BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
THÁI VĂN VỊNH
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ LỰC VÀ SÁNG TẠO
CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG
"MẮT VÀ CÁC DỤNG CỤ QUANG HỌC"
LỚP 12 THPT
CHUYÊN NGÀNH: LÍ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHẤP GIẢNG DẠY BỘ
MÔN VẬT LÍ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học:
T.S LÊ THỊ THANH THẢO
TP HỒ CHÍ MINH 9-2003
LỜI CÁM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn các thầy cô trong tổ Phương Pháp Giảng Dạy,
Khoa Vật Lý, Phòng Quản Lý Nghiên Cứu Khoa Học, Phòng Đào Tạo trường
Đại học sư Phạm thành phố HỒ CHÍ MINH đã khuyến khích, quan tâm giúp đỡ
và tạo điều kiện cho em trong thời gian học tập và thực hiện đề tài.
Đặc biệt em xin trân trọng cảm ơn cô T.S Lê Thị Thanh Thảo - người đã
trực tiếp khuyến khích, hướng dẫn em thực hiện hoàn thành đề tài bằng tất cả
sự tận tình và trách nhiệm.
Nhân dịp này tôi cũng xin cảm ơn Ban Giám đốc sở GD-ĐT tỉnh Bến- Tre,
Ban Giám hiệu các trường THPT Châu Thành A, THPT Ba Vát, THPT Bán
công Phước Mỹ Trung huyện Mỏ Cày tỉnh Bến Tre và thầy Huỳnh Văn Miêng
Hiệu Trưởng trường THPT Ba Vát, thầy giáo Cao Huy Thanh tạo điều kiện cho
Thành phố Hồ Chí Minh tháng 9 năm 2003
việc thực hiện đề tài.
MỤC LỤC
LỜI CÁM ƠN ................................................................................................................. 2
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN ........................................................ 3
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 4
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC SỬ DỤNG PPDH NHẰM PHÁT HUY
TÍNH TÍCH CỰC, TỰ LỰC VÀ SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH ............................... 10
1.1. KHÁI NIỆM VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC........................................... 10
1.1.1. BẢN CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG HỌC VẬT LÝ ............................... 11
1.1.2. BẢN CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG DẠY VẬT LÝ ............................... 13
1.2. TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC VẬT LÝ CỦA HỌC SINH
.................................................................................................................................. 15
1.2.1. TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC ................................. 15
1.2.2. ĐẶC TRƯNG CỦA TÍCH CỰC HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC VẬT
LÝ CỦA HỌC SINH ........................................................................................... 16
1.2.3. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG NHẬN
THỨC CỦA HỌC SINH {8}{23}{24}{25} ....................................................... 21
1.3. DẠY HỌC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ............................................................ 23
1.3.1. PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM TRONG DẠY HỌC VẬT LÝ .... 26
1.3.2. PHƯƠNG PHÁP MÔ HÌNH TRONG DAY HỌC VẬT LÝ ............... 29
1.3.3. PHƯƠNG PHÁP TƯƠNG TƯ: ............................................................ 35
1.4. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP THEO NHÓM: ................................ 38
1.4.1. KHÁI NIỆM VỀ TỔ CHỨC DẠY HỌC THEO NHÓM:.................... 38
1.4.2. CẤU TRÚC CỦA MỘT TIẾT HỌC (HAY MỘT BUỔI LÀM VIỆC)
THEO NHÓM: ..................................................................................................... 39
1.4.3 NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA DẠY HỌC THEO NHÓM: ...... 40
1.4.4. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
THEO NHÓM: ..................................................................................................... 41
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................................. 42
3
CHƯƠNG 2 SOẠN THẢO TIẾN TRÌNH DẠY HỌC CHƯƠNG "MẮT VÀ CÁC
DỤNG CỤ QUANG HỌC" THEO HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ
LỰC VÀ SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH ..................................................................... 44
2.1. PHÂN TÍCH CHƯƠNG TRÌNH .................................................................. 44
2.1.1.NHẬN XÉT CHUNG PHẦN QUANG HÌNH HỌC: ........................... 44
2.1.2. ĐẶC ĐIỂM VÀ NỘI DUNG PHẦN QUANG HÌNH HỌC: ............... 45
2.1.3. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN................................................................. 46
2.1.4. ĐỂ THẤY MỘT VẬT HAY MỘT ẢNH MẮT PHẢI ĐẶT VỊ TRÍ
NÀO? ................................................................................................................... 48
2.2. NỘI DUNG VÀ CÁC KIẾN THỨC TRỌNG TÂM CỦA CHƯƠNG “MẮT
VÀ CÁC DỤNG CỤ QUANG HỌC “ LỚP 12 THPT: .......................................... 50
2.2.1 CƠ CẤU CHƯƠNG TRÌNH: ................................................................ 50
2.2.2. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM CHƯƠNG “MẮT VÀ CÁC DỤNG CỤ
QUANG HỌC” .................................................................................................... 51
2.3. TÌM HIỂU TÌNH HÌNH DẠY VÀ HỌC CHƯƠNG “MẮT VÀ CÁC
DỤNG CỤ QUANQ HỌC” Ở TRƯỜNG THPT .................................................... 53
2.3.1. NỘI DUNG TÌM HIỂU: ....................................................................... 54
2.3.2. PHƯƠNG PHÁP TÌM HIỂU: ............................................................... 54
2.3.3. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA TÌM HIỂU: ...................................................... 54
2.4. TIẾN TRÌNH DẠY – HỌC TỪNG BÀI CỤ THỂ ...................................... 57
2.4.1. Ý ĐỒ SOẠN THẢO CHUNG CHO CẢ CHƯƠNG "MẮT VÀ CÁC
DỤNG CỤ QUANG HỌC" ................................................................................. 57
2.4.2. BÀI: MẮT VÀ MÁY ẢNH .................................................................. 59
2.4.3. BÀI: CÁC TẬT CỦA MẮT VÀ CÁCH SỬA ..................................... 66
2.4.4. BÀI: KÍNH LÚP ................................................................................... 79
2.4.5. BÀI: KÍNH HIỂN VI - KÍNH THIÊN VĂN ........................................ 86
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................... 103
CHƯƠNG 3:THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ................................................................ 104
3.1. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ........... 104
4
3.1.1. MỤC ĐÍCH: ........................................................................................ 104
3.1.2. NHIỆM VỤ: ........................................................................................ 104
3.2. ĐỐI TƯỢNG THỰC NGHIỆM: ................................................................ 104
3.3. PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM: .......................................................... 104
3.4. PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM: ....... 106
3.4.1. PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY VÀ TRÒ TRONG QUÁ
TRÌNH THỰC NGHIỆM SƯPHẠM: ............................................................... 106
3.4.2. PHÂN TÍCH BÀI KIỂM TRA ............................................................ 110
3.4.3. XỬ LÝ SỐ LIỆU VÀ PHÂN TÍCH KIỂM TRA: .............................. 116
KẾT LUẬN CHƯƠNG III ......................................................................................... 126
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................. 128
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 131
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 134
5
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Phương pháp dạy học PPDH
Trung học phổ thông THPT
Phổ thông PT
Giáo viên GV
Học sinh HS
Sách giáo khoa SGK
Hoạt động nhận thức HĐNT
Thấu kính hội tụ TKHT
Thấu kính phân kỳ TKPK
PPGD-ĐT Phương pháp giảng dạy – Đạo tạo
3
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Chúng ta đang sống trong thời đại của nền Khoa học và Công nghệ phát
triển rất nhanh chóng, phải nói rằng hầu hết các phát triển của khoa học và công
nghệ đều được ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống. Trước những yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước chúng ta, đòi hỏi ngành GIÁO
DỤC - ĐÀO TẠO phải đổi mới PPDH, khắc phục lối truyền thụ một chiều mà
xưa nay thường đi theo 3 bước cơ bản như sau: Trước hết GV sử dụng các bài
học trong SGK và truyền thụ cho HS qua bài giảng của mình nhằm giới thiệu
cho HS các khái niệm khoa học, toán học, bước tiếp theo GV bắt đầu giải các
bài tập mẫu trên bảng đồng thời cho HS làm bài tập cụ thể, và bước cuối cùng,
khi thực hiện các thí nghiệm GV hướng dẫn cho HS một cách cụ thể các bước
trình tự, sau đó HS tự mình rút ra các kết quả nhận được qua thí nghiệm {21}
Trên 30 năm nghiên cứu một cách khoa học về nhận thức và thử nghiệm
trong các lớp học, các nhà giáo dục học thấy rằng PPDH truyền thống chưa đáp
ứng được với nhu cầu hiện tại. Vấn đề ở chỗ là người học phải đối diện với
nhiều thông tin mới và phải tạo ra nhiều mối quan hệ khác nhau.
Đổi mới PPDH là một việc làm phức tạp, khó khăn vì nó đòi hỏi người dạy
và người học đều phải đấu tranh gian khổ với thói quen đã có từ lâu đời trong
dạy và học.
Chúng ta đều biết hiện nay, PPDH tốt nhất là không những trang bị cho HS
những kiến thức, kỹ năng mà loài người đã tích lũy được mà quan trọng là phải
bồi dưỡng cho HS những khả năng giải quyết vấn đề do thực tiễn đặt ra và khả
năng sáng tạo. Việc sử dụng PPDH nhằm tích cực hóa hoạt HĐNT của HS trở
nên yêu cầu cấp bách đối với GV nói chung và đối với GV Vật lý THPT nói
riêng vì tích cực là động lực là tiền đề của hoạt động độc lập.
4
Nghị quyết hội nghị lần thứ IV của BCH TW Đảng Cộng Sản Việt Nam
khoá VII đã chỉ rõ: cần phải "Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp
học, bậc học... Và áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng
cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề" {14}
Tuy nhiên tìm hiểu qua thực tế, PPDH các bộ môn khoa học tự nhiên nối
chung và bộ môn vật lý nói riêng ở trường PT còn mang nặng tính chất thông
báo, tái hiện, tiến trình dạy học không thoát khỏi tình trạng chung nêu ở trên.
Đặc biệt riêng chương “MẮT VÀ CÁC DỤNG CỤ QUANG HỌC” tiến trình
giảng dạy của GV thông thường được tiến hành theo các bước:
Định nghĩa: Nêu tác dụng của các dụng cụ quang học -
Cấu tạo: Trình bày cấu tạo theo SGK và nói tác dụng của các phần -
tử trong các dụng cụ
Chứng minh công thức: Tính độ bội giác từng dụng cụ -
Cuối cùng HS thụ động tiếp thu kiến thức do GV truyền đạt mà không phát
huy được tính tích cực, chủ động, tự giác để chiếm lĩnh kiến thức, để hình thành
và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo sử dụng từng dụng cụ một cách hợp lý và vừa sức.
Xuất phát từ các vấn đề trên chúng tôi chọn đề tài "PHÁT HUY TÍNH
TÍCH CỰC, TỰ LỰC VÀ SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC
CHƯƠNG MẮT VÀ CÁC DỤNG CỤ QUANG HỌC" Lớp 12 THPT làm đề
tài nghiên cứu luận văn.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tổ chức HĐNT của HS đã
và đang dược nhiều nhà Didactic vật lý quan tâm trong những năm gần đây:
Dạy học theo quan điểm phát triển nhận thức là dạy học từng bước hướng tới sự
hình thành và phát triển năng lực nhận thức, một năng lực chung, đặc thù và
quan trọng cho việc hình thành năng lực nghề nghiệp sau này
Rubinstein đã khẳng định: Năng lực của con người được hình thành và
phát triển qua những việc mà con người làm. Nhận thức là một hoạt động đặc
5
thù của con người, vì thế năng lực nhận thức cũng chỉ có thể được hình thành và
phát triển bằng cách chính hoạt động nhận thức cá thể của mỗi người. Dạy học
quan tâm đến phát triển nhận thức là dạy học quan tâm đến việc tổ chức HĐNT
nhằm từng bước hình thành và rèn luyện các thao tác, kỹ năng, kỹ xảo (tay chân
hay trí tuệ) và từng bước sử dụng chúng trong các hoạt động nhận thức được tổ
chức phù hợp và đảm bảo tính khoa học... cũng chỉ dạy theo quan điểm phát
triển năng lực nhận thức mới giúp con người hình thành và phát triển các phẩm
chất tâm lý tốt đẹp của người lao động mới như: Tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo, độc lập, trung thực và kiên trì....
Đối với HS THPT tham gia vào HĐNT được tổ chức khách quan và phù
hợp từ ít đến nhiều, từ chưa đầy đủ đến đầy đủ hơn, từ đơn giản đến phức tạp
làm cho HS không những chiếm lĩnh được tri thức mà còn từng bước hình thành
và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo...Vận dụng các quan điểm trên, nghiên cứu việc sử
dụng các PPDH nhằm tích cực hoá HĐNT của HS, góp phần cải thiện chất
lượng học tập của HS trong quá trình dạy học chương "MẮT VÀ CÁC DỤNG
CỤ QUANG HỌC" Lớp 12 THPT theo hướng kích thích hứng thú, tính tích
cực, tự lực tham gia giải quyết vấn đề trong học tập của HS
3. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu sử dụng và phối hợp một số PPDH đã được lựa chọn phù hợp thì có
thể phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh trong học tập góp
phần cải thiện chất lượng dạy học chương "MẮT VÀ CÁC DỤNG CỤ
QUANG HỌC" ở lớp 12 THPT
4. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
4.1. Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy và học chương "MẮT VÀ
CÁC DỤNG CỤ QUANG HỌC"
4.2. Đối tượng nghiên cứu: Các PPDH, lựa chọn sử dụng các PPDH, Hoạt
động dạy và học của GV và HS nhằm phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo
6
của học sinh trong quá trình dạy học chương "MẮT VÀ CÁC DỤNG CỤ
QUANG HỌC" Lớp 12 THPT
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu sử dụng các PPDH, các yếu tố của PPDH có khả năng tích cực
hóa HĐNT của học sinh trong quá trình dạy học chương "MẮT VÀ CÁC
DỤNG CỤ QUANG HỌC" Lớp 12 THPT
6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc sử dụng, lựa chọn các PPDH vật lý
nói chung và quá trình dạy học các bài học vật lý có liên quan đến thực tiễn
cuộc sống, các ứng dụng vật lý có khả năng phát huy tính tích cực HĐNT của
học sinh
6.2. Nghiên cứu nội dung kiến thức có liên quan đến chương "MẮT VÀ
CÁC DỤNG CỤ QUANG HỌC" lớp 12 THPT cũng như các kiến thức cơ bản
mà HS cần phải nắm vững trước và sau khi học xong chương "MẮT VÀ CÁC
DỤNG CỤ QUANG HỌC"
6.3. Tìm hiểu thực trạng dạy và học phần quang hình học nói chung
chương "Mắt và các dụng cụ quang học" lớp 12 THPT nói riêng ở trường
THPT. Đánh giá hiệu quả sử dụng PPDH, phương tiện dạy học để phát hiện
những khó khăn của học sinh và nguyên nhân của các khó khăn đó trong quá
trình học tập
6.4. Nghiên cứu và sử dụng thiết bị sẵn có ở trường THPT, hướng dẫn học
sinh sử dụng và sáng tạo thiết bị để phục vụ việc dạy học nhằm phát huy tính
tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh
Biên soạn một số bài tập có liên quan đến chương "Mắt và các dụng cụ
quang học" nhằm phát huy tính tích cực nhận thức nâng cao chất lượng dạy và
học
7
6.5. Soạn thảo tiến trình dạy học 4 bài chương "Mắt và các dụng cụ quang
học" theo hướng phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh nhằm
tích cực hóa HĐNT của học sinh
6.6. Tiến hành thực nghiệm sư phạm tiến trình dạy học đã soạn thảo nhằm
xác định mức độ phù hợp, tính khả thi, hiệu quả của từng tiến trình đối với việc
phát huy tính tích cực nhận thức, tự lực giải quyết vấn đề trong quá trình học tập
nhằm nâng cao chất lượng trong dạy học chương "Mắt và các dụng cụ quang
học"
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu chương trình, nội dung SGK, sách giáo viên và các tài liệu
liên quan, xác định nội dung các kiến thức mà học sinh cần phải nắm vững từ
những kiến thức đã học, để HS có thể phát huy tính tự lực, chủ động ứng dụng
vào những lĩnh vực sâu hơn rộng hơn.
- Đọc và tìm hiểu lý luận từ sách, báo, tạp chí, văn bản, nghị quyết để làm
sáng tỏ quan điểm đề tài hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề trong dạy học vật
lý nói chung, trong chương "Mắt và các dụng cụ quang học" nói riêng.
7.2. Phương pháp điều tra và khảo sát
Tìm hiểu việc dạy và học (thông qua dự giờ, trao đổi với GV, HS) ở trường
THPT, phân tích kết quả nhằm đánh giá sơ bộ tình hình dạy học phần quang
hình học nói chung và chương vật lý ứng dụng "Mắt và các dụng cụ quang học"
ở lớp 12 THPT nói riêng.
7.3. Thực nghiệm sư phạm
Tiến hành giảng dạy ở trường THPT theo phương án đã soạn thảo, nhằm
khẳng định tính khả thi của việc lựa chọn PGDH, các biện pháp sư phạm đã sử
dụng với mục đích phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh
8
Dùng phương pháp thống kê toán học để xử lý, thống kê, đánh giá kết quả
giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng (lớp không giảng dạy theo phương án đã
soạn) để đánh giá thực nghiệm sư phạm, từ đó rút ra kết luận của đề tài
9
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC SỬ DỤNG
PPDH NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ LỰC
VÀ SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH
1.1. KHÁI NIỆM VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
Phương pháp hiểu theo nghĩa chung nhất của thuật ngữ này, là con đường
là cách thức (hay tập hợp những thủ pháp, những thao tác trí tuệ hay tay chân)
nhằm thực hiện thành công một nhiệm vụ nào đó. {24}
Vậy phương pháp có tính mục đích, được qui định bởi mục đích và phụ
thuộc vào điều kiện, Phương pháp có nhu cầu cải tiến hay đổi mới khi nhiệm vụ
cần thực hiện thay đổi; mức thành công của việc thực hiện nhiệm vụ phụ thuộc
vào điều kiện chủ quan và khách quan (mối quan hệ giữa mục đích, nội dung
điều kiện và phương pháp). Mục đích qui định nội dung, nhiệm vụ và phương
pháp cần thực hiện, phương pháp được xây dựng trên cơ sở lý luận nhất định,
chính tính khoa học của một phương pháp nào đó tạo nên tính thuyết phục của
nó, phương pháp không đơn thuần là sự đúc kết kinh nghiệm.
Như vậy, PPDH là cách thức hoạt động của GV trong việc chỉ đạo, tổ chức
hoạt động cho HS nhằm đạt đến mục tiêu dạy học.
Thuật ngữ dạy - học vốn dùng để phản ánh hoạt động của người dạy.
Nhưng đối tượng của hoạt động dạy là người học, người học vừa là đối tượng
của hoạt động dạy lại vừa là chủ thể của hoạt động học. Nếu người học không
chủ động học, không có cách dạy tốt thì việc dạy khó mà đạt kết quả mong
muốn. Bởi vậy PPDH bao gồm cả cách thức dạy của GV và cách thức học của
HS. Như vậy phương pháp dạy - học và chức năng cơ bản của dạy là dạy cách
học, trong hoạt động dạy - học thì GV giữ vai trò chỉ đạo, HS có vai trò chủ
động.
10
1.1.1. BẢN CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG HỌC VẬT LÝ
Không thể quan niệm sự hình thành kiến thức (sự học) của HS chỉ đơn
thuần là cho HS ghi nhớ vào đầu óc xem như cái có sẵn (được diễn tả bằng
ngôn ngữ hay tài liệu), sự dạy của GV chỉ là sự trình diễn kiến thức, chỉ cần cố
gắng sao cho sự trình diễn là chính xác, rõ ràng trực quan và đầy đủ những nội
dung kiến thức như thế. Cũng không thể quan niệm thực chất của sự học là ở
chỗ người học đạt được (thể hiện ra được) những hành vi chính xác nào đó hay
đơn giản là sự tái tạo lại những điều đã được học.
Chúng ta phải thừa nhận rằng: Hiện nay phần lớn GV vẫn dạy theo cách
như đã dạy mấy chục năm qua "Thuyết trình có kết hợp với đàm thoại" là chủ
yếu, vì thực chất là "thầy truyền đạt, trò tiếp nhận, ghi nhớ". Cách dạy "Thầy
đọc, trò ghi" thậm chí "thầy đọc, chép và trò chép" một cách nhồi nhét dạy
chay... Kết quả là học sinh chưa biết tự học theo hướng tích cực.
Tâm lý học và lý luận dạy học hiện đại khẳng định "Con đường có hiệu
quả nhất để làm cho học sinh nắm vững kiến thức và phát triển năng lực sáng
tạo phải đưa học sinh vào chủ thể hoạt động nhận thức. Nắm vững kiến thức,
thật sự lĩnh hội chúng, cái đó học sinh phải tự làm lấy bằng trí tuệ của bản
thân"
Hoạt động học là hoạt động đặc thù của con người nhằm tiếp thu những trí
thức, kỹ năng, kinh nghiệm của loài người tích lũy được, đồng thời phát triển
phẩm chất năng lực của người học, HS tiếp thu những tri thức, kỹ năng, kinh
nghiệm nhằm sử dụng chúng trong hoạt động thực tiễn của mình. Như vậy
người học không phải là tiếp thu một cách thụ động dưới dạng đúc kết một cách
cô đọng, chuyển trực tiếp từ GV, từ sách vở, tài liệu vào óc của mình mà phải
thông qua hoạt động tự lực của bản thân mà tái tạo lại chúng. Những tri thức, kỹ
năng, kinh nghiệm mà người học tái tạo lại không gì mới đối với nhân loại,
nhưng những biến đổi trong bản thân người học, sự hình thành phẩm chất và
11
năng lực ở người học thật sự là những thành tựu mới, chúng giúp cho người học
sau này sáng tạo ra những giá trị mới.
Học tập là quá trình biến đổi nhận thức và hoàn thiện nhân cách, đó chính
là mục đích của việc dạy học. Ví dụ khi học vật lý những định luật vật lý, kỹ
năng sử dụng các máy đo, kinh nghiệm tiến hành các thí nghiệm vật lý đều là
những điều loài người đã biết, học sinh tái tạo lại chúng để biến đổi chúng thành
vốn liếng của bản thân mình chứ không đem lại điều gì mới mẽ cho kho tàng
kiến thức vật lý. Nhưng bản thân học sinh thông qua hoạt động tái tạo kiến thức
đó trưởng thành lên về mặt nhận thức.
Cấu trúc của hoạt động học gồm nhiều thành phần có quan hệ và tác động
lẫn nhau, một bên là động cơ, mục đích, điều kiện phương tiện bên kia là hoạt
động, hành động và thao tác {26}
Động cơ Hoạt động
Mục đích Hành động
Phương tiện Thao tác
Động cơ học kích thích tính tự giác, tích cực thúc đẩy sự hình thành và duy
trì phát triển hoạt động học đưa đến kết quả cuối cùng thỏa mãn được lòng khao
khát mong ước của người học. Muốn thỏa mãn được động cơ ấy phải thực hiện
lần lượt những hành động để đạt được mục đích cụ thể
Để thực hiện mỗi mục đích cụ thể, phải thực hiện những hành động tương
ứng, có thể thực hiện một hành động nhưng thông thường phải phối hợp nhiều
hành động mới đạt được một mục đích. Nhiệm vụ bài học thường được diễn tả
dưới dạng các "bài toán nhận thức" hay "vấn đề nhận thức" mà nếu giải được nó
thì học sinh sẽ đạt được mục đích đề ra
Tóm lại: Việc học tập của HS là một loại hoạt động đặc thù của con người.
Hoạt động nào cũng có đối tượng. Thông thường các hoạt động khác có đối
12
tượng là một khách thể. Trong khi đó, hoạt động học lại làm cho chính chủ thể
(người học) của hoạt động biến đổi và phát triển. Đối tượng của hoạt động là tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo cần chiếm lĩnh, nhưng chính là sự chiếm lĩnh này mà các
chức năng tâm lý của chủ thể mới được thay đổi và phát triển
1.1.2. BẢN CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG DẠY VẬT LÝ
Quá trình dạy học là quá trình hoạt động của GV và HS trong sự tương tác
biện chứng của 3 thành phần hệ dạy - học: GIÁO VIÊN - HỌC SINH -
PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
Mục đích của hoạt động dạy là làm cho HS lĩnh hội được kiến thức, kỹ
năng, kỹ xảo, kinh nghiệm xã hội đồng thời hình thành và phát triển ở họ phẩm
chất và năng lực. Như ta đã biết HS đạt được mục đích đó bằng hoạt động của
bản thân họ. Dạy vật lý không phải là giảng giải, minh họa cho HS hiểu ý nghĩa
của các khái niệm, định luật vật lý, uốn nắn họ thực hiện đúng những kỹ năng,
kỹ xảo của các nhà nghiên cứu vật lý, nhồi nhét vào đầu họ những kinh nghiệm
xã hội đã được đốc kết hoàn chỉnh. Theo quan điểm hiện đại, dạy vật lý là tổ
chức, hướng dẫn cho HS thực hiện các hành động nhận thức vật lý để họ tái tạo
được kiến thức, kinh nghiệm xã hội biến chúng thành vốn liếng của mình đồng
thời biến đổi bản thân học sinh hình thành và phát triển những phẩm chất năng
lực của họ.{26}
Muốn thực hiện tốt mục đích trên của hoạt động dạy người GV cần phải
nghiên cứu hoạt động học, căn cứ vào hoạt động học của mỗi đối tượng cụ thể
mà định ra những hành động dạy thích hợp, trước hết là những hành động để tạo
những điều kiện thuận lợi giúp HS thực hiện tốt các hành động học tập. Những
điều kiện đó cụ thể là:
1.1.2.1. Đảm bảo cho HS có điều kiện tâm lý thuận lợi để tự lực hoạt
động:
a- Tạo mâu thuẫn nhận thức, gợi đúng động cơ hứng thú tìm tòi cái mới.
b- Tạo ra môi trường sư phạm thuận lợi.
13
1.1.2.2 Tạo điều kiện để HS có thể giải quyết thành công nhiệm vụ
được giao:
a- Lựa chọn một lôgic nội dung bài học thích hợp.
b- Rèn luyện cho HS kỹ năng thực hiện tốt một số thao tác cơ bản bao gồm
thao tác chân tay và thao tác tư duy.
c- Cho HS làm quen với các phương pháp nhận thức vật lý đã được sử
dụng phổ biến.
Nói chung bản chất của hoạt động dạy vật lý cũng căn cứ vào mục tiêu
giáo dục được luật giáo dục nêu ra: "Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, hình thành và bồi dưỡng nhân cách phẩm chất năng lực của
công dân, đào tạo ra những người lao động phát triển toàn diện… có học vấn,
nghề nghiệp, năng động và sáng tạo…" {2} Ta có thể nhận thấy rằng để đạt
mục tiêu trên, Giáo dục phổ thông không thể hạn chế ở nhiệm vụ trang bị một
khối lượng kiến thức nhất định, mà quan trọng hơn rất nhiều là trang bị cho học
sinh một tiềm lực để có thể tiến xa hơn những kiến thức hiểu biết mà nhà trường
cung cấp cho họ.
Quán triệt những quan điểm cơ bản trên đây của giáo dục, chúng ta có thể
sơ bộ vạch ra những nhiệm vụ cơ bản của giáo dục vật lý trong trường phổ
thông.
* Giúp HS chiếm lĩnh hệ thống kiến thức cơ bản theo hướng cố gắng bắt
kịp sự phát triển không ngừng của hệ thống kiến thức khoa học vật lý.
* Góp phần hình thành ở người học năng lực nhận thức và năng lực sáng
tạo thông qua việc dạy hệ thống kiến thức vật lý, bồi dưỡng cho họ ý chí vươn
lên, năng lực tự học, năng lực tự nghiên cứu...
* Cùng với việc dạy kiến thức là giáo dục tư tưởng, bồi dưỡng ý chí, thế
giới quan khoa học và những phẩm chất quan trọng của nhân cách.
* Giáo dục kỹ thuật tổng hợp theo hướng tiếp cận với khoa học công nghệ.
14
Vật lý học do tầm quan trọng và tính đặc thù của mình có ảnh hưởng rất
lớn tới sự phát triển khả năng trí tuệ chung của học sinh, phương pháp nhận
thức các vấn đề vật lý là cần thiết và gần gũi với tất cả mọi người. Có năng lực
nhận thức trong vật lý giúp ích rất nhiều trong việc giải quyết rất nhiều vấn đề
trong tự nhiên, kỹ thuật và xã hội. Vì vậy phát triển năng lực nhận thức của học
sinh trong dạy học vật lý góp phần rất quan trọng để đào tạo con người lao động
mới đáp ứng với yêu cầu của sự phát triển xã hội.
1.2. TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC VẬT LÝ
CỦA HỌC SINH
1.2.1. TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC
Theo P.N Erdơniev "Một sự nhận thức được làm cho dễ dàng đi và được
thực hiện dưới dạng chỉ đạo của GV" Vì vậy nói đến sự tích cực học tập, thực
chất là nói đến tích cực HĐNT.
Tính tích cực HĐNT là trạng thái HĐNT của HS đặc trưng ở khát vọng
học tập, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức,
khác với quá trình nhận thức trong khoa học. Quá trình nhận thức trong học tập
không nhằm phát hiện những điều loài người chưa biết về bản chất qui luật của
các hiện tượng khách quan mà nhằm lĩnh hội những tri thức loài người đã tích
lũy được. Tuy nhiên trong học tập HS cũng phải "khám phá" ra những hiểu biết
mới đối với bản thân mình, dù đó chỉ là khám phá lại những điều loài người đã
biết {8}
Trong quá trình học tập sự tích cực nhận thức có những biểu hiện ở học
sinh như sau:
- Có nhu cầu, hứng thú trong học tập, HS khao khát hiểu biết về tự nhiên
và xã hội.
- Có cảm xúc học tập thể hiện ở niềm vui, sự sốt sắng thực hiện nhiệm vụ
học tập một cách tự giác theo yêu cầu của GV.
15
- Tập trung chú ý cao, thể hiện ở việc lắng nghe và theo dõi mọi hành động
của GV, tự giác thực hiện chu đáo, nhanh gọn, đầy đủ, chính xác các yêu cầu
cần thiết trong học tập.
- Có sự nỗ lực ý chí, thể hiện ở sự kiên trì, nhẫn nại vượt khó khi giải quyết
nhiệm vụ nhận thức.
- Có khả năng vận dụng kiến thức khi gộp tình huống mới, có sáng tạo
trong giải quyết vấn đề tìm ra cái mới.
Theo GS-TS Trần Bá Hoành tính tích cực của HS được chia làm 3 cấp độ
từ thấp đến cao như sau: {8}
- Tích cực bắt chước: Học sinh tích cực bắt chước hoạt động của giáo viên
của bạn bè, Trong sự tích cực bắt chước cũng phải có sự gắng sức của thần kinh
và cơ bắp.
- Tích cực tìm tòi: Học sinh tìm cách độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, mò
mẫn những cách giải quyết khác nhau để tìm ra lời giải đáp hợp lý nhất
- Tích cực sáng tạo: HS tìm ra cách giải quyết mới độc đáo hơn hoặc cấu
tạo những bài tập mới hoặc cố gắng lắp đặt những thí nghiệm để chứng minh
bài học. Dĩ nhiên mức độ sáng tạo của HS là có hạn nhưng đó là mần mống để
phát triển khả năng sáng tạo sau này.
1.2.2. ĐẶC TRƯNG CỦA TÍCH CỰC HOẠT ĐỘNG NHẬN
THỨC VẬT LÝ CỦA HỌC SINH
Dạy học nhằm tích cực hoá hoạt HĐNT của HS là dạy học nhằm tổ chức,
hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu, phát hiện và giải quyết vấn đề trên cơ sở tính tự
giác độc lập và được tạo khả năng và điều kiện chủ động trong hoạt động đó.
Mỗi môn học có một đặc thù riêng và phương pháp nhận thức đặc thù của bộ
môn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình tìm tòi và thiết kế những giải
pháp dạy - học bộ môn. Hay nói một cách cụ thể hơn, dạy học tích cực hóa vật
lý là cách dạy tạo ra môi trường, tạo ra tiền đề để HS có thể tự mình tham gia
tích cực các hoạt động học tập, tích cực chủ động tìm tòi nhằm thỏa mãn nhu
16
cầu học tập của cá nhân hình thành sự năng động sáng tạo trong tư duy vật lý và
khả năng tự học, tự lực, tích cực giải quyết vấn đề của vật lý học. Với những
đặc trưng tích cực hóa HĐNT vật lý của HS, chúng ta có thể phân biệt ra 3 loại
như sau:
1.2.2.1. TÍCH CỰC HÓA HĐNT CỦA HỌC SINH BẰNG CÁCH
ĐẶT VẤN ĐỀ VỀ PHƯƠNG PHÁP HỌC:
Việc hình thành cá tính của HS diễn ra trong quá trình dạy học, được thể
hiện chủ yếu trong các bài học. Vì vậy đặc điểm làm việc của HS trong lớp học
có một ý nghĩa quyết định.
Một trong những yêu cầu quan trọng nhất đối với bài học là đảm bảo sự
phát triển toàn diện tính tự lực và tích cực của học sinh. Nếu những phẩm chất
đó tham gia vào hoạt động tư duy tích cực một cách có hệ thống, được đặt ra
những khó khăn vừa sức, trước sự tất yếu tự lực tìm tòi câu trả lời cho các câu
hỏi, rút ra kết luận, thì việc tổ chức việc học tập như thế sẽ hình thành được
những người lao động sáng tạo, tích cực.
Việc học tập không những là một quá trình tiếp thu và ghi nhớ các sự kiện,
hiện tượng, định luật, công thức vv... đã được thông báo, mà còn là một quá
trình lĩnh hội kiến thức, một quá trình có thể đạt được do việc nghiền ngẫm tài
liệu học với sự tự lực muôn hình muôn vẻ. Trong trường hợp này tri thức thu
nhận sẽ sâu sắc và vững chắc do đó sẽ được hữu dụng.
Việc đặt vấn đề cho đề tài bài học và cố gắng đảm bảo sự làm việc tích cực
của HS toàn lớp trong suốt cả giờ học, đó là biện pháp cơ bản của GV thường
xuyên áp dụng được thể hiện qua việc phân tích và khái quát kinh nghiệm đã
tích luỹ được, cho phép định ra những phương pháp hợp lý giải quyết vấn đề.
1.2.2.2. TÍCH CỰC HÓA HĐNT CỦA HỌC SINH TRONG QUÁ
TRÌNH TRUYỀN THỤ KIẾN THỨC MỚI:
Phần căn bản của đa số các bài học vật lý là truyền thụ kiến thức mới cho
HS. Khi trình bày tài liệu mới, không kể là việc đó được tiến hành dưới hình
17
thức như thế nào, HS cũng không thể là người nghe thụ động. Nếu trong một
thời gian dài gây cho họ một tác động sư phạm khiến cho họ phải tích cực tư
duy thì điều đó sẽ dẫn tới sự hình thành được những phẩm chất vững chắc tương
ứng với hoạt động trí tuệ.
Tâm lý học hiện đại đã nêu rõ sự lĩnh hội kiến thức, tính tích cực của tư
duy được kích thích khi xuất hiện "tình huống có vấn đề" Ian Amôt Komenxki
nêu rõ "GV trước khi bắt đầu mỗi công việc thì hoặc là làm cho HS chú ý tới
bằng cách giới thiệu với họ tài liệu, đề ra hoặc là động viên họ bằng những câu
hỏi về điều họ đã học qua để dẫn dắt tới tài liệu hiện thời hoặc là làm sao cho
HS ý thức được sự kém cỏi của họ mà hào hứng càng nhiều càng tốt đối với
việc tiếp thu sự giải thích đối tượng".{20} Như vậy HS ý thức được tầm quan
trọng của đề tài, bài học mà lĩnh hội kiến thức không những trên cơ sở những
lời giải thích của GV mà còn trực tiếp hoạt động của bản thân HS, nhất là khi
GV tổ chức một cách đặc biệt để đạt được việc đó.
Khi đó HS lĩnh hội kiến thức vật lý một cách tích cực, có ý thức và vững
chắc, khi củng cố kiến thức GV đặt ra những câu hỏi đòi hỏi HS không phải chỉ
đơn giản tái hiện những điều mà họ đã nghe GV nói hoặc đã đọc trong SGK mà
đòi hỏi họ phải gia công sáng tạo dù là nhỏ nhất. Chẳng hạn như trong phần
quang hình học các định luật phần xạ và khúc xạ được nghiên cứu trên cơ sở
thực nghiệm, còn những vấn đề khác như đường đi của tia sáng qua lăng kính,
sự phản xạ toàn phần, gương và thấu kính thì HS tự lực phân tích, dĩ nhiên là
dưới sự chỉ đạo của GV bằng cách áp dụng những kiến thức mà họ đã nắm
vững.
Việc tích cực hóa học tập của HS khi trình bày tài liệu mới đã và đang xúc
tiến rất mạnh. Việc sử dụng thí nghiệm, thí nghiệm ở lớp liên hệ hữu cơ với các
bài học. Thí nghiệm được đề ra để luận chứng cho một vấn đề đã đặt ra, để đi
tìm câu trả lời cho vấn đề đó hoặc để kiểm chứng những qui luật vật lý nào đó.
Trong mọi trường hợp việc tiến hành thí nghiệm phải có lý lẽ xác đáng và mục
đích của nó phải được sáng tỏ rõ ràng. Thí nghiệm xét toàn bộ và những giai
18
đoạn riêng biệt của nó được hoạch định với sự tham gia tích cực của HS, GV
nhắc lại cần phải làm cái gì và làm như thế nào và làm để làm gì, chọn lọc một
cách có căn cứ những dụng cụ để làm thí nghiệm, phán đoán kết quả của mỗi
thao tác trung gian và kết quả cuối cùng.
Công tác thực nghiệm cũng có một ý nghĩa lớn lao đối với việc lĩnh hội
kiến thức của HS một cách tự lực khi GV trình bày tài liệu mới. Chẳng hạn như
khi quan sát một hiện tượng vật lý mà qui luật của chúng đang được nghiên cứu
trong bài học đã cho, những thí nghiệm thực tập nhỏ (5-10 phát) được thảo luận
trong giờ học cũng để dẫn dắt HS tới những kết luận cần thiết trong cuộc hỏi
đáp gợi mở việc giải những bài toàn thực nghiệm, toán đồ thị, toán đố vv...Ví
dụ: Khi dạy nội dung bài Kính Lúp, GV nêu vấn đề: Muốn nhìn rõ chi tiết của
các vật nhỏ theo điều kiện nhìn rõ của mắt, với những dụng cụ như gương cầu
lồi, gương cầu lõm, thấu kính hội tụ, thấu kính phân kỳ thì dụng cụ nào đáp ứng
được yêu cầu nêu trên? Khi đã có các đụng cụ trong tay, tìm dụng cụ thích hợp
cho yêu cầu được nêu, buộc HS tham gia một cách tích cực và chú ý đặc biệt
vào cuộc hỏi đáp trong đó GV phân tích hiện tượng mới (phải là thấu kính hội
tụ có tiêu cự ngắn) đối với HS. Những kiến thức mới đối với HS được trình bày
dưới hình thức nêu và giải quyết vấn đề thì được HS tiếp thu một cách tích cực
nhất, sự phát triển tư duy của HS phụ thuộc trực tiếp vào đặc điểm các câu hỏi
của GV khi tổ chức việc hỏi đáp đó.
1.2.2.3. TÍCH CỰC HÓA HĐNT CỦA HS KHI HOÀN THÀNH CÁC
CÔNG TÁC THỰC HÀNH VÀ KHI LUYỆN TẬP:
Có hai hình thức công tác tự lực của HS đã thâm nhập vững chắc vào thực
tiễn công tác của GV vật lý: Thí nghiệm thực tập (đồng loạt và thực hành vật lý)
và giải toán vật lý. Trong thực tế hiện nay, ở trường THPT thí nghiệm thực tập
chỉ chiếm chưa đầy 11% toàn bộ thời gian dành cho việc học tập vật lý mặc dù
không ai phủ nhận vai trò của nó, nó có một ý nghĩa to lớn trong việc hình thành
kiến thức mới và rèn luyện tính tự lực và phát triển kỹ năng, kỹ xảo. Ở hầu hết
các nước trên thế giới kể cả những nước đang phát triển tỉ lệ này đều vượt trên
19
20%, nhiều nước qui định chặt chẽ là 50% số giờ vật lý phải được giảng dạy
trong phòng thí nghiệm vật lý nghĩa là thông qua các thí nghiệm thực hành.
{28} Còn việc giải toán ở ta chiếm một vị trí khá lớn trong giảng dạy nhưng
đáng tiếc là các hình thức tổ chức và phương pháp thực hiện giải toán như hiện
nay chưa phải bao giờ cũng đảm bảo được sự tự lực và sự tích cực của học sinh
một cách đầy đủ. Hơn nữa nội dung những bài toán vật lý thường xa rời với
thực tiễn, làm cho việc giải toán vật lý không đạt được mục tiêu giúp HS nắm
vững những vận dụng vào thực tiễn đời sống, lao động, kỹ thuật...
Theo kinh nghiệm của một số GV tiên tiến, trong công tác thực hành và
luyện tập cố gắng đạt tới chỗ sao cho tính tự lực của học sinh càng đa dạng càng
tốt.
Chúng ta có thể phân loại các dạng bài tập sau:
- Các bài tập trong giờ học (bao gồm bài tập định tính và bài tập định
lượng): Cần phải chỉ cho HS phân tích nội dung của các bài toán và phân tích
phương pháp giải chúng, tuy nhiên cần phải khá nhanh chuyển từ phân tích bài
toán sang việc HS tự lực giải toán ở lớp (thông thường GV phân tích nêu số
liệu, mô hình đề nghị HS tự lực giải bài toán dưới sự giúp đỡ của GV nếu cần).
- Các bài toán làm thực nghiệm và thí nghiệm thực tập: Đây là dạng toán
mà HS đặc biệt hứng thứ và tích cực suy nghĩ rất nhiều, dạng bài tập này có thể
nêu bật lên tính chất nghiên cứu tới mức độ nhất định và đòi hỏi HS tự lực một
cách tối đa. Khác với các bài toán thực nghiệm mà cả lớp giải đồng thời, các bài
tập thực nghiệm GV giao cho từng nhóm HS có thể tính toán, chọn dụng cụ lắp
đặt mô hình theo yêu cầu của nội dung bài học.Điều đáng lưu ý đối với GV bài
làm có thể có mức độ phức tạp khác nhau nhưng nhất thiết phải vừa sức HS.
- Đối với thí nghiệm thực tập: So với yêu cầu của bài học, HS tự lực suy
nghĩ kế hoạch hoàn thành thí nghiệm, xác định trình tự đo lường, chọn lọc dụng
cụ và vật liệu cần thiết, vẽ sơ đồ thiết bị, mô hình thực tập vv... Sau khi lập kế
hoạch như thế HS bắt tay vào hoàn thành kế hoạch một cách có ý thức đầy đủ
và hoàn toàn tìm hiểu mọi chi tiết của công việc đề ra trước mắt. Biện pháp này
20
có căn cứ xác đáng rất cao so với cách hoàn thành thí nghiệm theo những lời chỉ
dẫn có sẵn.
1.2.3. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG
NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH {8}{23}{24}{25}
Tâm lý học cho rằng nhân cách của HS được hình thành thông qua các
hoạt động chủ động, thông qua các hành động có ý thức. Vì vậy lựa chọn cách
tổ chức HĐNT học tập cho HS là hình thức học tập cho phép đạt đến nhiều mục
đích tích cực. Nhờ HĐNT được tổ chức một cách khoa học và phù hợp, HS có
thể:
- Phát huy tính tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo, khơi dậy sự hứng thú,
lòng say mê và nhu cầu nhận thức, nhu cầu sáng tạo ... Đó là những phẩm chất
tâm lý rất tốt đẹp, rất quan trọng của người lao động sáng tạo...
- Chủ động chiếm lĩnh tri thức bằng chính HĐNT độc lập trên cơ sở triệt
để sử dụng kiến thức, kỹ năng, phương pháp nhận thức đã có. Nhờ đó kiến thức
đã được nâng lên trình độ mới: trình độ thao tác, kiến thức mới được tiếp nhận
một cách có chọn lọc, phê phán và đánh giá trở nên bền vững hơn, tinh giản hơn
và tính công cụ cao hơn.
- Từng bước trang bị và rèn luyện kỹ năng nhận thức, phương pháp nhận
thức đó chính là công cụ cần thiết để hoạt động nhận thức độc lập.
- Nhờ từng bước được đặt vào HĐNT mang tính khoa học mà HS nắm
được cách thức HĐNT hướng đến độc lập tổ chức HĐNT cá nhân.
Chính vì những ý nghĩa tích cực đó mà tổ chức HĐNT trở thành định
hướng rõ nét trong cải cách giáo dục hiện nay, nó trở thành định hướng chung
cho việc giảng dạy tất cả các môn học trong đó có vật lý.
Trong tổ chức HĐNT có ý nghĩa tích cực nhất là phương pháp làm sao cho
người học phải thật sự trở thành chủ thể của hoạt động học - được cuốn hút vào
những hoạt động học tập do GV tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó được tự lực
khám phá những cái mình chưa biết chứ không phải thụ động tiếp thu những tri
21
thức đã được sắp đặt sẵn.{8} Tính tích cực nhận thức là một trong những yêu
cầu để HĐNT thành công đồng thời đó cũng là một trong những biểu hiện của
năng lực nhận thức. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người
học. trực tiếp quan sát, thảo luận làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo
cách suy nghĩ của mình, từ đó uốn nắn được kiến thức, kỹ năng mới, vừa nắm
được những phương pháp "làm ra" những kiến thức, kỹ năng đó không nhất
thiết rập theo những khuôn mẫu sẵn có, Hơn thế nữa, người học được bộc lộ và
phát triển tiềm năng sáng tạo.
Nhịp độ phát triển của kỹ thuật, công nghệ, khoa học của mọi mặt đời sống
xã hội ngày càng nhanh thêm và nhanh đến mức trong cuộc đời của một thế hệ
đã nhiều lần diễn ra những thay đổi căn bản trong nhiều lãnh vực khác nhau của
tồn tại xã hội, khiến những tri thức thu được trong những năm học ở nhà trường
trở thành không đủ nữa mà người ta cần thu lượm những tri thức mới. Đồng
thời trong xã hội ngày nay nhu cầu chẳng những con người hiểu biết và khéo
tay mà còn cần có năng lực đề ra và độc lập giải quyết những vấn đề mới. Song
các phương pháp dạy học quen biết đã được hình thành từ trước đây tỏ ra chưa
đủ đối với việc đào tạo những người có nhu cầu như thế.
Chúng ta không đặt vấn đề gạt bỏ PPDH truyền thống đã có, mà cần phải
kế thừa phát triển những mặt tích cực trong các PPDH đã quen thuộc. Nhưng
nếu chỉ giới hạn trong những thói quen cũ sẽ không đáp ứng được yêu cầu đổi
mới phương pháp giáo dục theo hướng hoạt động hoá người học, dạy học là
phát triển nhận thức và hoàn thiện nhân cách.
Chính vì vậy, ngay từ khi đi học nhất là từ khi bắt đầu một môn khoa học,
GV đã phải hướng dẫn, phải tổ chức cho HS biết giải quyết vấn đề do nhiệm vụ
học tập đề ra, không phải giải quyết một cách cảm tính mà phải giải quyết một
cách khoa học có căn cứ vững chắc, đảm bảo HS tham gia vào HĐNT được
từng bước phát huy các phẩm chất tâm lý như tính tích cực, chủ động, độc lập
và sáng tạo... Từng bước được lưu ý rèn luyện các kỹ năng, kỹ xảo tay chân và
trí tuệ... Phải thông hiểu kiến thức của bài học trong sự thông hiểu vai trò từng
22
kiến thức trong hệ thống của từng môn học. Trên cơ sở đó, có thể định hướng
cho việc lựa chọn phương pháp nhận thức thích hợp để giải quyết vấn đề. Quá
trình học tập sẽ là quá trình liên tiếp giải quyết các vấn đề học tập. Gọi là dạy-
học giải quyết vấn đề.
1.3. DẠY HỌC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Đây không phải là vấn đề mới. Điều đáng chú ý là tập dượt cho HS phát
hiện và giải quyết vấn đề không chỉ phạm trù PPDH mà đã trở thành mục tiêu
giáo dục, bảo đảm cho con người thích ứng được với sự phát triển của xã hội
hiện đại.
Từ những năm 1960, GV chúng ta đã làm quen với thuật ngữ "dạy học nêu
vấn đề" nhưng cho đến nay vẫn chưa vận dụng thành thạo. Người ta cho rằng
thuật ngữ "nêu vấn đề" chưa thành công vì có thể gây hiểu lầm là GV chỉ nêu
vấn đề thôi mà ít quan tâm đến vấn đề đó có được giải quyết hay không, giải
quyết như thế nào. Thực ra cần tập dượt cho học sinh biết phát hiện vấn đề, tự
mình đặt ra để giải quyết. Mặt khác, sự thành đạt trong cuộc sống không chỉ tuỳ
thuộc năng lực phát hiện kịp thời những vấn đề đặt ra trong thực tiễn mà quan
trọng là giải quyết hợp lý những vấn đề được đặt ra. Vì vậy ngày nay người ta
có xu hướng dùng thuật ngữ "dạy học giải quyết vấn đề".
Trong dạy học giải quyết vấn đề ta có thể phân biệt 4 mức độ sau đây: {8}
- Mức 1: GV đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. HS thực hiện cách
giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của GV, GV đánh giá kết quả làm việc của
HS.
- Mức 2: GV nêu vấn đề, gợi ý cho HS tìm ra cách giải quyết vấn đề, GV
và HS cùng đánh giá.
- Mức 3: GV cung cấp thông tin tạo tình huống, HS phát hiện và xác định
vấn đề nảy sinh, tự lực đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải pháp, HS thực
hiện cách giải quyết vấn đề với sự giúp đỡ của GV khi cần. GV và HS cùng
đánh giá.
23
- Mức 4: HS tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của mình
hoặc của cộng đồng, lựa chọn vấn đề giải quyết, HS giải quyết vấn đề tự đánh
giá chất lượng về hiệu quả.
Cấu trúc của bài học (hoặc một phần trong bài học) theo tiến trình giải
quyết vấn đề như sau:
1. Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức:
a. Tạo tình huống có vấn đề.
b. Phát hiện và nhận dạng vấn đề nảy sinh.
c. Phát biểu vấn đề cần giải quyết.
2. Giải quyết vấn đề đặt ra:
a. Đề xuất các giả thuyết
b. Lập kế hoạch giải quyết vấn đề.
c. Thực hiện kế hoạch giải.
3. Kết luận:
a. Thảo luận kết quả và đánh giá.
b. Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết đã nêu.
c. Phát biểu kết luận.
d. Đặt vấn đề mới.
Đặc điểm của quá trình HS giải quyết vấn đề:
Để HS giải quyết vấn đề thành công, vai trò của GV không hề bị hạ thấp
mà trái lại có yêu cầu cao hơn nhiều so với khi người GV chỉ đóng vai trò
truyền thụ kiến thức, GV không những cần có trình độ chuyên môn sâu rộng mà
đòi hỏi phải có trình độ sư phạm lành nghề, có đầu óc sáng tạo và nhạy cảm mới
có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập của HS mà nhiều khi diễn biến
ngoài tầm dự kiến của GV. Theo các nhà giáo dục và các GV tiên tiến khi HS
tham gia giải quyết vấn đề có những đặc điểm sau: {25}
24
* Về động cơ hứng thú và nhu cầu:
Khác với nhà khoa học khi giải quyết vấn đề là để xác định được mục đích,
tự nguyện đem hết sức mình giải quyết cho bằng được vấn đề đặt ra, coi đó là
nhu cầu cấp bách của cá nhân, còn đối với HS động cơ, hứng thú đang được
hình thành, ý thức về mục đích trách nhiệm còn mờ nhạt, do đó chưa tập trung
chú ý đem hết sức mình để giải quyết vấn đề học tập.
* Về năng lực giải quyết vấn đề:
Đây chỉ là bước đầu làm quen với việc giải quyết vấn đề một cách khoa
học. Vấn đề đặt ra cho HS giải quyết phải vừa sức và GV phải tổ chức một khoa
học vì kiến thức, kinh nghiệm, năng lực của HS còn hạn chế.
* Về thời gian cho việc giải quyết vấn đề:
Thời gian dành cho HS giải quyết vần đề rất ngắn, thậm chí chỉ có 30 phút
đồng hồ, họ phải phát hiện và giải quyết vấn đề để hiểu một hiện tượng, một
định luật hay một ứng dụng vật lý. Đó là một điều rất kho.
* Về điều kiện và phương tiện làm việc:
HS chỉ có những phương tiện thô sơ của trường PT với độ chính xác thấp,
chỉ có điều kiện làm việc tập thể hay ở phòng thực hành, có khi không thể lặp đi
lặp lại nhiều lần. Điều kiện học tập còn rất khác nhau với những trường ở những
địa phương khác nhau.
Những điều phân tích trên dẫn đến kết luận là: HS không thể hoàn toàn tự
lực xây dựng kiến thức khoa học được mà cần phải có sự giúp đỡ của GV. Sự
giúp đỡ của GV không phải là giảng giải, cung cấp cho HS những kiến thức có
sẵn mà là tạo điều kiện để họ có thể trải qua các giai đoạn chính của quá trình
giải quyết vấn đề và tự lực thực hiện một số khâu trong tiến trình đó, động viên
khuyến khích HS kịp thời.
Như vậy, quá trình học tập của HS thực chất là quá trình HS hoạt động tự
lực trong sự phối hợp với tập thể lớp và sự giúp đỡ, hướng dẫn của GV để liên
tiếp giải quyết những vấn đề do nhiệm vụ học tập đề ra bằng nhiều PPDH khác
25
nhau mà kết quả của quá trình giải quyết vấn đề đó là HS chiếm lĩnh được kiến
thức và phát triển năng lực của mình.
1.3.1. PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM TRONG DẠY HỌC
VẬT LÝ
Để giúp HS có thể bằng hoạt động của bản thân mình mà tái tạo, chiếm
lĩnh được các kiến thức vật lý thì một trong những phương pháp thường được sử
dụng là GV phỏng theo phương pháp thực nghiệm của các nhà khoa học mà tổ
chức cho HS hoạt động theo các giai đoạn sau.
1.3.1.1. CÁC GIAI ĐOẠN CỦA PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM:
* Giai đoạn 1: (Nảy sinh vấn đề ) GV nêu lên câu hỏi mà HS chưa biết câu
trả lời (có thể mô tả hoàn cảnh thực tiễn hay quan sát hiện tượng thực tiễn, biểu
diễn một vài thí nghiệm hay biểu diễn mô hình cho HS dự đoán diễn biến và tìm
nguyên nhân). HS cần suy nghĩ tìm tòi mới phán đoán được câu trả lời
* Giai đoạn 2: (đề xuất giả thuyết) GV hướng dẫn gợi ý cho HS xây dựng
một câu trả lời dự đoán ban đầu dựa vào quan sát, vào kinh nghiệm của bản
thân, vào kiến thức đã có... Nhưng dự đoán có thể thô sơ, có vẻ hợp lý nhưng
chưa chắc chắn.
* Giai đoạn 3: (Hệ quả) Từ giả thuyết dùng suy luận lôgic hay suy luận
toán học suy ra hệ quả, dự đoán một hiện tượng trong thực tiễn, mối quan hệ
giữa các đại lượng vật lý, quan hệ giữa các phần tử trong mô hình (nếu là các
mô hình có liên quan đến các bài học của vật lý ứng dụng).
* Giai đoạn 4: (Kiểm tra hệ quả) Xây dựng và thực hiện một phương án thí
nghiệm để kiểm tra xem hệ quả dự đoán, cấu trúc mô hình có phù hợp với kết
quả thực nghiệm hay không. Nếu phù hợp thì giả thuyết, mô hình là đúng ngược
lại nếu không phù hợp thì phải xây dựng giả thuyết mới, mô hình mới. Thiết kế
một phương án thí nghiệm là một công việc đòi hỏi phải vận dụng kiến thức,
kinh nghiệm, kỹ năng đã có và đặc biệt phải có trí tưởng tượng và tư duy sáng
tạo.
26
* Giai đoạn 5: (ứng dụng kiến thức) HS vận dụng kiến thức để giải thích
hay dự đoán một số hiện tượng trong thực tiễn, để nghiên cứu thiết bị kỹ thuật.
Thông qua đó, trong một số trường hợp sẽ đi tới giới hạn áp dụng của kiến thức
và xuất hiện mâu thuẫn mới cần giải quyết.
1.3.1.2. CÁC MỨC ĐỘ SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM
TRONG DẠY HỌC VẬT LÝ
Có những bài học, HS tham gia vào đầy đủ 5 giai đoạn trên nhưng cũng có
nhiều trường hợp HS gặp khó khăn không thể vượt qua được, thì có thể sử dụng
phương pháp thực nghiệm ở mức độ khác nhau, thể hiện ở mức độ HS tham gia
vào các giai đoạn của phương pháp thực nghiệm.
* Giai đoạn 1:
- Mức 1: HS tự lực phát hiện vấn đề, nêu câu hỏi. GV giới thiệu hiện tượng
xảy ra đúng như thường thấy trong tự nhiên để HS tự lực phát hiện những tính
chất hay những mối quan hệ đáng chú ý cần nghiên cứu.
- Mức 2: GV tạo ra những hoàn cảnh đặc biệt trong đó xuất hiện một hiện
tượng mới lạ, lôi cuốn sự chú ý của HS, gây cho họ sự ngạc nhiên, sự tò mò. Từ
đó HS nêu ra một vấn đề, một câu hỏi cần giải đáp.
- Mức 3: GV nhắc lại một vấn đề, một hiện tượng đã biết và yêu cầu HS
phát hiện xem trong vấn đề hay hiện lượng đã biết, có chỗ nào chưa hoàn chỉnh,
đầy đủ cần tiếp tục nghiên cứu.
* Giai đoạn 2:
- Mức 1 Dự đoán định tính: Trong những hiện tượng thực tế phức tạp, dự
đoán về nguyên nhân chính chi phối hiện tượng. Có thể có rất nhiều dự đoán mà
ta phải lần lượt tìm ra và bác bỏ.
- Mức 2 Dự đoán định lượng: Việc dự đoán định lượng có thể dựa trên một
cặp số liệu được biểu diễn trên đồ thị, dựa trên dạng đồ thị mà ta dự đoán mối
quan hệ hàm số giữa hai đại lượng.
27
- Mức 3 Những dự đoán đòi hỏi một sự quan sát chính xác, tỉ mỉ, một sự
tổng hợp nhiều sự kiện thực nghiệm…
* Giai đoạn 3:
- Mức 1: Hệ quả có thể quan sát, đo lường trực tiếp.
- Mức 2: Hệ quả không quan sát, đo lường trực tiếp bằng các đụng cụ đo
mà phải tính toán gián tiếp qua việc đo các đại lượng khác.
- Mức 3: Hệ quả suy ra trong điều kiện lý tưởng hay từ lý thuyết chỉ là gần
đúng.
* Giai đoạn 4:
- Mức 1: Thí nghiệm đơn giản, học sinh đã biết cách thực hiện các phép
đo, sử dụng dụng cụ đo.
- Mức 2: Học sinh đã biết nguyên tắc đo các đại lượng nhưng việc bố trí
thí nghiệm cho sát với điều kiện lý tưởng có khó khăn. GV viên phải giúp đỡ
bằng cách giới thiệu phương án làm để HS thực hiện.
- Mức 3: Có nhiều trường hợp thí nghiệm kiểm tra là thí nghiệm kinh điển,
không thể thực hiện ở trường phổ thông. GV mô tả cách bố trí thí nghiệm rồi
thông báo kết quả các phép đo để HS gia công các số liệu, rút ra kết luận hoặc
GV thông báo cả kết luận.
* Giai đoạn 5:
- Mức 1: ứng dụng trong đó HS chỉ cần vận đụng định luật vật lý để làm
sáng tỏ nguyên nhân của hiện tượng hoặc tính toán trong điều kiện lý tưởng.
- Mức 2: Xét một ứng dụng kỹ thuật đã được đơn giản hóa để có thể chỉ
cần áp dụng cho một vài định luật vật lý.
- Mức 3: Xét một ứng dụng kỹ thuật trong đó không chỉ áp dụng cho các
định luật vật lý mà còn cần phải có những giải pháp đặc biệt để làm cho các
hiện tượng vật lý có hiệu quả cao, sao cho thiết bị được sử dụng trong đời sống
và trong sản xuất.
28
Dạy học các kiến thức vật lý bằng phương pháp thực nghiệm là một hướng
ưu tiên ở trường PT. Để thực hiện thành công mỗi giai đoạn của phương pháp
thực nghiệm đòi hỏi người GV phải có suy nghĩ sáng tạo và có kỹ năng, kỹ xảo
về nhiều mặt. Bởi vậy GV phải tùy theo nội dung của mỗi kiến thức, tùy theo
trình độ của HS, tùy theo điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị ở trường PT mà
phải phối hợp phương pháp thực nghiệm và các phương pháp nhận thức khác
trong dạy học vật lý (ví dụ phương pháp thực nghiệm phối hợp với phương
pháp mô hình hay phương pháp tương tự...), làm sao cho HS thấy được ý nghĩa
và tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu mà nhận thức bài học một cách tốt
nhất.
1.3.2. PHƯƠNG PHÁP MÔ HÌNH TRONG DAY HỌC VẬT LÝ
1.3.2.1. KHÁI NIỆM CHUNG:
1. Định nghĩa: V.A Stôphô đã định nghĩa mô hình như sau "Mô hình là
một hệ thống được hình dung trong óc, hay được thực hiện một cách vật chất.
Hệ thống đó phản ánh những thuộc tính bản chất của đối tượng nghiên cứu (đối
tượng gốc) hoặc tái tạo nó, bởi vậy việc nghiên cứu mô hình sẽ cho ta những
thông tin về đối tượng gốc". {25}
Vì mô hình chỉ phản ánh một số thuộc tính bản chất của đối tượng vật chất
nên một đối tượng có thể có nhiều mô hình đại diện cho nó. Vì vậy mô hình
không đồng nhất với đối tượng mà nó phản ánh. Có nhiều trường hợp một mô
hình là biểu diễn của nhiều hiện tượng khác nhau về bản chất. Đồng thời một
đối tượng có thể có nhiều mô hình đại diện cho nhiều mặt khác nhau của đối
tượng.
29
Phương pháp mô hình được sử dụng rộng rãi trong vật lý và nó mang lại
những kết quả to lớn. Mô hình trong vật lý không chỉ dùng để mô tả và giải
thích hiện tượng mà còn có những chức năng như sau:
- Mô tả sự vật hiện tượng.
- Tiên đoán tính chất và hiện tượng mới – Đấy là chức năng quan trọng
- Giải thích các tính chất và hiện tượng có liên quan đến đối tượng.
của mô hình trong khoa học.
2. Tính chất của mô hình: Với tính chất là một hệ thống phản ánh những
thuộc tính của đối tượng mà nó thay thế, một mô hình có những thuộc tính cơ
bản sau:
a- Tính tương tự vật gốc: Để bảo đảm thông tin có được từ mô hình có thể
chuyển sang vật gốc. Vì vậy mô hình có quan hệ đồng cấu hay đẳng cấu với vật
gốc. Sự tương tự giữa mô hình với vật gốc có thể là sự tương tự về cấu trúc hay
chức năng.
b- Tính đơn giản: Mô hình được xây dựng trên cơ sở trừu tượng hóa và
khái quát hóa. Kết quả của thao tác này luôn luôn dẫn đến sự đơn giản hóa. Vì
vậy, tính đơn giản trong mô hình là một tất yếu khách quan nó mang lại hiệu
quả to lớn trong việc sử dụng mô hình.
c- Tính trực quan: Một số mô hình có thể nhận biết trực tiếp bằng trực
giác. Còn những mô hình lý tưởng giúp ta vật chất hoá các tính chất các mối
quan hệ không thể tri giác được, nó giúp ta tưởng tượng ra.
d- Tính qui luật riêng: Khi xây dựng mô hình, người ta dùng một hệ thống
để mô tả một số đặc tính của vật gốc mà ta chưa biết đầy đủ. Hệ thống này tuân
theo những qui luật riêng, nhiều khi không còn giống qui luật phân phối vật
hoặc hệ thống vật gốc, hệ thống vật dùng để thay thế vật gốc đó tuân theo
những qui luật riêng mà ta đã biết rõ gọi là qui luật riêng của mô hình.
e- Tính lý tưởng: Mô hình có chức năng đại diện tức là phản ánh thực tiễn
nhưng sau sự trừu tượng hóa và khái quát hóa cao thì mô hình trở nên lý tưởng.
30
Có nghĩa là không có mô hình nào mô tả hoặc giống hệt thực tiễn ở mọi khía
cạnh, bởi vì nếu mô hình giống hệt thực tiễn thì nó không còn tính đại điện nữa
và nó mất đi tính ưu việt.
Mô hình lý tưởng càng cao thì càng tổng quát, càng bao trùm được nhiều
đối tượng, nhưng khi đưa mô hình vào thực tế càng gặp nhiều khó khăn.
3. Các loại mô hình trong vật lý học:
Có thể phân mô hình vật lý làm hai loại:
- Mô hình vật chất: Là mô hình bằng vật thể trên đó phản ánh những tác
động cơ bản về mặt hình học, vật lý học, động lực học, chức năng học của đối
tượng nghiên cứu. Loại mô hình này sử dụng ở giai đoạn thấp của quá trình
nhận thức, khi cần hình thành những biểu tượng hoặc thu thập những kiến thức
có tính chất kinh nghiệm.
- Mô hình lý tưởng (hay mô hình lý thuyết): Là những mô hình trừu tượng,
về nguyên tắc người ta chỉ áp dụng trên nó những thao tác tư duy lý thuyết. Các
mô hình lý thuyết có thể có rất nhiều loại, theo mức độ trừu tượng khác nhau
gồm: {25}
* Mô hình ký hiệu: Là hệ thống những ký hiệu được dùng để mô tả, thay
thế sự vật, hiện tượng vật lý (như mô hình công thức toán, mô hình đồ thị...). Ví
dụ: Mô hình tia sáng được sử dụng để xây dựng kiến thức về quang hình học,
mặc dù không phải ánh sáng truyền theo từng tia, nhưng khi qua một khe hẹp
chùm sáng (chùm photon với tính chất sóng-hạt) cho hình ảnh một tia.
Trong môi trường trong suốt đồng tính và đẳng hướng có thể coi ánh sáng
truyền theo đường thẳng, ta biểu diễn hiện tượng này bằng cách dựng những
nữa đường thẳng gọi là tia, chiều của một tia theo chiều truyền của ánh sáng. Từ
đó ta đưa ra những điều kiện để trực tiếp nhìn thấy một điểm vật hay ảnh của
một điểm vật qua dụng cụ quang học và xây dựng được các tia cơ bản để xác
định được vị trí ảnh của một vật qua quang cụ hay hệ quang cụ. Tuy nhiên tia
sáng chỉ là một mô hình, nhờ đó ta xác định được vị trí, độ lớn, góc trông... của
31
ảnh qua quang cụ, trong khi mục đích của kiến thức quang hình học là giúp ta
xác định làm thế nào, ở vị trí nào... để mắt có thể quan sát sát rõ ảnh của một vật
qua quang cụ. Khi học thì HS xác địuh vị trí, độ lớn ảnh...của một vật qua các
quang cụ, hay hệ quang cụ bằng mô hình tia sáng, nhưng trong thực tế dụng cụ
quang học dùng để quan sát ảnh, nên khi giảng dạy phần kiến thức này, GV cần
phải cho HS thấy rõ ứng dụng thực tế của các dụng cụ quang học bằng phương
pháp thực nghiệm.
*- Mô hình biểu tượng: Là dạng trừu tượng nhất của mô hình lý tưởng,
những mô hình biểu tượng không tồn tại trong thực tế mà chỉ có trong tư duy.
Ta chỉ nêu lên algorit để tạo ra mô hình và hình dung nó trong óc, chứ không
làm ra mô hình cụ thể, với sự hình dung đó người ta có thể nghiên cứu hành vi
của mô hình.
1.3.2.2. PHƯƠNG PHÁP MÔ HÌNH TRONG VẬT LÝ HỌC: {24}{25}
Cơ sở lý thuyết của phương pháp mô hình là lý thuyết tương tự, các kết
luận rút ra từ sự tương tự có tính giả thuyết, vì vậy mô hình cũng có tính giả
thuyết, giả thuyết đó chỉ trở thành chân lý khoa học khi chúng được kiểm tra và
xác nhận bằng thực nghiệm. Từ khi xây dựng mô hình đến lúc xác nhận bằng
thực nghiệm thì phương pháp mô hình có thể chia thành những giai đoạn như
sau:
• Giai đoạn 1: Nghiên cứu các tính chất của đối tượng gốc bằng quan sát
thực nghiệm xác định được tập hợp tính chất các đối tượng làm cơ sở xây
dựng mô hình.
• Giai đoạn 2: Nhờ kết quả của sự tương tự hình dung sơ bộ về đối tượng
nghiên cứu. Ở giai đoạn này, trí tưởng tượng và trực giác nhạy bén giữ vai
trò quan trọng, nhờ chúng mà người ta có thể trừu xuất những tính chất và
các mối quan hệ của đối tượng nghiên cứu thay thế nó bằng mô hình chỉ
mang tính chất và các mối quan hệ mà chúng ta quan tâm.
32
• Giai đoạn 3: Thao tác trên mô hình (cho mô hình vận hành từ đó suy các
hệ quả).
- Với mô hình vật chất: Người ta làm thí nghiệm thật trên đó để kiểm
chứng hệ quả.
- Với mô hình lý tưởng: Người ta tiến hành suy luận lôgic trên nó kết
hợp chặt chẽ với logic toán học.
• Giai đoạn 4: Thực nghiệm kiểm chứng tính đúng đắn của mô hình sẽ được
thẩm định nếu thực nghiệm kiểm chứng phù hợp với hệ quả được tiên
đoán, khi đó mô hình được chấp nhận, còn ngược lại thì phải diều chỉnh
mô hình hoặc loại bỏ và thay thế bằng mô hình khác.
1.3.2.3. VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP MÔ HÌNH TRONG DẠY HỌC
VẬT LÝ:
Phương pháp mô hình là phương pháp quan trọng trong vật lý. Học tập vật
lý sử dụng phương pháp mô hình cùng với phương pháp nhận thức khác là giúp
cho HĐNT của HS thuận lợi và bảo đảm tính khoa học hơn. Mặc dù HS nhiều
khi không đủ khả năng để xây dựng mô hình, nhưng bằng cách này hay cách
khác GV có thể sử dụng mô hình như phương tiện giúp cho HS HĐNT.
Phương pháp mô hình trong dạy học vật lý có thể phân chia thành các mức
độ sau:
* Mức độ 1: GV trình bày các sự kiện thực tế mà HS không thể giải thích
bằng kiến thức kinh nghiệm đã có, sau đó đưa mô hình mà các nhà khoa học
xây dựng HS vận dụng nó để giải thích các sự kiện trên. Ở giai đoạn này, HS có
thể thụ động tiếp thu mô hình, điều quan trọng là họ phân biệt được mô hình và
thực tế và sử dụng mô hình để giải thích thực tế.
* Mức độ 2: HS sử dụng mô hình mà GV đưa ra để giải thích các hiện
tượng khác tương tự như hiện tượng ban đầu.
* Mức độ 3: HS sử dụng mô hình mà GV đưa ra tiên đoán hiện tượng mới
33
* Mức độ 4: HS dưới sự hướng dẫn của GV tham gia vào cả 4 giai đoạn
của việc xây dụng mô hình, nhờ đó nắm vững tính năng của mô hình và sử dụng
nó để giải quyết các vấn đề nhận thức.
* Mức độ 5: HS tự lực và có thể sáng tạo xây dựng mô hình để giải quyết
nhiệm vụ nhận thức của mình.
1.3.2.4. NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA PHƯƠNG
PHÁP MÔ HÌNH TRONG VẬT LÝ HỌC:
1. Những ưu điểm:
Trước hết, phương pháp mô hình giúp ta hiểu rõ đối tượng nghiên cứu. Mô
hình là vật đại diện, trên đó ta sẽ tác động những thao tác lôgic và thực nghiệm.
Rất nhiều hiện tượng và quá trình được giải thích rõ ràng thông qua mô hình
(mô hình khí lý tưởng).
Nhiều khi cùng một đối tượng phải dùng đến nhiều mô hình mới giải thích
được, nhưng mô hình này có thể chứa đựng những tính chất trái ngược nhau
(như mô hình sóng - hạt của ánh sáng), có trường hợp một mô hình có thể dùng
cho nhiều loại hiện tượng khác nhau về bản chất (mô hình sóng: sóng âm, sóng
cơ, sóng ánh sáng, dao động điện...).
Xu hướng hiện đại của vật lý là xây dựng những mô hình khái quát phản
ánh nhiều mặt của thế giới khách quan. Phương pháp mô hình trong nhiều
trường hợp đã dẫn đến những lý thuyết mới.
2. Những nhược điểm:
Các nhà khoa học đều công nhận tác dụng lớn lao của phương pháp mô
hình, nhưng cũng đồng thời cũng nhấn mạnh tính gần đúng, tính tạm thời của
nó. Các mô hình tuy phản ánh thế giới khách quan nhưng không thể thay thế
hoàn toàn hiện thực khách quan được, thậm chí nhiều mô hình chỉ có giá trị
hoàn toàn như một phương tiện nhận thức.
Mặc dù mỗi mô hình chỉ phản ánh được một mặt nào đó của thế giới khách
quan, nhưng khi sử dụng một mô hình, người ta thường gắn cho nó tầm khái
34
quát rộng lớn. Vì, có khi vì quá tin vào một mô hình đã được xác lập mà người
ta đi đến bảo thủ, không thừa nhận những sự kiện thực tế mới trái với mô hình
đó, đây là sự lầm lẫn HS hay mắc phải giữa mô hình và thực tại mà nó đại diện
gây cản trở cho quá trình HĐNT.
1.3.3. PHƯƠNG PHÁP TƯƠNG TƯ:
1.3.3.1. KHÁI NIỆM: Phương pháp tương tự là phương pháp nhận thức
khoa học với sự sử dụng sự tương tự và phép suy luận tương tự nhằm thu nhận
những tri thức mới.
1.3.3.2. CÁC GIAI ĐOẠN CƠ BẢN CỦA PHÉP TƯƠNG TỰ:
* Giai đoạn 1: Tập hợp các dấu hiệu về đối tượng cần nghiên cứu và các
dấu hiệu về đối tượng đã có những hiểu biết phong phú định đem đối chiếu
* Giai đoạn 2: Tiến hành phân tích những dấu hiệu giống nhau và khác
nhau giữa chúng. Kiểm tra các dấu hiệu giống nhau có đồng thời là các dấu hiệu
bản chất của các đối tượng này hay không
* Giai đoạn 3: Truyền các dấu hiệu của đối tượng đã biết cho đối tượng
cần nghiên cứu bằng suy luận tương tự
* Giai đoạn 4: Kiểm tra tính đúng đắn của các kết luận rút ra (hoặc các hệ
quả của chứng) có tính giả thuyết đó ở chính đối tượng cần nghiên cứu
Nếu các kết luân rút ra không đúng đối với đối tượng cẩn nghiên cứu thì
phải trở lại giai đoạn 1 (lựa chọn đối tượng khác để đem so sánh)
Thực nghiệm có vai trò quan trọng trong phương pháp tương tự. Nhờ nó
mà ta phát hiện được sự tồn tại của các dấu hiệu giống nhau (tương tự) của các
đối tượng, làm cơ sở cho việc lựa chọn đối tượng đem so sánh và cũng nhờ nó
mà kiểm tra được tính đúng đắn của những kết luận rút ra được bằng suy luận
tương tự.{25}
Ví dụ: Khi HS nghiên cứu về các tật của mắt họ đã biết rằng nếu xét về
phương diện quang hình học, thủy tinh thể của mắt được xem như thấu kính hai
mặt lồi, muốn nhìn lõ một vật thì nhất thiết ảnh của vật đó nằm trên võng mạc
35
của mắt. Đối mắt cận thị thì tiêu cự lớn nhất của thủy tinh thể ngắn hơn hoặc đối
với mắt viễn thị thì tiêu cự nhỏ nhất của thủy tỉnh thể dài hơn tiêu cự của mắt
không tật. Vì vậy khi thí nghiệm đo tiêu cự của hai thấu kính ghép sát nhau, học
sinh có thể dùng sự tương tự khi ghép sát hai thấu kính hội tụ hoặc giữa một
thấu kính hội tụ và một thấu kính phân kỳ thì hình dung được rằng: Muốn sửa
các tật của mắt thì người cận thị đeo thấu kính gì, người viễn thị đeo kính gì
1.3.3.3. PHƯƠNG PHÁP TƯƠNG TỰ TRONG DẠY HỌC VẬT LÝ:
* Sự cần thiết của việc sử dụng phương pháp tương tự trong dạy học
vật lý:
Trong quá trình HS sử dụng phương pháp tương tự để giải quyết vấn đề
học tập, HS được rèn luyện một loạt các thao tác tư duy, được phát triển niềm
tin vào mối liên hệ có tính mối liên hệ có tính khái quát, có tính qui luật của các
sự vật, hiện tượng tự nhiên đa dạng và phong phú.
Việc sử dụng phương pháp tương tự góp phần năng cao hiệu quả của giờ
học, thể hiện trước hết ở tính sâu sắc, tính hệ thống của các kiến thức vì nó tạo
cho HS liên kết cái chưa biết và cái đã biết.
Việc sử dụng phương pháp tương tự còn làm cho HS dễ hình dung các hiện
tượng, quá trình vật lý không thể quan sát trực tiếp được.
Điều kiện dạy học ở trường PT (thời gian, tình trạng thiết bị) nhiều khi chỉ
cho phép đề cập sâu một đối tượng (vật đại diện) rồi sử dụng suy luận tương tự
rút ra những kết luận cho đối tượng khác tương tự với nó.
* Các khả năng sử dụng sự tương tự và phương pháp tương tự trong
dạy học vật lý:
Có thể sử dụng sự tương tự ở các giai đoạn khác nhau của quá trình dạy
học, nhưng có giá trị hơn cả là việc sử dụng phương pháp tương tự để xây dựng
kiến thức mới.
36
Trong dạy học vật lý, người ta cũng thường sử dụng sự tương tự để minh
họa làm cho HS dễ hình dung các hiện tượng, quá trình vật lý không thể quan
sát được.
Cũng có thể sử dụng sự tương tự để hệ thống hóa kiến thức mà HS đã lĩnh
hội nhiều phần khác nhau của vật lý.
* Một số yêu cầu khi sử dụng sự tương tự và phương pháp tương tự:
Khi GV hướng dẫn, tổ chức cho HS tham gia giải quyết vấn đề bằng cách
sử dụng sự tương tự và phương pháp tương tự, nhất thiết phải đảm bảo một số
yêu cầu sau:
HS phải được tự lực cao ở mức có thể được trong tất cả các giai đoạn của
phương pháp tương tự, ngay cả giai đoạn lựa chọn đối tượng đã biết làm đối
tượng so sánh với đối tượng đang nghiên cứu
Lựa chọn đối tượng so sánh ở mức độ nông sâu phụ thuộc không những
vào cấu trúc và nội dung của chương trình mà còn phụ thuộc vào đặc điểm của
lứa tuổi HS.
Điều kiện cơ bản cho việc sử dụng phương pháp tương tự đạt kết quả là HS
phải có vốn hiểu biết về đối tượng đem so sánh từ những bài học trước hoặc từ
kinh nghiệm sống
Khi sử dụng sự tương tự, phải làm sáng tỏ phạm vi của sự tương tự, phát
hiện không những dấu hiệu giống nhau mà còn cả dấu hiệu khác nhau, đặc biệt
là dấu hiệu cơ bản để phân biệt chúng với nhau.
Muốn phát huy được tính tích cực, tự lực và sáng tạo của HS, phải áp dụng
kiểu học "tích cực, phân hoá" GV phải biết hướng dẫn, tổ chức cho HS tự mình
khám phá kiến thức mới, dạy cho HS không chỉ kiến thức mà còn phương pháp
học. Chính trong các hoạt động tự lực được giao cho từng cá nhân hay từng
nhóm nhỏ thì tiềm tàng năng lực sáng tạo của mỗi học sinh được bộc lộ và phát
huy {8}
37
Như vậy, khi giảng dạy một kiến thức mới ngoài cách làm cho HS thấy
được ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu, ngoài sự phối hợp hài
hòa giữa các phương pháp, ngoài sự sử dụng tối đa các phương tiện dạy học,
GV còn biết cách phối hợp nhiều hình thức dạy học khác nhau: học cả lớp, tự
học, học theo tổ nhóm, tham quan, giả ngoại...
1.4. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP THEO NHÓM:
1.4.1. KHÁI NIỆM VỀ TỔ CHỨC DẠY HỌC THEO NHÓM:
Để tích cực HĐNT của HS cùng với các dạng trong hoạt động dạy học xã
hội như: Dạng hoạt động chung (cả lớp), dạng hoạt động cá nhân (một thầy một
trò hoặc từng đôi HS) thì dạng hoạt động theo tổ nhóm cũng là một biện pháp
cần thiết để HS hoạt động tích cực.
Dạy học theo nhóm là một hình thức dạy học trong đó những HS ở cùng
một nhóm trao đổi với nhau những ý tưởng, những mô hình, nguồn kiến thức
hợp tác giúp đỡ nhau trong học tập. Lớp học được chia từ 4 đến 6 học sinh. Tùy
mục đích yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia theo ngẫu nhiên
hoặc có chủ định của GV, ổn định trong cả tiết học hay thay đổi từng phần của
tiết học, các nhóm được giao cùng một nhiệm vụ hoặc những nhiệm vụ khác
nhau. Nhóm tự bầu ra nhóm trưởng nếu thấy cần. Tuy nhiên có thể phân công
một thành viên hoàn thành một công việc. Điều đặc biệt là trong nhóm nhỏ mỗi
thành viên đều phải làm việc, không ỷ lại vào một người có hiểu biết và năng
động hơn, các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề trong không
khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào
kết quả học tập chung của cả lớp. Đến khâu trình bày kết quả của nhóm trước
toàn lớp, nhóm có thể cử một đại điện hay mỗi thành viên trình bày một phần
nếu nhiệm vụ học tập là khá phức tạp.
38
1.4.2. CẤU TRÚC CỦA MỘT TIẾT HỌC (HAY MỘT BUỔI
LÀM VIỆC) THEO NHÓM:
Dạy học theo nhóm có tác dụng phát huy tính tích cực của HS nhưng cũng
không làm nhẹ vai trò của GV mà trái lại còn có nhiệm vụ nặng hơn, ngoài kiến
thức chuyên môn sâu rộng GV còn là người khởi xướng, hướng dẫn, tổ chức
chương trình tự học, tự nghiên cứu của HS. Mặt khác ngoài công tác tổ chức
hoạt động học tập theo nhóm cho HS, GV còn theo dõi quan hệ trò - trò làm sao
cho HS thể hiện được mình và hợp tác với bạn trên cơ sở tự lực, chủ động. Kích
thích hoạt động của HS, can thiệp đúng lúc khi cuộc thảo luận đi chệch hướng,
gợi ý hoặc nêu các tình huống phụ khi thảo luận đến chỗ bế tắc. Cách xử lý tình
huống của GV phải chuẩn mực có tính chất khái quát và khẳng định về mặt
khoa học. Đó là cơ sở đáng tin cậy để HS tự kiểm tra đánh giá và tự hoàn chỉnh.
Với những đặc điểm trên, theo GS-TS Trần Bá Hoành thì tiết học (hay buổi làm
việc theo nhóm) có cấu trúc như sau:
1.4.2.1. LÀM VIỆC CHUNG CẢ LỚP:
* GV nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức.
* GV tổ chức nhóm (có thể phân nhóm trước giờ học), giao nhiệm vụ.
* GV hướng dẫn cách làm việc theo nhóm.
1.4.2.2. LÀM VIỆC THEO NHÓM:
* Trao đổi ý kiến làm việc theo nhóm.
* Phân công trong nhóm, từng cá nhân làm việc độc lập rồi trao đổi.
*Cử đại diện (hoặc phân công) trình bày kết quả làm việc theo nhóm.
1.4.2.3. THẢO LUẬN TỔNG KẾT TRƯỚC TOÀN LỚP:
* Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả.
* Thảo luận chung.
* GV tổng kết đặt vấn đề cho kiến thức mới hoặc vấn đề liên quan đến sự
vận dụng hay sáng tạo của kiến thức cũ.
39
1.4.3 NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA DẠY HỌC THEO
NHÓM:
- PPDH hợp tác trong nhóm nhỏ cho phép các thành viên trong nhóm chia
sẻ suy nghĩ, băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân cùng nhau xây dựng nhận
thức mới. Bằng cách nói ra những điều đang suy nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ
trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần được học hỏi thêm
những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp
nhận thụ động kiến thức từ GV, thành công của lớp học phụ thuộc vào sự nhiệt
tình tham gia của mỗi thành viên.
Vì vậy: Tính tích cực, chủ động và sáng tạo của HS thông qua hoạt động
cá nhân hợp tác với bạn, với thầy và tự đánh giá, điều chỉnh được thể hiện và
được duy trì trong suốt tiến trình học theo nhóm. HS thật sự là chủ thể sáng tạo
của hoạt động học tập.
- Qua hoạt động học tập trong nhóm có sự tương tác giữa các chủ thể hoạt
động. Tham gia vào nhóm học tập, một mặt HS được các chuẩn mực, giá trị xã
hội, mặt khác hoàn thiện và làm phong phú hơn các chuẩn mực giá trị đó. Biểu
hiện ở chỗ HS có kinh nghiệm hơn đối với công việc của mình, qua đó đối
chiếu mình với người khác, từ đó tự đánh giá và điều chỉnh mình cho phù hợp
và thích ứng đối với đòi hỏi của khoa học và xã hội
- Học tập theo nhóm và lao động hợp tác, tư duy và sáng tạo của HS được
giải phóng và tự do hoạt động, qua thảo luận nhóm có thể xuất hiện những ý
kiến "bất chợt" những "xuất thần" những "thông minh đột xuất" làm phong phú
cho vốn kiến thức hiểu biết cho tập thể trong việc tìm giải pháp giải quyết vấn
đề
40
1.4.4. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG
HỌC TẬP THEO NHÓM:
Ngoài những đặc điểm tích cực của cách tổ chức hoạt động theo nhóm nêu
trên, cách tổ chức này còn có những hạn chế như sau:
* Ảnh hưởng theo lối dạy thầy là người truyền đạt và kiểm tra, trò là người
tiếp nhận và tái tạo không dễ dàng nhường chỗ cho cách tổ chức hoạt động học
tập theo nhóm mà ở đó được tranh luận thẳng thắn cởi mở và dân chủ phát huy
tối đa tính tích cực chủ động của học sinh.
* Hiện nay cơ sở vật chất, phương tiện dạy học, dụng cụ thí nghiệm, sơ đồ
chỗ ngồi của học sinh…, chưa thích ứng cho việc tổ chức hoạt động học tập
theo nhóm.
* Chương trình SGK quá tải về kiến thức mà cách tổ chức hoạt động học
tập theo nhóm đòi hỏi thời gian phân bố cho thích hợp với nội dung. Nếu GV tổ
chức không khoa học phân bố thời gian không hợp lý thì làm cho một số môn
học khác bị ảnh hưởng không tốt. Để tránh tình trạng này, GV phải sử dụng
đàm thoại thường xuyên hơn trong giờ học, có như vậy HS mới có được kỹ xảo
đàm thoại, câu trả lời nhanh hơn chính xác hơn và luôn giữ tầm nhìn của sợi dây
lôgic của suy luận mà điều này thì HS chúng ta chưa quen chưa thể hiện một
cách sâu sắc.
* Tổ chức hoạt động học tập theo nhóm cho HS là một hoạt động có cường
độ lao động căng thẳng và mệt mỏi, trong đó người thầy phải có năng lực, sáng
tạo ra các tình huống, xử lý và giải quyết tốt các tình huống nhiều khi không có
trong dự kiến. Đây là điều không phải bất kỳ người thầy nào cũng có được, chỉ
có những người thầy có nhiệt huyết và có năng lực sư phạm và trình độ chuyên
môn sâu sắc mới có thể làm được.
41
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trên đây, chúng tôi đã trình bày cơ sở lý luận của đề tài luận văn. Những
vấn đề đã trình bày trên được tóm tắt thành những ý chính sau:
Học vật lý thông qua hoạt động nhận thức là hình thức học tập cho phép
đạt đến nhiều mục đích tích cực, chính vì ý nghĩa tích cực mà tổ chức hoạt động
nhận thức trở thành định hướng rõ nét trong cải cách giáo dục, nó trở thành định
hướng chung cho tất cả các môn học trong đó có vật lý học. HS là chủ thể của
HĐNT học tập, được lựa chọn, tổ chức và điều hành bởi GV.
Vai trò của GV trong dạy - học là người tổ chức, chỉ đạo, uốn nắn, tạo
những tình huống học tập trong đó xuất hiện những vấn đề cần giải quyết sao
cho HS phát huy được tính tích cực, tự lực và sáng tạo phù hợp với khả năng
của mình.
Nhiệm vụ của HS là phải biết những điều kiện chủ quan thuận lợi và bộc lộ
những khó khăn về nhiều mặt trong HĐNT, tự sửa chữa, tự điều chỉnh, tự đánh
giá để đạt được mục đích của hoạt động học là chiếm lĩnh tri thức, kinh nghiệm
xã hội - lịch sử một cách vững chắc biến nó thành năng lực thể chất, năng lực
tinh thần của cá nhân HS.
Trên cơ sở tâm lý học "Năng lực nhận thức của con người được hình thành
qua chính hoạt động nhận thức" và vận dụng quan điểm hiện đại về dạy học vật
lý nói chung và dạy các ứng dụng kỹ thuật của vật lý nói riêng và với mục đích
cho HS làm quen và từng bước đóng vai trò của chủ thể HĐNT, ở đó có sự kết
hợp hài hòa các PPDH, có sử dụng tổ hợp các kỹ năng trí tuệ và tay chân đầy đủ
giúp học sinh không những được trang bị những kiến thức, kỹ năng mà loài
người tích lũy được mà còn bồi dưỡng cho họ khả năng giải quyết vấn đề do
thực tiễn đặt ra và năng lực sáng tạo.
Trên cơ sở đảm bảo tính sư phạm, phương pháp dạy - học cụ thể cho từng
bài học trong chương "MẮT VÀ CÁC DỤNG CỤ QUANG HỌC" lớp 12
42
THPT. chúng tôi soạn tiến trình dạy - học đáp ứng với mục đích sau: Dựa trên
những định luật, nguyên lý, bài tập về quang hình học đã biết, HS dùng tia sáng
để xây dựng mô hình ảnh của một vật qua dụng cụ quang học, nhưng trong thực
tế, dụng cụ quang học là dùng để quan sát ảnh của một vật. Nhằm phát huy tính
tích cực, tự lực và sáng tạo của HS và cho HS thấy được ý nghĩa của ứng dụng
kỹ thuật vật lý trong thực tiễn chúng tôi đi theo hướng như sau:
* Phối hợp nhiều PPDH cho một nội dung bài học, trong đó chủ yếu là
phương pháp thực nghiệm có kết hợp với phương pháp mô hình, phương pháp
tương tự và tùy nội dung bài học có tổ chức hình thức thảo luận theo nhóm HS.
43
CHƯƠNG 2 SOẠN THẢO TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
CHƯƠNG "MẮT VÀ CÁC DỤNG CỤ QUANG HỌC"
THEO HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ LỰC
VÀ SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH
2.1. PHÂN TÍCH CHƯƠNG TRÌNH
2.1.1.NHẬN XÉT CHUNG PHẦN QUANG HÌNH HỌC:
Học thuyết về ánh sáng là một trong những học thuyết rất quan trọng của
vật lý hiện đại. Học thuyết này dựa trên quan niệm về lưỡng tính sóng - hạt của
ánh sáng.
Chương trình quang hình học hiện nay ở nước ta được học ở hai cấp, cấp
THCS và cấp THPT. Ở THCS đề cập đến khái niệm sự truyền thẳng ánh sáng,
sự phản xạ ánh sáng, sự tạo ảnh qua gương phẳng, khúc xạ ánh sáng, sự tạo ảnh
qua thấu kính. Ở THPT kiến thức này được bổ sung hoàn chỉnh hơn.
Trong chương trình vật lý 12 THPT bắt đầu từ việc nghiên cứu quang hình
học và tiếp đến là tính chất sóng, tính chất lượng tử của ánh sáng. Làm như thế
có thể phù hợp với nhận thức của HS và phù hợp với lịch sử quang học, nhưng
lại có nhược điểm là tách rời phần quang hình và bản chất sóng của ánh sáng.
Do đó HS không thấy rõ bản chất vật chất của ánh sáng cũng như nội dung vật
lý các khái niệm và các định luật cơ bản.
Quang hình học là phần quan trọng trong giáo trình quang học lớp 12
THPT được trình bày đầy đủ về mặt định tính cũng như định lượng. Quang hình
học có nhiều ứng dụng trong đời sống và trong kỹ thuật, nên việc giảng dạy
quang hình học là có tác dụng giáo dục kỹ thuật tổng hợp cho HS. Các bài tập
định lượng cũng như định tính cũng thường gặp trong thực tế, khi giảng dạy
phần quang hình học lớp 12 cần tận dụng kiến thức mà học sinh đã học ở THCS
kinh nghiệm sống của HS mặt khác cần đi sâu vào bản chất vật lý của vấn đề,
44
nên đề cao mặt định tính nhiều hơn mặt định lượng để phát huy tính tích cực
của HS
Quang hình học là cơ sở của quang kỹ thuật được xây dựng vào 4 định
luật: Định luật truyền thẳng ánh sáng, định luật về tính độc lập của chùm tia
sáng, định luật phản xạ và khúc xạ ánh sáng
Quang hình học không giải thích bản chất các hiện tượng quang học mà
chỉ dựa trên các quan niệm hình học để nghiên cứu. Vì vậy các vấn đề nêu ra có
ý nghĩa hình học nhiều hơn ý nghĩa vật lý. Cho nên khi giảng dạy cần có biện
pháp giúp học sinh nắm vững các định luật cơ bản và ứng dụng chúng trong
việc nghiên cứu sự truyền của tia sáng, sự tạo ảnh qua các dụng cụ quang học.
Mặt khác cũng cần nêu cho HS thấy rõ ứng dụng của các định luật quang hình
học. Việc ứng dụng rộng rãi các thí nghiệm, các mô hình là một trong những
biện pháp quan trọng để đảm bảo các yêu cầu trên.
2.1.2. ĐẶC ĐIỂM VÀ NỘI DUNG PHẦN QUANG HÌNH HỌC:
Chuyển từ phần điện học sang phần quang hình học, HS gặp một số khó
khăn. Một trong những khó khăn đó là HS không nắm vững phương pháp đặc
thù khi nghiên cứu phần quang hình lớp 12. Để xét sự tạo thành ảnh do các
dụng cụ quang học lớp 12 người ta dựa vào giả thuyết là các dụng cụ đó cho
ảnh điểm và ảnh phẳng mà sử dụng vài phương pháp cơ bản là nghiên cứu sự
truyền của vài tia đặc biệt xuất phát từ vật. Sau khi thay đổi phương truyền bởi
các dụng cụ này nếu các tia cắt nhau thật thì tạo thành ảnh thật của vật, nếu
đường kéo dài của chúng cắt nhau thì tạo thành ảnh ảo. Phương pháp này được
sử dụng cho việc nghiên cứu sự tạo ảnh bởi gương phẳng, gương cầu, khúc xạ,
lăng kính và thấu kính.
Để nghiên cứu cho việc tạo ảnh bởi hệ ghép (kính thiên văn, kính hiển vi),
người ta theo phương pháp ảnh của vật qua quang cụ thứ nhất được dùng làm
vật đối với quang cụ thứ hai và cứ thế cho đến quang cụ cuối cùng.
45
Để nắm được các phương pháp này, trong khi học quang hình học và vận
dụng, HS phải nắm thật vững các khái niệm: Vật thật, ảnh thật, vật ảo, ảnh ảo và
cách vẽ, muốn thấy được ảnh của một vật mắt phải đặt ở vị trí nào.
2.1.3. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
* Tia sáng: là khái niệm trừu tượng (có thể định nghĩa là phương truyền
của năng lượng ánh sáng hay là đường thẳng vuông góc với một đầu sóng) Như
vậy tia sáng là một khái niệm thuần túy hình học và dĩ nhiên giữa các đường
hình học chỉ có thể có những quan hệ toán học, các định luật quang hình học nói
lên quan hệ đó. Vì vậy khi giảng dạy cần nhấn mạnh rằng chùm sáng mới có
thật còn tia sáng chỉ là phương tiện, là mô hình giúp cho việc khảo sát sự truyền
ánh sáng theo quan điểm hình học.
* Điểm sáng: Cũng là khái niệm trừu tượng, phải hiểu điểm sáng là một
vật phát sáng có kích thước nhỏ so với khoảng cách mà chúng ta nghiên cứu
(cũng có thể gọi là điểm vật).
* Vật thật, vật ảo, ảnh thật, ảnh ảo: Đây là những khái niệm quan trọng
của quang hình học, nắm được khái niệm này mới hiểu vấn đề cơ bản của quang
hình học.
Một vật thật, một ảnh thật, một ảnh ảo có thể dùng làm vật thật đối với
dụng cụ quang học.
Điểm sáng S coi là vật thật đối với dụng cụ quang học, khi nó đứng trước
dụng cụ đó theo chiều truyền ánh sáng hay là mặt ngoài cùng của dụng cụ nhận
được chùm tia sáng phân kỳ xuất phát từ vật hoặc hình như xuất phát từ vật
46
h.2.1. S là vật thật đối với thấu kính L1
h.2.2. S’ là ảnh thật của S qua TK L1 làm vật thật đối với TK L2
h.2.3. S’ là ảnh ảo của S đối với gương phẳng G, là vật thật đối TK L
Điểm sáng S coi là vật ảo đối với dụng cụ quang học khi nó đứng sau dụng
cụ đó theo chiều truyền của ánh sáng hoặc mặt ngoài cùng của dụng cụ nhận
được chùm sáng có đường kéo dài hội tụ tại S (chỉ có ảnh thật của dụng cụ thứ
nhất dùng làm vật ảo cho dụng cụ thứ hai)
47
h.2.4: S’ là ảnh thật của S đối với TK L là vật ảo đối với gương phẳng G
S’ được coi là ảnh thật của S cho bởi quang cụ nếu các tia phát xuất
từ S sau khi phản xạ hay khúc xạ qua quang cụ gặp nhau tại S’(S’ có thể
hứng được trên màn)
S’ được coi là ảnh ảo của S qua quang cụ nếu các tia phát xuất từ S
sau khi khúc xạ hay phản xạ qua quang cụ có đường kéo dài gặp nhau tại
S’
Chú ý: ảnh thật là có thật còn ảnh ảo chỉ là qui ước, ảnh này chỉ tồn tại khi có
mắt tham gia.
2.1.4. ĐỂ THẤY MỘT VẬT HAY MỘT ẢNH MẮT PHẢI ĐẶT
VỊ TRÍ NÀO?
Mắt chỉ nhìn thấy vật hay ảnh khi có ánh sáng phát xuất từ vật hay ảnh
(hoặc dường như phát xuất từ ảnh) và truyền đến mắt.
Trong trường hợp chùm sáng phản xạ hay chùm sáng khúc xạ qua dụng cụ
quang học là chùm phân kỳ thì có ảnh ảo. Nếu để mắt hứng chùm tia này ta thấy
hình như chùm tia xuất phát từ một điểm sáng là giao điểm các đường kéo dài
của chùm tia phân kỳ, chùm phân kỳ thì có thật còn đường kéo dài của chùm tia
phân kỳ thì không có, nhờ hệ thống quang học của mắt chùm phân kỳ được hội
tụ và tạo thành ảnh thật trên võng mạc của mắt Vì vậy mắt có thể thấy ảnh của
48
một vật trước quang cụ nếu là chùm tia phản xạ, sau quang cụ nếu là chùm tia
khúc xạ
G: Gương phẳng L: Thấu kính phân kỳ
h.2.5, h.2.6: Vùng I: Vùng nhìn thấy ảnh, vùng II vùng không nhìn thấy ảnh
Mắt cũng có thể hứng được trên võng mạc ảnh thật cho bởi quang cụ
Như thế dù dụng cụ quang học cho ảnh thật hay ảnh ảo, nếu có sự tham gia
của mắt và mắt đặt đúng vị trí thì trên võng mạc của mắt luôn luôn có ảnh thật
49
h.2.7: ảnh thật hứng trên màn h.2.8: ảnh thật không hứng trên màn
I: Vùng đặt mắt thấy ảnh, II: vùng đặt mắt không thấy ảnh
2.2. NỘI DUNG VÀ CÁC KIẾN THỨC TRỌNG TÂM CỦA
CHƯƠNG “MẮT VÀ CÁC DỤNG CỤ QUANG HỌC “ LỚP 12
THPT:
2.2.1 CƠ CẤU CHƯƠNG TRÌNH:
Trong chương trình SGK hiện hành, chương “Mắt và các cụng cụ quang
học” được phân phối 7 tiết, trong đó có 4 tiết nghiên cứu tài liệu bổ sung cho
kiến thức mới, 3 tiết bài tập. Nội dung của 4 tiết nghiên cứu tài liệu như sau:
* Mắt và máy ảnh.
* Các tật của mắt và cách sửa.
* Kính lúp.
* Kính hiển vi và kính thiên văn.
50
Các dụng cụ quang học kết thúc phần quang hình học lớp 12 THPT. Đề tài
này sử dụng tổng hợp các kiến thức nghiên cứu ở chương trước, đó là tác dụng
biến đổi chùm tia cũng như sự tạo ảnh của các phần tử quang học (gương, thấu
kính) trong các dụng cụ.
Nhìn chung ở chương này, các quang cụ khác nhan đều có cấu tạo dựa trên
nguyên tắc xác định ảnh qua một hệ thống thấu kính, có những dụng cụ cho ảnh
thật của vật trên màn hay phim ảnh như máy ảnh, có những dụng cụ cho ảnh ảo
(kính lúp, kính hiển vi, kính thiên văn). Cuối cùng mắt người nhìn ảnh này qua
quang hệ của mắt cho một ảnh thật của vật trên võng mạc. Muốn hiểu đầy đủ
nguyên tắc và tác dụng của các dụng cụ quang học cần biết cấu tạo và hoạt động
của mắt là giác quan sử dụng các quang cụ đó.
2.2.2. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM CHƯƠNG “MẮT VÀ CÁC
DỤNG CỤ QUANG HỌC”
Kiến thức trọng tâm học sInh cần nắm vững ở chương này cụ thể như sau:
2.2.2.1. ĐỀ TÀI MẮT VÀ MÁY ẢNH:
* Máy ảnh: Cấu tạo và cách điều chỉnh máy.
* Mắt: Cấu tạo sơ lược theo quan điểm quang hình học: Thủy tỉnh thể của
mắt được xem như một thấu kính hai mặt lồi và độ cong hai mặt lồi có thể thay
đổi được, do đó độ tụ, tiêu cự của thay đổi được, Ngoài những vấn đề trên, về
hoạt động của mắt ta cần thống nhất quan điểm là: Dù quang hệ cho ảnh ảo hay
ảnh thật nếu có sự tham gia của mắt thì trên võng mạc của mắt luôn luôn có ảnh
thật. Để HS hiểu cụ thể hơn sự điều tiết của mắt ta dùng công thức:
1
𝑓
để phân tích. Khoảng cách từ d từ vật đến mắt có thể thay đổi
1 𝑑 +
1 𝑑` =
được mà khoảng cách d` từ ảnh (võng mạc ) đến thủy tinh thể không đổi. Vì vậy
muốn có ảnh của vật luôn luôn hiện trên võng mạc thì f phải thay đổi, nghĩa là
sự điều tiết của mắt: sau đó dùng công thức:
51
giải thích vì sao khi mắt điều tiết bằng cách
thay đổi độ cong của thủy tinh thể. Hiểu các khái niệm điểm cực cận (C0), điểm
𝐷 =
1 𝑓 = (𝑛 − 1)(
1 𝑅1 +
1 𝑅2)
cực viễn (Cv), giới hạn nhìn rõ của mắt, năng suất phân ly. Từ đó đưa ra điều
kiện nhìn rõ một vật của mắt là:
- Vật (hoặc ảnh của vật) phải nằm trong giới hạn nhìn rõ của mắt
) - Góc trông phải lớn hơn hoặc bằng năng suất phân ly (
2.2.2.2. CÁC TẬT CỦA MẮT: 𝛼 ≥ 𝛼𝑀𝐼𝑁
Học sinh phải nắm vững những đặc điểm cơ bản sau:
- Những đặc điểm của mắt không tật.
- Những đặc điểm của mắt cận thị.
- Những đặc điểm của mắt viễn thị.
- Cách sửa các tật của mắt: Để sửa các tật của mắt, học sinh đã biết nếu xét
về phương diện quang hình học, thủy tinh thể của mắt được xem như một thấu
kính hội tụ. Đối với mắt cận thị fMAX < OV ngược lại đối với mắt viễn thị fMAX
> OV. Do đặc điểm tật của mỗi mắt, bằng sự suy luận tương tự ghép sát hai thấu
kính (TKHT và TKHT, TKHT và TKPK) lựa chọn loại thấu kính cho thích hợp
với mỗi tật của mắt
* Về kỹ năng:
- Giải thích cách thử kính mà người ta thường dùng ở bệnh viện.
- Phân biệt được mắt lão và mắt viễn thị.
- Giải một số bài tập về định tính cũng như định lượng về các tật của mắt
2.2.2.3. NGHIÊN CỨU KÍNH LÚP:
Học sinh cần nắm vững:
- Khái niệm về kính lúp, tác dụng của kính lúp.
- Tại sao kính lúp phải là TKHT có tiêu cự ngắn ?
- Cách sử dụng kính lúp, cách ngắm chừng (vô cực, cực viễn, cực cận).
52
- Khái niệm về độ bội giác và độ phóng đại, áp dụng tính độ bội giác của
kính lúp.
* Về kỹ năng:
- Giải thích được sự tạo ảnh của một vật qua kính lúp bằng cách vẽ đường
đi của tia sáng.
- Cách sử dụng kính lúp và chú ý đến vị trí đặt mắt để trông thấy ảnh của
vật (mở rộng thêm đối đặt mắt ở vị trí nào thì độ bội giác không thay đổi) theo
tài liệu và cách sử dụng kính lúp trong thực tế.
2.2.2.4. VỀ ĐỀ TÀI KÍNH HIỂN VI, KÍNH THIÊN VĂN:
Kiến thức trọng tâm bao gồm:
- Khái niệm, tác dụng của kính hiển vi và kính thiên văn
- Cấu tạo và tác dụng của từng phần tử quang học (từng bộ phận) trong
từng loại kính.
- Cách ngắm chừng, cách điều chỉnh.
- Độ bội giác.
* Về kỹ năng:
- Giải thích sự tạo ảnh qua từng loại kính bằng cách vẽ đường đi của tia
sáng
- Cách điều chỉnh kính.
2.3. TÌM HIỂU TÌNH HÌNH DẠY VÀ HỌC CHƯƠNG “MẮT
VÀ CÁC DỤNG CỤ QUANQ HỌC” Ở TRƯỜNG THPT
Để chuẩn bị cho việc soạn thảo tiến trình dạy học nhằm mục đích phát huy
tính tích cực, tự lực và sáng tạo của HS, giúp HS tự lực giải quyết vấn đề bằng
cách vận động khả năng, trí tuệ, trên cơ sở kiến thức đã có của chính HS để
chiếm lĩnh kiến thức mới.
Chúng tôi tiến hành tìm hiểu tình hình dạy và học phần quang hình học nói
chung và chuẩn bị cho chương "Mắt và các dụng cụ quang học" ở 3 trường
THPT
53
- Trường THPT Ba Vát huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre.
- Trường THPT Châu Thành A, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.
- Trường THPT bán công Phước Mỹ Trung, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre.
Với mục đích tìm ra ưu, nhược điểm trong dạy học phần kiến thức trong
phần chúng tôi tìm hiểu.
2.3.1. NỘI DUNG TÌM HIỂU:
Chúng tôi tiến hành tìm hiểu
- Cơ sở vật chất ở nhà trường đặc biệt trang thiết bị của phòng thí nghiệm
phục vụ bộ môn vật lý.
- Tình hình giảng dạy của GV: Tìm hiểu các phương pháp chủ yếu mà GV
sử dụng có kết hợp với phương tiện trong giảng dạy, đặc biệt chương "Sự phản
xạ và khúc xạ ánh sáng" và các chương có ứng dụng kỹ thuật trong vật lý
- Tình hình học tập của HS: Tìm hiểu những khó khăn của HS trong quá
trình học tập ở trường, ở nhà, cách tổ chức học tổ, học nhóm, cách giúp nhau
trong học tập và đặc điểm tâm lý khi làm bài kiểm tra.
2.3.2. PHƯƠNG PHÁP TÌM HIỂU:
Gặp gỡ lãnh đạo trường xin phép tham quan phòng thiết bị, phòng thí
nghiệm bộ môn vật lý của trường.
Dự giờ, gặp gỡ và trao đổi với tổ trưởng bộ môn vật lý cùng với các giáo
viên trong tổ, xem một số sổ soạn bài của GV ở chương "Mắt và các dụng cụ
quang học" đặc biệt chú ý mục đích yêu cầu, tiến trình lên lớp của từng bài học
và đọc một số bài tập định tính cũng như định lượng ở chương này.
Gặp gỡ, trao đổi với HS lớp 12, quan sát thái độ của HS khi được học vật
lý trên lớp có và không có thí nghiệm thực hành hay biểu diễn
2.3.3. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA TÌM HIỂU:
2.3.3.1. TRANG THIẾT BỊ PHÒNG THÍ NGHIỆM:
Trường THPT Châu Thành A là một trường ven thị xã có truyền thống là
một trường có thành tích dạy tốt học tốt, đội ngũ GV có nhiều kinh nghiệm, cơ
54
sở của trường vừa được đầu tư và được xây dựng lại với qui mô rất lớn. Tất cả
các phòng bộ môn được trang bị đầy đủ, bộ đồ dùng cho thí nghiệm phần quang
học khá đầy đủ có thể đáp ứng cho các bài ở phần quang hình học.
Trường THPT Ba Vát: Trường ở một xã vùng sâu được thành lập năm
1986, đồ dùng dạy học lâu ngày bị hư hỏng, mất mát nhiều mặc dù đã có trang
bị mới bổ sung hàng năm nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu của bộ môn vật lý,
mặt khác do bảo quản không tốt (trường không có phòng thí nghiệm bộ môn),
phòng thiết bị như một kho chứa hàng nên các phương tiện dạy không được sắp
xếp thứ tự, ngăn nắp. Tuy nhiên bộ đồ cho thí nghiệm phần quang hình học còn
khá đầy đủ.
Trường THPT Bán Công Phước Mỹ Trung: Thành lập năm 1995, vì là một
trường bán công nên thiết bị dùng cho dạy học còn nghèo nàn không đáp ứng
được yêu cầu giảng dạy cho bộ môn vật lý, một số đồ dạy học do GV tự làm
chủ yếu là các mô hình như SGK
2.3.3.2. HOẠT ĐỘNG DẠY CỦA GV:
Phương pháp giảng dạy của GV ở 3 trường trên chủ yếu là thuyết trình,
trình bày theo trình tự như SGK có giải thích. Các câu hỏi mà GV nêu ra chỉ
mang tính đơn thuần là tái hiện kiến thức cũ có liên quan đến đề tài đang học.
HS chỉ là người nghe, ghi chép một cách thụ động, học thuộc và trả bài ở tiết
sau
Dạy - học nói chung, đặc biệt là bộ môn vật lý phải đảm bảo cho HS nắm
vững kiến thức và phát triển tư duy một cách thật sự, như trong lý luận và thực
tiễn của các nước có nền Giáo Dục tiên tiến khẳng định phải làm cho HS thật sự
tích cực, tự lực tham gia vào quá trình xây dựng, chiếm lĩnh kiến thức và phát
huy khả năng sáng tạo. Việc giảng dạy nhất là phần quang hình học có nhiều thí
nghiệm cần phải làm và việc chuẩn bị cho thí nghiệm không khó, không đòi hỏi
mất nhiều thời gian. Tuy nhiêu, khi giảng dạy phần này GV chưa quan tâm thật
sự đến thí nghiệm thậm chí cũng không có thí nghiệm minh họa do GV thực
hiện: Như quan sát định tính sự tạo ảnh của một vật sáng qua các dụng cụ quang
55
học như gương, thấu kính... Đa số GV của 3 trường chỉ chú ý đến những bài tập
có tính định lượng như xác định vị trí của vật và ảnh, độ phóng đại, độ lớn của
ảnh.... Khi trao đổi với GV, để tìm hiểu tại sao không cho HS tiến hành thí
nghiệm hoặc tại sao GV không làm thí nghiệm biểu diễn trên lớp, thì lý do duy
nhất đa số GV trả lời phải dành thời gian cho HS rèn luyện bài tập một cách
thuần thục mới đáp ứng được cho kỳ thi tốt nghiệp THPT cuối năm.
GV làm như vậy cũng có cái lý của họ, vì hiện nay do nội dung thi
(TNTHPT hay tuyển sinh vào các trường chuyên nghiệp) ở nước ta vẫn nặng về
kiểm tra lý thuyết và giải bài tập, mặc dù vài năm gần đây có cải tiến nhưng nội
dung phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của HS chỉ chiếm một tỉ lệ rất
khiêm tốn từ 5 - 7 % nội dung toàn bài. Mặt khác khi xem xét sổ soạn bài của
một số GV trong chương "Mắt và các dụng cụ quang học" GV cũng chỉ trình
bày các hình vẽ trong SGK, nội dung bài giảng cô đọng ở định nghĩa, cấu tạo,
tính độ bội giác sau cùng củng cố bằng bài tập áp dụng.
Một số GV tâm huyết đều nhận thức được rằng việc sử dụng thí nghiệm có
tác dụng rất lớn trong quá trình giảng dạy, tạo được hứng thú cho HS, phát huy
năng lực của từng cá nhân, từng nhóm HS, HS thật sự chiếm lĩnh được kiến
thức, nhưng để sử dụng một cách chu đáo và có hiệu quả trong giờ học đòi hỏi
phải tốn nhiều công sức và thời gian vì:
- Đối tượng dạy của GV là HS, phần lớn từ bé đã quen với cách học thụ
động, ít chịu tự lực suy nghĩ. Cách thức tổ chức lớp học không thích hợp cho
việc tiến hành thí nghiệm theo nhóm.
- Do nội dung SGK quá tải và phân phối chương trình hiện nay thì thời
gian luyện tập cho HS không nhiều. Do đó GV dành phần lớn thời gian lèn
luyện cho HS giải những bài tập áp dụng một cách máy móc đơn giản.
- Chính sách ưu đãi của ngành, của trường cho các GV có tâm huyết, say
sưa với hoạt động dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực của HS chưa
thỏa đáng.
56
2.3.3.3. HOẠT ĐỘNG HỌC CỦA HỌC SINH:
Qua trao đổi với một số HS, dự giờ một số tiết và kiểm tra miệng một số
kiến thức cơ bản cho thấy rằng:
- Trong giờ học: HS chủ yếu là người nghe thầy cô giảng giải và trả lời các
câu hỏi của GV có nội dung là tái tạo lại kiến thức đã học. Việc vận dụng kiến
thức, vốn kinh nghiệm đã có để xây dựng bài học hầu như rất hiếm. Khi được
kiểm tra phần đông các em đều thuộc lòng những kiến thức được GV cho ghi
chép vào tập.
- HS không được tham gia vào hoạt động thực hành thí nghiệm và rất ít lần
được quan sát thí nghiệm biểu diễn do GV tiến hành. Kết quả là các em lúng
túng khi phát biểu ý kiến của mình biểu hiện ở chỗ dùng từ ngữ không chính
xác, câu trình bày không đúng ngữ pháp. Đặc biệt trong phần quang hình học,
HS hay nhầm lẫn các khái niệm cơ bản như vật thật vật ảo, ảnh thật ảnh ảo,
không xác định được vị trí nào đặt mắt để quan sát ảnh qua một dụng cụ quang
học.
2.4. TIẾN TRÌNH DẠY – HỌC TỪNG BÀI CỤ THỂ
2.4.1. Ý ĐỒ SOẠN THẢO CHUNG CHO CẢ CHƯƠNG "MẮT
VÀ CÁC DỤNG CỤ QUANG HỌC"
Dựa vào lý luận dạy học giải quyết vấn đề và các PPDH khác (phương
pháp mô hình, phương pháp thực nghiệm, phương pháp tương tự) và những kết
luận điều tra, tìm hiểu tình hình dạy và học cụ thể ở 3 trường nêu trên. Chúng
tôi thấy, muốn cho HS nắm vững kiến thức, phát huy tính tích cực, tự lực và
sáng tạo của HS cần phải:
* Đưa HS vào chủ thể của HĐNT, tự chiếm lĩnh kiến thức bằng cách giải
quyết những vấn đề đặt ra thông qua sự hướng dẫn của GV. Trên cơ sở kiến
thức đã học, HS biết lựa chọn dụng cụ, tự thiết kế mô hình của các quang cụ
(các mô hình quang cụ được xây dựng trên mô hình tia sáng) phân biệt đặc điểm
57
của từng mô hình (lý thuyết và thực tế) bằng thực nghiệm để đáp ứng yêu cầu
nội dung cụ thể của từng bài học trong chương "Mắt và các dụng cụ quang học".
* Phát huy tối đa tính tích cực, tự lực và sáng tạo của HS trong hoạt động
học, HS được thể hiện chính mình và hợp tác với bạn bằng cách thảo luận từng
cá nhân trong sinh hoạt nhóm và trong cả lớp, thảo luận về việc lựa chọn quang
cụ, thiết kế mô hình theo mục đích sử dụng. Đó là cơ sở đáng tin cậy để HS tự
kiểm tra đánh giá và tự hoàn chỉnh.
Chính vì những lý do như vậy, 4 nội đung trong chương này, chúng tôi
biên soạn tiến trình dạy học từng bài cụ thể trên cơ sở:
- Vốn kiến thức, kinh nghiệm sẵn có và trình độ tư duy của HS.
- Tình hình trang thiết bị hiện có ở trường PT và một số đồ dùng dạy học tự
làm.
- Mục đích sư phạm cần đạt được sau khi dạy học.
Như đã phân tích ở phần trên, chúng tôi biên soạn tiến trình dạy học theo
hướng: Phối hợp hài hòa nhiều PPDH kết hợp với hình thức tổ chức dạy học
thích hợp sẽ phát huy được tính tích cực, tự lực và sáng tạo của HS.
58
2.4.2. BÀI: MẮT VÀ MÁY ẢNH
I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU:
Ngoài những kiến thức trọng tâm đã nêu trong phần 2.2.2. HS cần phải
biết:
- Vận dụng kiến thức đã học ở phần trước, đặc biệt là phương pháp vẽ ảnh
qua gương cầu, thấu kính...để tự mình lựa chọn mô hình cấu tạo máy ảnh và
phân tích nguyên nhân.
- Rèn luyện thao tác tư duy bằng cách phân tích cấu tạo của mắt và so sánh
nó với máy ảnh về phương diện quang hình học
- Rèn luyện kỹ năng thực hành: sử dụng máy ảnh.
II. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC:
Trên cơ sở học sinh đã nắm chắc phương pháp vẽ ảnh qua một gương cầu,
một thấu kính. GV để cho HS tham gia vào bài giảng một cách tích cực. Đây là
bài học không khó đối với khả năng nhận thức của HS, nhưng tạo được sự hấp
dẫn lý thú đối với HS để các em tích cực tìm hiểu cấu tạo của máy ảnh và cách
điều chỉnh máy và từ cơ sở đó GV giới thiệu cho HS về cấu tạo và đặc điểm của
mắt về phương diện quang hình học, HS so sánh giữa mắt và máy ảnh là điều
cần thiết.
Vì vậy, chúng tôi thiết kế bài học này bằng phương pháp thực nghiệm kết
hợp với phương pháp mô hình, bằng cách thiết kế hoặc lựa chọn mô hình trong
số các mô hình do GV đưa ra, sau đó GV hướng dẫn HS nhận xét tính ưu
khuyết của từng mô hình đã được thực nghiệm đưa đến sự cấu tạo nội dung như
SGK trình bày , giúp HS trong việc nhận xét và lựa chọn từng mô hình đã trình
bày bằng cách giải quyết vấn đề nhằm phát huy tính tích cực tự lực của HS.
59
III. CHUẨN BỊ CHO BÀI HỌC:
Đối với GV:
- 6 TKHT, 6 Gương cầu lõm, giá, đèn làm thí nghiệm (tất cả các dụng cụ
thí nghiệm trên GV cho HS nhận ở phòng thiết bị trước giờ học)
- Một máy ảnh tiêu cự trung bình
- Một cuộn đã được sử dụng đã tráng phim và có hình ảnh
- Mô hình cấu tạo của mắt về phương diện quang hình học
- Mô hình của máy ảnh (SGK và mô hình của máy ảnh thường dùng).
Tất cả các mô hình đều được chuẩn bị bằng phim trong dùng cho máy đèn
chiếu
Đối với HS: Mỗi nhóm từ 6-7 em (đã chia trước) chuẩn bị
- Mô hình ảnh của 1 vật cho bởi gương cầu lõm với d > 2f
- Mô hình ảnh của 1 vật cho bởi thấu kính hội tụ với d > 2f
IV. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:
1. MÁY ẢNH
Để gây hứng thú cho học sinh GV nêu vấn đề:
Máy ảnh là thiết bị sử dụng rộng rãi trong đời sống, việc lưu lại những
hình ảnh của con người của đời sống xã hội là rất cần thiết. Chúng ta đều biết
kỹ thuật chụp ảnh các vật (ví dụ con người, cây cao, núi non…) cho ảnh thật
nhỏ hơn vật trên phim. Vậy những dụng cụ các em đã học ở chương trước
(gương cầu và thấu kính) thì những dụng cụ nào có tác dụng như vậy?
HS: Gương cầu lõm và thấu kính hội tụ với điều kiện vật ở cách gương
hoặc thấu kính một khoảng d > 2f
GV: Cho HS lên bảng biểu diễn vẽ ảnh của vật với d > 2f sau đó dùng mô
hình có sẵn để hiệu chỉnh (nếu có sai sót)
60
h.2.9: G là gương cầu lõm h.2.10: L là thấu kính hội tụ
Sau khi HS biểu diễn sơ đồ ảnh (h2.9, h2.10) GV phát phiếu cho học sinh
thảo luận và làm thí nghiệm theo nhóm theo nhóm
GV phân tích một số yêu cầu của kỹ thuật chụp ảnh
- Ảnh thật nhỏ hơn vật rất nhiều lần (cho HS xem cuộn phim hiện nay
đang sử dụng thịnh hành giới thiệu độ cao của phim chừng 2cm)
- Ảnh phải rõ nêu độ tương phản cao, phim có tác dụng mạnh với ánh
sáng, nếu phim bị lộ sáng ảnh hưởng đến chất lượng ảnh
- Một ảnh có chất lượng tốt là ảnh có thể phân biệt được các chi tiết trên
phim muốn vậy vật phải được chiếu sáng tốt
Về nguyên tắc có thể dùng hai quang cụ trên để tạo ra máy ảnh, Tuy nhiên
với những yêu cầu thực tế trên ta thấy bộ phận chính của máy ảnh là gương cầu
lõm hay thấu kính hội tụ
HS: Thấu kính hội tụ
GV: Tại sao không dùng gương cầu lõm?
HS: Khi vật ở gần gương cho ảnh không rõ nét, vật và ảnh nằm cùng phía
nên việc che chắn cho phim không bị ánh sáng tác dụng rất khó khăn, nếu phim
61
được che chắn tốt thì giá đặt phim cũng cản trở bớt một phần ánh sáng từ vật
đến gương - Kết quả là phim bị chiếu sáng.
GV: Mặc dù có sự tương tự cho ảnh của một vật qua gương cầu lõm và
thấu kính hội tụ nhưng theo phân tích ở trên thì bộ phận chính của máy ảnh là
TKHT.
HS: Khi dùng thấu kính hội tụ thì ảnh của vật ở gần cũng không rõ nét như
thí nghiệm vừa thực hiện.
GV: Nhược điểm này được khắc phục dễ dàng nếu ta thay TKHT bằng một
hệ thấu kính phù hợp.
GV: Giới thiệu máy ảnh thật
- Vật kính là một TKHT (1) hay một hệ thấu kính tương đương như một
TKHT (có thể tháo rời)
A'B') - Mở mặt sau của buồng tối giới thiệu nơi đặt phim ảnh (3) (AB
O →
- Màn chắn có lỗ tròn đường kính có thể thay đổi (2) khi bấm máy tốc độ
B.
- Giới thiệu sơ qua về bộ chỉnh tốc độ. Tháo rời vật kính giới thiệu cửa sập
(M) để che chắn không cho ánh sáng lọt vào phim. GV giới thiệu sơ đồ máy ảnh
của SGK và sơ đồ máy ảnh đang sử dụng để giảng dạy
Lưu ý: Máy ảnh đang sử dụng cửa sập M là gương phẳng, (4) là lăng kính
phản xạ toàn phần
62
GV: Chỉ cách sử dụng (điều chỉnh máy) bằng một số câu hỏi gợi ý
Chúng ta thường thấy người thợ chụp ảnh thực hiện động tác chụp thường
đứng lên ngồi xuống, đến gần hoặc lùi xa, đồng thời luôn điều chỉnh máy (xoay
ống kính). Những động tác đó có ý nghĩa như thế nào?
HS: Vì tiêu cự của vật kính không đổi, muốn ảnh chụp được rõ nét trên
phim thì người chụp phải điều chỉnh khoảng cách (d) từ vật cần chụp và khoảng
1
𝑓
cách (d') từ phim đến vật kính thỏa mãn công thức:
1 𝑑 +
1 𝑑` =
- Động tác đứng lên ngồi xuống, đến gần ra xa là điều chỉnh khoảng
cách d
- Động tác xoay ống kính là điều chỉnh khoảng cách d'
GV: Ngoài ra để nhận biết ảnh rõ nét trên phim hay chưa người ta dùng
một kính ngắm (gắn sẵn trên máy), tùy theo ánh sáng mạnh hay yếu người ta
chọn tốc độ chụp và độ mở của lỗ tròn (diapham)
2. MẮT
GV: Thông báo
- Về phương diện quang hình học: Mắt giống như 1 máy ảnh
+ Về chức năng: Tạo ra ảnh thật, nhỏ hơn vật trên lớp tế bào nhạy sáng, để
từ đó tạo những tín hiệu thần kinh đều lên não
+ Cấu tạo: GV cho HS xem sơ đồ (h.6.2 SGK)
1- Giác mạc
2- Thủy dịch
3- Mống mắt
4- Con ngươi
5- Thủy tinh thể
6- Dịch thủy tinh
(n=1,33)
7- Võng mạc (V: điểm vàng, M: điểm mù)
63
Bộ phận chính của mắt đóng vai trò như một TKHT, trong suốt, mềm
gọi là thủy tinh thể (5), độ cong của thủy tinh thể có thể thay đổi được nhờ sự
co dãn của cơ vòng đỡ nó.
GV kết hợp với SGK giới thiệu từng chức năng của điểm vàng V, điểm mù
M. Đặc biệt chú ý đến những đặc điểm sau:
Đường kính con ngươi có thể thay đổi tùy theo cường độ ánh -
sáng chiếu vào
Độ cong của thủy tinh thể có thể thay đổi được, trong khi khoảng -
cách từ quang tâm của thủy tinh thể đến võng mạc (d’ = OV) lại luôn luôn
không thay đổi (d’ = 2,2cm)
3. SỰ ĐIỀU TIẾT CỦA MẮT – ĐIỂM CỰC CẬN: CỰC VIỄN
GV: Trong máy ảnh muốn cho ảnh của vật được rõ nét trên phim người ta
xê dịch vật kính, nhưng ở mắt muốn có ảnh của một vật hiện rõ trên võng mạc
thì mắt phải như thế nào? Chú ý rằng thủy tinh thể có thể thay đổi độ cong
HS: Thủy tinh thể của mắt không thể dịch chuyển như vật kính của máy
ảnh, nên độ cong của nó phải thay đổi để cho ảnh rõ nét trên võng mạc.
GV: Dựa vào hai công thức sau
1
𝑓
1 1 𝑑 + 𝑅1 + Ta chú ý các dữ kiện sau d’ là hằng số, n là hằng số, như vậy d thay đổi
1 𝑓 = (𝑛 − 1)(
1 𝑑` =
1 𝑅2)
và
(khoảng cách từ vật đến mắt thay đổi) thì những đại lượng nào trong hai công
thức trên phải thay đổi ?
HS: Vì d' = 2,2cm, nhưng vật ở gần xa khác nhau (d thay đổi) cho nên f
thay đổi, muốn f thay đổi thì R1, R2 phải thay đổi
GV kết luận: Sự thay đổi độ cong của thủy tinh thể (và do đó thay đổi độ
tụ hay tiêu cự của nó) để làm cho ảnh của một vật cần quan sát hiện rõ nét
trên võng mạc. Gọi là sự điều tiết
GV: Khi nào độ tụ của mắt nhỏ nhất? (trạng thái không điều tiết), mắt
nhìn rõ những vật ở khoảng cách nào?
64
HS: f lớn nhất vì vậy R lớn nhất, khỉ đó d lớn nhất, như vậy mắt nhìn thấy
nhưng vật ở khoảng cách rất xa (vô cùng)
GV: Đưa ra định nghĩa điểm cực viễn (CV)
+ Điểm xa nhất trên trục chính của mắt mà đặt vật tại đó, mắt có thể
nhìn rõ gọi là điểm cực viễn
Tiêu cự cực đại của thủy tinh thể fMAX = OV
GV tiếp tục đưa câu hỏi: Ngược lại khi nào độ tụ của mắt lớn nhất?
HS: f nhỏ nhất (R nhỏ nhất thủy tinh thể phồng lên tối đa) khi đó d nhỏ
nhất
GV: Đưa ra định nghĩa điểm cực cận (CC) và cho HS xem sơ đồ
CCCV: Giới hạn nhìn rõ của mắt
OCC = D: Khoảng nhìn rõ ngắn nhất, đối với mắt bình thường (không tật)
D vào khoảng 25cm
Kết luận: Mắt không tật là mắt khi không điều tiết có tiêu điểm nằm trên
võng mạc
4. GÓC TRÔNG - NĂNG SUẤT PHÂN LY CỦA MẮT
5. SỰ LƯU ẢNH TRÊN VÕNG MẠC
Phần 4 và 5 GV hướng dẫn HS tham khảo SGK bằng các câu hỏi sau:
Trình bày khái niệm góc trông và năng suất phân ly của mắt?
Thế nào là sự lưu ảnh trên võng mạc?
65
2.4.3. BÀI: CÁC TẬT CỦA MẮT VÀ CÁCH SỬA
I. NHỮNG BÀI TẬP CHƯƠNG TRƯỚC CÓ LIÊN QUAN
BÀI TẬP 1: Chứng minh rằng khi hai thấu kính L1 và L2 được ghép sát lại
với nhau, người ta nhận được một quang hệ tướng đương với một thấu kinh L
duy nhất có độ tụ bằng tổng của các thấu kính ghép lại
D1 + D2 = D
Hướng dẫn:
Gọi O là quang tâm của thấu kính tương đương
-----O1-----------------------------------L1
-----O2-----------------------------------L2
Ta xem O O1 O2
≡ ≡ Ta có sơ đồ ảnh AB A1B1 A2B2
L1 →
L2 →
d d’1d2 d’2
= 1 𝑑1′
= 1 𝑑2′
′
⇒ + = Ta có 1 𝑑1 + 1 𝑑2 + 1 𝑑2 + 1 𝑓1 = 𝐷1 1 𝑓2 = 𝐷2 1 1 𝑓2 = 𝐷1 + 𝐷2 𝑓1 + 1 𝑑2′ 1 𝑑1′
Trường hợp: A1B1 là ảnh thật đối với L1 nhưng là vật ảo đối với L2 d’1>0, 1 𝑑1 + 1| = |𝑑2| |𝑑
d2<0
Trường hợp: A1B1 là ảnh ảo đối với L1 nhưng là vật thật đối với L2 d’1<0,
d2>0
1 𝑑2
1 𝑑`1 +
Do đó: = 0
= 𝐷 1 𝑑`2 = 1 𝑓1 + 1 𝑓 1 𝑑1 + 1 𝑓2 = 66
Có thể giải thích bằng cách vẽ hình
Dựng ảnh A1B1 qua L1 là dễ dàng, tìm ảnh A2B2 của A1B1 cho bởi thấu
kính L2. Tia BO2 không bị lệch, B2 nằm trên đườg thẳng tương ứng
Tia song song với trục chính qua B1 sẽ lệch về phía F’2 gặp tia BO2 tại
B2, Tia IB2 cắt trục chính tại F’, OF’ là tiêu cự tương đương của hai thấu kính
Với bài tập trên ta cho HS tiến hành nhận xét:
GV: Nếu ghép sát hai thấu kính hội tụ thì tiêu cự của quang hệ tăng hay
giảm?
HS: Giảm
- Ngược lại nếu ghép sát 1 thấu kính hội tụ và thấu kính phân kỳ tiêu cự
của quang hệ tăng hay giảm?
𝑓1.𝑓2 𝑓1+𝑓2
Hướng dẫn: Ta có:
f1: TKHT muốn f > 0 Vì f1.f2 < 0
𝑓 =
f1: TKHT muốn f < 0 Vì f1.f2 < 0
Áp dụng 1: TKHT có tiêu cự f1 = 2,5cm ghép sát với một thấu kính L2 có |𝑓1| < |𝑓2| |𝑓1| > |𝑓2|
tiêu cự f2, Muốn có tiêu cự của quang hệ còn 2,2cm thi L2 là thấu kính gì ? tính
tiêu cự?
𝑓.𝑓1 2,5.2,2 2,5−2,2 = 𝑓1−𝑓 = Vậy thấu kính L2 phải là TKHT
Ta có: 18,33cm
𝑓2 =
67
Áp dụng 2: Một TKHT có tiêu cự f1 = 2cm, ghép sát với một thấu kính L2.
Muốn tiêu cự của quang hệ tăng lên 2,2cm thì L2 là thấu kính gì? Tính tiêu cự?
Ta có:
-22cm
𝑓.𝑓1 2,0.2,2 2,0−2,2 = 𝑓1−𝑓 = Thấu kính L2 phải là TKPK
𝑓2 =
BÀI TẬP 2: Dùng một gương cầu lõm tạo một ảnh thật của vật ở rất xa.
Chỉ rõ vị trí đặt mắt để nhìn thấy ảnh, khi hứng ảnh trên màn và khi không có
màn? Trong thực tế có thực hiện được cách dưng ảnh này không?
Hướng dẫn: Vẽ hình
Trên hình vẽ là phương án xây dựng trên lý thuyết việc thu ảnh trên màn là
rất khó thực hiện vì vật ở xa và nếu là vật phản xạ ánh sáng thì ảnh thu được rất
mờ, trên thực tế không thể thu được những ảnh của những vật như vật
BÀI TẬP 3: Dùng một gương cầu lồi tạo ảnh của một vật ở xa. Hãy nói rõ
vị trí đặt mắt để thấy ảnh của vật trong gương? Hãy nêu những bất lợi của việc
nhìn ảnh qua phương pháp này và hãy trình bày cách cải tạo để việc nhìn ảnh
được thuận tiện hơn?
68
Hướng dẫn: Vẽ hình
- Những bất lợi: Người quan sát quay lưng lại với vật cần quan sát, nên
khó điều chỉnh gương để thu được ảnh cho rõ
- Cách cải tạo là dùng gương phẳng hứng chùm tia phản xạ từ gương cầu,
mắt nhìn qua gương phẳng sẽ quan sát thấy ảnh của vật trong gương phẳng
II. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU:
Ngoài những kiến thức trọng tâm đã nêu phần 2.2.2. Cần phải nắm vững
HS cần phải:
- Chủ động tìm ra các phương án sửa các tật của mắt bằng suy luận tương
tự (ghép sát hai thấu kính)
- Tìm hiểu một số tật khác của mắt (mắt lão).
- Rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức một cách sáng tạo vào giải quyết
một số tình huống mới phức tạp hơn.
III. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC:
Do xuất phát từ những bài tập trên và những kiến thức có liên quan trong
bài học trước, HS đã biết cách cấu tạo ảnh về mặt quang hình học của mắt và do
hiện tượng có thật trong thực tế mà HS gặp hằng ngày, như tật cận thị, viễn
thị…
Khi giảng dạy bài này, chúng tôi có ý định cho HS tiến hành thực hiện thí
nghiệm ghép sát hai thấu kính, đo tiêu cự của của hệ thấu kính, từ đó mô phỏng
và đề xuất phương án sửa các tật của mắt, vì vậy chúng tôi thiết kế bài học này
bằng phương pháp thực nghiệm trên cơ sở của việc suy luận tương tự, bên cạnh
69
những phương án về ghép thấu kính chúng tôi cũng cho HS thảo luận phương
án dùng gương cầu theo bài lập 2 và 3 của chương trước.
Ngoài nội dung giảng dạy theo chương trình trong SGK, chúng tôi còn
trình bày các tật khác của mắt (mắt lão) để học sinh tham khảo dưới dạng bài
đọc thêm, nhằm cung cấp cho các em một số thông tin mang tính giáo dục, để
kích thích tính ham học của HS.
IV. CHUẨN BỊ CHO BÀI HỌC:
Đối với GV:
- 12 TKHT có độ dài tiêu cự f1 = 5cm; 6 TKHT f2 = 3cm, giá, đèn, màn
- 6 TKPK có độ dài tiêu cự f3 = 20cm
- Các mô hình về mắt cận thị, viễn thị và cách sửa các tật của mắt
Tất cả dụng cụ trên cho HS lấy ở phòng thiết bị trước giờ học
Đối với HS
- Mô hình về cách cho ảnh của một vật qua gương cầu theo bài tập 2 và 3
- Mỗi nhóm 1 bình acquy 12 V (nhóm do GV chia từ trước)
V. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:
1. ÔN TẬP BÀI CŨ:
GV đặt câu hỏi và gọi học sinh lên bảng:
- Vẽ hình cấu tạo của mắt về phương diện quang hình học, và nói rõ cách
tạo ảnh của vật qua mắt?
- Thế nào là sự điều tiết của mắt? Những đặc điểm của mắt không có tật về
mặt quang hình học?
HS A: Cấu tạo của mắt về phương diện quang hình học gồm: - Thủy tinh
thể đóng vai trò như TKHT tiêu cự có thể thay đổi được, cho từ vật một ảnh
ngược trên võng mạc
70
HS B: Sự điều tiết của mắt là sự thay đổi độ cong của thủy tinh thể (tức là
thay đổi tiêu cự) để cho ảnh của một vật luôn luôn hiện đúng trên võng mạc
Những đặc điểm của mắt không tật:
+ Tiêu điểm của thủy tinh thể khi không điều tiết nằm trên võng mạc (F
trùng với V)
+ Điểm cực viễn CV ở vô cực, điểm cực cận CC ở gần mắt (D cỡ 25cm)
GV: Bổ sung và hoàn thiện hai câu trả lời của HS
GV hướng dẫn HS làm thí nghiệm ghép sát hai thấu kính theo nhóm đã chỉ
định sẵn
+ Ghép sát hai thấu kính hội tụ f1 = 5cm và f2 = 3cm
Cho HS tính lại tiêu cự của quang hệ và nhận xét:
Hai thấu kính hội tụ ghép sát nhau thành một quang hệ tương đương như
một thấu kính hội tụ, nhưng tiêu cự của quang hệ giảm
𝑓 = Thay số vào ta có f = 1,87cm (học sinh đo tương đương gần 2cm)
𝑓1. 𝑓2 𝑓1 + 𝑓2 + Ghép sát 1 thấu kính hội tụ f1 = 5cm và 1 thấu kính phân kỳ f2 = -20cm
𝑓 = = 6,7𝑐𝑚 5. (−20) Tương tự như phần trên HS nhận xét: Khi ghép 1 TKHT có tiêu cự f1 và 1 5 − 20 𝑓1. 𝑓2 𝑓1 + 𝑓2 =
TKPK có tiêu cự f2 với f1 < f2 thành một quang hệ tương đương như một TKHT
nhưng quang hệ có tiêu cự lớn hơn tiêu cự củaTKHT vừa ghép
71
GV nhận xét và nêu ý đồ của mình:
Chúng ta đều biết thủy tinh thể của mắt tương đương với TKHT về phương
diện quang hình học, nhưng có thể vì lý do khách quan hay chủ quan mà tiêu cự
lớn nhất của thủy tinh thể có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn khoảng cách OV. Những
mắt có tiêu cự như vậy là mắt có tật. Chúng ta lấy mô hình ghép thấu kính trên
để sửa các tật của mắt sau đây:
2. NỘI DUNG BÀI MỚI:
A. TẬT CẬN THỊ
GV: Một hiện tượng rất phổ biến trong HS trung học cũng như sinh viên
đại học. Đó là tật cận thị. Quan sát những người cận thị đọc sách trực tiếp
(không đeo kính) các em có thấy gì khác so với người bình thường không?
HS: Khi đọc những người này đặt trang sách gần mắt hơn người bình
thường.
GV: Ở những bộ lạc bán khai phần lớn họ sống và làm việc ngoài trời, hầu
như ít ai biết tật cận thị là gì. Trong đa số trường hợp, nguyên nhân của tật cận
thị rõ ràng là do khi còn ít tuổi mắt dễ biến dạng, khi làm việc với những vật ở
gần nhãn cầu quen kéo dài ra đến mức thủy tinh thể mất khả năng dẹp lại hay
thủy tinh thể phồng quá (có độ tụ lớn). Cho nên người cận thị không có khả
năng nhìn rõ vật ở xa. Qua những sự kiện vừa nêu trên các em hãy vẽ sơ đồ về
mặt quang học và so sánh khoảng cách từ mắt đến các điểm CC, CV của người
cận thị so với người có mắt bình thường (không có tật).
GV cho HS lên bảng vẽ hình
GV: Đối với người cận thị chùm sáng từ vô cực (chùm song song) có hội tụ
ngay võng mạc như mắt bình thường không?
HS: Không, chùm sáng hội tụ trước võng mạc.
GV: Hiệu chỉnh lại cho đúng sơ đồ học sinh vừa vẽ và nêu kết luận: Mắt
cận thị là mắt khi không điều tiết có tiêu điểm nằm trước võng mạc.
(fmax 72 + Điểm cực cận CC của mắt rất gần. + Điểm cực viễn CV nằm cách mắt một khoảng không lớn (cỡ 2m trở lại), cho nên không nhìn thấy vật ở xa Như vật khi nhìn ở điểm cực viễn của mình, mắt cận thị không phải điều tiết, lúc đó độ tụ của thủy tinh thể là nhỏ nhất và tiêu cự là lớn nhất. Điểm cực cận (CC) của mắt cận thị gần mắt hơn so với mắt không tật GV tiếp tục đặt vấn đề: Trong thực tế các em thấy người cận thị làm thế nào để sửa tật cận thị của mình HS: Đeo kính GV: Đúng, chúng ta thấy người có tật ở mắt luôn luôn đeo kính, đó là dụng cụ cho ánh sáng truyền qua (khúc xạ ánh sáng). Tại sao họ không dùng những dụng cụ quang học có tính chất phản xạ ánh sáng? HS: Bất tiện không đeo vào mắt được. GV: Trình bày các mô hình nhìn ảnh của một vật qua gương cầu theo mô hình bài tập 2 và 3, và nêu những điểm khó khăn như bài tập đã phân tích và kết luận: Người có tật ở mắt không sửa tật mắt mình bằng gương mà phải đeo kính như chúng ta thường thấy, đối với người cận thị (nhắc lại thuỷ tinh thể quá hội 73 tụ fmax chúng ta vừa làm thí nghiệm) HS: Phải đeo thấu kính phân kỳ có tiêu cự lớn hơn fmax của thủy tinh thể GV: Đúng, như chúng ta thường thấy có người cận thị đeo kính rất dày, cũng có người cận thị lại đeo kính mỏng hơn. HS: Vì độ tụ của mỗi mắt cận thị khác nhau. GV: Đeo kính để sửa mắt cận thị là làm sao người ấy nhìn thấy những vật ở xa mà không mỏi mắt, Vậy tiêu cự của kính đeo phải như thế nào? HS: Tính chất ảnh qua thấu kính phân kỳ là vật thật luôn cho ảnh ảo, cho nên muốn không mỏi mắt ảnh của vật qua kính người cận thị đeo phải hiện đúng ngay điểm CV. GV: Ảnh cuối cùng qua hệ kính – thủy tinh thể phải ở chỗ nào? HS: Ảnh cuối cùng của vật qua hệ kính – thủy tinh thể phải nằm ngay trên võng mạc. GV: Trình bày sơ đồ dùng thấu kính phân kỳ sửa tật cận thị và trình bày sơ đồ ảnh S ở Ok S1 ở Cv O S2 ở V (võng mạc) Nếu Giả sử Ok trùng với O thì độ dài tiêu cự của kính phải là bao nhiêu ? ∞ hay d' = vì là ảnh ảo HS: Độ đài tiêu cự của kính fK = OKS1 = nên d'<0 suy ra fK = -OCv OCv����� OCv����� 74 GV kết luận: Sửa tật cận thị là làm cho mắt cận thị có thể nhìn thấy vật ở xa. Muốn vậy người cận thị phải đeo thấu kính phân kỳ (sát mắt) có tụ số thích 1
𝑓𝐾 hợp D = Với fK = - OCv Khi đeo kính điểm cực cận (CC) cũng đẩy lùi ra xa mắt GV kiểm chứng bằng cách cho 1 em học sinh cận thị trong lớp đọc trang sách có đeo kính và không đeo kính. B. TẬT VIỄN THỊ GV đặt vấn đề: Trong thực tế chúng ta thường thấy những người có tật ở mắt khi đọc sách người ta phải đeo kính, khi không đeo kính người cận thị thì phải để trang sách lại gần hơn người có mắt bình thường (không tật). Ngược lại có người để trang sách xa mắt hơn, những người này là những người có một trong hai tật, tật viễn thị hay mắt già (tật mắt già chúng ta sẽ hiểu ở bài đọc thêm). Chúng ta khảo sát thêm 1 tật nữa của mắt- Mắt Viễn Thị So sánh với mắt cận thị thì mắt viễn thị thủy tinh thể của mắt có độ tụ lớn hơn hay nhỏ hơn mắt bình thường? HS: Độ tụ của thủy tinh thể mắt viễn thị nhỏ hơn mắt bình thường GV: Vì nguyên nhân nào đó, thủy tinh thể mắt viễn thị dẹt quá hoặc nhãn cầu ngắn qua. Nên + Mắt viễn thị là mắt khi không điều tiết có tiêu điểm nằm sau võng mạc (fMAX > OV). Người viễn thị lúc nhìn vật ở vô cùng đã phải điều tiết, và điểm CC ở xa hơn mắt bình thường (so sánh lúc đọc sách khi không đeo kính) tức là OCC > 25cm (Trình bà sơ đồ như SGK) 75 GV đặt tiếp vấn đề: Đề tăng độ tụ mắt viễn thị (giảm độ dài tiêu cự của thủy tinh thể), người viễn thị phải đeo thấu kính gì? Tại sao? HS: Đeo thấu kính hội tụ vì thủy tinh thể có thể xem như 1 TKHT có tiêu cự f1, TKHT người viễn thị đeo có tiêu cự f2. Khi ghép 2 TKHT thì tiêu cự của quang hệ giảm, theo thí nghiệm và theo bài tập 1 GV: Khi đeo TKH1, thì TKHT có tác dụng như thế nào đối với người viễn thị? Sau đó giáo viên phát phiếu theo nhóm để học sinh phân tích tác dụng của kính đeo HS A: Có tác dụng để nhìn vật ở gần 76 HS B: Có tác dụng nhìn vật ở xa GV hoàn thiện thêm: Trong thực tế khó thực hiện được hai cách này cùng một lúc. Nên để đơn giản người viễn thị đeo một TKHT sao cho có thể nhìn vật ở gần như mắt bình thường. Lúc đó ảnh của vật ở gần cho bởi thấu kính hiện lên trong giới hạn nhìn rõ của mắt. 77 Tuổi càng cao, khả năng điều tiết càng giảm dần. Đó là do tính đàn hồi của thủy tinh thể và khả năng làm tăng độ cong của thủy tinh thể của các cơ mắt đều bị giảm. Thiếu sót này gọi là mắt lão. Khi có tật này, thì điểm cực cận rời xa mắt và khả năng điều tiết giảm xuống, chẳng hạn như người đến tuổi 65, khoảng cách nhỏ nhất đặt trang sách mà có thể đọc được là 200cm khi không đeo kính. Ở khoảng cách ấy khó mà phân biệt được mặt chữ vì ảnh trong võng mạc sẽ quá nhỏ. Không có khoảng cách lý tưởng để đọc sách hoặc làm công việc khác ở gần, nhưng nếu tính toán mọi yếu tố, thì có thể cho rằng khoảng cách tốt nhất là 32 - 37cm. Nhưng nếu khoảng cách này nhỏ hơn một lần rưỡi khoảng cách tới cận điểm, thì trạng thái căng đòi hỏi ở cơ mắt để hội tụ ánh sáng và cho ảnh rõ nét trên võng mạc là đã quá lớn đến mức có thể bắt đầu khiến mắt bị mỏi. Sau tuổi 40, thủy tinh thể của mắt trung bình cần có một dụng cụ phụ giúp nó tập hợp ánh sáng khi nhìn những vật ở gần. Muốn thế người ta đặt trước mắt một thấu kính hội tụ có độ tụ thích hợp. Nhưng với thấu kính ấy không nhìn được những vật ở xa. Để sửa thiếu sót này hoặc là phải nhấc kính ra hoặc là phải dùng kính hai tròng, phần dưới được dùng để nhìn những vật ở gần, còn phần trên để nhìn những vật ở xa. Mặc dù tật mắt lão là một tật tự nhiên và không chữa được, người ta cũng thấy rằng việc chiếu sáng nhữhg vật ở gần mạnh hơn nữa có thể thay thế cho kính để đọc sách, tới một mức độ đáng kể. Chiếu sáng mạnh hơn bắt buộc đồng tử khép lại nhỏ hơn. Điều đó làm cho ảnh trên võng mạc càng rõ và sắc nét hơn cũng như trong máy ảnh diapham càng nhỏ thì ảnh càng sắc nét hơn. 78 I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU: Ngoài những kiến thức trọng tâm đã nêu phần 2.2.2. HS cần phải: Phân biệt được ưu khuyết điểm từng mô hình bằng thực nghiệm. - Trên cơ sở kiến thức đã biết (ảnh cho bởi một thấu kính, gương..) - làm thí nghiệm theo mô hình và lựa chọn dụng cụ đáp ứng với yêu cầu nội dung bài học. Rèn luyện được các thao tác tư duy, khả năng thực hành sử dụng - kính lúp. Rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức được học vào tình huống - phức tạp hơn. II. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC: Mắt người bình thường có thể điều tiết để có một ảnh rõ nét trên võng mạc, nếu vật đặt ở đâu đó trong khoảng từ điểm cực cận đến điểm cực viễn. Nếu chúng ta đưa vật lại gần mắt hơn điểm cực cận. Ảnh thu được trên võng mạc sẽ nhòe đi Như vậy 1 vật nhỏ nằm trong giới hạn nhìn rõ của mắt, góc trông vật quá nhỏ ta không phân biệt chi tiết của vật, cho nên muốn quan sát vật được rõ hơn, người ta tìm cách tăng góc trông vật. Thông thường ta đặt vật ở điểm cực cận, kết quả là mắt sẽ rất mệt (h.25) Vì vậy kích thước ảnh của vật tạo trên võng mạc phụ thuộc vào góc trông . Nếu tăng góc trông bằng cách dịch chuyển lại gần mắt hơn, kết quả là vật không nằm trong giới hạn nhìn rõ của mắt, mắt không nhìn thấy vật rõ nữa
𝛼 79 Mắt con người là cơ quan có hiệu quả rất lớn, tuy nhiên phạm vi của nó có thể mở rộng thêm bằng nhiều cách nhờ những dụng cụ quang học mà chúng ta đã nghiên cứu ở chương trước (gương, lăng kính, thấu kính). Muốn vậy ta phải tạo được một ảnh lớn hơn vật, ảnh này phải nằm trong giới hạn nhìn rõ của mắt. Hay nói cách khác, làm thế nào để nhìn được ảnh của của vật dưới một góc trông lớn hơn năng suất phân ly của mắt. Đó chính là công dụng của dụng cụ quang học. Dựa vào kiến thức các em đã học. Sự tạo ảnh của một vật qua dụng cụ quang học (gương cầu, lăng kính, thấu kính). Chúng tôi muốn các em tham gia bài học này một cách tích cực hơn bằng phương pháp thực nghiệm kết hợp với phương pháp mô hình và các em tự lựa chọn dụng cụ để đáp ứng được yêu cầu của nội dung bài học III. CHUẨN BỊ CHO BÀI HỌC: 6 gương cầu lồi, 6 gương cầu lõm, 6 TKHT f = 5cm, 6 TKHT f = 25cm, 6 TKPK IV. TIẾN TRÌNH GIẢNG DẠY: 1. CÂU HỎI ÔN TẬP: GV: Hãy nêu điều kiện để mắt nhìn rõ 1 vật ? HS: Mắt muốn nhìn rõ một vật thì phải tuân theo các điều kiện sau đây + Vật phải đặt trong giới hạn nhìn rõ của mắt + Góc trông vật phải lớn hơn năng suất phân ly của mắt 80 GV đặt vấn đề: Như vậy muốn nhìn rõ các chi tiết của vật nhỏ theo điều kiện nhìn rõ của mắt chúng ta phải làm thế nào? HS: Đem vật lại gần để làm tăng góc trông vật GV: Ngay cả khi đem vật nằm ngay ở điểm cực cận mà mắt vẫn không nhìn thấy rõ? HS: Có nhiều ý kiến khác nhau + Đa số các em cho rằng phải dùng kính hiển vi, vì ở cấp THCS các em đã được nhìn các vật nhỏ qua kính hiển vi trong giờ sinh vật + Một số ý kiến: Dùng gương cầu lõm Đặt vật nằm trong khoảng OF, vật cho ảnh ảo cùng chiều và lớn hơn vật Đặt vật nằm ở vị trí sao cho f d 2f cho ảnh thật ngược chiều và lớn hơn vật thu được trên màn ≤ ≤ + Một số ý kiến: Dùng TKHT Đặt vật nằm trong khoảng OF, qua thấu kính vật cho ảnh ảo cùng chiều và lớn hơn vật Đặt vật nằm ở vị trí sao cho f d 2f cho ảnh thật trên màn và lớn hơn vật ≤ ≤ GV: Thông qua những dụng cụ quang học sau đây, các em hãy thử xem dụng cụ nào đáp ứng được mục đích chúng ta vừa thảo luận? Sau đó GV phân lớp thành 6 nhóm (đã định sẵn) mỗi nhóm khoảng 6 - 7 em, phát cho mỗi nhóm 1 gương lồi, 1 gương lõm, 1 TKHT f= 5cm, 1 TKHT f=25cm, 1 TKPK và một miếng nhựa (nắp hộp đựng phim màu đen trên đó dùng kim tay đâm thủng các hình IV, IX, VINH rất nhỏ). GV tiếp tục đặt câu hỏi: Dùng những dụng cụ các em có trong tay, Hãy phân biệt hình dạng của các chữ trên miếng nhựa so với khi chưa dùng dụng cụ. GV theo dõi sự quan sát của các em và đôi lúc có hướng dẫn những tổ yếu 81 Ban đầu các nhóm đều bỏ qua hai dụng cụ gương lồi và TKPK Sau đó các em làm thí nghiệm với gương cầu lõm và thấu kính hội tụ Cuối cùng các em chọn được TKHT có f = 5cm nhìn và phân biệt rõ nhất GV tiếp tục khuyến khích sự tự lực của các em, đặt vấn đề như sau: Sự tương tự cho ảnh của một vật đặt trong khoảng OF của gương cầu lõm và TKHT, tại sao gương cầu lõm thì không trông rõ được vật Học sinh lúng túng…….. GV giải thích bằng cách đặt câu hỏi như sau: + Khi nghiên cứu ảnh của một vật qua gương cầu, muốn ảnh rõ nét cần phải thỏa mãn điều kiện gì? HS: Điều kiện tương điểm GV giải thích thêm: Khi vật có kích thước rất nhỏ vì là gương cầu có tính chất phản xạ ánh sáng nên phải tăng cường ánh sáng tới mặt gương, cho nên chùm tia phát ra từ vật là chùm tia phân kỳ vì vậy vi phạm điều kiện tương điểm ảnh thu được không rõ nét theo mô hình chúng ta đã phân tích GV tiến hành thí nghiệm cho học sinh quan sát với gương cầu lõm và học sinh nhận xét: 82 Trông ảnh qua gương cầu lõm các chữ IV, IX thành các chữ VI, XI còn chữ VINH không đọc được, Vì vậy rất bất tiện trong việc quan sát các vật nhỏ GV: Thấu kính sử dụng trên (f= 5cm) gọi là kính lúp 2. ĐỊNH NGHĨA KÍNH LÚP: Kính lúp là dụng cụ quang học hỗ trợ cho mắt trong việc quan sát các vật nhỏ. Nó có tác dụng làm tăng góc trông ảnh, bằng cách tao ra một ảnh ảo lớn hơn vật và nằm trong giới hạn nhìn rõ của mắt Kính lúp đơn giản nhất là thấu kính hội tụ có tiêu cự ngắn Liên hệ thực tiễn: Chúng ta thường thấy thợ sửa đồng hồ, thợ kim hoàn thường lắp kính vào mắt, với mục đích giúp cho họ nhìn rõ các chi tiết của vật nhỏ. GV cho HS quan sát kính lúp của thợ sửa đồng hồ và cho HS quan sát các vật nhỏ như đọc trang sách hoặc phân biệt được các lỗ nhỏ trên miếng nhựa vừa làm thí nghiệm. 3. CÁCH NGẮM CHỪNG - ĐỘ BỘI GIÁC GV: Theo điều kiện cho ảnh qua 1 TKHT, muốn quan sát ảnh của 1 vật AB qua kính lúp thì phải đặt vật trong khoảng nào của kính và ảnh phải nằm trong khoảng nào của mắt ? HS: Vật phải nằm trong khoảng OF ( d < f ) của kính và ảnh A’B’ phải nằm trong giới hạn nhìn rõ của mắt GV hoàn thiện thêm: Nếu A’B’ hiện lên trên điểm cực cận (CC) gọi là ngắm chừng ở cực cận, Nếu A’B’ nằm ở điểm cực viễn (CV) là ngắm chừng ở vô cực Ta trông vật AB trực tiếp bằng mắt với góc trông nếu vật đặt ngay điểm cực cận Trông vật qua dụng cụ quang học với góc trông 𝛼0 𝛼 83 𝛼
𝛼0 Tỷ số: G = Gọi là độ bội giác GV đặt vấn đề tiếp: Nếu ta dùng kính lúp có độ dài tiêu cự là f. Dựa vào hình vẽ hãy tính độ bội giác của kính lúp? HS: Lên bảng tính (giáo viên nhắc nhở vì , nhỏ nên tg ) 𝐴𝐵 𝐷 𝐴′𝐵′
|𝑑′|+𝑙 Ta có: tg ; tg 𝛼 𝛼0 𝛼 ≅ 𝛼 𝐷 𝐷
|𝑑′|+𝑙 𝐴′𝐵′
𝐴𝐵 . |𝑑′|+𝑙 = 𝑘 𝛼 = G = 𝛼0 =
𝑡𝑔𝛼
𝑡𝑔𝛼0 = Trong đó : khoảng cách từ mắt đến kính d': khoảng cách từ A’B’ đến kính
𝒍
k: là độ phóng đại GV: Trong trường hợp ngắm chừng ở cực cận, thì độ bội giác như thế nào? HS: + l = D Vì vậy G = k |𝑑′| 84 GV: Trong trường hợp ngắm chừng ở vô cực, đặt vật AB ở vị trí nào của kính? Vẽ ảnh, tính độ bội giác? Và hãy nói rõ vị trí đặt mắt? HS: Ab đặt ngay tiêu diện của kính ⟹ 𝐺 = = . tan 𝛼 =
Không phụ thuộc vào vị trí đặt mắt 𝐴𝐵
𝑓 𝐷
𝐴𝐵 𝐷
𝑓 𝐴𝐵
𝑓 tan 𝛼
tan 𝛼0 =
GV: Theo công thức vừa tính độ bội giác G phụ thuộc vào những yếu tố nào? HS: Tiêu cự của kính và khoảng nhìn rõ ngắn nhất D cửa mắt GV: Đối với mắt bình thường (không tật) D = 0,25cm, tại sao lúc đầu (thí nghiệm) ta không chọn TKHT có f = 25cm, mà chọn TKHT f = 5cm ? HS: Chọn thấu tính có tiêu cự ngắn để có độ bội giác G lớn. GV: Thông thường kính lúp có tiêu cự từ 1-5cm thì G có giá trị từ 5 đến 25 giá trị này được ghi trên vành kính. Củng cố: GV đặt các câu hỏi sau: + Nếu đặt mắt trong tiêu diện ảnh của kính lúp thì độ bội giác có thay đổi không? Tại sao? GV phát phiếu cho HS trả lời trong phiếu, cuối tiết thu lại phiếu và giải đáp ở tiết bài tập. 85 I. NHỮNG BÀI TẬP CÓ LIÊN QUAN: 1. Bài tập 1: Ghép thấu kính - thấu kính: Hai TKHT O1 và O2 có tiêu cự f1 = 5cm, f2 =10cm đặt cách nhau một khoảng a sao cho trục chính trùng nhau Đặt vật AB cách O1 6cm. a. Để hệ hai thấu kính cho ảnh thật của AB thì khoảng cách giữa hai thấu kính là bao nhiêu? b. Để hệ hai thấu kinh cho ảnh ảo của AB thì khoảng cách giữa hai thấu kính là bao nhiêu? c. Để ảnh cuối cùng của AB qua hệ hai thấu kính ở vô cùng, Tính khoảng cách giữa hai thấu kính? Trong mỗi trường hợp đều vẽ hình (chỉ giới hạn bài toán trong trường hợp ảnh của AB qua TKHT O1 là ảnh thật). HƯỚNG DẪN Sơ đồ ảnh của vật AB qua hệ hai thấu kính O1 và O2 AB O1 A1B1 O2 A2B2 d1 d1’d2 d2’ ′
𝑑1 a. Để ảnh của AB qua hệ hai thấu kính O1 và O2 = 30𝑐𝑚 = O1O2= a; d2= a - d1’ > f2 a - d1’ > f2 Vậy a > d1’ + f2 = 30+10 = 40cm 6.5
6 − 5 𝑑1𝑓1
𝑑1 − 𝑓1 =
⟹ 86 b. Để hệ hai thấu kính cho ảnh ảo = = 30𝑐𝑚 d2 = a - d1’ < f2 6.5
6 − 5 𝑑1𝑓1
′
𝑑1
𝑑1 − 𝑓1 =
a < f2 + d1’ Vậy a < 10 + 30 = 40cm ⟹ c. Muốn ảnh của AB ở vô cùng a = 30+ 10 = 40cm Thì d2 = f2 mà d2 = a - d1’ = a - 30 Vì chùm tia ló là chùm tia song song, nên nhìn ảnh qua hệ không phụ
⟹ thuộc vào vị trí đặt mắt 87 2. Bài tập 2: Ghép thấu kính - Gương cầu Một hệ gồm 1 TKHT có tiêu cự f1 = 5cm, đặt cùng trục chính và trước gương cầu lỡm có bán kính R = 20cm, mặt phản xạ của gương quay về hướng thấu kính, khoảng cách giữa gương và thấu kính là a. Vật AB cách gương cầu 12cm. Xác định a để: a/ Ảnh cuối cùng qua quang hệ là ảnh thật b/ Ảnh cuối cùng qua quang hệ là ảnh ảo c/ Ảnh cuối cùng qua quang hệ ở vô cùng Trong mỗi trường hợp đều vẽ hình và chỉ xét ảnh trung gian A1B1 là ảnh thật ? Hướng dẫn: Sơ đồ ảnh: Trường hợp 1 ánh sáng từ AB đến thấu kính trước A’B’ AB TK d’ d Trường hợp 2 ánh sáng từ AB đến gương cầu trước AB GV TK A1B1 A2B2 d1 d1’d2 d2’ Trường hợp 1: Giống như giải bài toán đơn giản ảnh của vật AB qua TKHT a. d > 5cm b. d < 5cm c. d = 5cm Trường hợp 2: a. Ảnh cuối cùng qua quang hệ là ảnh thật Vị trí ảnh A1B1 so với gương cầu: ′
𝑑1 = 12.10
12 − 10 𝑑1𝑓2
= 60𝑐𝑚
𝑑1 − 𝑓2 =
Vị trí ảnh A1B1 so với thấu kính d2 = a – d' = a - 12 88 Muốn ảnh cuối cùng A2B2 là ảnh thật thì: d2 > f1 → a - 60 > 5cm → a > 65cm b. Muốn ảnh cuối cùng qua hệ là ảnh ảo d2 < f1 → a - 60 < 5cm → a < 65cm 89 c. Để ảnh cuối cùng ở vô cùng d2 = f1 → a - 60 = 5cm → a = 65cm II. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU: Ngoài kiến thức trọng tâm nêu ở phần 2.2.2. HS cần phải biết: - Dựa trên cơ sở bài tập đã chuẩn bị trước ở nhà (về mặt lý thuyết) và phần kiến thức về kính lúp, thiếp lập mô hình để làm tăng góc trông ảnh. - Rèn luyện thao tác tư duy phân tích và kiểm tra mô hình bằng phương pháp thực nghiệm. - Rèn luyện thao tác thực hành (sử dụng kính hiển vi) tự lắp ráp kính thiên văn. III. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC: Từ bài học trước học sinh đã biết. Khi muốn quan sát chi tiết những vật nhỏ ta cần phải dùng dụng cụ quang học để làm tăng góc trông ảnh của vật, cụ thể là thấu kính hội tụ có tiêu cự từ 1cm - 5cm. Gọi là kính lúp. Nhưng độ bội giác của kính lúp (G = D/f ) thông thường không quá 25 Vì vậy, khi cần quan sát những vật rất nhỏ (ví dụ: Các tế bào vi trùng…) thì kính lúp không đáp ứng được yêu cầu đó. Như vậy để quan sát những vật rất nhỏ, nhỏ hơn các vật mà kính lúp quan sát được nghĩa là cần phải tăng góc trông của dụng cụ quang học lên hàng trăm thậm chí hàng ngàn lần thì phải làm như thế nào? 90 Qua những bài tập ở chương trước, ghép thấu kính - thấu kính, ghép thấu kính - gương cầu (tính chất cho ảnh của 1 vật qua thấu kính, qua gương cầu) Kết hợp với các bài tập có sẵn trong sách giáo khoa (vẽ ảnh qua gương cầu hay thấu kính với khoảng cách d > 2f, d = 2f; f < d <2f; d = f; d < f bài 7 trang 121 SGK). Học sinh nhận thấy rằng vật AB nằm ở vị trí nào thì ảnh qua thấu kính hay gương cầu lớn hơn vật, với những kiến thức trên người giáo viên yêu cầu học sinh tự lực, tích cực tham gia bài học một cách chủ động, tạo cho các em hưng phấn trong học tập. Yêu cầu đặt ra cho HS, muốn tăng góc trông ảnh của một vật qua dụng cụ quang học hay tăng độ bội giác của dụng cụ quang học lớn hơn kính lúp, cùng với kính lúp cần phải thêm một phần tử quang học nào để đạt được yêu cầu ? Theo bài học trước chúng ta đã phân tích nếu phần tử quang học được dùng kết hợp với kính lúp là dụng cụ phản xạ ánh sáng như gương cầu để quan sát các vật nhỏ đều vi phạm đều kiện tương điểm (vì vật cần phải được chiếu sáng) và chúng ta cũng chú ý rằng ở bài tập số 2 trường hợp 2 là bài tập chỉ được tính toán trong lý thuyết, nhưng thực tế không thể thực hiện được. Như vậy theo trình tự lôgic học sinh sẽ nhận xét phần tử kết hợp với kính lúp phải là dụng cụ cho ánh sáng truyền qua cụ thể là TKHT trong việc quan sát các vật nhỏ. Nhưng trong phần kính thiên văn giáo viên lại đặt ra yêu cầu khác, trên cơ sở hiểu biết về kính hiển vi, HS hiểu ngay phần tử quang học được kết hợp với kính lúp để trông ảnh của những vật ở rất xa, đó là TKHT có tiêu cự dài, vì lý do thời gian không cho phép giáo viên mở rộng bài kính thiên văn hơn nữa, nên chúng tôi trình bày những kiến thức ngoài sách giáo khoa bằng những bài đọc thêm hay trong chương trình ngoại khoá. Vì vậy, chúng tôi thiết kế bài học này bằng phương pháp thực nghiệm kết hợp với phương pháp mô hình, cho học sinh tự làm thí nghiệm và chọn dụng cụ để kết hợp với kính lúp như đã trình bày. Sau khi xong phần thực nghiệm GV 91 hoàn thiện kiến thức, kiểm chứng bằng dụng cụ quang học thực (kính hiển vi) và hướng dẫn học sinh cách sử dụng Ý đồ soạn thảo của chúng tôi như vậy, không ngoài mục đích phát triển tư duy cho học sinh, các em tham gia bài học một cách hào hứng, nhưng không quá sức đối với các em. Mặt khác vẫn phải đảm bảo đầy đủ nội dung của sách giáo khoa, đi đúng trọng tâm của bài học và đáp ứng được yêu cầu cho các kỳ thi tốt nghiệp THPT và Đại học. IV. CHUẨN BỊ CHO BÀI HỌC: Phần chuẩn bị của giáo viên 6 TKHT có tiêu cự f = 10cm 6 TKHT ------------ f = 5cm 6 TKHT ------------ f = 30cm 6 Kính hiển vi học sinh Bóng đèn 12V, acquy 12V Đầy đủ dụng cụ được trình bày trong hình vẽ làm thí nghiệm Phần chuẩn bị của học sinh: Xem lại các bài tập ghép thấu kính - thấu kính; thấu kính - gương cầu, vẽ được các mô hình cho ảnh của các bài tập trên. V. TIẾN TRÌNH GIẢNG DẠY: A.CÂU HỎI ÔN TẬP: + Kính lúp là gì ? Nêu cấu tạo, tính độ bội giác khi ngắm chừng ở vô cùng? + Sự tương tự cho ảnh của một vật qua gương lõm và thấu kính hội tụ, Tại sao trong việc quan sất rõ chi tiết các vật nhỏ người ta không dùng gương cầu lõm mà dùng thấu kính hội tụ có tiêu cự ngắn (kính lúp)? HS A: Kính lúp là dụng cụ hổ trợ cho mắt trong việc quan sát các vật nhỏ. Nó có tác dụng làm tăng góc trông ảnh bằng cách tạo ra một ảnh ảo lớn hơn vật và nằm trong giới hạn nhìn rõ của mắt. Cấu tạo: Kính lúp đơn giản là một thấu kính hội tụ có tiêu cự ngắn 92 Độ bội giác khi ngắm chừng ở vô cực G = D/f HS B: Không dùng gươug cầu lõm làm kính lúp vì: Gương cầu lõm là dụng cụ có tác dụng phản xạ ánh sáng, muốn tạo được một ảnh của một vật nhỏ, vật cần phải được chiếu sáng, vì vật nhỏ nên vi phạm điều kiện tương điểm ảnh cho được qua gương không rõ nét. B. NỘI DUNG: 1. KÍNH HIỂN VI: a. CẤU TẠO: GV đặt vấn đề: Như chúng ta đã biết khi cần quan sát rõ các chi tiết của các vật nhỏ người ta dùng kính lúp. Nhưng độ bội giác kính lúp có hạn không quá 25. Khi cần quan sát những vật nhỏ hơn (chẳng hạn như vi trùng, tế bào...) thì kính lúp không đáp ứng được. Như vậy ta cần phải có một dụng cụ quang học khác mà có thể làm tăng góc trông lên hàng trăm lần hay nói cách khác phải có một dụng cụ quang học để có thể quan sát ảnh ảo của một vật lớn hơn hàng trăm lần thậm chí hàng ngàn lần, tức là độ bội giác rất lớn. Dụng cụ đó là kính hiển vi GV đưa ra định nghĩa kính hiển vi: Kính hiển vi là dụng cụ quang học hỗ trợ cho mắt làm tăng góc trông ảnh của những vật rất nhỏ với độ bội giác lớn hơn nhiều so với độ bội giác của kính lúp GV đặt vấn đề tiếp: Những dụng cụ quang học mà các em đã biết (TKHT, TKPK, Gương cầu) kết hợp cùng kính lúp. Hãy thiết kế mô hình một kính hiển vi. HS: lúng túng, bàn tán sôi nổi. GV gợi ý: Chúng ta hãy phân tích các mô hình như sau: a. TKPK - Kính lúp b. Gương cầu lồi - kính lúp c. Gương cầu lõm - kính lúp d. TKHT - kính lúp 93 GV phát phiếu cho học sinh chọn mô hình và phân tích: HS vẽ các mô hình và phân tích: TKPK - Kính lúp : Vật AB qua TKPK cho ảnh ảo nhỏ hơn vật, không có tác dụng làm tăng góc trông. Gương cầu lồi - kính lúp: Tương tự như mô hình TKPK - kính lúp. Gương cầu lõm - Kính lúp: Theo bài tập số 2 rất hợp lý trên phương diện tính toán, nhưng vì quan sát các vật nhỏ nên cần phải tăng cường ánh sáng chiếu vào vật, vì vậy vi phạm điều kiện tương điểm cho ảnh không rõ nét Cuối cùng HS chọn mô hình TKHT - kính lúp mô hình này đáp ứng được với yêu cần đặt ra GV: Như vậy ta thấy mô hình TKHT - Kính lúp là hợp lý, như vậy sơ đồ ảnh qua quang hệ này như thế nào? Học sinh: AB THKT k lúp A1B1 A2B2 d1 d1’d2 d2’ Giáo viên: A1B1, A2B2 là ảnh gì tương ứng với các trường hợp nào dưới đây: +a. A1B1 là ảnh ảo, A2B2 là ảnh ảo. +b. A1B1 là ảnh thật, A2B2 là ảnh thật. +c. A1B1 là ảnh ảo, A2B2 là ảnh thật. +d. A1B1 là ảnh thật, A2B2 là ảnh ảo. GV cho HS xem các mô hình sau và phân tích: 94 HS nhận xét: Trường hợp a: Kính lúp phải có tiêu cự lớn, cho nên độ bội giác không được lớn. 95 Trường hợp b: Phải dùng màn hứng ảnh A2B2 màn ở xa kính lúp, rườm rà không thực tế. Trường hợp c: f2 < d2 < 2f2 . Kính lúp phải có tiêu cự dài vì vậy độ bội giác nhỏ. Trường hợp d: Trường hợp này đáp ứng được yêu cầu chúng ta đặt ra. GV: O2 là kính lúp chúng ta đã khảo sát, như vậy ảnh thật A1B1 so với AB như thế nào? A1B1 nằm ở vị trí nào so với kính lúp? HS: A1B1 phải lớn hơn AB và nằm trong khoảng từ tiêu điểm vật đến quang tâm của kính lúp. GV: Đúng, A1B1 lớn hơn AB càng nhiều càng tốt, vậy AB phải ở vị trí nào của TKHT (O1) và tiêu cự của O1 phải như thế nào? HS: f1 < d1 < 2f1 𝑑`
𝑑 � = � Ta có: ; 1
𝑑1` 𝑑`−𝑓
𝑓 �
Vậy muốn có độ phóng đại k càng lớn thì tiêu cự f1 của O1 càng phải ngắn 1
𝑑1 + 1
𝑓1 = 𝑘 = � GV: Đúng, tiêu cự của O1 phải rất ngắn. Kết luận: Cấu tạo của kính hiển vi gồm 2 bộ phận chính: Vật kính L1(O1) và thị kính L2(O2). + Vật kính là một TKHT có tiêu cự rất ngắn, tác dụng là tạo ảnh thật lớn hơn vật. + Thị kính là một TKHT có tiêu cự ngắn, đóng vai trò như kính lúp. Hai thấu kính L1 và L2 cùng trục chính đặt cách nhau một khoảng O1O2 thích hợp. GC hướng dẫn học sinh tiến hành làm thí nghiệm. Chọn L1: TKHT có f1 = 5cm, L2: TKHT có f2 = 10cm Sơ đồ thí nghiệm như sau: S nguồn sáng, K khe sáng, M màn 96 Các dụng cụ thí nghiệm khe, vật sáng, thấu kính, màn đều được đặt trên giá dễ dàng di chuyển để thay đổi khoảng cách d1, d1’, d2, d2’ AB có hình dạng chữ L hoặc số 1 Sau khi thí nghiệm xong GV cho học sinh nhận xét: HS: So sánh với vật, ảnh A2B2 ngược chiều nên rất khó quan sát GV: Ở thí nghiệm vật AB được gắn chặt trên giá, nhưng trong thực tế muốn quan sát vật AB được dễ dàng ta chỉ cần xoay vật sao cho thích hợp với việc quan sát. GV cho HS quan sát kính hiển vi thật Hướng dẫn HS sử dụng kính hiển vi chú ý: Sau khi đặt mắt sau thị kính, chỉ được phép vặn ống kính đi lên, để tránh tình trạng vật kính chạm vào làm vỡ tiêu bản. GV giới thiệu thêm về bộ phân tụ sáng: Bộ phận tụ sáng có nhiệm vụ hội tụ ánh sáng vào vật cần quan sát và cùng vật kính qui định năng suất phân ly của kính b. CÁCH NGẮM CHỪNG – ĐỘ BỘI GIÁC: GV trình bày sơ đồ kính hiển vi (trường hợp d) Thông báo cho học sinh khoảng cách giữa tiêu điểm ảnh của vật kính và tiêu điểm vật của thị kính = F1'F2 . Gọi là độ dài quang học. GV đặt tiếp vấn đề: Tương tự như kính lúp, đối với kính hiển vi thế nào là 𝛿 ngắm chừng ở vô cực? 97 HS: Ngắm chừng ở vô cực là điều chỉnh vị trí của vật sao cho ảnh cuối cùng A2B2 ở vô cùng. GV: Muốn vậy thì ảnh A1B1 phải ở vị trí nào của thị kính? HS: A1B1 Phải nằm ngay tiêu điểm vật của thị kính GV cho HS lên bảng vẽ trường hợp trên và hiệu chỉnh, sau khi hiệu chỉnh như hình vẽ GV thông báo rằng: Đối với kính hiển vi khoảng cách O1O2 không thay đổi nên F1F2 cũng không thay đổi, sau dó hướng dẫn học sinh xác định góc . Cũng như kính lúp độ bội giác của kính hiển vi được tính bởi biểu thức. 𝛼 𝐺 = GV cho HS tham khảo SGK và củng cố trong tiết bài tập, và chỉ công nhận 𝛿𝐷
𝑓1𝑓2 tan 𝛼
tan 𝛼0 = kết quả. Và thông báo thông thường D = 25cm, = 18cm, f1f2 vài cm do đó độ bội giác của kính hiển vi thông thường không vượt quá 1500 đến 2000 lần. 𝛿 2. KÍNH THIÊN VĂN: a. CẤU TẠO: GV đặt vấn đề: Những vật ở rất xa, mặc dù có kích thước rất lớn, nhưng góc trông rất nhỏ (ví dụ: như các thiên thể...) khiến ta không phân biệt được các chi tiết nhỏ của vật. Như vậy phải dùng dụng cụ như thế nào để làm tăng 𝛼
góc trông? 98 HS thảo luận và tham gia ý kiến: HS cho rất nhiều ý kiến khác nhau, nhưng đa số vì đã hiểu biết kính hiển vi nên các em lập luận như sau: Vật ở rất xa nên chùm tia tới là chùm tia song song cho ảnh thật hiện trên tiêu diện ảnh của thấu kính hội tụ. Vì vậy đa số các em chọn vật kính là thấu kính hội tụ, còn muốn quan sát ảnh cuối cùng để có góc trông lớn phải dùng kính lúp, sơ đồ ảnh như sau: AB THKT k lúp A1B1 A2B2 ) d1( d1’d2 d2’ GV: Gợi ý trong thực tế có rất nhiều thiết kế kỹ thuật để nhìn vật ở rất xa ∞ chúng ta sẽ nghiên cứu và tìm hiểu trong tiết bài tập, riêng mô hình các em vừa thành lập. Gọi là kính thiên văn khúc xạ. GV định nghĩa kính thiên văn: Kính thiên văn là dụng cụ quang học hỗ trợ cho mắt làm tăng góc trông ảnh của những vật ở xa (thiên thể) Đặt tiếp câu hỏi: Muốn thu ảnh của những vật ở xa càng lớn càng tốt ta phải dùng thấu kính hội có độ dài tiêu cự như thế nào? HS: Vẽ hai sơ đồ và so sánh và trả lời Phải dùng thấu kính hội tụ có tiêu cự dài 99 GV hướng dẫn HS làm thí nghiệm lắp ráp kính thiên văn khúc xạ Chọn 1 TKHT có f1 = 30cm 1 TKHT có f2 = 5cm Ống nhựa tròn đường kính 5cm dài 50cm, phía dưới ống nhựa có khoét rãnh dài khoảng ở phần cuối ống để có thể di chuyển kính lúp dễ dàng, thấu kính hội tụ có tiêu cự dài gắn cố định ở đầu ống. Sau khi làm thí nghiệm xong cho HS quan sát những vật ở xa như khẩu hiệu trên tường, hoặc những vật ở xa như cổng trường... GV: Qua thí nghiệm trên các em hãy vẽ ảnh của một vật AB qua kính thiên văn? Học sinh lên bảng vẽ: GV đặt tiếp vấn đề: Cấu tạo kính thiên văn gồm những phần tử quang học nào? HS: Kính thiên văn có cấu tạo gồm + 1 TKHT có tiêu cự dài + 1 TKHT có tiêu cự ngắn, đóng vai trò như kính lúp Hai thấu kính này được ghép đồng trục, khoảng cách giữa hai thấu kính có thể thay đổi được 100 GV hoàn thiện: Cấu tạo kính thiên văn (khúc xạ) gồm: + 1 TKHT có tiêu cự dài gọi là vật kính. +1 TKHT có tiêu cự ngắn gọi là thị kính (đóng vai trò như kính lúp). + Khoảng cách O1O2 giữa hai kính có thể thay đổi được. b. CÁCH NGẮM CHỪNG - ĐỘ BỘI GIÁC: CÁCH NGẮM CHỪNG: GV: Muốn nhìn rõ ảnh A2B2 thì A2B2 phải nằm trong khoảng nhìn rõ của mắt, như vậy muốn ngắm chừng ở vô cực đối với kính thiên văn (khúc xạ) thì phải làm như thế nào? Biểu diễn bằng hình vẽ HS: Phải thay đổi vị trí của thị kính sao cho ảnh A1B1 nằm đúng ngay tiêu diện vật của thị kính. ĐỘ BỘI GIÁC: GC hướng dẫn HS xác định góc và cho HS tham khảo SGK và củng cố trong tiết bài tập chỉ công nhận kết quả
𝛼 𝐺 = Cho HS nhận xét giữa thí nghiệm và lý thuyết 𝑓1
𝑓2
GV: Muốn tăng độ bội giác của kính thiên văn thì cấu tạo của kính sao cho vật kính có tiêu cự dài và thị kính có tiêu cự ngắn. GV mở rộng thêm: Chúng ta vừa nhìn ảnh của một vật qua kính thiên văn luôn luôn thấy ảnh lật ngược so với vật. Hãy tìm cách khắc phục nhược điểm 101 này? (GV phát phiếu cho học sinh thu lại khi hết tiết học và phân tích ở tiết bài tập) GV giới thiệu thêm ngoài loại thiên văn khúc xạ trên còn nhiều loại kính khác như kính thiên văn phản xạ, ống nhòm quân sự… 102 Qua nghiên cứu thực trạng của việc dạy và học, cũng như căn cứ vào yêu cầu về nội dung kiến thức học sinh phải hiểu, phải nắm vững trong chương "Mắt và các dụng cụ quang học", chúng tôi đã vận dụng các quan điểm dạy học, các biện pháp phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh là: - Phải làm cho học sinh thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu, trên cơ sở đó tìm phương án giải quyết vấn đề tốt nhất - Nội dung của bài học phải có yếu tố mới, những kiến thức mới đó phải liên hệ với những kiến thức các em đã biết và phải có tính thực tiễn, gần gũi với sinh hoạt và đời sống hằng ngày Nét đặc trưng tiến trình dạy học của 4 bài mà chúng tôi biên soạn là gợi cho học sinh nhận biết được cái khó khăn, có mâu thuẫn, có mối quan hệ những điều đã biết và những điều chưa biết Trên cơ sở đó học sinh nảy sinh nhu cầu giải quyết những khó khăn, những mâu thuẫn bằng chính sự nỗ lực tìm tòi của cá nhân mình, song song với đa số học sinh như vậy còn có những học sinh biểu hiện tính sáng tạo của mình qua những kiến thức đã lĩnh hội được. Cũng trên cơ sở như vậy, GV ngoài việc tổ chức hướng dẫn, chỉ đạo, truyền đạt cho học sinh lĩnh hội kiến thức mà còn tự bồi dưỡng cho chính mình ngày càng hoàn thiện hơn, trình độ tay nghề ngày càng được nâng cao hơn. Tóm lại những dự thảo tiến trình dạy học của chúng tôi, luôn thể hiện theo quan điểm "Phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo" của người học bằng cách phối hợp các phương pháp và các hình thức dạy học khác nhau trong cùng một nội dung bài học. 103 - Kiểm tra tính đúng đắn của giả thuyết khoa học mà đề tài đã nêu: Tổ chức việc dạy học theo hướng "phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo" khi giảng dạy chương "Mắt và các dụng cụ quang học" lớp 12 THPT, sẽ góp phần làm cho học sinh nắm vững kỹ thuật, rèn luyện kỹ năng, tăng cường tính tích cực và phát huy óc sáng tạo. Để đạt được mục đích trên chúng tôi tiến hành: - Triển khai công việc giảng dạy 4 bài theo tiến trình đã biên soạn. - Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo mục đích đã nêu, trên cơ sở đó có những sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện nội dung đề tài. - So sánh đối chiếu kết quả học tập ở lớp thực nghiệm và lớp đối chứng để sơ bộ đánh giá hiệu quả của tiến trình giảng dạy Học sinh hai lớp 12B và 12F trường THPT Ba Vát huyện Mỏ Cày tỉnh Bến Tre nơi chúng tôi đang công tác Lớp thực nghiệm và lớp đối chứng được hai GV giảng dạy trong cùng một thời gian, cùng một nội dung chương "Mắt và các dụng cụ quang học" lớp 12 THPT Lớp thực nghiệm do thầy Cao Huy Thanh dạy ở lớp 12F. Lớp đối chứng do thầy Phạm Văn Hùng dạy ở lớp 12B. 104 Trước khi tiến hành giảng dạy chương "Mắt và các dụng cụ quang học" chúng tôi đã tìm hiểu tình hình học tập ở các lớp trên và việc thực hiện chương trình của các GV đang dạy: Lớp thực nghiệm 12F có 39 học sinh. Lớp đối chứng 12B cũng có 39 học sinh. Đặc điểm ở các lớp này, đa số học sinh ngoan hiền, chăm chỉ học tập, chất lượng học tập ở các lớp này tương đương với nhau. Cụ thể điểm Trung Bình môn Vật lý ở học kỳ I: LỚP 12F: 6,25 LỚP 12B: 6,27 Đặc biệt ở lớp thực nghiệm, sau khi soạn thảo tiến trình giảng dạy, chúng tôi đã gặp gỡ thầy Cao Huy Thanh trao đổi và trình bày ý đồ từng bài cụ thể, trao cho thầy Thanh, thầy Hùng một số bài tập ở chương trước cho HS tiến hành giải ở nhà và có hướng dẫn giải từng bài cụ thể, trước mỗi tiết dạy thực nghiệm chúng tôi đã chuẩn bị kỹ các dụng cụ để tiến hành thí nghiệm và những mô hình được in sẵn trên phim trong chuẩn bị cho máy đèn chiếu. Ở các tiết dạy có chia nhóm, chúng tôi đã lên danh sách và chia nhóm từ 6- 7 học sinh, lựa chọn trình độ học tập đồng đều nhau: Có học sinh khá cũng có học sinh yếu, ở các nhóm tự động bầu nhóm trưởng. Chúng tôi trực tiếp dự giờ ở lớp thực nghiệm. Sau mỗi bài học, chúng tôi tiến hành trao đổi với GV trực tiếp giảng dạy và cũng gặp gỡ học sinh, mục đích thu thập thông tin để rút kinh nghiệm cho các bài học sau. Cuối chương chúng tôi tiến hành kiểm tra 45phút bằng hình thức trắc nghiệm khách quan, để sơ bộ đánh giá kết quả chiếm lĩnh kiến thức của học sinh, cũng như đánh giá sự tiến bộ của học sinh theo mục đích đề tài đã nêu là "phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo" của học sinh 105 BÀI: MẮT VÀ MÁY ẢNH: Với kiến thức trọng tâm như đã nêu ở phần 2.2.2. Phần bài tập các em đã chuẩn bị từ chương trước, Sau khi GV nên vấn đề và phân tích yêu cầu của kỹ thuật chụp ảnh, phát phiếu cho các thảo luận theo nhóm và làm thí nghiệm. Mặc dù sự cho ảnh tương tự giữa gương cầu lõm và TKHT, 5/6 nhóm chọn mô hình bộ phận chính của máy ảnh là TKHT (phụ lục), đại diện các nhóm tranh luận sôi nổi, nhưng để tránh mất thời gian, GV thu hẹp đề tài bằng cách cho cách giới thiệu máy ảnh thật và hướng dẫn cách sử dụng. Phần sự điều tiết của mắt: Sau khi GV thông báo cấu tạo của mắt về phương diện quang hình học (hình vẽ SGK trên máy đèn chiếu ) và nhấn mạnh thủy tinh thể của mắt đóng vai trò như một TKHT nhưng độ cong của thủy tinh thể có thể thay đổi được, học sinh tham gia xây dựng bài giảng của GV rất tích cực, chủ động. GV cho biết, khác với trước đây một số học sinh chưa bao giờ tham gia phát biểu ý kiến, ngồi nghe một cách thụ động thì bây giờ tham gia một cách nhiệt tình, đa số ý kiến rất chính xác. Cuối tiết GV củng cố bằng câu hỏi: So sánh sự giống nhau và khác nhau của mắt và máy ảnh về phương diện quang hình học. Tóm lại, Qua tiết học này sự tích cực chủ động chiếm lĩnh kiến thức của học sinh được phát huy một cách rõ rệt, đồng thời GV cũng bao quát được lớp học, kịp thời sửa những sai sót của các em qua những lời phát biểu, ví dụ: "phim bị xẹt sáng","ảnh xuất hiện trên phim hay võng mạc" "ngăn cách bớt một phần ánh sáng không cho lọt vào phim"... Vì máy ảnh là dụng cụ các em thường gặp trong thực tế, nên GV cũng giải thích nhiều thắc mắc của học sinh. 106 BÀI: CÁC TẬT CỦA MẮT VÀ CÁCH SỬA Sau khi GV nêu bài tập về ghép sát hai thấu kính mà các em đã làm ở chương trước, tiến hành cho học sinh làm thí nghiệm ghép sát hai thấu kính theo từng nhóm đã chia sẵn (khoảng 10 phút). GV đặt vấn đề: Khi tiêu cự lớn nhất của thủy tinh thể có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn khoảng cách OV thì gọi là mắt có tật và cho học sinh xem mô hình mắt có tật, các em đã hình dung được loại thấu kính để sửa từng tật của mắt. Trong thực tế các em thường gặp những người mắt có tật đeo kính, nên khi GV nêu phương án dùng gương cầu để sửa các tật của mắt, học sinh trình bày ngay những bất tiện thậm chí có nhiều ý kiến rất dí dỏm gây không khí vui vẻ cho lớp. Phần còn lại các em tham gia xây dựng cách sửa các tật thế nào cho thích hợp. Phần sửa tật cận thị học sinh tham gia ý kiến rất sôi nổi, GV chỉ hướng dẫn học sinh tự động tính toán và trình bày trên bảng theo sự chỉ định của GV. Phần sửa tật viễn thị: GV phát phiếu cho học sinh và nêu vấn đề TKHT có tác dụng như thế nào đối với người có mắt bị tật viễn thị, GV hướng dẫn học sinh phân tích tác dụng của kính đeo và đề nghị học sinh cho phương án để sửa tật này. Cuối tiết chúng tôi cùng GV kiểm tra đánh giá lại số phiếu thu được. Đa số học sinh nêu phương án sửa tật viễn thị như SGK trình bày, có 3 em Trần Ngọc Liễu, Phạm Châu Tuyền, Nguyễn Duy Nhân nêu đúng cả hai phương án như dự đoán trong tiến trình (phụ lục). Do GV đầu tư phần lớn thời gian cho phần sửa tật cận thị, khâu phát phiếu cho học sinh cũng tốn thời gian không nhỏ, nên khi kết thúc bài học này bị trễ hơn 8 phút. BÀI: KÍNH LÚP Ở bài học này sau khi GV đặt vấn đề, học sinh tham gia xây dựng bài rất sôi nổi, khi kết thúc thí nghiệm các nhóm đểu chọn dụng cụ đáp ứng với yêu 107 cầu. đặt ra là TKHT có tiêu cự f = 5cm. Đến đây nhiều học sinh nảy sinh vấn đề tại sao dùng TKHT có tiêu cự f = 5cm thì trông ảnh của vật nhỏ lại rõ hơn dùng TKHT có tiêu cự f = 25cm. GV hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề trình tự theo tiến trình soạn thảo, học sinh chủ động tham gia xây dựng bài một cách hứng thú, tích cực. Nhìn chung học sinh nắm vững kiến thức của bài, tuy nhiên cũng có một số học sinh còn thụ động do kỹ năng tính toán về phương diện hình học còn yếu, cho nên khi được GV gọi để phát vấn còn lúng túng thể hiện ở cách trả lời dùng từ ngữ chưa chuẩn xác, câu trả lời không được mạch lạc. Cuối bài GV mở rộng thêm: Nếu đặt mắt trong tiêu diện ảnh của kính lúp thì độ bội giác có thay đổi không? Học sinh trả lời trên phiếu, cuối tiết chúng tôi phân tích: Có 8 em trả lời đúng, trong đó có 6 em trả lời bằng tính toán định lượng, 2 em trả lời bằng hình vẽ (phụ lục). BÀI: KÍNH HIỂN VI - KÍNH THIÊN VĂN Ở bài học này sau khi GV nêu định nghĩa kính hiển vi và yêu cầu học sinh trả lời trên phiếu (không cần nêu tên ) chọn mô hình thích hợp với yêu cầu của định nghĩa và theo bài tập 1, 2 mà chúng tôi đã nêu (những bài tập này học sinh đã chuẩn bị từ cuối chương trước). Khi xử lý số phiếu thu được có: 17 em chọn mô hình TKHT - Kính lúp. 15 em chọn mô hình Gương cầu lõm - Kính lúp. 5 em chọn mô hình Gương cầu lồi - Kính lúp. 2 em để phiếu trống Như vậy có 37/39 học sinh tham gia chọn mô hình, trong đó có 17 học sinh chọn mô hình đúng (phụ lục). Điều này chứng tỏ rằng khi các em được tham gia xây dựng bài một cách tự do dưới sự hướng dẫn của GV những suy nghĩ, tính toán của các em bao giờ cũng nhạy hơn nhanh hơn khi được phát vấn, khi được 108 làm thí nghiệm theo nhóm các em tự động tham gia tranh luận sôi nổi, ít thấy nhờ vào các thành viên khá giỏi trong nhóm. Phần kính thiên văn: Sau khi GV hướng dẫn học sinh tự lắp ráp và điều chỉnh, cho học sinh quan sát những chữ trên tường hoặc trên bảng đen. Ngoài việc GV cho học sinh xem mô hình kính thiên văn phản xạ... còn mở rộng thêm để kích thích sự sáng tạo của học sinh bằng câu hỏi "Khi quan sát ảnh của một vật qua kính thiên văn ta thấy ảnh luôn bị lật ngược so với vật. Hãy tìm cách khắc phục nhược điểm này?" Kết thúc tiết học chúng tôi phân tích số phiếu nhận được có 6 phiếu vẽ đúng mô hình như dự kiến (phụ lục). Nhìn chung kiến thức trong bài kính hiển vi - kính thiên văn quá tải. Nên phần tính toán độ bội giác GV chỉ giới thiệu và học sinh tham khảo SGK và được củng cố trong tiết bài tập, phần lớn thời gian GV dành cho thí nghiệm và biểu diễn các mô hình. Các mô hình trong nội dung 4 bài chúng tôi soạn thảo trên đều được chuẩn bị trên phim trong dùng cho máy đèn chiếu, mục đích để cho khỏi mất thời gian nhiều cho các hình vẽ trên bảng. Tuy nhiên, GV giảng dạy theo tiến trình đã soạn thảo cũng gặp không ít khó khăn, cụ thể như sau: - Đây là lần đầu tiên, HS được GV tổ chức học tập và thực hành thí nghiệm theo nhóm đa số HS phấn khởi tham gia tham gia hoạt động nhưng cũng có một số ít còn bỡ ngỡ, lúng túng tham gia một cách hời hợt nhiều lần được GV nhắc nhở. - Trong phần hướng dẫn HS sử dụng máy ảnh, GV chỉ nhấn mạnh muốn cho ảnh rõ nét trên phim phải thay đổi khoảng cách từ vật kính đến phim, nhiều HS sử dụng thành thạo máy ảnh có ý kiến rất xác đáng như động tác xoay ống kính là điều chỉnh cả khoảng cách từ vật kính đến phim và khoảng cách từ vật kính đến vật hoặc giữ nguyên khoảng cách từ vật kính đến phim, thay đổi 109 khoảng cách từ vật kính đến vật thì chất lượng hình ảnh cũng không kém chất lượng. - Trong nội dung sửa các tật của mắt: GV chưa cho biết điểm cực viễn của mắt viễn thị nằm ở vị trí nào? Sự khác nhau giữa mắt viễn thị và mắt già... - Trong nội dung bài kính hiển vi, kính thiên văn vì kiến thức quá tải nên GV giảng dạy tốc độ hơi nhanh nên có một số HS yếu không theo kịp. Những khó khăn trên chúng tôi đã trao đổi trực tiếp với HS ở cuối tiết học và nhờ GV củng cố trong tiết bài tập cuối chương. Nhìn chung, qua 4 nội dung được truyền đạt theo hướng đã chọn của đề tài thật sự đem lại không khí học tập sôi động và có sức thuyết phục cao đối với học sinh. Như vậy, có thể nhận xét rằng: Phương pháp chọn phù hợp với đối tượng, kích thích được tính tích cực, tự lực và sáng tạo thích ứng với khả năng của học sinh. Để đánh giá tính khả thi phương pháp dạy học ở các bài chúng tôi đã biên soạn trong chương "Mắt và các dụng cụ quang học". Chúng tôi đã soạn thảo và tổ chức cho học sinh kiểm tra bằng phương pháp trắc nghiệm khách quan, thời gian 45 phút kể cả thời gian phát đề. 3.4.2.1: TRẮC NGHIỆM ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP: - Soạn thảo bài trắc nghiệm gồm 20 câu hỏi trắc nghiệm khách quan (nhằm đánh giá sự vận dụng sáng tạo của học sinh), mỗi câu gồm có 4 lựa chọn và học sinh chỉ chọn 1 trong 4 lựa chọn đó bằng cách đánh dấu X ở đầu câu - Với 20 câu trắc nghiệm số thứ tự câu bị đảo lộn phân thành 2 loại đề để tránh hiện tượng quay cóp ở học sinh, hai lớp 12B và 12F tiến hành kiểm tra đồng loạt vào chiều thứ 5 ngày 21/1/2003, tổng số có 78 học sinh tham gia kiểm tra, chúng tôi xáo trộn học sinh hai lớp và chỗ ngồi được bố trí như số báo danh theo thứ tự A, B, C… 3.4.2.2: MỤC TIÊU CỦA BÀI KIỂM TRA TRẮC NGHIỆM: 110 Khi soạn thảo các câu hỏi trắc nghiệm, chúng tôi đối chiếu theo mục tiêu sắp xếp kiến thức của HS được học theo thứ tự nhận thức: Nhận biết, hiểu, vận dụng sáng tạo. Tuy nhiên, đây chỉ là cách sắp xếp khi soạn thảo bởi vì khi đưa vào bài kiểm tra thứ tự này bị đảo lộn ở các đề khác nhau (gồm 2 đề) Trong chương "Mắt và các dụng cụ quang học" khối lượng kiến thức không phải là nhỏ, số câu soạn thảo cũng chưa bao quát hết toàn bộ nội dung kiến thức. Việc tăng cường câu hỏi cũng khó đạt được vì còn xét đến sự tương quan của các phần khác trong chương trình vật lý lớp 12 THPT nói chung, phần quang hình học nói riêng. Mặt khác, cần phải xét đến tính vừa sức của HS THPT, 20 câu trắc nghiệm được kiểm tra trong thời gian 45 phút chúng tôi thấy vừa đủ để đánh giá một cách tương đối trung thực kết quả học tập của HS trong chương này. 20 câu trắc nghiệm chúng tôi phân loại như sau: - Mức nhận biết: Gồm câu 1, 2, 3, 4, 5, 6, 8, 11. - Mức hiểu: Gồm các câu 7, 9, 10, 12, 14, 16, 19. - Mức vận dụng và sáng tạo: Gồm các câu 13, 17, 18, 20, 15. Nội dung kiểm tra được soạn thảo theo mục tiêu nói trên bao gồm các kiến thức cơ bản mà học sinh phải nấm vững và phải biết vận dụng vào một số bài tập cơ bản, bên cạnh đó chúng tôi cũng thiết kế một vài câu hỏi ở mức độ sáng tạo theo khả năng của học sinh. Với mức độ bài kiểm tra thì học sinh nếu chỉ học thuộc bài mà không hiểu thì khó có thể đạt điểm trung bình. 3.4.2.3 NỘI DUNG BÀI TRẮC NGHIỆM Đánh dấu X vào các từ (a, b, c, d) ở đầu câu mà em chọn theo yêu cầu của câu hỏi. 1/ Chọn câu đúng trong các phát biểu sau: Trong máy ảnh để cho ảnh của một vật cần chụp hiện rõ trên phim người ta phải: a. giữ cho phim và vật kính đứng yên, thay đổi tiêu cự của vật kính. 111 b. thay đổi khoảng cách từ vật kính đến phim bằng cách đưa vật kính ra xa hoặc lại gần phim c. thay đổi khoảng cách từ vật kính đến phim bằng cách đưa phim ra xa hoặc lại gần vật kính d. đồng thời thay đổi vị trí của vật kính và phim 2/ Chọn câu đúng trong các phát biểu sau: Ảnh hiện lên phim của máy ảnh hay võng mạc của mắt: a. luôn là ảnh thật nhỏ hơn vật b. luôn là ảnh ảo nhỏ hơn vật c. ảo hay thật tuỳ thuộc vào vị trí của vật d. không xác định được thật hay ảo 3/ Chọn câu sai khi so sánh các bộ phận tương ứng giữa mắt và máy ảnh: a. Võng mạc của mắt tương ứng với phim của máy ảnh b. Lòng đen và con ngươi của mắt tương ứng với màn chắn có lỗ tròn của máy ảnh c. Mi mắt tương ứng với cửa sập của máy ảnh d. Thuỷ tinh thể của mắt tương ứng với buồng tối của máy ảnh 4/ Trong các phát biểu sau đây phát biểu nào sai: a. Khi nhìn vật ở xa thì tiêu cự của thủy tinh thể lớn nhất b. Khi nhìn vật ở xa vô cực mắt phải điều tiết tối đa c. Khoảng nhìn rõ ngắn nhất thay đổi theo độ tuổi d. Mắt không tật là mắt khỉ không điều tiết có tiêu điểm nằm trên võng mạc 5/ Điều nào sau đây đúng khi nói về mắt cận thị a. Mắt cận thị là mắt khi không điều tiết, tiêu điểm của mắt nằm sau võng mạc b. Mắt cận thị nhìn rõ những vật ở xa c. Khi nhìn vật ở điểm cực cận của mình, mắt cận thị không điều tiết 112 d. Điểm cực cận của mắt cận thị ở gần mắt hơn mắt bình thường (không tật) 6/ Tìm phát biểu sai: Mắt viễn thị là a. mắt nhìn vật ở vô cực vẫn phải điều tiết b. khi nhìn vật ở gần cách mắt khoảng 10cm, mắt phải điều tiết tối đa c. tiêu cự của thủy tinh thể có giá trị lớn nhất lớn hơn mắt bình thường d. khi không điều tiết, tiêu điểm của thủy tinh thể nằm sau võng mạc 7/ Trong các trường hợp sau, ở trường hợp nào độ bội giác của kính lúp có giá trị G = D/f: (D khoảng nhìn rõ ngắn nhất của mắt, f là tiêu cự của kính lúp) I. Mắt ngắm chừng ở vô cực II. Mắt ngắm chừng ở điểm cực cận III. Mắt đặt sát, sau kính lúp IV. Mắt đặt ở tiêu diện ảnh của kính lúp a. I b. I và II c. I và III d. I và IV 8/ Điều nào sau đây không đúng khi nói về kính hiển vi: a. Tiêu cự của thị kính lớn nhiều so với tiêu cự của vật kính b. Ảnh trung gian cho bởi vật kính luôn là ảnh thật lớn hơn vật c. Ảnh cuối cùng phải hiện ra trong khoảng từ vật kính đến thị kính để không bị che khuất bởi vật kính d. Có phạm vi ngắm chừng nhỏ hơn nhiều so với phạm vi ngắm chừng của kính lúp 9/ Mỗi phát biểu sau đây có hai sự kiện, tìm hai sự kiện đúng và tương quan với nhau a. Muốn nhìn thấy một vật thì ảnh của vật đó hiện lên trên võng mạc của mắt. Vì độ tụ của thủy tinh thể có thể thay đổi được b. Ở trạng thái nghỉ khoảng cách từ thủy tinh thể đến võng mạc không đổi. Vì khi điều tiết, độ tụ của thủy tinh thể thay đổi 113 c. Khi đeo kính sửa tật cận thị tiêu điểm ảnh của thủy tinh thể nằm trên võng mạc. Vì khi đeo kính mắt nhìn thấy vật ở vô cực d. Người có mắt cận thị muốn nhìn gần phải cất kính. Vì khi đeo kính điểm cực cận vẫn thế 10/ Tương tự câu 9: a. Ngắm chừng kính lúp là điều chỉnh vị trí của vật hoặc kính để ảnh tạo ra bởi kính nằm trong giới hạn nhìn rõ của mắt. Vì khi ngắm chứng ở vô cực độ bội giác không phụ thuộc vào vị trí đặt mắt b. Ảnh của vật qua kính hiển vi là ảnh ảo, ngược chiều và lớn hơn vật rất nhiều. Vì tiêu điểm ảnh của vật kính và tiêu điểm vật của thị kính trùng nhau c. Tiêu điểm ảnh của mắt người già ở trạng thái nghĩ nằm trên võng mạc. Vì điểm cực viễn của mắt người già nằm ở vô cực d. Để chụp được ảnh rõ của một vật phải thay đổi tiêu cự của vật kính. Vì khoảng cách từ vật kính đến phim không đổi 11/ Kính lúp ghi X10, tiêu cự của kính là ? a. 25cm b. 2,0cm c. 2,5cm d. 10cm 12/ Câu nào sau đây không đúng khi phát biểu chung cho 3 dụng cụ quang học: Kính lúp, kính hiển vi, kính thiên văn: a. đó là 3 dụng cụ có mục đích làm tăng góc trông ảnh của vật b. độ bội giác là tỉ số giữa góc trông ảnh của vật qua dụng cụ quang học và góc trông vật khi vật đặt ở điểm cực cận của mắt c. để phân biệt được hai điểm A và B trên vật thì góc trông ảnh của vật phải lớn hơn năng suất phân li của mắt ; ; d. độ bội giác khi ngắm chừng ở vô cực là: G2 = δD/f1f2 G1 = D/f 13/ Một người cận thị muốn nhìn vật ở xa nhưng không quên mang kính. Trong
G3 = f1/f2
tay người ấy có các quang cụ, có thể chọn quang cụ nào sau đây để nhìn được vật thay cho kính 114 a. Gương cầu lồi b. Gương cầu lõm c. Lăng kính d. Gương phẳng Các dữ kiện trong bài toán sau dùng để trả lời câu 14,15 Một kính hiển vi gồm vật kính có tiêu cự lcm, thị kính có tiêu cự 3cm, vật kính và thị kính đặt đồng trục cách nhau 22cm. Quan sát viên có mắt không tật,
điểm cực cận cách mắt 25cm và năng suất phân ly 3.10-4 rad 14/ Độ bội giác của kính khi quan sát viên nhìn ảnh không cần điều tiết có giá trị: a. 160 b. 150 c. 140 d. 130 15/ Độ cao nhỏ nhất của vật mà mắt có thể nhìn được qua kính khi ngắm chừng ở vô cực là: a. 0,500 m b. 0,463 m c. 0,400 m d. 0,375 m Dùng dữ kiện sau đây để trả lời cho câu 16, 17: µ µ µ µ Một người cận thị có điểm cực viễn cách mắt 20cm, muốn đọc một thông báo cách mắt 40cm nhưng quên không mang kính. Trong tay người ấy chỉ có một thấu kính phân kỳ có tiêu cự f = -15cm. Nếu dùng thấu kính này, người ấy đọc được thông báo mà không phải điều tiết 16/ Hãy nêu phương án thực hiện: a. Đặt thấu kính ở khoảng giữa thông báo và điểm cực viễn của mắt b. Đặt thấu kính sát mắt để nhìn thấy ảnh ảo của thông báo c. Đặt thấu kính ở khoảng giữa mắt và điểm cực viễn, điều chỉnh vị trí của thấu kính sao cho ảnh ảo của thông báo nằm ở điểm cực viễn của mắt d. Không có phương án thực hiện vì tiêu cự của thấu kính không bằng OCV 17/ Thấu kính đặt cách mắt một khoảng: a. 30cm b. 10cm c. 15cm d. Không xác định được vị trí 18/ Một kính thiên văn gồm vật kính có tiêu cự 1,2m, thị kính có tiêu cự 4cm khi ngắm chừng ở vô cực thì khoảng cách giữa vật kính và thị kính O1O2 và độ bội giác G là: a. O1O2 = 120cm, G = 30 b. O1O2 = 124cm, G = 30 115 c. O1O2 = 124cm, G = 32 d. O1O2 = 120cm, G = 32 19/ Mắt cận thị có điểm cực cận cách mắt 10cm, cực viễn cách mắt 40cm. Tính tiêu cự kính cần đeo để sửa tật cận thị: a. -25cm b. -50cm c.-40cm d. -10cm 20/ Mắt viễn thị có tiêu cự lớn nhất của thủy tinh thể là 21cm, tiêu điểm sau võng mạc lcm. Tính tiêu cự của kính cần đeo sát mắt để nhìn rõ vật ở vô cực không cần điều tiết: a. 21cm b. -42cm c. -21cm d. 12cm 3.4.3.1. ĐIỂM SỐ BÀI KIỂM TRA: Bài trắc nghiệm trên có 20 câu, cứ mỗi câu đúng chúng tôi chấm lđ, phân biệt thành hai loại điểm: Điểm thô và điểm chuẩn - Điểm thô: Theo cách chấm trên, điểm toàn bài là 20 điểm này gọi là điểm thô, điểm thô dùng để phân tích đánh giá độ khó của bài trắc nghiệm - Điểm chuẩn: Để thuận tiện cho việc đánh giá kết quả học tập chung của học sinh, chúng tôi chọn thang điểm chuẩn là 10, bằng cách lấy điểm thô chia cho 2 rồi làm tròn đến hàng đơn vị như bài kiểm tra 1 tiết mà các trường THPT thường làm: 3.4.3.2 ĐÁNH GIÁ CHUNG CHO BÀI TRẮC NGHIỆM BẰNG PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ * Độ khó của câu trắc nghiệm: Trong bài trắc nghiệm trên có 20 câu, mỗi câu có 4 lựa chọn, nên độ khó (K) vừa phải của mỗi câu là: 1 + 1
4 𝐾 = = 0,625
Độ khó của từng câu trắc nghiệm được tính: 2 K = Tổng số bài làm đúng/ tổng số bài trắc nghiệm Phân tích 20 câu trên chúng tôi phân loại như sau: Loại dễ: K > 0,70 gồm các câu: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 8, 11 116 Loại khó: K < 035 gồm các câu: 9, 10, 13, 15, 17, 20 Các câu còn lại quanh giá trị độ khó vừa phải gồm các câu: 7, 12, 14, 16, 18, 19 * Độ khó của bài trắc nghiệm: Áp dụng cách tính như sau Điểm TB lý tưởng = (Điểm tuyệt đối + Điểm may rũi mong đợi)/2 = 20+ 20
4 2 Sau khi chấm bài làm chúng tôi thu được bảng điểm như sau: Lớp 12B là lớp đối chứng, 12F là lớp thực nghiệm. Mỗi lớp có 39 học sinh, như vậy tổng số bài tham gia trắc nghiệm là 78: với n = 78 1
𝑛 ∑ 𝑛𝑖𝑥𝑖 𝑥 = Bảng 1 Điểm trung bình thực tế: = 10,2 Như vậy điểm trung bình lý tưởng cách điểm trung bình thực tế 12,5-10,2= 𝑥̅ 2,3 có thể nói bài trắc nghiệm hơi khó, tuy nhiên điểm số này vẫn còn trên điểm trung bình lý thuyết (20:2 = 10). Vì vậy độ khó của bài trắc nghiệm này chấp nhận được và có thể dùng đánh giá kết quả học tập của học sinh Nhận xét chung: Qua đánh giá bài trắc nghiệm khách quan bằng phương pháp thống kê, chúng tôi thấy rằng bài trắc nghiệm này phù hợp với học sinh và có thể sử dụng hệ thống câu hỏi này để kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh. 3.4.3.3. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA LỚP THỰC NGHIỆM VÀ LỚP ĐỐI CHỨNG Phân tích kết quả chung cho hai lớp qua bài kiểm tra: 117 Như đã trình bày trên để phân tích kết quả học tập, chúng tôi chọn thang điểm 10 là thang điểm chuẩn cho bài kiểm tra, chúng tôi có số liệu thống kê như sau: Bảng 2 Điểm dưới TB (2-4) có 22 bài chiếm 28,2% ĐiểmTB (5-6) có 43 bài chiếm 55,1% Điểm Khá (7-8) có 12 bài chiếm 15,4% Điểm Giỏi (9-10) có 1 bài chiếm 1,3% ∑ 𝑛𝑖𝑥𝑖 Điểm TB 5,1 Ta có thể vẽ được dạng đường cong phân bố dựa vào các điểm chuẩn của 𝑛 = bài, ta tính được từ bảng 2: 118 Đồ thị 3.1 Trục hoành biểu diễn điểm số Trục tung biểu diễn tần suất (số % học sinh đạt từ điểm 2 trở lên) Đường cong phân bố gần đạt được phân bố chuẩn hình quả chuông. Trong đường cong phân bố hình quả chuông điểm của một bài trắc nghiệm lý tưởng là điểm trung bình và trung vị trùng nhau. Nhưng đường cong này cho ta thấy giá trị trung bình là 5,1 và trung vị là 5,0, cho ta biết có hơn 50% điểm số của bài là trên 5,0. Điều này hoàn toàn phù hợp, bởi vì tổng hợp thống kê ở đây là 78 bài và kết quả là chấp nhận được Đánh giá kết quả học tập của từng lớp: Ta thống kê bảng điểm của từng lớp, chú ý rằng số HS của hai lớp là bằng nhau (39 HS) 119 Bảng 3 Theo bảng 3 ta tính được các thông số thống kê như sau Lớp Đối chứng: Điểm dưới TB (2-4) có 17 bài chiếm 48,7% Điểm TB (5-6) có 15 bài chiếm 38,5% Điểm Khá (7-8) có 7 bài chiếm 12,8% Điểm Giỏi Không có Như vậy số bài trên trung bình chiếm 51,3% ∑ 𝑛𝑖𝑥𝑖 Điểm trung bình: 4,6 Lớp Thực nghiệm: Điểm dưới TB có 3 bài chiếm 7,7%
𝑛 =
có 28 bài chiếm 71,8% Điểm TB Điểm Khá có 7 bài chiếm 17,8% Điểm Giỏi có 1 bài chiếm 2,6% 120 ∑ 𝑛𝑖𝑥𝑖 Số bài trên trung bình chiếm 87,2% và điểm trung bình: 5,7 Dựa vào các kết quả thống lê trên (bảng 3) ta có thể vẽ 2 đường phân bố 𝑛 = điểm số của 2 lớp theo tần suất như sau: Đồ thị 3.2 Trục hoành biểu diễn điểm số Trục tung biểu diễn tần suất (số % HS đạt từ điểm 2 trở lên) Đường Biểu diễn lớp thực nghiệm Đường Biểu diễn lớp đối chứng 121 Nhận xét: Hai đường cong phân bố điểm số theo tần suất cũng gần đạt được phân bố chuẩn hình quả chuông, Tuy nhiên: - Điểm trung vị của lớp thực nghiệm cao hơn điểm trung vị của lớp đối chứng (46,2% so với 25,7%). Điều này chứng tỏ rằng số bài đạt điểm trung bình lý tưởng của lớp thực nghiệm nhiều hơn lớp đối chứng Mặt khác, ngoài cách đánh giá theo cách trên, chúng tôi cũng dùng phương pháp thống kê toán học trong khoa học giáo dục của GS Hoàng Chúng như sau: Theo bảng điểm chuẩn của hai lớp chúng tôi có: Điểm trung bình: Lớp đối chứng 12B = 4,6, Lớp thực nghiệm 12F = 5,7 2 = 2,5 2 𝑛−1 2 = 1,4 Phương sai: 𝑥1��� 𝑥2��� Lớp đối chứng S1 ∑ 𝑛𝑖(𝑥𝑖−𝑥) Lớp thực nghiệm S2 𝑆 = Độ lệch chuẩn: Lớp đối chứng = 1,58 Lớp thực nghiệm = 1,18 2
%; 𝛿1 𝛿2 Hệ số biến thiên: Lớp đối chứng V1 = 34,3% Lớp thực nghiệm V2 = 20,7% 𝛿 = √𝑆
𝛿
𝑥̅ 𝑉 =
Sai số tiêu chuẩn: m = /n Lớp đối chứng m1 = 0,040 Lớp thực nghiệm m2 = 0,030 𝛿 Cũng theo bảng điểm chuẩn chúng tôi thống kê tần suất tích lũy hội lùi như sau: Bảng 4 Theo bảng 4 Ta vẽ đường lũy tích hội lùi như sau: 122 Đồ thị 3.3 Đường biểu diễn lớp đối chứng, Đường biểu diễn lớp thực nghiệm 2
- Giả thuyết không Ho: “Sự khác nhau giữa các phương sai ở hai mẫu S1
2 là không có ý nghĩa” nói cách khác “phương sai của tổng thể chung là * Kiểm định sự khác nhau giữa các phương sai là có ý nghĩa: và S2 2 = ” bằng nhau: 2
- Giả thuyết đối H1: 2 # 𝛿2 𝛿1 2
𝛿1
Đại ;ượng kiểm định: 𝛿2 1,79. Giá trị tới hạn tìm trong 2
𝑆1
2
𝑆2 2,5
1,4 =
bảng phân phối F (bảng III), ứng với bậc tự do f1 = n1 – 1, f2 = n2 – 1 với n1 = Fα n2 = 39 – 1 = 38 123 Nếu chấp nhận Ho . Nếu thì bác bỏ Ho (chấp nhận H1) giảm Theo bảng phân phối trên ta thấy: f1 tăng từ 30 - 40, f2 = 38 thì F ≥ Fα F < Fα
1,76 - 1,71 = 0,05. Do đó = 1,76 - (0,05/10) 8 = 1,76 - 0,04 = 1,72 = 1,72. Vậy F = 1,79 > fα
=1,72. Vậy đối với bậc tự do f1 = f2 = 38 thì fα Cho nên bác bỏ Ho tức là sự khác nhau giữa các phương sai là có ý nghĩa
Fα Fα * Kiểm định sự khác nhau giữa các trung bình cộng: nên bác bỏ giả Ta thấy rằng sự kiểm định giữa các phương sai thuyết Ho . Trong trường hợp này ta dùng đại lượng kiểm định:
F > Fα 𝑋1����−𝑋2����
2
2
𝑆2
𝑆1
�
𝑛1+
𝑛2
tính được t = 3,43 công thức này chọn X1 là trung bình cộng lớn hơn, thay số ta t = Giá trị tới hạn của t là (bảng II) với bậc tự do: f = 𝑐2
𝑛1−1+ 1
(1−𝑐)2
𝑛2−1 tα Trong đó c = Với n1 = n2 = n thì f = 2
(𝑛−1)�𝑆1 1 4
𝑆1 2
+𝑆2
4
+𝑆2 2
𝑆1
𝑛1 . thay số
� 2
𝑆1
𝑛1+
ta tính được f = 70, Chọn xác xuất sai lầm 2
𝑆2
𝑛2 = 0,05 theo bảng II cho ta 𝛼 = 2,00 , f = 120 thì = 1,98 Với f = 70 thì = 1,99 f = 60 thì tα tα tα 124 Vậy bác bỏ giả thuyết Ho . Nói cách khác sự khác nhau giữa các trung bình cộng là có ý nghĩa với mức ý nghĩa là 0,05 t > tα
Kết luận: - Theo đồ thị 3.2 vị trí trung bình của lớp thực nghiệm dịch về phía phải (phía dương) còn của lớp đối chứng dịch về phía trái (phía âm) so với trung vị. Khoảng cách này là 5,7 - 4,6 = 1,1 (độ chênh lệch này khá lớn) Chứng tỏ rằng: Số bài đạt điểm khá giỏi của lớp thực nghiệm nhiều hơn lớp đối chứng. - Từ các bảng thống kê ta tính được: hệ số biến thiên của lớp thực nghiệm (20,7) nhỏ hơn hệ số biến thiên của lớp đối chứng (34,3) điều đó chứng tỏ mức phân tán ra khỏi điểm trung bình ở lớp thực nghiệm nhỏ hơn mức phân tán ở lớp đối chứng. - Đường lũy tích hội lùi (đồ thị 3.3) của lớp thực nghiệm nằm bên phải so với đường tích lũy của lớp đối chứng. Điều đó cho thấy kết quả học tập của học sinh đánh giá qua bài kiểm tra của lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối chứng. Kết quả định tính và định lượng ở trên cho phép khẳng định PPDH và các biện pháp sư phạm theo tiến trình đã soạn thảo có khả năng phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của HS góp phần nâng cao chất lượng học tập 125 Qua việc thực nghiệm một số tiết học trong chương "Mắt và các dụng cụ quang học" với số lượng HS còn hạn chế ở một trường nông thôn cùng với một số thiết bị còn thiếu thốn, chưa đủ để khẳng định giá trị phổ biến tiến trình dạy - học do chúng tôi biên soạn. Tuy nhiên qua phân tích hoạt động của thầy và trò của một số tiết học trên và qua đánh giá kết quả học tập của HS, chúng tôi nhận thấy rằng: - Các PPDH và các biện pháp sư phạm cho các nội dung được giảng dạy theo tiến trình đã tạo cho HS sự say mê, hứng thú học tập. Các em tự giác hoàn thành các nhiệm vụ học tập đặt ra và đã phấn khởi tự tin đề xuất những phương pháp, những mô hình mới do GV yêu cầu, như thế chúng ta có thể xem ở học sinh đã xuất hiện mần mống của sự sáng tạo - Việc tổ chức cho học sinh tham gia đề xuất, thảo luận, thực hành thí nghiệm theo nhóm, phân tích ưu khuyết của từng mô hình đề xuất phương án sửa chữa dưới sự hướng dẫn chỉ đạo của GV, đặt HS vào vị trí của người nghiên cứu đã khêu gợi tính tò mò, sự ham hiểu biết, sự thích thú khám phá, óc tưởng tượng tạo không khí lớp học sôi nổi, lôi cuốn được HS tham gia giải quyết vấn đề học tập. Những mục đích trên là để tạo tiền đề cho các em hướng tự học, tự lực giải quyết vấn đề góp phần hình thành cho các em phẩm chất, năng lực của người lao động chân chính. Mặt khác, thông qua các bài thực nghiệm chúng tôi còn thấy một số hạn chế ở GV, HS và cơ sở vật chất như sau: * Việc giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của HS, GV phải có một tiến trình giảng dạy lôi cuốn được HS tham gia giải quyết vấn đề, đòi hỏi GV phải có năng lực sư phạm, phải đầu tư về thời gian để chuẩn bị cho lý thuyết và thí nghiệm mà điều này không phải GV nào cũng có điều kiện, bên cạnh đó nếu giảng dạy những bài nội dung có liên quan đến kỹ thuật ứng dụng, GV không những chỉ biết cấu tạo của dụng cụ mà còn phải biết sử dụng thành thạo, có như vậy khi giảng dạy mới đạt được hiệu quả cao hơn. 126 * Đối với HS, vì thói quen từ trước việc học chỉ đơn thuần là việc tiếp thu kiến thức từ người thầy và tái tạo lại nếu được kiểm tra, thi cử. Nên việc tổ chức cách học tập theo hướng tự giải quyết vấn đề dưới sự hướng dẫn của GV, thảo luận và thực hành thí nghiệm theo nhóm tạo cho các em không ít bở ngỡ, lúng túng nhất là các lần mới được tham gia (thể hiện ở lớp thực nghiệm số HS đạt trung bình, trung bình khá đông rõ rệt so với lớp đối chứng, nhưng điểm khá giỏi vẫn không có sự khác biệt rõ rệt). Điều này gây không ít khó khăn cho GV về mặt thời gian (thực tế cho thấy trong 4 bài học trên trừ bài kính lúp, tiết học nào chúng tôi cũng bị thiếu từ 5 - 8 phút) * Đối với cơ sở vật chất của trường học, như chúng tôi đã khảo sát không phải trường nào cũng có đầy đủ trang thiết bị (nhất là các trường ở nông thôn lại càng thiếu thốn), phòng học chưa thích ứng cho việc tổ chức hoạt động theo nhóm. Hạn chế này chúng tôi khắc phục bằng cách cho HS bố trí lại chỗ ngồi trước khi vào giờ học. Những hạn chế về mặt GV và HS chúng tôi khắc phục bằng cách: Trao đổi và cùng thực hành thí nghiệm với GV trước khi soạn thảo tiến trình giảng dạy, Đối với HS cả lớp thực nghiệm và đối chứng, chúng tôi biên soạn một bài tập có liên quan đến nội dung giảng dạy (cách dựng ảnh của một vật sáng qua một phần tử quang học, quang một quang hệ...) cho các em thực hành trước ở nhà, với mục đích là khi giảng dạy nội dung mới, chúng tôi đánh giá sự lĩnh hội kiến thức của HS giữa lớp đối chứng và lớp thực nghiệm. Mặt khác chúng tôi cũng kiểm tra xem đối với lớp thực nghiệm PPDH đã soạn thảo có thật sự phát huy được tính tích cực, tự lực và sáng tạo hay không. 127 Đối chiếu với mục đích nghiên cứu và các nhiệm vụ cần giải quyết của đề tài, chứng tôi giải quyết được một số vấn đề sau: - Trên cơ sở nghiên cứu bản chất của hoạt động dạy, hoạt động học. Chúng tôi đã hệ thống hóa và góp phần làm cụ thể lý luận của việc phát huy tính tích cực hoạt động nhận thức của học sinh nói chung và tích cực hóa hoạt động nhận thức trong vật lý nói riêng. Phân tích và chỉ rõ các hình thức dạy học và các PPDH có khả năng liên quan đến đề tài là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của HS trong học tập vật lý như dạy học giải quyết vấn đề, phương pháp mô hình, phương pháp tương tự, phương pháp thực nghiệm và tổ chức hoạt động học tập theo nhóm... Nhằm phối hợp nhiều hình thức dạy học khác nhau, sử dụng tối đa các phương tiện dạy học hiện có giúp học sinh nhận thức nội dung bài học một cách tốt nhất. - Trên cơ sở tìm hiểu tình hình dạy - học và sử dụng phương tiện dạy học phần quang hình học nói chung và chương "Mắt và các dụng cụ quang học" nói riêng ở các trường THPT Châu Thành A, trường PTTH Ba Vát, trường THPT Bán công Phước Mỹ Trung tỉnh Bến Tre, phân tích những thuận lợi và khó khăn thường gặp của GV cũng như HS trong quá trình dạy và học ở phần này. Nhằm giúp chúng tôi thu thập thông tin làm cơ sở cho việc biên soạn tiến trình dạy học 4 nội dung cụ thể trong chương "Mắt và các dụng cụ quang học" theo hướng phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo trong học tập của học sinh. - Qua kết quả của đợt thực nghiệm sư phạm, cho thấy hiệu quả của tiến trình giảng dạy theo hướng đã lựa chọn phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh THPT, góp phần kích thích được tính tự giác ở các em, học sinh tự mình tham gia tích cực các hoạt động học tập, bước đầu ở họ hình thành sự năng động sáng tạo trong tư duy và khả năng tự học. Với những kết quá trên, đề tài đã đạt được mục đích đề ra và khẳng định được giả thyết ban đầu. 128 Mặt khác, cũng qua quá trình thực hiện đề tài luận văn của chúng tôi cho thấy: Muốn quá trình dạy học vật lý đem lại hiệu quả cao theo hướng phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh, GV phải bỏ nhiều công sức, thời gian chuẩn bị, lựa chọn PPDH kết hợp nhiều hình thức dạy học với các biện pháp sư phạm phù hợp, và nó phải được tiến hành trong suốt quá trình dạy học, phải được thực hiện đồng bộ với các môn học khác. Điều này không những phụ thuộc vào trình độ tư duy, trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm của GV mà còn phụ thuộc vào điều kiện vật chất hiện có của trường THPT. Cũng qua quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi có một số kiến nghị: - Cần khuyến khích GV cải tiến PPDH, chế tạo thiết bị dạy học theo khả năng của mình, sử đụng tối đa những đồ dùng dạy học hiện có. Mặt khác, cần phải tăng cường trang bị đồ dùng dạy học cho các trường phổ thông một cách đầy đủ, đồng bộ để có điều kiện cho học sinh thực hành thí nghiêm nhiều hơn - Nên điều chỉnh để có số học sinh trong mỗi lớp THPT từ 20 - 30 em để dễ tổ chức cho học sinh thảo luận và thực hành theo nhóm nhằm phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh. - Giảm khối lượng nội dung kiến thức ở một số bài cụ thể (ví dụ bài kính hiển vi, kính thiên văn trong chương "Mắt và các dụng cụ quang học") để học sinh có thời gian làm quen với thiết bị ứng dụng kỹ thuật vật lý nhiều hơn, đồng thời giúp cho GV có thể mở rộng sang một số thiết bị có nguyên tắc cấu tạo tương tự nhằm phát huy được tính sáng tạo theo khả năng học sinh. - Nên đổi mới cách kiểm tra đánh giá, không chỉ kiểm tra viết đơn thuần mà phải kết hợp trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. Cải tiến đề thi tốt nghiệp THPT cần có thêm một số câu hỏi hoặc bài tập mà chỉ có thực hành thí nghiệm mới trả lời chính xác được. Chúng tôi hy vọng rằng: Luận văn sẽ đóng góp một phần nhỏ bé vào công cuộc đổi mới PPDH ở trường THPT trong việc lựa chọn PPDH nhằm phát huy 129 tính cực, tự lực và sáng tạo của học sinh. Các kết quả của TNSP và các kết luận rút từ đề tài sẽ tạo điều kiện cho chúng tôi có kinh nghiệm mở rộng sang nội dung khác trong chương trình vật lý THPT không những đảm bảo được tính kế thừa mà còn giúp chúng tôi phát huy được năng lực sư phạm, trình độ chuyên môn và tự bồi dưỡng chính mình ngày càng hoàn thiện hơn. 130 1. Dương Trọng Bái, Đào Văn Phúc, Vũ Quang (1996) "Bài tập vật lý 12, Nxb Giáo Dục, Hà Nội" 2. Bộ GD & ĐT - Trường Cán Bộ Quản Lý GD & ĐT II "Luật và các văn bản pháp quy làm cơ sở cho công tác thanh tra Giáo Dục bậc trung" (2002) 3. Hoàng Chúng "Phương pháp thống kê toán học trong khoa học giáo dục" NXB GD 1983 4. David Haliday - Robert ResNick - Jearl Walker "Cơ sở vật lý - tập 6" 5. Nguyễn Văn Đồng (chủ biên), An Văn Chiêu, Nguyễn Trọng Di - Phương pháp giảng dạy vật lý ở trường PT 6. Nguyễn Thanh Hải - Bài tập định tính và câu hỏi thực tế vật lý 12 (NXB Giáo Dục 9/2001) 7. Đặng Thành Hưng "Quan niệm và xu thế phát triển PPDH trên thế giới - tổng luận" 8. GS-TS Trần Bá Hoành "Đổi mới PPDH ở trung học cơ sở" Hà Nội 1/2000 9. Huỳnh Huệ "Quang học" NXB GD 1981 10. Đoàn Thị Giáng Hương "Sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn, để kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn vật lý (phần điện học) của sinh viên đại học y Hà Nội", "Luận văn Thạc sĩ" (2000) 11. Jean - Marie BréBec, Philippe DeNève, Thierry Desmarais, Bruno Noel, Claude Orsini "Quang học 1" (chương trình đào tạo kỹ sư chất lượng cao tại Việt Nam) NXB GD 8/2001 12. LECNE I.Ia "Dạy học nêu vấn đề - Người dịch Phan Tất Đắc" NXB Giáo Dục 1977 13. L.ELIÔT - U.UYNCÔCXƠ "Vật lý phổ thông trình bày theo lối mới" NXB KH&KT 1971 14. Nghị Quyết hội nghị lần thứ 4 BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VII "về việc đổi mới sự nghiệp Giáo Dục - Đào Tạo" (1994) 131 15. Lê Thị Oanh (1996) "Phương pháp thống kê trong khoa học giáo dục", Bài giảng chuyên đề cao học, ĐHSP Hà Nội 16. Đào Văn Phúc (chủ biên), Dương Trọng Bái, Nguyễn Thượng Chung, Vũ Quang - SGK vật lý 12 17. Đào Văn Phúc, Dương Trọng Bái, Nguyễn Thượng Chung, Vũ Quang "vật lý 12 - Sách Giáo Viên" NXH GD HàNội 18. GS. Nguyễn Ngọc Quang - bài giảng "Chuyên đề lý luận dạy học" tp. HCM 1994 19. Phạm Xuân Quế "Dạy học các ứng dụng kỹ thuật của vật lý ở trường PT như thế nào để đảm bảo cho học sinh nắm vững kiến thức và phát triển tư duy" tài liệu hội nghị khoa học về PPDH vật lý PT 10/2000. 20. RÊZNICÔP LI - PIORƯSKIN.AV - ZNAMENXKI.PA "Những cơ sở của PPGD vật lý - sách dùng cho GV tập 1, 2" NXB Giáo Dục 1973 21. Tài Hoa Trẻ số 101 "6 bước để học giỏi các môn khoa học và toán học - Tổng hợp từ Scientific American" Phương Hảo dịch 22. Lê Thị Thanh Thảo "Đề cương nghiên cứu học phần PPGD Vật lý - tài liệu bồi dưỡng GV hè 1991" 23. Lê Thị Thanh Thảo "Những cơ sở của Didactic vật lý hiện đại" Trường ĐH SP tp HCM 24. Lê Thị Thanh Thảo "Những tri thức cần thiết giúp cho GV xây dựng lựa chọn sử dụng các phương pháp tích cực hóa dạy và học vật lý" 25. Nguyễn Ngọc Thâm, Nguyễn Ngọc Hưng "Tổ chức HĐNT cho HS trong dạy học vật lý ở trường PT" (NXB ĐH Quốc Gia Hà Nội 1999) 26. PGS. Nguyễn Đức Thâm "Đổi mới PPDH vật lý ở trường PT đáp ứng yêu cầu đào tạo con người trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" - Hội nghị tập huấn PPDH vật lý PT 10/2000 27. Đỗ Hương Trà "Nghiên cứu một vài tình huống về việc tạo ảnh và quan sát ảnh khi dạy phần quang hình học" tài liệu hội nghị khoa học về PPDH vật lý 132 28. Bùi Gia Thịnh - PBM vật lý viện KHGD "Một trong những vấn đề bức xúc nhất của việc giảng dạy vật lý ở nhà trường PT hiện nay: thí nghiệm thực hành" hội nghị tập huấn PPDH vật lý PT 10/2000 29. Dương Thiệu Tống - Trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập (ĐH Tổng Hợp tpHCM 8/1995) 30. Vụ THPT 1998 "Phân phối chương trình vật lý PTTH" 31. ZVERERA N.M "Tích cực hoá tư duy cho học sinh trong giờ học vật lý" lược dịch Cao Ngọc Viễn biên tập Phan Tuấn Khanh - NXB GD 1985 133 I. CHIA NHÓM: Trước khi dạy học chương "MẮT VÀ CÁC DỤNG CỤ QUANG HỌC", chúng tôi tiến hành phân chia số học sinh trong lớp thực nghiệm theo nhóm và chỗ ngồi cũng cố định theo nhóm, mỗi nhóm từ 6 - 7 em, trình độ học tập môn vật lý đồng đều nhau có nghĩa là trong nhóm có học sinh giỏi, khá thì cũng có học sinh yếu, mục đích phân nhóm cố định như vậy nhằm cho các em thuận tiện trong việc thảo luận, tiết kiệm thời gian và dành nhiều thời gian cho các hoạt động dạy và học khác. Danh sách học sinh được phân chia như sau: Nguyễn Thị Cẩm Vân Phạm Châu Tuyền (NT) Đàm Thế Vinh Phan Thị Thúy An Trần Văn Hoàng Anh Phan Huệ Chi Lê Hoàng Giang Phan Thanh Hải Lê Thúy Hằng Trần Ngọc Liễu (NT) Trương Thị Khuyến Nguyễn Thị Thúy Lan Trương Thanh Mãi Nguyễn Thái Ngân Nguyễn Duy Nhân (NT) Dương Văn Vũ Phương Nguyễn Thị Phượng Nguyễn Hoàng Tánh Cao Thị Kim Thoa Nguyễn Thị Minh Thúy Võ Thị Bé Tơ Nguyễn Quốc Chương (NT) Trần Thị Diệu Nguyễn Tấn Dũng Phan Thị Ngọc Hiền Lương Thị Mỹ Hương Trần Kim Hường Phan Thị Trúc Linh Nguyễn Thị Hồng Loan Nguyễn Công Luận Huỳnh Thị Nhung Thái Thị Huỳnh Như Võ Thị Hồng Phấn (NT) Trần Thị Thu Tâm Trần Thị Ngọc Thảo (NT) Ngô Minh Thắng Lê Thanh Trí Võ Hoàng Trung Nguyễn Trung Trực II. PHẦN TRẢ LỜI THEO PHIẾU: Như chúng tôi phân tích ở phần 3.4.1, theo yêu cầu nội dung của từng bài học cụ thể nhằm phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh chúng tôi cho các em tiến hành thảo luận và làm thí nghiệm theo nhóm và cũng để 134 đánh giá khả năng vận dụng, sáng tạo của từng học sinh bằng cách cho học sinh trả lời theo phiếu. Chúng tôi thống kê các phiếu trả lời đúng theo ý đồ của tiến trình giảng dạy như sau: BÀI: MẮT VÀ MÁY ẢNH: Sau khi HS làm thí nghiệm sự tạo bởi TKHT và Gương cầu lõm, GV phân tích một số yêu cầu của kỹ thuật chụp ảnh, GV nêu câu hỏi trong phiếu như sau: "Cấu tạo chính của máy ảnh là TKHT hay gương cầu lõm, tại sao?" và cho trả lời theo nhóm. Có 5/6 nhóm chọn bộ phận chính của máy ảnh là TKHT trong đó 3 nhóm phân tích đúng theo ý đồ của GV: Bộ phận chính của máy ảnh là TKHT, mặc dù có sự tương tự tạo ảnh của một vật giữa TKHT và Gương cầu lõm, nhưng nếu dùng gương cầu lõm (theo mô hình) vật và ảnh nằm cùng phía thì cấu tạo máy ảnh rất rườm rà và phim không được che chắn tốt. BÀI: CÁC TẬT CỦA MẮT VÀ CÁCH SỬA. Câu hỏi GV nêu trong phiếu như sau: “Khi đeo TKHT, thì TKHT có tác dụng như thế nào đối với người viễn thị?” Đa số học sinh nêu phương án sửa tật viễn thị như SGK trình bày: - Có tác dụng nhìn vật ở gần: Nhưng có 3 phiếu nêu đúng cả hai phương án, ngoài phương án sửa tật viễn thị để nhìn vật ở gần như trên còn có phương sửa tật viễn thị để nhìn vật ở xa mà mắt không cần điều tiết như sau: 135 Khi sửa tật viễn thị để nhìn vật ở xa mà không cần điều tiết thì TKHT mà O) người viễn thị đeo có tiêu cự f’, Nếu kính mang sát mắt (OK gọi f là tiêu cự của thủy tinh thể, f” là tiêu cự tương đương thì f” = OV ≡ " 𝑓𝑓 ′ 1
" 1
′ 1
′ 1
" " 𝑓−𝑓 𝑓 𝑓 𝑓 𝑓 Ta có (theo thí nghiệm ghép sát hai TKHT) 1
𝑓 + 1
𝑓 ⇒ 𝑓 BÀI: KÍNH LÚP Trong phiếu GV nêu câu hỏi như sau: "Nếu đặt mắt tại tiêu diện ảnh của kính lúp để trông ảnh của một vật nhỏ, thì độ bội giác của kính lúp có thay đổi không ?" Kết quả chúng tôi thống kê như sau, có 8 phiếu trả lời đúng trong đó 6 phiếu trả lời bằng tính toán định lượng, 2 phiếu trả lời bằng mô hình: Trả lời bằng định lượng học sinh nêu như sau: 𝐷
′ −𝑑 +𝑙 Ta có mắt đặt ngay tiêu diện ảnh của kính l = f 𝐺 = tan 𝛼
tan 𝛼0 ≈ 𝛼
𝛼0 = 𝑘 Vì qua kính lúp, vật thật (d > 0) cho ảnh ảo (d’ < 0). Nên AB và A’B’ cùng ′ ′ ′ 𝑑 ′
𝐴 𝐴𝐵 𝐷 +𝑓 ′
𝐴
𝐵
𝐴𝐵 = − mà , chiều (k > 0) 𝐵
′
−𝑑
mặt khác ta có 𝑑
′ ′ ′ ′ ′ −𝑑 +𝑓 𝐷
′ −𝑑 𝑓 +𝑓 tan 𝛼
tan 𝛼0 = − 𝑑
𝑑 . 𝑑
𝑓 ⇒ − 𝑑
𝑑 = tan 𝛼 = ⇒ Cho nên ′ −𝑑 +𝑓 𝐷 −𝑑 𝑓 𝑓 tan 𝛼
tan 𝛼0 = 𝐷
′
+𝑓 = tan 𝛼0 =
𝑑
𝑑 + 1 =
: Độ bội giác của kính không thay đổi . 𝐺 =
Trả lời bằng hình vẽ học sinh giải thích như sau: Ta thấy: Khi đặt ngay tiêu diện ảnh của kính lúp thì tia IO vẫn không thay đổi vì vậy góc cũng không thay đổi (hình vẽ) 𝛼 136 Vậy G không thay đổi khi mắt đặt trên tiêu diện ảnh của kính lúp. BÀI: KÍNH HIỂN VI – KÍNH THIÊN VĂN - kính hiển vi: Câu hỏi trong phiếu: Những mô hình sau đây, mô hình nào đúng với yêu cầu của định nghĩa kính hiển vi, tại sao? a. TKPK – Kính lúp b. Gương cầu lồi – kính lúp c. TKHT – Kính lúp d. Gương cầu lõm – kính lúp Chúng tôi thống kê theo phiếu kết quả như sau: 17 phiếu chọn câu c (TKHT-Kính lúp), 15 phiếu chọn d, 5 phiếu chọn b, 2 phiếu bỏ trống. Như vậy có 17 phiếu chọn đúng yêu cầu. Trong đó có 2 phiếu phân tích rất kỹ như sau: a và b không thỏa mãn điều kiện làm tăng góc trông ảnh của các vật nhỏ vì TKPK và gương cầu lồi vật thật luôn luôn cho ảnh ảo nhỏ hơn vật d không thỏa mãn vì quan sát các vật nhỏ qua gương lõm vi phạm điều kiện tương điểm cho ảnh không rõ nét Chọn c vì vật thật (2f < d < 2f) cho ảnh thật lớn hơn vật thỏa mãn yêu cầu đặt ra. - Kính thiên văn: Câu hỏi trong phiếu "Khi nhìn ảnh của một vật qua kính thiên văn, ta thấy luôn luôn ảnh ngược so với vật. Hãy tìm cách khắc phục nhược điểm này bằng mô hình (mô hình thường được sử dụng trong ống nhòm)?" 137 Chúng tôi phân tích các phiếu như sau: Phát ra 39 phiếu có 6 phiếu trả lời đúng còn lại trả lời sai hoặc bỏ trống, điều này cũng có lý do khách quan của nó vì học sinh ít được luyện tập cách vẽ ảnh của một vật ảo qua một quang cụ. Các phiếu vẽ mô hình đúng như sau: 138BÀI ĐỌC THÊM:
MẮT LÃO
2.4.4. BÀI: KÍNH LÚP
2.4.5. BÀI: KÍNH HIỂN VI - KÍNH THIÊN VĂN
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
CHƯƠNG 3:THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
3.1. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA THỰC NGHIỆM SƯ
PHẠM
3.1.1. MỤC ĐÍCH:
3.1.2. NHIỆM VỤ:
3.2. ĐỐI TƯỢNG THỰC NGHIỆM:
3.3. PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM:
3.4. PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM SƯ
PHẠM:
3.4.1. PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY VÀ TRÒ TRONG
QUÁ TRÌNH THỰC NGHIỆM SƯPHẠM:
3.4.2. PHÂN TÍCH BÀI KIỂM TRA
3.4.3. XỬ LÝ SỐ LIỆU VÀ PHÂN TÍCH KIỂM TRA:
= 12,5
𝑥̅ =
𝑥1��� =
𝑥2��� =
𝐹 =
=
KẾT LUẬN CHƯƠNG III
KẾT LUẬN CHUNG
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhóm 3
Nhóm 4
Nhóm 5
Nhóm 6
=
⇒
=
−
=

