế kỷ đầu của nền văn học viết nhưng số lượng thơ
chưa thật sự nhiều và chưa trở thành một khuynh hướng lớn.
Vẫn là những hình thức ngắn nhưng các chùm thơ tứ tuyệt, chùm thơ bát cú
ở giai đoạn hạ kỳ trung đại là sự kết hợp những bài thơ ngắn cùng một đề tài, cùng
chung chủ đề lại với nhau; thơ cổ phong trường thiên dài hơn, tự do hơn cho phép
các tác giả thể hiện phạm vi đề tài rộng hơn, diễn đạt cảm xúc cụ thể hơn. Xu hướng
bung mở cấu trúc này một mặt tạo ra một khoảng trống tự do cho nội dung sáng tạo
của người nghệ sĩ. Ở một góc độ nào đó nội dung không còn bị hình thức ràng buộc
sẽ tác động tích cực trở lại hình thức, thúc đẩy hình thức cùng phát triển, sự cách tân
hình thức tạo ra một ấn tượng mới lạ với người tiếp nhận; mặt khác là sự chuyển tải
cảm xúc mạnh mẽ về vấn đề được nhắc đến, độc giả có thể cảm nhận được sự liền
mạch của cảm xúc tăng dần theo từng bài (đoạn) thơ (thơ khóc vợ - bao gồm cả
chùm tứ tuyệt, chùm bát cú - của Ngô Thì Sĩ, Phạm Nguyễn Du, chùm tứ tuyệt
Mộng đắc thái liên - Nguyễn Du, Thu tứ tứ tuyệt của Ngô Thì Nhậm, Tống nội tử
Ngô Vũ Khanh nam quy (Nguyễn Thông), chùm bát cú Tống Tố Như đệ tự Phú
Xuân kinh Bắc hoàn…). Sự bung mở cấu trúc thơ trữ tình ở giai đoạn này mang một
ý nghĩa tích cực cả về nội dung và hình thức.
Theo chiều dài lịch sử, thơ trữ tình giai đoạn văn học Việt Nam trung đại có
những bước phát triển tích cực theo hướng mở rộng phạm vi phản ánh và thay đổi
đáng kể về ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ. Càng về sau, thơ trữ tình càng mở rộng nội
dung hiện thực, tạo nên những tác phẩm mang màu sắc phê phán, châm biếm, tự
trào rõ nét (thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú
Xương…):
- “Hôi tanh chẳng thú vị gì,
Thế mà ai cũng kẻ vì người yêu…”
(Vịnh đồng tiền - Nguyễn Công Trứ)
23
- “Ví đây đổi phận làm trai được,
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”
(Đề đền Sầm Nghi Đống - Hồ Xuân Hương)
- “Chẳng phải quan mà chẳng phải dân,
Ngơ ngơ ngẩn ngẩn hóa ra đần”
(Tự trào - Tú Xương)
Song hành với sự thay đổi về nội dung, ngôn ngữ và hình ảnh thơ đã có
nhiều phá cách mới mẻ, sáng tạo, góp phần thể hiện cá tính người nghệ sĩ. Đặc biệt,
từ nửa sau thế kỷ XVIII, rất nhiều tác giả đã tạo ra dấu ấn riêng với những sáng tác
độc đáo thể hiện dấu ấn cá nhân đậm nét. “Nhiều nhân vật trữ tình đã xuất hiện
dưới hình thức cái tôi của nhiều nhà thơ trong tác phẩm. Những giai đoạn trước thơ
trữ tình đã phát triển. Trong những bài “Tự thuật”, “Cảm hoài”, “Ngôn hoài”…
nhà thơ nói về tâm sự của mình, nhưng nhà thơ viết về âm sự theo một cái nhìn
chung. Cho nên bài thơ tâm sự mà không có tâm trạng, không có cái tôi như một
nhân vật trữ tình. Còn ở giai đoạn này, ở một số tác giả tiêu biểu, cái tôi trữ tình đã
xuất hiện” [30, tr.482]. Người ta vẫn nhắc đến cái nổi loạn, cái tục và cái chua chát
trong thơ Hồ Xuân Hương; màu sắc châm biếm, ngạo nghễ trong thơ Tú Xương; đề
cao phẩm hạnh, đạo đức Nho gia cùng với sự khinh bỉ, căm thù đối với quân xâm
lược trong thơ Nguyễn Đình Chiểu; tự trào cay đắng và nghiệm sinh sâu sắc trong
thơ Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ…
- “Mười hai bà mụ ghét chi nhau,
Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu?”
(Quan thị - Hồ Xuân Hương)
- “Chẳng khôn cũng biết một hai điều,
Chẳng tội gì hơn cái tội nghèo”
(Nghèo - Tú Xương)
- “Tóc bạc, lòng son chửa dám già,
Ơn vua nhờ được nghỉ về nhà”
(Về nghỉ nhà - Nguyễn Khuyến)
24
Thơ trữ tình thế kỷ XVI đến hết thế kỷ XIX đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ
của bộ phận văn học chữ Nôm. Các tác giả từng bước định hình được phong cách
thơ, nới rộng các sắc thái trữ tình, tìm tòi những cách thức biểu hiện mới mẻ, đa
dạng. Càng về sau các sáng tác văn chương càng chứng tỏ rằng văn học Việt Nam
trung đại đã dần thoát ra khỏi cái quy phạm của hình thức thơ, thoát khỏi ảnh hưởng
của văn chương Trung Hoa.
Như vậy, văn học Việt Nam trung đại nói chung, thơ trữ tình trung đại nói
riêng đã có những bước tiến dài ở cả nội dung và hình thức, vận động song hành và
phát triển theo tiến trình lịch sử dân tộc. Sự bứt phá trong phong cách thơ của các
tác giả từ cuối thế kỷ XVIII tạo nên bước đệm hoàn hảo cho sự phát triển của cái tôi
cá nhân trong văn học hiện đại sau này.
1.2. Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam trước thế kỷ
XVIII
1.2.1. Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình thế kỷ X - XIV
Ở giai đoạn thế kỷ X - XIV, thơ trữ tình đã khá phong phú, xét về số lượng
lẫn chất lượng không thua kém so với các tác phẩm thuộc thể loại chính luận (chiếu,
biểu, truyện, kí)… Tuy nhiên, văn học giai đoạn này bị chi phối bởi cảm hứng yêu
nước, tự hào dân tộc, nhà thơ quan niệm làm thơ là phải “ngôn chí”, và họ làm thơ
để nói lên chí hướng của mình. Bởi thế, các tác giả có xu hướng chú trọng đến
những vấn đề lớn lao, những vấn đề chung của dân tộc mà bỏ qua những vấn đề
thuộc về quỹ đạo đời thường. Các đề tài của cuộc sống thường nhật không nhiều,
tần số xuất hiện của những nhân vật nữ lại càng thật sự ít ỏi, hiếm hoi và nếu có,
cũng thường là những hình ảnh thoáng qua, ít xem người phụ nữ là đối tượng chính
mà tác phẩm đề cập.
Theo khảo sát của chúng tôi, nhân vật người phụ nữ chỉ xuất hiện trong một
vài bài thơ trữ tình thế kỷ X - XIV. Trong khoảng thời gian năm thế kỉ (X - XIV),
những bài thơ có sự xuất hiện của hình tượng người phụ nữ hết sức thưa thớt và số
lượng thơ xem phụ nữ là đối tượng miêu tả trực tiếp lại càng hiếm hoi hơn. Theo
đó, nhân vật phụ nữ chỉ xuất hiện trong một số bài thơ chữ Hán như người cung nữ
25
đã mất trong Cung viên xuân nhật ức cựu của Trần Thánh Tông, người chinh phụ
trong Khuê oán của Trần Nhân Tông, cô thiếu nữ trong Xuân nhật tức sự của Huyền
Quang, nỗi lòng của người con nhớ mẹ được nhắc đến trong Cống Châu giang
trung phùng tiên kỉ tỵ nhật của Lê Cảnh Tuân.
Hình ảnh người phụ nữ được nhắc đến rất mơ hồ qua một thoáng “nhớ người
cũ” trong Cung viên xuân nhật ức cựu của Trần Thánh Tông:
“Cung môn bán yểm kinh sinh đài,
Bạch trú trầm trầm thiểu vãng lai.
Vạn tử thiên hồng không lạn mạn,
(Cung viên xuân nhật ức cựu - Trần Thánh Tông)
Dịch thơ:
Xuân hoa như hứa vị thùy khai?”
Cửa ngõ lờ mờ dấu bụi rêu,
Chìm chìm ngày bạc vẻ đìu hiu.
Đầy vườn rực rỡ hồng chen tía,
Hoa khéo vì ai vẫn nở nhiều.
(Ngô Tất Tố dich)
Hình ảnh của những người phụ nữ trong tác phẩm nói trên không thật sự rõ
ràng dẫu đối tượng mà tác giả hướng đến trong thơ chính là người phụ nữ (qua cách
đặt tựa đề Cung viên xuân nhật ức cựu). Điều này một phần là vì cái tôi của các tác
giả luôn ẩn kín trong tác phẩm, phần khác là bởi người phụ nữ ấy hiện lên không
bằng hình hài, tính cách hoặc phẩm chất mà là qua nỗi nhớ của nhà thơ. Bài thơ như
một lời bày tỏ tình cảm theo kiểu nhìn cảnh nhớ người khi tác giả dạt dào cảm xúc,
sự hiện diện của tình cảm mà tác giả thể hiện đối với người phụ nữ là điều hết sức
rõ ràng… Bài thơ mang một âm hưởng da diết, hoài niệm, một chút nuối tiếc và
buồn. Cái buồn của cảnh cũ phủ màu ảm đạm của thời gian, vườn cũ bây giờ hoa nở
rực rỡ cho “ai”, vì “ai”… Với dung lượng của một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt thì
đây là một bài thơ rất ấn tượng bởi nhà thơ đã truyền đạt được cảm xúc (nỗi nhớ,
nỗi buồn) của mình một cách trọn vẹn.
26
Hay một người phụ nữ khác - người chinh phụ - được khắc họa ở khía cạnh
tâm hồn (nỗi nhớ nhung, sầu muộn) trong Khuê oán của Trần Nhân Tông:
“Thụy khởi câu liêm khán trụy hồng,
Hoàng ly bất ngữ oán đông phong.
Vô đoan lạc nhật tây lâu ngoại,
Hoa ảnh, chi đầu tận hướng đông”
(Khuê oán - Trần Nhân Tông)
Dịch thơ:
Vén rèm ngủ dậy ngắm hoa rơi,
Oanh oán gió đông cứ ngậm lời.
Vô cớ bên đoài ô khuất gác,
Bóng hoa đầu ngọn ngóng đông hoài.
(Nỗi oán khuê phòng - Đông A dịch)
Một người phụ nữ đại diện cho rất nhiều người phụ nữ khác trong hoàn cảnh
tương tự - xa chồng trong thời loạn. Bài thơ có thể xem là một tiếng nói cảm thông
cho thân phận của những người phụ nữ bất lực trước hoàn cảnh, không thể chủ động
tận hưởng cuộc sống, tận hưởng tuổi trẻ trong vòng đời ngắn ngủi. Sau một giấc
dài, thiếu phụ thức dậy, cuốn rèm mở cửa “ngắm hoa rơi”; trong khi chim hoàng
oanh im bặt tiếng vì oán hận mùa xuân đã qua, gió xuân không tới nữa. Tuổi trẻ bao
giờ cũng gắn liền với mùa xuân, nhưng mùa xuân đến hẹn lại lên còn tuổi trẻ thì
không bao giờ quay lại. Thiếu phụ nuối tiếc thời gian trôi qua quá chóng vánh, đời
người đang dịch chuyển theo bánh xe thời gian đến ngưỡng tuổi già. Một cảm thức
đầy tính triết lý của tác giả về thời gian, nêu lên quy luật khắc nghiệt của tuần hoàn,
qua mấy vần thơ hàm súc, ý tại ngôn ngoại.
Hoặc ghi nhận một cảm xúc bất chợt của một cô gái trước mùa xuân trong
bài thơ Xuân nhật tức sự của Huyền Quang (trong Thơ văn Lý - Trần tập 2 (Nhà
xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988) có ý kiến nghi ngờ tác giả bài thơ này
không phải là Huyền Quang). Nhân vật và tác giả như tìm thấy sự đồng điệu trong
tâm hồn:
27
“Nhị bát giai nhân thích tú trì,
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.
Khả liên vô hạn thương xuân ý,
Tận tại đình châm bất ngữ thì”
(Xuân nhật tức sự - Huyền Quang)
Dịch thơ:
Lỏng tay thêu gấm, gái yêu kiều,
Hoa rợp, oanh vàng lảnh lót kêu.
Bao nỗi thương xuân, thương biết mấy,
Là khi không nói, chợt dừng thêu.
(Tức cảnh ngày xuân - Huệ Chi dịch)
So với hai bài thơ nói trên của Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông thì cô
gái xuất hiện trong bài thơ này mang hương vị tươi vui, khỏe khoắn hơn. Cảm xúc
đột ngột xuất hiện một cách không tự chủ của chủ thể trước mùa xuân là cảm xúc
mà có thể chúng ta đã từng trải qua trong cuộc đời nhưng không hay biết. Đôi khi
nhìn một buổi hoàng hôn hay một đêm trăng huyền mộng rải ánh vàng lên từng giọt
sương trên lá cỏ mà quên đi hiện tại. Cái giây phút đó là giây phút lòng người tràn
đầy vạn vật. Có thể hiểu rằng thiền sư đã đặt cái nhìn của mình vào tâm của cô gái.
Cô nhìn hoa nở, cô nghe chim hót, bất chợt nảy ra cảm xúc dạt dào “thương xuân,
thương biết mấy” và vô thức dừng tay thêu… Đây là một bài thơ rất đẹp về sự hòa
quyện giữa con người và thiên nhiên, với đối tượng được đề cập là một thiếu nữ
mơn mởn sức sống và mùa xuân mang sự tươi tốt đến cho vạn vật.
Mờ nhạt và mơ hồ là những hình dung tương đối chính xác cho những nhân
vật phụ nữ trong thơ trữ tình thế kỷ X - XIV. Số lượng một vài bài thơ này chưa đủ
để tạo nên dấu ấn cho một mảng đề tài, chưa đủ để đưa hình ảnh người phụ nữ bình
thường thành một hình tượng có sức lan tỏa lớn trong văn học. Tuy nhiên, chất
lượng đã một phần bù đắp cho số lượng thơ ít ỏi ấy. Dẫu nhân vật phụ nữ chưa thực
sự được làm nổi bật nhưng sự đặc sắc và trau chuốt trong hình ảnh thơ, ngôn ngữ
thơ là điều không thể phủ nhận. Một vài tiếng nói cảm thông và trân trọng ở thời
28
gian đầu này cũng góp phần không nhỏ khiến các tác giả chú ý hơn đến việc khắc
họa nhân vật phụ nữ ở những tác phẩm giai đoạn sau.
1.2.2. Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình thế kỷ XV - XVII
Văn học Việt Nam giai đoạn này tiếp nối cảm hứng yêu nước, chống xâm
lược của giai đoạn trước, các tác giả tập trung viết về cuộc kháng chiến chống quân
Minh (Quân Trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, Thiên Nam
ngữ lục - tác phẩm diễn ca lịch sử viết bằng chữ Nôm)… Bên cạnh đó, có một bộ
phận tác giả đã bắt đầu đề cập đến những vấn đề hiện thực xã hội, những khía cạnh
khác của đời sống, nội dung các tác phẩm bắt đầu có sự chuyển hướng từ cảm hứng
ngợi ca sang phê phán những suy thoái về đạo đức. Do những thay đổi đáng kể
trong nội dung sáng tác văn học nên người phụ nữ cũng được nhắc đến nhiều hơn
trong thơ trữ tình thế kỷ XV - XVII.
Số lượng các bài thơ có sự xuất hiện của nhân vật phụ nữ nhiều hơn hẳn và
nội dung, hình thức cũng có nhiều thay đổi so với thơ những thế kỷ trước. Phần lớn
các sáng tác này thuộc thể thơ thất ngôn bát cú, tuy nhiều bài chỉ nhắc đến người
phụ nữ như một đối tượng phụ để làm nổi bật chủ đề chính của tác phẩm nhưng
cũng cho thấy được các tác giả đã có ý thức đưa đối tượng này vào văn học, góp
phần nới rộng phạm vi đề tài - chủ đề của tác phẩm.
Có thể điểm qua một số bài thơ của các tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng
Khắc Khoan, Vũ Cán… có nhắc đến những người vợ, người mẹ, hoặc những hình
ảnh phụ nữ đời thường. Dù chỉ là những hình ảnh thoáng qua nhưng ít nhiều cũng
đã có những bài bộc lộ tình cảm yêu thương, xem trọng vai trò của người phụ nữ
như một chỗ dựa tinh thần để nhớ và để trân trọng:
- “Nhật noãn huyên đường nhập vong tần”
(Nắng ấm, ngỡ có hình mẹ già nhiều lần hiện trong mắt)
(Phụng sứ đăng trình tự thuật - Nguyễn Thực)
- “Nhà ngặt bằng ta ai kẻ vì!
Khó khăn phải lụy đến thê nhi”
(Thuật hứng XII - Nguyễn Trãi)
29
- “Mỹ nhân nhất biệt kỷ thu phong”
(Người đẹp xa cách đã mấy độ gió thu về)
(Ức cố nhân - Đặng Minh Bích)
- “Thời cung thung cấp hữu bần thê”
(Bữa lo gạo nước có bần thê)
(Tức sự (nhất) - Nguyễn Bỉnh Khiêm)
- “Sơ văn thú phụ sầu vô mị”
(Mới nghe vợ lính buồn không ngủ)
(Thu thanh - Nguyễn Bỉnh Khiêm)
- “Tú thát giai nhân đê ngọc trướng”
(Nhà vàng người đẹp thầm buông trướng)
(Xuân hàn - Nguyễn Bỉnh Khiêm)
- “Nhất chủng Tiêu quan chinh phụ oán
Tổng tương ly hận nhập thu thanh”
(Quan ải mịt mù chinh phụ oán
Tiếng thu thảy gợi biệt ly tình)
(Thôn xá thu châm - Nguyễn Trãi)
hoặc nhắc đến người phụ nữ để miêu tả bức tranh sinh hoạt đời thường, ở đây, cuộc
sống hiện lên sinh động, đầy màu sắc:
- “Tiếng nói của đàn bà Mán líu lô thô kệch”
(Sơn hành - Vũ Cán)
- “Cóng thuật lũ khuynh mưu phụ tửu”
(Rượu vợ những nghiêng cong nếp mới)
(Thứ vận Hoàng môn thị lang Nguyễn Cúc pha hạ tân cư thành - Nguyễn Trãi)
- “Ấu phụ thì qua xâm hiểu khứ,
Lão cô sừ đậu hướng bô qui”
(Nàng dâu sớm đã gieo dưa đó.
Bà lão chiều còn xới đậu dây)
(Trừng mại thôn xuân vãn - Nguyễn Bảo)
30
và cũng có khi các tác giả nhắc đến người phụ nữ để tạo ra sự đối lập, khẳng định
chí hướng của kẻ làm trai đội trời đạp đất:
“Tứ phương tự cổ nam nhi chí,
Khẳng luyến trùng khâm bạn nữ nhi?”
(Vùng vẫy bốn phương ấy là chí nam nhi xưa nay,
Há chỉ quyến luyến chăn gối làm bạn với nữ nhi hay sao?)
(Thu dạ hữu hoài - Phùng Khắc Khoan)
Bên cạnh những hình ảnh thoáng qua nói trên, người phụ nữ trong cuộc sống
đã được các tác giả trung đại khắc họa ở nhiều khía cạnh khác nhau. Đáng chú ý ở
mảng đề tài viết về người phụ nữ thế kỷ XV - XVII là những tác giả Nguyễn Trãi,
Nguyễn Húc, Thái Thuận, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Thánh Tông, Ngô Chi Lan…
Không chỉ có những bài thơ nhắc đến một cách thoáng qua mà các nhân vật nữ
trong tác phẩm của họ là đối tượng mà các nhà thơ trực tiếp hướng đến, trực tiếp
bộc lộ tình cảm.
Một số tác giả tập trung miêu tả vẻ đẹp của các nhân vật nữ ở nhiều góc độ.
Vẻ đẹp của người ca nữ xinh đẹp, uyển chuyển như “oanh ca”, “yến nhởn” đem
đến niềm vui đến cho người thưởng thức. Đối tượng “đào nương” trong tác phẩm
cùng tên lần đầu được đề cập đến trong thơ trữ tình với những sắc thái tình cảm đẹp
đẽ, với sự tôn trọng và sự nhìn nhận:
“Chói chói danh đà nổi thửa danh,
Nào chiều là chẳng vẹn trong minh.
Xênh xang yến nhởn mười phân đẹp,
Dắng dõi oanh ca may cấp thanh”
(Đào nương - Trịnh Căn)
Hoặc cô thiếu nữ duyên dáng, hòa mình trong vẻ đẹp hài hòa, tươi sáng của
tự nhiên trong Thái liên khúc của Ngô Chi Lan. Vẻ đẹp của cô gái được đặt song
song bên cạnh hoa sen tạo nên một cảm giác thanh thoát:
“Mạc khiến phong suy mấn,
Băng ky nguyên tự lương”
31
(Tóc mây chẳng khiến gió lồng,
Làn da trắng hồng, cảm thấy mát thay! - Băng Tâm dịch)
Nguyễn Thiên Túng với Đề Khâm Châu Trưng nữ tướng miếu đã bộc lộ lòng
kính phục đối với lòng dũng cảm của nữ tướng, đồng thời đề cao người phụ nữ đã
lưu danh sử sách bằng tài năng của mình:
“Lợi tùy lưu thủy phù vân viễn,
Danh dữ nhàn hoa dã thảo hương”
(Lợi đã theo nước chảy như mây nổi,
Danh vẫn thơm sực nức như hoa cỏ ngoài đồng)
Thái Thuận có một số bài đề cập trực tiếp đến người phụ nữ kèm theo nhiều
trạng thái cảm xúc của nhân vật và của chính tác giả:
- “Hồng nhan lạc tận, nga mi lão,
Trường đoạn vô nhân vấn dã hoa”
(Má hồng phôi pha, mày ngài già cỗi,
Đau lòng thay, có ai chú ý đến cánh hoa đồng nội)
(Tây Hồ xuân oán)
- “Kim ốc khước tàm tân yểu điệu,
Thanh lâu uổng tín cựu thuyền quyên”
(Thẹn với những cô gái trẻ đẹp mới vào nhà vàng,
Tin gì nữa người kỹ nữ già ở chốn lầu xanh!)
(Lão kỹ ngâm)
Viết về những người phụ nữ đã hết thời xuân sắc với một thái độ thương cảm
pha lẫn xót xa, nhà thơ để những nhân vật ấy tự cất lên tiếng nói cho phận số mình
tạo nên hiệu ứng thẩm mỹ cao đối với người tiếp nhận. Đối tượng kỹ nữ vốn bị xã
hội ghẻ lạnh nhưng nhà thơ vẫn bày tỏ sự cảm thông sâu sắc cho tình cảnh già nua,
trơ trọi, bấp bênh, thiếu thốn của họ.
Cũng với cùng một cách thể hiện, nhà thơ còn dành nhiều tình cảm cho
những người chinh phụ, khuê phụ đang chịu cảnh đơn chiếc, giam hãm tuổi xuân
trong khuê phòng:
32
- “Cô chẩm hàn đăng thu cộng lãnh,
Ly sầu biệt hận tửu tranh nồng”
(Gối chiếc, đèn tàn, khí lạnh mùa thu làm cho lạnh thêm,
Hận sầu ly biệt cùng chén rượu tranh nồng)
(Thu khuê)
- “Tái Bắc vân trường cô nhạn ảnh,
Giang Nam xuân tận lão nga mi.
Tạc lai kỷ độ tương tư mộng,
Tằng đáo quân biên tri bất tri”
(Ải Bắc mây lan, bóng nhạn đơn chiếc,
Giang Nam xuân hết, mày xanh lạt phai.
Biết bao lần tương tư trong mộng,
Từng mơ đến bên chàng, chàng có biết chăng?)
(Chinh phụ ngâm)
Điều đặc biệt ở các tác phẩm này là cảm nhận sâu sắc của tác giả về nỗi đau,
nỗi nhớ của những người trong chốn phòng khuê. Tâm trạng của họ, tình cảm và
khát khao hạnh phúc đoàn viên của họ được tác giả thể hiện sinh động qua cách
chọn không gian (chốn khuê phòng), thời gian (đêm khuya) và hình ảnh (gối chiếc,
đèn tàn, trăng tà, hoa tàn, quốc kêu…). Sự kết hợp ấy tạo nên những bài thơ ướt
đẫm tâm trạng sầu hận của nhân vật trữ tình, đồng thời chan chứa tình cảm nhân
đạo của nhà thơ.
Lê Thánh Tông được xem là tác giả có khuynh hướng sáng tác đậm tính
chính thống, xem trọng việc dùng văn chương để thuyết giáo đạo lý cũng có thơ đề
cập trực tiếp đến nhân vật phụ nữ với thái độ ca ngợi và trân trọng:
“Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chi lọ mấy đàn tràng.
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng”
(Điếu Vũ nương)
33
Hoặc một vài tác phẩm khác trong tập Mai hoa thi của Lê Thánh Tông gợi
đến vẻ đẹp ngoại hình và đức hạnh người phụ nữ như Thi, Thân Nhân Trung phụng
họa:
- “Lệ sắc ngưng chi cam tịch mịch,
Tiêm yêu thúc đái nhạ thanh cù”
(Sắc mai đẹp đẽ, da mai mịn màng thế mà lại chịu ở nơi tịch mịch,
Vóc mai mảnh khảnh, thân mai yểu điệu cứ tưởng là khách tru tiên)
(Thi)
- “Cô Dịch thiên tiên tiết tháo cô,
Phục phi tố luyện bội minh chu”
(Tinh thần tiết tháo chốn non xanh,
Lụa trắng thân xòe ngọc trắng tinh)
(Thân Nhân Trung phụng hoa)
Các tác giả thời trung đại nâng niu và thưởng thức vẻ đẹp của người phụ nữ
bằng cách so sánh với hoa, với ngọc, với thiên nhiên để nhấn mạnh sự yêu kiều,
thanh thoát. Hình ảnh của người thiếu nữ mơn mởn sức sống, tiết tháo trong ngần
qua hình ảnh hoa mai đã thể hiện quan điểm của nhà thơ về cái đẹp của người phụ
nữ - nét đẹp tròn đầy, toàn diện cả bên ngoài lẫn bên trong, từ ngoại hình đến nhân
cách phẩm hạnh.
Cùng một cảm hứng trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ, thiên nhiên trong
thơ Nguyễn Trãi cũng đẹp mượt mà, sử dụng nhiều hình ảnh gợi liên tưởng đến nét
đẹp của người phụ nữ trong đời thực. Tính gợi cảm cao của ngôn ngữ tạo nên sự
đồng hiện của hình ảnh thơ, mọi thứ hòa quyện vào nhau, bổ sung cho nhau chứ
không tách bạch một cách rõ nét. Vẻ đẹp thiên nhiên trong thơ Nôm vịnh cảnh (Dục
Thúy sơn, Vân Đồn và nhiều bài trong Môn hoa mộc…) của Nguyễn Trãi tươi đẹp,
rực rỡ và tràn đầy nhựa sống. Mỗi loài hoa là một vẻ đẹp, một sắc thái khác biệt:
- “Ấy chẳng Tây Thi thì Thái Chân
Trời cho tốt lạ mười phân…”
(Hoa trường an)
34
- “Người đua nhan sắc thuở xuân dương
Nghỉ chờ thu, cực lạ dường”
(Cúc)
- “Một đóa hoa đào khéo tốt tươi
Tường xuân mơn mởn thấy xuân cười”
(Hoa đào)
Thưởng thức cái đẹp là thế nhưng đôi lúc nhà thơ lại rất nghiêm khắc với cái
đẹp, đặc biệt là vẻ đẹp của người phụ nữ. Nguyễn Trãi nhìn nhận và tán thưởng cái
đẹp nhưng ông xem cái đẹp như một thứ thanh tao giúp con người cảm thấy thanh
thản và bình lặng chứ không u mê, chìm đắm trong nó mà quên đi chí hướng, hoài
bão của mình. Qua đó nhắc nhở, nhắn nhủ người “hồng nhan” về cách ứng nhân xử
thế:
- “Trụ mất quốc gia vì Đát Kỷ,
Ngô lìa thiên hạ bởi Tây Thi”
(Răn sắc)
- “Mấy kẻ hồng nhan thì bạc phận
Hồng nhan kia chớ cậy mình thay”
(Hoa nhài)
Trong một trường hợp khác, nhà thơ đề cập trực tiếp đến tâm tình của cô
thiếu nữ trước cảnh hè về. Chỉ bằng một hành động “dùng dằng chỉ biếng thêu”, thi
nhân đã tinh tế cảm nhận được cảm xúc của cô. Băn khoăn tìm câu trả lời cho sự
vận động của đất trời, tạo vật, chợt dấy lên cảm xúc nuối tiếc mùa xuân đến “não
lòng”:
“Vì ai cho cái đỗ quyên kêu
Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu
Lại có hòe hoa chen bóng lục
Thức xuân một điểm não lòng nhau”
(Cảnh hè)
35
Đôi khi, ông lại có những vần thơ da diết bày tỏ nỗi nhớ nhung, tâm trạng cô
đơn hướng tới “khách lầu hồng”. Lời ướm hỏi rụt rè đượm chút hờn trách mượn áo
để đắp lấy hơi mang ước nguyện gắn bó, giao hòa. Câu thơ sáu chữ gợi lên cảm
giác tâm trạng đột nhiên chùng xuống, lạc lõng, cô độc trước hoàn cảnh đối lập
người “đầm ấm” - kẻ “lạnh lùng”:
“Loàn đan ướm hỏi khách lầu hồng,
Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng.
Ngoài ấy dù còn áo lẻ;
Cả lòng mượn đắp lấy hơi cùng”
(Thơ tiếc cảnh X)
Dẫu rất ít trực tiếp miêu tả chân dung, hoàn cảnh số phận của người phụ nữ
trong xã hội cũ nhưng Nguyễn Trãi viết hay, viết nhiều về những nét đẹp của hình
thể người phụ nữ song song với vẻ đẹp mê hoặc của thế giới tự nhiên.
Nguyễn Húc cũng có những vần thơ rất đẹp, rất đơn thuần theo kiểu “tức
cảnh sinh tình” viết về vẻ đẹp của nữ giới - một nụ cười nhoẻn của một ai đó không
quen biết, một vẻ đẹp trong veo như những hình ảnh từng bắt gặp trong rất nhiều
bức tranh:
“Cô chu dao lạc đối giang can,
Vân cách Vu phong nhập mộng nan.
Doanh đắc ỷ lâu nhân nhất tiếu,
Cáp như xuân ảnh hoạ trung khan”
(Dập dềnh thuyền mọn dọc bờ sông,
Mây cách Non Vu, mộng khó thông.
Chợt thấy trên lầu ai nhoẻn miệng,
Như trong bức hoạ bóng xuân lồng - Vân Trình dịch)
(Chu trung hữu kiến - Nguyễn Húc)
Đồng thời, Nguyễn Húc cũng dành nhiều tình cảm khi viết về nỗi cô đơn,
lạnh lùng của người khuê nữ trong Cưu đài thi tập, như: Phong vũ khuê tư (Nỗi
niềm phòng khuê trong mưa gió), Thu khuê oán (Nỗi oán phòng khuê mùa thu)...
36
- “Tạc dạ nam lâu phong vũ cấp,
Ngọc câu tà quải lang can khấp.
Hiểu lai thấp thúy mãn liêm y,
Yến tử phi phi thương xuất nhập”
(Đêm qua lầu nam mưa gió hắt,
Móc ngọc vén nghiêng lòng thổn thức.
Sáng ngày lệ thấm ướt tua rèm,
Én lượn ra vào như chọc tức - Vân Trình dịch)
(Phong vũ khuê tư - Nguyễn Húc)
Bài thơ nói đến một người khuê nữ ở chốn khuê phòng, lòng đầy tâm sự
trước một đêm mưa gió. Hoàn cảnh trái ngược giữa người và ngoại cảnh đã tạo nên
tâm trạng nặng nề của cô gái. Trong chốn khuê phòng, cô không thể có được cái tự
do, thoải mái, an nhiên giống như loài chim trên bầu trời mà cô trông thấy. Hoàn
toàn cô đơn trong thế giới của mình, cô ngậm ngùi ôm tâm sự về đêm, nuốt nước
mắt vào sâu trong lòng…
Tác giả rất nhạy cảm và tinh tế khi miêu tả những cung bậc cảm xúc của
người khuê nữ trong chốn khuê phòng - nơi người phụ nữ khép kín tuổi xuân, gửi
lại tự do và sự hồn nhiên, vô tư tuổi trẻ. Tác giả dùng những hình ảnh rất chân thực
để ghi nhận và phản ánh, để góp phần lột tả số phận và tâm trạng của một vài cá
nhân tiêu biểu cho rất nhiều những hoàn cảnh tương tự như thế…
- “Tự quân chi xuất hỹ,
Tu chiết thanh thanh liễu.
Nguyệt tác lạc hoa phi,
Tuỳ phong nhập lang thủ”
(Từ ngày chàng ra đi,
Thiếp bẽ bàng bẻ cành liễu xanh.
Nguyện làm cánh hoa rụng,
Bay theo gió vào tay chàng)
(Tự quân chi xuất hĩ - Nguyễn Húc)
37
- “Mộng hồi kinh khỉ tài la trụ,
Tế tiễn thu thanh ký viễn phương”
(Bàng hoàng tỉnh mộng vội lấy lụa cắt áo,
Tưởng như cắt nhỏ tiếng thu gửi cho người phương xa)
(Thu khuê oán - Nguyễn Húc)
Không phải ngẫu nhiên mà những nhân vật phụ nữ này đều được nhà thơ đặt
vào cái không gian bó hẹp của bốn bức tường - khuê phòng. Không gian ấy khiến
họ phải thốt lên những tiếng kêu ai oán, không gian ấy tạo nên và xoáy sâu thêm nỗi
đau của người phụ nữ khi mỗi ngày nhìn thời gian đem tuổi xuân đi qua mà lại bất
lực chẳng thể níu giữ.
Cũng viết về nhân vật phụ nữ, người thiếu phụ trong Khuê tình của Nguyễn
Bỉnh Khiêm có hoàn cảnh cô đơn trong khuê phòng giữa đêm mưa vắng lặng, chợt
buông một tiếng thở dài:
“Hốt văn hàn khí xâm liên mạc,
Thủy giác nhân tình hữu biệt li”
(Bỗng nghe hơi lạnh thấm vào rèm màn,
Mới biết tình người có nỗi biệt ly)
(Khuê tình - Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Hoàn cảnh của thiếu phụ này cũng tương tự những người phụ nữ trong các
sáng tác của Nguyễn Húc nói trên, tuổi trẻ bị thời gian lặng lẽ lấy cắp, bị chôn vùi
trong nhớ nhung và chờ đợi, cuộc đời không được tự do sống và tận hưởng nhưng
chưa từng dám oán trách bất cứ ai, họ lặng lẽ chấp nhận xem đó là số phận của
mình và những người phụ nữ giống như mình…
Thái độ của các tác giả nhìn chung đều thể hiện sự tôn trọng, sự cảm thông
và yêu mến đối với những nhân vật phụ nữ ấy. Thơ viết về nhân vật người phụ nữ
giai đoạn này hầu hết là thơ thất ngôn bát cú thay vì thất ngôn tứ tuyệt như ở giai
đoạn trước. Tất nhiên không thể dựa vào dung lượng thơ để khẳng định rằng tình
cảm của các nhà thơ đối với người phụ nữ giai đoạn này dạt dào hơn trước. Thế
38
nhưng điều này cũng phần nào chứng tỏ các tác giả đã có ý thức viết về một bộ
phận chịu nhiều thiệt thòi, bất công trong xã hội phong kiến.
Như vậy, những nhân vật nữ trong thơ trữ tình giai đoạn thế kỷ XV - XVII
đã xuất hiện nhiều hơn so với giai đoạn trước, nội dung và hình thức thơ cũng đã
phong phú, đa dạng hơn. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, hình tượng người phụ nữ vẫn
chưa thực sự rõ ràng, phong phú; mảng đề tài về người phụ nữ vẫn chưa có được
một vị trí đáng kể trong tương quan với những đề tài về cuộc sống khác của thơ trữ
tình. Dẫu vậy, sự gia tăng số lượng tác phẩm theo chiều hướng tích cực của các tác
giả vẫn rất đáng ghi nhận, sự hiện diện của người phụ nữ trong văn học ngày một rõ
nét. Chính sự chú ý của tác giả ở những thế kỷ này đã tạo được một nền tảng cơ bản
để hình tượng người phụ nữ trong văn học Việt Nam trung đại nói chung, trong thơ
trữ tình trung đại nói riêng phát triển một cách rực rỡ, trở thành một trong những
hình tượng văn học lớn cấu thành bộ mặt văn chương trung đại.
1.3. Sự phát triển phong phú và đa dạng của thơ trữ tình viết về người phụ
nữ thế kỷ XVIII - XIX
1.3.1. Sự phong phú về tác giả và tác phẩm
Thế kỷ XVIII - XIX xuất hiện hàng loạt tác giả viết nhiều và viết rất hay về
người phụ nữ ở nhiều thể loại. Ngoài thơ trữ tình, thành tựu mà các thể loại khác
viết về người phụ nữ cũng hết sức đặc sắc, điển hình là hai tác phẩm lớn thuộc hai
thể loại khác nhau: Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều (khúc ngâm thể
song thất lục bát), Truyện Kiều của Nguyễn Du (truyện thơ thể lục bát) cùng với rất
nhiều văn tế thể hiện tình cảm với người phụ nữ (Văn tế Trương Quỳnh Như - Phạm
Thái, Khóc chị - Nguyễn Hữu Chỉnh, Văn tế con gái, Văn tế vợ - Bùi Hữu Nghĩa,
Văn tế sống vợ - Trần Tế Xương…). Với dung lượng dài (ở một số thể loại), tác
phẩm có khả năng đào sâu vào thế giới tâm tưởng của nhân vật, khai thác đời sống
nội tâm nhân vật trong những hoàn cảnh sống khác nhau, từ đó có một tiếng nói
khách quan về số phận của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Mỗi thể loại khác
nhau sẽ có những ưu điểm khác nhau, thơ trữ tình tuy không thể tạo nên nhân vật
với một hình hài chi tiết, tỉ mỉ nhưng lại có khả năng đặc tả một khía cạnh, một
39
trạng thái tình cảm nào đó, một suy nghĩ và thái độ nào đó của người viết. Nếu chỉ
với một hoặc một vài tác phẩm ngắn riêng lẻ thì sẽ không tạo nên hiệu ứng thẩm mỹ
cao, hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình được tạo dựng là cả một quá trình
hun đúc, góp nhặt của các tác giả bằng một số lượng tác phẩm lớn dần lên theo thời
gian, phong phú về nội dung và đặc sắc về nghệ thuật.
Các tác giả của văn học Việt Nam trung đại hầu hết đều là nam giới, bởi thế,
ở thể loại thơ trữ tình cũng là nơi để các tác giả (là nam giới) bày tỏ tình cảm, cảm
nhận với những người phụ nữ để lại ấn tượng đối với họ trong những thời điểm nhất
định. Các tác giả nữ chiếm một số lượng rất nhỏ trong lực lượng sáng tác thời trung
đại, thơ về hình tượng phụ nữ của họ do vậy cũng không nhiều và hầu hết là thơ tự
bộc lộ tình cảm đối với thân phận phụ nữ - thơ mang tính chất tự bộc lộ cái tôi cá
nhân ở một phạm vi nào đó. Những cây bút có nhiều tác phẩm viết về những người
phụ nữ ở hai thế kỷ XVIII - XIX có thể kể đến: Đoàn Nguyễn Tuấn, Ngô Thì Sĩ,
Ngô Thì Nhậm, Cao Bá Quát, Phan Thanh Giản, Bùi Dương Lịch, Phạm Đình Hổ,
Phạm Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Ngô Thì Ức, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Du, Trịnh
Hoài Đức, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương…
Cùng với lực lượng sáng tác đông đảo, giàu kinh nghiệm cầm bút là sự ra đời
của các tác phẩm đặc sắc viết về nhân vật phụ nữ. Số lượng và chất lượng tác phẩm
trong thời gian này hết sức phong phú, đa dạng. Đầu thế kỷ XVIII thơ chữ Hán vẫn
còn khá phổ biến và chiếm tỉ lệ lớn hơn so với thơ chữ Nôm viết về người phụ nữ.
Bắt đầu từ cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX, thơ Nôm mới thực sự phát huy thế
mạnh ở nhiều phương diện, điều này đã góp phần không nhỏ mở rộng phạm vi đề
tài, chủ đề của tác phẩm và làm thay đổi quan niệm sáng tác ăn sâu bén rễ từ nhiều
thế kỷ trước trong giới trí thức Nho học. Hồ Xuân Hương là người mở đầu cho
bước phát triển rực rỡ của bộ phận văn học chữ Nôm, là tác giả điển hình với những
sáng tác hoàn toàn bằng chữ Nôm nổi bật ở thế kỷ XVIII. Một vài sáng tác tiêu biểu
đã được nhiều nhà nghiên cứu nhắc đến thế kỷ XVIII - XIX như: Long thành cầm
giả ca, Điếu La thành ca giả, Ngộ gia đệ cựu ca cơ của Nguyễn Du, Tự tình, Hoài
nội, Tư thân thuật hoài của Lê Anh Tuấn, Đoạn trường lục của Phạm Nguyễn Du,
40
Khuê ai lục của Ngô Thì Sĩ, Tư gia của Bùi Dương Lịch, Hoài cổ, Hữu sở cảm của
Phạm Đình Hổ, thơ Nôm Tuổi tác của Nguyễn Thiếp, Thương vợ của Trần Tế
Xương, Không chồng mà chửa, Lấy chồng chung của Hồ Xuân Hương…
Ngoài ra, còn rất nhiều tác phẩm được các tác giả viết với tinh thần yêu quý,
trân trọng người phụ nữ mà chúng tôi không thể liệt kê cụ thể do số lượng tác phẩm
quá lớn. Các tác phẩm phong phú về nội dung và đa dạng về hình thức thể hiện đã
chung tay xây dựng nên hình tượng người phụ nữ với vẻ đẹp ngoại hình đặc sắc,
các nét tính cách tiêu biểu cho những giá trị đạo đức tốt đẹp và nhiều mặt cuộc sống
của người phụ nữ Việt Nam từ ngàn xưa…
1.3.2. Sự phong phú về kiểu loại nhân vật
Cùng viết về người phụ nữ nhưng nhân vật phụ nữ trong các tác phẩm mà
chúng tôi khảo sát lại có thể xếp vào nhiều kiểu loại khác nhau. Sự phong phú về
kiểu loại nhân vật đã tạo nên tính hệ thống cho hình tượng người phụ nữ, người phụ
nữ trong văn học đã bắt đầu được nhìn nhận ở nhiều khía cạnh khác nhau. Các tác
giả đã chú ý khắc họa nhân vật một cách đa chiều, đa diện để xây dựng được một
hình tượng sống động, không xa rời thực tế.
Một số nhân vật liệt nữ được các tác giả đề cập đến trong tác phẩm. Từ thời
gian đầu của nền văn học viết, các tác phẩm văn chương trung đại Việt Nam (đặc
biệt là bộ phận văn học chữ Hán) thể hiện sự tôn trọng, kính ngưỡng đối với các
nhân vật liệt nữ. Đồng thời, các tác giả sử dụng rất nhiều điển cố từ Trung Hoa hoặc
nhắc rất nhiều đến những nhân vật nữ có thật có phẩm chất của một liệt nữ. Điều
này cũng không ngoại lệ ở thơ trữ tình thế kỷ XVIII - XIX.
Dễ nhận thấy ở thể tài thơ vịnh sử, những nhân vật liệt nữ hiện lên hết sức
tiêu biểu, tuy nhiên, chúng tôi không đi sâu khai thác thể tài này bởi đặc trưng của
thơ vịnh sử không hoàn toàn phù hợp với những tiêu chí đối tượng mà đề tài khai
thác. Dẫu vậy, thơ trữ tình trong phạm vi nghiên cứu của chúng tôi vẫn dành một vị
trí nhất định với nhiều sắc thái cảm xúc phong phú cho kiểu loại nhân vật liệt nữ.
Rất nhiều tác phẩm đề cập đến những nhân vật nữ không có thật như Hằng
Nga, Chức Nữ, tiên nữ… trong dân gian Trung Hoa. Những tác phẩm như thế hầu
41
hết chỉ mượn những nhân vật có liên quan (đến sự kiện - cụ thể là ngày tết trung
thu, đêm thất tịch) để làm nổi bật nỗi nhớ, thể hiện tấm lòng của tác giả với quê
hương, đất nước, với cha mẹ hoặc lột tả vẻ đẹp của tự nhiên. Tiêu biểu là một số tác
phẩm: Trung thu dạ ngộ vũ (Ngô Thì Điển), Đồ gian xuân vũ (Cao Huy Diệu), Sơn
lộ trung thu (Đoàn Nguyễn Tuấn), Thất tịch thiên ứng giáo đồng Thận Phu (Cao Bá
Quát), Đề Từ Thức sơn (Ngô Thì Sĩ)… Đáng ghi nhận là một số bài thơ trực tiếp
viết về những nhân vật liệt nữ có thật trong lịch sử Trung Hoa hoặc đề cập đến một
vài cá nhân để nói đến những vấn đề khác trong cuộc sống. Kiểu loại nhân vật này
được các tác giả khai thác chủ yếu ở khía cạnh đời sống thực với cái nhìn cảm thông
sâu sắc. Hầu hết những tác giả sáng tác ở mảng này đều thể hiện tình cảm trân
trọng, tiếc nhớ, thương xót cho cuộc đời và số phận của người phụ nữ đã chịu nhiều
bất hạnh trong cuộc sống: Đề Vũ nương miếu (Ngô Thì Ức), Chiêu Quân mộ (Đoàn
Nguyễn Tuấn), Nghi Cửu Nghi (Ngô Thì Nhậm), Dạ tửu hứng (Lê Quang Định),
Nhị phi miếu (Phan Huy Chú), Soạn thành “Trường giang chiến cổ diễn truyện”
tặng Bùi phu nhân (Đào Tấn)…
Bên cạnh đó, vẫn có những ý kiến bình luận trái chiều (về một số nhân vật
văn học được đề cập với xuất thân từ Trung Hoa, chưa thực sự được cho là liệt nữ)
như quan điểm của Nguyễn Công Trứ trong Vịnh Thúy Kiều và Vịnh Nam Xương
liệt nữ - quan niệm khắt khe ít nhiều mang tư tưởng của một nhà Nho đối với người
phụ nữ trong xã hội cũ.
Những nhân vật liệt nữ được thể hiện qua cái nhìn của các tác giả Việt Nam
bằng nhiều cách khác nhau, ở nhiều mức độ và góc độ khác nhau. Không thể phủ
nhận rằng vẫn còn có những ý kiến mang nặng tư tưởng phong kiến nhưng cái cốt
lõi là tinh thần tôn trọng và nhận xét có chừng mực của tác giả là rất đáng quý và
đáng ghi nhận.
Kiểu loại nhân vật được nhấn mạnh với vai trò của người phụ nữ trong
gia đình (làm mẹ, làm vợ, làm con…) cũng là một kiểu loại nhân vật tương đối phổ
biến, dễ bắt gặp kiểu nhân vật nữ này trong nhiều sáng tác bởi lực lượng sáng tác
thế kỷ XVIII - XIX bao gồm nhiều thành phần, trong đó, thành phần trí thức quan
42
lại hoặc những người có học thức cao viết về mẹ, vợ hoặc người thân chiếm một số
lượng không nhỏ.
Những nhân vật nữ quý tộc trong văn học là đại diện cho phụ nữ thuộc tầng
lớp trên trong xã hội đương thời, họ có nhân cách tốt, phẩm hạnh cao quý, xứng
đáng được tôn trọng và trở thành tấm gương về phong cách sống. Phần lớn các tác
phẩm này khắc họa nhân vật phụ nữ ở khía cạnh tài hoa, hiểu biết, tâm hồn cao đẹp,
đức hạnh vuông tròn, giàu lòng hy sinh: Hoài nội (Ngô Thì Nhậm), Quá Cổ Loa yết
Mỵ Châu miếu đề bích (Chu Mạnh Trinh), Quá Mỵ Nương miếu (Cao Bá Quát), Ban
chánh cung và Ban Đông cung (Trịnh Doanh), Kinh ngụ cảm hoài (Ngô Thì Sĩ)…
Bên cạnh đó, những người phụ nữ thuộc tầng lớp bình dân chiếm một tỉ lệ rất
lớn trong xã hội cũ. Ở đây, hình ảnh con người hiện lên trần trụi với đầy đủ sự tẩn
tảo, lam lũ, vất vả… vì mưu sinh. Cũng ở đây, người phụ nữ trở thành một biểu
tượng sống động của sự cần mẫn, chịu thương chịu khó, mất mát, hy sinh lặng lẽ.
Các tác giả đã có ý thức viết sự thật, viết những gì thực tế đã và đang diễn ra
dẫu sự thật về cuộc sống ấy đối lập với sự hào nhoáng mà nhiều người trong bộ máy
nhà nước phong kiến cố gắng xây dựng. Những nhân vật trong các tác phẩm này có
thể là những người vợ tần tảo, là những người mẹ giàu đức hy sinh, là những cô tì
nữ hoặc chỉ là những người hàng xóm, những hoàn cảnh tình cờ trông thấy… Đây
là kiểu loại nhân vật xuất hiện với tần số cao nhất trong thơ trữ tình viết về phụ nữ
thế kỷ XVIII - XIX: Lão ẩu mộ thị (Ngô Thì Ức, Đồ ngộ đảm nhi tầm phu giả
(Đoàn Nguyễn Tuấn), Khốc thị nữ Lý Hà (Ngô Thì Sĩ), Văn nhân khốc (Ngô Thì
Hoàng), Mộ kiều quy nữ (Cao Bá Quát)…
Nhìn chung, kiểu loại nhân vật được nhấn mạnh với vai trò của người phụ nữ
trong gia đình mang màu sắc nhân đạo cao cả, thể hiện nhiều mặt cuộc sống của
người phụ nữ trong hoàn cảnh đời thường. Ở đây, các nhân vật nữ mang nét đẹp của
người lao động cần mẫn để vun vén cho gia đình, giàu đức hy sinh và yêu thương
gia đình rất mực. Bản lĩnh của người phụ nữ chính là cố gắng vượt qua khó khăn
trong cuộc sống để cải thiện cuộc sống của chính mình hoặc trở thành chỗ dựa cho
người thân. Kiểu loại nhân vật này thường xuất hiện trong các tác phẩm của bộ phận
43
văn học chữ Hán (đặc biệt vào nửa đầu thế kỷ XVIII), sử dụng từ ngữ mang đậm
phong cách khuôn thước chuẩn mực ở mức độ phù hợp. Tình cảm của tác giả được
lột tả một cách trang trọng nhưng cũng không kém phần sâu sắc và da diết. Đây
cũng là kiểu loại nhân vật được thể hiện trong những tác phẩm hết sức nổi bật của
thể loại thơ trữ tình trung đại viết về người phụ nữ.
Kiểu loại nhân vật tài nữ, ca kỹ xuất hiện trong nhiều tác phẩm đặc sắc với
ý thức đề cập đến khía cạnh tài hoa tột bậc đi kèm với số phận không may mắn của
các cô gái. Cựu ca cơ (Phạm Đình Hổ), Điếu La thành ca giả, Ngô gia đệ cựu ca
cơ, Long thành cầm giả ca (Nguyễn Du) đều viết về số phận bèo bọt của những
người ca kỹ. Một mặt, các tác giả ca ngợi, trân trọng tài đánh đàn, múa hát của
những người ca nữ này, mặt khác, bày tỏ sự thương xót cho tài năng không được xã
hội nhìn nhận, cho số phận không may mắn phải bám víu lấy nghề vì sinh kế của
họ.
Các nhà thơ cũng bày tỏ sự kính ngưỡng, trân trọng những cô gái có học
thức, có tài làm thơ nhưng vốn không nhận được sự công bằng của xã hội: Ký tài
nữ, Ký tài nữ Thụy Liên (Ninh Tốn), Độc Tiểu Thanh ký (Nguyễn Du)... Các tác giả
đã có cái nhìn rất tiến bộ so với thời đại mà họ đang sống khi viết về kiểu loại nhân
vật này.
Bày tỏ tình cảm với một bộ phận phụ nữ bị xã hội ghẻ lạnh (đặc biệt là
những người ca kỹ), Các tác giả nhìn thẳng vào tài năng làm thơ, đánh đàn, ca hát
của những ca nữ, tài nữ ấy, đồng thời, bày tỏ sự vui mừng xen lẫn ngạc nhiên khi
tìm thấy những kẻ tri âm tri kỷ là khách má hồng.
Tóm lại, lực lượng sáng tác hùng hậu của văn học Việt Nam thế kỷ XVIII -
XIX đã có sự tìm tòi, sáng tạo rất lớn trong việc tạo ra nhiều kiểu loại nhân vật nữ
phong phú, đa dạng. Sự phân chia kiểu loại nhân vật này có thể không thật sự tách
bạch bởi mỗi người phụ nữ không chỉ đóng khung ở một vai trò trong gia đình hoặc
ngoài xã hôi mà có những trường hợp được đề cập ở cả hai vai trò ấy. Ở mỗi kiểu
loại nhân vật như thế, những nhân vật nữ lại hiện lên ở nhiều góc độ khác nhau chứ
không trùng khít, không tạo nên sự nhàm chán hoặc lặp lại lẫn nhau.
44
1.3.3. Sự đa dạng trong cách thể hiện
1.3.3.1. Tác giả (là nam giới) mượn hình tượng người phụ nữ để bộc lộ
suy nghĩ, tâm trạng của mình
Các tác giả (nam giới) thông qua hình ảnh người phụ nữ để bày tỏ nỗi lòng,
tâm trạng, tình cảm đối với một vấn đề khác trong xã hội. Ở đây, các nhân vật nữ
không phải là đối tượng chính mà chỉ xuất hiện thấp thoáng để tăng thêm tính sinh
động, mở rộng thế giới nhân vật của tác phẩm. Các tác phẩm này không đi sâu khai
thác hình ảnh người phụ nữ như một biểu tượng mà sử dụng như một phương tiện
để thông qua đó, thể hiện quan điểm và tình cảm của tác giả. Tuy chỉ là một thành
tố góp phần làm tăng thêm hiệu quả thẩm mỹ cho tác phẩm nhưng vai trò của các
nhân vật nữ này cũng không thể phủ nhận. Điều này trước hết là do thao tác lựa
chọn và sử dụng hình ảnh của tác giả luôn rất khắt khe và kỹ lưỡng, mỗi một nhân
tố đều có một vai trò và dụng ý nhất định, tính thống nhất ấy tạo nên một chỉnh thể
nghệ thuật hoàn chỉnh, hỗ trợ đắc lực cho sự thể hiện nhiều mặt tư tưởng, chủ đề
của tác phẩm.
Các tác giả trung đại nhắc đến người phụ nữ để hướng đến một cái nhìn toàn
diện về bức tranh thiên nhiên, bức tranh đời sống thực, miêu tả sinh động những
sinh hoạt thường ngày của người dân. Rõ ràng, cảnh sinh hoạt không thể thiếu bóng
dáng của con người, nhắc đến con người trong lao động hoặc trong hoạt động mang
tính chất dung dị lại không thể thiếu những người phụ nữ. Ở đây, nhân vật nữ đa số
là những người bình dân gắn liền với không gian làng quê: Ngư chu hội thực (Ngô
Thì Ức), Lộc trĩ thôn cư (Nguyễn Cư Trinh), Viên cư (bài II) (Ngô Thì Sĩ), Bắc trấn
hỉ vũ (Lê Quý Đôn)… Một khía cạnh khác của việc miêu tả chân thực, sống động
cảnh sinh hoạt thường nhật, nhiều nhà thơ thể hiện tình cảm, nỗi nhớ da diết của
chính mình với gia đình: Tư gia (Bùi Dương Lịch), Tiên khảo húy nhật cảm tác
(Đoàn Nguyễn Tuấn)…
Hay thông qua hình ảnh người phụ nữ để bày tỏ quan điểm, bày tỏ suy nghĩ
đến một đối tượng khác, một vấn đề khác trong xã hội - sự xuống dốc trầm trọng về
vấn đề đạo đức, nhân cách con người: Vịnh lưỡng nữ tẩy túc (Nguyễn Cư Trinh),
45
Văn cùng dân mẫu tử tương thực hữu cảm (Phạm Nguyễn Du), Thầy đồ ve gái góa,
Lời gái góa, Muốn lấy chồng (Nguyễn Khuyến), Vịnh Tri huyện Lê Văn Chấn
(Nguyễn Thiện Kế)… Đôi khi, các tác giả dẫn người phụ nữ vào tác phẩm để nói
lên chí hướng, hoài bão cá nhân. Sự xuất hiện của các nhân vật nữ này thường để
khẳng định, nhấn mạnh thêm cho cái chí đã quyết dứt bỏ tình cảm riêng tư vì sự
nghiệp lớn: Thuật hoài (Trần Xuân Soạn), Từ giã vợ nhà đi làm quan (Phan Thanh
Giản)…
Ngoài ra, các tác giả còn sử dụng hình thức nói thay, nói hộ trong sáng tác
của mình. Khi viết như thế, cái chủ quan của tác giả lại hòa lẫn vào cái khách quan
của người đứng ở ngôi thứ ba, quan sát, viết thay cho nỗi lòng của người khác. Các
nhân vật nữ trong những tác phẩm này thường không hiện lên đậm nét mà cảm xúc
chi phối mạch thơ thường là cảm xúc của nhân vật trữ tình (đối tượng mà tác giả
viết thay) về một vấn đề nào đó: Lời gái góa, Lời vợ anh phường chèo (Nguyễn
Khuyến), Đại nghĩ đông hàn dạ tái bắc chinh phu tư khuê phụ (Tống Duy Tân),
Nông phu (Doãn Uẩn), Thập thất dạ thừa nguyệt, tẩu bút ký hữu nhân (Cao Bá
Quát), Tết cô đầu (Trần Tế Xương), Cô hầu gửi quan lớn (Trần Tế Xương)...
Có thể nói, nhân vật nữ được sử dụng như một đối tượng thẩm mỹ nhằm
hướng đến những dụng ý nhiều mặt của tác giả đã tạo được những ấn tượng nhất
định. Sự xuất hiện của những nhân vật nữ ở nhiều khía cạnh, nhiều hoàn cảnh đã tạo
nên cái nhìn mang tính bao quát cho bức tranh toàn cảnh đời sống. Thông qua đó,
người đọc nhìn thấy cả một giai đoạn lịch sử đã qua, hiểu hơn những khó khăn
trong cuộc sống mà nhân dân ta từng phải đối mặt…
1.3.3.2. Tác giả (là nam giới) miêu tả trực tiếp chân dung người phụ nữ
với tấm lòng đồng cảm, trân trọng sâu sắc
Bằng nhiều hình thức khác nhau, các tác giả bộc lộ tình cảm của mình với
nhiều đối tượng khác nhau. Phạm vi đối tượng này khá rộng lớn, có thể nói là đã
bao quát được nhiều mặt đời sống với những sáng tác về mẹ, về vợ, về chị em gái,
về con gái, về cô hầu gái, về một nàng ca kỹ từng gặp gỡ, về những tài nữ nổi danh,
về những chị hàng xóm hoặc ngay cả những mảnh đời khốn khó bất chợt nhìn thấy
46
trên đường... Qua những tác phẩm ấy, hình tượng người phụ nữ hiện lên rõ nét và
tình cảm tác giả dành cho họ cũng thật sâu sắc, đáng trân trọng.
Đôi khi, các tác giả chỉ đơn thuần bày tỏ sự ngưỡng mộ, tôn vinh tài năng, vẻ
đẹp ngoại hình và vẻ đẹp toát lên từ đức hạnh của người phụ nữ. Thi nhân thưởng
thức vẻ đẹp của người phụ nữ dưới góc nhìn văn hóa, sự rung động trong tâm hồn
được thể hiện bằng những từ ngữ trau chuốt, sinh động: Mã thượng mỹ nhân (Ninh
Tốn), Ký tài nữ (Ninh Tốn), Lão ẩu mộ thị (Ngô Thì Ức)... Hoặc cám cảnh trước
những số phận bất hạnh thoáng qua: Mộ kiều qui nữ (Cao Bá Quát), Mại chỉ y
(Miên Thẩm)...
Các nhà thơ chủ yếu bày tỏ tấm lòng kính trọng, yêu quý, cảm thông, thương
xót sự hy sinh thầm lặng của những người mẹ, người vợ dành cho gia đình, cho
chồng, cho con cái. Số lượng nhiều và ghi được dấu ấn mạnh mẽ hơn với hàng loạt
tác giả, tác phẩm trực tiếp nhắc đến người phụ nữ với những tình cảm da diết yêu
thương: Tư thân thuật hoài (Lê Anh Tuấn), Tặng nội (Nguyễn Hành), Hoài nội
(Ngô Thì Nhậm), Tiếp nội thư tính ký hàn y bút điều sổ sự (Cao Bá Quát), Từ giã vợ
đi làm quan (Phan Thanh Giản)…
Ở một cung bậc khác của tình yêu, các tác giả cũng không ít lần nhỏ lệ đau
lòng trước cái chết của người thân mình. Tiếng khóc nhuốm màu sắc bi ai bởi
không cái khổ nào bằng cái khổ sinh ly - tử biệt, người chết đã xong phần người
chết, người sống vẫn còn mãi cái ám ảnh đau đớn, dằn vặt không biết khi nào vơi:
Mộng vong nữ (Cao Bá Quát), Khốc tiên muội Kim Đài (Ngô Thì Điển), Tiện tỉ húy
nhật cảm hoài (Phan Huy Chú)...
Đặc biệt, rất nhiều thơ được các tác giả viết khi vợ đã qua đời với ngôn từ
chứa đựng nỗi thống thiết, bi ai gây xúc động lòng người. Ở đây, tình cảm vợ chồng
gắn bó sâu đậm được thể hiện với nhiều cung bậc đặc sắc. Khuê ai lục (Nỗi đau
thương trong phòng khuê) của Ngô Thì Sĩ và Đoạn trường lục của Phạm Nguyễn
Du cực tả nỗi đau khổ, nhớ nhung của tác giả trước cái chết đột ngột của những
người vợ mà các tác giả hết mực yêu thương. “Nguyễn Đổng Chi viết về một mảng
sáng tác của Phạm Nguyễn Du và Ngô Thì Sĩ: “Tiếng khóc vợ của Phạm Nguyễn
47
Du và Ngô Thì Sĩ đã đượm tính chất cận đại. Tác phẩm của họ có bóng dáng Linh
Phượng ký của Đông Hồ”; và Trần Thị Băng Thanh cũng xác nhận: “Nhân vật tôi -
tác giả - được biểu hiện rõ nét và chân thực trong thơ văn tình yêu của Ngô Thì Sĩ…
Có thể xem Ngô Thì Sĩ là nhà thơ tình “có hạng” của văn học Việt Nam. Ông là
người thực sự mở đầu dòng thơ tình cổ trung đại Việt Nam nhưng tác phẩm của ông
lại đã được mang màu sắc cận đại” [30, tr.465].
Sau những tác giả này có một số lượng lớn tác giả với những tác phẩm đặc
sắc tôn vinh những người vợ đức hạnh của mình như: Phan Huy Ích (Hạ trung tiếp
đáo khuê vi hung tấn ai cảm kỷ thực), Ngô Thì Hoàng (Lữ quán mộng tiên thất),
Ngô Thì Nhậm (Hoài nội), Phan Thanh Giản (Từ giã vợ nhà đi làm quan), Trần Tế
Xương (Thương vợ)... Sự tiếp bước ấy góp phần làm đông đảo thêm, phong phú
thêm cho một mảng sáng tác đặc sắc về người phụ nữ. Mỗi tác giả lại có một cách
thể hiện tình cảm rất riêng hướng đến người mà họ yêu thương. Những cung bậc
cảm xúc mãnh liệt ấy nhấn mạnh, tô đậm thêm khuynh hướng trữ tình của nền văn
chương Việt Nam trung đại.
Nhiều hoàn cảnh sống, nhiều số phận không may, nhiều tình cảm sâu nặng
của các tác giả bộc lộ qua những bài thơ trĩu nặng ưu tư viết về người phụ nữ. Dẫu
là viết dưới hình thức nào thì các nhà thơ trung đại cũng đã bộc lộ cảm xúc và thái
độ hết sức chân thành dành cho đối tượng mà họ quan tâm. Đây là những cảm xúc
hết sức đáng trân trọng từ một bộ phận trí thức đương thời. Với sự phản ánh đa
dạng nhiều góc độ cuộc sống, số phận của người phụ nữ trở nên rõ nét hơn, nhận
được nhiều sự đồng cảm và góp phần làm thay đổi những quan niệm mang đậm tính
chất khiên cưỡng của tư tưởng bảo thủ cũ.
1.3.3.3. Tác giả (là phụ nữ) tự bộc lộ thân phận và tâm trạng của mình
Một đặc điểm trong mô hình thơ trung đại là nhà thơ bày tỏ lý tưởng, hoài
bão trong tâm tư; hướng người đọc vào vị thế, địa vị, cảnh ngộ của mình. “Sự thống
nhất giữa cuộc đời nhà thơ và cái tôi trữ tình trong sáng tác là một hiện tượng khá
phổ biến với thơ. Thơ trữ tình từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đến Hồ Xuân
Hương, Cao Bá Quát, Tú Xương, Phan Bội Châu, Tố Hữu… đều biểu hiện rất rõ
48
nét sự thống nhất trên” [30, tr.462-463]. Những tác giả nữ trong giai đoạn văn học
Việt Nam trung đại thế kỷ XVIII - XIX tuy không nhiều nhưng những tác phẩm từ
các tác giả nữ trực tiếp bộc bạch tâm sự, nỗi niềm của thân phận phụ nữ lại tạo ra
chiều sâu và sự ám ảnh mạnh mẽ. Ở các tác phẩm ấy, tác giả và chủ thể trữ tình có
nhiều điểm tương đồng. Nội dung thơ của các tác giả nữ hết sức sâu sắc, thể hiện
“cái tôi” của tác giả ở một góc độ nào đó bởi ít nhiều thì tâm sự, hoàn cảnh sống và
cách nghĩ của họ đã biểu hiện trong tác phẩm. Không ai hiểu rõ hoàn cảnh của phụ
nữ bằng chính những người phụ nữ đã và đang sống trong cùng một xã hội, chịu
cùng một nỗi khổ. Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan và Trương Quỳnh Như
là những tác giả có tác phẩm thể hiện sâu sắc cuộc sống, thân phận phụ nữ trong xã
hội cũ.
Phong cách sáng tác, thời điểm sống, môi trường sống và hoàn cảnh sống
của các tác giả nữ trung đại không ai giống ai nhưng điểm chung dễ nhận thấy trong
một số sáng tác của các nữ sĩ là nỗi cô đơn thấm sâu và trải dài: Chiều hôm nhớ
nhà, Qua đèo Ngang (Bà Huyện Thanh Quan), Tặng ông Chiêu Lỳ về quê (Trương
Quỳnh Như)…
Tác giả nữ tiêu biểu nhất viết về thân phận người phụ nữ trong văn học Việt
Nam nói chung, trong thơ trữ tình thế kỷ XVIII - XIX là Hồ Xuân Hương - một nhà
thơ, một người phụ nữ có cuộc sống tình duyên không bằng phẳng. Thơ Hồ Xuân
Hương nhắc rất nhiều đến phụ nữ nhưng ám ảnh nhất, sâu sắc và day dứt nhất vẫn
là những vần thơ viết về thân phận, về nỗi khổ, về sự đau đớn tinh thần của người
phụ nữ bị xã hội cũ vùi dập, nhấn chìm: Lấy chồng chung, Tự tình (I, II, III), Không
chồng mà chửa… đều trực tiếp vạch trần sự ê chề của những người phụ nữ không
may mắn trong cuộc sống hôn nhân, gia đình.
Mảng sáng tác của các tác giả nữ về người phụ nữ trong xã hội cũ có giá trị
phản ánh đời sống thật ở những khía cạnh nhất định, tố cáo hiện thực sâu sắc.
Những nhà thơ nữ là những người trí thức, ý thức sâu sắc về thân phận và vị trí của
người phụ nữ. Họ vừa là nạn nhân, vừa là những nhân chứng sống của những bất
hạnh tiêu biểu cho số phận phụ nữ đương thời.
49
1.3.4. Nguyên nhân phát triển
1.3.4.1. Khủng hoảng chính trị, ý thức hệ Nho giáo suy thoái
Mâu thuẫn xã hội được manh nha từ cuối thế kỷ XVII trở nên ngày càng gay
gắt, dẫn tới sự bùng nổ mang tính chất tất yếu của cao trào khởi nghĩa nông dân vào
những năm bốn mươi của thế kỷ XVIII đã đặt chế độ phong kiến trên bờ vực thẳm.
Ý thức hệ Nho giáo khủng hoảng và sự trỗi dậy mạnh mẽ của ý thức cá nhân. Đây
là giai đoạn nhà nước phong kiến suy thoái, nội chiến tàn khốc, thành trì lễ giáo
phong kiến bị tan rã từng mảng, không còn đủ sức ràng buộc, áp đặt con người với
ý thức phận sự và phục tùng. Đó là điều kiện để ý thức cá nhân có nhu cầu tự bộc lộ
mạnh mẽ, khao khát khẳng định vẻ đẹp, tài năng và đấu tranh cho khát vọng tình
yêu, hạnh phúc.
Văn học Việt Nam trung đại thế kỷ XVIII - XIX, mà đặc biệt là từ giữa thế
kỷ XVIII trở đi, có những sự phát triển vượt bậc về nhiều mặt. Do những bước
chuyển mình của lịch sử dân tộc (phong trào Tây Sơn), xã hội Việt Nam có sự thay
đổi rõ nét, khát vọng giải phóng con người đã thực sự trở thành một nhu cầu bức
thiết mang tính thời đại. Văn học cũng có sự thay đổi để đáp ứng yêu cầu phản ánh
hiện thực và thế giới nội tâm của con người. Sự chi phối của đạo lý Nho giáo đã
phần nào nhạt nhòa, con người dần trở nên mất lòng tin vào những thước đo giá trị
chuẩn mực cũ. Nội dung văn học được các tác giá phản ánh vào thơ trữ tình đã được
nới rộng phạm vi thể hiện cái nhìn nhân bản, cổ vũ cho việc giải phóng con người,
cho quyền mưu cầu hạnh phúc cá nhân của mọi giai tầng trong xã hội.
1.3.4.2. Quan niệm sáng tác thay đổi
“Văn chương có mục đích trọng đại là giáo hóa, người sáng tác nghiêm
trang, dù là viết ra để chơi vui, thù ứng thông thường cũng không thể nói càn, mà
xa hay gần, đều nhằm nói được xúc cảm, suy nghĩ của mình, ngày xưa cho đó là cái
chí, cái tình, cái tâm của mình” [39, tr.23]. Theo đó, văn chương theo quan niệm
của các tác giả trung đại là phát ngôn hàm chứa những thông điệp về chí, về đạo và
về tình. “Văn dĩ tải đạo”, “Thi dĩ ngôn chí” là những quan niệm được các tác giả
thường xuyên thể hiện trong tác phẩm ở nhiều hình thức, nhiều mức độ.
50
Nếu chỉ xoay quanh những quan niệm sáng tác nói trên thì văn học chắc chắn
sẽ bị rơi vào lối mòn, thế nhưng, “văn học thời trung đại nước ta vẫn phát triển liên
tục và ngày càng có nhiều tác giả lớn, tác phẩm hay. Điều đó chứng tỏ, thời trung
đại không phải chỉ có một quan niệm văn học nhà Nho” [33, tr.30]. Ở thời điểm thế
kỷ XVIII - XIX, quan niệm sáng tác truyền thống ngôn chí, tải đạo nói trên vẫn tồn
tại nhưng bên cạnh đó còn xuất hiện quan niệm sáng tác ghi nhận “những điều trông
thấy”. Các tác giả bắt đầu có ý thức sáng tác theo cảm hứng trước những vấn đề mà
hằng ngày họ tiếp xúc, trực tiếp hoặc gián tiếp biết đến. Những sáng tác này đã xuất
hiện ở một vài tác phẩm từ giai đoạn thế kỷ XV - XVII, nhưng phải đến thế kỷ
XVIII - XIX (đặc biệt ở bộ phận thơ chữ Nôm) mới thực sự phát triển mạnh mẽ với
sự đồng hành của chủ nghĩa nhân đạo và yêu cầu phản ánh hiện thực từ cuộc sống.
Cũng chính từ đây, tiếng nói của các tác giả bắt đầu mang màu sắc cá nhân hơn hẳn
những sáng tác giai đoạn trước.
Việc sáng tác theo quan niệm “ghi nhận điều trông thấy” tạo nên sự đa dạng
về chủ đề, đề tài thơ; sự phong phú về đối tượng phản ánh; sự đổi mới về giọng
điệu, ngôn ngữ thơ… Thơ trữ tình thế kỷ XVIII - XIX xuất hiện nhiều nhân vật vô
danh có hoàn cảnh điển hình. Số phận của người phụ nữ chính là một vấn đề hiện
thực bức xúc của đời sống được các nhà văn quan tâm, ghi nhận.
1.3.4.3. Văn học Nôm phát triển mạnh
Đây là mảng sáng tác mang tinh thần dân chủ, vượt ra ngoài sự kiểm duyệt
của nhà nước phong kiến, thể hiện được nhu cầu giải phóng tình cảm của nhân dân.
“Văn học chữ Nôm ra đời và phát triển được một phần là chịu ảnh hưởng của Hán
học và văn học chữ Hán, nhưng chủ yếu là dựa vào thành tựu của văn học dân
gian, trước hết là những thành tựu về mặt rèn giũa ngôn ngữ văn học dân tộc và
xây dựng thể loại văn học dân tộc” [33, tr.27], chữ Nôm xuất hiện vào thế kỷ XIII
là sự phản ứng lại của tinh thần dân tộc, các tác phẩm văn chương chữ Nôm phát
triển mạnh vào thế kỷ XVIII - XIX chính là minh chứng cho sự bùng nổ của ý thức
dân tộc.
51
Cuối thế kỷ XVIII, tình hình xã hội có những bước ngoặt lớn, chế độ phong
kiến rơi vào khủng hoảng, xã hội càng lúc càng rối ren đã khiến cái nhìn đạo lý Nho
giáo dần bị nhạt nhòa, con người mất đi lòng tin vào những thang giá trị chuẩn mực
cũ thì bộ phận văn học chữ Nôm phát triển ngày một mạnh mẽ như một yêu cầu tất
yếu của thời đại. Sự phát triển của văn học Nôm là điều kiện thuận lợi để các tác giả
mạnh dạn bộc lộ những tình cảm riêng tư, phản ánh được những vấn đề được xem
là “nhạy cảm” đối với tư tưởng Nho giáo, trong đó có vấn đề người phụ nữ. Vấn đề
quyền sống và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người xuất hiện, tư tưởng nhân
đạo được chú trọng thì thơ Nôm cũng ngày càng phát triển và được khẳng định như
một bộ phận nòng cốt của văn học Việt Nam trung đại. Thậm chí từ cuối thế kỷ
XVIII, thơ trữ tình chữ Nôm nói riêng, văn chương chữ Nôm nói chung còn lấn át
cả bộ phận văn học chữ Hán, đạt được thành tựu rực rỡ. Điều này có thể do nhiều
yếu tố tạo nên, nhưng trước hết và trên hết, là do tính dân tộc, tính nhân dân được
biểu hiện rõ rệt qua bộ phận văn chương chữ Nôm.
Sự phát triển phong phú và đa dạng của hình tượng người phụ nữ trong thơ
trữ tình thế kỷ XVIII - XIX với biểu hiện vượt trội về số lượng tác giả, tác phẩm do
nhiều nguyên nhân thúc đẩy đã vẽ nên bức chân dung về người phụ nữ ở hầu hết
các phương diện. Thành quả ấy là sự thay đổi tất yếu mang tính thời đại, vừa tạo
nên tác dụng cổ vũ to lớn cho người phụ nữ tiếp tục sống và hoàn thiện mình, vừa
có tác dụng tố cáo chế độ phong kiến một cách sắc bén.
52
Chương 2. CHÂN DUNG NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG THƠ TRỮ TÌNH THẾ KỶ XVIII - XIX
Với một đội ngũ sáng tác đông đảo và giàu trải nghiệm, chân dung người
phụ nữ trong thơ trữ tình thế kỷ XVIII - XIX hiện lên với nhiều màu sắc sinh động,
cụ thể đến từng đường nét, chi tiết. Nhìn vào bức tranh toàn cảnh ấy, người ta hình
dung được cuộc sống của người phụ nữ thuộc nhiều giai tầng của xã hội phong
kiến, quan điểm của chính những người trong cuộc và cái nhìn đậm chất nhân văn
của đại đa số tác giả trung đại…
2.1. Vẻ đẹp và tài năng của người phụ nữ
2.1.1. Vẻ đẹp của người phụ nữ
Vẻ đẹp của người phụ nữ trong thơ trữ tình thế kỷ XVIII - XIX được các tác
giả chú ý khắc họa một cách toàn diện ở cả ngoại hình và nội tâm. Đó là cái đẹp từ
hình thức cho đến tâm hồn, cái đẹp lay động con người từ những giá trị thực, được
cảm nhận qua nhiều bình diện. Những người phụ nữ trong xã hội có thể có những
hoàn cảnh sống khác nhau, thuộc những tầng lớp xã hội khác nhau nhưng phần lớn
đều mang những đức tính tốt đẹp, cao quý, có nhân cách và phẩm hạnh đáng được
tôn trọng. Họ nhận được những cái nhìn thiện cảm, những tình cảm trân trọng của
các tác giả.
Về ngoại hình, các tác phẩm thể hiện vẻ đẹp của người phụ nữ trong cả môi
trường quý tộc và bình dân với những nét khác biệt nhất định. Phụ nữ quý tộc
thường gắn liền với châu ngọc, với vẻ ung dung yểu điệu, với những đặc trưng thể
hiện thân phận của họ. Các tác giả rất khéo léo lựa chọn hình ảnh so sánh, vẽ nên
nét đẹp đằm thắm của người phụ nữ quý tộc một cách tinh tế trong nhiều hoàn cảnh,
vẻ đẹp ấy vẫn là vẻ đẹp thuần Việt, vẫn hiền hòa và dịu dàng ngọt ngào...
- “Quảng hàn cung lý giáng tiên nga.
Thác nhập thi thư thế đức gia”
(Trên cung Quảng hàn giáng xuống một nàng tiên,
Thác sinh vào một gia đình thi thư, đạo đức)
(Khóc tiên muội Kim Đài - Ngô Thì Điển)
53
- “Mộng hồi la trướng, lệ châu san,
Lãn hoán kinh thoa liễm thúy hàn”
(Giấc mơ về nơi la trướng, thấy bà rơi hạt châu,
Ra chiều lười biếng, không thay cái kinh thoa cài trên mái tóc)
(Tống nội tử Ngô Vũ Khanh nam quy - Nguyễn Thông)
- “Bất luận vũ kiều ca mị xứ
Lễ dung như thử đại gia nan”
(Không kể nết yêu kiều của điệu múa và vẻ duyên dáng của tiếng ca,
Dung nhan lễ mạo như thế, khó có ai theo được)
(Thập tư, V - Ngô Thì Sĩ)
Những người phụ nữ quý tộc được thể hiện với vẻ bề ngoài hào nhoáng, rực
rỡ. Vẻ bề ngoài ấy có sự khác biệt nhất định so với phụ nữ bình dân. Nếu những
người phụ nữ trong môi trường quý tộc khoác lên mình vẻ đẹp đài các, quý phái,
sang trọng thì trong môi trường bình dân, người phụ nữ lại toát lên vẻ đẹp giản dị và
khỏe khoắn. Họ có thể không quần là áo lượt, không đi đứng khoan thai mà rất năng
động để phù hợp với tính chất cuộc sống mà họ có.
Người phụ nữ bình dân sống một cách thanh đạm, không có nhà cao cửa
rộng, không có châu báu ngọc ngà mà khỏe khoắn và gắn liền với môi trường họ
đang sống, gắn liền với công việc, với tự nhiên. Những người phụ nữ bình dân
thường đơn giản, mộc mạc và bình dị. Mỗi một môi trường sống tạo cho người phụ
nữ một vẻ đẹp bề ngoài phù hợp, không gượng gạo. Chính sự phù hợp ấy đã làm
nên nét đẹp riêng của họ:
- “Sơn thôn nhi nữ cái vô hoa”
(Con gái làng núi mái tóc không cài hoa)
(Quá sơn gia - Miên Trinh)
- “Tân đầu chúng nữ cán,
Chiếu kiến hồng phấn trang.
Hồng trang nhập hoa lí,
Hồ điệp loạn y thường”
54
(Đầu bến, các cô gái giặt áo,
Soi thấy má hồng trang điểm [của mình].
Má hồng son phấn đi vào hoa,
Bướm bay vờn trên xiêm áo)
(Nam hồ - Miên Trinh)
Hữu sở cảm của Phạm Đình Hổ thể hiện cảm xúc của tác giả về vẻ đẹp ở cả
ngoại hình và tính cách ngây thơ của cô gái nhỏ đất Trường An (nhiều người nghiên
cứu cho rằng sáng tác này viết về Hồ Xuân Hương thuở còn là thiếu nữ ngây thơ).
Cô gái làm những việc vừa sức mình (quét hoa rụng), vừa làm vừa ngắm hoa và
nghĩ ngợi. Từ ngoại hình và hành động của cô toát lên vẻ đẹp trong sáng của một cô
gái sống trong gia đình bình dân:
“Trường An tiểu nhi nữ,
Tiêm thủ quán a hoàn
Thâm khuê bất tri khổ
Do tảo lạc hoa khan”
(Cô gái nhỏ đất Trường An,
Bàn tay xinh quấn hai búi tóc
Chốn khuê phòng kín đáo chẳng biết khổ,
Vẫn quét hoa rụng mà ngắm xem)
Những vần thơ đơn giản, trong sáng vẽ nên một cô thiếu nữ xinh xinh ngây
thơ, hồn nhiên. Cô gái không có danh tính cũng không có thân thế rõ ràng, thứ rõ
ràng nhất trong tác phẩm là vẻ ngây thơ thể hiện ra ngay từ cách “quấn hai búi
tóc”, chưa biết lo nghĩ nên “chưa biết khổ”. Ta như cảm nhận được một vẻ đẹp
xinh tươi, trong veo của cô gái trẻ vô tình lọt vào mắt của nhà thơ. Cái đẹp ấy là
một trong những vẻ đẹp trong trẻo dễ bắt gặp trong cuộc sống đời thường đã tạo nên
cảm xúc rung động mạnh mẽ trong tâm hồn tác giả.
“Con người trong thơ trung đại là con người vũ trụ. Điều này xuất phát từ
quan niệm triết học phương Đông: “thiên nhân hợp nhất”, “thiên nhân tương dữ”,
“nhân thân tiểu vũ trụ”. Con người tồn tại như một phần của vũ trụ, đứng giữa đất
55
trời, xung quanh là càn, khôn, nhật, nguyệt; bốn bề là tùng, trúc, cúc, mai” [12,
tr.147]. Ở thơ trữ tình, đôi khi các nhà thơ viết về thiên nhiên với những đặc điểm
rất gần với vẻ đẹp tự nhiên của người phụ nữ và ngược lại. Hai đối tượng này một
khi được đặt gần nhau hoặc được so sánh với nhau thường tạo ra cảm giác nhập
nhòe, mơ hồ, nhờ đó, nâng cao giá trị thẩm mỹ cho tác phẩm. Vẻ đẹp, cách nhìn
nhận người phụ nữ được nâng lên một tầm nhìn mang tính nghệ thuật cao:
- “Dương liễu phong khinh yêu đới trụy.
Phù dung sương đạm kiểm chi hàn”
(Giải lưng thướt tha như làn gió nhẹ lướt cành dương liễu,
Phấn mặt mát lạnh như màu sương nhạt điểm hoa phù dung)
(Đề mỹ nhân dao lỗ đồ - Lê Quang Định)
- “Mai thê hạc tử, viên thành thú,
Nguyệt tỉ phong di, khế túc duyên”
(Hoa mai là vợ, chim hạc là con, đó là thú vui,
Chị trăng dì gió vốn có duyên nợ từ trước)
(Tự thuật - Tống Duy Tân)
Các nhân vật thiếu nữ trẻ dù sống trong môi trường nào cũng thường mang
vẻ đẹp tràn đầy sức sống, sức thanh xuân. Các tác giả miêu tả vẻ đẹp ngây thơ đáng
yêu của những thiếu nữ trẻ, mơn mởn sức sống. Đây đơn giản là những cái nhìn
mang tính chất thưởng thức cái đẹp, gần với việc miêu tả một bông hoa đẹp, một
phong cảnh đẹp chứ hoàn toàn không gợi một chút thô tục nào. Nhìn vào vẻ đẹp
trong veo ấy, người ta nhận ra một khía cạnh khác của cái đẹp để càng thêm yêu
quý, trân trọng cuộc sống:
- “Thiếu tiểu thùy gia nữ,
Phong tiền mại tiếu trang.
Thiển mi chung học liễu,
Đinh mẫn tảo sơ hương”
(Thiếu nữ nhà ai đó,
Trước gió vụng điểm trang.
56
Mày thưa học nét liễu,
Tóc ngắn vừa tỏa hương)
(Thiếu nữ tản kiều - Phạm Đình Hổ)
- “Dao lỗ giai nhân cánh khả quan.
Dương liễu phong khinh yêu đới trụy”
(Người đẹp bơi chèo lại càng thêm ưa mắt,
Giải lưng thướt tha như làn gió nhẹ lướt cành dương liễu)
(Đề mỹ nhân dao lỗ đồ - Lê Quang Định)
- “Băng tác cơ phu, nguyệt tác thần.
Nhất ban kiều diệm huyễn nhiên chân”
(Da như băng tuyết, tinh thần như trăng sáng,
Riêng một vẻ yêu kiều, huyền ảo mà chân thực)
(Kính trung mỹ nhân - Nguyễn Hành)
- “An cứ kim loan lưỡng ngẫu liên.
Thành tiếu hoán nhân thiên lý mộng”
(Đôi chân như ngó sen vàng cong cong kẹp yên ngựa.
Nụ cười nghiêng thành, gọi người tỉnh giấc mộng nghìn dặm)
(Mã thượng mỹ nhân - Ninh Tốn)
Đặc biệt, các tác giả đi sâu vào thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ,
khai thác hình tượng người phụ nữ trong những vai trò khác nhau. Ở khía cạnh này,
người phụ nữ hiện lên với những đức tính tốt đẹp tiêu biểu cho một người vơ, người
mẹ, người con gái… trong những mối quan hệ ở gia đình và ngoài xã hội. Bất kể họ
thuộc tầng lớp quý tộc hay bình dân thì họ vẫn mang những phẩm chất làm nên biểu
tượng của người phụ nữ Việt, vẫn dịu dàng, yêu thương, chung thủy, chịu thương
chịu khó, nhẫn nhịn và dám hy sinh. Những đức tính ấy của người phụ nữ luôn
khiến người ta phải trân trọng, nâng niu.
Nét đẹp của người phụ nữ trong cuộc sống, trong sinh hoạt, ứng xử được ghi
nhận qua những đức tính cần mẫn, chăm chỉ trong lao động. Đó là nét đẹp trong
tính cách thuần hậu, đảm đang của người phụ nữ Việt:
57
- “Thôn lạc sinh nhai cần thiếu phụ,
Thiềm tiền yêu nguyệt giản miên hoa”
(Thiếu phụ thôn quê, cách sinh nhai thật là cần mẫn,
Ngồi trước thềm chờ trăng sáng để chọn nhặt hoa cây bông)
(Long Tịch thôn cư tạp vịnh I - Trịnh Hoài Đức)
- “Táo ty phụ nữ các gia tâm,
Tam bồn xuất tự phiên hương kiển”
(Các phụ nữ ươm tơ, ai ai cũng đều hết sức.
Ba nồi ươm lần ra mối, trở mẻ kén nõn thơm tho)
(Quất xã táo ti - Trịnh Hoài Đức)
- “Hữu muội đại huynh cung tử chức,
Thử thân ly mẫu khách tha hương”
(Có em gái thay anh lo phận sự làm con,
Tấm thân này xa mẹ, lưu lạc quê người)
(Tư gia - Bùi Dương Lịch)
Sự hy sinh thầm lặng của những người vợ, người mẹ ngày đêm vun vén gia
đình để chồng, con lo công việc trọng đại. Người phụ nữ chấp nhận trở thành hậu
phương mờ nhạt phía sau người đàn ông, âm thầm hoàn thành sứ mệnh của mình
(sứ mệnh mà thời đại áp đặt lên họ) mà chẳng hề yêu cầu, đòi hỏi sự đáp trả. Đôi
lúc, họ bị bỏ quên khi người đàn ông “chí tại bốn phương” muốn vẫy vùng ngoài
biển lớn mà lơ là quan tâm đến gia đình, đến người thân. Những người mẹ ấy xem
đó là lẽ đương nhiên, bởi“trung quân ái quốc” là điều mà bất kỳ một người mẹ nào
khi sinh ra con trai đều phải dạy con, hạnh phúc của một người mẹ chính là khi nhìn
thấy con mình lập nên danh nghiệp…
- “Phả nại từ thân thâm niệm tử,
Trữ lập giang biên địa nhất đầu
Sa thùy nhãn để châu song lệ”
(Làm sao thấu được nỗi lòng mẹ hiền nhớ con,
Đứng lặng nơi gò đất ven sông
58
Bỗng dưng đáy mắt nhỏ đôi hàng lệ)
(Tư thân thuật hoài - Lê Anh Tuấn)
- “Phụ mẫu sinh nhi giáo hiếu trung,
Thượng nghi báo quốc lập kỳ công”
(Cha mẹ sinh con dạy điều trung hiếu,
Trên hết phải lập kỳ công báo đền tổ quốc)
(Xuân nhật ức song thân cảm tác - Đào Tấn)
Trịnh Doanh với hai bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Ban chánh cung và Ban
Đông cung tặng cho hai người vợ thể hiện những tình cảm trân trọng đối với sự hiền
thục, đảm đang của họ. Ông đặt vào thơ những suy nghĩ của chính mình, ghi nhận
những gì mà họ đã cố gắng trong đạo làm vợ, làm mẹ:
- “Tần tảo bấy nay vẹn đạo thường,
Tiếng khen đã ngợi giá Nhâm Khương”
(Ban chánh cung)
- “Đội đức hồng quân nhuần tháng hạ,
Rước điềm thái đại tỏ trăng thu”
(Ban Đông cung)
Vọng phu thạch (hòn Vọng phu) được hai tác giả Nguyễn Du và Cao Bá
Quát đưa vào những tác phẩm cùng tên với mục đích ca ngợi tấm lòng thủy chung
son sắt của người vợ ôm con chờ chồng đến hóa đá. Hình ảnh ấy đã trở thành tấm
bia tôn vinh đức hạnh của những người phụ nữ trọn thủy tròn chung, sống vì gia
đình và đặt gia đình lên trên hết:
- “Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ,
Đài triện trường minh nhất đoạn văn”
(Mưa thu như dòng lệ chảy không ngớt
Lớp rêu như ghi lại một bài văn ca tụng nàng)
(Vọng phu thạch - Nguyễn Du)
- “Huyết lệ yên hòa, minh nguyệt thấp,
Hương hoàn vân tích lục đài phong.
59
Thiên hoang địa lão tình do tạc
Dạ dạ xao tàn bích động chung”
(Nhói đẫm dưới trăng trong, tưởng dòng lệ máu,
Mây phủ chòm rêu biếc, ngỡ mái tóc thơm.
Trời tàn, đất cỗi, mối tình vẫn như xưa,
Tiếng chuông trong động biếc, đêm đêm cứ văng vẳng đến
tàn canh)
(Vọng phu thạch - Cao Bá Quát)
Những người phụ nữ vốn đã thiệt thòi với thân phận mình trong một xã hội
“trọng nam khinh nữ” như xã hội phong kiến lại càng bị thiệt thòi khi phải gánh
vác, bươn chải lo cho gia đình. Nhân vật nữ bình dân đôi khi sống cuộc sống hết
sức nhọc nhằn, lam lũ nhưng vẫn kiên cường và cần mẫn lao động. Sự tần tảo đảm
đang của người phụ nữ, đặc biệt là phẩm chất của những người phụ nữ bình dân, đã
trở thành đức tính cao đẹp được ghi nhận như những phẩm chất tiêu biểu làm nên
hình tượng người phụ nữ trong văn học Việt Nam từ trung đại đến hiện đại:
- “Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng”
(Thương vợ - Trần Tế Xương)
- “Ninh sử thiếp phúc nội,
Mạc sử tàm thực khuyết
Thiếp nội nhất thân khổ,
Tàm bão bát khẩu hoạt”
(Thà bụng em chịu đói,
Chứ không để tằm ăn không no.
Em đói một thân khổ,
Nhưng tằm no thì nuôi sống cả nhà tám miệng ăn)
(Tàm phụ từ - Miên Trinh)
- “Thiệp lịch ninh từ Tam Điểm hiểm,
Thê lương vô nại ngũ thiên trình”
60
(Lặn lội nào quản núi Ba Dội hiểm trở,
Thê lương chẳng ngại đường ngàn dặm xa xôi)
(Đồ ngộ đảm nhi tầm phu giả - Đoàn Nguyễn Tuấn)
Bản lĩnh của người phụ nữ không phải chỉ loanh quanh với công việc nội
trợ, chăm chồng chăm con mà còn thể hiện ở sự tần tảo, không quản ngại vất vả để
lo sinh kế cho gia đình. Lo trong lo ngoài, chu toàn cho nhà cửa ngăn nắp, sạch sẽ,
lại bận bịu “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” với việc đồng áng nhà nông, đồng
thời san sẻ lo toan với chồng. Nghị lực phi thường và bản lĩnh đáng khâm phục ấy
đã được nhiều tác giả ghi nhận và thể hiện một cách sinh động trong tác phẩm.
Với số lượng tác phẩm lớn viết về người phụ nữ trong thơ trữ tình thế kỷ
XVIII - XIX, các tác giả đã đi sâu khai thác vẻ đẹp của người phụ nữ trong nhiều
môi trường, nhiều hoàn cảnh. Vẻ đẹp của người phụ nữ được khắc họa cả ở ngoại
hình và nội tâm, trở thành một hình tượng đẹp toàn diện với hình dung uyển
chuyển, đức hạnh tròn đầy. Dẫu có lúc vẻ ngoài hằn lên nét lam lũ, không điểm
phấn tô son, không có thời gian soi gương chải chuốt thì người phụ nữ vẫn đẹp một
vẻ đẹp rất riêng - vẻ đẹp của sự lao động cần mẫn, vẻ đẹp cao quý của đức hy sinh.
2.1.2. Tài năng của người phụ nữ
Như đã nói, chân dung phụ nữ trong thơ trữ tình thế kỷ XVIII - XIX được
khắc họa một cách chân thực, toàn diện không chỉ ở ngoại hình, nội tâm mà còn ở
khía cạnh tài năng... Số lượng thơ nở rộ, áp đảo so với những thế kỷ trước. Nội
dung và hình thức thơ cũng phong phú và đa dạng hơn, lột tả nhiều khía cạnh, ở
nhiều góc độ và mức độ số phận của người phụ nữ.
Nguyễn Du thể hiện sự trân trọng đối với những người ca kỹ có tài năng
đánh đàn, múa hát gây xúc động lòng người nhưng không gặp may mắn trong cuộc
sống. Họ là những người phụ nữ không có được một số phận bình lặng như những
người khác, phải làm nghề mua vui cho thiên hạ, dựa vào sự tán thưởng, yêu thích
của người khác để kiếm sống.
Long thành cầm giả ca, Điếu La thành ca giả, Ngô gia đệ cựu ca cơ, Độc
Tiểu Thanh kí... là những tác phẩm đặc sắc thể hiện rõ nét tình cảm chân thành và
61
sâu sắc của tác giả dành cho những kiếp người bất hạnh, nhất là những người phụ
nữ khổ đau, bị vùi dập trong xã hội thời phong kiến Việt Nam. Những hình ảnh ấy,
số phận ấy đều mang tính điển hình sâu sắc, phản ảnh hiện thực xã hội đương thời
và đều đã tố cáo mạnh mẽ tính chất tàn nhẫn của xã hội cũ. Long thành cầm giả ca
được sáng tác bằng thể thơ cổ, có nguồn gốc từ thơ Nhạc phủ đời Hán (Trung
Quốc). Tác phẩm viết về một con người tài hoa một thời, giờ nhan sắc tiều tụy,
không còn ai chú ý đến nữa. Nhà thơ tỏ lòng xót thương ngậm ngùi của mình đối
với cô gái gảy đàn, qua đó, nghĩ đến cuộc đời dâu bể. Bài thơ mang một tinh thần
nhân đạo cao cả. Tác gia sử dụng thể cổ phong với tính chất tự do không hạn chế
câu chữ, không cần niêm - đối chặt chẽ và có tính tự sự, tính trữ tình để tường thuật
lại một cảnh ngộ mà nhà thơ bất chợt nhìn thấy, đồng thời nói lên những cảm nghĩ
của nhà thơ trước tình cảnh đó. Với độ dài cần thiết của thể “ca hành”, nhà thơ có
thể thuật lại một đoạn đường đủ dài để tạo ra sự đối lập mang tính chất bước ngoặt
trong cảm xúc của người tiếp nhận. Bên cạnh nhận thức về cuộc đời xoay vần thì
thái độ trân trọng tài năng gảy đàn của nàng Cầm của nhà thơ hết sức rõ rệt. Không
chỉ tán thưởng nàng mà tác giả còn ghi lại tiếng trầm trồ của mọi người khi nghe
nàng gảy khúc Cung Phụng ấy. Tiếng đàn giàu cảm xúc khiến lòng người ngây
ngất, tiếng đàn khoan nhặt sống động đưa con người bay bổng đến những miền đất
của trí tưởng tượng:
“Kì thì tam thất chính phương niên
Hồng trang yểm ái đào hoa diện
Đà nhan hám thái tối nghi nhân
Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến
Hoãn như sơ phong độ tùng lâm
Thanh như song hạc minh tại âm
Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái tích lịch
Ai như Trang Tích bệnh trung vi Việt ngâm
Thính giả mĩ mĩ bất tri quyện”
(Lúc đó nàng khoảng hai mươi mốt tuổi,
62
Áo hồng ánh lên mặt hoa đào,
Má hừng rượu, vẻ ngây thơ, rất dễ thương,
Năm cung réo rắt, theo ngón tay mà thay đổi điệu.
Tiếng khoan như gió thoảng qua rừng thông,
Tiếng trong như đôi hạc kêu trên cao thẳm,
Tiếng lạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc
Tiếng buồn như Trang Tích ngâm tiếng Việt lúc bệnh,
Người nghe say sưa không biết mỏi)
Cầm ca luôn bị xem là một cái nghiệp chứ không được coi như một cái nghề
trong xã hội phong kiến, những người ca kỹ thời ấy bị xã hội ném cho không ít cái
nhìn khinh bỉ, bị hắt hủi và chà đạp. Thế nhưng, vượt lên trên mọi định kiến, tài
năng của con người vẫn là thứ tồn tại khách quan không thể phủ nhận. Nàng Cầm
không xinh đẹp lắm, nhưng ngón đàn của nàng, phép xã giao của nàng khiến người
ta say đắm, ngây ngất. Đặc biệt, tiếng đàn của nàng được rất nhiều người yêu thích.
Đó là sự thăng hoa của tài năng, của cảm xúc được thể hiện qua nhiều cung bậc.
Bao nhiêu bậc trượng phu quân tử đã thưởng thức nàng, đã không tiếc vung tay
thưởng nhiều tiền cho nàng để bày tỏ lòng cảm mến.
Ở một tác phẩm khác, Nguyễn Du cũng dành sự trân trọng dành cho người
ca nữ xinh đẹp:
“Nhất chi nùng diễm há bồng doanh
Xuân sắc yên nhiên động lục thành.
Thiên hạ hà nhân liên bạc mệnh ?
Trủng trung ưng tự hối phù sinh.
Yên chi bất tẩy sinh tiền chướng
Phong nguyệt không lưu tử hậu danh.
Tưởng thị nhân gian vô thức thú,
Cửu tuyền khứ bạn Liễu Kỳ Khanh”
(Như cánh hoa thắm từ cõi tiên xuống,
Sắc đẹp uyển chuyển làm rung động cả sáu thành.
63
Thiên hạ ai kẻ thương người bạc mệnh?
Dưới mồ, chắc cũng hối hận cho kiếp phù sinh.
Lúc sống, phấn son không rửa được nghiệp chướng,
Chết rồi chỉ để lại tiếng gió trăng mà thôi.
Chắc nghĩ rằng trên đời không ai hiểu được mình,
Nên xuống suối vàng làm bạn với ông Liễu Kỳ Khanh!)
(Điếu La thành ca giả)
Một người ca nữ với “sắc đẹp uyển chuyển làm rung động cả sáu thành”,
chắc hẳn đã làm rung động nhiều trái tim si tình và đã được tán thưởng không ít.
Nhưng sắc đẹp cộng với tài hoa ca múa như “từ cõi tiên xuống” cũng không cứu
vãn được số phận cô đơn của nàng, nằm xuống ba tấc đất, thứ nàng nhận được cuối
cùng vẫn là sự châm chích không thiện cảm của người đời. Cái nhìn nhẹ nhàng và
công bằng cho người ca nữ được tác gia bày tỏ vào những câu kết của bài thơ.
Không chỉ bày tỏ lòng “thương người bạc mệnh”, tác gia đã thể hiện cái nhìn nhân
đạo sâu sắc khi cho rằng khi nàng chết đi cũng là khi nàng đang bước chân trên con
đường tìm kiếm một người “hiểu được mình”, chỉ vì cuộc sống thực không cho
nàng gặp được người ấy nên nàng mới tìm kiếm ở một thế giới khác. Mặc kệ cái
tiếng “xướng ca vô loài”, Nguyễn Du nhìn trực diện vào con người cô gái với tài
năng và nhan sắc rung động lòng người nhưng số phận không may mắn - người con
gái bạc mệnh đáng thương và đáng tôn trọng.
Trong Ngô gia đệ cựu ca cơ, một lần nữa Nguyễn Du lại bày tỏ sự cảm thông
trước cảnh đời của người ca nữ nhưng ở một khía cạnh khác:
“Kiến thuyết giá nhân dĩ tam tử,
Khả liên do trước khứ thời y”
(Nghe nói nàng đã có chồng và được ba con,
Ái ngại thay vẫn phải mặc cái áo thời trước (tức là vẫn làm con hát))
Một người con gái có giọng hát uyển chuyển, đã lấy chồng nhưng đến lúc
đầu bạc vẫn chưa thoát được kiếp sống mua vui cho thiên hạ, điều ấy phần nào nói
lên hoàn cảnh sống hiện tại của cô. Tác giả ái ngại thay cho cô và thương xót thay
64
cho cuộc sống bấp bênh của cô. Vào thời điểm ấy, có lẽ hạnh phúc của người phụ
nữ chính là có được một gia đình êm ấm, được chăm sóc cho chồng con chứ không
phải bươn chải với cái nghiệp cầm ca vốn bị mọi người nhìn với ánh mắt không
mấy thiện cảm vì sinh kế.
Sự cảm thông, thương xót của các tác giả dành cho người phụ nữ còn được
đẩy lên một mức cao hơn là sự đồng cảm của tác giả đối với các nhân vật. Tài làm
thơ của tài nữ Tiểu Thanh trong Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du là một điển
hình. Đại thi hào đã bày tỏ sự thương xót cho một cô gái tài năng hơn người phải
chịu nỗi uất hận, đau buồn đến chết khi đang tuổi xuân thì phơi phới. Hoàn cảnh của
Tiểu Thanh cũng là bi kịch mà rất nhiều phụ nữ trong xã hội cũ phải chịu đựng, nín
nhịn, bất lực…
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiên nhất chỉ thư”
(Vườn hoa cạnh Tây Hồ đã thành bãi hoang,
Ta chỉ viếng nàng qua bài ký đọc trước cửa sổ mà thôi)
Các tác giả trung đại cũng nhiều lần thể hiện tình cảm trước tài năng của
người phụ nữ cùng thời. Quý cái tài, trọng cái tình của những người con gái mang
phận má hồng bạc bẽo lại vượt lên trên định kiến của người đời để tự khẳng định
mình, nổi danh tài nữ nhiều người biết đến:
- “Kiến thuyết giai chương xuất quý nhân,
Lữ hoài bất giác bội ân cần”
(Nghe nói bài thơ hay là của quý nhân,
Tấm lòng lữ thứ bất giác thấy ân cần gấp bội)
(Ký tài nữ - Ninh Tốn)
- “Sạ văn hàn mặc thuộc nga my,
Triển chuyển linh nhân bán tín nghi”
(Chợt nghe nói có người con gái giỏi văn chương,
Khiến người ta phải nửa tin nửa ngờ)
(Ký tài nữ Thụy Liên - Ninh Tốn)
65
- “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Đồng quản quân danh dĩ hữu dư!”
(Tự nghìn xưa, người đời ai chẳng chết,
Danh tiếng nàng còn truyền mãi trong sử truyện các bậc tài nữ)
(Thập bất tất tư - Ngô Thì Sĩ)
Những tài nữ có cùng sở thích và tài năng thi ca với các các tác giả - giới trí
thức của thời đại - chỉ khác ở chỗ những người phụ nữ ấy không được xã hội tạo
điều kiện để phát huy tốt nhất khả năng thiên phú mà mình có.
Ca ngợi, ngưỡng mộ và trân trọng là thái độ mà các tác giả dành cho những
người phụ nữ có tài năng. Dù là người thân hoặc là những người xa lạ với nhau thì
cũng không quan trọng bởi cái mà các tác giả nhìn vào để trân trọng không phải là
mối quan hệ thâm giao ca tụng lẫn nhau, cái mà các nhà thơ trung đại ca ngợi chính
là tài năng mà họ có thể nhìn thấy, nghe thấy… Đó là tiếng đàn uyển chuyển làm
nên danh tiếng một thời của nàng Cầm, là giọng hát rung động sáu thành của người
ca nữ, là những bài thơ được thiên hạ truyền tụng ngợi ca… Ngay khi thể hiện
những điều đó vào tác phẩm của mình, các tác giả đã có ý thức trân trọng tài năng,
thương cảm cho số phận của nhân vật. Bằng một vài nhân vật, tác giả khái quát
thành tấm lòng xót xa cho cuộc đời của những cô gái có tài năng, có khát vọng sống
nhưng bị cuộc đời phong tỏa, vùi dập không thương tiếc.
Có thể nói, các tác giả trung đại đã dành cho những người phụ nữ có tài năng
trong xã hội cũ một sự quan tâm lớn, một chỗ đứng nhất định trong văn học. Trong
thơ trữ tình, những tác giả sáng tác về đối tượng này đều có dụng ý tôn vinh , xem
trọng tài năng các nhân vật nữ. Đó là một biểu hiện tiến bộ, khởi nguồn cho vấn đề
bình đẳng giới, đòi quyền hạnh phúc cho mọi giai tầng xã hội.
2.2. Số phận của người phụ nữ
2.2.1. Sắc đẹp và tài năng bị vùi dập tàn phai, mai một
Những người phụ nữ trong xã hội phong kiến thường không được làm chủ
cuộc đời mình, không được sống theo cách mình mong muốn mà luôn bị sự chi phối
của hàng loạt những quy tắc, chuẩn mực đạo đức được áp đặt ăn sâu bám rễ trong
66
nhận thức của con người thời đại ấy. Xã hội phong kiến luôn yêu cầu rất nhiều ở
người phụ nữ nhưng lại chẳng cho người phụ nữ một thứ quyền lợi nào xứng đáng
với những yêu cầu ấy. Hoàn cảnh chung của một tỉ lệ lớn phụ nữ trong thời phong
kiến là không được xem trọng, không có chỗ đứng xã hội (có rất ít phụ nữ được đi
học và dẫu có đi học cũng không thể tham gia thi cử, đỗ đạt làm quan) và tiếng nói
của họ cũng không thực sự có giá trị trong cả gia đình lẫn ngoài xã hội.
Không phải ngẫu nhiên khi bức tường thành phong kiến rạn nứt từng mảng,
thành lũy phong kiến trên đà sụp đổ lại tỉ lệ nghịch với sự xuất hiện các tác phẩm
viết về phụ nữ. Xã hội phong kiến càng suy yếu, các sáng tác nói đến số phận của
phụ nữ càng nhiều. Được sự hậu thuẫn của thời đại, trào lưu nhân đạo nở rộ đã tạo
điều kiện cho các tác giả viết nhiều hơn về những tầng lớp bình dân, những con
người nhỏ bé khốn khổ bị xã hội vùi dập, nhờ vậy, bức tranh toàn cảnh xã hội mới
dần được các ngòi bút thi nhân vẽ nên. Rất nhiều tác giả đã lên tiếng thay cho
những người phụ nữ có nhan sắc, có tài năng nhưng lại có số phận long đong, kém
may mắn.
Trước hết, người phụ nữ không được nhìn nhận một cách công bằng trong xã
hội. Có sắc đẹp và tài năng nhưng không được người đời nhìn nhận, mà ngược lại,
những thứ ấy trở thành nguyên do cho cuộc đời bấp bênh của họ. Họ có thể là
những người có nhan sắc “nghiêng nước nghiêng thành”, có thể là những người ca
nữ có giọng hát uyển chuyển, có tài đánh đàn rung động lòng người, hay là những
tài nữ có những vần thơ trác tuyệt thể hiện tri thức uyên thâm… nhưng lại phải chịu
nhiều bất hạnh, éo le. Tài năng của họ không những không được trân trọng mà còn
bị hắt hủi. Sắc đẹp của họ khi đã về chiều thì họ lập tức bị ghẻ lạnh, bị bạc đãi.
Nhưng họ cũng chẳng dám oán trách ai. Trách ai bây giờ? Họ chỉ dám trách mình
mệnh bạc, chỉ im lặng và nhẫn nhịn.
Nàng Tiểu Thanh trong Độc Tiểu Thanh Ký là bằng chứng cho số phận bị vùi
dập của một tài nữ. Trẻ tuổi, xinh đẹp, tài năng nhưng bị ghẻ lạnh và không được
hưởng hạnh phúc của một thiếu nữ đang thời xuân sắc. Mất đi, những bài thơ bầu
bạn với nàng lúc sinh thời cũng bị đem đốt, bị hủy hoại. Nguyễn Du đã nhỏ lệ
67
thương xót, bày tỏ sự cảm thông đối với người tài nữ phận mỏng, không nhận được
sự yêu thương và tôn trọng nên có:
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư”
(Son phấn có linh hồn chắc phải xót vì chuyện xảy ra sau khi chết,
Văn chương không có mệnh mà cũng bị liên lụy, đốt đi còn xót lại
một vài bài)
Nàng Cầm trong Long thành cầm giả ca ở tuổi hai mươi mốt được bao người
yêu thích với ngón đàn trong cung cấm nổi danh tài hoa cả một vùng. Cũng với
khúc đàn ấy của hai mươi năm sau mọi thứ đã hoàn toàn khác. Thời gian quả thật
không buông tha một ai, ngày tháng trôi qua đã đem theo tuổi xuân và sắc đẹp của
người ca nữ. Thời gian tàn nhẫn nhưng lòng người còn tàn nhẫn hơn nữa. Vẫn tiếng
đàn năm cũ của người cũ nhưng nàng không còn được ai nhìn đến, sự tồn tại của
người ca nữ già tài hoa một thời nhạt nhòa trong “đám ca kỹ trẻ tuổi”. Là người
chứng kiến thời điểm huy hoàng của nàng nhiều năm trước, so sánh với hiện tại tàn
tạ suy sụp, tác gia không khỏi nhỏ lệ thương xót:
“Thùy tri tựu thị đương niên thành trung đệ nhất diệu
Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy”
(Ai biết đó là người trước kia nổi danh tài hoa đệ nhất trong một thời,
Khúc xưa đàn lên, tôi tuôn nước mắt ngầm theo từng tiếng)
Nhà thơ “không trách người đẹp nhan sắc suy tàn”, bởi đó là quy luật của tự
nhiên. Có chăng là trách những kẻ hờ hững, hắt hủi tài năng mà một thời họ kính
ngưỡng, say đắm. Thời gian lấy đi nhan sắc của nàng và cũng đồng thời lấy đi sự
yêu thích của người đời đối với nàng. Đáng ra, tiếng đàn của hiện tại được trau dồi
trong hai mươi năm phải hay hơn tiếng đàn trong quá khứ, nhưng vẻ bề ngoài
không bắt mắt đã làm mất hứng thú thưởng thức của người đời, ngoài tác giả dường
như chẳng ai mảy may để ý đến sự tồn tại của nàng Cầm. Điều đó cho thấy sự hờ
hững đáng trách của người đời đối với những người phụ nữ trót mang lấy nghiệp
68
cầm ca. Họ lạnh lùng trước ngón đàn năm cũ, phủ nhận tài năng đã từng được công
nhận của nàng, hắt hủi và xa lánh khi nhan sắc nàng đã về chiều…
- “Bạch phủ cung nhân bạch tự bi”
(Người cung nhân đầu bạc rồi, tự thương xót mình)
(Giam trung kiến cố lão cung nhân khấp tự loạn ly nhân hữu cố cung chi cảm -
Trần Danh Án)
- “Thiếp niên nhị bát thời,
Doanh doanh chính tương tị,
Trưởng đại ái dư nghiên,
Thượng tưởng dung nhan mị”
([Nghĩ lại] khi thiếp tuổi đôi tám,
Cũng đầy đặn như trăng.
Lớn lên vẫn yêu cái đẹp xưa,
Những tưởng giữ mãi được như thế)
(Thập thất dạ thừa nguyệt, tẩu bút ký hữu nhân - Cao Bá Quát)
Tình người lạnh nhạt, người phụ nữ một khi qua thời xuân sắc, rơi vào cảnh
bị ghẻ lạnh thì đành phải tự ôm lấy nỗi buồn đó mà thương xót, khóc than cho chính
mình. Con người giống nhau ở chỗ đều yêu thích cái đẹp, và điều đó không có gì
sai. Cái khác nhau là cách nhìn nhận cái đẹp, quan niệm về cái đẹp của mỗi người.
Dễ nhận thấy sự đối lập về thái độ con người đối với cái đẹp của các nhân vật nữ.
Các nhân vật nữ gặp phải những con người yêu thích cái đẹp ngoại hình, những
người như thế chỉ có thể yêu thích nữ giới trong một khoảng thời gian ngắn của thời
xuân sắc, khi nhan sắc tàn phai cũng là khi các nhân vật nữ bị bỏ rơi, bị hắt hủi.
Ngược lại, các tác giả nhìn vào khía cạnh nhân phẩm và tài năng của các cô gái, cái
đẹp này lâu bền và tạo nên giá trị thực của con người. Khi vẫn còn những con người
xem trọng vẻ đẹp hình thức một cách tuyệt đối thì số phận của những người phụ nữ
trong xã hội sẽ vẫn còn lận đận, gian truân.
Sắc đẹp bị tàn phai gần như là điều tất yếu của tự nhiên do quy luật chuyển
động không ngừng nghỉ của thời gian, chẳng ai tránh khỏi vòng tuần hoàn “sinh -
69
lão - bệnh - tử”, các tác giả thể hiện những cái nhìn nhân đạo khi không hề nhìn
nhận một con người dựa vào cái vẻ bề ngoài phù phiếm ấy. Tài năng bị mai một
(hay nói đúng hơn là do người thưởng thức đã không còn có hứng thú với tài năng
ấy), bị hủy hoại (thơ bị đốt đi) bởi những lý do khách quan, trách nhiệm lại thuộc về
bình diện đạo đức của người đời. Thái độ hờ hững, tàn nhẫn của nhiều người đã trực
tiếp hoặc gián tiếp gây nên bất hạnh cho người phụ nữ. Mỗi tác phẩm là một tiếng
nói cảm thông, phản ánh, nỗ lực thay đổi cái nhìn và thái độ của mọi người đối với
người phụ nữ trong xã hội đương thời.
2.2.2. Đời sống tình cảm nhiều bất hạnh
Chế độ phong kiến ràng buộc con người vào nhiều luật định mang tính chất
khiên cưỡng, dẫu thiệt thòi về quyền lợi là thiệt thòi chung mà tất cả mọi người ít
nhiều phải chịu nhưng người phụ nữ chính là đối tượng bị xã hội phong kiến áp đặt
và hạn chế nhiều nhất. Hạn chế đối với người phụ nữ tồn tại ở mọi mặt của đời sống
mà đi đâu, làm gì họ cũng vấp phải. Đời sống tình cảm của con người nói chung có
một phạm vi rất rộng lớn bởi nó bao trùm lên nhiều mối quan hệ xã hội. Ở đây,
người phụ nữ được các tác giả trung đại nhắc đến với nhiều vai trò (mà chủ yếu là
vai trò trong gia đình) và bất hạnh mà họ gặp phải cũng thường gắn liền với những
vai trò ấy. Cụ thể, các vấn đề được đề cập nhiều nhất chính là cuộc sống bị phụ
thuộc, hôn nhân thiếu thốn tình cảm, ít được quan tâm và bị động ở mọi mặt của
người phụ nữ…
Đời sống tình cảm nhiều bất hạnh là thực trạng phổ biến, dễ bắt gặp, được
các tác giả chú ý và thể hiện như một vấn đề nổi trội trong thơ trữ tình thế kỷ XVIII
- XIX. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận một bộ phận tác giả (là nam giới) đã thể
hiện tình yêu thương hết sức sâu sắc dành cho người bạn đời của mình, hoặc những
người phụ nữ từng quen biết. Những người phụ nữ ấy (ở một khía cạnh nào đó) đã
có thể xem là may mắn trong cuộc sống khi được yêu thương, được tôn trọng:
- “Ân đắc tao khang đáo bạch đầu”
(Mong sao giữ được tình nghĩa ấy cho đến lúc bạc đầu)
(Tặng nội - Nguyễn Hành)
70
- “Hối bất đương sơ hạp dữ canh,
Toại nhân phú quí, lụy khuê khanh”
(Tiếc rằng xưa kia không chồng cày vợ mang cơm,
Chỉ bởi giàu sang để lụy cho nàng)
(Hoài nội - Ngô Thì Nhậm)
- “Huyên thất trường vi tam thập niên,
Truy hoan vãng sự trướng lưu xuyên
(Xa mẹ đã lâu, ba mươi năm rồi,
Tìm niềm vui qua chuyện cũ, đau lòng nhìn dòng sông trôi xuôi)
(Tiện tỉ húy nhật cảm hoài - Phan Huy Chú)
Tình cảm đối với vợ được thể hiện một cách sâu sắc, ấn tượng bằng những
tiếng khóc trong thơ của nhiều tác giả. Nỗi đau, day dứt tự trách và tiếc nuối thời
gian cùng chung sống cũng là những cách khác để các tác giả bày tỏ tình yêu, thái
độ trân trọng khi mất đi người thân:
- “Cân trất truy tùng ngũ thập niên,
Ỷ hòe nhất mộng dĩ thành niên”
(Khăn lược cũng nhau đã năm mươi năm,
Một giấc mộng tựa cây hòe đã thành giấc ngủ dài)
(Điệu nội - Nguyễn Khuyến)
- “Thái diêm bần vị khuyết,
Tân khổ nhữ qui lai!”
(Nhà ta tuy nghèo nhưng dưa muối vẫn không thiếu,
Dù có tân khổ con hãy cứ trở về)
(Mộng vong nữ - Cao Bá Quát)
- “Ký qui tuy tổng Bành Thương thị,
Khế thoát tranh như cốt nhục hà”
(Chết non đều cung chung số phận,
Song cảnh chia ly nay, tình cốt nhục tính sao ?)
(Khốc tiên muội Kim Đài - Ngô Thì Điển)
71
Thông qua những tác phẩm này, phần nội dung nổi lên là tình yêu thương
sâu sắc, nỗi buồn và sự luyến tiếc của các tác giả dành cho người phụ nữ nhưng
đồng thời lại đặt ra một vấn đề khác là sự quan tâm khi người thân của họ dường
như vẫn chưa đúng mức? Tình cảm yêu thương ấy chưa đủ để số phận chung của
người phụ nữ trong thời đại cũ sáng sủa, nhẹ nhàng hơn bởi những tác giả ấy vẫn
chỉ là một bộ phận rất nhỏ của thời đại. Dẫu như thế thì trước hết và trên hết tình
cảm ấy cũng rất đáng trân trọng và ghi nhận.
Nỗi bất hạnh trong đời sống tinh thần của người phụ nữ được phản ánh một
cách hết sức đa dạng, sâu sắc. Có những hình ảnh chỉ đập vào mắt đã tạo nên cho
các tác giả cảm xúc mạnh mẽ để viết nên tác phẩm: một người cung nữ già cô đơn
tự xót xa cho cuộc đời mình, một cô gái nhỏ phải bươn chải lo cho cuộc sống của
gia đình, một người bán áo giấy phải lấy chính thứ hàng hóa đem bán để đốt cho
người thân của mình… tất cả những mảnh đời ấy đều chịu những nỗi đau, nỗi buồn
rất riêng nhưng cũng rất phổ biến trong xã hội cũ. Cuộc đời ngắn ngủi, thời thế
nhiễu nhương, đâu đâu cũng là những mảnh đời khốn khổ, đáng thương. Những con
người nhỏ bé cứ vẫn phải cố gắng gượng bám víu để tiếp tục sống. Các tác phẩm
này thể hiện tình cảm nhân đạo, đồng cảm với những khổ đau trong cuộc sống của
con người:
- “Nhàn hoa vô chủ trục phong phi,
Bạch phủ cung nhân độc tự bi”
(Hoa rơi không có chủ, bay theo ngọn gió,
Người cung nhân đầu đã bạc, tự thương xót mình)
(Giam trung kiến cố lão nhân khấp tự loạn ly nhân hữu cố cung chi cảm -
Trần Danh Án)
- “Phong lộ quá kiều hồn bất giác,
Ỷ môn ưng hữu vọng hùng qui”
(Trong sương gió cứ thản nhiên qua cầu không biết rét,
Vì nghĩ rằng ở nhà có người đang tựa cửa mong mình về)
(Mộ kiều qui nữ - Cao Bá Quát)
72
- “Thiếp gia thân đảng tại kỳ nội,
Thử vật sở tu bất kỳ mại”
(Bà con nhà tôi cũng ở trong đám những người bị chết,
Cho nên áo giấy này để dùng mà cúng chứ không bán)
(Mại chỉ y - Miên Thẩm)
Xã hội ngày một rối loạn, dân chúng thấp cổ bé họng chẳng biết nương tựa
vào ai để sống, người chết vì đói kém loạn lạc mỗi ngày mỗi tăng theo cấp số nhân.
Trong tình cảnh ấy, những người phụ nữ vẫn phải bươn chải ngoài xã hội bất chấp
rủi ro rình rập, phải gạt nước mắt để lo sinh kế, để tiếp tục sống vì bản thân và vì
gia đình. Viết về một đối tượng (nhân vật phụ nữ) nhưng những tác phẩm này mang
tính thời đại với tầm khái quát cao, nêu bật lên thực trạng cuộc sống của cả một xã
hội.
Không nỗi khổ nào giống nỗi khổ nào, mỗi một hoàn cảnh tạo nên một bi
kịch tinh thần khác nhau cho những nhân vật nữ trong thơ. Nỗi đau của những
người phụ nữ ấy dẫu thế nào vẫn quanh quẩn với gia đình, với thân phận và ám ảnh
nhất chính là bi kịch mà họ phải chịu từ chính ngôi nhà của mình - bi kịch của đời
sống hôn nhân không hạnh phúc. Xã hội phong kiến thời ấy “Trai năm thê bảy
thiếp, gái chính chuyên một chồng”, những người phụ nữ đều phải chấp nhận vô
điều kiện. Nếu may mắn, người phụ nữ có thể yên phận với vị trí làm vợ và chăm lo
gia đình dù đa số vẫn phải ngậm ngùi cảnh lấy chồng chung hoặc vẫn phải chịu
cảnh cô đơn ghẻ lạnh. Nhưng nếu không may rơi vào cảnh lẽ mọn thì thật sự là bi
kịch. Bởi thân lẽ mọn nhiều khi chẳng khác gì thân tôi đòi, hoặc phải chịu cảnh
“đồng sàng dị mộng”, có chồng mà cũng như không. Hôn nhân trong xã hội phong
kiến nhiều lúc hết sức tàn bạo với người phụ nữ, đày đọa không thương tiếc về tâm
hồn và khiến người phụ nữ mất hết khả năng hưởng thụ hạnh phúc:
“Khứ tuế đào hoa phát,
Lân nữ sơ học kê.
Kim tuế đào hoa phát,
Dĩ giá lân gia tê”
73
(Năm ngoái hoa đào nở,
Cô láng giềng mới học cài trâm.
Năm nay hoa đào nở,
Cô đã đi lấy chồng, nhà liền kề phía tây)
(Hoài cổ - Phạm Đình Hổ)
Lấy chồng - sự kiện trọng đại của đời người con gái được sắp đặt khi họ còn
là những cô bé mới lớn - ở lứa tuổi non dại ấy nên có lẽ chưa đủ nhận thức để họ
dám phản kháng lại sự áp đặt, hệ lụy thường thấy là họ phải ép mình trưởng thành
để phù hợp với vai trò làm vợ, họ nhanh chóng đánh mất sự ngây thơ của mình,
đánh mất nụ cười và tuổi thanh xuân của mình:
“Lân nữ đối hoa khấp,
Sầu thâm my chuyển đê”
(Cô láng giềng khóc trước hoa,
Lòng trĩu buồn, hàng lông mày sa xuống)
(Hoài cổ - Phạm Đình Hổ)
Không thiếu những cô gái phải chịu cảnh cô đơn, sống cách xa chồng, không
được hưởng niềm vui, niềm hạnh phúc của một gia đình thực thụ mà lúc nào cũng
sống trong nỗi nhớ nhung, trông ngóng, đợi tin người chồng ở chốn xa xôi, hạnh
phúc là một mong muốn ngoài tầm với. Thời gian không chờ đợi ai, tuổi xuân của
họ cũng theo những ngày chờ đợi ấy mà trôi đi nhanh chóng, tin chồng vẫn như
“bóng chim tăm cá”, biền biệt nơi đâu…
- “Tuế vũ phi phi dạ bế môn,
Cô đăng minh diệt tiễn vô ngôn”
(Mưa bụi lất phất, ban đêm đóng cửa,
Ngọn đèn lẻ bóng lúc tỏ lúc mờ, im lặng)
(Trệ vũ chung dạ cảm tác - Cao Bá Quát)
- “Đường thượng hữu giai nhân,
Ỷ lan sầu bất ngữ”
(Trên nhà có một người đẹp,
74
Ngồi tựa lan can buồn không nói)
(Thập thất dạ thừa nguyệt, tẩu bút ký hữu nhân - Cao Bá Quát)
- “Tiểu kính ký viễn khiếp,
Hàn y lưu cố phường.
Tri thủ các tự úy,
Bất khiến lưỡng tương vương”
(Chiếc gương nhỏ đã gửi vào tráp người đi xa,
Tấm áo rét để lại trong phòng cũ.
Giữ những vật ấy để cùng tự an ủi,
Không để cho đôi ta quên nhau)
(Tự quân chi xuất hỹ - Cao Bá Quát)
Nhìn vào nơi khuê phòng, những người khuê phụ ngày đêm mong đợi tin
chồng, mong ngày hội ngộ đoàn viên để họ sống vui vẻ quãng đời xuân trẻ, để mỗi
ngày không ra vào trông ngóng, mỗi đêm không trằn trọc chẳng yên. Từ thời gian
đầu của nền văn học viết Việt Nam, những nhân vật phụ nữ đã bị giam chặt trong
chốn phòng khuê, họ bị xã hội giam hãm và cũng tự giam hãm mình trong cái
không gian ấy rồi lại khổ sở nhìn tuổi trẻ bị thời gian gặm nhấm… Khi sắc đẹp
không còn, ai dám chắc người chồng họ đợi chờ bao năm sẽ quay về với tình yêu
trọn vẹn dành cho vợ? Ai dám chắc họ sẽ không bị hắt hủi bởi chính người chồng
đã từng đầu ấp tay gối ấy?
Ở vào một hoàn cảnh khác - cảnh lẽ mọn đầy ám ảnh đối với bất cứ người
phụ nữ nào trong xã hội - không may rơi vào cảnh lẽ mọn, nếu không bị vợ cả chèn
ép, ức hiếp thì cũng bị đối xử rẻ rúng, đôi khi ôm hận mà chết trẻ. Có không ít
những cái chết như thế trong xã hội cũ, các cô gái trẻ chết trên ngưỡng cửa trưởng
thành, chết khi tài năng chưa được công nhận, chết trong cô đơn, lạnh lẽo và sau khi
chết vẫn tiếp tục chịu sự ghẻ lạnh, hắt hủi từ gia đình chồng:
- “Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư”
(Độc Tiểu Thanh Ký - Nguyễn Du)
75
- “Cha kiếp sinh ra phận má hồng,
Khéo thay một nỗi lấy chồng chung”
(Lấy lẽ - Trần Tế Xương)
Nếu không bị chèn ép đến chết thì lại phải chịu ấm ức, tức tưởi kéo lê suốt
kiếp như số phận của những nhân vật nữ trong thơ Hồ Xuân Hương. Thơ bà gắn
liền với cuộc đời bà. Hàng loạt những bài thơ của Hồ Xuân Hương viết về sự đắng
cay của người phụ nữ “Ở trong chăn mới biết chăn có rận”, nếm trải đủ mùi tủi
nhục, chua chát khi lấy lẽ người ta.
Nói đến đường tình duyên long đong thì không thể không kể đến nữ sĩ Hồ
Xuân Hương - người đã vài lần chịu cảnh lẽ mọn và cũng chừng ấy lần chịu cảnh
đắng cay. Bà đem trọn vẹn những cảm xúc bất mãn của mình gieo vào trong thơ,
tạo nên những bài thơ vừa giàu chất trữ tình vừa mang đậm tính hiện thực. Vài lần
lấy lẽ người ta, vài lần góa bụa, mỗi một lần thay đổi như thế là một cảm giác khác
nhau, tâm trạng khác nhau. Có lúc nhẹ nhõm: “Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!/
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi”, có lúc hỗn độn không rõ ràng giữa thương xót
và hận tủi: “Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi/ Cái nợ ba sinh đã trả rồi”, chung
quy lại vẫn là một một cuộc đời lắm nỗi truân chuyên, lắm buồn thương, đầy nước
mắt. “Hồ Xuân Hương có cái đặc điểm này, mà các nhà thơ cổ điển trước và đương
thời với bà chưa dễ bì kịp, là sức chống đối xé phá cái xã hội phong kiến lỗi thời
của thơ Xuân Hương. Chống đối, xé phá một cách tinh vi đến mức kỳ lạ” [8,
tr.536]. Thơ Hồ Xuân Hương càng chua chát thì càng chứng tỏ sự khao khát hạnh
phúc nơi nữ sĩ. Bỡn cợt chính mình nhưng bà lại tỏ ra rất cảm thông với những
người phụ nữ bất hạnh khác trong xã hội:
“Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ?
Sinh ký chàng ôi tử tắc quy”
(Bỡn bà lang khóc chồng)
Chẳng thế mà Hồ Xuân Hương phải chua chát thốt lên tiếng lòng phẫn uất,
chửi vào kiếp số không may mắn của mình. Mấy lần lấy chồng là mấy lần lấy chung
76
chồng, sống không khác gì kẻ tôi đòi“làm mướn không công”, chưa bao giờ được
hưởng niềm vui vợ chồng hòa hợp, chưa từng được đức lang quân yêu thương:
“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”
(Lấy chồng chung)
Đôi khi cảm xúc giữa đêm vắng, một mình uống rượu để mắng cái thân phận
hồng nhan bạc bẽo, cái số kiếp bèo bọt chẳng có bạn tri âm:
- “Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm”
(Tự tình I)
- “Canh khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non”
(Tự tình II)
Có chồng mà cũng như không, người phụ nữ không may mắn trong tình
duyên không có sự lựa chọn nào ngoài việc phải cắn răng chấp nhận, tự nuốt nước
mắt đắng chát vào trong. Mọi sự so sánh đều là khập khiễng và chỉ mang tính tương
đối nhưng nếu phải sống cảnh lẽ mọn “một tháng đôi lần có cũng không”, thì hóa
ra không có lại hay hơn. Hồ Xuân Hương cũng đã phải chua chát thốt lên “thà
trước thôi đành ở vậy xong” khi nói về cuộc tình duyên chẳng đáng luyến tiếc của
mình…
Qua đây có thể tạm hình dung ra những khó khăn mà người phụ nữ của xã
hội cũ phải chịu đựng trong cuộc sống, trong hôn nhân. Bất hạnh nhiều mặt, ấm ức
đủ đường nhưng người phụ nữ lại không nhận được bất kỳ sự bảo vệ nào của luật
pháp đương thời, lại thêm bị người đời dòm ngó, chỉ trỏ. Tự khóc cho số phận mình
không may, khóc chán lại tự cười vào thói đời nhạt nhẽo. Sự phản ánh và tình cảm
nhân đạo của các tác giả (trong đó có cả tác giả nữ giới) là sự thể hiện cao độ mong
muốn một sự thay đổi mạnh mẽ trong tư tưởng, nhận thức của xã hội để người phụ
nữ có quyền yêu và được yêu, có quyền lựa chọn hạnh phúc một cách bình đẳng với
nam giới…
77
2.3. Khát vọng của người phụ nữ
“Tư tưởng tự do vốn đã xuất hiện từ lâu trong văn học trung đại nay được
phát huy ở mức cao độ hơn. Khi mà xã hội phong kiến đã trở nên mục ruỗng và thối
nát, các giá trị đời sống bị đảo lộn thì tư tưởng tự do thực sự là một phản ứng
chống lại tôn ti. Ở đây, có sự “tế nhị” về lịch sử: nếu như ở trong đời sống, tự do bị
bóp nghẹt thì các thi nhân chuyển sang khát vọng tự do về lĩnh vực tinh thần và
cách sống. Chưa bao giờ vấn đề quyền sống và quyền hạnh phúc của con người
được đặt ra gay gắt như văn học giai đoạn này. Biểu hiện rõ rệt nhất là đòi tự do
luyến ái, lựa chọn cách sống” [12, tr.161-162]. Khát vọng của người phụ nữ trong
thơ trữ tình thế kỷ XVIII - XIX cũng nằm trong những biểu hiện khát vọng chung
của thời đại - khát vọng tình yêu, hạnh phúc và khát vọng bình đẳng giới.
2.3.1. Khát vọng tình yêu, hạnh phúc
Tình yêu và hạnh phúc là hai mệnh đề khác nhau nhưng có liên quan mật
thiết với nhau. Khát vọng hạnh phúc là khát vọng bao trùm nhiều khía cạnh của
cuộc sống, trong đó, khát vọng hạnh phúc trong tình yêu là mạnh mẽ nhất, mãnh liệt
nhất được đề cập đến trong thơ trữ tình thế kỷ XVIII - XIX.
Thế nào là hạnh phúc đối với một người phụ nữ sống trong xã hội cũ? Hoàn
cảnh xã hội ảnh hưởng như thế nào đến cuộc sống và khát khao hạnh phúc của
người phụ nữ? Các tác giả đã phần nào chú ý đến những vấn đề ấy và cố gắng thể
hiện vào trong tác phẩm. Tùy vào từng hoàn cảnh sống mà con người sẽ có những
mong muốn hạnh phúc khác nhau, đôi khi, hạnh phúc thật gần gũi và giản dị nhưng
con người vẫn luôn khao khát vì không thể chạm tay đến được. Nhiều người đã phải
chịu cảnh xa cách người thân (xa chồng, xa con), thậm chí là sinh ly - tử biệt và họ
mong muốn được hưởng hạnh phúc đoàn viên. Những người bị ghẻ lạnh và hắt hủi
mong được sẻ chia, được hỏi han quan tâm. Những người bị đối xử bất công mong
muốn nhận được cái nhìn thiện cảm và thái độ đúng mực của người đời. Người
nghèo khổ, đói rách mong được ăn no mặc ấm… Đó là những khao khát bình dị của
những người phụ nữ ở nhiều hoàn cảnh.
78
Rất nhiều phụ nữ đã không tìm được hạnh phúc trong những cuộc sống của
mình. Họ không nhận được sự tôn trọng tối thiểu và tình yêu thương cần thiết để có
được hạnh phúc. Nhẹ nhàng thì là sự xa cách, lơ là đôi chút của người thân. Nặng
nề hơn thì bị hắt hủi, bị ghẻ lạnh. Đặc điểm chung thường thấy là dẫu có khổ sở về
tinh thần đến thế nào thì người phụ nữ hầu như không có sự phản kháng, không
than phiền và thể hiện thái độ:
- “Hiền thê mạc quái phu tình bạc,
Hiếu tử hưu đàm phụ đạo khuy”
(Vợ hiền chớ trách chồng là phụ bạc,
Con hiếu đừng chê cha là trái đạo)
(Thuật hoài - Trần Xuân Soạn)
- “Từ thuở vương xe mối chỉ hồng
Lòng này ghi tạc có non sông”
(Từ giã vợ nhà đi làm quan - Phan Thanh Giản)
- “Hữu muội đại huynh cung tử chức,
Thử thân ly mẫu khách tha hương”
(Có em gái thay anh lo phận sự làm con,
Tấm thân này xa mẹ, lưu lạc quê người)
(Tư gia - Bùi Dương Lịch)
Phụ nữ trong xã hội phong kiến không có quyền tự do luyến ái mà phải chịu
cảnh “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, không ít người đã được quyết định hạnh phúc
trăm năm ngay từ khi mới lọt lòng mà dù muốn dù không cũng phải ngoan ngoãn
chấp nhận. Không được quyền chọn người để lấy không có nghĩa là họ sẽ không
yêu ai trước khi xuất giá. Không ít người đã từng yêu và từng bị đau khổ khi tình
yêu không đơm hoa kết trái, bị ngăn cấm thô bạo. Bi kịch tình yêu này có thể sẽ
gặm nhấm họ đến hết cuộc đời.
Khát vọng tình yêu - yêu và được yêu có thể xem là một khát vọng, một khao
khát mạnh mẽ của thân phận phụ nữ sống trong xã hội phong kiến. Không phải
ngẫu nhiên mà Hồ Xuân Hương có một loạt thơ Nôm khai thác biểu tượng hai mặt
79
của ngôn từ khi viết về thân phận mình. Một số bài thơ mở đầu bằng “thân em” -
cách mở đầu thường thấy trong văn chương truyền miệng - để nói đến thân phận
người phụ nữ. Những hình ảnh được dùng trong đó đều rất bình dị, nhỏ bé, như
“quả mít trên cây”, “bánh trôi”, “ốc nhồi” gợi liên tưởng đến sự nhỏ bé lọt thỏm
giữa cái mênh mông, bao la của trời đất, của vạn vật. Dù thế nào, họ vẫn sống, vẫn
yêu và vẫn trông mong hạnh phúc sẽ gõ cửa…
“Minh cưu hữu hận nan điền hải,
Phương thảo vô duyên chỉ vấn thiên.
Hồ thượng âm tàn xuân tịch mịch,
Cách song tiểu đổ độc sàn nhiên”
(Chim kêu lòng hận lấp bằng biển,
Hương cỏ duyên gì biết vấn thiên;
Bóng mát hồ xuân tàn lặng lẽ,
Ngoài song cuốc nhảy một mình riêng)
(Phạm Đình Hổ)
Bốn bài thơ tứ tuyệt Mời trầu, Quả mít, Bánh trôi, Ốc nhồi đều là những ẩn
dụ về thân phận của người phụ nữ. Hình ảnh thơ tuy có mang yếu tố tục nhưng đó là
đặc điểm chung thường thấy ở thơ Hồ Xuân Hương, vượt ra khỏi yếu tố tục ấy, ta sẽ
tìm thấy những day dứt, bức bối với mong muốn da diết của một người phụ nữ đời
thường:
- “Quân tử có yêu thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó nhựa ra tay”
(Quả mít)
- “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
(Bánh trôi)
- “Quân tử có thương thì bóc yếm,
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi”
(Ốc nhồi)
80
- “Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá bạc như vôi”
(Mời trầu)
Rõ ràng là bên cạnh người phụ nữ luôn có một người đàn ông, một “quân
tử”, đóng vai trò quyết định hạnh phúc của người phụ nữ. Mượn hình ảnh của động,
thực vật xung quanh gợi lên hình dung về người phụ nữ, nữ sĩ dùng nhiều những từ
“xin đừng”, “đừng” đi kèm điều kiện “có yêu”, “có thương”, “có phải duyên
nhau” để nhắc nhở những người đàn ông trong cách đối xử với phái nữ.
Thơ Hồ Xuân Hương chất chứa nỗi uất ức tột độ về khát khao hạnh phúc và
nỗi thất vọng khi tuổi xuân cứ vùn vụt trôi qua mà hạnh phúc lứa đôi vẫn mịt mờ
chưa thấy. “Người phụ nữ đáng lẽ phải làm chủ chiếc thuyền của mình (nó tượng
trưng cho cuộc đời của mình); ấy thế mà chiếc thuyền đó lại do một người khác
cầm lái, và do một người khác nữa giong lèo, còn mình thì chỉ bị động ngồi ôm đàn
chờ đợi cái người thăm ván còn lơ lửng ở đâu đâu” [8, tr.444]. Một lần, hai lần rồi
ba lần, tình yêu và hạnh phúc giống như một thứ ánh sáng xa xôi mà kẻ đi đêm mãi
lần tìm trong vô vọng:
“Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,,
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh”
(Tự tình III)
Lận đận tình duyên là nỗi đau mà nhiều người phụ nữ trong xã hội phong
kiến phải chịu. Thơ Hồ Xuân Hương bộc lộ tính cách mạnh mẽ hiếm thấy với cái tôi
không thể khỏa lấp, cái tôi không thể dung hòa trước cái hỗn loạn của thời đại, cái
tôi chán chường đến tuyệt vọng:
- “Tiếng gà xao xác gáy trên bom,
Oán hận trông ra khắp mọi chòm”
(Tự tình I)
- “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con”
(Tự tình II)
81
- “Chiếc bách buồn về phận nổi nênh,
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”
(Tự tình III)
Đã có lúc nữ sĩ mắng thẳng vào cái goi là kiếp số khi phải chịu cảnh lấy
chung chồng, mang tiếng có chồng mà cũng như không rồi lại thể hiện sự tiếc nuối
cho sự lựa chọn sai lầm của mình:
“Thân này ví biết dường này nhỉ?
Thà trước thôi đành ở vậy xong”
(Lấy chồng chung)
Càng thể hiện sự quẫy đạp mạnh mẽ, càng cố gắng chống đối cuộc sống hôn
nhân không hạnh phúc, Hồ Xuân Hương càng tỏ ra là một người khát khao hạnh
phúc. Chính bởi mong muốn tìm được hạnh phúc quá ám ảnh nên khi rơi vào cái
thực tế tàn nhẫn đó, bà không bằng lòng và không cam chịu. Bất hạnh bao nhiêu thì
con người lại càng khao khát chạm tay đến hạnh phúc bấy nhiêu…
Trương Quỳnh Như cũng là một cây bút nữ tài năng hiếm hoi đứng lẫn trong
số những bậc nam tử trí thức. So với Hồ Xuân Hương thì cuộc sống thực của
Trương Quỳnh Như có vẻ sáng sủa hơn rất nhiều khi luôn được nhắc đến như người
tri kỷ bên cạnh Phạm Thái. Dẫu thế, hạnh phúc thế nào là đủ? Thơ Trương Quỳnh
Như vẫn phảng phất một chút phong vị nhắc nhở nhẹ nhàng, một chút trách móc
bâng quơ đối với đấng lang quân của mình:
- “Lời này dặn với tri âm nhé:
Chớ phụ cầm treo đợi dưới trăng”
(Tặng ông chiêu Lỳ về quê)
- “Giọng thảm giờ mùi chẳng đấu thưng,
Vì ai nên nỗi, cũng vì chưng…”
(Giờ mùi)
Tình yêu là điều kiện cần và đủ cho một cuộc sống hạnh phúc trong gia đình
phong kiến. Bởi bổn phận của người phụ nữ thời ấy là bổn phận với gia đình, là làm
vợ, làm mẹ. Bao nhiêu oán trách, bao nhiêu uất ức cũng chỉ vì cuộc sống đang có
82
không như mong muốn. Càng oán trách nhiều lại càng chứng tỏ họ đã khao khát
hạnh phúc nhiều, chính bởi mong muốn ấy to lớn quá nên khi không có được thì họ
bị hụt hẫng tột độ và khát vọng có được hạnh phúc lại ngày càng trở nên mãnh liệt
hơn… Khát vọng tình yêu, hạnh phúc của người phụ nữ đã được các tác gia - tác giả
tập trung khắc họa một cách đa chiều, đa diện với nhiều cách thể hiện khác nhau.
Qua mảng nội dung này, đời sống nội tâm của người phụ nữ được đào sâu triệt để,
góp thêm những tiếng nói đòi nhân quyền mang tư tưởng nhân đạo cao cả của các
tác giả trung đại.
2.3.2. Khát vọng bình đẳng giới
Khát vọng bình đẳng giới thể hiện ở cả nam giới và nữ giới nhưng nổi trội,
mạnh mẽ hơn cả vẫn là khát khao muốn san bằng khoảng cách, muốn đạp đổ quan
niệm “trọng nam khinh nữ” ở các tác giả nữ. “Cái nhìn nhân bản có xu hướng cổ vũ
sự giải phóng con người, đồng hành với tiến bộ xã hội, trong khi đó, cái nhìn đạo
đức khuôn con người trong trật tự kỷ cương Nho giáo phần nào bị nhạt nhòa đi,
thậm chí có phương diện bị coi thường hay tấn công trực diện” [30, tr.500]. Với sự
hậu thuẫn của thời đại, thời điểm này các tác giả đã bắt đầu ý thức mạnh mẽ về vấn
đề bình đẳng giới.
“Xuân Hương không chịu “an phận đàn bà” một chút nào hết. Xuân Hương
không chịu thua, không chịu lép người đàn ông nào” [8, tr.439]. Với tính cách ấy,
Hồ Xuân Hương có lẽ là người lên tiếng mạnh mẽ nhất cho sự bình đẳng giới ở thời
đại ấy. “Xuân Hương là một người có bản lĩnh mạnh mẽ. Cái việc nàng phải bị xã
hội phong kiến coi là “đàn bà” thấp kém, bị khinh là “phụ nhân rẻ rúng” chỉ càng
làm cho phản ứng của nàng mạnh lên. Mắt hàng ngày nhìn thấy cái xã hội phong
kiến bất công, khắc nghiệt, giả dối, tan rữa, nàng phản kháng cả xã hội ấy” [8,
tr.425]. Ở một số bài, Hồ Xuân Hương dùng những hình ảnh tương đồng miêu tả vẻ
đẹp nguyên sơ của thân thể phụ nữ:
- “Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non”
(Bánh trôi)
83
- “Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch đào nguyên suối chửa thông”
(Thiếu nữ ngủ ngày)
- “Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình?
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Đôi lứa như in tờ giấy trắng,
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh”
(Đề tranh tố nữ)
Nhưng không phải nói về vẻ đẹp chỉ để thưởng thức, ngắm nhìn mà là để lên
án, giễu cợt một loạt những kẻ hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp tạo nên nỗi bất hạnh
cho phụ nữ dưới chế độ phong kiến xưa. Hồ Xuân Hương có một cái nhìn khá gay
gắt đối với những kẻ mang tiếng là “quân tử” lại có nhân cách chẳng ra gì. Bà thể
hiện sự chua chát thay cho thân phận phụ nữ bị đàn ông xem như một loại công cụ,
một thứ đồ trang sức làm đẹp. Nữ sĩ tỏ rõ thái độ với một bộ phận “quân tử” ấy
bằng một loạt thơ trữ tình, nhẹ thì bỡn cợt, nặng thì mỉa mai, châm biếm gay gắt:
- “Hồng hồng má phấn duyên vì cậy:
Chúa dấu vua yêu một cái này”
(Cái quạt II)
- “Ví đây đổi phận làm trai được,
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”
(Đề đền Sầm Nghi Đống)
- “Cả nể cho nên hóa dở dang,
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng?”
(Không chồng mà chửa)
- “Hỡi chị em ơi có biết không?
Một bên con khóc một bên chồng”
(Thân phận đàn bà)
84
Bà nhiều lần ngạo nghễ chọc ghẹo, mỉa mai những bậc tu mi nam tử kém tài,
kém đức:
“Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ”
(Mắng học trò dốt)
Lên án những kẻ thiếu đạo đức:
“Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm,
Vãi núp sau lưng sáu bảy bà”
(Sư hổ mang)
Hay bỡn cợt những người “quân tử”, “anh hùng”:
- “Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa”
(Vịnh cái quạt I)
- “Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở ở không xong”
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Nói như thế không phải là để hạ thấp nam giới, mà có lẽ nữ sĩ chỉ muốn
khẳng định một sự thật là không phải tất cả những người sinh ra là nam giới thì đều
hay, đều tốt. Và vì sinh ra đã phụ nữ mà phải gánh chịu bao nhiêu thiệt thòi từ trong
gia đình ra ngoài xã hội dù có tài năng, có đạo đức hơn hẳn nhiều trang nam tử ấy
thì thật quá bất công. Hồ Xuân Hương đã nhận thức rõ thân phận mình, tài hoa của
mình và cũng nhận thức rõ thời thế lúc bấy giờ nhưng bà không vì thế mà im lặng,
cam chịu:
- “Ví đây đổi phận làm trai được,
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”
(Đề đền Sầm Nghi Đống)
- “Tài tử văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom”
(Tự tình I)
85
Có cả tài lẫn tình nhưng không có may mắn trong hạnh phúc lứa đôi, đồng
thời chịu nhiều thiệt thòi do sự bất bình đẳng đem đến, Hồ Xuân Hương khao khát
được ngoi lên khỏi những dây nhợ ràng buộc người phụ nữ trong xã hội phong kiến
- khao khát này không phải là suy nghĩ cá nhân của một mình nữ sĩ mà đã bắt gặp
trong một số tác phẩm của Ngô Chi Lan, Đoàn Thị Điểm nhưng chỉ đến Hồ Xuân
Hương, thái độ bất mãn thời cuộc mới thể hiện một cách rõ nét. Không chỉ dừng lại
ở chí hướng trên trang sách, Hồ Xuân Hương còn thể hiện rằng bản lĩnh của mình
ngoài đời thực không thua kém gì với những bậc mày râu. Từng là bạn thơ ứng đối
hết sức bình đẳng với Chiêu Hổ, thơ Hồ Xuân Hương tỏ ra không một chút lép vế
mà còn thẳng thắn bộc lộ sự mạnh mẽ đến liều lĩnh của khổ chủ:
- “Anh đồ tỉnh? Anh đồ say?
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày?
Này này chị bảo cho mà biết:
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay”
- “Này ông tỉnh! Này ông say!
Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày!
Hang hùm ví bẵng không ai mó,
Sao có hùm con bỗng trốc tay?”
Giọng điệu thơ có lúc rắn rỏi như sẵn sàng chống lại cả xã hội nhưng lại có
lúc chán chường, u uất đầy bất lực. “Xuân Hương không những than cho người đàn
bà dưới chế độ phong kiến, mà bản thân mình là một người bị cái guồng xã hội ấy
nó nghiến cuộc đời” [8, tr.435]. Hồ Xuân Hương không bằng lòng với xã hội mình
đang sống, ai oán cho số phận hẩm hiu của mình và những người ở vào hoàn cảnh
giống như mình nhưng loay hoay thế nào, chống đối thế nào thì vẫn bị cái xã hội
mình đang sống cột chặt lại và dìm sâu xuống. Tiếng nói của người phụ nữ vào thời
điểm ấy không có trọng lượng, hoàn cảnh phụ nữ chưa được giải phóng.
Đáng chú ý và trân trọng là một số tác phẩm của tác giả nam giới thể hiện sự
bình đẳng hoặc kêu gọi quyền bình đẳng đối với người phụ nữ. Tuy chỉ là một vài
cá nhân riêng lẻ với một số ít tác phẩm, chưa đủ để tạo thành một khuynh hướng nội
86
dung trong thơ trữ tình trung đại nhưng tình cảm này hết sức đáng quý, góp phần
manh nha quan điểm nam nữ bình quyền sẽ bùng nổ trong văn chương hiện đại. Ở
đây, vai trò giới tính bị xóa nhòa hoặc vai trò của người phụ nữ được tôn trọng,
được xếp ngang hàng với nam giới:
- “Sử ngã tất sinh, khanh tất tử,
Hạp dư vi phụ nhĩ vi phu”
(Nếu ta tất phải sống và nàng tất phải thác,
Sao chẳng cho ta làm vợ, nàng làm chồng?)
(Sơ ngũ nhật, trực Đoan Ngọ tiết, tể sinh vi lễ nhân thành tam luật -
Phạm Nguyễn Du)
- “Ta! Ngã hòa nương thị nhất phân,
Như hà tương hợp cự tương phân”
(Than ôi! Ta với nàng đã là một người,
Đã cùng sum họp sao lại vội chia phôi)
(Đề minh tinh hậu diện - Phạm Nguyễn Du)
- “Thiên biên chinh khách khuê trung phụ,
Hà xứ tương tư bất đoạn hồn!”
(Người viễn tái, kẻ cô phòng,
Tương tư ai chẳng não lòng như ai!)
(Trệ vũ chung dạ cảm tác - Cao Bá Quát)
Không ai tự quyết định được giới tính của mình khi sinh ra, thứ người ta có
thể quyết định là trau dồi phẩm chất, đạo đức, tài năng để ngẩng cao đầu hãnh diện
với đời. Ở một khía cạnh khác, tuy không diễn đạt tư tưởng bình đẳng giới một cách
trực diện nhưng các tác giả đã có quan niệm rất tiến bộ khi xem những người tài nữ
như những người bạn tri âm tri kỷ, bất chấp giới tính và tuổi tác. Một mặt, tài năng
của phụ nữ được công nhận và tôn vinh, mặt khác, khoảng cách bất bình đẳng giới
bị đánh tan khi tác giả nhìn nhận người phụ nữ trên một lập trường khác hẳn:
- “Giang sơn chính đố vô ngâm bạn,
Hàn mặc ninh kỳ hữu mỹ nhân”
87
(Đã ghét trước cảnh núi sông không có bạn ngâm vịnh,
Nào ngờ nơi bút mực lại gặp mối duyên đẹp đẽ)
(Ký tài nữ - Ninh Tốn)
- “Túng nhiên cẩm tú tranh Tô Muội,
Bất vị quần thoa thác Tạ Ky”
(Thế nhưng nếu văn chương của nàng hay như Tô Muội,
Thì chẳng nên vì tác giả là con gái mà bỏ sót Tạ Cơ)
(Ký tài nữ Thụy Liên - Ninh Tốn)
Như vậy, có thể thấy tư tưởng nam nữ bình quyền đã bắt đầu nhen nhóm ở
một vài tác giả thời trung đại phong kiến. Người phụ nữ đòi quyền bình đẳng khi
cảm thấy thân phận phụ nữ bị xã hội chèn ép, nam giới lên tiếng cho quyền bình
đẳng của phụ nữ bởi sự tôn trọng và thương cảm dành cho người phụ nữ, dù vì lý do
gì thì những cá nhân nói trên cũng đã có cái nhìn tiến bộ và nhân đạo đối với sự bất
công nhiều mặt mà xã hội phong kiến áp đặt lên đôi vai của giới nữ. Chính từ những
bước đi tiên phong này mà vấn đề quyền sống và quyền mưu cầu hạnh phúc của
người phụ nữ mới được nhiều tác giả đưa vào tác phẩm văn học (hiện đại), trở thành
một cuộc cách mạng chống lại những bất công của chế độ cũ, đòi quyền lợi cho
người phụ nữ…
2.4. Thái độ, tình cảm của tác giả khi miêu tả hình tượng người phụ nữ
“Kiểu nhà thơ trung đại đã thực hiện những cuộc giao tiếp “gián cách” vì
thế giọng điệu chủ thể thường ẩn kín” [12, tr.147]. Với nhiều cách thức biểu hiện
khác nhau trong thơ trữ tình thế kỷ XVIII - XIX, các tác giả viết về người phụ nữ
với tình cảm yêu thương, ngợi ca vẻ đẹp, trân trọng của tác giả dành cho người
phụ nữ. Sự trân trọng ấy thể hiện rõ nét qua những tác phẩm đề cập đến đời sống
tinh thần, hoàn cảnh và số phận của các nhân vật. Trong một loạt tác phẩm như thế,
số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến hiện lên đầy ám ảnh với sự khó khăn
thiếu thốn về vật chất, khổ sở đọa đày trong tâm hồn… Tác giả thể hiện sự thương
cảm của cá nhân mình, nâng lên thành tình cảm nhân đạo trong các tác phẩm, hô
hào cho quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả mọi người.
88
Ngô Thì Sĩ hết sức đề cao đạo vợ chồng, hiểu và đau xót cho người chốn
khuê phòng phải chịu nỗi đau lạnh lùng cô độc, tình yêu ông dành cho vợ được xem
là sâu sắc hiếm thấy:
- “Trịnh trọng hà thăng ngã bối tình”
(Trân trọng xiết bao mối tình của chúng ta)
(Chu thứ khuê thuật)
- “Tảo tri viễn hoạn ly tình khổ,
Vạn hộ hầu, ô túc đạo tai!”
(Nếu sớm biết đi làm quan xa phải chịu cảnh khổ biệt ly,
Thì tước vạn hộ hầu kia có đáng kể chi!)
(Chính thất một hậu, thứ thất lý khổn chính, diệc hiền thục, hữu phụ đức, phương
thâm đắc ngẫu chi hỷ, hựu tăng táng ngẫu chi bi, cảm thành nhất luật)
Chùm thơ tứ tuyệt Vãn thi tam tuyệt (Ba bài tứ tuyệt làm thơ viếng) và chùm
thơ bát cú Sơ ngũ nhật, trực Đoan Ngọ tiết, tể sinh vi lễ nhân thành tam luật (Ngày
mồng năm, gặp tiết Đoan Ngọ, giết con sinh làm tế, nhân đó làm ba bài thơ luật) thể
hiện sự tiếc nhớ, đau xót, hụt hẫng trước việc mất đi người vợ, đồng thời, ngợi ca sự
đảm đang, hiền thục của vợ. Cũng ở đây, tác giả thể hiện một quan niệm khá mới
mẻ trong đạo vợ chồng chưa từng bắt gặp ở bất cứ một tác giả - tác phẩm nào trước
đó:
“Sử ngã tất sinh, khanh tất tử,
Hạp dư vi phụ nhĩ vi phu”
(Nếu ta tất phải sống và nàng tất phải thác,
Sao chẳng cho ta làm vợ, nàng làm chồng?)
(Sơ ngũ nhật, trực Đoan Ngọ tiết, tể sinh vi lễ nhân thành tam luật - III)
Cao Bá Quát cũng là một trong những nhà thơ lên tiếng mạnh mẽ cho số
phận của người phụ nữ sống vào thời điểm ấy. Ông ca ngợi vẻ đẹp của các cô gái,
đồng thời tỏ ra áy náy, day dứt khi nhìn vào hoàn cảnh cô đơn vò võ của những
người khuê phụ nhốt mình trong bốn bức tường phòng khuê, ra vào ngơ ngẩn mong
ngóng, trông đợi người chinh phu về:
89
- “Thiên biên chinh khách khuê trung phụ,
Hà xứ tương tư bất đoạn hồn”
(Kẻ ở chân trời và người ở buồng khuê,
Nhớ nhau dù ở đâu, tâm hồn ai mà chẳng tan nát)
(Trệ vũ chung dạ cảm tác - Cao Bá Quát)
- “Tự quân chi xuất hỹ,
Dạ dạ thủ không sang.
Hải nguyệt chiếu cô mộng,
Giang phong sinh mộ lương”
(Từ ngày anh ra đi,
Đêm đêm em giữ chiếc giường không.
Trăng bể soi giấc mộng cô đơn,
Gió song thổi lạnh cả trời chiều)
(Tự quân chi xuất hỹ - Cao Bá Quát)
Những người khuê phụ ấy vẫn cô đơn, phòng không chiếc bóng mỗi ngày
dẫu rằng được xem là đã có chồng, họ chỉ có thể ngày đêm ôm nỗi nhớ da diết để
biết rằng chồng vẫn còn đó. Đáng thương thay khi mỗi ngày trôi qua là mỗi lần họ
nhìn thấy một phần xuân sắc trôi đi, không bao giờ trở lại… Có chồng cũng như
không, không khác gì với cảnh “Một tháng đôi lần có cũng không” (Lấy chồng
chung) của Hồ Xuân Hương. Thế nhưng, cảnh không có chồng bên cạnh dường như
vẫn tốt hơn so với cảnh có chồng kề bên nhưng phải chịu sự hờ hững, lạnh nhạt của
anh ta. Còn gì đau khổ hơn khi một người phụ nữ lấy anh ta làm chồng, anh ta lại
xem người ấy như tôi đòi không công, mỗi ngày tối mặt với hàng đống công việc
không tên mà chẳng bao giờ thấy người chồng ấy hỏi han đến. Đến nỗi người phụ
nữ phải hối hận cho chính mình, thương xót cho chính mình:
“Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong”
(Lấy chồng chung - Hồ Xuân Hương)
90
Tài nữ trong xã hội cũ có lẽ không thiếu nhưng ít ai được người đời biết đến
và công nhận. Ngoài một số ít tài nữ được các tác giả Nguyễn Du, Ninh Tốn ngợi ca
về mặt tài năng và thương xót cho cuộc đời đầy rủi ro bất trắc… Đào Tấn còn ca
ngợi phu nhân Bùi Thị Xuân như một bậc nữ trung hào kiệt, khí thế, tài năng đáng
được so sánh với Hoa Mộc Lan và Lương Hồng Ngọc, chẳng thua kém gì với kẻ
trượng phu:
“Nam bang khởi thiếu Lan hòa Ngọc,
Thiếu phó phu nhân thùy cảm đương”
(Nước Nam há thiếu Hoa Mộc Lan, Lương Hồng Ngọc,
Phu nhân quan thiếu phó, ai dám sánh ?)
(Soạn thành Trường Giang chiến cổ diễn truyện tặng Bùi phu nhân)
Có tài năng, có đạo đức nhưng mấy ai tìm được hạnh phúc trên đường đời,
đó là điều nhức nhối mà các tác giả nhận thấy khi viết về những số phận riêng lẻ,
đồng thời nhìn ra toàn cảnh cuộc sống của người phụ nữ… Cảm thương, trân trọng
người phụ nữ bao nhiêu, các tác giả lại tỏ ra phẫn uất đối với những tác nhân làm
nên số phận bất hạnh của người phụ nữ bấy nhiêu. Hai thái độ này thực chất luôn
đồng hành với nhau dẫu được thể hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp. Khi viết về
số phận kém may mắn của người phụ nữ trong xã hôi phong kiến, các tác giả
thường đã có ý thức về nguyên nhân gây ra nỗi đau ấy, dẫu không chỉ mặt gọi tên
thì nội dung tác phẩm cũng phần nào thể hiện tầm nhận thức của các nhà thơ thời
bấy giờ. Truy đến căn nguyên gốc rễ thì tất cả là do ý thức hệ phong kiến đã ăn sâu
vào tiềm thức con người, gây nên nhiều hệ lụy không hay, thời thế đảo điên, nhân
dân ta thán, đó là hoàn cảnh chung của cả xã hội. Người phụ nữ không chỉ chịu
những sức ép ấy mà lại còn phải mang thêm gánh nặng từ gia đình, từ dư luận. Mỗi
một hành động, việc làm lại phải đề ý đến ánh mắt dò xét của những người xung
quanh, làm sao không mệt mỏi. Thế mới có những vần thơ “phớt” đời, bỏ ngoài tai
lời dèm pha, mai mỉa để sống như mình vốn có của Hồ Xuân Hương:
“Quản bảo miệng thế đời chênh lệch,
Không có nhưng mà có mới ngoan”
(Không chồng mà chửa - Hồ Xuân Hương)
91
Nếu thân phận người phụ nữ vốn đã chịu nhiều bất công trong xã hội phong
kiến thì những cô gái làm với nghiệp “xướng ca vô loài” lại càng bất hạnh, khổ sở,
đau đớn. Gắn bó với nghiệp cầm ca, những người phụ nữ mua vui cho thiên hạ bằng
lời ca tiếng hát, bằng nhan sắc và tuổi trẻ không nhận được nhiều sự tôn trọng của
mọi người trong xã hội nặng nề định kiến lúc bấy giờ cũng là dễ hiểu. Điều tàn nhẫn
nhất là những thứ khiến họ tồn tại với nghề sẽ rất mau chóng tàn phai theo thời
gian, họ có thể được nhiều người yêu mến khi họ có tuổi trẻ, có sắc đẹp, có khả
năng đàn hát mua vui nhưng khi họ già đi, xấu xí đi thì mọi người cũng chẳng muốn
nhìn đến họ nữa, họ bị ghẻ lạnh và hắt hủi:
- “Tang hải kỷ hồi kinh nhập mộng,
Quần thoa vô kế mạn tùy ba”
(Mấy hồi dâu bể nỗi kinh sợ vào cả trong giấc mộng,
Phận quần thoa đành theo kiếp bèo bọt lênh đênh)
(Cựu ca cơ - Phạm Đình Hổ)
- “Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu.
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa,
Nhan sấu thần khô hình lược tiểu.
Lang tạ tàn mi bất sức trang”
(Trong đám ca kĩ đều trẻ tuổi.
Duy ở cuối chiếu có một nàng tóc đã hoa râm.
Mặt gầy thần khô hình bé nhỏ,
Đôi mày phờ phạc không điểm tô)
(Long thành Cầm giả ca - Nguyễn Du)
Vẻ đẹp ngoại hình của người phụ nữ được khắc họa ở nhiều khía cạnh và
được các tác giả dành nhiều giấy mực để ngợi ca (Hữu hoài - Trần Danh Án, Kính
trung mỹ nhân - Nguyễn Hành, Đề tranh tố nữ - Hồ Xuân Hương, Nam hồ - Miên
Trinh, Hữu sở cảm - Phạm Đình Hổ…) nhưng bên cạnh đó, đời sống nội tâm và vẻ
đẹp đức hạnh vẫn được các tác giả chú ý nhiều nhất. Đôi khi, phụ nữ buộc phải trở
thành nhân lực lao động chính trong gia đình, gánh vác sinh kế, nuôi chồng nuôi
92
con. Họ không quản ngại nắng mưa, khó nhọc kiếm tiền đóng sưu thuế, chăm lo
cuộc sống cả gia đình, nỗi vất vả in hằn lên gương mặt thiếu điểm trang…
- “Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng”
(Thương vợ - Trần Tế Xương)
- “Táo ty phụ nữ các gia tâm”
(Các phụ nữ ươm tơ, ai ai cũng đều hết sức)
(Quất xã táo ty - Trịnh Hoài Đức)
- “Thủ túc bất ninh tức,
Hà hạ quán dữ trất?”
(Tay chân không hề nghỉ ngơi,
Còn rỗi đâu mà rửa mặt với chải đầu)
(Tàm phụ từ - Miên Trinh)
- “Ty thành vị thượng trữ,
An đắc thành quyền thất?
Môn tiền lý chính lai,
Thôi tô khí hà liệt”
(Tơ ươm xong chưa lên khung cửi,
Thì làm sao thành tấm lụa được?
Thế mà ngoài cửa bọn lý dịch đã đến,
Thôi thúc nạp thuế mau)
(Tàm phụ từ - Miên Trinh)
Nghe qua tâm sự của những người phụ nữ này, tác giả không khỏi thương
xót cho những kiếp đời bé mọn. Một sự đối lập quá lớn giữa những người khuê các
ở nơi nhà cao cửa rộng, mặc toàn áo lượt quần là, người đeo trang sức lấp lánh…
với những người cả đời không biết đến những thú vui trong phòng khuê, bán mặt
cho đất bán lưng cho giời, vất vả tần tảo không ngơi tay nhưng vẫn phải chạy ăn
từng bữa:
- “Một duyên hai nợ âu đành phận,
93
Năm nắng mười mưa dám quản công”
(Thương vợ - Trần Tế Xương)
- “Thính thử tàm phụ từ,
Thùy năng sinh trắc đát!”
(Nghe lời ca của người đàn bà nuôi tằm này,
Ai là người có thể không sinh lòng thương xót?)
(Tàm phụ từ - Miên Trinh)
Cũng chính sự tần tảo ấy đã không ít lần khiến các nhà thơ phải tự trách
mình khi không chu toàn cho gia đình mình, không thể lo lắng cho vợ mà để vợ
phải bươn chải ngoài xã hội:
- “Thê noa bần bệnh tinh vi lụy,
Thiên địa thần nhân tri thử tâm”
(Vợ con nghèo, bệnh đều bị liên lụy
Trời, đất, thần, người hiểu rõ nỗi lòng này)
(Xuất môn - Hà Tôn Quyền)
- “Tiền bạc phó cho con mụ kiếm,
Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi”
(Tự cười mình - Trần Tế Xương)
- “Lý nguy sỉ ngã niên tiền ngộ,
Huề ấu lấn quân thử nhật thành”
(Gặp gian nguy, thẹn cho ta năm xưa lầm lỡ,
Dắt con trẻ, thương cho nàng hôm ấy ra đi)
(Hoài nội - Ngô Thì Nhậm)
Những cảm xúc đó là sự biết ơn pha lẫn tự trách khi phó mặc chuyện cơm
áo, trách nhiệm với con cái lên đôi vai vợ. Tự cười vào sự bất lực của mình để càng
thêm trân trọng đức hy sinh, thêm yêu thương sự đảm đang, tần tảo của vợ…
Một bộ phận tác giả khi viết về người phụ nữ đã lồng ghép chính mình vào
trong đó hoặc tác phẩm có sự liên hệ đồng cảm sâu sắc với số phận tác giả. Sự
đồng cảm này dễ thấy trong thơ của các nữ sĩ mà đặc biệt là thơ Hồ Xuân Hương.
94
Nhân vật và tác giả như hòa quyện vào nhau, thơ chất chứa nỗi u hoài và tâm tư
chồng chất của một cuộc đời kém may mắn, đặc biệt là trong đời sống hôn nhân…
- “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”
(Lấy chồng chung)
- “Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?
Mảnh tình một khối thiếp xin mang”
(Không chồng mà chửa)
- “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con”
(Tự tình II)
Đủ mọi trạng thái của cảm xúc, từ than vãn nhẹ nhàng đến bức bối tột độ, tất
cả đều nói lên rằng người phụ nữ ấy không có hạnh phúc và cô ta đang mong muốn
có được hạnh phúc. Khác với những tác giả khác (là nam giới), Hồ Xuân Hương là
một người phụ nữ sống trong xã hội cũ, đã và đang bị những luật lệ phong kiến ràng
buộc nên bà hiểu được cách nghĩ của nữ giới, biết rõ những khó khăn khổ sở mà
phụ nữ phải chịu. Là một nhân chứng và cũng là một nạn nhân của xã hội phong
kiến, bà nói tiếng nói thể hiện quan điểm của mình, cũng là lời nói thay cho tất cả
phụ nữ đang chịu nỗi khổ giống như mình.
Bên cạnh thái độ bất mãn của Hồ Xuân Hương, sự đồng cảm sâu sắc của các
tác giả trung đại còn thể hiện ở sự ngưỡng vọng dành cho những người phụ nữ có
tài văn chương. Một số tác tác giả bày tỏ nỗi thương xót cho cuộc đời tài nữ và
đồng cảm khi tìm thấy sự thân thuộc như giữa những người tri kỷ tri âm. Niềm vui
của những cây bút tài năng gặp gỡ, những kẻ có cùng tâm sự tìm thấy nhau, xem
nhau như tri kỷ:
- “Giang sơn chính đố vô ngâm bạn,
Hàn mặc ninh kỳ hữu mỹ nhân”
(Đã ghét trước cảnh sông núi không có bạn ngâm vịnh,
Nào ngờ nơi bút mực lại gặp mối duyên đẹp đẽ)
95
(Ký tài nữ - Ninh Tốn)
- “Tiếu ngã liên tài tình thái trọng,
Thử tình ứng phó thử tài tri”
(Cười cho ta, mối tình liên tài quá nặng,
Tình này cũng nên để cho người tài ấy biết)
(Ký tài nữ Thụy Liên - Ninh Tốn)
- “Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư”
(Mối hận cổ kim thật khó mà hỏi ông trời.
Ta tự coi như người cùng một hội một thuyền với nàng là kẻ
vì nết phong nhã mà mắc phải nỗi oan lạ lùng)
(Độc Tiểu Thanh ký - Nguyễn Du)
Nói một cách không quá thì nhiều ít gì, Ninh Tốn và Nguyễn Du cũng đã có
một cái nhìn rất hay, rất tiến bộ về địa vị của người phụ nữ trong xã hội. Sự đồng
cảm “như người cùng một hội một thuyền” ấy đã kéo con người lại gần với nhau,
khoảng cách và quan niệm bất bình đẳng giới đã bị xóa nhòa. Tác giả bỏ qua vấn đề
giới tính, bày tỏ tình cảm đến những người tài nữ bởi đã nghe nói đến hoặc đã được
đọc đến những tác phẩm thể hiện tài hoa của họ. Đó là tình cảm của những tâm hồn
đồng điệu mong tìm thấy người tri âm tri kỷ khi họ có cùng một mối quan tâm lớn -
văn chương.
Có những hình ảnh chỉ đập vào mắt đã tạo nên cho các tác giả cảm xúc mạnh
mẽ để viết nên tác phẩm: Giam trung kiến cố lão nhân khấp tự loạn ly nhân hữu cố
cung chi cảm (Trần Danh Án), Mại chỉ y (Miên Thẩm), Đồ ngộ đảm nhi tầm phu
giả (Đoàn Nguyễn Tuấn), Mẹ Mốc (Nguyễn Khuyến)… Các tác phẩm này thể hiện
tình cảm nhân đạo sâu sắc, các tác giả đồng cảm, xúc động trước những khổ đau
trong cuộc sống của con người:
“Nhàn hoa vô chủ trục phong phi,
Bạch phủ cung nhân độc tự bi”
(Hoa rơi không có chủ, bay theo ngọn gió,
96
Người cung nhân đầu đã bạc, tự thương xót mình)
(Giam trung kiến cố lão nhân khấp tự loạn ly nhân hữu cố cung chi cảm
- Trần Danh Án)
Các tác gia - tác giả trung đại đa phần thể hiện hình tượng người phụ nữ với
sự trân trọng, yêu thương sâu sắc. Tình cảm ấy một mặt hướng đến người phụ nữ để
động viên, nâng đỡ tinh thần, một mặt nhắm đến thành lũy phong kiến nhằm mục
đích phê phán, đả kích. Tình người vẫn luôn tồn tại và sự cảm thông giữa người với
người đã trở thành động lực để các nhân vật nữ đi vào văn học… Dù xét ở mặt nào,
hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình thế kỷ XVIII - XIX đều chứa đựng tư
tưởng nhân đạo cao cả của các tác giả.
Đi dọc theo chặng đường dài mười thế kỷ của văn học trung đại Việt Nam,
các nhân vật nữ đã xuất hiện trong các trang viết từ khá sớm với nhiều cách thể hiện
khác nhau của các tác giả, tuy nhiên, phải đến thế kỷ XVIII những nhân vật nữ ấy
mới được chú ý đặc biệt và trở thành một hình tượng nhân vật trong văn học. Bằng
nhiều tác phẩm thuộc nhiều hình thức, các tác giả trung đại đã dày công tạo dựng
nên một hình tượng phụ nữ đẹp từ trong ra ngoài tiêu biểu cho những phẩm chất
đáng quý của người phụ nữ ngoài đời thực. Xã hội lắm định kiến và ràng buộc đã
gây nên không ít khó khăn cho nữ giới khiến họ phải nhẫn nhịn và cam chịu suốt
một khoảng thời gian dài, đến giai đoạn này, người phụ nữ trong văn học đã bắt đầu
lên tiếng đòi quyền lợi, đòi hạnh phúc, đòi công bình… Hình tượng người phụ nữ
ngày càng phát triển thêm và vẫn đang cố gắng tự hoàn thiện trong mọi hoàn cảnh,
đồng nghĩa với tư tưởng ngày một tiến bộ của các tác giả trung đại về quyền sống
và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người.
97
Chương 3. NGHỆ THUẬT KHẮC HỌA CHÂN DUNG
NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG THƠ TRỮ TÌNH THẾ KỶ XVIII - XIX
3.1. Thể thơ
Trong phạm vi đối tượng của đề tài, chúng tôi khảo sát 233 bài thơ, chủ yếu
được sáng tác ở ba thể: tứ tuyệt, bát cú và trường thiên. Đây cũng là ba thể thơ nổi
bật đạt được nhiều thành tựu lớn xuyên suốt quá trình phát triển của văn học Việt
Nam trung đại.
3.1.1. Thể tứ tuyệt
“Thơ bốn câu gọi là thơ tứ tuyệt, người Trung Quốc gọi là tuyệt cú, tức là
bài thơ hay tuyệt vời vì chỉ có bốn câu 20 từ hoặc 28 từ mà nói lên được đầy đủ ý tứ
của một đề tài” [22, tr.108]. Đây là thể thơ được sử dụng nhiều ngay từ khi nền văn
học viết Việt Nam ra đời. Phạm vi đề tài của thơ tứ tuyệt rất rộng, từ những vấn đề
trọng đại mang tính dân tộc đến những vấn đề cá nhân.
Thể tứ tuyệt (ngũ ngôn và thất ngôn) có dung lượng ít ỏi về câu chữ (20 từ
với ngũ ngôn tứ tuyệt và 28 từ với thất ngôn tứ tuyệt) rất phù hợp với nhu cầu ghi
nhận những phát hiện mới mẻ, ghi nhận những cảm giác cảm xúc bất chợt nhưng
mãnh liệt của nhà thơ với một vấn đề, một hình ảnh tình cờ bắt gặp trong cuộc sống.
Phù hợp với nhiều loại đề tài nhưng tứ tuyệt là một thể thơ khó do sự hạn chế về
dung lượng, đặt ra yêu cầu cao đối với người sáng tác.
Đặc điểm của thể tứ tuyệt là ngắn gọn và hàm súc. Yêu cầu ngắn gọn buộc
thể tứ tuyệt hạn chế tối đa việc miêu tả cụ thể, hạn chế việc dồn chứa các chi tiết,
hình ảnh có khả năng khắc họa sự sinh động, phong phú của đời sống. Quá nhiều
hình ảnh hoặc sự kiện sẽ dẫn đến rối bố cục, loãng nội dung và tác giả sẽ không làm
nổi bật được vấn đề trung tâm của bài thơ. “Để khắc phục điều này, người làm thơ
tứ tuyệt cần phải chọn lọc, phát hiện một góc độ nhìn, một thời điểm nhìn, ở đó,
toàn bộ thế giới và đời sống con người được lóe sáng, nổi bật trong dạng thức cô
đọng nhất, bản chất nhất” [3, tr.78]. Từ một phạm vi đời sống hẹp, thơ tứ tuyệt
thường đặt ra những vấn đề mang tính khái quát cao thuộc về nhiều mặt đời sống
hay đặt ra những vấn đề thuộc về bản chất, quy luật muôn đời, đúng với tính chất
98
“gợi nhưng không tả” của một trong những dạng thức thơ đạt đến mức cao nhất của
tính hàm súc trong văn chương nhân loại.
Ở đề tài Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình thế kỷ XVIII - XIX, thơ
tứ tuyệt chỉ chiếm số lượng tương đối hạn chế (khoảng 22.5%) nhưng chất lượng rất
đặc sắc. Đáng chú ý là hiện tượng mở rộng dung lượng bằng cách xâu chuỗi nhiều
bài tứ tuyệt cùng chung một chủ đề. Hiện tượng này có thể xem là khuynh hướng
phát triển hình thức thơ để phù hợp với nội dung, để có thể chuyển tải hết cảm xúc
trữ tình của tác giả mà vẫn giữ nguyên tính chất hàm súc đặc trưng của thể thơ.
Do yêu cầu hàm súc, cô đọng mà thơ Đường luật thường ngắn, đặc điểm
ngắn tất nhiên có những ưu thế nhất định như đòi hỏi tác giả phải đầu tư nhiều về kỹ
thuật, chọn lọc từ ngữ kỹ lưỡng và tạo nên hiệu quả thẩm mĩ cao… nhưng ngược
lại, vì yêu cầu ngắn nên các tác giả gặp nhiều khó khăn trong việc thể hiện nội dung
tác phẩm, bởi một khi đã có cảm xúc thì việc giới hạn số lượng câu chữ sẽ trở thành
một rào cản bó hẹp nội dung vào khuôn khổ hình thức. Hình thức thể hiện nội dung
và hai yếu tố hình thức - nội dung sẽ linh hoạt thay đổi để phù hợp với nhau, tạo ra
một chỉnh thể nghệ thuật đặc sắc. Các thể thơ có xu hướng bung mở cấu trúc để
chuyển tải trọn vẹn thế giới tâm trạng phong phú của nhân vật trữ tình (chùm thơ tứ
tuyệt, chùm thơ bát cú, thơ trường thiên cổ phong...). Thơ tứ tuyệt viết về người phụ
nữ phần lớn được ghi nhận ở thế kỷ XVIII, thế kỷ XIX dù chỉ chiếm một số lượng
rất hạn chế nhưng lại hết sức đặc sắc. Các sáng tác này được thể hiện bằng cả chữ
Hán và chữ Nôm (Vãn thi tam tuyệt - Phạm Nguyễn Du, Thập tư, Thập bất tất tư -
Ngô Thì Sĩ, Quá sơn gia - Miên Trinh, Bánh trôi nước, Mời trầu, Ốc nhồi, Quả mít,
Đề đền Sầm Nghi Đống - Hồ Xuân Hương, Tống nội tử Ngô Vũ Khanh nam quy -
Nguyễn Thông, Xuân nhật ức song thân cảm tác - Đào Tấn, Tặng nội - Nguyễn
Hành…). Dù là thơ chữ Hán hay chữ Nôm thì các tác giả vẫn có ý thức tuân thủ
chặt chẽ những quy định về hình thức thơ. Nội dung thơ đã có sự thay đổi theo
hướng mở rộng về phía đời sống, thể hiện những khía cạnh sinh hoạt đời thường
dung dị, đồng thời, tiếp cận với những đối tượng ít được đề cập đến trong văn học
giai đoạn trước:
99
- “Tư lượng hàn khổ vị dương ky,
Khang ngột như châu khước điển y.
Phong lộ quá kiều hồn bất giác,
Ỷ môn ưng hữu vọng hùng quy”
(Ngẫm nghĩ rét khổ chưa bằng đói khổ,
Tấm cám đắt như ngọc, đành phải cầm cố áo mà mua.
Trong sương gió, cứ thản nhiên qua cầu không biết rét,
Vì nghĩ rằng ở nhà có người đang tựa cửa mong mình về)
(Mộ kiều quy nữ - Cao Bá Quát)
- “Bần tiện đô duyên ngã tự cầu,
Bình sinh hà oán diệc hà vưu.
Cổ nhân tối ái tao khang nghĩa,
An đắc tao khang đáo bạch đầu”
(Nghèo và không có địa vị gì, đó đều là do ta tự chuốc lấy,
Cả đời chẳng oán Trời cũng chẳng giận người.
Cổ nhân rất quý trọng nghĩa tao khang,
Mong sao giữ được tình nghĩa ấy cho đến lúc bạc đầu)
(Tặng nội - Nguyễn Hành)
Một bài tứ tuyệt có bố cục khai - thừa - chuyển - hợp, các tác giả sử dụng
ngôn ngữ nghệ thuật để thể hiện cảm nhận, suy tưởng về vấn đề mình quan tâm. Ở
thơ tứ tuyệt viết về người phụ nữ thế kỷ XVIII - XIX, tác giả thể hiện suy nghĩ của
mình trong hai câu khai - thừa, nhân vật nữ (hoặc tình cảm của nhà thơ với nhân vật
nữ) thường xuất hiện ở câu chuyển, nâng vấn đề lên một tầm khái quát cao hơn
trong câu hợp. Có thể tìm hiểu tác phẩm Trệ vũ trung dạ cảm tác của Cao Bá Quát
để thấy rõ hơn những đặc điểm này:
“Tuế vũ phi phi dạ bế môn,
Cô đăng minh diệt tiễn vô ngôn.
Thiên biên chinh khách khuê trung phụ,
Hà xứ tương tư bất đoạn hồn!”
100
(Cửa cài lất phất đêm mưa,
Ngọn đèn khi tỏ, khi mờ, lặng không.
Người viễn tái, kẻ cô phòng,
Tương tư ai chẳng não lòng như ai)
Bài thơ không đi sâu miêu tả chi tiết về người phụ nữ mà chủ yếu khắc họa
một cảm xúc bất chợt của nhân vật trữ tình. Gây ấn tượng mạnh mẽ ở cách lựa chọn
và kết hợp hình ảnh đặc sắc “bế môn”, “cô đăng”, “thiên biên”, “khuê trung”
nhấn mạnh và xoáy sâu vào nỗi cô đơn, nỗi nhớ của nhân vật. Tác giả bắt gặp sự
kiện “tuế vũ phi phi” phù hợp với diễn biến tâm trạng, đồng thời, thời điểm và
không gian thơ đồng hành với sự kiện tạo nên những khoảng lặng trong cảm xúc.
Việc sử dụng hình ảnh đối lập “thiên biên chinh khách” - “khuê trung phụ” thể
hiện trọn vẹn khoảng cách xa xôi về địa lý, không gian thơ như bị kéo giãn một
cách bất chợt. Từ khía cạnh tình cảm của một cá nhân, tác giả khái quát lên thành
vấn đề xa cách - nhớ nhung - sầu muộn của những người chinh phu - khuê phụ thời
bấy giờ, hay rộng hơn nữa là nỗi buồn “tương tư” của những người đang phải chịu
cảnh sống chia ly.
Như vậy, rõ ràng dù thể hiện nội dung thơ nào, thơ tứ tuyệt vẫn có thể phát
huy ưu thế ở nhiều mức độ khác nhau. Bằng việc phát hiện và nhấn sâu vào một
trạng thái cảm xúc, thơ tứ tuyệt viết về người phụ nữ vẫn cô đọng, hàm súc, vẫn
mang tầm khái quát cao dù không chựa đựng nhiều chi tiết, không lột tả cụ thể về
đối tượng.
Đáng chú ý là sự cách tân hình thức nhằm thể hiện nội dung ở một mức độ
khác cao hơn. Cách tân nhưng vẫn giữ nguyên những đặc trưng vốn có của thể thơ
tứ tuyệt. Các tác giả trung đại sử dụng hình thức xâu chuỗi các bài tứ tuyệt ở một
vài phạm vi chủ đề khác nhau nhưng chủ yếu vẫn là để thể hiện tình cảm sâu đậm
dành cho vợ, thể hiện nỗi bi ai lên đến tột cùng trước mất mát tinh thần quá lớn của
mình khi vợ qua đời. Ngô Thì Sĩ với Thập tư (Mười nhớ), Thập bất tất tư (Mười
không thương nhớ) và Kinh ngụ cảm hoài (Nỗi cảm hoài khi trú ngụ tại kinh thành)
đều thể hiện tình yêu, nỗi nhớ da diết không thể diễn đạt hết chỉ bằng một bài tứ
101
tuyệt ngắn ngủi. Thập tư và Thập bất tất tư đều có mười bài tứ tuyệt được đánh số
thứ tự từ I đến X và đều có sự lặp lại của một số câu thơ mở đầu tạo nên ấn tượng
về nỗi đau ngày càng tăng theo từng bài thơ ngắn:
I - Tư quân vô kế, hiệu quân thư
(Nhớ nàng, không cách gì (khuây khỏa), đành đem sách của nàng ra
sắp xếp lại)
II - Tư quân vô kế, phủ quân cầm
(Nhớ nàng, không cách gì (khuây khỏa), đành đem cây đàn của
nàng ra gẩy)
III - Tư quân vô kế, niệm quân ca
(Nhớ nàng, không cách gì (khuây khỏa), chỉ nhẩm lại khúc ca nàng
vẫn hát)
IV - Tư quân vô kế, trước quân y
(Nhớ nàng, không cách gì (khuây khỏa), đem áo nàng ra mặc)
(Thập tư)
I - Bất tất tư quân khả khán thư
(Khỏi cần thương nhớ, hãy xem sách nàng để lại)
II - Bất tất tư quân khổ phất cầm
(Khỏi cần thương nhớ, gượng phẩy nhẹ dây đàn)
III - Bất tất tư, hiếu cổ ca
(Khỏi cần thương nhớ, cứ như Trang Tử “gõ chậu mà hát ca”)
IV - Bất tất tư, lệ mãn y
(Khỏi cần thương nhớ, nhưng nước mắt vẫn đẫm áo)
(Thập bất tất tư)
Viết về nỗi lòng mình khi mất vợ, nhà thơ đã viết mười bài tứ tuyệt thể hiện
nỗi nhớ (Thập tư), sau đó lại viết thêm mười bài khác tự nhủ “Khỏi cần thương
nhớ” (Thập bất tất tư) nhưng dẫu là nhớ hay không nhớ thì trọn cả hai mươi bài tứ
tuyệt ấy vẫn thấm đẫm nước mắt và nỗi đau của tác giả, cảm xúc cứ thế tăng lên và
102
chỉ tăng thêm chứ không giảm bớt bộc lộ tình cảm quyến luyến, sâu sắc trong đạo
vợ chồng.
Với Kinh ngụ cảm hoài, Ngô Thì Sĩ ghi nhận nỗi lòng và tình cảm bất chợt
của mình bằng một chùm thơ bốn bài cùng chung chủ đề (một bài bát cú và ba bài
tứ tuyệt) đánh số thứ tự từ I đến IV. Vẫn giọng điệu ai oán, thê lương ấy, tác giả
như không thể tin vào cái chết đến quá bất ngờ của người vợ mà mình hết mực
thương yêu:
II - “Như thử khuê phòng khiết hựu trang,
Sinh lai hà vãn khí hà mang”
(Phong độ khuê phòng đoan trang, trong sáng đến như vậy,
Cớ sao ra đời muộn mà lại vội vàng thác sớm)
III- “Khanh thiếu ư dư thập lục niên,
Liên khanh thường khủng tử khanh tiên”
(Nàng kém ta mười sáu tuổi,
Thương yêu nàng, ta lo chết trước nàng)
IV- “Phú quý quân thành vô sở tiễn,
Tri quân hoan duyệt vị quần nhi”
(Giàu sang nàng quả thực không ham,
Biết nàng chỉ vui vì các con)
(Kinh ngụ cảm hoài)
Có thể đi sâu vào một sáng tác của Phạm Nguyễn Du - Vãn thi tam tuyệt (Ba
bài tứ tuyệt làm thơ viếng) - để thấy rõ hơn những nét đặc sắc khi sử dụng hình thức
xâu chuỗi độc đáo này:
I - “Nương tử bình sinh quả ngôn tiếu
Ngôn tiếu tằng năng giải ngã phiền
Nhất biệt mang mang hà xứ thị
Như kim bất tiếu diệc vô ngôn”
(Bình sinh nàng ít nói cười,
Hễ nói cười là làm ta vui
103
Nay cách biệt nhau, (trời đất) mênh mang, biết tìm nàng ở đâu?
Chẳng còn thấy tiếng cười cùng tiếng nói)
II - “Nương tử bình sinh xảo châm tuyến,
Châm tuyến tằng năng xứng ngã tâm
Nhất biệt mang mang hà xứ thị
Như kim bất tuyến diệc vô châm”
(Bình sinh nàng giỏi nghề kim chỉ,
Tài may vá từng làm ta đẹp lòng
Nay cách biệt nhau, (trời đất) mênh mang, biết tìm nàng ở đâu?
Thế là chỉ cũng không mà kim cũng không)
III - “Nương tử bình sinh thiện cam chỉ,
Cam chỉ tằng năng sử ngã hàm
Nhất biệt mang mang hà xứ thị
Như kim bất chỉ diệc vô cam”
(Ngày thường nàng khéo làm những món ngọt bùi,
Ngọt bùi từng khiến ta say sưa
Lần này cách biệt nhau, (trời đất) mênh mang, biết tìm nàng ở đâu?
Ngọt bùi nay cũng chẳng còn)
Ấn tượng mà chùm thơ ba bài tứ tuyệt này mang đến trước hết là nỗi buồn,
nỗi cô đơn khó nguôi ngoai. Không xuất hiện một giọt nước mắt nào nhưng người
đọc vẫn cảm nhận được nỗi đau mất mát mà tác giả đã trải qua. Ba bài thơ có cùng
chủ đề, cùng chung mạch cảm xúc và cùng hoàn chỉnh về hình thức. Những yếu tố
ấy cho phép mỗi bài có thể trở thành một chỉnh thể độc lập, không lệ thuộc vào
nhau. Tuy nhiên, sắc thái thẩm mỹ do một bài riêng lẻ đem đến chắc chắn không
cao (so với cả chùm thơ ba bài). Không thể phủ nhận việc bài thơ sau lặp lại một
câu (hoặc nhiều hơn một câu) của bài thơ trước tạo ra tác dụng nhấn mạnh và xoáy
sâu vào vấn đề được nhắc đến (ở đây là nỗi đau của tác giả trước cái chết của vợ).
Hình thức lặp lại này có thể xem như một đặc điểm nổi bật của chùm thơ tứ tuyệt.
104
Chùm thơ tứ tuyệt có ưu thế lớn trong việc cực tả một trạng thái cảm xúc.
Chùm thơ có thể gồm hàng chục bài nối với nhau bằng dòng cảm xúc liền mạch,
mỗi bài đều cung cấp thêm những thông tin mới mẻ nhưng không tách rời khỏi chủ
đề chung. Mỗi hình thức thơ có những ưu thế nhất định, ưu thế ấy ảnh hưởng không
nhỏ đến khuynh hướng lựa chọn thể thơ (để phù hợp với tiêu chí thể hiện) của các
tác giả.
Ngoài ra, Mộng đắc thái liên (I - V của Nguyễn Du), Tống nội tử Ngô Vũ
Khanh nam qui I, II (Nguyễn Thông), Hữu sở cảm và Hoài cổ (Phạm Đình Hổ),
Trấn doanh kỳ vũ (Lê Quý Đôn), Trung thu vũ dạ (Cao Huy Diệu)… cũng được làm
theo hình thức xâu chuỗi này. Có một số bài không đánh số thứ tự nhưng chúng tôi
vẫn xếp vào thể thơ này do nội dung tương đối độc lập của mỗi khổ thơ.
Những bài tứ tuyệt đánh số thứ tự hoàn toàn có khả năng tách ra và trở thành
những bài thơ riêng lẻ mà không đánh mất giá trị biểu cảm, giá trị nội dung vốn có
do tính chỉnh thể của một bài thơ hoàn chỉnh. Việc xâu chuỗi những bài tứ tuyệt
cũng chung chủ đề khá mới mẻ và đặc sắc, tạo nên điểm nhấn khác lạ thú vị cho thể
thơ tứ tuyệt vốn đã rất quen thuộc này.
3.1.2. Thể bát cú
Một bài thơ tám câu được gọi là bát cú, thường gặp nhất trong thơ trữ tình là
dạng thức thất ngôn bát cú (56 từ) và ngũ ngôn bát cú (40 từ). Đây là thể thơ được
sử dụng phổ biến nhất ở cả thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm, phù hợp với dạng thức
thơ trữ tình từng được sử dụng phổ biến trước đó. Dung lượng tám câu là vừa đủ và
thích hợp để vừa tả nhân vật người phụ nữ vừa bày tỏ tình cảm của tác giả.
“Một bài bát cú có 56 từ phải là 56 ý rất cô đọng gọi là 56 viên ngọc, tránh
dùng những từ đệm hoặc bắc cầu hay đưa đẩy như: thì, mà, là, cũng, đã… thường
gọi là hư từ, làm mất nhiều ý nghĩa và giảm giá trị bài thơ” [22, tr.110]. Dẫu dung
lượng dài hơn thơ tứ tuyệt nhưng các tác giả vẫn phải chọn lọc và gọt giũa câu chữ
một cách nghiêm ngặt nếu muốn sáng tác ra những tác phẩm có giá trị cao. Thể bát
cú chiếm một số lượng lớn (áp đảo so với thể tứ tuyệt và trường thiên) trong tổng số
lượng thơ trữ tình viết về người phụ nữ thế kỷ XVIII - XIX (khoảng 65.8%). Dung
105
lượng một bài bát cú vừa đủ để các tác giả thể hiện nhân vật kèm theo nhiều trạng
thái cảm xúc, có thể vừa tả vừa gợi nhiều mặt của đời sống.
Phạm vi đề tài của thể bát cú rất rộng, gần như có thể bao quát toàn bộ đời
sống xã hội với đủ các loại vấn đề được các tác giả đưa vào văn học: vẻ đẹp ngoại
hình của người phụ nữ (Mã thượng mỹ nhân - Ninh Tốn, Thiếu nữ ngủ ngày và Đề
tranh tố nữ - Hồ Xuân Hương, Vô đề - Đoàn Nguyễn Tuấn, Đề mỹ nhân dao lỗ đồ -
Lê Quang Định…), vẻ đẹp trong tâm hồn và đức hạnh của người phụ nữ cùng với
cảm nhận của các tác giả (hai tác phẩm cùng tên Vọng phu thạch - Nguyễn Du, Cao
Bá Quát, Mộ Chiêu Quân - Đoàn Nguyễn Tuấn, Khốc tiên muội Kim Đài - Ngô Thì
Điển, Tiếp nội thư tính ký hàn y bút điều sổ sự và Mộng vong nữ - Cao Bá Quát, Từ
giã vợ nhà đi làm quan - Phan Thanh Giản, Đề Vũ Nương miếu và Lão ẩu mộ thị -
Ngô Thì Ức, Ban chánh cung và Ban Đông cung - Trịnh Doanh, Nhớ vợ - Ngô Thì
Nhậm, Độc Tiểu Thanh ký và Ngô gia đệ cựu ca cơ - Nguyễn Du…). Bên cạnh đó,
có rất nhiều thơ sử dụng hình ảnh người phụ nữ để làm nổi bật tư tưởng của mình
trong các vấn đề chính trị - xã hội khác.
Thơ bát cú thường được chia thành bố cục đề - thực - luận - kết, dung lượng
tám câu cho phép các tác giả thể hiện hình tượng người phụ nữ ở nhiều góc độ. Có
thể thử tìm hiểu tác phẩm Tiếp nội thư tính ký hàn y bút điều sổ sự của Cao Bá Quát
để thấy rõ ưu thế của thể bát cú trong việc miêu tả chân dung người phụ nữ ở nhiều
khía cạnh:
“Nhất giam đăng hạ vạn hàng đề,
Thử dạ tàn hồn nhiễu tú khuê.
Trường hận thùy giao luân cẩm tự?
Độc miên nhân tự vọng kim kê
Hàn y ổn thiếp phong tân tứ,
Tổ quản tiêm minh tẩy cựu đề.
Lai thất tha thời hảo quy khứ,
Nhập môn tri hữu nhẫm thung thê”
(Một phong thư đọc dưới đèn, muôn hàng lệ rỏ,
106
Đêm nay hồn vật vờ, quanh chốn buồng thêu,
Mối hận vô cùng ai xui mình bàn việc dệt chữ gấm,
Kẻ nằm một mình vẫn trông ngóng tin gà vàng.
Chiếc áo rét xếp phẳng phiu, gói ghém bao ý mới.
Ngọn bút trắng, nhọn, xóa sạch những lời đề xưa.
Rồi mai đây khi được trở về nơi nhà Lai,
Bước vào cửa biết rằng có vợ hiền từng giã gạo mướn)
Bài thơ thể hiện sự trân trọng, xúc động của nhân vật trữ tình đối với vợ.
Khác với thơ tứ tuyệt, thể bát cú diễn đạt tương đối trọn vẹn tình cảm của tác giả, sự
kiện, thông tin được chuyển tải cũng hết sức phong phú. Do vậy, hình ảnh người
phụ nữ xuất hiện đã đậm nét và cụ thể hơn ở cả khía cạnh ngoại hình, nội tâm và
hoàn cảnh sống. Tác giả vẫn rất tỉ mỉ trong việc lựa chọn hình ảnh thể hiện nhiều
cung bậc cảm xúc, những cung bậc ấy kết hợp với nhau tạo nên mạch cảm xúc nối
liền. Hai câu kết của một bài thơ bát cú thường được dùng nói đến suy nghĩ và
mong muốn của tác giả, “làm nhiệm vụ kết thúc bài thơ. Hai câu này gắn liền với
hai câu đầu, mà ta thường gọi là “hồi cố” tức là trở lại vấn đề trên và có chiều
hướng gợi ra những ý mới làm cho dư âm bài thơ vẫn lắng đọng mãi trong tâm trí
người đọc” [22, tr.109]. Hai câu kết của thơ bát cú thường dùng để “ngôn chí”, nói
hoài bão, chí hướng nhưng khi viết về người phụ nữ, thể bát cú thường nhấn mạnh
tình cảm dành cho đối tượng. Ở bài thơ trên, khao khát hạnh phúc, khao khát đoàn
viên được thể hiện tương đối rõ nét. Có thể thấy, khi lựa chọn thể bát cú để viết về
hình tượng người phụ nữ, các tác giả có điều kiện bộc lộ tình cảm cá nhân nhiều
hơn, khắc họa những nhân vật nữ ở nhiều mức độ - góc độ hơn.
“Tính quy phạm thể hiện ở cả nội dung lẫn hình thức. Tài nghệ của nhà thơ
chủ yếu được đong đếm ở kỹ thuật đúc chữ, luyện câu, điểm nhãn sao cho đắt, cho
cân xứng, hài hòa” [12, tr.140]. Tuy tính quy phạm trong văn học thế kỷ XVIII -
XIX nói chung, thơ trữ tình thế kỷ XVIII - XIX nói riêng đã có một sự nới rộng
nhất đinh do sự phát triển rầm rộ của bộ phận văn học Nôm nhưng các tác giả vẫn
rất chú ý đến phương diện nghệ thuật thơ, cố gắng tạo ra những thành phẩm xuất
107
sắc. Với phạm vi đề tài rộng lớn cộng với hình thức ổn định, một khoảng đủ rộng
cho sự sáng tạo và bứt phá của người nghệ sĩ, thể bát cú là lựa chọn của rất nhiều
tác giả trung đại.
Ở thể thơ này, sự xâu chuỗi nhiều bài thơ cũng một chủ đề cũng là một dạng
khá mới mẻ được một số cây bút thể nghiệm. Tuy nhiên, số lượng tác giả sử dụng
hình thức ấy không nhiều như xâu chuỗi thơ tứ tuyệt. Điều này tương đối dễ lý giải
khi mà dung lượng của hai thể thơ có sự chênh lệch lớn về số câu, số chữ. Sự kết
hợp nhiều bài bát cú cùng một chủ đề cũng tạo ra hiệu quả thẩm mỹ rất lớn, nâng
cảm xúc của nhà thơ về vấn đề được đề cập lên một tầm cao hơn, đồng thời, ấn
tượng mà bài thơ tạo ra cho người tiếp nhận cũng sâu sắc hơn. Đáng chú ý có thể kể
đến tác phẩm khóc vợ Chu trung độc tọa hữu hoài gồm chùm hai bài bát cú của
Ngô Thì Sĩ:
I - “Nhất niên lưỡng độ viễn đăng trình,
Lưỡng biệt khuê nhân độc giả hành.
Hướng vãng trì hồi do hữu thuyết,
Kim lai thê khổ nhược vi tình.
Điều điều chinh bạc đồ thiên lý,
Ảm ảm hàn đăng dạ ngũ canh.
Bất thức sảng linh thùy cố phủ,
Hình thần tiều tụy vị tư khanh”
(Một năm hai lần khởi hành đi xa,
Hai lần từ biệt vợ, ra đi một mình.
Lần trước về chậm còn có cớ mà nói,
Ngày nay lòng nặng trĩu nỗi đau thương.
Thuyền đi xa hàng nghìn dặm,
Ngọn đèn leo lắt suốt năm canh.
Chẳng hiểu anh linh có chiếu cố đến cho chăng,
Thể xác tinh thần đều tiều tụy vì nhớ nàng)
II - “Ân liên tương thủ hốt tương quyên,
108
Hàn thử thoan tuần tiết hậu thiên.
U thất trầm trầm không ế ngọc,
Trường giang diểu diểu độc đăng thuyền.
Thiên na khả vấn đồi nhiên hắc,
Nguyệt tự vô tình nhậm địa viên
Do ký Thanh Hoa hoàn vãng nhật,
Tịch chu đàm ngoạn cánh hà niên”
(Yêu thương quấn quýt bên nhau, nay bỗng xa rời,
Tiết trải nóng lạnh cứ tuần tự mà thay đổi.
Người thì tấm thân ngà ngọc chôn vùi dưới nấm mồ tối tăm,
Người thì một thân một mình trên thuyền theo sông dài đến
chốn xa xăm.
Trời không thể hỏi, tối mù mịt,
Trăng kia vô tình, tự nhiên tròn,
Còn nhớ ngày nào đi về đất Thanh Hoa,
Cùng thuyền trò chuyện ngắm cảnh, năm nào lại được như vậy)
Sự xâu chuỗi các bài thơ bát cú cùng chủ đề này thường chỉ giới hạn ở hai
hoặc ba bài, chi tiết sự kiện và thời điểm thường có liên quan nhưng không hoàn
toàn trùng khớp để tránh lặp lại, không gây nhàm chán cho độc giả. Có thể thấy
được nét đặc sắc rất riêng qua chùm thơ bát cú này dẫu không có sự lặp lại của từ
ngữ ở mỗi bài (khác với chùm thơ tứ tuyệt). Tác giả dễ dàng đưa cùng lúc nhiều sự
kiện có liên quan đến chủ đề vào tác phẩm, những sự kiện ấy bổ sung, kết hợp với
nhau làm nổi bật lên nỗi nhớ nhung, tình yêu và nỗi đau mất đi người bạn trăm năm.
Hình ảnh thơ liên tục thay đổi nhưng cảm xúc chung nổi lên trên bề mặt chính là nỗi
cô đơn, nỗi đau thương cùng cực đã tạo nên sự liền lạc cho mạch thơ. Mỗi bài thơ là
một chỉnh thể nghệ thuật mà nếu tách ra khỏi nhau, chúng vẫn có thể tự tồn tại, tự
phát triển. Việc đặt những bài bát cú cùng chủ đề thành một chùm thơ tạo nên cảm
xúc mạnh mẽ, tô đậm và nhấn mạnh thêm cảm xúc của nhân vật trữ tình.
109
Thơ bát cú chữ Hán nhìn chung rất xem trọng tính quy phạm, số câu số chữ
và niêm luật thường rất chặt chẽ và ít có sự đột phá. Ngược lại, bộ phận thơ Nôm lại
phát triển rất rầm rộ với những bước tiến dài thoát khỏi những quy định bó buộc cũ,
“nhu cầu giải phóng những quy phạm về mặt hình thức đặc biệt rõ (…) hơi thở dân
gian ở Hồ Xuân Hương, lối hát nói của Nguyễn Công Trứ và sự có mặt của ngôn
ngữ đời thường trong thơ Tú Xương là những hiện tượng tiêu biểu” [12, tr.162]
hoặc đơn giản hơn là sự trở lại của dạng thơ bát cú có sự xộc xệch một cách cố ý về
số lượng từ đã từng bắt gặp trong thơ Nôm Nguyễn Trãi:
- “Thức ngon, vật lạ băn khoăn những…
Của đắng, đồ cay gỏi ngồi”
(Giờ Mão - Trương Quỳnh Như)
- “Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa”
(Cái quạt - Hồ Xuân Hương)
- “Hầu con chè rượu ngày sai vặt,
Lương vợ ngô khoai tháng phát dần”
(Tự trào - Trần Tế Xương)
Như vậy, số lượng tác phẩm thể hiện hình tượng người phụ nữ thế XVIII -
XIX tăng đột biến có sự đóng góp không nhỏ của thể bát cú. Đóng góp nổi bật của
thể thơ này (trong phạm vi khảo sát của đề tài) chủ yếu là đóng góp về mặt nội
dung, mở rộng phạm vi về phía đời sống, khảo sát đối tượng (phụ nữ) một cách sâu
rộng và đa dạng hơn.
3.1.3. Thể trường thiên
Thể trường thiên là “thể thơ từ mười câu trở lên cho đến hàng trăm câu.
Trên thực tế thì chỉ những bài từ 12, 14, 16, 20 câu là cùng, là làm theo luật thơ
Đường còn thì đều làm theo thể thơ cổ phong (thơ tự do, không theo niêm luật)”
[22, tr.108]. Thể trường thiên với số lượng câu chữ tương đối tự do, là mảnh đất
màu mỡ để các tác gia - tác giả đi sâu khảo sát để có cái nhìn toàn diện về người
phụ nữ trong xã hội cũ.
110
Số lượng thơ trường thiên trong cả tiến trình văn học trung đại Việt Nam
nhìn chung không nhiều (chỉ đặc biệt nở rộ vào thế kỷ XIX), thể trường thiên khắc
họa hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình cũng rất hạn chế (khoảng 9.1%). Đa
số, các sáng tác ấy chỉ nằm trong khoảng 12 đến 38 câu, cá biệt có một vài bài vượt
quá số lượng ấy (Tư thân thuật hoài - Lê Anh Tuấn), bài dài nhất lên đến 96 câu
(Trung thu vũ dạ - Cao Huy Diệu).
Số lượng ít nhưng hầu hết các tác phẩm đều rất đặc sắc, đáp ứng nhu cầu
miêu tả một cách chi tiết, tỉ mỉ và toàn diện vẻ đẹp và cả số phận bất hạnh của
người phụ nữ. Đáng chú ý có các tác phẩm viết về số phận người phụ nữ trong
nhiều hoàn cảnh khác nhau: Hạ trung tiếp đáo khuê vi hung tấn ai cảm kỷ thực
(Phan Huy Ích), Long thành cầm giả ca (Nguyễn Du), Tiên khảo húy nhật cảm tác
(Đoàn Nguyễn Tuấn), Văn nhân khốc (Ngô Thì Hoàng), Tàm phụ từ (Miên Trinh),
Mại chỉ y (Miên Thẩm), Thập thất dạ thừa nguyệt, tẩu bút ký hữu nhân (Cao Bá
Quát)… Phần lớn các tác giả cố gắng đào sâu vào thế giới mà người phụ nữ đang
sống, cố gắng phơi bày những mảng tối trong cuộc sống thực của người phụ nữ. Ở
một chủ đề hẹp, các tác giả trung đại tái tạo những vấn đề cá nhân mang tính thời
đại, lý giải những vấn đề ấy theo quan điểm riêng.
Đi sâu vào những sáng tác này, có thể thấy nội dung thường hàm chứa nhiều
vấn đề trong gắn bó mật thiết với nhau, tạo nên cái nhìn bao quát cả một quá trình
(có thể theo trật tự tuyến tính hoặc theo chuyển biến cảm xúc), qua đó, tâm trạng,
tình cảm của tác giả được nhấn mạnh, được làm nổi bật lên (điều này thường rõ
ràng hơn trong những bài có độ dài trên 20 câu):
- “Cự ý phân huề tuần nhật gian,
Khiển quyển ly tôn thành vĩnh quyết”
(Có ngờ đâu chia tay mới chỉ mươi ngày,
Dùng dằng chén rượu tiễn đưa, lại thành ra vĩnh biệt)
((Hạ trung tiếp đáo khuê vi hung tấn ai cảm kỷ thực - Phan Huy Ích)
- “Ngã ức tự ngã vi nhi thì,
Từ thân đạo thị trung thu kỳ”
111
(Ta nhớ lại thuở ta còn là một đứa trẻ thơ,
Mẹ hiền bảo đó là tết Trung Thu)
(Trung Thu vũ dạ - Cao Huy Diệu)
- “Trung thần phương thị hiếu thân nhi
Toàn lại thần du trượng quốc uy”
(Có là tôi trung thì mới là con hiếu,
Đều nhờ vào mưu vua và oai nước)
(Tư thân thuật hoài - Lê Anh Tuấn)
Phạm vi đề tài của thể trường thiên cũng rất rộng, bao trùm nhiều mảng đời
sống vật chất và tinh thần của con người. Ở đây, thường thấy các vấn đề trung quân
ái quốc, sự dằn vặt khi trung - hiếu không thể vẹn tròn, sinh hoạt thường nhật, cách
nhìn cách cảm của tác giả về một đối tượng nào đó. Ưu thế của thơ trường thiên là
có khả năng miêu tả khá chi tiết về cảnh ngộ, cuộc sống, số phận bất hạnh của
người phụ nữ. Có thể lấy Long thành cầm giả ca của Nguyễn Du (hiện đã được
dựng thành phim) làm một ví dụ tiêu biểu. Với độ dài 50 câu, tác phẩm tái hiện
cuộc đời của nàng Cầm ở hai mốc thời gian cách nhau hai mươi năm:
“Dư ức thiếu thời tằng nhất kiến,
Giám Hồ hổ biên dạ khai yến.
Ký thời tam thất chính phương niên”
(Tôi nhớ lúc thiếu thời đã gặp một lần
Bên bờ hồ Giám trong một cuộc dạ yến,
Lúc đó nàng khoảng hai mươi mốt tuổi)
...
“Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu,
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa,
Nhan sấu thần khô hình lược tiểu.
Lang tạ tàn mi bất sức trang”
(Trong đám ca kĩ đều trẻ tuổi.
Duy ở cuối chiếu có một nàng tóc đã hoa râm.
112
Mặt gầy thần khô hình bé nhỏ,
Đôi mày phờ phạc không điểm tô)
Viết về một cá nhân (hoặc một phạm vi đời sống nhỏ hẹp) nhưng những tác
phẩm sáng tác ở thể trường thiên đều đặt ra vấn đề mang một tầm bao quát nhất
định. Hầu hết các tác phẩm ấy đều chứa đựng sự xót xa, tấm lòng yêu thương, tôn
trọng của các tác giả dành cho nhân vật phụ nữ. Ở Long thành cầm giả ca, Nguyễn
Du thể hiện một sự tiếc nuối chứa nhiều hàm ý:
“Thuần tức bách niên năng kỷ thì”
(Trăm năm thấm thoát trong một hơi thở một nháy mắt)
Có thể nói, thể trường thiên trong văn học thế kỷ XVIII - XIX đã gặt hái
được những thành công rực rỡ với các tác phẩm để lại dấu ấn đậm nét trong lòng
độc giả, thể hiện xuất sắc cuộc sống của người phụ nữ ở nhiều phương diện, góc
cạnh. Ấn tượng sâu sắc mà thể trường thiên mang lại là một cái nhìn nhức nhối khi
khắc họa cuộc sống nhọc nhằn của người phụ nữ trong xã hội cũ.
Hầu hết những tác phẩm thuộc thể trường thiên đều viết về cuộc sống của
người phụ nữ bình dân theo kiểu “ghi nhận điều trông thấy” (khuynh hướng này
cũng làm nên nhiều sáng tác thuộc thể bát cú, tứ tuyệt), các tác giả thường không
chọn một phạm vi chủ đề lớn mà cố gắng khai thác sâu một phạm vi chủ đề hẹp
(một mặt đời sống của một cá nhân). Các tác phẩm như thế luôn mang cái nhìn toàn
cảnh và nhân đạo sâu sắc. Không chịu nhiều ràng buộc như các thể thơ khác, thể
trường thiên sử dụng những hình ảnh mộc mạc, bình dân để cuộc sống trở về đúng
như cái bản chất tự thân mà nó vốn có.
3.2. Nghệ thuật sử dụng hình ảnh
Sự phong phú về số lượng thơ cùng với sự phát triển vượt bậc về nội dung và
hình thức thơ trữ tình thế kỷ XVIII - XIX đã tạo nên sự thay đổi mang tính chất tất
yếu. Với đặc điểm “ngắn”, các tác giả thường có sự chọn lọc, trau chuốt kỹ lưỡng
cho đứa con tinh thần của mình. Hình ảnh thơ do vậy mà cũng hết sức phong phú,
đặc sắc. Đáng chú ý là hiện tượng sử dụng hình ảnh biểu tượng mang tính chất hai
mặt trong thơ Nôm của các tác giả từ cuối thế kỷ XVIII.
113
3.2.1. Các hình ảnh tượng trưng, công thức
Dễ nhận thấy một sự khác biệt lớn trong cách sử dụng hình ảnh của bộ phận
thơ chữ Hán và chữ Nôm. Văn chương Hán học mang tính chất bác học, uyên thâm,
thường được sử dụng cho những mục đích sáng tác nghiêm túc nên thường thấy đặc
trưng sử dụng hình ảnh tượng trưng, công thức. Có nghĩa là, những hình ảnh được
sử dụng trong thơ chữ Hán thường tuân theo những lối mòn sẵn có, ít có đột phá do
tính quy phạm chặt chẽ ràng buộc.
Nói như thế không có nghĩa là thơ chữ Hán không hay, không mới hoặc
nhàm chán. Mỗi bộ phận đều có những đặc trưng riêng tạo nên những nét thú vị
riêng. Thơ chữ Hán đặc trưng bởi việc sử dụng ngôn ngữ cực kỳ trau chuốt, nhiều
điển cố (dù đến khoảng thế kỷ XVIII - XIX việc sử dụng điển cố đã ít hơn hẳn
những giai đoạn trước) và thường gắn với những hình ảnh mang tính cương thường,
đạo lý Nho gia như “trung, hiếu, tiết, nghĩa”, hay “quân, thần, phụ, tử”, không phải
thiên nhiên cao rộng thì cũng là trách nhiệm làm trai. Điều này một phần là do mục
đích “tải đạo”, “ngôn chí” chi phối; phần khác là do cách sáng tác thơ thời trung đại
thể hiện tri thức uyên bác của tác giả, thơ càng nhiều điển cố và hình ảnh biểu trưng
thì càng được đánh giá cao. Theo kết quả tổng hợp của chúng tôi, thơ chữ Hán trực
tiếp viết về người phụ nữ không nhiều, ít hơn hẳn so với bộ phận thơ Nôm nhưng
thơ viết về những đề tài khác có gián tiếp nhắc đến người phụ nữ lại rất nhiều, rất
đặc sắc (đa số là thơ ngôn chí, thơ vịnh cảnh).
Dễ hình dung đến những hạn chế do tính quy phạm mang lại. Các tác giả có
khuynh hướng lựa chọn thơ chữ Hán cho những vấn đề mang tính chất trọng đại, ít
khi sử dụng đến thơ Nôm. Thế nên, hình ảnh thơ của bộ phận thơ chữ Hán ít có sự
bứt phá, hầu hết vẫn nằm trong khuôn khổ, mang nặng tính tượng trưng, công thức.
Ảnh hưởng từ văn chương Trung Hoa thể hiện rõ nét với những nhân vật lịch sử
hoặc nhân vật của văn học dân gian, với sự tương quan giữa con người và vũ trụ
trong một bộ phận tác giả tác phẩm không nhỏ (Nguyễn Du, Cao Huy Diệu, Cao Bá
Quát, Phạm Đình Hổ, Phan Huy Ích, Ninh Tốn…). Hình ảnh thơ phản ánh thế giới
quan, nhân sinh quan của các tác giả trung đại. Nhìn chung, các tác phẩm vẫn bám
114
sát cuộc sống và thể hiện cuộc sống mà tác giả đang sống, đang cảm nhận“sau khi
chứng kiến, quan sát cuộc sống xã hội hay đời sống nhân dân, bao giờ nhà nho
cũng tách ra khỏi cuộc sống nhân dân mà cô đơn, trầm tư mặc tưởng, nhiều khi
hướng về thiên nhiên, về vũ trụ mà suy tư về đời, về con người, về bản thân, về
nhiều chuyện khác” [36, tr.88]. Qua cách sử dụng hình ảnh thơ của các tác giả,
người đọc như có thể nhìn thấy một phần quan điểm và thế giới mà tác giả đang
cảm nhận:
- “Thiên tôn tán cẩm trường công chức,
Đế nữ linh ti nộn thảo thùy”
(Cháu nội của trời dệt gấm tãi trên tầng không bát ngát,
Con gái của thượng đế rủ tơ trời trên ngọn cỏ còn non)
(Đồ gian xuân vũ, kỳ nhất - Cao Huy Diệu)
- “Thiên nữ quan đăng trâm ngọc mấn,
Chinh nhân ỷ kỷ dục băng hồ”
(Con gái trời xem đèn, mái tóc cái trâm ngọc,
Khách lữ hành tựa ghế, tắm mình trong bầu băng)
(Sơn lộ trung thu - Đoàn Nguyễn Tuấn)
- “Phồn hoa nhân vật loạn lai phi,
Huyền hạc quy lai kỷ cá tri”
(Sau buổi loạn lạc, nhân vật nơi phồn hoa nay đã khác trước
nhiều,
Con chim hạc đen bay trở lại, nào mấy ai biết?)
(Ngô gia đệ cựu ca cơ - Nguyễn Du)
- “Hoàng tuyền bất tẩy đan thanh hận,
Lục thảo không lưu thế lệ ngân”
(Suối vàng chẳng rửa được mối hận đan thanh,
Cỏ xanh luống để lại ngấn nước mắt)
(Chiêu Quân mộ - Đoàn Nguyễn Tuấn)
115
Hình ảnh chinh phu và những người khuê phụ luôn có được một chỗ trong
các vấn đề mà các tác giả quan tâm, khai thác. Thông thường, đó là hình ảnh của
những con người đang chịu chia cắt bởi hoàn cảnh, gợi nên nỗi thương cảm của
người đọc:
- “Kinh hồi thú phụ Tương Thành mộng,
Hoán khởi chinh phu Ngụy Khuyết tình”
(Khua tỉnh giấc mộng Tương Thành của người thú phụ,
Gợi dậy mối tình Ngụy Khuyết của kẻ chinh phu)
(Thu dạ châm thanh - Nguyễn Khuyến)
- “Thiên biên chinh khách khuê trung phụ,
Hà xứ tương tư bất đoạn hồn!”
(Người viễn tái, kẻ cô phòng,
Tương tư ai chẳng não lòng như ai)
(Trệ vũ trung dạ cảm tác - Cao Bá Quát)
- “Tự quân chi xuất hỹ,
Dạ dạ thủ không sàng”
(Từ ngày anh ra đi,
Đêm đêm em giữ chiếc giường không)
(Tự quân chi xuất hỹ - Cao Bá Quát)
Các tác giả phần lớn sử dụng những hình ảnh mang tính ước lệ, tượng trưng
để miêu tả người phụ nữ. Đôi khi không hề xuất hiện một danh xưng cụ thể, một
con người cụ thể trong tác phẩm nhưng dáng dấp của người phụ nữ vẫn rất rõ nét,
điều này là do tác giả đã khéo léo đưa những hình ảnh gắn liền với người phụ nữ
vào đóng vai trò thay thế hoặc sử dụng những từ ngữ mang tính chất gợi tả. Người
phụ nữ ở các tác phẩm này có thể chỉ hiện lên trong trí nhớ, trong tưởng tượng của
các tác giả. Dù xuất hiện ở trạng thái nào, những hình ảnh gắn với những nhân vật
nữ vẫn hoa mỹ:
- “Chinh trang trịnh trọng tiền lâm biệt,
Tích ngọc liên hương khuê tứ thiết”
116
(Áo mũ lên đường, trịnh trọng trước giờ tiễn biệt,
Tiếc ngọc thương hương, buồn chia ly da diết)
(Hạ trung tiếp đáo khuê vi hung tấn ai cảm kỷ thực - Phan Huy Ích)
- “Độc lập sơn đầu đệ nhất phong,
Chu điêu phấn tạ vị thùy dung?”
(Một mình đứng trên đỉnh núi cao nhất,
Son phai, phấn nhạt, chẳng còn làm dáng với ai?)
(Vọng phu thạch - Cao Bá Quát)
- “Phạ kiến đào hoa xuân lãng khoát,
Nhị thiên minh nguyệt nhất chu hoàn”
(Ngại ngùng cho cánh hoa đào trên sóng xuân lai láng!
Mảnh trăng sáng chia đôi, một chiếc thuyền lênh đênh trở về)
(Tống nội tử Ngô Vũ Khanh nam quy - Nguyễn Thông)
- “Băng tác cơ phu, nguyệt tác thần,
Nhất ban kiều diệm huyễn nhiên chân”
(Da như băng tuyết, tinh thần như trăng sáng,
Riêng một vẻ yêu kiều, huyền ảo mà chân thực)
(Kính trung mỹ nhân - Nguyễn Hành)
- “Táng ngọc mai hương thiên cổ hận,,
Phiêu bồng đoạn ngạnh nhất sinh bần”
(Chôn ngọc vùi hương là mối hận thiên cổ,
Cỏ trời bèo dạt suối một đời nghèo nàn)
(Lữ quán mộng tiên thất - Ngô Thì Hoàng)
Phép so sánh ví von là một thủ pháp được dùng thường xuyên nhất để lột tả
ngoại hình và nội tâm người phụ nữ ở cả thơ chữ Hán và chữ Nôm. Cách biểu hiện
của hai bộ phận thơ này có những sự khác biệt nhất định. Trong thơ chữ Hán, ngoại
hình của người phụ nữ luôn được gắn với nguyệt, liễu, hoa… Dung mạo, dáng vẻ,
cử chỉ thanh thoát, thường được lột tả bằng những hình ảnh mang nặng khuôn phép
cổ xưa, gắn liền với các điển tích “trầm ngư lạc nhạn”, “tu hoa bế nguyệt”,
117
“nghiêng nước nghiêng thành”… phong vị thơ Đường luật Trung Hoa vẫn còn
phảng phất, chi phối ở nhiều mức độ:
- “Nhất chi nùng diễm há bồng doanh,
Xuân sắc yên nhiên động lục thành”
(Như cánh hoa thắm từ cõi tiên xuống,
Sắc đẹp uyển chuyển làm rung động cả sáu thành)
(Điếu La thành ca giả - Nguyễn Du)
- “Hồng trang yểm ái đào hoa diện”
(Áo hồng ánh lên mặt hoa đào)
(Long thành cầm giả ca - Nguyễn Du)
- “Thiếp niên nhị bát thời,
Doanh doanh chính tương ti (tự)”
([Nghĩ lại] khi thiếp tuổi đôi tám,
Cũng đầy đặn như trăng)
(Thập thất dạ thừa nguyệt, tẩu bút ký hữu nhân - Cao Bá Quát)
- “Nghi thị thiên tiên trích hạ trần,
Nữ công phụ tắc độc siêu quần”
(Ngờ là thiên tiên giáng phàm trần,
Tài nữ công, đạo làm vợ, riêng mình hơn hẳn mọi người)
(Vãn thi - Phạm Nguyễn Du)
Phẩm chất của nhân vật trong thơ chữ Hán thường gắn liền với các điển cố
Trung Hoa, được các tác giả so sánh với các nhân vật có thật được người đời ca
tụng. Với cách so sánh như thế, những nhân vật nữ vừa được khẳng định qua cái
nhìn chủ quan của tác giả, lại được nâng tầm lên ngang hàng với những con người,
với những giá trị tốt đẹp đã được thời gian - như một yếu tố khách quan - thừa nhận:
- “Đãn học yêu kiều hý phượng lân,
Miễn giai lão ổn sinh đồn khuyển”
(Mẹ ta chỉ học người đàn bà yêu kiều vui đùa phượng lân,
Chẳng học bà già đẻ loài chó lợn)
118
(Tư thân thuật hoài - Lê Anh Tuấn)
- “Nam bang khởi thiếu Lan hòa Ngọc,
Thiếu phó phu nhân thùy cảm đương?”
(Nước Nam há thiếu Hoa Mộc Lan, Lương Hồng Ngọc,
Phu nhân quan Thiếu phó, ai dám sánh?)
(Soạn thành “Trường giang chiến cổ diễn truyện” tặng Bùi phu nhân - Đào Tấn)
- “Tích nhật Tào Nga, kim nhật nương”
(Ngày xưa có Tào Nga, ngày nay là nàng)
(Đề Vũ nương miếu - Ngô Thì Ức)
Thơ Nôm chỉ thực sự nở rộ trong văn học từ nửa sau thế kỷ XVIII trở đi, thế
nên, những hình ảnh tượng trưng, công thức vẫn xuất hiện trong thơ Nôm thế kỷ
XVIII - XIX và tạo nên những dấu ấn nhất định. Tuy nhiên, càng về sau, hình ảnh
tượng trưng, công thức trong thơ trữ tình chữ Nôm càng giảm dần. Từ Quốc âm thi
tập của Nguyễn Trãi đến thơ Nôm Đường luật Hồ Xuân Hương là cả một chặng
đường dài với những thay đổi rõ nét về nhiều mặt trong đó nổi bật nhất là ở bình
diện ngôn từ và hình ảnh thơ.
Hình ảnh tượng trưng trong thơ Nôm thế kỷ XVIII - XIX vẫn mang phong
cách quý phái, sang trọng, ước lệ gợi liên tưởng đẹp về người phụ nữ, sử dụng ngữ
liệu của thơ chữ Hán nhưng dễ hiểu hơn và gần gũi với cuộc sống hơn:
- “Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch đào nguyên suối chửa thông”
(Thiếu nữ ngủ ngày - Hồ Xuân Hương)
- “Những là rầu rĩ là buồn bực,
Trăm vẻ đào hồng cũng dửng dưng”
(Giờ mùi - Trương Quỳnh Như)
Hình ảnh ước lệ ở bộ phận thơ Nôm không nhiều, các tác giả sáng tác thơ
Nôm do ý thức vận dụng ngôn ngữ dân tộc nên rất chừng mực trong việc lựa chọn
hình ảnh tượng trưng, công thức. Ở đây, các tác giả sử dụng những từ ngữ ước lệ
119
mang tính ẩn dụ (hoặc so sánh trực tiếp) tạo nên những sắc thái thẩm mỹ mới lạ
nhưng không quá xa rời cuộc sống, phù hợp với nhiều đối tượng độc giả khác nhau.
Nhân vật nữ trong thơ trữ tình thế kỷ XVIII - XIX nói chung, bộ phận thơ
chữ Hán nói riêng được lột tả qua cả ngoại hình và nội tâm bằng nhiều thủ pháp
nghệ thuật đặc sắc. Hình ảnh thơ trong các tác phẩm chữ Hán nhìn chung là các
hình ảnh mang tính tượng trưng, công thức theo quy chuẩn văn chương truyền
thống. Tuy chưa tạo được sự bứt phá, chưa thoát khỏi lối mòn được tạo lập từ nhiều
thế kỷ trước nhưng hình ảnh tượng trưng trong thơ trữ tình chữ Hán thời gian này
đáng được ghi nhận với việc tạo dựng được những hình ảnh thơ gắn liền với người
phụ nữ, góp phần xây dựng hình tượng người phụ nữ trong văn học.
3.2.2. Các hình ảnh đời thường gần gũi, dung dị
Theo quy chuẩn của Nho giáo, những vấn đề nghiêm túc, trọng đại đều được
viết bằng chữ Hán. Cụ thể là trong những thế kỷ trước (X - XVII), do những vấn đề
được đề cập trong thơ trữ tình đều có màu sắc của chính trị, của đạo đức, của tư
tưởng Nho gia nên hầu hết các tác giả đều sáng tác bằng thơ chữ Hán. Vẫn có
những sáng tác bằng chữ Nôm (Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Bạch vân quốc
ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm…) nhưng những tác phẩm chữ Nôm thời gian
ấy thường mang tính chất giải trí, được dùng để đề cập đến những vấn đề đời
thường, những sự kiện thường nhật trong phạm vi cá nhân và không được đánh giá
cao (không được xem như văn chương quy phạm chính thống).
Bộ phận thơ chữ Nôm ra đời do yêu cầu của thời đại, đặc biệt bùng nổ vào
nửa sau thế kỷ XVIII với phát súng khơi mào của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Các nhà
trí thức trung đại quan niệm “Văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí” và thường sử dụng
thơ chữ Hán để đề cao những vấn đề mang tính nghiêm túc ấy. Thơ chữ Nôm bắt
đầu từ Nguyễn Trãi vốn được mặc định để khai thác những vấn đề trong phạm vi cá
nhân, đời sống thông thường. “Đề tài của văn học chữ Nôm cũng rộng như văn học
chữ Hán nhưng tính chất phản ánh và sự miêu tả hiện thực của văn học chữ Nôm
thì bình dị, mộc mạc, chân chất, gần đời sống bình thường hơn. Phần có giá trị cao
của văn học chữ Nôm là tinh thần nhân đạo chủ nghĩa” [33, tr.27]. Chính do những
120
mục đích sử dụng khác nhau nên bộ phận thơ chữ Nôm đặc biệt có ưu thế trong việc
xây dựng nên những hình ảnh mới lạ chưa từng thấy trong lịch sử văn chương trước
đó. Những hình ảnh gần gũi, đời thường, thậm chí tục tĩu được cho là không có chất
thơ, không phù hợp với thơ đã được các nhà thơ sử dụng tài tình để tạo nên dấu ấn
cá nhân cho riêng mình.
Vào thế kỷ XVIII, thơ Nôm ví như mảnh đất màu mỡ chưa được khai phá,
chưa được các tác giả chú ý đào xới. Thơ Nôm trữ tình từ nửa đầu thế kỷ XVIII trở
về trước còn mang nhiều nét tương đồng trong cách sử dụng hình ảnh của thơ chữ
Hán, bắt đầu từ nửa sau thế kỷ XVIII đã thực sự tạo được một bước đột phá, một
bước đi dài so với cả tiến trình văn học trung đại Việt Nam. Nhắc đến thơ Nôm,
không thể không kể đến “Bà chúa thơ nôm” Hồ Xuân Hương với những đóng góp
không nhỏ làm phong phú vốn từ ngữ, hình ảnh thơ theo hướng mở rộng phạm vi
gần gũi với cuộc sống thực. Thơ bà sử dụng toàn những hình ảnh bình dị, bé nhỏ,
mộc mạc nhất gắn với không khí làng quê Việt Nam để thể hiện nhiều vấn đề cũng
mới lạ chưa từng thấy trong văn học:
- “Thân em như quả mít trên cây,
Da nó sần sùi múi nó dầy”
(Quả mít)
- “Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi
Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi”
(Ốc nhồi)
- “Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương mới quệt rồi”
(Mời trầu)
- “Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non”
(Bánh trôi)
Những hình ảnh ấy tuy đều mang tính biểu trưng hai mặt, được nhà thơ sử
dụng để nêu lên thân phận phụ nữ nhưng tính mới mẻ của chúng thì rõ ràng không
121
thể phủ nhận. Thơ Nôm thế kỷ XV của Nguyễn Trãi chỉ đề cập đến “rau muống”,
“con trâu”, “con lợn”... đến Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy đã có sự xuất hiện của người
phụ nữ nhiều hơn nhưng hình ảnh chưa thật sự có tính đột phá. Hồ Xuân Hương đã
trở thành người đi tiên phong trong việc sử dụng hình ảnh vừa gần gũi thân thuộc
với cuộc sống nhưng lại chưa từng xuất hiện trong văn chương. Những hình ảnh
được sử dụng vừa có nghĩa đen đúng như văn bản, vừa mang nghĩa hàm ẩn, khơi
gợi nhiều vấn đề về số phận, thân phận người phụ nữ vốn rất nhức nhối, ám ảnh
trong thơ nữ sĩ. Sau bước đi tiên phong thể nghiệm của Hồ Xuân Hương, thế kỷ
XIX thực sự đánh dấu sự bùng nổ với một số lượng thơ Nôm lớn nhất trong suốt
một chặng đường văn học nước nhà (thế kỷ X - XIX), Nguyễn Công Trứ, Nguyễn
Khuyến và Trần Tế Xương là những gương mặt tiêu biểu tiếp nối việc đưa hình ảnh
thật, gần gũi với cuộc sống vào thơ, phong cách sáng tác của họ nhờ vậy mà trở nên
khác biệt và nổi bật hơn hẳn những tác giả cùng thời.
Nhiều hình ảnh thể hiện bức tranh sinh hoạt đời thường cũng được các tác
giả lưu ý, chung tay khắc họa khung cảnh ấy thêm đầy đủ, sinh động. Đôi khi, các
tác giả đưa cả cái nhìn cá nhân trước thời đại vào những hình ảnh ẩn dụ đầy ngụ ý,
tạo ra những câu thơ nhiều tầng nghĩa:
- “Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
(Thương vợ - Trần Tế Xương)
- “Chị em cùng sắm sửa lo toan,
Muốn mua chịu, sợ nhà hàng lại lạ”
(Tết cô đầu - Trần Tế Xương)
- “Vả chàng vẫn lăng nhăng túng kiết,
Cuộc sinh nhai chèo hát qua ngày”
(Lời vợ anh phường chèo - Nguyễn Khuyến)
- “Bực gì bực bằng gái phòng không?
Tơ tưởng vì chưng một tấm chồng”
(Muốn lấy chồng - Nguyễn Khuyến)
122
Không chỉ sử dụng những hình ảnh thân thuộc gần gũi, thơ Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương còn độc đáo với cách sử dụng từ ngữ, những
hình ảnh mang yếu tố tục hoặc những tiếng chửi không e dè đi kèm với bút pháp hết
sức độc đáo. Những hình ảnh mang tính gợi liên tưởng đến cuộc sống dân dã, đến
những sự kiện thường nhật, đến cuộc sống thực và cách cảm của chính các tác giả:
- “Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó,
Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh!”
(Tự cười mình - Trần Tế Xương)
- “Ở góa thế gian nào mấy mụ?,
Đi ve thiên hạ thiếu chi thầy?”
(Thầy đồ ve gái góa - Nguyễn Khuyến)
- “Mới ngày nào chị mua muối cùng tôi,
Ngoảnh mặt lại hàng vôi nay đã bán”
(Tết cô đầu - Trần Tế Xương)
Một nội dung ít thấy trong các tác phẩm thơ chữ Hán là vấn đề tha hóa đạo
đức của một bộ phận phụ nữ được các tác giả lưu ý, phản ánh trần trụi. Chúng tôi
chỉ xét các tác phẩm này ở bình diện nghệ thuật bởi đây chỉ là thái độ của các tác
giả về một vài trường hợp bị cả xã hội thời ấy coi thường, một số trường hợp suy
thoái, xuống cấp trầm trọng về tư tưởng, phẩm cách. Tuyệt đối không thể gộp chung
nhóm đối tượng này với những mảnh ghép làm nên hình tượng người phụ nữ trong
văn học Việt Nam trung đại nói chung. Vấn đề này phải xét trong cả mối tương
quan thời đại, cả tính khách quan và chủ quan mới có thể lý giải một cách rõ ràng.
Có thể thấy, các tác giả rất tôn trọng những người phụ nữ với phẩm chất cao quý tốt
đẹp, nhưng cũng rất thẳng thắn, gay gắt vạch tên chỉ tội những người làm ảnh
hưởng xấu đến cách nhìn của cả thời đại về người phụ nữ:
- “Nếu những như ai thì đĩ mốc,
Đĩ mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc,
Khá khen thay làm đĩ có tông!”
(Đĩ cầu Nôm - Nguyễn Khuyến)
123
- “Ba vuông phất phới cờ bay dọc,
Một bức tung hoành váy xắn ngang”
(Lấy tây - Nguyễn Khuyến)
- “Em giận thân em chửa có chồng,
Ngày năm bảy mối, tối nằm không”
(Phòng không - Trần Tế Xương)
- “Mình tựa vào cây, cây chó ỉa,
Chân thò xuống giếng, giếng ai ăn”
(Gái góa nhà giàu - Trần Tế Xương)
- “Chép miệng bà nuôi to cái dại,
Phờ râu ông rể ẵm con so!”
(Mẹ vợ với chàng rể - Trần Tế Xương)
Thái độ của các tác giả đã thể hiện rất rõ ràng qua những câu thơ sâu cay
mang tính chất giễu cợt, nhạo báng. Nhưng nếu bỏ qua nội dung ấy, những hình ảnh
thơ được nhắc đến ở đây đều rất chân thực, rất độc đáo và lạ lẫm (thể hiện một đề
tài tương đối khác). Nhiều câu thơ khiến người đọc phải giật mình bởi thái độ thẳng
tuột mà các tác giả thể hiện, hình ảnh được đặt vào đúng chỗ đã góp phần nhấn
mạnh nội dung tư tưởng thơ, nâng cao giá trị hiện thực cho tác phẩm.
Đây đều là những hình ảnh rất mới, rất sinh động trong thơ trung đại, việc
đưa những hình ảnh dung dị (đôi khi trần trụi) của các tác giả này đã góp phần làm
phong phú nội dung thơ trữ tình, đồng thời tạo nên điểm nhấn đặc sắc về nghệ thuật.
Chính những hình ảnh đời thường kết hợp với lối gieo vần lạ, mang màu sắc của
văn học dân gian này đã gián tiếp cổ vũ cho phong trào thơ mới phát triển trong văn
học hiện đại và khẳng định được cái riêng của văn học Việt Nam. Đến đây, văn học
Việt Nam trung đại đã gần như thoát được ảnh hưởng cái bóng to lớn của văn học
Trung Hoa.
3.3. Ngôn từ
M. Gorki cho rằng “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”, là yếu tố đầu
tiên cấu thành một chỉnh thể nghệ thuật, ngôn từ của tác phẩm văn học là một hiện
124
tượng nghệ thuật. Ngôn từ khi được các tác giả đưa vào tác phẩm đều đã được chọn
lọc, trau chuốt, gọt giũa kỹ lưỡng… đặc biệt, ngôn từ nghệ thuật phải mang đến cho
người tiếp nhận những cảm xúc thẩm mỹ nhất định. Văn học ở mỗi thời kỳ lại có sự
thay đổi theo hướng vận động và phát triển cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử xã
hội. Ở những thế kỷ bản lề của sự chuyển giao giữa thời kỳ trung đại và hiện đại,
văn học có nhiều bước tiến lớn mang tính chất quyết định cho sự thay đổi diện mạo
của cả một thời kỳ. Ngôn từ được sử dụng trong thơ trữ tình thế kỷ XVIII - XIX
nhìn chung khá đặc sắc với sự tiếp nối thành tựu thơ chữ Hán, sự phát triển và gặt
hái nhiều thành tựu vang dội của thơ Nôm.
Do những quy định của thời đại, đặc trưng về ngôn từ của hai bộ phận thơ
chữ Hán và chữ Nôm có những khác biệt cơ bản. Trần Đình Sử cho rằng: “Trung
tâm của văn học trung đại là là nghệ thuật từ ngữ, là văn chương của ngôn từ” [32,
tr.92]. Với yêu cầu hàm súc, cô đọng mà thơ Đường luật thường ngắn, đặc điểm
ngắn tất nhiên có những ưu thế nhất định như đòi hỏi tác giả phải đầu tư nhiều về kỹ
thuật, chọn lọc từ ngữ kỹ lưỡng và tạo nên hiệu quả thẩm mĩ cao… nhưng ngược
lại, vì yêu cầu ngắn nên các tác giả gặp nhiều khó khăn trong việc thể hiện nội dung
tác phẩm, bởi một khi đã có cảm xúc thì việc giới hạn số lượng câu chữ sẽ trở thành
một rào cản bó hẹp nội dung vào khuôn khổ hình thức.
Hình thức thể hiện nội dung và hai yếu tố hình thức - nội dung sẽ linh hoạt
thay đổi để phù hợp với nhau, tạo ra một chỉnh thể nghệ thuật đặc sắc. Dễ nhận thấy
là cùng một hình thức thơ (thơ Đường luật) nhưng sắc thái trữ tình của thơ Đường
luật thời Lý - Trần rất khác nếu đem so sánh với thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, sự khác biệt càng rõ nét hơn khi so sánh với thơ Nguyễn Du, Cao Bá Quát.
Khác biệt này chủ yếu là ở nội dung (thơ trữ tình mang màu sắc tôn giáo và thơ trữ
tình thế tục). Thơ trữ tình thời Lý - Trần chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo tất
nhiên sẽ không giống với thơ trữ tình thế tục với ảnh hưởng của Nho giáo. Với
nhiều tác giả sáng tác ở cả hai bộ phận thơ, thơ chữ Hán và chữ Nôm cũng thường
có định hướng thẩm mỹ khác nhau (Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn
Khuyến…).
125
3.3.1. Chất bác học của ngôn từ
“Văn học là một hiện tượng xã hội. Cho nên quan niệm của xã hội về văn
học có ảnh hưởng lớn đến thực tiễn văn học: từ mục đích viết văn đến phạm vi đề
tài, hình thức thể loại, ngôn ngữ văn học…” [33, tr.28]. Văn học Việt Nam trung
đại đi suốt một chặng đường dài đồng hành cùng lịch sử dân tộc đã có những biến
đổi, thay đổi tùy thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan để tạo nên những
tác phẩm có giá trị cho từng giai đoạn nhất định. Thơ trữ tình Việt Nam trung đại
nói riêng, văn học trung đại Việt Nam nói chung thể hiện hết sức rõ nét tính chuẩn
mực, khuôn thước quy phạm của tư duy và những quan niệm thô cứng như “Văn dĩ
tải đao”, “Thi dĩ ngôn chí”, “Thuật nhi bất tác” và “nội dung dù có văn - sử - triết
bất phân thế nào thì trước sau vẫn đặt sự ưu tiên hàng đầu cho việc ca ngợi xã tắc
sơn hà, răn dạy đạo lý kẻ sĩ thì quân, thần, phụ, tử, người quân tử thì trung, hiếu.
tiết, nghĩa” [30, tr.466]… đến các thao tác nghệ thuật cũng mang đậm hơi hướng,
ảnh hưởng của văn chương Trung Hoa với lối sáng tác “cử tử, tập cổ, thù tạc, đề
vịnh với đầy điển tích điển cố, hình ảnh biểu tượng và ước lệ” [30, tr.466], thậm chí
mạch ngầm thi pháp cũng phổ biến những tác phẩm đề cập đến phong - hoa - tuyết -
nguyệt, tùng - trúc - cúc - mai, hay “cảm hoài”, “thuật hoài”… Những đặc điểm
nói trên tùy theo từng thời điểm mà có mức độ thể hiện đậm - nhạt khác nhau.
Theo quan niệm sáng tác xưa, “những gì nghiêm chỉnh, trọng đại đều phải
viết bằng chữ thánh hiền” [39, tr.31], thế nên, các tác phẩm văn chương chữ
Hán“đề tài phải phù hợp với tính chất cao quý. Phải là chuyện quốc gia đại sự, là
thế thái nhân tình, là thành tích lớn lao của vua này chúa nọ, là quan hệ vua tôi,
cha con, quan dân, là đạo lý làm người theo lý tưởng cao cả…, không thì cũng cảnh
núi sông hùng vĩ, chùa chiền u tịch, đêm trăng chiều gió, tài tử giai nhân…” [39,
tr.30], chữ Nôm chỉ được sử dụng để nói đến những gì thông thường trong phạm vi
cá nhân, mang tính chất bình dân. Thơ chữ Hán mang tính quy phạm cao, chọn lọc
ngôn ngữ kỹ lưỡng, phải đáp ứng yêu cầu thanh tao, cao quý và cũng thể hiện sự
uyên bác của người làm thơ. Thơ càng ngắn gọn, hàm súc và gợi mở thì càng được
đánh giá cao. Hình ảnh thơ cũng do vậy mà bị thu hẹp đáng kể, chịu ảnh hưởng từ
126
cách sử dụng hình ảnh, vận dụng điển cố Trung Hoa. Tính quy phạm chi phối nhiều
mặt của một tác phẩm văn học trung đại, trong đó, có khía cạnh ngôn từ.
Bộ phận văn học chữ Hán nói chung, thơ trữ tình chữ Hán nói riêng đặc
trưng với việc sử dụng ngôn từ bác học. “Nghệ thuật từ chương đã khiến ngôn ngữ
trung đại đậm chất trang trí. Dĩ nhiên, tính chất trang trí phải được hiểu như là một
nguyên tắc của thơ trung đại chứ không phải là sự màu mè, lòe loẹt về hình thức
thuần túy. Đây cũng là lí do khiến các thi nhân trung đại ưa chơi chữ, thích đăng
đối, trọng điển tích để tăng tính bác học” [12, tr.159]. Chất bác học thể hiện rõ nét
trong bộ phận văn học chữ Hán ở cách sử dụng điển cố và các từ ngữ ước lệ với tần
suất cao:
- “Cảm thuyết vong nhân hiền tự Mạnh,
Chỉ tàm Tề Vật đạt phi Chu”
(Dám nói rằng người đã khuất hiền thục như bà Mạnh
Chỉ thẹn mình chưa đạt tới hai chữ “Tề Vật” của Trang Chu)
(Thứ thất chi tang, Phạm Huy Khiêm dĩ thi khoan úy, y vận đáp chi
- Ngô Thì Sĩ)
- “Tạo hóa hà cừu tru thục thê,
Văn chương vô lực khởi tao khang”
(Tạo hóa hận chi mà giết người hiền thục,
Văn chương chẳng làm sống lại bạn tao khang)
(Sơ ngũ nhật, trực Đoan Ngọ tiết, tể sinh vi lễ nhân thành tam luật
- Phạm Nguyễn Du)
- “Túng nhiên cẩm tú tranh Tô Muội,
Bất vị quần thoa thác Tạ Ky”
(Thế nhưng nếu văn chương của nàng hay như Tô Muội,
Thì chẳng nên vì tác giả là con gái mà bỏ sót Tạ Cơ)
(Ký tài nữ Thụy Liên - Ninh Tốn)
- “Dương Châu kỵ hạc thành hư vọng,
Hối bất Trần khanh lạc quán viên”
127
(Cỡi hạc chơi cảnh thành Dương Châu, cái mộng phú quý
thần tiên đã thành chuyện hão,
Hối hận rằng chẳng làm như Trần Trọng Tử ở nhà cùng vợ
gánh nước tưới vườn rau còn vui thú hơn)
(Hoài nội - Trịnh Hoài Đức)
“Ngôn ngữ văn học trung đại là ngôn ngữ đậm chất ước lệ. Nó hướng tới
việc bộc lộ những vẻ đẹp cao nhã. Ngôn ngữ trang trọng, mực thước được coi là
“chuẩn” của văn học thời đại này. Màu sắc Hán và điển tích, điển cố rất đậm” [12,
tr.156]. Văn học trung đại được xem là một thời kỳ văn học cao nhã, tính cao nhã ấy
thể hiện ở nhiều khía cạnh, trong đó, nghệ thuật khắc họa hình ảnh người phụ nữ hết
sức đặc sắc, ấn tượng. Dù thể hiện người phụ nữ ở ngoại hình hay nội tâm, ở vào
hoàn cảnh cao sang hay khốn khó thì ngôn từ nghệ thuật vẫn đi theo cách lựa chọn
truyền thống, vẫn đảm bảo yêu cầu thẩm mỹ nhưng lại không xa rời nội dung:
- “Tang hải kỷ hồi kinh nhập mộng,
Quần thoa vô kế mạn tùy ba”
(Mấy hồi dâu bể nỗi kinh sợ vào cả trong giấc mộng,
Phận quần thoa đành theo kiếp bèo bọt lênh đênh)
(Cựu ca cơ - Phạm Đình Hổ)
- “Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ,
Đài triện trường minh nhất đoạn văn”
(Mưa thu như dòng lệ chảy không ngớt,
Lớp rêu như ghi lại một bài văn ca tụng nàng)
(Vọng phu thạch - Nguyễn Du)
- “Hồng trang yểm ái đào hoa diện,
Đà nhạn hám thái tối nghi nhân”
(Áo hồng ánh lên mặt hoa đào,
Má hừng rượu, vẻ ngây thơ, rất dễ thương)
(Long thành cầm giả ca - Nguyễn Du)
- “Mãn viện chính huy thường lệ ngạc,
128
Nhất chi tiên tạ mẫu đơn hoa”
(Đầy vườn hoa thường lệ đang rất tươi tốt,
Mà mẫu đơn kia đã rụng trước một nhành)
(Khốc tiên muội Kim Đài - Ngô Thì Điển)
Việc sử dụng điển cố trong tác phẩm đặc trưng cho tính chất bác học với
ngôn từ mực thước, trang trọng thường bắt gặp trong bộ phận văn học chữ Hán
nhưng vẫn có các tác phẩm chữ Nôm thể hiện khía cạnh này. Cụ thể là một vài tác
phẩm của bộ phận chữ Nôm đầu thế kỷ XVIII chứa đựng những hình ảnh tương
đồng với thơ chữ Hán. Có thể lý giải điều này là do ảnh hưởng của thời đại, khi nhà
nước phong kiến chưa thực sự khủng hoảng trầm trọng (giống như sự lựa chọn cho
tập thơ Nôm Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi khi viết về cuộc sống thường nhật dù
ngôn từ vẫn hết sức trau chuốt, tương đối khó hiểu). Các tác giả lựa chọn chữ Nôm
cho sáng tác của mình là bởi nội dung tác phẩm mang tính chất cá nhân, hướng đến
những người phụ nữ trong gia đình:
- “Tần tảo bấy nay vẹn đạo thường,
Tiếng khen đã ngợi giá Nhâm Khương”
(Ban chánh cung - Trịnh Doanh)
- “Cắn tay quặn nhớ tin còn vắng,
Nương cửa ngừng trông, bóng chửa gần”
(Tuổi tác - Nguyễn Thiếp)
Các tác giả đưa điển cố vào một cách có ý thức và xem đó như một phương
tiện nghệ thuật để chuyển tải cảm xúc, một cách so sánh ước lệ để thể hiện hết
những suy nghĩ chất chứa mà cách diễn tả thông thường không thể diễn đạt hết hoặc
không thể đem lại hiệu quả tương tự. Những tác phẩm như thế thường có tần suất
xuất hiện điển cố, ước lệ không thua kém gì thơ chữ Hán. Tuy nhiên, thơ chữ Nôm
nửa đầu thế kỷ XVIII không thực sự nhiều và cách sử dụng ngôn từ theo quy chuẩn
này cũng dần được thay thế bằng ngôn từ bình dân ở thơ Nôm từ nửa sau thế kỷ
XVIII trở đi. Đây là sự thay thế tất yếu mang tính thời đại.
129
Văn học trung đại Việt Nam từ khi ra đời đến giai đoạn chuyển giao cận hiện
đại vẫn luôn được các nhà phê bình, nghiên cứu đánh giá là thời kỳ văn học trang
nhã, uyên bác. Điều đó trước hết chính là do cách sử dụng, chọn lọc ngôn ngữ của
các tác giả trung đại. Ở bộ phận văn học chữ Hán, các tác giả đã vận dụng một cách
khéo léo điển cố và các từ ngữ ước lệ để lột tả nhiều khía cạnh xung quanh những
nhân vật nữ. Qua đó, chứng minh được rằng chất bác học trong văn học truyền
thống vẫn tồn tại một cách đậm nét dù viết về những đối tượng nằm ngoài khuôn
phép, quy chuẩn Nho giáo.
3.3.2. Chất bình dân của ngôn từ
Văn học Việt Nam trung đại chứa đựng tính dân tộc và tính nhân dân đáng tự
hào ở nhiều mặt, đỉnh cao là sự phát triển vượt trội của bộ phận văn học Nôm từ
cuối thế kỷ XVIII. Văn học Nôm phát triển đồng nghĩa với sự tôn vinh ngôn ngữ
dân tộc, thể hiện bản sắc dân tộc trong hoàn cảnh xã hội rối ren lúc bấy giờ. Việc
đưa ngôn từ bình dân vào văn học “cho thấy sự vận động hai chiều của thơ trung
đại: quá trình tạo dựng tính quy phạm và quá trình phá vỡ tính quy phạm” [12,
tr.160]. Nếu tính chất bác học trong cách sử dụng ngôn từ ở bộ phận văn học chữ
Hán là biểu hiện của tính quy phạm thì chất bình dân trong văn học Nôm là biểu
hiện của quá trình phá vỡ tính quy phạm.
Ngôn từ văn học dân gian mà chúng tôi muốn nói đến ở đây là ngôn từ bình
dân, dung dị mang đậm phong cách đời thường của cuộc sống dân dã. Đây là kiểu
ngôn từ được sử dụng nhiều bắt đầu từ Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương trở về
sau với nhiều cách thể nghiệm táo bạo và mới mẻ. Đáng chú ý có một bộ phận thơ
mang âm hưởng của văn học dân gian, phát triển ý từ ca dao hoặc trực tiếp đưa ca
dao vào tác phẩm để tạo ra những ấn tượng thẩm mỹ, những cách tân nghệ thuật
độc đáo. Ngôn từ văn học dân gian thường được các tác giả sử dụng cho những tác
phẩm sáng tác bằng chữ Nôm bởi ngôn từ dân gian chỉ thực sự phù hợp với những
nội dung gắn liền với cuộc sống thường nhật, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày
của quần chúng.
130
Trước hết, nói đến ngôn từ văn học dân gian là nói đến cách chọn lọc từ ngữ
vừa mang tính thẩm mỹ, phù hợp với đại bộ phận quần chúng lại vừa thể hiện được
nội dung mà tác giả hướng đến. Đại bộ phận các nhà thơ sáng tác thơ Nôm đã có ý
thức sử dụng từ ngữ gần gũi với cuộc sống, ít điển tích điển cố, ít hoa mỹ ước lệ, dễ
hiểu dễ nhớ… Các nhà thơ đã dụng công khai thác tinh hoa của văn học dân gian,
đưa toàn bộ hoặc thể hiện nội dung của ca dao dưới một hình thức khác. Ở đây,
không thể không nhắc đến những bước đi tiên phong của Trần Tế Xương, Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Công Trứ và một vài thể nghiệm trong thơ Nguyễn Khuyến:
- “Bắc cầu, câu cũ không hờ hững,
Cầm kính, tình xưa vẫn đắng cay”
(Thầy đồ ve gái góa - Nguyễn Khuyến)
- “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”
(Bánh trôi nước - Hồ Xuân Hương)
- “Thân em như quả mít trên cây”
(Quả mít - Hồ Xuân Hương)
- “Mới biết có chồng như có cánh,
Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông”
(Muốn lấy chồng - Nguyễn Khuyến)
Kết hợp với đó là cách sử dụng những hình ảnh gần gũi với đề tài được nói
đến như “tép tôm”, “cỏ hôi”, “tiếng quyên khắc khoải”… Điều này cũng đồng thời
giải thích cho sự bùng nổ của thơ Nôm trong giai đoạn hạ kỳ trung đại khi mà các
tác giả đã chú trọng đưa những vấn đề đời thường vào văn học. Trong những vấn đề
được các tác giả giai đoạn hạ kỳ trung đại quan tâm đến có vấn đề số phận của
người phụ nữ - đối tượng chịu nhiều bất công, thiệt thòi - trong xã hội cũ. Đối tượng
này trở thành một đề tài có sức lan tỏa lớn đặc biệt vào thế kỷ XVIII - XIX với một
số lượng lớn các tác giả, tác phẩm đề cập đến.
Điểm đặc biệt rất đáng ghi nhận ở bộ phận thơ Nôm là các tác giả hạn chế
đến mức tối đa những điển cố từ Trung Hoa mà sử dụng những thi liệu dân gian,
131
thành ngữ tục ngữ dân gian hoặc những câu nói của người xưa để làm điểm nhấn
cho tác phẩm, cho phong cách tác giả:
- “Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ,
Rượu chè trai gái đủ tam khoanh”
(Tự cười mình - Trần Tế Xương)
- “Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ,
Đem chuyện trăm năm giở lại bàn”
(Quan tại gia - Trần Tế Xương)
- “Thương cái cò lặn lội bờ sông,
Tiếng nỉ non gánh gạo đưa chồng”
(Gánh gạo đưa chồng - Nguyễn Công Trứ)
- “Bắc cầu, câu cũ không hờ hững,
Cầm kính, tình xưa vẫn đắng cay”
(Thấy đồ ve gái góa - Nguyễn Khuyến)
- “Cố đấm ăn xôi xôi lại hẩm,
Cầm bằng làm mướn mướn không công”
(Lấy chồng chung - Hồ Xuân Hương)
Nhu cầu giải phóng cảm xúc cá nhân được Hồ Xuân Hương thử nghiệm
trong thơ Nôm là một bước đi tiên phong mạnh dạn cho một thời đại thơ Nôm rực
rỡ thành tựu vào hai thế kỷ XVIII, XIX. Trước đó, Nguyễn Trãi tuy đã có hẳn một
tập thơ Nôm viết về những sinh hoạt đời thường với những hình ảnh mang đậm tính
chất dân dã (“rau muống”, “con lợn”, “con trâu”…) nhưng vẫn còn hơi hướng của
văn chương bác học bởi lời thơ trau chuốt, ngôn ngữ thơ vẫn còn nhiều chỗ khó
hiểu. Đến thời Hồ Xuân Hương và những tác giả thế kỷ XIX (Trần Tế Xương,
Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu…) thì cái vỏ ngôn ngữ trang trọng đã hoàn
toàn được cởi bỏ, các tác giả sử dụng nhiều ngữ liệu từ dân gian và bớt hẳn điển cố:
- “Quyết chí phen này trang trải sạch,
Cho đời rõ mặt cái thằng tao”
(Than nợ - Nguyễn Khuyến)
132
- “Ở phố hàng Nâu có phỗng sành,
Mắt thời thao láo, mặt thời xanh”
(Tự cười mình - Trần Tế Xương)
- “Tiền bạc phó cho con mụ kiếm,
Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi”
(Tự cười mình - Trần Tế Xương)
“Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó,
Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh!”
(Tự cười mình - Trần Tế Xương)
Một đặc điểm khác của ngôn từ văn học dân gian là cách các tác giả sử dụng
các biện pháp nói lái, chơi chữ thường được xem như những thủ pháp nghệ thuật
điển hình, dễ bắt gặp ngay cả trong những đoạn đối đáp hàng ngày. Thủ pháp nghệ
thuật này được sử dụng rất phổ biến trong thơ Hồ Xuân Hương, Trần Tế Xương.
Ngoài việc tận dụng sự phong phú của ngôn ngữ để làm nên tính nghệ thuật cho tác
phẩm, các tác giả còn sử dụng nói lái như một công cụ hữu hiệu che giấu (phần nào
đó làm cho câu “tục” ấy bớt tục, bớt thô thiển khi thể hiện nó ra thành câu chữ trên
trang giấy) cho cái “tục” trong thơ:
- “Đương cơn nắng cực chửa mưa hè,
Rủ chị em ra tát nước khe”
(Tát nước - Hồ Xuân Hương)
- “Thôi thôi xin kiếu cô từ đấy,
Chiều đãi thì tôi cũng ... váo đèo!”
(Không chiều đãi - Trần Tế Xương)
- “Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,
Phận liễu sao đà nảy nét ngang”
(Không chồng mà chửa - Hồ Xuân Hương)
- “Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì,
Thương chồng nên khóc tỉ tì ti”
(Bỡn bà lang khóc chồng - Hồ Xuân Hương)
133
Khai thác tính đa nghĩa của ngôn ngữ văn chương, nhiều nhà thơ đã vận
dụng xuất sắc để tạo thành một nét độc đáo riêng cho tác phẩm của mình. Đôi khi,
cái mộc mạc của ngôn từ dân gian cũng gợi ra nhiều “ngụ ý” trần trụi, nhưng nét
độc đáo ở đây chính là những tác phẩm ấy dù xét ở nghĩa đen hay nghĩa hàm ẩn thì
cũng đều hợp lý và hoàn chỉnh. Chính sự vận dụng ngôn ngữ một cách uyển chuyển
ấy đã bước đầu làm nên phong cách sáng tác của nhiều tác giả:
- “Một lỗ sâu xâu mấy cũng vừa,
Duyên em dính dáng tự ngàn xưa”
(Cái quạt - Hồ Xuân Hương)
- “Gái già này sức vóc được bao?
Muốn sao, chiều chẳng được sao”
(Lời gái góa - Nguyễn Khuyến)
- “Buôn trứng những toan kề cửa lỗ,
Sợ còng chẳng dám động chân lông”
(Vịnh cô Cáy Chợ Rồng - Trần Tế Xương)
Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương... là những tác giả sử
dụng ngôn từ dân gian hết sức phong phú, nhuần nhuyễn tạo được dấu ấn đậm nét.
Ngôn từ bình dân nhưng lại mang sức gợi cao, thể hiện đa dạng nhiều mặt cuộc
sống. Một câu thơ như thế thường có cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Cái mà tác giả
muốn nói đến thực sự thường bị ẩn vào trong (vì nhiều lý do khách quan và chủ
quan) nhưng nội dung ấy vẫn tồn tại ngay trong cách sử dụng ngôn từ lắt léo đầy
ngụ ý của tác giả. Ý nghĩa đả kích, châm biếm phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc
ấy:
- “Vua chèo còn chẳng ra gì,
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề”
(Lời vợ anh phường chèo - Nguyễn Khuyến)
- “Sống lâu, lâu để làm gì nhỉ?
Lâu để mà xem cuộc chuyển vần!”
(Tự trào - Trần Tế Xương)
134
Văn chương trung đại vốn rất đặc trưng bởi lối nói bóng bẩy, hàm súc, đầy
ngụ ý. Bộ phận văn học chữ Hán không thiếu những bài tỏ ý châm chích, đả kích,
bài xích một hoặc một bộ phận người, một vấn đề bức bối nào đó trong xã hội
nhưng cách biểu hiện tương đối kín đáo, còn phần nào dè dặt. Ngược lại, văn học
Nôm, các tác giả bộc lộ thái độ rất rõ ràng, ngôn từ đôi khi sắc nhọn, gai góc để bày
tỏ quan điểm trước vấn đề mình quan tâm:
- “Cả nể cho nên hóa dở dang,
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng?”
(Không chồng mà chửa - Hồ Xuân Hương)
- “Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thây,
Khôn kia dễ bán dại này!”
(Mẹ Mốc - Nguyễn Khuyến)
“Gắn với tư tưởng tự do là sự xuất hiện của những cá tính ngông. Ở đây,
ngông cần được hiểu như một phạm trù văn hóa. Ngông là đặc điểm quan trọng của
lớp nhà nho tài tử. Ngông đi liền với thái độ cậy tài, khoe tài, ý thức về tài năng và
bản lĩnh của mình” [12, tr.162], đến thế kỷ XIX, trước tình hình xã hội rối ren,
nhiều tác giả thậm chí đã bất mãn với thời cuộc đến mức mỉa mai và chửi cả cái xã
hội mình đang sống:
- “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”
(Lấy chồng chung - Hồ Xuân Hương)
- “Con người như thế mà như thế,
Như thế thì ra nghĩ cũng xằng”
(Tự trào - Trần Tế Xương)
- “Có tiền việc ấy mà xong nhỉ?
Đời trước lắm quan cũng thế a?”
(Kiều bán mình - Nguyễn Khuyến)
Thơ trữ tình giai đoạn hạ kỳ trung đại mà đặc biệt từ nửa cuối thế kỷ XVIII
đến hết thế kỷ XIX phổ biến với kiểu tác phẩm “ghi nhận điều trông thấy”, tức là
135
thể hiện những điều mình bắt gặp ở tất cả mọi lĩnh vực vào tác phẩm văn chương,
kể cả những đề tài đời thường bình dị gắn với những con người bình dân lao động
hay những con người nhỏ bé vô danh. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho hình
tượng người phụ nữ phát triển mạnh mẽ trong các tác phẩm văn học nói chung, thơ
trữ tình nói riêng. Nghệ thuật thơ trung đại ở cả hai bộ phận chữ Hán và chữ Nôm
đều rất đặc sắc, mỗi bộ phận lại có những đặc trưng riêng phù hợp với nội dung
được thể hiện. Thơ trữ tình giai đoạn hạ kỳ trung đại kế thừa thành tựu của giai
đoạn trước, đồng thời, tạo được những chuyển biến đáng kể khi mở rộng nội dung ở
khía cạnh phản ánh hiện thực cuộc sống và phát triển hình thức thơ…
Như vậy, hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam thế kỷ XVIII
- XIX đã được xây dựng một cách chi tiết từng mảnh nhỏ xứng đáng có được một vị
trí, một chỗ đứng trong hệ thống hình tượng nhân vật văn học. Nội dung và nghệ
thuật là hai mặt gắn bó mật thiết, không tách rời nhau. Nếu các tác giả thiếu đầu tư
ở một mặt nào thì cũng không thể tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật hoàn chỉnh,
được người đời sau công nhận và cũng không thể tạo nên một sức lan tỏa mang tính
thời đại như hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình thế kỷ XVIII - XIX.
136
KẾT LUẬN
Văn học là bức tranh phản ánh một cách chân thực và sinh những biến động
của lịch sử và xã hội. Kể từ khi nền văn học viết chính thức ra đời vào thế kỷ X, thơ
trữ tình đã luôn đồng hành cùng sự phát triển của văn học dân tộc. Sự trưởng thành
theo thời gian và vị thế của thơ trữ tình được khẳng định khi trở thành một bộ phận
không thể thiếu và không thể không nhắc đến khi đề cập về văn học Việt Nam trung
đại. Thơ trữ tình trung đại phát triển một cách phong phú và đa dạng về cả nội dung
và hình thức. Số lượng lẫn chất lượng thơ được ghi nhận ở cả hai giai đoạn thượng
kỳ trung đại và hạ kỳ trung đại với lực lượng sáng tác cực kỳ hùng hậu, hầu hết các
tác giả ở giai đoạn trung đại đều có các sáng tác thơ trữ tình. Sự phát triển của bộ
phận văn học chữ Nôm là một bước đi tất yếu của thời đại, đánh dấu sự lên ngôi của
những giá trị truyền thống, của tinh thần dân tộc.
Mục đích “giáo hóa” đi dọc theo con đường phát triển văn chương trung đại
Việt Nam, tùy vào những thời điểm khác nhau mà tính chất này cũng biến đổi cho
phù hợp. Trong tác phẩm Văn học Việt Nam trung đại từ thế kỷ X đến cuối thế kỷ
XIX, các tác giả khi xác định những đặc điểm lớn của văn học trung đại có viết:
“Sáng tác có lúc là để tiêu khiển, thù tạc, nhưng mục đích chính sách chung
của nhà nước và mục đích của các vị thánh hiền là giáo hóa đời người. Còn giáo
hóa theo đạo lí nào lại là một chuyện nữa. Đúng như Phan Kế Bính nói: “Văn
chương chẳng những là một nghề chơi thanh nhã để di dưỡng tính tình mà thôi, mà
có thể cảm động được lòng người, di dịch được phong tục, chuyển biến được cuộc
đời, cái công hiệu về đường giáo hóa lại càng to lớn lắm”. Hai chữ “giáo hóa” đọc
đâu cũng thấy trong văn chương trung đại” [39, tr.22].
Mục đích giáo hóa ấy tỏa một cái bóng to lớn bao trùm nhiều thế kỷ văn học
nước nhà. Đến tận khi văn học Nôm phát triển rực rỡ từ nửa cuối thế kỷ XIX với
nhiều tác giả nổi bật, quan niệm sáng tác theo kiểu “ghi nhận điều trông thấy” kéo
văn học tiến gần thêm một bước đến đời sống thực thì vấn đề giáo hóa được đặt ra
trong văn chương mới thay đổi cách thể hiện theo hướng kín đáo hơn phần nào.
137
Ưu thế không thể phủ nhận của thơ Nôm từ nửa sau thế kỷ XVIII đã góp
phần không nhỏ đưa những vấn đề đời thường, những con người bình dân, những
tình cảm bình dị, gần gũi, mộc mạc vào trong thơ. Đây là điều mà bộ phận văn học
chữ Hán chưa thực sự quan tâm đúng mức (dẫu có chạm đến nhưng chưa đào sâu).
Với sự hậu thuẫn của thời đại, những nhân vật nữ xuất hiện trong thơ ngày một
nhiều hơn và rõ nét hơn, các tác gia - tác giả cũng dần có ý thức hơn về cách thể
hiện nhân vật phụ nữ trong tác phẩm. Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình
Việt Nam trung đại đã dần tìm được một chỗ đứng, khẳng định được vai trò trong
cả một chặng đường dài văn học dân tộc.
Một điểm đáng ghi nhận khác là sự định hình phong cách tác giả gắn liền với
hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình thế kỷ XVIII - XIX. Giọng điệu và cái
tôi cá nhân đã bắt đầu hình thành từ các nội dung cơ bản ấy, những dấu ấn đầu tiên
khi các nhà thơ có ý thức đưa tình cảm cá nhân vào văn chương. Đây là một bước
tiến lớn so với giai đoạn thượng kỳ trung đại bởi các tác giả của nền văn học truyền
thống luôn tìm cách giấu đi chính mình, hòa mình vào cái chung của cộng đồng.
Thơ trữ tình là một bộ phận quan trọng cấu thành tổng thể của nền văn học
trung đại Việt Nam rực rỡ thành tựu. Trải qua mỗi thời kỳ, thơ trữ tình cùng với
những thể loại văn học khác luôn luôn vận động và phát triển theo hướng phát triển
của lịch sử dân tộc, từng bước thoát ra khỏi tầm ảnh hưởng của văn chương Trung
Hoa, khẳng định bản sắc dân tộc đậm nét. Đặc biệt, văn học thế kỷ XVIII - XIX có
những bước đột phá mạnh mẽ toàn diện, cơi nới toàn diện nhiều mặt, khắc họa
thành công hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại Việt Nam. Những
chuyển biến rất đặc sắc ấy đánh dấu bước chuyển mình của văn học, văn học Việt
Nam thế kỷ XVIII - XIX nói chung, thơ trữ tình thế kỷ XVIII - XIX nói riêng đã
hoàn thành một cách xuất sắc vai trò cầu nối để văn học Việt Nam bước vào con
đường hiện đại hóa.
138
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (biên soạn) (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc
gia, Hà Nội.
2. Lê Bảo (tuyển chọn và biên soạn) (1998), Thơ văn Lý - Trần, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
3. Nguyễn Kim Châu (2000), Thơ tứ tuyệt trong văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến
thế kỷ XIX, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học sư phạm Tp. HCM, Tp.
HCM.
4. Nguyễn Huệ Chi (1992), Thi hào Nguyễn Khuyến đời và thơ, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
5. Hà Như Chi (1994), Việt Nam thi nhân giảng luận, Nxb Tổng hợp, Đồng Tháp.
6. Cao Hữu Công (2000), Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đường, Nxb Văn học, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Dân (1995), Những vấn đề lý luận của văn học so sánh, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
8. Xuân Diệu (2000), Ba thi hào dân tộc: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
9. Xuân Diệu (2001), Bình luận các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Trẻ, Tp.
HCM.
10. Ngô Viết Dinh (Tuyển chọn và biên tập) (1999), Đến với thơ Tú Xương, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
11. Trần Thanh Đạm (1978), Vấn đề giảng dạy tác phẩm theo loại thể, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
12. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà
Nội.
13. Dương Quảng Hàm (1996), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Hội nhà văn, Hà
Nội.
14. Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận văn học - Vấn đề và
suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
139
15. Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hóa thông tin, Hà
Nội.
16. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XX, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
17. Trần Đình Hượu (1999), Nho giáo và Văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
18. Đinh Gia Khánh (chủ biên) (1997), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Văn
học, Hà Nội.
19. Đinh Gia Khánh - Bùi Duy Tân - Mai Cao Chương (2002), Văn học Việt Nam:
Thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XVIII, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
20. Phương Lựu (1997), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại
Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Phương Lựu (1985), Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
22. Lạc Nam (1993), Tìm hiểu các thể thơ: từ thơ cổ phong đến thơ luật, Nxb Văn
học, Hà Nội.
23. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa - thông tin, Hà
Nội.
24. Lữ Huy Nguyên (tuyển chọn và giới thiệu) (2008), Hồ Xuân Hương: Thơ và
đời, Nxb Văn học, Hà Nội.
25. Triều Nguyên (2009), Các thể loại thơ Việt, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
26. Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức (1999), Thơ ca Việt Nam, Hình thức và thể
loại, Nxb Tp. HCM, Tp. HCM.
27. Nguyễn Huy Quát (2001), Để hiểu thêm Đồ Chiểu, Yên Đổ, Tú Xương, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
28. Vũ Dương Quỹ - Chu Mạnh Trinh (2000), Trần Tế Xương - nhà văn và tác
phẩm trong nhà trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
29. Nguyễn Hữu Sơn (chủ biên) (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ
Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
140
30. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam Quan niệm về con người
và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
31. Nguyễn Hữu Sơn - Đặng Thị Hảo (tuyển chọn và giới thiệu) (2007), Cao Bá
Quát - Về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
32. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb
Giáo dục, TP. HCM.
33. Bùi Duy Tân (2001), Khảo và luận một số thể loại - tác gia - tác phẩm văn học
trung đại Việt Nam tập II, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
34. Tuấn Thành - Vũ Nguyễn (tuyển chọn) (2006), Hồ Xuân Hương: Tác phẩm và
dư luận (Sách thao khảo dùng trong nhà trường), Nxb Văn học, Hà Nội.
35. Lã Nhâm Thìn (1997), Thơ Nôm đường luật, Nxb Giáo dục, Tp. HCM.
36. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
37. Lương Duy Thứ (2004), Thi pháp thơ Đường, Nxb Đại học sư phạm, Tp.
HCM.
38. Bùi Thị Thanh Vân (2009), Thơ Nôm Hồ Xuân Hương nhìn từ góc độ giới tính,
Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Sư phạm Tp. HCM, Tp. HCM.
39. Đoàn Thị Thu Vân (chủ biên) (2008), Văn học Trung đại Việt Nam (thế kỷ X -
cuối thế kỷ XIX), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
40. Lê Trí Viễn (2001), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Văn nghệ, TP.
HCM.
41. Lê Thu Yến (chủ biên) (2000), Văn học Việt Nam - Văn học trung đại Những
công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, Tp. HCM.
42. Vũ Thị Hoàng Yến (2010), Hình ảnh người kỹ nữ trong văn học trung đại Việt
Nam, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Đại học Sư phạm Tp. HCM, Tp. HCM.