D Ư Ơ N G H Ữ U T H Ư Ơ N G

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Ì

DƯƠNG HỮU THƯƠNG

HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI

Ì

N G À N H L U Ậ T H N H S Ự V À T Ố T Ụ N G H N H S Ự

K H Ó A

I

X

đ ợ t

1 - 2 0 1 8

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG HỮU THƯƠNG HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ

THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI

Ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số : 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS CAO THỊ OANH

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.

Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính

xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được

ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Dương Hữu Thương

Trang

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU…………………………………………………………………...

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA CỦA

LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ………………..

10

1.1. Khái niệm hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình

10

sự…………………………………………………………………………………..

1.2. Đặc điểm hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình

12

sự…………………………………………………………………………………..

1.3. Mục đích hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình

15

sự….................................................................................................................

1.4. Nội dung hoạt động bào chữa của Luật sư tham gia trong giai đoạn điều tra

vụ án hình sự……………………………………………………………………...

16

1.5. Ý nghĩa hoạt động bào chữa của Luật sư tham gia trong giai đoạn Điều tra

vụ án hình sự…………………………………………………………………........

20

Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VÀ THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG BÀO

CHỮA CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

23

TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI…………………………………………..

2.1. Khái quát về tỉnh Quảng Ngãi và hoạt động của Đoàn luật sư tỉnh Quảng

Ngãi………………………………………………………………………………..

23

2.2 Thực trạng quy định về hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn

điều tra vụ án hình ……………………………………………………………….

24

2.3. Thực trạng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ

án hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi…………………………………….

32

Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA CỦA

LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ …..……………

44

3.1. Các yêu cầu bảo đảm hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn

Điều tra vụ án hình sự.……………………………..……………………………..

44

3.2. Các giải pháp bảo đảm hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn

điều tra vụ án hình sự ..………..….……………………………………………...

47

3.3. Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự,

một số giải pháp ………………………………………………………………..

53

KẾT LUẬN………………………………………………………………………...

59

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………..

61

DANH MỤC VIẾT TẮT

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

BCA

: Bộ Công an

GRDP

: Tổng sản phẩm trên điện bàn

PGS.TS

: Phó Giáo Sư. Tiến sĩ

NXB

: Nhà xuất bản

NQ/TW

: Nghị quyết/ Trung ương

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Bảng tổng kết số lượng các vụ án hình sự trong 05 năm (từ năm

2014 đến năm 2018)

2.2 Bảng thống kê các vụ án có luật sư tham gia từ giai đoạn điều tra vụ án

hình sự trong 05 năm (từ năm 2014 – 2018)

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nhờ người khác bào chữa hoặc tự mình bảo chữa khi bị nghi ngờ phạm tội

trong vụ án hình sự là quyền bào chữa mà Hiến pháp đã quy định, đó là quyền

được quy định cụ thể của pháp luật tố tụng hình sự, là gian đoạn đầu tiên cho

quá trình giải quyết một vụ án hình sự đồng thời cũng có thể những tiền đề để

quyết định pháp lý của một con người

Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai trong vụ án hình sự mà những

người có thẩm quyền trong vụ tố tụng hình sự thực hiện. Điều tra được dựa theo

và căn cứ vào các quy định của pháp luật, đồng thời thực hiện sự chi phối và

kiểm tra giám sát của Viện kiểm sát. Thực hiện và tiến hành các biện pháp thu

thập và củng cố các chứng cứ, thu thập tài liệu và thực hiện nghiên cứu những

tình tiết của vụ án hình sự, phát hiện tội phạm một cách kịp thời.

Luật sư là một nghề cao quý trong những nghề cao quý, được tôn vinh và

ngày càng có chỗ đứng quan trọng trong xã hội. Nhiệm vụ lớn lao của Luật sư

trong lĩnh vực tố tụng nói chung và trong tố tụng hình sự nói riêng đó chính là

dùng kỹ năng nghề nghiệp để bảo vệ khách hàng, bảo vệ công bằng. Hoạt động

của luật sư trong gian đoạn điều tra vụ án hình sự là thực hiện chức năng, nhiệm

vụ của mình là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho con người không may

rơi vào vòng lao lý, trực tiếp góp phần bảo vệ công bằng, lẽ phải, pháp chế xã

hội chủ nghĩa đồng thời thúc đẩy kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế của đất

nước.

Tìm hiểu về hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn này có ý

nghĩa hết sức to lớn đối với những công việc trong hoạt động bào chữa nhằm

bảo vệ quyền con người. Quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào

Trang 1

chữa đó là luật định. Từng đó nâng cao tính nhân đạo,...của một chế độ, đó là

mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời

thực hiện thắng lợi công cuộc cải cách tư pháp mà Đảng, Nhà Nước ta đã đề ra.

Việc Luật sư tham gia bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

không những bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của người bị buộc tội mà còn

giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, làm rõ sự thật khách quan của vụ

án, hạn chế oan sai góp phần giải quyết nhanh chóng, chính xác vụ án, xét xử

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài

“Hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ

thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” với mong muốn là thông qua các cơ sở pháp lý và

tình hình hoạt động thực hiện quyền và nghĩa vụ của Luật sư cho việc bào chữa

cho người bị tạm giữ, bị can,…đồng thời chứng minh, phân tích giữa vấn đề lý

luận và thực tiễn về hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ

án hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Tìm ra những bất cập về quy định của

pháp luật, cũng như những có khăn, vướng mắc,…trong quá trình tác nghiệp

hành nghề. Đề xuất các giải pháp để nâng cao vị thế, vai trò của Luật sư trong

hoạt động bào chữa nói chung, hoạt động bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự nhằm đảm đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tam giam, bị

can,... làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Luật học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là

đề tài không phải là mới, nhưng mang tính nhân văn sâu sắc. Với đề tài này

nhiều năm qua đã thu hút sự chú ý, quan tâm của nhiều nhà khoa học, những

người làm công tác lý luận nghiên cứu và cán bộ hoạt động thực tiễn quan tâm,

nghiên cứu dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Trong quá tìm hiểu, nghiên

cứu đề tài, tác giả được tiếp cận, tìm hiểu một số công trình nghiên cứu tiêu biểu

có liên quan như:

Trang 2

- Thực hiện nghị quyết số 49/NQ-TW về chiến lược cải cách tư pháp đến

năm 2020 của Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp trung ương (2016), Hà Nội. (Báo

cáo tổng kết năm 2016).

- Tạp chí khoa học pháp lý, số: 7/2002 của Phan Trung Hoài “Bàn về

khái niệm và đặc điểm của nghề luật sư”.

- Lê Minh Đức (2016), “Phát huy vai trò của luật sư trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự”, Tạp chí Luật sư Việt Nam, dẫn theo

http://liendoanluatsu.org.vn/web/phat-huy-vai-tro-cua-luat-su-trong-giai- doan-

dieu-tra-vu-an-hinh-su-773.html, truy cập ngày 19/07/2016.

- Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5, tr.12-15 của Phạm Hồng Hải

(2004) “Những điểm mới về trách nhiệm, nghĩa vụ của người bào chữa trong bộ

luật tố tụng hình sự năm 2003”.

- Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3, tr.12-17 của Phạm Hồng Hải, Phó

Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam (2012), “Bàn về sự tham gia của người

bào chữa trong giai đoạn điều tra”.

- Tạp chí Kiểm sát, số 7, tr.12-19 của Phan Trung Hoài (2004), “Hoàn

thiện các quy định của pháp luật về sự tham gia của Luật sư từ giai đoạn điều

tra và quyết định truy tố”.

- Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội của Phan Trung Hoài (2007)

“Vấn đề hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam”.

- Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội của Phan Trung Hoài (2009),

“Hành nghề luật sư trong vụ án hình sự”.

- “Một giấy bào chữa xuyên suốt tố tụng” của Luật sư - Tiến sĩ. Phan

Trung Hoài (2013); Báo luatnet.Mạng pháp luật Việt Nam ngày 03/8/2013

Trang 3

(www.phapluattttp.vn), Hà Nội.

- Bản chất của hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự của Nguyễn Viết

Hoạt (2007), Tạp chí Khoa học pháp luật số 3(40)/2007, tr.10-15.

- Học viện Tư pháp (2011), Giáo trình kỹ năng giải quyết vụ án hình sự,

Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

- Vũ Huy Khánh (2013), Luận án tiến sĩ đề tài: “Bảo đảm quyền bào chữa

của người bị tạm giữ, bị can trong điều tra vụ án hình sự”, Học viện Khoa học

xã hội, Hà Nội.

- Luận văn thạc sĩ đề tài: “Vai trò của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ

án hình sự” của Nguyễn Đăng Khoa (2008), Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

- Luận văn thạc sĩ đề tài: “Vai trò của người bào chữa trong giai đoạn

điều tra, truy tố vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội” của Bùi Phương

Lan (2015), Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

- “Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong tố tụng hình sự” của

Nguyễn Thái Phúc (2007), Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4, tr.21-26.

- Hoàng Thị Minh Sơn (2009), “Những hạn chế trong việc thực hiện

quyền bào chữa của người vị tạm giữ, bị can, bị cáo”, Tạp chí Luật học, số 10,

tr.12-17.

Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả khác đã được

đăng trong các tập san, tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí nhà nước và pháp

luật, Tạp chí tòa án nhân dân, Tạp chí dân chủ và pháp luật...

Một số công trình nghiên cứu và các bài viết này dù ở các phạm vi nghiên

cứu khác nhau nhưng đã thể hiện phần nào hoạt động bào chữa của Luật sư nói

riêng, khi tham gia vào quá trình tố tụng hình sự của người bào chữa nói chung.

Trang 4

Khi tiếp cận những công trình nghiên cứu liệt kê phía trên giúp tác giả nhìn nhận

được tổng quát về hoạt động bào chữa của Luật sư trong các giai đoạn tố tụng

hình sự đặc biệt là giai đoạn điều tra vụ án hình sự để từ đó kế thừa và tiếp tục

nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn, đầy đủ hơn, hệ thống hơn về hoạt động bào

chữa của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

Tuy nhiên, hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về

hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực

tiễn tỉnh Quảng Ngãi. Cho nên tác giả chọn đề tài: “Hoạt động bào chữa của

Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”

làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Luật học, để nghiên cứu nhằm phản ánh những

vấn đề còn bất cập, còn hạn chế cũng như nghiên cứu thực trạng, tìm ra nguyên

nhân và đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa của Luật sư

trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói riêng và

trong hệ thống pháp luật tố tụng của Việt Nam nói chung.

3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn với đề tài hoạt động bào chữa của luật

sư trong giai đoạn điều tra từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi làm sáng tỏ về mặt lý

luận, phân tích các quy định của pháp luật và thực tiễn hoạt động bào chữa của

Luật sư.

Phát hiện ra những bất cập còn tồn tại trong quy định của pháp luật khi

Luật sư tham gia bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Tìm ra những

nguyên nhân khách quan, chủ quan dẫn đến thực trạng hạn chế sự tham gia bào

chữa của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Từ đó có những đề xuất,

kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa của Luật sư trong

Trang 5

giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Muốn có được những mục đích nghiên cứu đã đặt ra cho đề tài cần thực

hiện những công việc sau:

- Cơ sở pháp lý về hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự phải được làm rõ.

Thứ nhất: Tính pháp lý của Luật sư với tư cách là người bào chữa trong

vụ án hình sự từ giai đoạn điều tra

Thứ hai: Luật sư tham gia bào chữa từ giai đoạn điều tra vụ án hình sự

nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tình nghi, bị bắt, bị giữ,

bị tạm giữ, …

- Phân tích các quyền của Luật sư theo quy định của pháp luật Việt Nam

được thực hiện như thế nào.

- Phân tích thực trạng hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn

điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian 5 năm (từ

năm 2014 – 2018).

Phát hiện ra những bất cập còn tồn tại trong quy định của pháp luật khi

Luật sư tham gia bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Tìm ra những

nguyên nhân khách quan, chủ quan dẫn đến thực trạng hạn chế sự tham gia bào

chữa của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Từ đó có những đề xuất,

kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa của Luật sư trong

giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu tập trung ở đề tài “Hoạt động bào chữa của luật sư

trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự” theo quy định của Bộ luật tố tụng hình Trang 6

sự hiện hành và Thông tư số: 70/2011/TT/BCA của Bộ trưởng Bộ công an ban

hành ngày 10 tháng 10 năm 2011 quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ

luật tố tụng hình sự liên quan đến việc bảo đảm hoạt động của luật sư trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự và một số văn bản quy phạm pháp luật khác.

4.1 Phạm vi nghiên cứu

Tập trung nghiên cứu, phân tích làm rõ hoạt động bào chữa của luật sư

trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, các quy định bảo đảm quyền bào chữa của

luật trong giai đoạn điều tra. Một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn bảo đảm

nguyên tắc hoạt động bào chữa của luật sư đến từ phía cơ quan điều tra. Tìm ra

những hạn chế và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa của luật

sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra có hiệu quả thì

nhiều vấn đề phải làm rõ cả về pháp lý, lý luận và thực tiễn cần, đó là vấn không

nhỏ. Quá trình nghiên cứu một luận văn thạc sĩ không thể nghiên cứu tất cả

những kía cạch đề mà chỉ dừng lại nghiên cứu một vấn đề: “Hoạt động bào chữa

của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”

4.2. Phạm vi nghiên cứu:

Tác giả nghiên cứu tổng quát về hoạt động bào chữa của Luật sư trong

giai đoạn điều tra vụ án hình sự, nghiên cứu chuyên sâu về những vấn đề lý luận

và thực tiễn về những việc làm cụ thể mà pháp luật hình sự đã quy định của hoạt

động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh

Quảng Ngãi từ năm 2014 đến năm 2018.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:

5.1. Phương pháp luận nghiên cứu

Trang 7

Để giải quyết các vấn đề của đề tài đặt ra của luận văn, được thực hiện

dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin về quyền con

người; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Đường lối và quan điểm chỉ đạo của Đảng cộng

sản Việt Nam, Nhà Nước về địa vị pháp lý, vị trí vai trò, chức năng của Luật sư

trong tố tụng hình sự ở Việt Nam.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Muốn hoàn thành đề tài này thì tác giả đã sử dụng các phương pháp

nghiên cứu khoa học như phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương

pháp thống kê, phương pháp phân tích, các bản án, phương pháp nghiên cứu tài

liệu, phương pháp sử dụng ý kiến của các chuyên gia.

Các tài liệu báo cáo tổng kết chuyên đề, báo cáo quý, báo cáo năm của các

Cấp, Ban, Ngành của tỉnh Quảng Ngãi như: Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ngãi,

Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Quảng

Ngãi, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Quảng

Ngãi, Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ngãi trong 5 năm (từ năm 2014 – đến năm 2018)

Ngoài những phương pháp tiếp cận nêu trên, luận văn tham khảo các tư

liệu, số liệu từ thực tiễn, những đề tài của các học giả trong lĩnh vực pháp luật

hình sự.

6. Ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn của luận văn

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà Nước ta hướng tới một Nhà nước pháp

quyền Xã Hội Chủ Nghĩa mang bản sắc Việt Nam thì việc nghiên cứu luận văn

với đề tài: “Hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” có ý nghĩa rất thiết thực và nhân văn.

6.1. Về mặt lý luận:

Kết quả nghiên cứu góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa của

Trang 8

luật sư trong việc tham gia bào chữa từ giai đoạn điều tra vụ án hình sự; Góp

phần hoàn thiện pháp luật hình sự và tăng cường hiệu quả hoạt động bào chữa

của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; kết quả nghiên cứu có thể là

tài liệu phục vụ công tác đào tạo và nghiên cứu trong khoa học pháp lý về tố

tụng hình sự.

6.2. Về mặt thực tiễn:

Trên cơ sở lý luận, tác giả đã nghiên cứu, phân tích hoạt động bào chữa

của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

về những việc làm cụ thể của luật sư trong giai đoạn này. Kết quả nghiên cứu

của đề tài này giúp các cơ quan, người tiến hành tố tụng cũng như các cá nhân

hành nghề Luật sư khắc phục được những hạn chế, thiếu sót của luật sư bào

chữa từ giai đoạn điều tra vụ án hình sự, khắc phục các thiếu sót trong tố tụng

hình sự, góp phần đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa.

7. Cơ cấu của luận văn

Luận văn được thế kế như sau: Phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh

mục tài liệu tham khảo, bố cục luật văn được trình bày như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động của Luật sư trong giai đoạn

điều tra vụ án hình sự

Chương 2: Thực trạng quy định về hoạt động của Luật sư trong giai đoạn

điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Chương 3: Các giải pháp đảm bảo hoạt động bào chữa của Luật sư trong

Trang 9

giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA CỦA LUẬT

SƯ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1. Khái niệm hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự

Quan niệm hoạt động bào chữa của Luật sư như một nghề nghiệp trong

xã hội không phải đã được thừa nhận trong hệ thống pháp luật ở nước ta trong

một thời gian dài, cho đến năm 1987 Pháp lệnh luật sư ra đời và sau đó là Pháp

lệnh 2001, Luật luật sư năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012. Điều đó cho thấy

xuất phát từ các cuộc đấu tranh dài lâu giành độc lập và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ

của nhân dân ta.

Người có đủ điều kiện hành nghề luật theo quy định của Luật luật sư là

luật sư, luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật.

Hoạt động của Luật sư là những việc làm cụ thể mang tính chuyên nghiệp, vì

Luật sư là người không những am hiểu sau về pháp luật mà còn hiểu sau về kiến

thức xã hội.

Luật sư là một chức danh tư pháp độc lập không những có ý nghĩa về lý

luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn, làm cơ sở cho việc cải cách các hệ thống cơ

quan tư pháp và xây dựng đội ngũ Luật sư Việt Nam chuyên nghiệp.

Bào chữa là việc dùng lời nói áp dụng kỹ năng nghề nghiệp, kết hợp với

chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo. Bị can, bị cáo

trong tố tụng hình sự có quyền bào chữa đó là luật định. Có nghĩa là bị can, bị

cáo được đưa ra các chứng cứ, lí lẽ, được đặt câu hỏi, được tranh luận trong các

giai đoạn điều của vụ án hình sự.

Trang 10

Hoạt động là “Tiến hành những việc làm có quan hệ chặt chẽ với nhau

nhằm mục đích chung, trong lĩnh vực nhất định” Theo Từ điển Tiếng Việt thông

dụng, NXB Đà Nẵng năm 2009 [2; 342]. Hoạt động cũng có thể hiểu là làm

những việc khác nhau với mục đích nhất định trong đời sống xã hội. {46}. Và

những công việc khác nhau nhưng được tiến hành trên một chủ thể nhất định.

Tùy theo hoạt động của từng lĩnh vực khác nhau, mỗi công việc có một

chủ thể thực hiện. Hoạt động là công vụ được thực hiện bởi cơ quan nhà nước,

trực tiếp là cán bộ công viên chức. Hoạt động xét xử vụ án được thực hiện bởi

chủ thể là Tòa án…

Để trở thành Luật sư thì có những điều kiện theo quy định cụ thể trong

Luật luật sư, cụ thể theo Điều 10 Luật Luật sư quy định về tiêu chuẩn Luật sư

như sau:

Những người không đủ điều kiện hành nghề Luật sư theo quy định của

pháp luật mà tham gia vào các quan hệ xã hội với danh xưng là Luật sư dưới bất

kỳ hình thức nào thì được xem là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý nghiêm khắc

theo quy định của pháp luật.

Đối với Luật sư, sự hiện diện của Luật sư thông qua công việc hoạt động

tham gia tố tụng, cụ thể ở đây là hoạt động bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ

án hình sự.

Để thực hiện vai trò của mình trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự , luật

sư tiến hành rất nhiều công việc trong phạm vi hành nghề của mình theo các quy

định của pháp luật.

Liệt kê các công việc mà Luật sư phải thực hiện trong giai đoạn điều tra

vụ án hình sự là hết sức cần thiết, qua đó thể hiện vai trò của Luật sư trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự như thế nào. Tuy nhiên việc liệt kê này đôi khi cũng

không cần và không thể. Bởi vì trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự Luật sư

Trang 11

làm rất nhiều công việc mang tính chất chuyên nghiệp nhằm bảo vệ quyền và lợi

ích cho người bị tạm giam, bị can: Tiếp nhận yêu cầu tư vấn nhằm bảo vệ người

bị tạm giam, bị can hoặc gia đình của họ; Tư vấn, hướng dẫn người bị tạm giữ,

bị can, gia đình của họ cung cấp, thu thập chứng cứ liên quan đến vụ án: Tư vấn

liên quan đến hình phạt;…hướng dẫn văn bản yêu cầu Luật sư bào chữa; Tiến

hành đăng ký bào chữa tại cơ quan điều tra; Tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị

can…; Tư vấn cho người bị tạm giữ, bị can…về quyền và nghĩa vụ cho họ;

Tham gia các buổi hỏi cung, lấy lời khai để làm rõ tình tiết bảo vệ quyền và lợi

ích cho người bị tạm giữ, bị can…

Tuy nhiên có thể khái quát hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn

điều tra vụ án hình sự như sau: Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn

điều tra vụ án hình sự là những việc làm cụ thể của luật sư bào chữa cho người

bị tạm giữ, bị can trong giai đoạn điều tra của vụ án hình sự.

1.2. Đặc điểm hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra

vụ án hình sự

Trong giai đoạn điều tra vụ hình sự luật sư được bào chữa là do người bị

tạm giữ, bị can, hoặc người đại diện hợp pháp của họ chọn lựa. Nếu như người

bị tạm giữ, bị can, hoặc người đại diện hợp pháp của họ không nhờ luật sư,

nhưng họ là thuộc đối tượng phải có luật sư bào chữa tham gia thì lúc này các

tiến hành tố tụng như cơ quan điều tra, viện kiểm sát…phải yêu cầu đoàn luật sư

phân công cho tổ chức hành nghề luật sư, sau đó tổ chức hành nghề luật sư phân

công luật sư bào chữa cho họ hoặc đề nghị các tổ chức theo luật định như Trung

tâm trợ giúp pháp lý…cử người bào chữa theo luật định. [3]

Luật sư bào chữa không có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án, họ tham

gia tố tụng là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giam, bị

can trong gia đoạn điều tra vụ án hình sự, luật sư bào chữa không phải là người

tiến hành tố tụng cũng không thể đồng nhất người bào chữa với người bảo vệ

Trang 12

quyền lợi của đương sự quy định. Trường hợp người luật sư bào chữa có quyền

và lợi ích đối lập với người bị tạm giam, bị can, người đại diện hợp pháp của họ

chưa nhờ luật sư bào chữa, nay mới nhờ luật sư bào chữa hoặc tuy đã có nhờ

luật sư bào chữa nhưng nay nhờ luật sư bào chữa khác thì cần phải xem xét có vi

phạm trong số trường hợp không được tham gia bào chữa hay không

Hoạt động của luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là

hoạt động mang tính chất nghề nghiệp đặc biệt.

Khi nói đến hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự là một hoạt động mang tính nghề nghiệp, trước hết là để phân biệt với

các hoạt động nghề nghiệp khác của xã hội. Hoạt động bào chữa của luật sư

trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự có những khác biệt những hoạt động nghề

nghiệp liên quan đến pháp luật như công an, công tố, công chứng, thẩm

phán…không chỉ ở chức năng, sự phân công của xã hội, phương thức hoạt động

hành nghề luật sư một cách tự do. Khi hành nghề luật sư thì không được kiêm

nhiệm các chức vụ liên quan đến Cơ quan Nhà nước, như cán bộ công, viên

chức. Là một danh xưng được đặt ra theo sự phát triển và được cụ thể hóa pháp

lý. Nghề luật sư là những người đủ tiêu chuẩn theo luật định mới được hành

nghề Luật sư, điều này nó khác biệt với một số đối tượng bào chữa như bào chữa

viên nhân dân, luật gia…không phải là người hoạt động hành nghề Luật sư theo

quy định của pháp luật.

Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự phải

tuân thủ quy định của pháp luật và quy tắc đạo đức khi hành nghề.

Cũng như bất kỳ hoạt động nghề nghiệp nào cũng dựa trên pháp luật, hoạt

động bào chữa của luật sư cũng không ngoại lệ. Luật sư khi tham gia tố tụng

trong một giai đoạn nào đó chỉ được điều chỉnh pháp luật của giai đoạn đó mà

pháp luật tố tụng hình sự, luật luật sư cho phép. Quyền và nghĩa vụ của luật sư

trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự được quy định cụ thể trong Bộ luật tố tung

Trang 13

hình sự năm 2015. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để luật sư hành nghề thực

hiện quyền và nghĩa vụ của mình, đồng thời cũng đặt ra giới hạn cho hoạt động

bào chữa của luật sư trong giai đoạn hiện nay.

Ngoài những cơ sở nêu trên, hoạt động bào chữa của luật sư trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự cũng chịu ràng buộc về pháp luật luật sư. Pháp luật

về luật sư được coi là hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về vị trí, vai trò

của luật sư trong xã hội, quy định các quyền và nghĩa vụ khi hành nghề luật sư

theo quy định của pháp luật, phạm vi quản lý nhà nước về hoạt động hành nghề

luật sư và tính tự quản trong tổ chức hành nghề luật sư; xử lý vi phạm khi hành

nghề nghiệp Luật sư.

Pháp luật về luật sư là hành lang, khuôn mẫu cho luật sư hoạt động với

các quyền và nghĩa vụ trước pháp luật, còn có quy chế trách nhiệm nghề nghiệp

luật sư lại chủ yếu điều chỉnh trong hành vi ứng xử của Bộ quy tắc đạo đức và

ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam, tuy không hoàn toàn bắt buộc nhưng cũng

đòi hỏi phải được tôn trong từ giới luật sư.

Hoạt động bào chữa của luật sư là không được kiêm nhiệm.

Nhìn chung hành nghề luật sư của các nước trên thế giới là không được

kiêm nhiệm. Không được kiêm nhiệm như là một đặc điểm trong hoạt động

nghề luật sư, không chỉ đảm bảo hoạt động mà mang tính chuyên nghiệp, góp

phần nâng cao vị trí, vai trò của luật sư trong đời sống xã hội. Việc kiêm nhiệm

ở đây nói rằng đã là luật sư thì không được kiêm nhiệm chức vụ nào trong cơ

quan nhà nước, chỉ chú trọng khi hành nghề chỉ biết hành nghề Luật sư để bảo

vệ quyền và lợi ích cho thân chủ, không bị chi phối bởi những chức danh kiêm

nhiệm. Tuy nhiên theo lịch sử phát triển nghề Luật sư tại Việt Nam trong một

thời gian dài sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất cho phép luật sư được kiêm

nhiệm, những luật sư kiêm nhiệm thực chất chưa hội đủ tiêu chuẩn hành nghề

Luật sư,vì họ đang có thể là cán bộ công chức Nhà nước. Việc kiêm nhiệm này

Trang 14

kéo dài trong một thời gian dài, thưc sự những luật sư kiêm nhiệm không sống

được với việc hành nghề Luật sư chính thống, bởi vì họ bị chi phối những quy

định pháp luật về chức năng nhiệm vụ chính của họ là không phải nghề Luật sư.

Vì vậy dẫn đến sự không chuyên nghiệp trong quá trình hoạt động hành nghề

làm cho người bị tạm giữ, bị can…phần nào không tin tưởng vào sự quan tâm

của Luật sư. Vì vậy trong thời gian dài này có thể đánh giá không tốt về hoạt

động nghề nghiệp của mình trong đời sống xã hội đương thời [3]

Hoạt động của luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là

một giai đoạn trong tố tụng hình sự, là giai đoạn đầu tiên, ngay từ giai đoạn điều

tra luật sư bào chữa phải định hướng cho mình những việc làm cụ thể nhằm mục

đích bào chữa tốt nhất bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng của mình một

cách tốt nhất theo quy định của pháp luật.

1.3. Mục đích hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra

vụ án hình

Luật sư lúc này đóng vai trò như là “một bác sĩ pháp” lý cho người bị tạm

giữ, bị can…là người tiếp cận với người bị tạm giữ, bị can…với tư cách là người

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ, có trách nhiệm giải thích quyền và lợi

ích hợp pháp cho họ được tốt nhất, giúp họ bình tĩnh, sáng suốt trong quá trình

khai báo trung thực khách quan, toàn diện vụ án đúng quy định của pháp luật,

xem xét toàn bộ nội dung vụ án, giải oan cho họ nếu có.

Trong giai đoạn này, điều đầu tiên là luật sư phải thực hiện thủ tục pháp lý

để được tham gia là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can. Sau khi có

Thông báo chính thức việc bào chữa tham gia bào chữa từ giai đoạn điều tra.

Luật sư cần gặp gỡ, làm việc với điều tra viên, có thể trao đổi nội dung vụ án mà

có lợi nhất cho người được bào chữa.

Ngoài ra luật sư có thể tham gia các hoạt động khác như khám nghiệm

Trang 15

hiện trường, thực nghiệm điều tra, xem xét dấu vết liên quan đến vụ án…thông

qua đó nếu phát hiện những tình tiết có lợi cho người được bào chữa, thì có thể

trao đổi với điều tra viên trực tiếp điều tra vụ án, các tình tiết giảm nhẹ, tăng

nặng trách nhiệm hình sự cho người được bào chữa, các tình tiết có ý nghĩa

minh oan cho người bị tạm giữ, bị can…làm hạn chế tình trạng oai sai ngay từ

giai đoạn điều tra trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên chỉ là giai đoạn điều tra vụ án

hình sự nhưng ngay từ công việc điều tra, luật sư nhằm hướng tới mục đích định

hướng cho mình các nghiên cứu hồ sơ, thu thập tài liệu, chứng cứ và định hướng

việc bào chữa cho người được bào chữa tối đa quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ (khách hàng) bắt đầu từ

gia đoạn điều tra vụ án hình sự

Góp phần hạn chế việc vi phạm pháp luật của điều tra viên khi tiến hành

điều tra vụ án hình sự

Góp phần đảm bảo cho hoạt động điều tra khách quan, toàn diện, đầy đủ.

1.4. Nội dung của hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự.

Như đã phân tích nêu trên, mục đích của hoạt động bào chữa của luật sư

trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là định hướng việc bào chữa cho người

được bào chữa, nhằm bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Với nhiệm

vụ là luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự cần làm những việc

sau:

- Tham gia tất cả các hoạt động trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự mà

người bị buộc tội yêu cầu mà pháp luật cho phép;

Trong gia đoạn điều tra, hoạt động bào chữa của luật sư phải thực hiện

đúng nhiệm vụ của mình theo luật định, hướng bảo đảm dân chủ, khách quan

trong tố tụng, có thể áp dụng các biện pháp pháp luật cần thiết yêu cầu cơ quan

điều tra, điều tra viên…thực hiện các biện pháp đúng các yêu cầu quy định của Trang 16

pháp luật cho phép nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng.

Muốn đạt được mục đích đó, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự luật sư

bào chữa phải thực hiện rất nhiều công việc khác nhau. Nội dung bào chữa của

luật sư được điều chỉnh trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong

giai đoạn điều tra. Trong quá trình hoạt động thực tiễn cũng như các quy định

của pháp luật hiện hành thì hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự cần làm rõ các nội dung sau:

Thứ nhất là: “ Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc

bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, dữ liệu dữ liệu điện tử

và trình bày những vấn đề liên quan đến vụ án” (khoản 3 Điều 88 Bộ luật tố

tụng hình sự năm 2015)

Căn cứ theo quy định của pháp luật thì hoạt động bào chữa của luật sư

trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự phải xác định được những vấn đề cần trao

đổi để đề xuất với cơ quan điều tra, điều tra viên.. đồng thời chuẩn bị những kế

hoạch, xác định phương án bào chữa tốt nhất cho thân chủ của mình trong giai

đoạn này. Luật sư bào chữa cần nghiên cứu toàn diện hồ sơ trong giai đoạn này,

không bỏ qua bất cứ tình tiết nào liên quan đến vụ án.

Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự có

vị trí hết sức quan trọng, với nghĩa vụ sử dụng nghiệp vụ tuân thủ theo quy định

của pháp luật để làm rõ tất cả các tình tiết có trong giai đoạn điều tra nhằm mục

đích có lợi nhất cho thân chủ của mình trong giai đoạn này.

Việc làm sáng tỏ các tình tiết có trong giai đoạn điều tra sẽ giúp cho luật

sư có hướng giải quyết có lợi nhất cho thân chủ của mình theo quy định của

pháp luật.

Thứ hai: Giúp cho người tạm giữ, bị can…về mặt pháp lý nhằm bảo vệ

Trang 17

quyền và lợi ích hợp pháp cho họ (khoản 1, khoản 2 Điều 88 Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2015).

Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự luật sư bào chữa giúp cho thân chủ

mình biết cái nào đúng, cái nào sai; việc gì được làm, việc gì không được làm.

Tuy là luật sư không được lên án thân chủ của mình, nhưng phân tích cho họ

biết được lỗi của họ, từ đó giúp cho họ theo hướng thiện, nếu có căn cứ cho rằng

họ không bị phạm tôi thì phải sử dụng mọi biện pháp theo quy định của pháp

luật gỡ tội cho họ.

Thứ ba: Thực hiện việc bào chữa cho họ mà mình đảm nhận bào chữa.

Luật sư bào chữa là do người bị tạm giữ, bị can… người thân của họ có

yêu cầu luật sư bào chữa cho họ, hoặc người có khung hình phạt theo quy định

cần phải có luật sư theo luật định, hoặc người phạm tội là người chưa thành niên

…thì phải có luật sư chỉ định từ các Cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan điều

tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân yêu cầu Đoàn luật sư yêu cầu các

tổ chức hành nghề Luật sư cử luật sư tham gia bào chữa theo quy định của pháp

luật.

Việc phân công tổ chức hành nghề Luật sư cử luật sư bào chữa tham gia

theo luật định đó là nghĩa vụ bắt buộc của Đoàn luật sư và của tổ chức hành

nghề Luật sư. Đây là quy định nhằm bảo vệ quyền cho người bị tạm giữ, bị

can…tuy nhiên nếu cử luật sư mà họ từ chối thì cơ quan tiến hành tố tụng phải

chấp nhận quyền cho họ, đồng thời cũng đảm bảo quyền được bào chữa của luật

sư theo quy định của pháp luật.

Quy định này được hiểu, nếu luật sư đã được chỉ định bào chữa cho người

bị tạm giữ, bị can… thì không được từ chối, vì đây là trách nhiệm và nghĩa vụ

của luật sư khi hoạt động hành nghề Luật sư. Trừ trường hợp bất khả kháng

không tham gia được thì phải có văn bản, đồng thời phải có lý do chính đáng

Trang 18

như ốm đâu, trùng với vụ án khác mà mình đã nhận mà có quyền và nghĩa vụ

đối lập với vụ việc mà mình được cử luật sư chỉ định.

Tổ chức hành nghề luật sư nhận được thư yêu cầu từ các cơ quan tiến

hành tố tụng cử luật sư bào chữa, đây là nghĩa vụ bắt buộc buộc luật sư phải

tham gia theo quy định của pháp luật.

Thứ tư: Tìm mọi luận cứ, luận điểm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

cho thân chủ. Nhằm giúp cho thân chủ của mình biết rằng bản thân họ vô tội

hoặc làm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ theo quy định của pháp luật. Nhưng

không đồng nghĩa với việc luật sư bào chữa cho họ làm sai lệch sự thật vụ án để

bằng mọi giá đạt được mục đích. Luật sư bào chữa là người am hiểu pháp luật

càng phải tôn trọng sự thật của vụ án và tôn trọng pháp luật, chỉ thông qua kỹ

năng nghề nghiệp của mình, bào chữa tìm ra cái có lợi nhất cho thân chủ của

mình theo quy định của pháp luật.

Thứ năm: Khi tiến hành hoạt động bào chữa của mình luật sư phải đảm

bảo bí mật trong quá trình điều tra mà mình biết khi thực hiện việc bào chữa.

Điều này nhằm bảo vệ bí mật quốc gia, bí mật thông tin khách hang. Tùy theo

mức độ vi phạm, có thể tạm đình chỉ, đình chỉ tư cách hành nghề của luật sư

hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về “Người bị tạm giữ” theo đó

đã phát sinh những quan hệ pháp lý tố tụng hình sự đối với người tạm giữ mà Bộ

luật tố tụng năm 2003 chưa đề cập tới.

Trong trường hợp bị bắt hay bị tạm giữ, khi có yêu cầu của những người

này hay người thân của họ thì Luật sư bào chữa được tham gia từ lúc người bị

bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến

hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ. Trừ trường

hợp pháp luật có quy định khác như: Bí mật nhà nước... (Điều 74 Bộ luật tố

Trang 19

tụng hình sự năm 2015). Tính pháp lý hoạt động bào chữa của luật sư trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự chính là các quy định của pháp luật tố tụng hình sự

nhằm đảm bảo các quyền của luật sư trong giai đoạn này. Trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự luật sư có quyền tham dự các buổi hỏi cung và nếu được sự

đồng ý của điều tra viên thì luật sư được quyền hỏi người bị tạm giữ, bị

can...Nếu phát hiện những người tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ của mình

không được khách quan, thì luật sư có quyền yêu cầu với cơ quan điều tra thay

đổi người trực tiếp điều tra đó, luật sư cũng có quyền khiếu nại nếu như ý kiến

yêu cầu của mình không được chấp nhận.

1.5. Ý nghĩa hoạt động bào chữa của luật sư trong gia đoạn điều tra

của vụ án hình sự

Luật sư tham gia bào chữa trong giai đoạn đều tra vụ án hình sự có ý

nghĩa hết sức to lớn. Sự có mặt của luật sư nhằm mục đích bào chữa, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, người bị tạm giữ. Luật sư tham gia ngay từ

giai đoạn điều tra sẽ góp phần hạn chế các vi phạm pháp luật, đảm bảo cho các

hoạt động điều tra được tiến hành khách quan, toàn diện, chính xác, đúng quy

định của pháp luật cụ thể là:

Một là, luật sư tham gia bào chữa từ gia đoạn điều tra vụ án hình sự là hết

quan trọng trong hoạt động tư pháp hình sự trực tiếp giám sát cơ quan (người)

tiến hành tố tụng có thẩm quyền đối với mỗi hành vi phạm tội hoặc tình nghi

phạm tội nhằm trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội và người có lỗi trong việc

thực hiện tội phạm thông qua các chứng cứ đã thu thập được, đồng thời cũng là

một trong những phương tiện cơ bản để thực hiện tốt nguyên tắc không tránh

khỏi trách nhiệm trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, tránh làm

oan sai, bỏ lọt tội phạm;

Hai là, luật sư tham gia bào chữa từ gia đoạn điều tra vụ án hình sự cũng

góp phần loại trừ một thái cực khác trong hoạt động tư pháp hình sự, ngăn chặn

Trang 20

kịp thời việc thông qua các kiến nghị có quyết định khởi tố bị can một cách

không thận trọng, thiếu chính xác của cơ quan điều tra thì có thể dẫn đến hậu

quả tiêu cực hoặc làm oan cho người vô tội;

- Và cuối cùng, hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ

án hình sự là một giai đoạn trong tố tụng hình sự, nhằm tăng cường giám sát

việc thực hiện pháp luật của cơ quan điều tra trong giai đoạn này, bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của người bị tam giam, bị can trong giai đoạn điều tra trước

khi Viện kiểm sát truy tố và xét xử của Tòa án, tuy là giai đoạn điều tra vụ án

hình sự chỉ là giai đoạn đầu của quá trình tố tụng hình sự nhưng góp phần vào

cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội rất hiệu quả.

Trang 21

Kết luận chương 1

Để đảm bảo trong quá trình điều tra không xảy ra tiêu cực, không có tình

trạng mớm cung, dụ cung, dùng nhục hình đối với bị can, bị cáo pháp luật đã

cho phép luật sư được phép tham gia vào hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành đã quy định rõ người bị tạm

giữ, bị can,…có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Muốn được

bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình thì người bị tạm giữ, bị can, có

quyền yêu mời luật sư bào chữa cho mình. Vì vậy để đảm bảo quyền và lợi ích

không bị xâm phạm, người bị tạm giữ, bị can…có quyền được mời luật sư bào

chữa co mình trong vòng 24h khi bị tạm giữ, bị tình nghhi.

Luật sư bào chữa từ giai đoạn điều tra vụ án hình sự là người tham gia tố

tụng hình sự sau khi người bị tam giữ, bị can hoặc người thân thích của họ nhờ

luật sư bào chữa cho mình và được đảm bảo theo quy định của pháp luật; Bằng

kinh nghiệm nghề nghiệp của mình cùng với sự hiểu biết, am tường về pháp luật

của mình, kết hợp với đạo đức nghề nghiệp luật sư, kèm với ý thức tuân thủ

pháp luật khi tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự cụ thể là từ giai

đoạn điều tra vụ án hình sự để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của

thân chủ của mình, đồng thời góp phần vào việc xác định sự thật vụ án một cách

đầy đủ, toàn diện, tránh hiện tượng oan sai ngay ở giai đoạn mà kết qủa của nó

sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới số phận pháp lý của thân chủ của mình.

Khi hoạt động bào chữa của luật sư từ giai đoạn điều tra vụ án hình sự

giúp cho khách hàng của mình ổn định về mặt tinh thần cũng như tâm lý, có ý

thực tích cực hợp tác với cơ quan điều tra, điều tra viên một cách tích cực hơn.

Muốn hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự có

hiệu quả thì luật sư là người có trách nhiệm với xã hội, với đồng loại và là tư

cách của một công dân đối với đất nước nhằm góp phần vào việc xây dựng Nhà

Trang 22

nước Xã Hội Chủ Nghĩa mà Đảng, Nhà Nước và nhân dân ta đã lựa chọn.

Chương 2

THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA

CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ

THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI

2.1. Khái quát một số nét về tỉnh Quảng Ngãi và hoạt động của Đoàn

luật sư tỉnh Quảng Ngãi.

2.1.1 Khái quát về tỉnh Quảng Ngãi

Tỉnh Quảng Ngãi có phía đông giáp biển thuộc vùng Duyên hải Nam

Trung Bộ, Việt Nam. Tỉnh lỵ là thành phố Quảng Ngãi, cách thành phố Hồ Chí

Minh 820 km về phía Nam, cách thành phố Đà Nẵng 146 km về phía Bắc và

cách Hà Nội 908 km về phía Bắc tính theo đường Quốc Lộ 1A.

Năm 2018, Quảng Ngãi là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 19 về số

dân, xếp thứ 27 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ

20 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 13 về tốc độ tăng trưởng GRDP.

Với 1.272.800 người dân, GRDP đạt 73.568 tỉ ồng (tương ứng với 3,1951 tỉ

USD), GRDP bình quân đầu người đạt 57,8 triệu đồng (tương ứng với 2.510

USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 9,60%

Quảng Ngãi có chiều dài dọc bờ biển khoảng 129 km với vùng lãnh hải

rộng lớn 11.000 km2 và có nhiều cửa biển vốn giàu nguồn lực hải sản như Cửa

Đại cùng với nhiều bãi biển đẹp như Biển Mỹ Khê. Tỉnh Quảng Ngãi là một

trong những tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Nam Trung Bộ, khu

vực Dung Quất để xây dựng nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam được Chính

phủ quy hoạch lựa chọn. Tỉnh Quảng Ngãi là tiền thân của Tỉnh Nghĩa Bình

Trang 23

được tách ra từ ngày 1 tháng 7 năm 1989 [2]

2.1.2 Khái quát về Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ngãi.

Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ngãi được thành lập theo Quyết định số

1741/QĐ-UB ngày 26 tháng 6 năm 1990 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.

Cùng ngày Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số: 1472/QĐ-UB công

nhận 03 luật sư chính thức, 02 luật sư tập sự và chỉ định luật sư làm Chủ nhiệm

lâm thời.

Từ đó đến nay, Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ngãi đã qua 08 lần Đại hội với

07 nhiệm kỳ: 1990 – 1994; 1994 – 1997; 1997 – 2000; 2000 – 2002; 2002 –

2005; 2005 – 2008 và 2008 – 2013; 2013 – 2018. Hơn hai mươi năm qua, Đoàn

luật sư tỉnh Quảng Ngãi đã xây dựng, phát triển một đội ngũ luật sư từ 05 luật sư

thành viên ban đầu đến nay là 20 luật sư và 07 người tập sự hành nghề luật sư.

Về nghiệp vụ đa số luật sư đều có bằng cử nhân luật và nhiều thành viên đã có

nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực tư pháp trước khi hành nghề luật sư.

Về hoạt động, hơn hai mươi năm qua các thành viên của Đoàn luật sư tỉnh

Quảng Ngãi đã tham gia tố tụng bào chữa cho bị can, bị cáo và bảo vệ quyền lợi

hợp pháp cho các đương sự gần 4000 vụ án các loại, góp phần thực hiện công lý

và đảm bảo công bằng xã hội [8]

2.2. Thực trạng quy định về hoạt động bào chữa của luật sư trong giai

đoạn điều tra vụ án hình.

Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là

những việc làm cụ thể, trong đó có quyền bào chữa có được là do người bị tạm

giữ, bị can .. khi họ nhờ luật sư tham gia bào chữa cho họ là họ đã trao quyền

được tự bào chữa đó cho luật sư từ lúc họ yêu cầu và được pháp luật thừa nhận

Quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự có thể coi

là như là một nguyên tắc khi nhà nước ta xây dựng pháp luật. Nguyên tắc này

Trang 24

được cụ thể hóa trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013.

Nguyên tắc này cũng được đưa vào trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988.

Điều 12 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 về bảo đảm quyền bào chữa của bị

can, bị cáo: “Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào

chữa. Như vậy các cơ quan tiến hành tố tụng phải bảo bảo quyền bào chữa cho

họ.

Tham chiếu theo Điều 35 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 được quy định

“Luật sư…” có thể nói người bào chữa không những chỉ có luật sư mà còn nhiều

đối tượng khác theo quy định của pháp luật. Khi xây dựng Bộ luật tố tụng hình

sự năm 1988 là Bộ luật đầu tiên của Nước ta, được kế thừa những giá trị tốt đẹp

và nhân văn của pháp luật tố tụng truyền thống dưới sự lãnh đạo của Đảng và

Nhà nước về thể chế hóa nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa mang bản sắc

Việt Nam.

Luật sư có những quyền được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm

1988 như sau:

- Luật sư tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can:

Việc cho Luật sư tham gia tố tụng từ rất sớm trong quá trình tố tụng là

hoạt động cần thiết và quan trọng. Đó là điểm mới và là bước tiến trong quy

định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam. Giai đoạn điều tra là giai đoạn đều là

giai đoạn tiền đề nếu không thực hiện tốt dễ xảy ra một số hành vi tiêu cực có

thể dẫn đến quyền tự do cơ bản của công dân như bức cung, mớm cung, sai lệch

hồ sơ vụ án, thiếu sót trong quá trình thu thập chứng cứ.... hoạt động bào chữa

của luật sư trong giai đoạn này sẽ góp phần hạn chế và khắc phục những sai sót

trong quá trình điều tra, nhằm nâng cao chất lượng điều tra, trách oan sai.

Tuy nhiên, Bộ luật cũng quy định rõ: “Nhiều trường hợp cần phải giữ bí

mật điều tra, người tham gia tố tụng được yêu cầu không tiết lộ bí mật điều tra.

Trang 25

Yêu cầu này phải được ghi vào biên bản”. (Điều 177 Bộ luật hình sự năm 2015)

Luật sư có quyền có mặt khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý

thì được hỏi bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác đó là một

trong những hoạt động bào chữa của luật sư. (Điều 73 Bộ luật tố tụng năm 2015)

Luật sư bào chữa tham gia trong khi hỏi cung bị can có tác dụng hết sức

tích cực, người bị tạm giữ, bị can trong khi trả lời Điều tra viên trong quá trình

lấy lời khai, nếu luật sư bào chữa phát hiện ra những tình tiết quan trọng, cần

thiết để làm sáng tỏ và xác định sự thật của vụ án cũng như tình tiết cần thiết để

bào chữa hoặc minh oan, cho thân chủ thì luật sư có thể đề nghị Điều tra viên

lưu ý tình tiết đó. Luật sư có thể hỏi thân chủ của mình nêu được sự đồng ý của

điều tra viên nhằm làm sáng tỏ những tình tiết cần thiết có trong vụ án. Ngoài ra

Luật sư cũng tham gia những hoạt động điều tra khác như khám nghiệm hiện

trường, khám nghiệm tử thi,…có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm xác định

chính xác sự thật của vụ án.

Việc thay đổi điều tra viên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, đó là

quyền của luật sư khi thấy có dấu hiệu vi phạm pháp luật của điều tra viên trực

tiếp trong vụ án mà mình tham gia bào chữa

Khi có căn cứ thay đổi thay đổi điều tra viên theo quy định của pháp luật

thì luật sư làm giấy đề nghị gởi cho cơ quan điều tra thay đổi điều tra

viên…nhằm đảm bảo cho vụ án được giải quyết một cách nhanh chóng, khách

quan, vô tư và hiệu quả.

Đưa ra chứng cứ và những yêu cầu trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

là quyền của luật sư được quy định trong bộ luật hình sự;

Trong quá trình hoạt động bào chữa luật sư phát hiện ra những chứng cứ

có lợi, chứng cứ mới, quan trọng mà cơ quan điều tra chưa làm rõ hoặc chưa

phát hiện thì luật sư có quyền đề nghị cơ quan điều tra tiến hành xem xét các

Trang 26

chứng cứ đó.

Luật sư bào chữa gặp người tạm giữ, bị can trong giai đoạn điều tra vụ

án hình sự tại nhà tạm giữ.

Luật sư bào chữ gặp người bị tạm giữ, bị can nhằm giải thích những vấn

đề pháp luật liên quan mà họ chưa biết hoặc chưa hiểu để họ họp tác với cơ quan

điều tra làm sáng tỏ vụ án một cách chính xác và hiệu quả nhất.

Luật sư bào chữa được đọc hồ sơ vụ án và ghi chép những điều cần thiết

sau khi kết thúc điều tra vụ án hình sự.

Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự là sau khi kết thúc giai đoạn

điều tra thì luật sư bào chữa có quyền đề nghị cơ quan điều tra được sao chép,

chụp tài liệu chứng cứ có trong quá trình điều tra. Nhằm đánh giá và đưa ra

những định hướng bảo vệ quyền và lợi ích tốt nhất cho thân chủ của mình.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, mặc dù là Bộ luật tố tụng hình sự đầu

tiên của nước ta, nhưng có nhiều đóng góp vào công cuộc đấu tranh, phòng

chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ lợi

ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, phục vụ tích cực

công cuộc đổi mới của đất nước. Quy định quyền được bào chữa của luật sư giai

đoạn điều tra vụ án hình sự là cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo các quyền

của công dân mà luật đã hiến định, nhằm giám sát và nâng cao trách nhiệm của

cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt trong giai đoạn này là cơ quan điều tra tránh,

hạn chế oan sai.

Mặc dù, những quy định tố tụng rõ ràng trong Bộ luật tố tụng hình sự

1988 so với những văn bản trước đây, nhưng nước ta trong thời điểm này là thời

kỳ xây dựng đổi mới đất nước nên đã bộc lộ những hạn chế, bất cập.

Năm 2001 thì Pháp lệnh Luật sư ra đời quy định rõ về chức năng của Luật

sư tại Điều 14: “Luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị

Trang 27

can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại,

nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ

án hình sự”.

Nhằm khắc phục những hạn chế bất cập của Bộ luật tố tụng hình sự 1988

trong quá trình cải cách tư pháp của nhà nước ta thì Bộ luật tố tụng hình sự 2003

được ban hành, nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế của trước đây, cụ thể

theo Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định rõ về Luật sư bào chữa trong

giai đoạn điều tra vụ án hình sự:

Theo Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì luật sư bào chữa tham gia

tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong một số trường hợp cần giữ bí mật

điều tra như: Tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát

quyết định để luật sư bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Luật sư bào chữa tham gia lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung

bị can khi được sự đồng ý Điều tra viên trực tiếp điều tra vụ án đó. Luật sư bào

chữa cũng có thể đề nghị điều tra viên trực tiếp vụ án đó về địa điểm và thời gian

hỏi cung người bị tạm giữ, bị can. Luật sư bào chữa cũng có quyền thay đổi điều

tra viên nếu xét thấy họ không khách quan khi điều tra vụ án và một số công

việc khác theo quy định của Bộ luật tố tụng này.

Theo quy định trong Bộ luật tố tụng 2003 đã cho phép Luật sư được tham

gia tố tụng sớm hơn quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 1988. Bộ luật tố tụng

hình sự 2003 cũng nhấn mạnh nhiều quyền mới của Luật sư tham gia bào chữa

cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cũng quy định:“ Trong thời

hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy

tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải

xem xét, cấp giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa.

Trang 28

Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do .Đối với trường hợp tạm

giữ người thì trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị của người bào

chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan điều tra phải xem

xét, cấp giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa”. Trong

trường hợp từ chối không được cấp giấy chứng nhận bào chữa thì phải có lý do

cụ thể.

Khi tham gia tố tụng thì Luật sư phải có giấy chứng nhận Thông báo về

việc bào chữa do cơ quan tiến hành tố tụng cấp. Thủ tục cấp giấy chứng nhận

này được quy định rõ ràng và đầy đủ hơn.

Kế tiếp và phát triển hơn nữa chức năng của Luật sư tham gia bào chữa

cho người bị buộc tội thì Luật Luật sư năm 2006 ra đời đã cụ thể hóa quyền,

nghĩa vụ và trách nhiệm của Luật sư khi tham gia tố tụng nhằm giải quyết những

khó khăn vướng mắc cho Luật sư khi tham gia tố tụng nói chung và tham gia

giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng.

Điều 22 Luật Luật sư năm 2006 quy định Luật sư được:

Tham gia bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can… khi được nhờ hoặc

theo luật định.

Điều 27 Luật Luật sư năm 2006 quy định:

Luật sư bào chữa được cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận

người bào chữa sau khi luật sư được người bị tạm giữ, bị can hoặc người đại

diện của họ nhờ luật sư bào chữa cho họ trong giai đoạn điều tra và được Cơ

quan điều tra cấp giấy chứng nhận bào chữa, thì luật sư sẽ tham gia tố tụng theo

quy định.

Theo quy định thì thời hạn không quá 3 ngày khi nhận đủ các giấy tờ theo

quy định của luật sư bào chữa thì cơ quan điều tra cấp giấy chứng nhận bào chữa

Trang 29

cho luật sư (khoản 2 điều 27 Luật luật sư 2006)

Như vậy, cả Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Luật Luật sư năm 2006

đều quy định thời điểm của Luật sư được tham gia tố tụng ngay từ giai đoạn điều

tra vụ án hình sự. Luật cũng quy định thời gian cụ thể để Luật sư được cơ quan

tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận bào chữa là không quá ba ngày. Những

quy định mới, tiến bộ, cụ thể như vậy góp phần tạo điều kiện cho Luật sư phát

huy được tối đa hoạt động bào chữa của mình nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của thân chủ.

Tuy nhiên, cả Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và Bộ luật tố tụng hình sự

năm 2003 đều có những quy định chưa rõ ràng và hạn chế rất nhiều quyền bào

chữa của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Để khắc phục những

hạn chế nói trên, đồng thời đó cũng là định hướng của Đảng và Nhà nước ta, nên

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ra đời nhằm khắc phục được phần lớn những

hạn chế và bất cập của những Bộ luật tố tụng hình sự trước đó. Điều 74 Bộ luật

tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Luật sư bào chữa tham gia tố tụng từ khi

khởi tố bị can. Trường hợp bắt, tạm giữ người thì luật sư bào chữa tham gia tố

tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được

giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm

giữ...”. Những quy định mới này cho phép luật sư bào chữa được tham gia tố

tụng sớm hơn, nghĩa là người bị bị bắt có mặt ở trụ sở Cơ quan điều tra là luật sư

bào chữa có quyền tham gia bào chữa nếu như những đối tượng đó nhờ luật sư

và được sự đồng ý của cơ quan điều tra. Điều này được cụ thể hóa Điều 31 Hiến

pháp năm 2013 của nước ta đã quy định người bị bắt có quyền tự bào chữa, nhờ

Luật sư hoặc người khác bào chữa, như vậy là quyền này được hiến định. Việc

hoạt đồng bào chữa sớm của luật sư là rất cần thiết nhằm đảm bảo quyền tự bào

chữa hoặc nhờ người khác bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ. Vì khi bị bắt,

một con người bình thường, không am hiểu pháp luật thì khó có thể bình tĩnh,

sáng suốt để làm việc với Cơ quan điều tra. Khi có Luật sư bào chữa bên cạnh để

Trang 30

trợ giúp pháp lý và bào chữa cho họ sẽ giúp họ bình tĩnh, khai báo chính xác,

đúng sự thật giúp hoạt động điều tra đi đúng hướng, tránh được oan sai. Việc có

mặt Luật sư bào chữa còn giúp Điều tra viên, Cán bộ điều tra khỏi bị mang tiếng

là mớm cung, mớm cung, dùng nhục hình đối với nghi can.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng thay thế thủ tục xin cấp giấy

chứng nhận bào chữa bằng thủ tục “đăng ký bào chữa”, theo đó: “Trong thời

hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều

này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và thấy

không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa quy định tại khoản 5

Điều này, thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào

chữa cho luật sư đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ và lưu giấy tờ liên quan đến

việc đăng ký bào chữa vào hồ sơ vụ án; nếu xét thấy không đủ điều kiện thì từ

chối việc đăng ký bào chữa và phải nêu rõ lý do bằng văn bản”.

Chứng nhận Thông báo luật sư bào chữa là cơ sở pháp lý cho luật sư thực

hiện hoạt động bào chữa của mình trong suốt quá trình tố tụng. Nhưng có thể

trong một số trường hợp, Chứng nhận này sẽ hết hiệu lực trước khi kết thúc vụ

án. Đó là: Thân chủ của mình từ chối luật sư hoặc người đại diện của họ đề nghị

yêu cầu thay đổi luật sư bào chữa nữa, được quy định tại điểm b khoản 1 Điều

76 của Bộ luật này từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa.

Đơn giản hóa thủ tục về việc đăng ký Thông báo bào chữa của luật sư

trong Bộ luật tố tụng 2015 đã là bước tiến đáng kể trong việc để Luật sư nhanh

chóng được tiếp cận với người bị buộc tội và vụ án để đảm bảo tính kịp thời,

hiệu quả, phù hợp với Khoản 2 Điều 9 của Luật Luật sư về việc nghiêm cấm cơ

quan, tổ chức, cá nhân có hành vi cản trở hoạt động hành nghề Luật sư.

Mặc dù đây là giai đoạn đầu tiên của vụ án hình sự nhưng ngay từ giai

đoạn điều tra hoạt động bào chữa của luật sư hết sức cần thiết nhằm định hướng

cho mình cách nghiên cứu hồ sơ, thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm định hướng

Trang 31

cho việc bào chữa cho thân chủ của mình, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của họ được tốt nhất trân cở sở của pháp luật.

2.3. Thực trạng hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

Quảng Ngãi tình hình tội phạm từ năm 2014 đến năm 2018

Bảng 2.1: Bảng tổng kết số lượng các vụ án hình sự từ năm 2014 đến năm

2018

Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018

Cơ quan Viện Cơ quan Viện Cơ quan Viện Cơ quan Viện Cơ quan Viện

cảnh sát kiểm sát cảnh sát kiểm cảnh sát kiểm cảnh sát kiểm cảnh sát kiểm

điều tra phê điều tra sát phê điều tra sát phê điều tra sát phê điều tra sát phê

công an chuẩn công an chuẩn công an chuẩn công an chuẩn công an chuẩn

tỉnh quyết tỉnh quyết tỉnh quyết tỉnh quyết tỉnh quyết

Quảng định Quảng định Quảng định Quảng định Quảng định

Ngãi khởi tố Ngãi khởi tố Ngãi khởi tố Ngãi khởi tố Ngãi khởi tố

khởi tố khởi tố khởi tố khởi tố khởi tố

414 711 424 811 384 620 318 459 396 553

vụ bị can vụ bị can vụ bị can vụ bị can vụ bị can

( Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi Báo cáo tổng kết công tác hàng

năm)

Trang 32

Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình

sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

2.2 Bảng thống kê các vụ án có luật sư tham gia từ giai đoạn điều tra vụ

án hình sự trong 05 năm (từ năm 2014 – 2018)

Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018

Do Do cơ Do Do cơ Do Do cơ Do Do cơ Do Do cơ

khách quan tiến khách quan tiến khách quan tiến khách quan tiến khách quan tiến

hàng hành tố hàng hành tố hàng hành tố hàng hành tố hàng hành tố

mời tụng mời tụng mời tụng mời tụng yêu mời tụng

cầu yêu cầu yêu cầu yêu cầu yêu cầu

33 vụ 15 vụ 38 vụ 11 vụ 46 vụ 24 vụ 55 vụ 19 vụ 69 vụ 23 vụ

Số liệu cho thấy số luật sư tham gia có xu hướng tăng giảm không đồng

đều theo các năm.

Nhận xét

Số liệu về tình hình phạm tội trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự trong 5

năm qua (từ 2014 – 2018) trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cho thấy số luật sư tham

gia bào chữa từ giai đoạn điều tra là rất thấp, có thể nói ý thức về quyền bào

chữa và nhờ người khác người khác của người bị tạm giữ, bị can còn rất thấp

Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ngãi Trần Đức Nhân cho biết: “Tính

đến hiện nay, Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ngãi có 46 Luật sư và 15 người tập sự

hành nghề Luật sư, 14 tổ chức hành nghề.”

Trang 33

Như vậy, số lượng các vụ án và số người bị khởi tố là rất lớn so với số

lượng Luật sư hiện có của Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ngãi. So với đội ngũ luật sư

và số lượng vụ án cần luật sư tham gia bào chữa từ giai đoạn điều tra là không

thể đáp ứng được, mặc dù Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ngãi luôn cố gắng phát huy

hết khả năng của mình. Dù chưa nói đến một số lượng Luật sư ngại va chạm, ít

tham gia tranh tụng, số lượng Luật sư chuyên về tranh tụng các vụ án hình sự

đặc biệt luật sư bào chữa từ giai đoạn điều tra vụ án hinh sự còn khiêm tốn hơn.

Sự thiếu hụt đội ngũ Luật sư bào chữa trong nhiều vụ án hình sự nói chung, luật

sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng đã không đảm bảo

quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,..trong giai đoạn này. Chất lượng

đội ngũ Luật sư chưa đồng đều, còn nhiều yếu kém.

Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ

thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi còn hạn chế và trong thực tế nhiều khi chưa được Cơ

quan điều tra thực sự tôn trọng, chưa tạo điều kiện cho luật sư bào chữa thực

hiện hoạt động nhiệm vụ của mình trong giai đoạn này còn gặp nhiều khó khăn;

nhiều trường hợp người bị tạm giữ bị can không được cơ quan điều tra giải thích

quyền và lợi ích cho họ là được mời luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

cho họ. Do vậy, người bị tạm giữ, bị can không biết là mình có quyền nhờ người

bào chữa ngay từ khi bị tạm giữ mà họ cứ tưởng khi ra toà xét xử mới được mời

Luật sư.

Khi thực hiện hoạt động bào chữa của luật sư từ giai đoạn điều tra vụ án

hình sự cho thân chủ của mình thì gặp không ít khó khăn trở ngại từ ý chí chủ

quan của cơ quan điều tra, điều tra viên. Họ chưa nhận thức đầy đủ tầm quan

trọng của hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

Nên khi thực hiện các công việc liên quan đến hoạt động bào chữa của luật sư

cho người bị tạm giữ, bị can, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự thường phát

sinh rất nhiều vướng mắc giữa cơ quan điều tra, điều tra viên và luật sư. Thậm

Trang 34

chí có điều tra viên cho rằng hoạt động bào chữa của luật sư tham gia từ giai

đoạn này thì sẽ làm cản trở quá trình điều tra của họ, cho rằng hoạt động bào

chữa của luật sư tham gia quá trình điều tra thì chỉ “ vạch lá tìm sâu” để tìm

những chứng cứ có lợi cho thân chủ của mình và tìm cách bảo vệ quyền và lợi

ích cho thân chủ, không giúp ích gì cho cơ quan điều tra.

Tham chiếu theo khoản 4 Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì

trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của luật sư bào chữa kèm

theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

thì cơ quan điều tra phải xem xét, cấp giấy chứng nhận cho luật sư bào chữa để

họ thực hiện việc bào chữa. Trong trường hợp bị từ chối cấp giấy chứng nhận thì

phải trả lời và nêu rõ lý do. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị

của luật sư bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa thì cơ quan

điều tra phải xem xét, cấp giấy chứng nhận cho luật sư bào chữa để họ thực hiện

việc bào chữa đó là trường hơp bị tạm giữ. Trường hợp bị từ chối cấp giấy

chứng nhận thì phải trả lời và nêu rõ lý do. Tham chiếu với Bộ luật tố tụng hình

sự năm 1988, đây là quy định mới, tiến bộ hơn nhằm tạo điều kiện để luật bào

chữa thực hiện việc bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự thường bị cơ

quan điều tra, điều tra viên gây khó khăn; quy định này đòi hỏi cơ quan điều tra,

điều tra viên phải nêu cao trách nhiệm, thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố

tụng hình sự.

Như vậy, việc cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư là bắt buộc đối

với cơ quan cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và giấy

chứng nhận này phải được lưu trong hồ sơ vụ án như một tài liệu chính thức để

các cơ quan tiến hành tố tụng kiểm tra, giám sát nhau.

Để khắc phục tồn tại của cơ chế “xin – cho” trong quá trình Luật sư xin

cấp giấy chứng nhận Thông báo bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ

án hình sự, căn cứ theo Điều 78 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì Luật sư chỉ

Trang 35

cần làm thủ tục đăng ký bào chữa và trong thời hạn 24 giờ kể từ khi Luật sư xuất

trình đầy đủ giấy tờ theo luật định và không thuộc trường hợp từ chối việc đăng

ký bào chữa theo quy định tại Khoản 5 Điều 78 Bộ luật tố tụng hình sự năm

2015 thì cơ điều tra vào sổ đăng ký bào chữa đồng thời gửi ngay văn bản Thông

báo người bào chữa cho luật sư đăng ký bào chữa. quy định này đã mở rộng hơn

về việc chứng nhận tư cách của Luật sư trở thành người bào chữa. Theo đó,

những quy định khắt khe và thời gian chờ đợi để được chứng nhận tư cách là

luật sư bào chữa cho người người bị tạm giữ, bị can đã được nới lỏng và rút gọn.

Trong một cuộc hội thảo khoa học do Học viện cảnh sát nhân dân và Đại

sứ quán Hoa kỳ, Điều tra viên cao cấp Nguyễn Xuân Hùng tổ chức đã phát biểu:

“Một trong những lý do dẫn đến tình trạng Điều tra viên e ngại Luật sư tham

gia tố tụng trong giai đoạn điều tra vụ án là do Điều tra viên chưa nắm rõ chức

năng, vai trò, phạm vi quyền, nghĩa vụ và vị trí của Luật sư, sợ rằng Luật sư sẽ

gây khó khăn cho hoạt động điều tra của họ, phát hiện ra những sai sót, sơ hở

của Điều tra viên khi thụ lý vụ án. Đây là một tư duy cố hữu của một số Điều tra

viên gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của Luật sư khi thực hiện chức

năng bào chữa cho thân chủ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự”.

Luật sư bào chữa chưa thực hiện được tối đa hoạt động bào chữa của mình

trong giai đoạn điều tra vụ án hình sư do không được gặp người bị tạm giữ, bị

can để khẳng định họ có hay không có nhu cầu nhờ luật sư bào chữa cho học

trong trường hợp người đại diện của họ mời luật sư bào chữa cho họ. Việc nhờ

người khác bào chữa và người bào chữa có mặt để bào chữa cho họ đã được quy

định trong Luật và các văn bản hướng dẫn luật, thế nhưng trong thực tế có nhiều

trường hợp từ chối Luật sư bào chữa một cách bất thường do tác động của phía

Cơ quan điều tra. Khi Cơ quan điều tra chấp nhận cho luật sư bào chữa thì việc

tiếp cận thân chủ của mình cũng còn nhiều khó khăn. Việc gặp gỡ thân chủ của

mình trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là hoạt động cần thiết của luật sư và

Trang 36

được luật tố tụng hình sự cho phép, thế nhưng nhiều trường hợp khi luật sư

muốn tiếp cận thân chủ của mình thường không thực hiện được do Cơ quan điều

tra đưa ra lý do là “điều tra viên đang bận công tác khác” hoặc “án phức tạp nên

chưa gặp được bị can”... Luật sư bào chữa bị cản trở bất hợp pháp với vô vàn lý

do của một số Điều tra viên, không nhận được sự hợp tác của Cơ quan điều tra

trong quá trình Luật sư tham gia bào chữa từ giai đoạn điều tra. Luật sư không

được cấp giấy chứng nhận bào chữa đúng thời gian theo quy định của pháp luật

nhất là trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Trong giai đoạn này, việc đầu tiên

mà Luật sư phải làm là thực hiện thủ tục để được tham gia với tư cách là người

bào chữa cho thân chủ của mình. Trước đây, Luật sư phải làm thủ tục để Cơ

quan điều tra cấp giấy chứng nhận người bào chữa, chỉ sau khi được cấp giấy

chứng nhận người bào chữa thì Luật sư mới được chính thức tham gia vào tố

tụng. Nhưng để được cấp “giấy chứng nhận” đương nhiên theo luật thì Luật sư

thường bị gây khó, phiền hà từ phía Cơ quan điều tra, một phần do nhận thức

chưa thấu đáo của Cơ quan điều tra, một phần do chủ ý của một số cán bộ điều

tra cản trở sự “vào cuộc” của Luật sư. Khoản 1 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự

năm 2015 quy định: “Luật sư được gặp, hỏi người bị buộc tội; Có mặt khi lấy

lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm

quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị

tạm giữ, bị can…”. Thưc tế thì hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn

này không thực hiện được quyền này do điều tra viên rất ít khi báo cho luật sư

về kế hoạch hỏi cung người bị tạm giữ, bị can. Điều tra viên lấy lời khai, hỏi

cung trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự thường ít có sự chứng kiến của luật

sư. Về việc sao chụp tài liệu trong giai đoạn này còn không được sự tạo điều

kiện từ cơ quan điều tra mà có khi điều tra viên còn đưa ra nhiều lý do nhằm

không muốn luật sư bào chữa được sao chụp hồ sơ khi kết thúc giai đoạn điều

tra của vụ án như: Cơ quan không có máy pho to tài liệu hoặc máy pho to hỏng

hoặc cán bộ cầm hồ sơ đi công tác. Luật sư bào chữa tiếp cận tài liệu, chứng cứ

Trang 37

của vụ án trong giai đoạn này còn có phần hạn chế. Mặc dù quy định của pháp

luật tố tụng hình sự cho phép Luật sư bào chữa được sao chụp hồ sơ vụ án mà

mình đang thực hiện bào chữa cho thân chủ của mình, nhưng có nhiều vụ án

Luật sư rất khó tiếp cận hồ sơ do Cơ quan điều tra trả lời hồ sơ chưa được hoàn

thiện... Hoạt động gặp và trao đổi với thân chủ của mình trong giai đoạn điều tra

vụ án hình sự là rất khó khăn. Không phải Luật sư bào chữa nào cũng gặp được

thân chủ của mình để trao đổi, củng cố tinh thần và giải thích pháp luật về quyền

và nghĩa vụ cho họ, cũng như tìm hiểu về thân chủ của mình.

Khi luật sư bào chữa đã chuẫn bị các loại giấy tờ theo quy định của pháp

luật để gặp thân chủ của mình đã được cơ quan điều tra cấp giấy chứng nhân

Thông báo về việc bào chữa, nhưng giám thị trại giam trả lời rằng: Cơ quan điều

tra có công văn nội bộ không cho Luật sư gặp riêng người bị buộc tội, người bị

tạm giữ, bị can mà phải đợi bố trí Điều tra viên đi cùng. Nếu Luật sư ngại đụng

chạm với Cơ quan điều tra và không kiên quyết đấu tranh để thực hiện đầy đủ và

trách nhiệm quyền năng bào chữa của mình thì rất khó để Luật sư có thể hoàn

thành nhiệm vụ. Thực tế cũng cho thấy, nhận thức của người bị bắt, người bị

buộc tội, người bị tạm giữ, bị can, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ,

bị can về quyền được bào chữa và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình không

đầy đủ do đó cũng là khó khăn cho Luật sư.

Một trong những khó khăn nữa mà Luật sư gặp phải khi tham gia bào

chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đó là nghiệp vụ của Luật sư. Các

Luật sư ở Việt Nam hầu như không được học qua nghiệp vụ điều tra như ở một

số nước trên thế giới nên khả năng phán đoán dấu vết tội phạm hoặc thu thập

chứng cứ còn thiếu kinh nghiệm. Nhiều Luật sư trẻ ngày nay tuy được đào tạo

bài bản nhưng còn thiếu kỹ năng hành nghề nên họ ngại tham gia bào chữa trong

giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Luật sư Việt Nam chưa thường xuyên cập nhật

kiến thức mới về chính trị, kinh tế, xã hội. Bộ quy tắc ứng xử nghề nghiệp luật

Trang 38

sư Việt Nam chưa được đại đa số luật sư nhận thức đúng và ý thức tự giác thực

hiện trao dồi đạo đức như Bộ quy tắc đã đề ra. Khi tham gia tố tụng còn mang

tính hình thức, chưa thực sự đóng vai trò giám sát, phản biện của một số luật sư

với Cơ quan điều tra. Không ít Luật sư thực hiện nhiệm vụ bào chữa của mình

theo luật định một cách qua loa, làm cho có, đại khái, nghiên cứu hồ sơ vụ án

không kỹ hoặc không nghiên cứu hồ sơ vụ án. Một số ít Luật sư còn vi phạm

pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp khi thực hiện hoạt động nghề nghiệp

trong vụ án hình sự. Đó là những hành vi không có trách nhiệm trong công việc,

hành vi “chạy án” làm ảnh hưởng đến uy tín của nghề nghiệp khiến cho cơ quan

tiến hành tố tụng không tín nhiệm Luật sư hoặc phía người bị hại không tin vào

cán cân công lý. Như Luật sư Lê Quốc Trung, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội

vi phạm pháp luật nghiêm trọng đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đã bị

Tòa án nhân dân thành phố Hà nội tuyên phạt 13 năm tù về tội lừa đảo chiếm

đoạt tài sản. Như Luật sư Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân thuộc Đoàn Luật

sư thành phố Hà Nội, Luật sư Lê Công Định thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ

Chí Minh, thể hiện quan điểm cực đoan, sai trái, đánh mất quan điểm pháp lý

của nghề nghiệp làm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.

Hoạt động bào chữa của Luật sư từ giai đoạn điều tra vụ án hình sự còn

giúp cơ quan điều tra, điều tra viên phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, sai lầm,

tránh các hành vi vi phạm pháp luật như “bức - mớm cung”, “nhục hình” nếu có

xảy ra đồng thời góp phần tích cực vào việc làm rõ sự thật khách quan của vụ án

một cách nhanh chóng, chính xác, những vụ án oan được minh oan gần đây như

Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang hay Huỳnh Văn Nén ở Bình Thuận đều xuất

phát từ thiếu sót, sai lầm từ giai đoạn điều tra.

Hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án đã góp

phần tích cực vào việc giải quyết các vụ án hình sự một cách chính xác nhất, có

một ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm ngăn ngừa những hành vi tiêu cực, những

Trang 39

hiện tượng vi phạm tố tụng trong quá trình điều tra vụ án.

Hoạt động bào chữa chuyên nghiệp của mình thì Luật sư đã đóng góp tích

cực cho hoạt động tư pháp, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa đồng thời bảo vệ

được quyền và lợi ích chính đáng của người bị buộc tội. Việc đóng góp của Luật

sư vào sự nghiệp bảo vệ công lý nói chung và giai đoạn điều tra vụ án hình sự

nói riêng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội trong giai đoạn

điều tra đồng thời tham gia giám sát hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra để

hạn chế những thiếu sót không đáng có xảy ra.

Vì vậy, trong giai đoạn điều tra, hoạt động bào chữa của Luật sư và cơ

quan điều tra đều hướng tới mục đích là xác định sự thật của vụ án, bảo đảm các

chứng cứ của vụ án được điều tra, thu thập một cách chính xác và khách quan,

bảo đảm cho bị can thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.

Hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

không làm cản trở, ảnh hưởng đến công tác điều tra vụ án của điều tra viên, trái

lại hoạt động của hai bên lại có mối quan hệ thúc đẩy bổ sung cho nhau.

Hoạt động bào chữa của luật sư khi điều tra viên khi tiến hành hỏi cung

đối với người bị tạm giữ, bị can không chỉ là chỗ dựa tinh thần cho người bị tạm

giữ, bị can mà còn tránh được việc “bức - mớm cung”, “nhục hình” … góp phần

nâng cao tính khách quan trong hoạt động điều tra vụ án hình sự.

Đặc biệt hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự trong quá trình điều tra khi được điều tra viên đồng ý như khám nghiệm

hiện trường, thực nghiệm điều tra, xem xét dấu vết thân thể... cũng là một hoạt

động tố tụng cần thiết.

Thông qua các hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ

án hình sự cho phép luật sư bào chữa có mặt, có thể luật sư phát hiện ra các mâu

thuẫn trong các tình tiết của vụ án hoặc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình

Trang 40

sự của người bị buộc tội, tình tiết có ý nghĩa minh oan cho người bị buộc tội

trong trường hợp người bị buộc tội vô tội, hạn chế tình trạng oan sai trong tố

tụng hình sự.

Mục đích hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự khi đưa ra chứng cứ khác với mục đích đưa ra chứng cứ của cơ quan

điều tra, bởi trước hết luật sư luôn thực hiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của thân chủ của mình, đồng thời cũng góp phần làm sáng tỏ những tình tiết

khác nhau về vụ án. Khi Luật sư thu thập được chứng cứ có ý nghĩa xác định giá

trị buộc tội mà cơ quan điều tra dùng để chứng minh thân chủ của mình có tội thì

Luật sư áp dụng kỹ năng nghề nghiệp của mình có ý kiến phản biện một phần

hoặc toàn bộ chứng cứ đó để đề nghị cơ quan điều tra thực hiện những hoạt động

nghiệp vụ có thể đưa ra kết luận điều tra và đề xuất cho cơ quan tiến hành tố

tụng với tội danh nhẹ hơn hoặc áp dụng hình phạt nhẹ hơn nhằm đảm bảo công

bằng pháp luật.

Hoạt động bào chữa luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là

những việc làm cụ thể có thể mang những đặc thù riêng so với các giai đoạn

khác trong tố tụng hình sự bởi lẽ: Thông qua các việc làm cụ thể thực hiện

quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật, luật sư bào chữa góp

phần tích cực vào việc giúp cơ quan điều tra, điều tra viê thu thập chứng cứ của

vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, không chỉ làm rõ chứng cứ có

tội, tình tiết tăng nặng mà còn làm rõ những chứng cứ vô tội, những tình tiết

giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị buộc tội, hạn chế tình trạng oan sai

và vi phạm thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra vụ án hình sự, tạo điều kiện

cho việc giải quyết vụ án hình sự được nhanh chóng, kịp thời, đúng người, đúng

tội, đúng pháp luật.

Những tồn tại, hạn chế

Một là: Số lượng luật sư thành viên của Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ngãi có

Trang 41

tăng lên hàng năm, nhưng con số còn quá khiêm tốn.

Phần lớn Luật sư hành nghề sau khi nghỉ hưu từ các cơ quan khác nhau

trên địa bàn tỉnh, đa phần Luật sư lớn tuổi, nên có phần hạn chế về ngoại ngữ.

Mặc khác, hoạt động của Luật sư còn nhỏ lẻ, nhiều tổ chức hành nghề chỉ

có một luật sư, do vậy chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hang chưa cao.

Hai là: Luật sư còn gặp nhiều khó khăn về quy trình bồi dưỡng kiến thức

mới về chuyên môn, nghiệp vụ cho luật sư hàng năm chưa phù hợp với yêu cầu

thực tế. Hơn nữa nhiều Luật sư chưa thấy đây là trách nhiệm của bản thân với

cộng đồng, ít trao dồi kiến thức mới, kinh nghiệm hành nghề còn hạn chế.

Mặc khác, Đoàn Luật sư chưa nghiên cứu và có giải pháp quan tâm đến

vị trí, vai trò của người tập sự hành nghề Luật sư, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa

quyền và lợi ích khi Luật sư hướng dẫn tham gia tiếp xúc hỏi cung của người bị

tạm giữ, bị can…và nghĩa vụ nộp đoàn phí chưa tương xứng với quyền được

hưởng trong gian đoạn tập sự hành nghề luật sư.

Ba là: Công tác kiểm tra, giám sát của các Cơ quan Nhà nước và Đoàn

Luật sư với tổ chức hành nghề luật sư cũng còn nhiều bất cập. Việc giữ mối liện

hệ giữa các tổ chức, cá nhân hành nghề Luật sư với cơ quan quản lý Nhà nước

và Đoàn Luật sư chưa cao.

Bốn là: Trong quá trình hoạt động nghề nghiệp của mình rất nhiều các luật

sư thường bị cơ quan điều tra, điều tra viên cản trở, gây khó khăn, đặc biệt là

trong việc tham gia hoạt động bào chữa của mình trong giai đoạn điều tra vụ án

Trang 42

hình sự.

Kết luận chương 2

Nghiên cứu về thực trạng hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn

điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi những năm gần đây, tác giả

đã phân tích thực trạng, nhận xét, đánh giá thông qua những số liệu thu thập

được từ Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Cơ quan điều tra tỉnh Quảng

Ngãi, Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ngãi về những công việc cụ thể của luật sư trong

hoạt động bào chữa của mình một cách chi tiết, cụ thể từ đó tìm ra những thuận

lợi cũng như khó khăn trong quá trình hoạt động bào chữa trong vụ án hình sự

từ giai đoạn điều tra từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Qua thực tiễn trong quá trình hoạt động bào chữa của luật sư trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự, rất nhiều luật sư cho rằng trong suốt quá trình hoạt

động nghề nghiệp của mình thì trong giai đoạn điều tra được phản ánh là khó

khăn từ cơ quan điều tra trong giai đoạn này là nhiều nhất. Luật sư thường hay bị

Cơ quan điều tra gây khó khăn trong việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa,

chứng nhận đăng ký bào chữa, tham gia hỏi cung thân chủ của mình, gây ảnh

hưởng đến quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra. Biết rằng cản ngại này có xu

hướng ngày càng giảm, nhưng vẫn là điều mà giới luật sư ái ngại nhất khi hoạt

đồng hành nghề.

Vì lẽ đó, hoạt động bào chữa của luật trong giai đoạn điều tra vụ án hình

sự nhiều lúc chỉ mang tính hình thức, không giúp ích gì nhiều được cho thân

chủ. Vì vậy, pháp luật về tố tụng hình sự cũng như pháp luật về Luật sư cần phải

có quy định cụ thể nhằm tháo gỡ những vướng mắc, nâng cao hiệu quả hoạt

Trang 43

động bào chữa của luật sư từ giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

Chương 3:

CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA CỦA LUẬT SƯ

TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở TỈNH QUẢNG

NGÃI

Nhiều nội dung Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng ta nêu rõ: “…

đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp

trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại”. Nghị

quyết 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về “ Chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020” là hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến

lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ

thống pháp luật chính sách hình sự, trong đó bảo đảm thực hiện địa vị pháp lý

của luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự để từ đó đề ra những

giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của luật sư

bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự .

3.1. Các yêu cầu bảo đảm hoạt động bào chữa của luật sư trong giai

đoạn Điều tra vụ án hình sự.

Thứ nhất: Quy định rõ Điều tra viên việc phải thông báo cho Luật sư bằng

văn bản về thời gian, địa điểm tiến hành hỏi, sau khi đã cấp Thông báo chứng nhận

bào chữa, cho luật sư biết sắp xếp lịch, bố trí thời gian tham dự cùng. Văn bản ở

đây có thể bằng thư điện tử … được trao đổi thống nhất của hai bên.

Thứ hai: Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, mở rộng các quyền và nghĩa

vụ có ý nghĩa quan trọng nhằm nâng cao địa vị pháp lý của luật sư bào chữa với

tư cách chủ thể thực hiện chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, cơ chế đảm bảo

để luật sư bào chữa thực hiện quyền và nghĩa vụ trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự. Đi cùng với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì Luật tổ chức Cơ quan

Trang 44

điều tra hình sự và Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam có hiệu lực pháp luật.

Thứ ba: Tại điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, khoản 1, điểm b

quy định thì luật sư “Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi

cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý

thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi

cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị

bắt, người bị tạm giữ, bị can” quy định là như thế, thực trạng là Luật sư không

có cơ hội để hỏi. Do đó, tác giả xin đề nghị chỉnh sửa, bổ sung như sau:

Cần bổ sung, sửa đổi, thay thế pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý

của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự cho phù hợp với Bộ

luật tố tụng hình sự năm 2015 như Luật luật sư hiện hành, Luật trợ giúp pháp lý

2017 và các Thông tư hướng dẫn. Thông tư 28/2014/TT-BCA ngày 07 tháng 7

năm 2014 quy định về công tác điều tra hình sự trong công an nhân dân trong

giai đoạn điều tra vụ án hình sự không còn phù hợp với quy định của Bộ luật tố

tụng hình sự năm 2015 “đảm bảo tính công bằng của pháp luật và trên hết là

đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong quá trình giải quyết vụ án hình

sự xác định đúng đắn vai trò của người bào chữa cũng như đảm bảo tốt hơn

quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bị can trong giai

đoạn điều tra”, nên cần kiến nghị hủy bỏ.

Để khắc phục tình trạng nêu trên bộ luật mới cần có văn bản hướng dẫn,

bố trí thời gian nhất định để Luật sư được hỏi, làm việc với người bị tạm giữ, bị

can, trách tình trạng luật sư không có cơ hội để hỏi vì điều tra viên hỏi cung hết

giờ vẫn chưa xong, lần nào cũng vậy.

Tham gia hỏi cung người bị tạm giữ, bị can là hình thức Luật sư giám sát

hoạt động tố tụng của Điều tra viên, do đó Luật sư cũng có quyền phản đối nếu

như Điều tra viên có biểu hiện sai phạm như: Bức, mớn, dụ cung…yêu cầu Điều

tra viên phải làm đúng quy định của pháp luật.

Trang 45

Thứ tư: Điều gần như tất yếu và không chỉ ở giai đoạn điều tra mà còn

ngay từ giai đoạn khởi tố bị can, ngay từ việc cấp Thông báo chứng nhận bào

chữa, việc gây khó khăn của điều tra viên luôn xuất hiện. Dẫu vậy cho đến nay

chưa có quy định nào, chế tài nào để điều chỉnh, xử lý hành vi này. Vì vậy, đề

nghị nghiên cứu bổ sung quy định trách nhiệm pháp lý của Điều tra viên có

những hành vi gây khó khăn, cản trở hoatt động bào chữa của luật sư trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự.

Thứ năm: Việc cấp Thông báo bào chữa cho luật sư đó là được sự đồng ý,

chấp thuận của người bị tạm giữ, bị can. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có

chỉnh sửa, bổ sung với nội dung: việc yêu cầu có Luật sư để bào chữa, ngoài

người bị tạm giữ, bị can thì có thể là người thân trong gia đình yêu cầu. Vậy

người thân trong gia đình đó là gồm những ai, cần phải cụ thể hóa hơn, cụ thể là:

- “Người thân’ trong gia đình là gồm những ai? Phải quy định rõ như gồm

Cha, mẹ (kể cả cha, mẹ nuôi) vợ, chồng, con ruột (con nuôi)

- Khi có giấy yêu cầu của những người trên thì Cơ quan điều tra xem xét

cấp Thông báo bào chữa, không phải làm động tác hỏi ý kiến người tạm giữ, bị

can có đồng ý hay không, như trước đây và hiên nay cũng đang áp dụng.

Cần có những biện pháp hạn chế việc bức cung, dụ cung, ép cung…trong

quá trình hỏi cung của Điều tra viên có nhiều biện pháp cần triển khai ở một số

nơi cần lắp đặc hệ thống Camera trong phòng hỏi cung… các buổi hỏi cung đều

phải có Luật sư tham dự trừ trường hợp người bị tam giam, bị can từ chối không

yêu cầu luật sư.

Thứ sáu: Người bị tạm giữ, bị can có quyền im lặng cho đến khi họ có

Luật sư bào chữa cần được ghi nhận. Như vậy, quyền của người bị tạm giữ, bị

can trong việc trình bày lời khai theo quy định Bộ luật tố tụng năm 2015 mới

được thực thi, trách các hình thức; Bức, dụ, mớn cung, dùng nhục hình dẫn đến

Trang 46

án oan sai.

3.2. Các giải pháp bảo đảm hoạt động bào chữa của luật sư trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự.

3.2.1. Đối với Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ngãi, các tổ chức hành nghề

luật sư và các luật sư thành viên.

Số lượng luật sư tăng lên về số lượng, đồng thời nâng cao về chất lượng,

tăng cường hiệu quả hoạt động của luật sư, là lực lượng nòng cốt thực hiện các

dịch vụ pháp lý nói chung và tham gia hoạt động bào chữa trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự nói riêng. Ra sức học tập nhằm nâng cao trình độ chuyên môn

cũng như thực hiện tốt Bộ quy tắc ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam để đáp

ứng hội nhập trong tình hình hiện. Luật sư không nên quan tâm đến thù lao của

khách hàng khi hành nghề luật, hãy quan tâm và chú trọng đến các yếu tố ngoài

vật chất như lợi ích tinh thần, là trách nhiệm, là niềm vinh dự mà xã hội đã giao

cho hãy luôn nghỉ đến người nghèo, gia đình chinh sách, gia đình có công với

cách mạng với nước trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc được trợ giúp

pháp lý một cách đầy đủ theo tình thần của Luật trợ giúp pháp lý, thông qua các

trung tâm trợ giúp pháp lý. Khi có các cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu luật sư

bào chữa theo luật định thông qua Trung tâm trợ giúp pháp lý, Đoàn luật sư, thì

luật sư không được từ chối mà cho rằng đó là nghĩa vụ cao đẹp để của luật sư

khi xã hội giao cho, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ khi được tổ chức phân công,

chỉ định. Khi tiến hành các hoạt động bào chữa của mình luật sư ngoài sự công

tâm trong hoạt động nghề nghiệp, luật sư không chỉ bào chữa, bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp cho than chủ mà còn phải bảo vệ sư công minh của pháp luật,

bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ. Đất nước ta trong thời kỳ hội nhập quốc tế, việc

tăng cường đội ngũ luật sư về số lượng cũng như về chất lượng rất hết sức cần

thiết, đặc biệt chú trong trao dồi kỹ năng về ngoại ngữ pháp lý góp phần đáp ứng

trong thời hiện nay, góp phần bảo vệ công lý và xây dựng Nhà nước pháp quyền

Trang 47

Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam mà Đảng và nhân dân ta lựa chọn.

Ngày 18 tháng 01 năm 2010 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số

123/QĐ-TTg để thực hiện cho chủ trương trên đó là phê duyệt đề án “ Phát triển

đội ngũ Luật sư phục vụ hội nhập quốc tế từ năm 2010 đến năm 2020” với mục

tiêu khái quát là:

- Xây dựng và phát triển đủ số lượng luật sư chuyên sâu trong lĩnh vực

thương mại, đầu tư để đáp ứng nhu cầu tư vấn và tham gia tranh tụng các vấn đề

liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp

trong xã hội, trong đó có cơ quan Chính phủ, các tập đoàn kinh tế của Nhà nước.

Đến năm 2015, số lượng luật sư được đào tạo chuyên sâu trong lĩnh vực

thương mại, đầu tư là 400 người; năm 2020 số lượng này là 1.000 người; số luật

sư đạt tiêu chuẩn quốc tế là 150người, bao gồm cả những người được đào tạo

hoặc tự đào tạo nhưng được thu hút theo chính sách của Đề án.

Đến năm 2015, bảo đảm mỗi tập đoàn kinh tế của Nhà nước có ít nhất từ 2

đến 3 cán bộ pháp chế được đào tạo theo Đề án này.

- Phát triển các tổ chức hành nghề luật sư theo hướng hình thành các công

ty luật chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước

ngoài. Mục tiêu có ít nhất 30 tổ chức hành nghề luật sư chuyên sâu trong lĩnh

vực đầu tư, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài vào năm 2020.

Mục tiêu cụ thể trong Quyết định của Thủ tướng chính phủ trong phần 2.3

có ghi:

“Tập trung nâng cao năng lực đào tạo trong nước đối với luật sư theo

các chương trình chuẩn quốc tế và khu vực; phấn đấu đến năm 2011 đưa vào

hoạt động Trung tâm đào tạo luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế liên kết

với nước ngoài; đến năm 2020 các Trung tâm này đủ năng lực để mở rộng đào

tạo luật sư đạt tiêu chuẩn quốc tế cho một số nước trong khu vực”.

Trang 48

Căn cứ vào sự phân công của tổ chức về chức năng, quyền hạn của mình,

Đoàn luật sư là một tổ chức có nhiệm vụ quản lý, giám sát các tổ chức hành

nghề luật sư, luật sư thành viên của Đoàn mình quản lý. Khi tham gia hoạt động

nghề nghiệp thì luật sư phải nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật,

nội quy, quy định của tổ chức luật sư, Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam,

ngoài ra khi hoạt động hành nghề của mình luật sư phải tuân thủ Bộ quy đạo đức

và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam.

Những giải pháp cần được kiện toàn khi luật sư tiến hành hoạt động bào

chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Để tiếp tục kiện toàn, củng cố tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động

của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong thời

gian tới cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức hoạt động của Ban Chủ

nhiệm Đoàn Luật sư đảm bảo về số lượng và nâng cao chất lượng; Chủ nhiệm

Đoàn luật sư phải đảm bảo các điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Điều lệ

Liên đoàn luật sư Việt Nam, có đủ sức khỏe, năng động, có trách nhiệm với

nhiệm vụ được giao; đủ sức lãnh đạo Đoàn Luật sư phát huy tốt nhiệm vụ, quyền

hạn của Đoàn theo quy định hiện hành, nhằm phát huy tốt vai trò tự quản của tổ

chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư.

Thứ hai, hoàn thiện môi trường pháp lý và chính sách phát triển nghề luật

sư Việt Nam trong thời gian tới, có sự đồng thuận trong nhận thức của xã hội

cũng như giới luật sư về tầm quan trọng của luật sư có vị trí, vai trò của đội ngũ

luật sư trong tố tụng hình sự, đặc biệt là hoạt động của luật sư trong giai đoạn

điều tra vụ án hình sự, muốn có được điều đó thì cần có những giải pháp cụ thể

hóa chiến lược phát triển nghề luật sư Việt Nam; chất lượng đào tạo luật sư cần

được nâng cao, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng hành nghề cho các luật

sư phải được chú trọng, luôn quan tâm trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cho

Trang 49

các luật sư những kiến thức chuyên môn mới và trao dồi kỹ năng hành nghề luật

trong môi trường hội nhập quốc tế;

Thứ ba, nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư về chuyên môn, nghiệp vụ,

chất lượng tranh tụng, dịch vụ tư vấn pháp luật cho cá nhân, cơ quan, tổ chức,

doanh nghiệp; đảm bảo 100% số lượng luật sư được đào tạo, bồi dưỡng về kỹ

năng hành nghề, đạo đức, ứng xử nghề nghiệp và tin học, ngoại ngữ.

Thứ tư, phát triển các tổ chức hành nghề luật sư phù hợp với nhu cầu của

xã hội về dịch vụ pháp lý, mang tính chuyên nghiệp cao, chuyên môn hóa theo

lĩnh vực. Đến năm 2020 có 1 đến 2 tổ chức hành nghề luật sư chuyên sâu trong

lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài, có khả năng tham

gia tranh tụng, đàm phán các vấn đề liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế, đáp

ứng nhu cầu pháp lý của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp.

Thứ năm, thực hiện biện pháp hỗ trợ phát triển nghề luật sư; tăng cường

công tác quản lý nhà nước về luật sự và hành nghề luật sư, công tác kiểm tra,

thanh tra, xử lý vi phạm đối với tổ chức, hoạt động luật sư; có hình thức khen

thưởng kịp thời cho các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư có thành tích và có

công đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hôi của địa phương.

Thứ sáu, thành lập tổ chức Đảng trong Đoàn Luật sư theo Chỉ thị số

33/CT/TW ngày 30/3/2009 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

đối với tổ chức và hoạt của luật sư nhằm phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức

đảng trong tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư.

3.2.2. Đối với cơ quan điều tra hình sự và các điều tra viên

Quá trình hoạt động của Cơ quan điều tra và các điều tra viên là hoạt động

tố tụng hình sự. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn do các Điều tra

viên của Cơ quan điều tra thực hiện. Tính chất và hiệu quả công việc đòi hỏi cần

trình độ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp thực tế của Điều tra viên hết sức

Trang 50

quan trọng. Trong thực tế còn một số hạn chế từ một ít điều tra viên nhận thức

chưa đầy đủ so với yêu cầu công việc được giao.

Để khắc phục những hạn chế đến mức thấp nhất có thể, phải kiện toàn lại

một số khâu trong tố tụng hình sự và quy định pháp luật phải tuân thủ:

- Thứ nhất, Viện kiểm sát cần chủ động phối hợp với Cơ quan điều tra

thực hiện tốt việc phân loại, thụ lý, giải quyết nguồn tin về tội phạm. Kiểm sát

viên trong công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, kịp thời phối

hợp với Cơ quan điều tra thu thập, đánh giá chứng cứ đầy đủ, khách quan, toàn

diện ngay từ khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm cần được chú trọng, nâng cao

tinh thần trách nhiệm thông qua hoạt động nghề nghiệp của mình; Trước khi phê

chuẩn các lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra cần được đánh giá thận trọng

các chứng cứ buộc tội cũng như chứng cứ gỡ tội

- Thứ hai, Kiểm sát viên chủ động phối hợp cùng với Điều tra viên nghiên

cứu các tài liệu xác minh ban đầu. Đối với các vụ việc phức tạp, có khó khăn

trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ thì phải cùng nghiên cứu, định hướng xác

minh, bổ sung chứng cứ, chú trọng thực hiện tốt chức năng công tố ngay từ khi

được phân công kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm.

- Thứ ba, Kiểm sát viên cần sớm ban hành yêu cầu kiểm tra xác minh

trong giai đoạn giải quyết tin báo và yêu cầu điều tra sau khi khởi tố vụ án. Yêu

cầu kiểm tra xác minh nguồn tin về tội phạm và Yêu cầu điều tra phải chi tiết, cụ

thể như yêu cầu lấy lời khai người làm chứng, người liên quan, người bị hại,

việc thu giữ vật chứng, dữ liệu điện tử… cần ghi rõ cụ thể về nội dung. Việc

chuyển biên bản, tài liệu điều tra của Cơ quan điều tra cho Viện kiểm sát và việc

dóng dấu bút lục xác nhận ngày nhận và sao lưu biên bản, tài liệu của Viện kiểm

sát phải được thực hiện theo quy định tại Khoản 5 Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình

sự. Kiểm sát viên và Điều tra viên thường xuyên trao đổi nội dung yêu cầu điều

Trang 51

tra, đánh giá chứng cứ, dự kiến các biện pháp điều tra tiếp theo.

- Thứ tư, Kiểm sát chặt chẽ việc ra Quyết định tạm đình chỉ của Cơ quan

điều tra, đảm bảo việc tạm đình chỉ phải có căn cứ theo quy định tại Khoản 1

Điều 229 Bộ luật Tố tụng hình sự, tránh việc lạm dụng các lý do không đúng để

tạm đình chỉ. Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra cần có sự trao đổi thống nhất

trước khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra (như việc đối

chiếu việc thực hiện nội dung yêu cầu điều tra, đánh giá chứng cứ giữa Kiểm sát

viên và Điều tra viên trước khi hết thời hạn điều tra theo quy định tại Điều 31

Thông tư liên tịch số 04 ngày 19/10/2018 giữa VKSND tối cao, Bộ Công an và

Bộ Quốc phòng).

- Thứ năm, Lãnh đạo đơn vị cần quan tâm chỉ đạo chặt chẽ đối với công

tác kiểm sát các vụ án tạm đình chỉ điều tra, đảm bảo việc điều tra đúng thời

hạn, tránh trường hợp một số nội dung chưa được thu thập, điều tra, xác minh

làm rõ nhưng Cơ quan điều tra đã quyết định tạm đình chỉ điều tra mà không

tiếp tục gia hạn thời hạn điều tra để điều tra.

- Thứ sáu, khi tiếp nhận quyết định tạm đình chỉ, Kiểm sát viên phải kiểm

tra chặt chẽ lý do tạm đình chỉ, căn cứ tạm đình chỉ, điều luật áp dụng cũng như

hình thức, nội dung và thẩm quyền ban hành; kịp thời phát hiện những thiếu sót,

mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án để yêu cầu Cơ quan điều tra làm rõ, tránh để xảy ra

vi phạm tố tụng dẫn đến áp dụng các căn cứ tạm đình chỉ không chính xác. Khi

thiết lập hồ sơ kiểm sát phải được trích cứu, phô tô lưu trữ đầy đủ các tài liệu tố

tụng, tài liệu chứng cứ quan trọng, biên bản họp (nếu có), báo cáo đề xuất của

Kiểm sát viên và ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo đơn vị.

- Thứ bẩy, Kiểm sát viên phải có biện pháp yêu cầu Cơ quan điều tra

thường xuyên tiến hành xác minh, kiểm tra nhân khẩu làm rõ việc bị can bỏ trốn

hay do đi làm ăn xa, hay có lý do khác, gia đình có thông tin gì không...trong

trường hợp không xác định được bị can đang ở đâu hoặc yêu cầu ra văn bản đề

Trang 52

nghị các cơ quan giám định, định giá, tương trợ tư pháp sớm có kết quả trong

trường hợp chậm trả lời kết quả theo yêu cầu.

3.3. Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự, một số giải pháp

- Luật sư được giáo dục chính trị tư tưởng và đạo đức nghề nghiệp luật sư

khi hành nghề

Luật sư nhận thức được một cách đầy đủ về nhiệm vụ, trách nhiệm của

mình trong quá trình đấu tranh bảo vệ công lý, bảo vệ trật tự pháp luật, xây dựng

nền pháp chế xã hội chủ nghĩa thông qua chương trình giáo dục chính trị tư

tưởng, đồng thời uốn nắn nhận thức lệch lạc về nghề của mình coi hành nghề

Luật sư chỉ đơn thuần là phương tiện kiếm sống như những nghề nghiệp khác

trong xã hội để từ đó đặt lợi ích kinh tế của cá nhân mình lên trên hết và từ đó

“kiếm tiền bằng mọi giá” mà vi phạm nghiêm trọng đạo đức nghề nghiệp. Luật

sư được giáo dục chính trị tư tưởng và đạo đức nghề nghiệp luật sư khi hành

nghề cho luật sư sẽ giúp luật sư xác định được phương châm hành động của

mình trên cơ sở ý thức được trách nhiệm của mình trong quá trình hoạt động

nghề nghiệp luôn đấu tranh bảo vệ lẽ phải, công bằng của xã hội.

- Quản lý đội ngũ Luật sư thành viên của mình

Như đã phân tích phía trên nghề luật sư là một nghề tự do, nhưng có tính

độc lập rất cao khi hoạt động nghề nghiệp. Vì vậy, trong công tác quản lý dựa

trên tinh thần thượng tôn pháp luật nhưng đảm bảo tính độc lập cho luật sư khi

hoạt động nghề nghiệp của mình, tổ chức luật sư là một tổ chức xã hội – nghề

nghiệp hoạt động trong khuôn khổ theo luật định.

Trong quá trình hoạt động nghề nghiệp, thực tế cho thấy cũng có một số

luật sư trong quá trình hoạt động nghề nghiệp của mình có những thái độ, hành

động không đúng, khi đưa ra các luận cứ bào chữa cho thân chủ của mình thiếu

Trang 53

cơ sở pháp lý, đôi khi là môi giới, tiếp tay cho việc chạy án, thậm chí – theo dư

luận xã hội hiện nay thì có những Luật sư chỉ giỏi môi giới, chạy án. Có luật sư

trong khi tiến hành hoạt động nghề nghiệp của mình, khi phản biện, tranh luận

thì làm qua loa cho có, không đúng trọng tâm vụ án, có luật sư thì thiếu văn hóa

pháp đình, thiếu tôn trong người tiến hành tố tụng, trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự thì luật sư thiếu tôn trong điều tra viên. Ban chủ nhiệm, Ban kỷ luật khen

thưởng của đoàn luật sư nếu làm đúng trách nhiệm, chức trách của mình thì tình

trạng nêu trên sẽ được chấm dứt, tất cả luật sư thành viên ý thức tốt trách nhiệm

của trách những vi phạm pháp luật cũng như vi phạm đạo đức nghề luật sư đáng

tiết xảy ra.

- Xây dựng quy chế phối hợp giữa tổ chức xã hội – nghề nghiệp của Luật

sư với cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan tiến hành tố tụng và các tổ chức

khác nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với Luật sư

Luật sư không phải là những người tiến hành tố tụng nhưng hoạt động tố

tụng không thể thiếu vắng luật sư

Sự có mặt của luật sư không chỉ do yêu cầu của đương sự… mà trong

nhiều trường hợp là do sự trưng cầu của Tòa án hoặc Viện kiểm sát hoặc do cơ

quan điều tra… Trong nhiều trường hợp, sự hiện diện của luật sư là bắt buộc,

không thể thiếu. Nếu thiếu vắng luật sư thì hoạt động tố tụng sẽ bị đình trệ, gián

đoạn, không tiến hành được.

Xuất phát từ đặc điểm và thuộc tính này, sự hỗ trợ, phối hợp, giúp đỡ lẫn

nhau để hoàn thành nhiệm vụ là điều không thể thiếu giữa những người hoạt

động tố tụng.

Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động, bản chất công việc của luật sư, mối

quan hệ giữa luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng chưa được nhận thức đầy

đủ, dẫn đến các quy định của pháp luật tố tụng chưa được thực hiện nghiêm

Trang 54

chỉnh và mối quan hệ làm việc có những trở ngại đáng tiếc.

Nguyên nhân của mặt yếu kém này có thể khẳng định xuất phát từ nhiều

phía:

Đối với cơ quan Công an, phần đông cán bộ công an có tâm lý dè dặt đối

với luật sư vì thường có suy nghĩ là có luật sư tham gia tố tụng sẽ trở ngại cho

công tác điều tra, dễ bị thông cung… Đây là nhận thức pháp luật chưa đúng và

là thành kiến cố hữu ở một bộ phận cán bộ công an…

Đối với Viện kiểm sát, tình hình có được cải thiện hơn, quan hệ giữa cán

bộ kiểm sát với luật sư thường thì cởi mở, tuy nhiên vẫn còn có tâm lý dè dặt,

bất hợp tác; ở một bộ phận nhỏ có tâm lý rằng luật sư là kẻ phá bĩnh, đối kháng

với Viện kiểm sát…

Đối với Toà án, do tham gia tố tụng tại tòa thường xuyên, nên quan hệ

giữa luật sư với cán bộ tòa án khá cởi mở… Tuy nhiên do đặc điểm trong thực tế

án thường được duyệt trước, nên thẩm phán có tâm lý ngại có luật sư sẽ mất

nhiều thời gian, nhất là trong tình trạng án quá tải như hiện nay… Do đó, không

phải lúc nào, vụ án nào, khi tham gia tố tụng, luật sư cũng được tạo điều kiện

thuận lợi, không phải mọi ý kiến phát biểu của luật sư được thẩm phán lắng

nghe, các đề xuất của luật sư được Tòa án xem xét giải quyết… Cá biệt, có

những trường hợp thẩm phán trong lúc xét xử đã thiếu kiềm chế, xúc phạm đến

luật sư, khiến người dự toà bất bình…

- Nâng cao vai trò công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho cán bộ,

công chức và nhân dân

Để công tác giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật có hiệu quả thì

chúng ta phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đi theo chiều

sâu. Tuyên tuyền phải đúng đối tượng, đúng trọng tâm để cho các đối tượng

được tuyên truyền nhận thức đúng, đồng thuận thì mọi việc sẽ thuận lợi, chấp

Trang 55

hành pháp luật tốt.

Trong tình hiện nay nước ta trên con đường hội nhập quốc tế, bước vào

sân chơi lớn của thế giới, nên việc tuân thủ pháp luật cũng như tăng cường đội

ngũ luật sư về số lượng cũng như chất lượng trong quá trình hội nhập, vì vậy

pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về Luật sư nói riêng đã không ngừng

hoàn thiện, sửa đổi bổ sung để tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển đội ngũ Luật

sư và nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ Luật sư. Đảng và Nhà nước ta đã

có mục tiêu đến năm 2020 trong chiến lược cải cách tư pháp là đất nước cần có

một đội ngũ Luật sư đạo đức và tài năng. Thời gian qua nói về hoạt động nghề

nghiệp luật sư của chúng ta nổi lên hai vấn đề chính đó là vấn đề đạo đức nghề

nghiệp và vấn đề nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của Luật sư.

Một số kiến nghị

Để thực hiện hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, Đoàn luật sư tỉnh Quảng

Ngãi có những kiến nghị sau

- Đề nghị thống nhất sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên từ trên xuống để

Cơ quan tiến hành tố tụng triển khai thực hiện nghiêm các quy định của Bộ luật

tố tụng hình sự và các Thông tư hướng dẫn của Bộ công an,… tạo điều kiện để

Luật sư hành nghề theo đúng chức năng nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao phó,

tham gia tố tụng đúng quy định pháp luật, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ chế

độ, bảo vệ nhân dân, góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp mà Đảng ta đã đề

ra.

- Các buổi giao ban của các ban ngành tư pháp cần có đại diện Đoàn luật

sư tham dự để nắm bắt tình hình và triển khai thực hiện có hiệu quả tốt nhất.

- Đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tạo mọi điều kiện về tài chính

cho Đoàn luật sư thực hiện chức năng tuyên truyền phổ biết pháp luật sau rộng

trong nhân dân, trợ giúp pháp lý cho đối tượng chính sách, người có công với

Trang 56

nước.

Một số giải pháp và kiến nghị phía trên của tác giả hoạt động bào chữa

của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói về pháp lý của luật sư bào

chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Hy vọng với các giải pháp này,

trong thời gian tới vị trí, vai trò của luật sư trong vụ án hình sự ở tỉnh Quảng

Ngãi nói riêng và trong cả nước nói chung được nâng cao vị thế trong quá trình

tham bào chữa từ giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

Trang 57

Kết luận chương 3

Trên cơ sở các nguyên nhân dẫn đến tồn tại và những khó khăn, vướng

mắc của Luật sư trong quá trình hoạt động bào chữa ở giai đoạn điều tra vụ án

hình sự tại tỉnh Quảng Ngãi trong chương này. Đưa ra một số giải pháp cụ thể

nhằm nâng cao địa vị pháp lý của Luật sư bào chữa trong thời gian tới. Gồm các

giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật, hoàn thiện tổ chức của Đoàn

luật sư và cá nhân Luật sư thành viên, các giải pháp liên quan đến cơ quan quản

lý Nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng hình sự và người tiến hành tố tụng hình

sự, các giải pháp khác như giải pháp nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân.

Chiến lược xây dụng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm

2010, định hướng đến năm 2020 thì ngày 24/5/2005 Bộ Chính trị đã ban hành

Nghị quyết số 48-NQ/TW và ngày 02/6/2005 ban hành Nghị quyết số 49/NQ-

TW. Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đòi hỏi việc xây dựng một hệ

thống pháp luật hoàn thiện là một nhiệm vụ cấp bách và đang được chúng ta

khẩn trương thực hiện. Theo đó, pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư, quy

định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể bào chữa ngày càng đầy đủ, chặt chẽ;

quy định về thủ tục đăng ký tham gia tố tụng. Những văn bản pháp luật liên

quan đến Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành cũng cần được sửa đổi, bổ sung theo

hướng tạo điều kiện thuận lợi và nhanh chóng là cơ sở pháp lý quan trọng để vai

trò luật sư bào chữa trong vụ án hình sự đặc biệt là trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự thực hiện hoạt động bào chữa của minh theo quy định của Bộ luật tố

tụng hình sự năm 2015.

Tuy nhiên, qua thực tế nghiên cứu đồng thời với tư cách là người bào

chữa trong các vụ án hình sự ngay từ giai đoạn điều tra, tác giả nhận thấy rằng,

các quy định của pháp luật hiện hành được áp dụng trong thực tiễn vẫn còn

nhiều bất cập, là rào cản trong quá trình hoạt đông bào chữa cho luật sư khi thực

Trang 58

hiện công việc của mình.

KẾT LUẬN

Như vậy, vai trò và địa vị pháp lý trong hoạt động bào chữa của luật sư từ giai

đoạn điều tra vụ án hình sự là rất quan trọng và cần thiết. Luật sư bào chữa trong

hoạt động tố tụng hình sự từ giai đoạn điều tra vụ án hình sự không những bào chữa

cho thân chủ của mình trong giai đoạn đó mà còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

cho thân chủ trong giai đoạn đó và tiếp theo. Giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng

giải quyết vụ án hình sự được khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đó

là mục tiêu của Đảng, Nhà nước ta đặt ra trong công cuộc cải cách tư pháp nhằm

xây dựng Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền Xã Hội Chủ Nghĩa dân chủ, công

bằng, dân chủ và văn minh

Trong kỳ mở rộng hợp tác quốc tế và sự phát triển vượt bậc ở nước ta hiện

nay, bên cạnh các yếu tố tích cực mang lại, vẫn còn những tồn đọng và ẩn chứa

những tiềm tang những yếu tố tiêu cực. Hành vi vi phạm pháp luật vẫn có xu hướng

ngày một gia tăng cả về số vụ và tính chất nguy hiểm cho xã hội. Do đó nhu cầu cần

được hỗ trợ về mặc pháp lý của tầng lớp trong xã hội ngày một tăng lên. Vì vậy, vai

trò của Luật sư ở mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội trở nên cần thiết và quan trọng

hơn bao giờ hết.

Chính vì vậy, việc nâng cao địa vị pháp lý của người bào chữa trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng và luật sư bào chữa trong vụ án hình sự nói

chung trong tố tụng hình sự là một nhu cầu cấp thiết. Từ đó cũng đòi hỏi sự quan

tâm, nhìn nhận đúng mức từ các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Riêng đối với

bản thân Luật sư cũng nâng cao kiến thức nghề nghiệp, ý thức pháp luật, ý thức xã

hội để xứng đáng kỳ vọng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân đặt ra.

Qua công tác nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong hoat động

bào chữa từ giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi. Tác giả đã

Trang 59

tập trung làm rõ:

- Các khái niệm cơ bản về Luật sư, bào chữa, nghề luật sư, nghề luật sư, vai

trò Luật sư, hoat động của Luật sư trong gian đoạn điều tra vụ án hình sự. Luật sư có

vị trí như thế nào trong từng giai đoạn vụ án hình sự, quy định quyền và nghĩa vụ

của luật sư.

- Thông qua quá trình nghiên cứu về thực tiễn hoạt động của Luật sư trong

giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi trong 05 năm từ 2014

– 2018, tác giả bằng các số liệu cụ thể để đánh giá và phân tích sự tham gia bào

chữa của Luât sư từ giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Từ đó làm rõ những khó khăn,

thuận lợi, bất cập trong quá trình hoạt động bào chữa của các Luật sư. Và đưa ra

những khó khăn hạn chế đó.

Trên cơ sở những nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại và những kho khăn, vướng

mắc của Luật sư bào chữa trong quá trình hoạt động bào chữa của mình trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi, tác giả đã đưa ra các giải

hoàn thiện các quy định của pháp luật, hoàn thiện tổ chức của Đoàn luật sư và cá

nhân Luật sư thành viên, các giải pháp liên quan đến cơ quan quản lý Nhà nước,

cơ quan tiến hành tố tụng hình sự và người tiến hành tố tụng hình sự, các giải

pháp khác như giải pháp nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, giải pháp chế

tài như Luật bồi thường trách nhiệm của Nhà nước. Nhằm nâng cao địa vị pháp

lý của Luật sư bào chữa trong quá trình tác nghiệp đối với vụ án hình sự trên địa

bàn tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, góp phần công sức tạo nên vị thế của hoạt động

bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, là một trong những

việc làm góp phần bảo vệ công, bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Trang 60

trong thời gian tới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp trung ương (2016), Báo cáo tổng kết

năm 2016 thực hiện nghị quyết số 49/NQ-TW về chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020, Hà Nội.

2. Bách khoa Toàn thư mở Wikipedia

3. Phan Trung Hoài, Bàn về khái niệm và đặc điểm của nghề luật sư,

Tạp chí khoa học pháp lý, số 7/2002.

3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

4. Bộ Công an (2011), Thông tư số 70/2011/TT-BCA ngày

10/10/2011 của Bộ Công an hướng dẫn quy định của Bộ luật tố tụng hình

sự.

5. Bộ Công an (2014), Thông tư số 28/2014/TT-BCA ngày

07/7/2014 của Bộ Công an quy định về công tác điều tra hình sự trong

Công an nhân dân.

6. Bộ Tư pháp (2012), Báo cáo số 46/BC-BTP ngày 06/3/2012 về

tổng kết 5 năm thi hành Luật luật sư, Hà Nội.

7. Cục Cảnh sát điều tra, Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an (2014),

“Thực trạng tình hình và những giải pháp nhằm hạn chế oan, sai trong công

tác bắt, giam giữ, điều tra, xử lý tội phạm ở Công an cấp quận, huyện, thị

xã, thành phố thuộc tỉnh”, Đề tài cấp Bộ, Hà Nội.

8. Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ngãi (2018), Báo cáo tổng kết 20 năm

xây dựng và phát triển của Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ngãi, nhiệm vụ trọng

tâm của Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn 2013-2018, Quảng

Trang 61

Ngãi.

9. Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ngãi (2018), Báo cáo tổng kết hàng năm

- năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018, Quảng Ngãi.

10 Đoàn luật sư thành phố Hà Nội (2018), Báo cáo tổng kết nhiệm

kỳ đến năm 2018, Quảng Ngãi.

11. Lê Minh Đức (2016), “Phát huy vai trò của luật sư trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự”, Tạp chí Luật sư Việt Nam, dẫn theo

http://liendoanluatsu.org.vn/web/phat-huy-vai-tro-cua-luat-su-trong-giai-

doan-dieu-tra-vu-an-hinh-su-773.html, truy cập ngày 19/07/2016.

12. Phạm Hồng Hải (2004), “Những điểm mới về trách nhiệm, nghĩa

vụ của người bào chữa trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí

Nhà nước và Pháp luật, số 5, tr.12-15.

13. Phạm Hồng Hải, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam

(2012), “Bàn về sự tham gia của người bào chữa trong giai đoạn điều tra”,

Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3, tr.12-17.

14. Phan Trung Hoài (2004), Hoàn thiện các quy định của pháp luật

về sự tham gia của Luật sư từ giai đoạn điều tra và quyết định truy tố, Tạp

chí Kiểm sát, số 7, tr.12-19.

15. Phan Trung Hoài (2007), “Vấn đề hoàn thiện pháp luật về luật sư

ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Phan Trung Hoài (2009), Hành nghề luật sư trong vụ án hình sự,

Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

17. Phan Trung Hoài (2013), “Một giấy bào chữa xuyên suốt tố

tụng”; Báo luatnet.Mạng pháp luật Việt Nam ngày 03/8/2013

(www.phapluattttp.vn), Hà Nội.

Trang 62

18. Nguyễn Viết Hoạt (2007), “Bản chất của hoạt động điều tra trong

tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa học pháp luật số 3(40)/2007, tr.10-15.

19. Học viện Tư pháp (2011), Giáo trình kỹ năng giải quyết vụ án

hình sự, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

20. Vũ Huy Khánh (2013), Luận án tiến sĩ đề tài: “Bảo đảm quyền

bào chữa của người bị tạm giữ, bị can trong điều tra vụ án hình sự”, Học

viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

21. Nguyễn Đăng Khoa (2008), Luận văn thạc sĩ đề tài: “Vai trò của

luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự”, Học viện Khoa học xã hội,

Hà Nội.

22. Bùi Phương Lan (2015), Luận văn thạc sĩ đề tài: “Vai trò của

người bào chữa trong giai đoạn điều tra, truy tố vụ án hình sự từ thực tiễn

thành phố Hà Nội”, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

23. Liên đoàn luật sư Việt Nam (2012), Tài liệu hội thảo tổng kết

đánh giá kết quả thi hành Thông tư 70/2011/TT-BCA của Bộ Công an quy

định về công tác điều tra hình sự trong Công an nhân dân, Hà Nội.

24. Liên đoàn Luật sư Việt Nam (2015), Báo cáo số 01/2015/BC-

BVQLLS ngày 18/01/2015 về kết quả làm việc với các cơ quan có thẩm

quyền của thành phố Tuy Hòa và tỉnh Phú Yên liên quan việc kiến nghị xử

lý vi phạm của luật sư Võ An Đôn và ý kiến về kế hoạch thanh tra của Sở

Tư pháp đối với hoạt động VPLS Võ An Đôn (Đoàn luật sư Tỉnh Phú Yên).

25. Liên đoàn luật sư Việt Nam (2016), Báo cáo nhiệm kỳ đến năm

2016, Hà Nội.

26. Luật sư Việt Nam (2013), “Triển vọng và thách thức”, Thông tấn

xã Việt Nam, Hà Nội.

Trang 63

26. Trần Đình Nhã (1995), Về tổ chức Cơ quan điều tra, Kỷ yếu đề

tài khoa học cấp Bộ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.

27. Nghĩa Nhân (2013), “Luật sư bị làm khó... chuyện bình thường”;

báo luatnet.mang phap luat viet nam ngày 10/7/2013; www.phapluattp.vn

27. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1999), Từ điển luật học, Hà

Nội.

28. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2001), Bộ luật tố tụng hình sự

năm 1988, Hà Nội.

29. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2002), Bộ luật hình sự năm

1999, Hà Nội.

30. Nhà xuất bản Dân trí (2016), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,

Hà Nội

31. Nhà xuất bản Đại học quốc gia, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà

Nội (2001), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Hà Nội.

32. Nhà xuất bản Lao động xã hội (2014), Hiến pháp nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 1946 -1959 - 1980 - 1992 - 2013, Hà Nội.

33. Nhà xuất bản Tư pháp (2004), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003,

Hà Nội.

34. Nguyễn Thái Phúc (2007), “Sự tham gia bắt buộc của người bào

chữa trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4, tr.21-26.

35. Hoàng Thị Sơn (2000), “Về khái niệm quyền bào chữa và việc

bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo”, Tạp chí Luật học, số 05, tr.13-

17.

36. Hoàng Thị Minh Sơn (2009), “Những hạn chế trong việc thực

Trang 64

hiện quyền bào chữa của người vị tạm giữ, bị can, bị cáo”, Tạp chí Luật

học, số 10, tr.12-17.

37. Duy Thanh - M.Quang (2014), “Chủ tịch nước yêu cầu xử

nghiêm vụ “dùng nhục hình””, Báo tuổi trẻ ngày 10/04/2014.

38. Tòa án nhân dân tối cao (2016), Báo cáo công tác nhiệm kỳ đến

năm 2016, Hà Nội.

39. Tòa án nhân dân tối cao (2016), Báo cáo tổng kết năm 2012,

2013, 2014, 2015, 2016.

40. Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm (2016), Báo cáo về

tình hình công tác phòng chống tội phạm năm 2012, 2013, 2014, 2015,

2016, Hà Nội.

41. Đặng Trung - Chân Luận (2015), Báo Pháp luật Thành phố Hồ

Chí Minh 12/01/2015, Án oan sai ngày càng gia tăng và phức tạp,

http://plo.vn/thoi- su/an-oan-sai-ngay-cang-gia-tang-va-phuc-tap-

523766.html , truy cập ngày 10/8/2016.

42. Nguyễn Văn Tuân (2006), “Hoàn thiện thể chế luật sư trong điều

kiện cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số

8, tr.1-6.

43. Đào Tuấn (2015), “Thấy gì qua cái kết vụ đòi “trảm” luật sư

Đôn?”, Báo Lao động, ngày 24/01/2015.

44. Phạm Thị Hồng Vân (2014), Luận văn thạc sĩ đề tài: “Vai trò của

luật sư trong việc bảo vệ quyền con người theo pháp luật tố tụng hình sự

Việt Nam”, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

45. Viện kiểm sát nhân dân tỉn Quảng Ngãi (2018), Báo cáo tổng kết

công tác năm 2014, 2015, 2016, 2017 và 2018, Quảng Ngãi.

Trang 65

46. Từ điển Tiếng việt Thông dụng, NXB Đà Nẳng năm 2009

47. Võ Khánh Vinh (2015), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình

sự, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

48. Võ Khánh Vinh (2014), Quyền con người, Học viện Khoa học xã

Trang 66

hội, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.