BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

  

TRẦN NGUYỄN NHƯ ANH

NGHIÊN CỨU

VĂN HÓA AN TOÀN NGƯỜI BỆNH

TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ PHÁT TRIỂN

MÃ SỐ: 60310105

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. PHẠM KHÁNH NAM

TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2015

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC HÌNH

TÓM TẮT

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI ........................................................................................................ 1

1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................ 1

1.2. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI .................................................................... 2

1.3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ........................................................................... 2

1.3.1. Mục tiêu tổng quát ....................................................................... 2

1.3.2. Mục tiêu cụ thể: ........................................................................... 3

1.4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU .................................................... 3

1.5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................................... 3

1.6. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI ............................................................................... 4

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ................................................................................................................ 5

2.1 AN TOÀN NGƯỜI BỆNH ............................................................................. 5

2.2. VĂN HÓA AN TOÀN NGƯỜI BỆNH ............................................................ 9

2.3.1 Định nghĩa ..................................................................................... 9

2.3.2 Lược khảo các nghiên cứu về Khảo sát văn hóa an toàn người

bệnh sử dụng bộ câu hỏi HSOPSC ....................................................... 11

NGƯỜI VÀ KINH TẾ DO SAI SÓT Y KHOA VÀ LỖI HỆ THỐNG ...................... 12

2.4. MỐI LIÊN HỆ GIỮA AN TOÀN NGƯỜI BỆNH VÀ NHỮNG THIỆT HẠI VỀ

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................................................. 15

3.1. KHUNG PHÂN TÍCH ................................................................................. 15

3.2. THANG ĐO NGHIÊN CỨU ......................................................................... 16

TOÀN NGƯỜI BỆNH THEO CÁC ĐẶC ĐIỂM CHỨC DANH NGHỀ NGHIỆP, CHỨC

VỤ, THỜI GIAN CÔNG TÁC TẠI BỆNH VIỆN VÀ THU NHẬP .......................... 16

3.3. MÔ HÌNH KIỂM ĐỊNH SỰ KHÁC BIỆT CỦA CÁC THÀNH PHẦN VĂN HÓA AN

3.4. DỮ LIỆU ......................................................................................................................................... 21

3.4.1 Các định nghĩa về dữ liệu ............................................................. 21

3.4.2 Số mẫu .......................................................................................... 22

3.4.3 Phương pháp tiến hành ................................................................ 22

CHƯƠNG 4 : TỔNG QUAN VỀ VĂN HÓA AN TOÀN NGƯỜI BỆNH TẠI

BỆNH VIỆN TỪ DŨ ............................................................................................. 24

4.1 Giới thiệu Bệnh viện Từ Dũ ................................................................... 24

4.2 HOẠT ĐỘNG AN TOÀN NGƯỜI BỆNH TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ ................... 26

CHƯƠNG 5: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN ................................................................................. 31

5.1 MÔ TẢ MẪU: ........................................................................................... 31

PHÁP PHÂN TÍCH NHÂN TỐ KHÁM PHÁ (EFA) VÀ KIỂM ĐỊNH ĐỘ TIN CẬY

BẰNG PHÉP KIỂM CRONBACH’S ALPHA .................................................... 36

5.2. ĐÁNH GIÁ THANG ĐO VĂN HÓA AN TOÀN NGƯỜI BỆNH BẰNG PHƯƠNG

VIỆN .......................................................................................................... 42

5.3 THỐNG KÊ MÔ TẢ XÁC ĐỊNH VĂN HÓA AN TOÀN NGƯỜI BỆNH CỦA BỆNH

5.4. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH HỒI QUI ................................................................. 53

5.5. TÓM TẮT CHƯƠNG 5 .............................................................................. 58

CHƯƠNG 6: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH ........................................................................................ 60

6.1. TÓM LƯỢC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................. 60

6.2. CÁC KHÁM PHÁ CHÍNH CỦA NGHIÊN CỨU .............................................. 60

6.3. HÀM Ý CHÍNH SÁCH ............................................................................... 61

6.4. HẠN CHẾ CỦA NGHIÊN CỨU VÀ HƯỚNG MỞ RỘNG ................................. 62

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Nội dung

Chữ viết tắt

Agency for Healthcare Research and Quality AHRQ

An toàn người bệnh ATNB

Bệnh nhân BN

Bệnh viện BV

Deoxyribo Nucleic Axit DNA

Exploratory Factor Analyses EFA

Human Papilloma Virus HPV

HSOPSC Hospital Survey on Patient Safety Culture

Institute of Medicine IOM

Kỹ thuật truyền tải thông tin quan trọng bao gồm ISBAR

Introduction

Situation

Background

Assessment

Reccomendation

Multi Linear Regression MLR

Magnetic Resonance Imaging MRI

Seemingly Unrelated Regression SUR

Sở Y Tế SYT

TP. HCM Thành phố Hồ Chí Minh

1

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.5.1 Tỉ lệ tai biến tại các nước phát triển .............................................................................. 13

Bảng 3.3 Mô tả các biến trong mô hình Hồi qui dường như không liên quan ................................ 18

Bảng 5.1 Số lượng nhân viên theo khối ........................................................................................... 32

Bảng 5.2 Chức danh nghề nghiệp .................................................................................................... 32

Bảng 5.3 Thời gian công tác tại Bệnh viện ...................................................................................... 33

Bảng 5.4 Thời gian công tác tại Khoa/Phhòng ................................................................................ 34

Bảng 5.5 Công việc trực tiếp tiếp xúc với người bệnh..................................................................... 34

Bảng 5.6 Chức vụ tại khoa/phòng .................................................................................................... 31

Bảng 5.7 Thu nhập ........................................................................................................................... 35

Bảng 5.8 Đánh giá thang đo............................................................................................ ...36

Bảng 5.9 Phân độ An toàn người bệnh ............................................................................................ 41

Bảng 5.10 Quan điểm tổng quát về An toàn người bệnh ................................................................ 41

Bảng 5.11 Tần suất ghi nhận sự cố/sai sót/lỗi .................................................................................. 42

Bảng 5.12 Tần suất sự cố/sai sót/lỗi được báo cáo .......................................................................... 43

Bảng 5.13 Quan điểm và hành động về an toàn người bệnh của người quản lý .............................. 44

Bảng 5.14 Tính cải tiến liên tục và học tập một cách hệ thống........................................................ 45

Bảng 5.15 Làm việc theo ê kíp trong Khoa/phòng ......................................................................... 45

Bảng 5.16 Trao đổi cởi mở .............................................................................................................. 46

Bảng 5.17 Phản hồi và trao đổi về sai sót/lỗi ................................................................................... 47

Bảng 5.18 Không trừng phạt khi có sai sót/lỗi…………………………………………….48

Bảng 5.19 Nhân sự ........................................................................................................................... 50

Bảng 5.20 Hỗ trợ về quản lý cho An toàn người bệnh ..................................................................... 50

Bảng 5.21 Làm việc theo ê kíp giữa các Khoa/phòng ..................................................................... 51

Bảng 5.22 Bàn giao và chuyển tiếp ................................................................................................. 52

Bảng 5.23 Kết quả phân tích hồi qui ................................................................................................ 54

2

DANH MỤC HÌNH

Hình 3.1 Khung phân tích ................................................................................................................ 15

Hình 4.1. Sơ đồ hoạt động Ban An toàn người bệnh ........................................................................ 28

Hình 5.4 Khung phân tích – Mô hình sau hiệu chỉnh ....................................................................... 53

1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI

1.1. Đặt vấn đề

Hàng năm có khoảng 44.000 đến 98.000 trường hợp tử vong và một triệu

thương tổn liên quan đến sai sót y khoa, cao hơn hẳn so với số tử vong do tai nạn

giao thông (43.458), ung thư vú (42.297), và bệnh AIDS (16.516) (IOM, 1999).

Dựa trên các báo cáo thống kê của các nước, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã tổng

kết, trong 10 người bệnh nhập viện thì có một bệnh nhân gặp phải sự cố y khoa, và

trong 300 sự cố có một sự cố đặc biệt nghiêm trọng dẫn đến tử vong (Nieva, 2003).

So sánh với nguy cơ tử vong do tai nạn máy bay thì tỉ lệ chỉ là 1/10.000.000 hành

khách, do vậy người bệnh khi nhập viện phải chấp nhận khả năng rủi ro cao hơn

gấp nhiều lần so với chọn lựa đi lại bằng đường hàng không. Cox (1999) nhận định

“Nằm viện nguy hiểm hơn nhiều so với đi máy bay”.

Bên cạnh đó, hậu quả của các sự cố y khoa không mong muốn làm cho người

bệnh phải nằm viện kéo dài và tăng phí tổn điều trị như ở Anh tổn thất 800.000.000

bảng Anh hàng năm; Mỹ 19,5 tỷ USD/năm và Châu Âu từ 13 đến 24 tỷ Euro/năm

(Famolaro, 2012). Tình hình này tại các nước đang phát triển thì sao? Dù chưa có

những dữ liệu thống kê công bố nhưng dựa trên những khó khăn về hạ tầng, trang

thiết bị, nhân lực, hoặc chất lượng thuốc. Tổ chức Y tế thế giới cũng dự báo chắc

chắn rằng chúng ta không tránh khỏi những con số biết nói nêu trên, thậm chí là có

thể tỉ lệ này cao hơn hẳn. Tuy nhiên, qua việc tổng hợp dữ liệu từ các công trình

nghiên cứu về sai sót – sự cố y khoa, cũng như tai biến điều trị tại các bệnh viện

thuộc các nước phát triển cho thấy tỉ lệ tai biến điều trị tính trên tổng số bệnh nhân

nhập viện dao động từ 3,2 đến 16,6 trong đó hơn 50 các sự cố là có thể ngăn

ngừa được.

Trước tình hình đó, WHO (2001) đã đưa ra quan điểm an toàn người bệnh

nhằm phòng ngừa các sai sót có thể gây nguy hại cho người bệnh trong quá trình

điều trị và chăm sóc. Họ cũng đưa ra các khuyến cáo cũng như các giải pháp an

toàn người bệnh nhưng các giải pháp này vẫn chưa mang lại hiệu quả mong muốn.

2

Thách thức lớn nhất để hướng đến một hệ thống y tế an toàn chính là sự thay

đổi từ nền văn hóa trừng phạt cá nhân phạm lỗi thành nền văn hóa an toàn; trong đó

lỗi không được xem là thất bại của cá nhân mà là cơ hội để cải tiến hệ thống và

phòng ngừa hậu quả (IOM, 1999). Văn hóa an toàn của một tổ chức là sản phẩm giá

trị của cá nhân và nhóm – là thái độ, nhận thức, năng lực, và hành vi quyết định sự

cam kết, định hình phong cách và trình độ quản lý tổ chức y tế. Tổ chức nào có nền

văn hóa an toàn thì ở đó thông tin liên lạc được xây dựng trên sự tin tưởng, mọi

người nhận thức về tầm quan trọng của an toàn, và độ tin cậy tính hiệu quả của các

biện pháp phòng ngừa (AHRQ, 2004). Do vậy, việc thiết lập văn hóa an toàn người

bệnh trong thực hành y khoa được xem là bước ngoặc quan trọng trong cải thiện

môi trường chuyên môn và nâng cao chất lượng chăm sóc điều trị.

Vậy liệu tại Bệnh viện Từ Dũ là bệnh viện chuyên khoa hạng nhất trực

thuộc Sở Y Tế Thành phố Hồ Chí Minh, được Bộ Y Tế giao trọng trách chỉ đạo

tuyến cho 32 tỉnh và thành phố phía Nam, với lịch sử hơn 90 năm xây dựng và phát

triển với qui mô 1.700 giường, hơn 2.400 nhân viên thì văn hóa an toàn người bệnh

đã được thực hiện như thế nào? Yếu tố nào tác động đến văn hóa an toàn người

bệnh để từ đó có cơ sở đề xuất giải pháp cải tiến. Xuất phát từ nhu cầu này, tác giả

tiến hành nghiên cứu “Văn hóa an toàn người bệnh tại Bệnh viện Từ Dũ”.

1.2. Tính cấp thiết của đề tài

Đề tài sẽ phác thảo bức tranh toàn cảnh về văn hóa an toàn người bệnh tại

Bệnh viện, và lý giải các yếu tố tác động đến văn hóa an toàn người bệnh nhằm

giúp nâng cao văn hóa an toàn người bệnh của nhân viên y tế công tác tại Bệnh viện

Từ Dũ.

1.3. Mục tiêu nghiên cứu

1.3.1. Mục tiêu tổng quát

Phân tích văn hóa an toàn người bệnh tại Bệnh viện Từ Dũ từ tháng 10/2014

đến tháng 3/2015.

3

1.3.2. Mục tiêu cụ thể:

Mục tiêu cụ thểt thứ nhất là đánh giá văn hóa an toàn người bệnh bằng bộ

câu hỏi khảo sát văn hóa an toàn người bệnh với phiên bản dùng tại bệnh viện có

tên là Hospital Survey on Patient Safety Culture (HSOPSC) của Cơ quan chất lượng

và nghiên cứu sức khỏe Hoa Kỳ (AHRQ) tại bệnh viện Từ Dũ.

Mục tiêu cụ thể thứ hai là kiểm định sự khác biệt về văn hóa an toàn người

bệnh tại Bệnh viện Từ Dũ theo các yếu tố chức danh nghề nghiệp, chức vụ, thâm

niên công tác tại Bệnh viện và mức thu nhập của nhân viên bệnh viện gồm Bác sĩ,

nữ hộ sinh/điều dưỡng, dược sĩ, kỹ thuật viên, hộ lý, hoặc nhân viên hành chính.

1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng khảo sát là nhân viên đang công tác tại Bệnh viện Từ Dũ từ 6

tháng trở lên và tự nguyện tham gia vào nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu khảo sát

12 thành phần văn hóa an toàn người bệnh. Dữ liệu nghiên cứu lấy từ bản câu hỏi

được khảo sát trực tiếp từ nhân viên bệnh viện.

Thời gian nghiên cứu từ 10/2014 đến 03/2015.

1.5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng qua kết quả khảo sát

2.118 nhân viên bệnh viện bằng cách phỏng vấn bộ câu hỏi HSOPSC. Phương pháp

thống kê mô tả nhằm xác định thực trạng văn hóa an toàn người bệnh tại bệnh viện

Từ Dũ, từ đó làm nền tảng giúp hỗ trợ cho kết quả của phương pháp định lượng.

Qua đó tác giả xây dựng hàm hồi qui dường như không liên quan (Seemingly

Unrelated Regression – SUR) với biến phụ thuộc là văn hóa an toàn người bệnh, các

biến độc lập (biến giải thích) là các yếu tố chức danh nghề nghiệp, chức vụ, thời

gian công tác tại bệnh viện và mức thu nhập. Tác giả sử dụng phương pháp phân

tích nhân tố khám phá (Exploratory Factor Analyses - EFA) và phép kiểm

Cronbach’s Alpha để kiểm định giá trị, độ tin cậy của bộ câu hỏi, và xây dựng biến

số văn hóa an toàn người bệnh; phân tích số liệu với phần mềm xử lý thống kê

Stata12.

4

1.6. Kết cấu của đề tài

Đề tài nghiên cứu được tác giả trình bày gồm 6 chương. Chương 1 trình bày

tổng quan về đề tài. Chương 2 trình bày cơ sở lý thuyết. Chương 3 trình bày về

phương pháp nghiên cứu. Chương 4 tổng quan về văn hóa An toàn người bệnh tại

Bệnh viện Từ Dũ. Chương 5 trình bày về kết quả nghiên cứu và bàn luận. Cuối

cùng là Chương 6 trình bày kết luận nghiên cứu, đề xuất giải pháp, hướng mở rộng

nghiên cứu và những hạn chế của đề tài.

5

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Chương này, tác giả trình bày các khái niệm về an toàn người bệnh, văn hóa an toàn người bệnh, và tầm quan trọng của an toàn người bệnh với những mối liên

hệ mật thiết với con người và hệ thống. Phần lược khảo các nghiên cứu liên quan sẽ

được trình bày lồng ghép vào các phần trên.

2.1. An toàn người bệnh

Tai biến (Adverse event) là sự cố gây nguy hại cho bệnh nhân ngoài ý muốn,

xảy ra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chăm sóc người bệnh chứ không phải do

bệnh lý hoặc cơ địa bệnh nhân gây ra. Tai biến điều trị được phân thành 3 mức độ

như sau: thứ nhất là nhóm tai biến nặng đòi hỏi người bệnh phải được cấp cứu hoặc

phải can thiệp sâu về điều trị nội khoa/ngoại khoa, gây mất chức năng vĩnh viễn

hoặc gây tử vong cho người bệnh; thứ hai là nhóm tai biến trung bình đòi hỏi can

thiệp điều trị, kéo dài thời gian nằm viện, và ảnh hưởng đến chức năng lâu dài, và

cuối cùng là nhóm tai biến nhẹ, người bệnh tự hồi phục, chỉ cần điều trị tối thiểu

hoặc không cần điều trị.

Sự cố suýt xảy ra (Near miss) là sự cố có khả năng gây nguy hại cho người

bệnh nhưng đã không xảy ra do may mắn có hành động sữa chữa hoặc can thiệp kịp

thời. Sai sót là thất bại trong việc thực hiện một hành động đã được lập kế hoạch dự

kiến hoặc áp dụng kế hoạch sai hay có sự khác biệt giữa những gì làm được trong

thực tế và những gì lẽ ra phải ra làm được (Runciman B, 2007). Sai sót cũng được

phân loại như sau, bao gồm sai sót chủ động (active error) là sai sót xảy ra trong quá

trình trực tiếp chăm sóc bệnh nhân; sai sót tiềm ẩn (latent error) liên quan đến các

yếu tố của môi trường chăm sóc tạo điều kiện thuận lợi cho sai sót chủ động dễ xảy

ra.

Sức khỏe là trạng thái khỏe mạnh về thể chất, tâm thần và xã hội, chứ không

chỉ là không mắc bệnh hoặc ốm yếu. Chăm sóc sức khỏe là các dịch vụ mà cá nhân

và cộng đồng nhận được để nâng cao, duy trì, giám sát hoặc phục hồi sức khỏe.

6

An toàn người bệnh là sự phòng ngừa các sai sót có thể gây nguy hại cho

người bệnh trong quá trình điều trị và chăm sóc (WHO, 2001). An toàn người bệnh

là một chuyên ngành trong lĩnh vực y tế, áp dụng các phương pháp an toàn nhằm

hướng đến mục đích xây dựng một hệ thống cung ứng dịch vụ y tế đáng tin cậy

(AHRQ, 2004). An toàn người bệnh còn là một thuộc tính của ngành y tế, nó tối

thiểu hóa các sự cố và tối đa hóa sự phục hồi từ các sự cố. An toàn người bệnh ngày

nay được xem là một môn học trong khoa học quản lý bao gồm các nguyên lý chính

về an toàn người bệnh như sau, cách tiếp cận hệ thống, văn hóa không buộc tội, tư

duy yếu tố con người vào môi trường làm việc tạo nên một hệ thống khó mắc lỗi và

văn hóa an toàn người bệnh.

Nguyên lý tiếp cận hệ thống, hệ thống là một thuật ngữ được dùng để mô tả

bất kỳ tập hợp nào gồm hai hoặc nhiều thành phần tương tác với nhau, hoặc “một

nhóm sự vật/thành phần độc lập tạo thành một thể thống nhất (WHO, 2011). Công

tác chăm sóc sức khỏe là một hệ thống phức tạp, vì chăm sóc y tế hiếm khi do một

cá nhân thực hiện mà nó phụ thuộc lẫn nhau giữa các nhân viên y tế (Washington,

2005). Chăm sóc người bệnh an toàn và hiệu quả phụ thuộc không chỉ vào kiến

thức, kỹ năng và hành vi của các nhân viên y tế trực tiếp điều trị cho bệnh nhân, mà

cả vào cách thức các nhân viên đó hợp tác và liên lạc với nhau trong môi trường

làm việc. Nói cách khác, bệnh nhân phụ thuộc vào việc nhiều người làm đúng việc

và đúng thời điểm. Tức là họ phụ thuộc vào hệ thống chăm sóc.

Không những vậy, chăm sóc y tế còn là hoạt động rất phức tạp do sự đa

dạng của các nhiệm vụ liên quan đến cung ứng chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân,

sự đa dạng về bệnh nhân, bác sĩ, nữ hộ sinh, điều dưỡng và các nhân viên khác; rồi

còn vô số các mối quan hệ giữa bệnh nhân, thân nhân người bệnh, nhân viên y tế,

các nhà quản lý, và cộng đồng; cũng như những khác biệt trong cách bố trí các

khoa/phòng, hay tạo dựng các qui định chồng chéo, không thống nhất hoặc không

có qui định cũng tạo nên vô số rắc rối, phức tạp trong vận hành hệ thống... Hay như

chưa kể đến một hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị, vật tư tiêu hao, công nghệ

kỹ thuật mới đa dạng và phức tạp. Điều đó cũng tạo nên nhiều cơ hội mắc lỗi và

nhiều sai sót hơn (Runciman, 2007). Do vậy, tất cả nhân viên trong cơ sở y tế cần

7

hiểu bản chất phức tạp trong hệ thống y tế để tránh đổ lỗi cho những cá nhân trực

tiếp liên quan đến tai biến, sự cố, sai sót mà không nhận ra rằng luôn có nhiều yếu

tố khác góp phần và qua đó giúp phân tích, đề xuất giải pháp phòng ngừa biến cố

bất lợi tránh lặp lại lỗi tương tự về sau.

Tóm lại, cách tiếp cận hệ thống buộc chúng ta phải từ bỏ văn hóa đổ lỗi,

buộc tội để hướng tới cách tiếp cận hệ thống. Ví như khi phân tích nguyên nhân của

tai biến điều trị đòi hỏi phải đi tìm các sai sót của cả một hệ thống chứ không chỉ

dừng ở sai sót cá nhân hay nói cách khác là phải tìm cho ra những lỗi tiềm ẩn trong

hệ thống bên cạnh lỗi chủ động đã được phát hiện.

Văn hóa buộc tội là cách tiếp cận truyền thống khi có sự cố, tai biến, sai sót

xảy ra. Văn hóa đổ lỗi, văn hóa buộc tội là một cách tiếp cận con người rất mạnh

mẽ và cũng rất tự nhiên (Reason, 1990). Mỗi khi xảy ra tai biến, câu hỏi đầu tiên

thường gặp là “Ai? Ai làm sai?” (Who’s wrong ?), và thường có khuynh hướng qui

trách nhiệm liên quan đến cá nhân, người trực tiếp chăm sóc người bệnh ở thời

điểm gây ra tai biến. Với cách tiếp cận này, thường sẽ tạo ra tâm lý che giấu sai sót

và ngại báo cáo. Hậu quả là các sai sót có thể lặp đi lặp lại ở các cá nhân khác hoặc

ở khoa khác do bệnh viện không biết và đương nhiên chưa có giải pháp chủ động

phòng ngừa. Bên cạnh đó, xét đến khía cạnh tâm lý của cá nhân liên quan, dù người

bị quy trách nhiệm có vai trò gì trong quá trình dẫn đến sự cố đi chăng nữa, có rất ít

khả năng là hành động của người đó là cố ý gây tổn hại người bệnh mà phần lớn họ

thường rất buồn vì nghĩ rằng hành động của họ hoặc việc họ không hành động đã có

thể góp phần gây ra sự cố. Và điều họ không cần đến nhất là bị trừng phạt.

Theo cách tiếp cận hệ thống nêu trên, để có thể nhận diện hết những sai sót

liên quan đến tai biến bao gồm sai sót chủ động và sai sót tiềm ẩn, tốt nhất tìm hiểu

xem chuyện gì đã xảy ra và vì sao lại xảy ra? Giúp nhận diện những nguyên nhân

hoặc yếu tố có liên quan, từ đó đề xuất các giải pháp khắc phục. Với cách tiếp cận

như vậy, không những làm giảm sự e ngại khi báo cáo sai sót mà còn giúp bệnh

viện chủ động phòng ngừa các sai sót lặp đi lặp lại.

8

Yếu tố con người trong văn hóa an toàn người bệnh. Ủy ban về an toàn và

chất lượng chăm sóc sức khoẻ của Úc (2005), yếu tố con người công nhận bản chất

của con người là có thể mắc sai lầm. Ngành hàng không là một ví dụ tốt về ngành

công nghiệp đã ứng dụng nghiên cứu về yếu tố con người như một cách tiếp cận để

nâng cao an toàn. Từ giữa thập niên 1980, ngành hàng không đã chấp nhận khả

năng phạm lỗi của con người là điều không thể tránh khỏi và thay vì đòi hỏi con

người phải luôn hoàn thiện, và có biện pháp trừng phạt sai sót một cách công khai,

thì ngành công nghiệp này đã thiết kế các hệ thống để giảm thiểu tác động của sai

sót do con người gây ra. Kỷ lục về an toàn của ngành hàng không ngày nay là minh

chứng cho cách tiếp cận đó, mặc dù mỗi năm trung bình có 10 triệu lượt máy bay

cất cánh và hạ cánh, nhưng từ năm 1965 đến nay trên toàn thế giới mỗi năm trung

bình chỉ xảy ra chưa đến 10 vụ máy bay rơi và thường xảy ra ở các nước đang phát

triển theo một báo cáo của Hiệp hội An toàn và chất lượng cơ sở y tế của Úc (2006).

Hoạt động chăm sóc y tế cũng phải học hỏi kinh nghiệm từ các ngành công

nghiệp khác vì con người không phải là những cỗ máy, con người dễ bị mất tập

trung. Đã có nhiều nghiên cứu chứng minh có mối liên quan mạnh mẽ giữa sự mệt

mỏi và áp lực với mức độ thực hiện công việc kém của con người, một yếu tố nguy

cơ trong an toàn người bệnh (Pilcher, 1996; Weinger, 2002; Flin, 2008). Cũng như

làm việc kéo dài nhiều giờ liền có ảnh hưởng tiêu cực tới khả năng hoạt động của

con người tương đương như tác động của nồng độ cồn trong máu 0,05 mmol/l, là

mức qui định không được phép lái xe ở nhiều nước (Dawson, 1997).

Chúng ta không thể loại bỏ bản chất có thể mắc lỗi của con người (Kohn,

1999), song chúng ta có thể hành động để giảm bớt và hạn chế nguy cơ. Điều quan

trọng đối với tất cả nhân viên y tế là phải nhận diện được các tình huống làm tăng

khả năng xảy ra sai sót (Vincent, 2001). Vì vậy, việc tạo dựng môi trường làm việc,

một hệ thống khó mắc lỗi giúp hạn chế khả năng gây sai sót của con người như sau.

Tạo dựng môi trường làm việc tránh dựa vào trí nhớ như xây dựng phần mềm kê

toa điện tử hoặc hình ảnh/sơ đồ hóa các bước trong qui trình; giúp làm mọi việc trở

nên rõ ràng hơn như sử dụng hình vẽ và hướng dẫn về các bước vận hành trang

thiết bị; hay như đơn giản hóa các bước trong qui trình, càng đơn giản càng tốt, vì

9

quá phức tạp là công thức cho sai sót xảy ra. Ví dụ giới hạn các loại thuốc sẵn có để

kê đơn; hay giới hạn số liều của các loại thuốc sẵn có; và giữ bản kiểm kê các loại

thuốc thường được dùng cho bệnh nhân hay như đơn giản hóa qui trình thông tin

liên lạc bằng cách nhắc lại hai lần, hoặc ISBAR (Vlayen, 2012). Chuẩn hoá các qui

trình và thủ tục, vì tại bệnh viện hoặc tại các cơ sở y tế rất dễ dàng quan sát thấy

mỗi Khoa/phòng, mỗi nhân viên thực hiện cùng một công việc với những cách khác

nhau. Điều đó có nghĩa là họ phải học lại cách thực hiện công việc mỗi khi chuyển

sang một lĩnh vực mới. Với phương pháp làm việc tiêu chuẩn hóa các qui trình và

thủ tục sẽ giúp nhân viên đỡ phải dựa vào trí nhớ, hạn chế sai sót, sự cố và giúp

tăng hiệu suất làm việc và tiết kiệm thời gian. Sử dụng bảng kiểm, một công cụ đơn

giản nhưng hiệu quả nếu được tuân thủ nghiêm túc, ví như bảng kiểm an toàn phẫu

thuật của Tổ chức Y tế thế giới (Eiras, 2014). Và hạn chế phụ thuộc vào khả năng

tập trung của con người vì họ dễ bị mất tập trung và cảm thấy chán khi họ tham gia

những hoạt động kéo dài và lặp đi lặp lại.

2.2. Văn hóa An toàn người bệnh

2.2.1 Định nghĩa

Hiệp hội An toàn người bệnh quốc gia tại Mỹ (2001), văn hóa an toàn người

bệnh là văn hóa thể hiện năm thuộc tính ở mức cao mà nhân viên y tế nỗ lực đưa

vào thao tác thông qua việc triển khai thực hiện các hệ thống quản lý an toàn mạnh

mẽ; (1) văn hóa trong đó mọi nhân viên y tế (gồm những người trực tiếp điều trị cho

người bệnh, và cán bộ quản lý điều hành) đứng ra chịu trách nhiệm về an toàn của

bản thân, của đồng nghiệp, bệnh nhân, thân nhân người bệnh và khách đến thăm;

(2) văn hóa ưu tiên đặt an toàn lên trước mục tiêu về tài chính và tổ chức; (3) văn

hóa khuyến khích và khen thưởng nỗ lực phát hiện, thông báo và giải quyết các vấn

đề an toàn; (4) văn hóa trong đó tổ chức có cơ hội rút kinh nghiệm từ sự cố/tai biến;

(5) văn hóa cung cấp nguồn lực, cơ cấu và trách nhiệm giải trình phù hợp để duy trì

hiệu quả các hệ thống đảm bảo an toàn.

10

Một tổ chức được xem là có văn hoá an toàn khi mỗi thành viên của tổ chức

đó, bất chấp ở cương vị nào, đều thể hiện vai trò chủ động trong phòng ngừa sai sót,

và vai trò của từng cá nhân nhân này được sự hỗ trợ của tổ chức (AHRQ, 2004).

Nghiên cứu về văn hóa an toàn người bệnh, các tác giả đã đút kết bảy yếu tố cấu

thành văn hóa an toàn người bệnh trong bệnh viện, (1) Lãnh đạo xem an toàn người

bệnh là ưu tiên hàng đầu trong mọi hoạt động của bệnh viện, (2) các hoạt động

trong bệnh viện được tổ chức làm việc theo đội/nhóm một cách hiệu quả, (3) thực

hành dựa vào chứng cớ như phác đồ điều trị của bệnh viện phải dựa trên cơ sở y

học chứng cớ, và thực hành lâm sàng tuân thủ phác đồ điều trị, (4) mọi người được

quyền nói và chỉ ra những nguy cơ, sai sót trong khoa mình, được tham gia sáng

kiến cải tiến về an toàn người bệnh, (5) cách thức bệnh viện tổ chức học hỏi từ sai

sót, và cải tiến từ sai sót; (6) đảm bảo công bằng, xem xét lỗi hệ thống trước khi kết

luận lỗi cá nhân và nguyên tắc thứ 7 rất quan trọng và xuyên suốt hoạt động công

tác của bất cứ một tổ chức y tế nào chính là “lấy người bệnh làm trung tâm”.

Cơ quan chất lượng và nghiên cứu sức khỏe Hoa Kỳ đã xây dựng bộ công cụ

khảo sát văn hóa an toàn người bệnh trong các môi trường khác nhau, trong đó

phiên bản dùng tại bệnh viện có tên là Hospital Survey on Patient Safety Culture

(HSOPSC). Hiện bộ câu hỏi đã được sử dụng trong rất nhiều nghiên cứu và được

chứng minh là có giá trị trong phản ánh văn hóa an toàn người bệnh (Singer, 2007).

Ngoài ra, thông qua việc lượng giá, bộ câu hỏi khảo sát văn hóa an toàn người bệnh

(HSOPSC) còn được xem là công cụ có tính can thiệp lên hệ thống để cải thiện tình

trạng văn hóa an toàn người bệnh (Jones, 2008; Adams, 2008). Mục đích của khảo

sát nhằm cung cấp một chỉ số hữu hình về thực trạng hoạt động an toàn người bệnh

của từng bệnh viện, từ đó làm cơ sở chính để tiến hành đánh giá hiệu quả của những

cải tiến trong hoạt động an toàn người bệnh.

Bộ câu hỏi khảo sát văn hóa an toàn người bệnh dùng cho bệnh viện của cơ

quan chất lượng và nghiên cứu sức khỏe Hoa Kỳ bao gồm 42 câu hỏi, đánh giá 12

lĩnh vực như sau, (1) Làm việc theo ê kíp trong cùng một Khoa/phòng, (2) Quan

điểm và hành động về an toàn người bệnh của người quản lý, (3) Tính cải tiến liên

tục và học tập một cách hệ thống, (4) Hỗ trợ về quản lý cho an toàn người bệnh, (5)

11

Quan điểm tổng quát về an toàn người bệnh, (6) Phản hồi và trao đổi về sai sót/lỗi,

(7) Trao đổi cởi mở, (8) Tần suất ghi nhận sự cố/sai sót/lỗi, (9) Làm việc theo ê kíp

giữa các Khoa/phòng, (10) Nhân sự, (11) Bàn giao và chuyển tiếp, và cuối cùng là

Không trừng phạt khi có sai sót/lỗi.

2.2.2 Lược khảo các nghiên cứu về Khảo sát văn hóa an toàn người bệnh

sử dụng bộ câu hỏi HSOPSC

Bộ câu hỏi khảo sát văn hóa an toàn người bệnh được dịch thành 16 thứ tiếng

và được nhiều nơi trên thế giới áp dụng (Nie, 2013; Occelli, 2013; Brborovic, 2014;

Reis, 2012; Gama, 2013). Tại Bỉ một cuộc khảo sát 3.940 nhân viên y tế, kết quả

cho thấy phần nội dung thấp điểm nhất thuộc về các nhóm sự hỗ trợ của lãnh đạo

(35 ), văn hóa không trừng phạt (36 ), chuyển bệnh và bàn giao trong tổ chức

(36 ) và làm việc nhóm giữa các đơn vị trong tổ chức (40 ) (Vlayen, 2012). Một

khảo sát tương tự tại 13 bệnh viện đa khoa của thành phố Riyadh - Ả rập Saudi, kết

quả lại thấy các vấn đề nổi bật cần phải cải tiến vẫn là báo cáo sự cố, văn hóa không

trừng phạt, nhân sự và làm việc nhóm giữa các đơn vị trong tổ chức (Najjar, 2013).

Khảo sát tại Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy vấn đề an toàn người bệnh được đánh giá cao

nhất là làm việc nhóm trong từng đơn vị, trong khi đó vấn đề cấp bách cần phải cải

tiến là báo cáo sự cố (15 ) (Van Vegten, 2011). Một nghiên cứu khác tại Đài Loan

cho thấy phản ứng tích cực nhất trong nhóm - làm việc theo nhóm trong các đơn vị,

vấn đề có phản ứng tích cực thấp nhất là vấn đề về nguồn nhân lực. Tiếp đến, một

điều tra với qui mô 68 bệnh viện với 6.807 nhân viên tại Li Băng cho thấy lĩnh vực

được đánh giá tích cực nhất là làm việc theo đội nhóm trong từng đơn vị, sự hỗ trợ

của lãnh đạo trong cải tiến chất lượng, trong khi các lĩnh vực nhân sự và văn hóa

không trừng phạt được đánh giá tích cực thấp (Robida, 2013). Và các nghiên cứu

khác tại các quốc gia Châu Âu như Hà Lan, Tây Ban Nha và Nhật đều cho thấy cần

cải thiện làm việc đội nhóm của các đơn vị trong tổ chức, học hỏi từ sai sót và văn

hóa không trừng phạt (Ito, 2011).

Tại Việt Nam, Bệnh viện Nhi đồng 1 Thành phố Hồ Chí Minh khảo sát thực

trạng và văn hóa an toàn người bệnh trong phạm vi toàn bệnh viện và tại các khoa

12

theo 12 lĩnh vực liên quan đến chăm sóc người bệnh, tỉ lệ trả lời tích cực cao tập

trung ở các lĩnh vực làm việc nhóm trong khoa, hỗ trợ của bệnh viện trong việc

khuyến khích an toàn người bệnh, thông tin phản hồi và học tập cải tiến liên quan

đến an toàn người bệnh. Trong khi đó, có nhiều phản hồi không tích cực ở các lĩnh

vực như sự phối hợp giữa các khoa/phòng, phối hợp giữa các khoa trong bàn giao

chuyển bệnh, thiếu nhân sự, cởi mở trong thông tin về sai sót, tần suất báo cáo sự cố

và nhất là “hành xử không buộc tội khi có sai sót”.

2.3. Mối liên hệ giữa An toàn người bệnh và những thiệt hại về người và

kinh tế do sai sót y khoa và lỗi hệ thống

Một trong những thách thức lớn nhất hiện nay trong công tác chăm sóc sức

khỏe là làm sao để công tác này an toàn hơn nữa trong môi trường y tế vô cùng

phức tạp, đầy áp lực và thay đổi nhanh chóng (WHO, 2001). Thách thức này được

minh chứng một cách rõ nét từ cuối thập niên 1990, từ hai bản Báo cáo có tầm ảnh

hưởng lớn - Nhân vô thập toàn, do Viện Y khoa Mỹ xuất bản năm 1999 và Một tổ

chức của chính phủ Vương quốc Anh công bố năm 2000. Cả hai Báo cáo đều thừa

nhận sai sót là chuyện thường gặp trong quá trình cung cấp dịch vụ chăm sóc sức

khỏe và xảy ra đối với khoảng 10% trường hợp nhập viện điều trị. Trong một số

trường hợp, tác hại của sai sót rất nghiêm trọng, thậm chí làm chết người. An toàn

người bệnh trở thành một quan ngại ở tất cả các nước phát triển cũng như không

phát triển.

Từ đó mở ra nhiều nghiên cứu xem xét số liệu về kết quả điều trị bệnh nhân

cho thấy có nhiều biến cố bất lợi có thể ngăn ngừa được (Dubois, 1988; Bedell,

1991; Leape, 1993). Trong một nghiên cứu của Leape và cộng sự (1993) đã thực

hiện, ghi nhận hơn 2/3 số biến cố bất lợi trong số mẫu mà họ thu thập được có thể

ngăn ngừa được, 28 trong số đó là do sự xao lãng của nhân viên y tế và 42 do

các yếu tố khác. Họ kết luận rằng nhiều bệnh nhân bị thương do hậu quả của quản

lý y khoa yếu kém và chăm sóc không đến nơi đến chốn. Ngoài ra, một nghiên cứu

khác của Bates và cộng sự (1995) cho thấy các sự cố bất lợi liên quan đến dược

cũng rất phổ biến và sự cố bất lợi nghiêm trọng liên quan đến thuốc cũng có thể

13

ngăn ngừa được. Họ còn thấy rằng trong 100 bệnh nhân nhập viện tại các bệnh viện

thực hành lớn ở Mỹ có khoảng 6,5 bệnh nhân được cho sử dụng các loại thuốc gây

hại. Không dừng lại ở đó, nhiều nghiên cứu khẳng định sai sót y khoa là chuyện

thường nhật trong hệ thống y tế, và chi phí liên quan đến sai sót y khoa là rất lớn. Ở

Úc, 18.000 trường hợp tử vong và hơn 50.000 bệnh nhân bị tàn tật do sai sót y khoa

(Weingart, 2000). Tại Mỹ, ước tính mỗi năm có khoảng 44.000 đến 98.000 bệnh

nhân chết, và hơn một triệu người bị tàn tật do sai sót y khoa (Kohn, 1999).

Một số công bố các nghiên cứu quốc tế được liệt kê trong bảng dưới đây cho

thấy những con số choáng ngợp về số ca tai biến điều trị, với tỉ lệ dao động trong

Nghiên cứu

Năm

Số ca nhập viện

Số tai biến

Tỉ lệ tai biến (%)

1984

30.195

1.133

3,8

Mỹ (New York) (Nghiên cứu thực hành y khoa - Harvard)

Mỹ (Utah-Colorado) (UTCOS)

1992

14.565

475

3,2

Mỹ (UTCOS)

1992

14.565

787

5,4

Úc (QAHCS)

1992

14.179

2.353

16,6

Úc (QAHCS)

1992

14.179

1.499

10,6

Anh

1999 - 2000

1.014

119

11,7

Đan Mạch

1998

1.097

176

9,0

New Zealand

1998

6.579

849

12,9

Canada

2001

3.720

279

7,5

khoảng 3,2 đến 16,6 (Runciman, 2007).

Bàng 2.5.1 Tỉ lệ tai biến tại các nước phát triển

Qua việc hồi cứu 15.548 hồ sơ của 26 bệnh viện thuộc 8 nước Châu Phi

(Egypt, Jordan, Kenya, Morocco, Tunisia, Sudan, South Africa and Yemen ) vào

14

năm 2005, cho thấy tỉ lệ tai biến điều trị dao động từ 2,5 đến 18,4 trong tổng số

bệnh nhân nhập viện (BMJ, 2012). Trong đó, 83 các tai biến thuộc nhóm có thể

phòng ngừa được, trong khi có đến 30 tai biến dẫn đến tử vong, và khoảng 34

tai biến do sai sót điều trị trong bệnh cảnh không phức tạp (Vlayen, 2012).

Tình hình này ở các nước đang phát triển nói chung, và tại Việt Nam nói

riêng hiện chưa có số liệu công bố chính thức về tai biến điều trị. Tuy nhiên tỉ lệ tai

biến điều trị tại các nước này chắc chắn sẽ cao hơn nhiều do những khó khăn về cơ

sở hạ tầng, trang thiết bị yếu kém, cung ứng và chất lượng thuốc không đáng tin

cậy, yếu kém trong công tác kiểm soát nhiễm khuẩn, cũng như nguồn nhân lực chưa

đáp ứng được mong đợi do thiếu kỹ năng làm việc và tạo động lực thấp (WHO,

2009). Riêng nhiễm khuẩn bệnh viện, Tổ chức y tế thế giới (2009) ước tính tại các

nước đang phát triển cao gấp 20 lần so với các nước đã phát triển.

Những quan ngại về an toàn người bệnh không chỉ gây tổn hại và đau đớn về

thể chất và tinh thần cho người bệnh và gia đình của họ, mà còn gây ra những gánh

nặng về mặt kinh tế với chi phí y tế do sai sót y khoa gây ra ở một số nước là từ 6 tỷ

đến 29 tỷ đô la Mỹ hàng năm do thời gian nằm viện điều trị kéo dài, chi phí kiện

tụng, khiếu nại, nhiễm khuẩn bệnh viện, mất thu nhập, tàn phế (Kohn, 1999).

15

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong chương 3, tác giả trình bày khung phân tích, cách xây dựng thang đo

nghiên cứu, giới thiệu mô hình phân tích các yếu tố tác động đến văn hóa An toàn

người bệnh và trình bày về cách thức thu thập bộ dữ liệu.

3.1. Khung phân tích

Văn hóa An toàn người bệnh

Hình 3.1 Khung phân tích văn hóa an toàn người bệnh

Khung phân tích tác giả sử dụng mô hình hồi qui dường như không liên quan

(Seemingly Unrelated Regression – SUR) nhằm mục đích phân tích sự khác biệt của

từng thành phần văn hóa an toàn người bệnh giữa các yếu tố chức danh nghề

16

nghiệp, chức vụ, thời gian công tác tại bệnh viện và mức thu nhập khác nhau. Và

trong kiểm định thống kê này, với giả định các biến phụ thuộc không có quan hệ với

nhau, mô hình SUR bây giờ thực chất là một tập hợp các mô hình hồi qui đơn lẻ.

3.2. Thang đo nghiên cứu

Văn hóa an toàn người bệnh được khảo sát xuyên suốt qua 42 câu hỏi gồm

12 thành phần như (1) Làm việc theo ê kíp trong cùng một Khoa/phòng, (2) Quan

điểm và hành động về an toàn người bệnh của người quản lý, (3) Tính cải tiến liên

tục và học tập một cách hệ thống, (4) Hỗ trợ về quản lý cho an toàn người bệnh, (5)

Quan điểm tổng quát về an toàn người bệnh, (6) Phản hồi và trao đổi về sai sót/lỗi,

(7) Trao đổi cởi mở, (8) Tần suất ghi nhận sự cố/sai sót/lỗi, (9) Làm việc theo ê kíp

giữa các Khoa/phòng, (10) Nhân sự, (11) Bàn giao và chuyển tiếp, và cuối cùng

(12) là Không trừng phạt khi có sai sót/lỗi với thang đo Likert 5 giá trị do Cơ quan

chất lượng và nghiên cứu sức khỏe Hoa Kỳ (AHRQ) xây dựng, và đã được triển

khai tại 16 quốc gia trên thế giới như Mỹ, Ả rập Saudi, Bỉ, Thổ Nhĩ Kỳ, Hà Lan,

Tây Ban Nha, Đài Loan, Libăng, …, vì đề tài nghiên cứu không những mang tính

đa chiều, đa thành phần mà còn là dạng xác định ý kiến hoặc thái độ của đối tượng

nghiên cứu. Bên cạnh đó, văn hóa an toàn người bệnh không chỉ dựa vào một biến

hay một chỉ tiêu mà được tính trên tổng số điểm của rất nhiều tiêu chí.

3.3. Mô hình kiểm định sự khác biệt của các thành phần văn hóa An

toàn người bệnh theo các đặc điểm chức danh nghề nghiệp, chức vụ, thời gian

công tác tại bệnh viện và thu nhập

Mô hình hồi qui dường như không liên quan (Seemingly Unrelated

Regression – SUR) được sử dụng nhằm phân tích các yếu tố tác động đến văn hóa

an toàn người bệnh; văn hóa an toàn người bệnh được định nghĩa là một biến và

được gọi là biến phụ thuộc với tên biến là Y. Biến phụ thuộc Y được mã hóa (số

hóa) bao gồm các giá trị là từ 1 đến 12 tương ứng với (1) Làm việc theo ê kíp trong

cùng một Khoa/phòng, (2) Quan điểm và hành động về an toàn người bệnh của

người quản lý, (3) Tính cải tiến liên tục và học tập một cách hệ thống, (4) Hỗ trợ về

17

quản lý cho an toàn người bệnh, (5) Quan điểm tổng quát về an toàn người bệnh, (6)

Phản hồi và trao đổi về sai sót/lỗi, (7) Trao đổi cởi mở, (8) Tần suất ghi nhận sự

cố/sai sót/lỗi, (9) Làm việc theo ê kíp giữa các Khoa/phòng, (10) Nhân sự, (11) Bàn

giao và chuyển tiếp, và cuối cùng (12) là Không trừng phạt khi có sai sót/lỗi. Các

yếu tố tác động đến văn hóa an toàn người bệnh tại Bệnh viện Từ Dũ bao gồm chức

danh nghề nghiệp, chức vụ, thời gian công tác tại bệnh viện và thu nhập được gọi là

các biến độc lập hay còn gọi là biến giải thích trong mô hình kinh tế lượng.

18

Tên biến

Ký hiệu

Định nghĩa

Thang đo

Biến phụ thuộc

Văn hóa ATNB

Bảng 3.3: Mô tả các biến trong mô hình Hồi qui

(1) Làm việc theo ê kíp trong cùng một Khoa/phòng (2) Quan điểm và hành động về an toàn người bệnh của người quản lý

(i=1, 2, …, 12)

Rất không đồng ý Không đồng ý Không biết Rất đồng ý Đồng ý Không bao giờ Hiếm khi Đôi khi Thường xuyên Luôn luôn

(3) Tính cải tiến liên tục và học tập một cách hệ thống (4) Hỗ trợ về quản lý cho an toàn người bệnh (5) Quan điểm tổng quát về an toàn người bệnh (6) Phản hồi và trao đổi về sai sót/lỗi (7) Trao đổi cởi mở (8) Tần suất ghi nhận sự cố/sai sót/lỗi (9) Làm việc theo ê kíp giữa các Khoa/phòng (10) Nhân sự (11) Bàn giao và chuyển tiếp (12) Không trừng phạt khi có sai sót/lỗi

Biến độc lập

danh

nghề

Chức nghiệp

X1

Là tên gọi thể hiện trình độ và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ trong từng lĩnh vực ngành nghề hoạt động của viên chức

Bác sĩ Nữ hộ sinh/điều dưỡng Dược sĩ Kỹ thuật viên Hộ lý Khác

Yi

19

Chức vụ

X2

Là sự đảm nhiệm một vai trò, địa vị nào đó trong một tổ chức, một tập thể

Số năm làm việc tại bệnh viện

Thời gian công tác tại Bệnh viện

X3

Thu nhập

Thu nhập bình quân hàng tháng của cá nhân

X4

Trưởng khoa/phòng Phó khoa/phòng Nhân viên Dưới 1 năm Từ 1 đến 5 năm 6 đến 10 năm 11 đến 15 năm 16 đến 20 năm Trên 20 năm Từ 3 đến dưới 5 triệu 5 đến dưới 8 triệu 8 đến 12 triệu Trên 12 triệu

20

Căn cứ bảng 3.3, hàm hồi qui dường như không liên quan (Seemingly

Unrelated Regression – SUR) có dạng như sau: Yi = α + 1X1i + 2X2i + 3X3i +

4X4i + . Trong đó Yi là biến định lượng phản ánh văn hóa an toàn người bệnh với

i từ 1 đến 12; X1i, X2i, X3i, X4i lần lượt là các biến giả thể hiện chức danh nghề

nghiệp; chức vụ, thời gian công tác tại bệnh viện, và thu nhập của cá nhân i.

Hàm hồi qui dường như không liên quan SUR cho phép các phần dư (error

term) trong 10 phương trình tương quan với nhau. Phần dư trong 1 phương trình

là phần chứa các yếu tố không quan sát được (các yếu tố quan sát được là chức danh

nghề nghiệp, chức vụ, thời gian công tác và thu nhập). Các yếu tố không quan sát

được (chẳng hạn lòng trắc ẩn của 1 người) tác động đến Y1 thì cũng có thể tác động

đến Y2a và các biến Yi khác. Mô hình này gồm 10 phương trình hồi qui dường như

không liên quan này được viết lại dưới dạng ma trận như sau; trong đó M là ký hiệu

số phương trình, K là số biến giải thích và T là số quan sát.

Kết hợp 10 phương trình đơn lẻ vào một hàm tổng quát nêu trên, tác giả trình

bày ma trận phương sai – hiệp phương sai như sau.

21

3.4. Dữ liệu

3.4.1 Các định nghĩa về dữ liệu

Văn hóa an toàn người bệnh bao gồm (1) Làm việc theo ê kíp trong cùng một

Khoa/phòng, (2) Quan điểm và hành động về an toàn người bệnh của người quản lý,

(3) Tính cải tiến liên tục và học tập một cách hệ thống, (4) Hỗ trợ về quản lý cho an

toàn người bệnh, (5) Quan điểm tổng quát về an toàn người bệnh, (6) Phản hồi và

trao đổi về sai sót/lỗi, (7) Trao đổi cởi mở, (8) Tần suất ghi nhận sự cố/sai sót/lỗi,

(9) Làm việc theo ê kíp giữa các Khoa/phòng, (10) Nhân sự, (11) Bàn giao và

chuyển tiếp, và cuối cùng là Không trừng phạt khi có sai sót/lỗi được đo lường bởi

thang đo Likert 5 giá trị rất không đồng ý, không đồng ý, không biết, rất đồng ý, và

đồng ý; hoặc không bao giờ, hiếm khi, đôi khi, thường xuyên và luôn luôn.

Các yếu tố tác động như chức danh nghề nghiệp là bác sĩ, nữ hộ sinh, điều

dưỡng, dược sĩ, kỹ thuật viên, hộ lý, hoặc nhân viên hành chính; chức vụ là trưởng,

phó khoa/phòng; thời gian công tác là số năm làm việc tại bệnh viện với thang đo

dưới 1 năm, từ 1 đến 5 năm, 6 đến 10 năm, 11 đến 15 năm, 16 đến 20 năm và trên

20 năm; và thu nhập là thu nhập bình quân hàng tháng của cá nhân từ 3 đến dưới 5

triệu, 5 đến dưới 8 triệu, 8 đến 12 triệu, và trên 12 triệu.

22

3.4.2 Số mẫu:

Bộ câu hỏi HSOPSC dùng để đánh giá văn hóa an toàn người bệnh của các

nhân viên y tế có tham gia chăm sóc trực tiếp và gián tiếp bệnh nhân, trong đó có

thể kể đến nhân viên y tế chăm sóc trực tiếp người bệnh như bác sĩ, điều dưỡng, nữ

hộ sinh, hộ lý. Nhân viên y tế không trực tiếp chăm sóc người bệnh nhưng công

việc của họ có ảnh hưởng đến việc chăm sóc người bệnh như dược sĩ, kỹ thuật viên

xét nghiệm, kỹ thuật viên trang thiết bị, nhân viên hành chính và người quản lý. Với

đối tượng nghiên cứu là tất cả nhân viên bệnh viện có thời gian công tác tại bệnh

viện ít nhất là sáu tháng vì khi đó họ đã hiểu được văn hóa tổ chức, do vậy số mẫu

mà đề tài thực hiện nghiên cứu thỏa mãn tiêu chí nêu trên là 2.118/2.153 nhân viên

bệnh viện.

3.4.3 Phương pháp tiến hành

Đầu tiên, tác giả hình thành nhóm nghiên cứu tại bệnh viện với thành viên là

35 nhân viên chuyên trách mạng lưới quản lý chất lượng trực thuộc các

Khoa/phòng. Trong đó, tác giả xây dựng một nhóm bao gồm một bác sĩ lâm sàng,

một bác sĩ cận lâm sàng, một dược sĩ, một nữ hộ sinh và một nhân viên hành chính

dịch bộ câu hỏi HSOPSC từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Sau khi thống nhất về bản

dịch, tác giả gởi bản dịch Anh – Việt đến hai nhân viên chuyên trách khác thuộc

nhóm nghiên cứu để dịch ngược từ tiếng việt sang tiếng anh nhằm xác định sự việt

hóa trong bộ câu hỏi vẫn tuân theo nội dung nguyên tác.

Tác giả tiến hành thử nghiệm bản dịch bao gồm 35 thành viên khoa/phòng và

mỗi thành viên sẽ đánh giá lỗi chính tả, ngữ nghĩa các câu có dễ hiểu, có nội dung

gây hiểu lầm không, và các câu có phản ánh trung thực ý muốn chuyển tải về khảo

sát văn hóa an toàn người bệnh. Kết quả thử nghiệm cho thấy 3/4 số nhân viên tham

gia thử nghiệm hiểu bộ câu hỏi nghiên cứu, chỉ vài ý kiến từ nhân viên hành chính

cho rằng cần làm rõ khái niệm sự cố. Như vậy sau khoảng sáu tuần việt hóa bộ câu

hỏi, bản dịch bộ câu hỏi HSOPSC hoàn thành.

Tác giả cùng nhóm nghiên cứu tiến hành lập danh sách, số lượng nhân viên

mỗi khoa/phòng, tập huấn điền phiếu câu hỏi, và xây dựng kế hoạch hành động

23

khảo sát từng khoa/phòng và mỗi thành viên nhóm nghiên cứu có trách nhiệm triển

khai việc khảo sát bộ câu hỏi đến khoa/phòng mình phụ trách. Thời gian triển khai

và thu thập bản câu hỏi hoàn thiện gởi về tác giả trực thuộc phòng Quản lý chất

lượng 6 tuần sau đó.

Tiếp đến, tác giả sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khám phá

(Exploratory Factor Analyses - EFA) để đánh giá giá trị hội tụ và giá trị phân biệt

của thang đo nhằm xác định các câu hỏi được phân bổ vào từng lĩnh vực thuộc một

khái niệm; và kiểm định độ tin cậy của các câu hỏi bằng phép kiểm Cronbach’s

Alpha. Dữ liệu nghiên cứu sẽ được nhập liệu với phần mềm Epi-data 3.1 với tiêu

chuẩn chọn như sau, phiếu câu hỏi được tham gia phân tích số liệu phải trả lời đầy

đủ 12 chuyên mục, trong mỗi chuyên mục phải trả lời trên 70 số câu hỏi và không

có hiện tượng trả lời đồng loạt 1 đáp án. Và để xử lý số liệu, tác giả sử dụng phần

mềm Stata 12, và kết quả của mục tiêu 1 về khảo sát thực trạng văn hóa an toàn

người bệnh sẽ được trình bày theo hướng dẫn của Cơ quan nghiên cứu chất lượng y

tế - AHRQ để có thể so sánh cùng các nghiên cứu tương tự trên thế giới. Và điều

quan trọng là cá nhân tham gia nghiên cứu hoàn toàn tự nguyện và không tiết lộ

danh tính.

24

CHƯƠNG 4 : TỔNG QUAN VỀ VĂN HÓA AN TOÀN NGƯỜI BỆNH

TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ

4.1 Giới thiệu Bệnh viện Từ Dũ

Bệnh viện Từ Dũ là bệnh viện phụ sản hàng đầu tại khu vực phía Nam, Việt

Nam. Với qui mô hơn 1.700 giường, 2.153 nhân sự , bệnh viện tiếp nhận khám và

điều trị cho khoảng 220.000 lượt bệnh nhân ngoại trú và 120.000 lượt nội trú hàng

năm. Và để vận hành cỗ máy khổng lồ này là sự phối hợp công tác của 35

Khoa/phòng, và tùy thuộc vào đặc thù công việc, chức năng, nhiệm vụ của từng

khoa/phòng mà hệ thống bệnh viện chia làm 3 khối chính như sau, khối phòng chức

năng, khối lâm sàng, và khối cận lâm sàng.

Đối với khối phòng chức năng bao gồm Phòng Kế hoạch tổng hợp có trách

nhiệm chỉ đạo công tác chuyên môn trong bệnh viện, tổ chức đào tạo chuyên môn

cho đội ngũ y bác sĩ, thực hiện công tác hợp tác quốc tế và đảm bảo việc lưu trữ hồ

sơ bệnh án, tổng kết chuyên môn theo đúng quy định. Phòng Tổ chức cán bộ thực

hiện công tác tổ chức, sắp xếp, đào tạo nhân lực cán bộ, thực hiện công tác bảo vệ

chính trị, an ninh nội bộ của bệnh viện, xây dựng lề lối làm việc tương quan giữa

các khoa/phòng, tổ chức phong trào thi đua, các đợt học tập thời sự, chính trị,.. để

nâng cao y đức, tinh thần trách nhiệm và thái độ phục vụ của cán bộ công nhân viên

chức. Phòng Chỉ đạo tuyến có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc, hỗ trợ và đánh giá

hiệu quả công tác hoạt động chuyên môn về công tác Bảo vệ sức khỏe Bà Mẹ - Trẻ

em - Kế hoạch hóa gia đình của 32 tỉnh thành khu vực phía nam (từ Đà Nẵng đến

Cà Mau), và phối hợp với các chuyên khoa tổ chức đào tạo liên tục cho cán bộ

tuyến dưới. Phòng Hành chính quản trị cung ứng vật tư, trang thiết bị thông dụng

cho các khoa phòng kịp thời, quản lý tốt và có hệ thống công văn đi, đến; Quản lý,

sửa chữa nhà cửa, duy tu, bão dưỡng kịp thời. Bên cạnh đó, phòng đảm bảo công

tác hậu cần phục vụ tiếp khách và các hội nghị của bệnh viện, cũng như cung cấp

đầy đủ điện, nước sạch, vệ sinh ngoại cảnh luôn sạch đẹp. Phòng Tài chánh Kế toán

thực hiện, giám sát chặt chẽ chế độ thu, chi tài chánh kế toán của bệnh viện và thực

hiện các nghiệp vụ kế toán lao động tiền lương, chế độ chính sách, vật tư tài sản,

25

chính xác và kịp thời. Phòng Điều dưỡng điều hành, đôn đốc và giám sát công tác

chăm sóc người bệnh của toàn bộ điều dưỡng, nữ hộ sinh và hộ lý thực hiện đúng

các qui trình kỹ thuật, quy chế bệnh viện của Bộ y tế, và tổ chức đào tạo nâng cao

trình độ cho điều dưỡng, nữ hộ sinh… Phòng Vật tư - Thiết bị y tế xây dựng kế

hoạch mua sắm, thay thế, sửa chữa, thanh lý tài sản, thiết bị y tế trong bệnh viện, tổ

chức đấu thầu mua sắm, và xây dựng, duy tu, bão dưỡng thiết bị y tế kịp thời.

Phòng Công nghệ Thông tin phụ trách triển khai hoạt động công nghệ thông tin tại

bệnh viện. Và Phòng Quản lý Chất lượng phụ trách công tác cải tiến chất lượng,

đào tạo, nghiên cứu khoa học, và thư viện bệnh viện.

Đối với khối lâm sàng, các khoa có trách nhiệm chăm sóc, điều trị cho người

bệnh – khách hàng, và cũng là nơi đào tạo sinh viên của các trường đại học Y, với

chức năng và nhiệm vụ cụ thể như Khoa Khám phụ khoa có trách nhiệm tiếp nhận,

khám và điều trị các bệnh lý phụ khoa cho các bệnh nhân ngoại trú. Khoa chăm sóc

trước sinh tư vấn tiền sản, thực hiện thủ thuật chọc ối, sinh thiết gai nhau, thủ thuật

hủy thai, khám thai tiền sản và Quản lý thai kỳ cho thai phụ. Khoa Cấp cứu-chống

độc tiếp nhận các trường hợp cấp cứu về sản khoa, phụ khoa và sơ sinh. Khoa Sanh

thực hiện công tác đỡ sanh, chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ sơ sinh ngay sau khi sanh.

Khoa Sản A tiếp nhận điều trị và chăm sóc các sản phụ đang có thai bệnh lý như

huyết áp cao, tiểu đường, tim mạch, bệnh lý tuyến giáp,... và sản phụ sau khi sanh

có bệnh lý. Hậu sản N, H, C, M tiếp nhận và điều trị và chăm sóc các sản phụ sau

sanh thường và sanh mổ. Hậu phẫu chăm sóc người bệnh sau mổ phụ khoa, mổ sản

khoa. Khoa Ung bướu phụ khoa chăm sóc và điều trị bệnh nhân ung thư buồng

trứng, thai trứng, bệnh lý tế bào nuôi, bệnh lý tuyến vú và tầm soát ung thư vú.

Khoa phụ điều trị nội trú tất cả bệnh phụ khoa viêm nhiễm đường sinh dục, rong

kinh, rong huyết, động thai, thai lưu trên 13 tuần, chuẩn bị tiền phẫu cho bệnh nhân

sắp phẫu thuật phụ khoa. Khoa Nội soi điều trị nội trú các bệnh nhân Thai ngoài tử

cung, chuẩn bị tiền phẫu và chăm sóc hậu phẫu cho các bệnh nhân phẫu thuật nội

soi (U buồng trứng, U xơ tử cung, Vô sinh,….). Khoa Gây mê hồi sức gồm hệ thống

các buồng phẫu thuật để thực hiện các phẫu thuật, theo chương trình và cấp cứu,

khu vực hồi sức sau phẫu thuật và các bệnh lý nội khoa nặng. Khoa Hiếm muộn tư

26

vấn, khám và điều trị bệnh nhân hiếm muộn. Khoa Kế hoạch hoá gia đình tư vấn,

khám và thực hiện các phương pháp kế hoạch hóa gia đình, cung cấp dịch vụ thân

thiện vị thành niên, tư vấn và thực hiện dịch vụ bỏ thai bằng phương pháp ngoại và

nội khoa cho khách hàng. Khoa Sơ sinh tiếp nhận và điều trị chăm sóc trẻ sơ sinh

bệnh lý, non tháng, có trách nhiệm theo dõi sức khỏe, chích ngừa cho trẻ em tại

phòng khám trẻ. Và Khoa Phục hồi chức năng tiếp nhận, điều trị vật lý trị liệu, phục

hồi chức năng cho trẻ khuyết tật.

Đối với khối cận lâm sàng, Khoa Dược có trách nhiệm thực hiện cung ứng,

bảo quản và sử dụng thuốc, hoá chất và sinh phẩm trong bệnh viện. Khoa Xét

nghiệm thực hiện các xét nghiệm về huyết học, hoá sinh, vi sinh. Khoa Giải phẫu

bệnh – Tế bào thực hiện các xét nghiệm sinh thiết, tế bào học, đọc tiêu bản, phết tế

bào âm đạo để phát hiện sớm ung thư cổ tử cung. Khoa Xét nghiệm di truyền y học

tư vấn di truyền, tư vấn trước sinh, phân tích nhiễm sắc thể đồ (karyotype), chẩn

đoán DNA, phát hiện đột biến gen gây bệnh thalassaemia, chẩn đoán nhiễm HPV

gây ung thư cổ tử cung, xét nghiệm tầm soát trước sinh triple test và tầm soát sơ

sinh. Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn có trách nhiệm hướng dẫn việc thực hiện quy

chế phòng chống nhiễm khuẩn trong toàn bệnh viện. Khoa Chẩn đoán hình ảnh:

thực hiện các kỹ thuật chẩn đoán bằng hình ảnh như: X- Quang, siêu âm, chụp nhũ

ảnh, đo loãng xương, MRI. Và Khoa Dinh dưỡng thực hiện công tác phục vụ ăn

uống cho người bệnh nội/ngoại trú, và có trách nhiệm chăm sóc sức khỏe cho nhân

viên bệnh viện

4.2 Hoạt động an toàn người bệnh tại Bệnh viện Từ Dũ

Từ tháng 9 năm 2011 với nhận định sâu sắc An toàn là một trong sáu tiêu

chuẩn chất lượng của chăm sóc sức khỏe. Từ thời Hipporates, ông tổ của ngành y,

vấn đề an toàn người bệnh đã được đặt ra “First do no harm”. Điều đó có nghĩa là

“việc đầu tiên nhân viên y tế cần làm cho người bệnh là không làm gì gây hại cho

người bệnh”. An toàn người bệnh là không để xảy ra các tai biến hay tổn thương có

tbể ngăn ngừa do chăm sóc y tế gây ra, và cải tiến chất lượng liên tục nhằm cải

thiện sức khỏe và đạt đến kết quả tốt nhất cho người bệnh (WHO, 2001). Tuy nhiên,

27

bên cạnh đó, William Osler cũng chỉ ra rằng y khoa là khoa học của sự bất định, và

là nghệ thuật của xác suất. Một thuật điều trị được xem là tiêu chuẩn vàng hôm nay

vẫn có thể trở thành sai lầm nguy hiểm trong tương lai (Michael, 1999). Vì thế

trong ngành y, sai sót có thể xảy ra vào bất cứ thời điểm nào của quá trình chăm sóc

sức khỏe từ chẩn đoán, điều trị, đến phòng ngừa. Sai sót 80 từ lỗi hệ thống và sai

sót, sự cố là cơ hội cho cải tiến.

Vậy làm thế nào để tạo một môi trường khuyến khích nhận diện sai sót, báo

cáo sai sót, và học hỏi từ sai sót, để xác định nguyên nhân và có hoạt động thích

hợp để cải thiện cho tương lai. Xuất phát từ nhận định, quan điểm đó, Ban An toàn

người bệnh trực thuộc phòng Kế hoạch tổng hợp được hình thành với nhiệm vụ

thiết lập hệ thống thu thập và báo cáo các sự cố tự nguyện, nhầm lẫn, sai sót chuyên

môn kỹ thuật toàn bệnh viện, sau đó tiến hành điều tra và định kỳ phân tích nguyên

nhân nhằm rút kinh nghiệm và có đề xuất biện pháp phòng ngừa hiệu quả, từ đó

thông tin, học hỏi từ sai sót.

Bên cạnh đó, Ban An toàn người bệnh cũng hỗ trợ xây dựng, ban hành

những quy định cụ thể về bảo đảm an toàn cho người bệnh. Triển khai và giám sát

thực hiện các biện pháp phòng ngừa, bảo đảm an toàn, tránh nhầm lẫn cho người

bệnh trong việc dùng thuốc, phẫu thuật và thủ thuật. Hoạt động của Ban An toàn

người bệnh được sơ đồ hóa như sau:

28

Hình 4.2.1 Sơ đồ hoạt động Ban An toàn người bệnh

Qua hai năm hoạt động, Ban an toàn người bệnh đã xây dựng được mạng

lưới Tiểu ban An toàn người bệnh với 76 thành viên có nhiệm vụ triển khai các hoạt

động của Ban đến tất cả nhân viên khoa/phòng. Ban cũng đã hoàn thiện qui trình

quản lý sự cố bệnh viện, triển khai tập huấn cho tất cả thành viên mạng lưới, đặc

biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của việc báo cáo sự cố và cơ chế khuyến khích khen

thưởng khi báo cáo sự cố. Số phiếu báo cáo sự cố tăng lên qua hàng năm, năm 2012

với 40 sự cố được báo cáo đã tăng lên gấp đôi vào một năm sau đó.

Và để xử trí cho các bước tiếp theo của qui trình quản lý sự cố, hàng năm,

Ban An toàn người bệnh tổ chức ba diễn đàn về an toàn người bệnh, và 8 chương

trình học hỏi từ sai sót về các chuyên đề liên quan đến sự cố được báo cáo như

Băng huyết sau sanh, Suy thai trong chuyển dạ … và xuất bản 6 bản tin An toàn

29

người bệnh như một kênh thông tin các sự cố và đề xuất giải pháp khắc phục đến tất

cả nhân viên bệnh viện.

Hoạt động của An toàn người bệnh tại Bệnh viện ngày càng mạnh mẽ và qui

cũ hơn vào cuối tháng 11 năm 2013, phòng quản lý chất lượng bệnh viện hình thành

theo thông tư 19 của Bộ Y tế về triển khai công tác quản lý chất lượng bệnh viện.

Các hoạt động tập huấn qui trình quản lý sự cố được lặp đi lặp lại với nhiều hình

thức tổ chức tích cực tạo sự phấn khích và chủ động cho người tham dự, các cuộc

họp phân tích nguyên nhân gốc được triển khai hàng tuần với quan điểm “Vấn đề là

gì? Tại sao vấn đề đó xảy ra? Và giải pháp là gì? Giúp giảm được phần nào mối

quan ngại của văn hóa buộc tội trong nhân viên. Số phiếu báo cáo sự cố gởi về càng

nhiều với hơn 100 sự cố được báo cáo trong năm 2014, và trong vòng 3 tháng đầu

năm 2015, số sự cố được báo cáo bằng với con số thống kê năm 2014. Trong đó, số

sự cố suýt xảy ra chiếm 35 , sự cố sai biệt chiếm 55 và sự cố đặc biệt nghiêm

trọng chiếm 10 . Trong đó, 60 sự cố được báo cáo từ hệ thống điều dưỡng, nữ hộ

sinh.

Nhận định 80 lỗi hệ thống hiện diện trong tất cả các sự cố được phân tích

nguyên nhân gốc, phòng quản lý chất lượng tiến hành xây dựng và chuẩn hóa các

qui trình liên quan trong bệnh viện, và đến nay với hơn 85 qui trình đã phê duyệt,

45 qui trình đã soạn thảo và 30 qui trình đang trong quá trình hoàn thiện do chính

các thành viên mạng lưới quản lý chất lượng (200 thành viên – tiền thân mạng lưới

tiểu ban An toàn người bệnh) thực hiện.

Cuộc họp mạng lưới quản lý chất lượng được tổ chức thường xuyên định kỳ

mỗi sáu tuần, nhằm tập huấn các nội dung liên quan đến An toàn người bệnh – quản

lý chất lượng như giới thiệu về kỹ thuật 5S, hướng dẫn về cách viết qui trình, cách

xây dựng kế hoạch, cách thức quản lý thời gian cũng như ôn lại các bước trong qui

trình quản lý sự cố …; nhưng điều quan trọng hơn cả là quan điểm “An toàn người

bệnh là an toàn thầy thuốc”, “Bệnh nhân hạnh phúc làm nên những người bác sĩ

hạnh phúc”, “Sự cố của người này là bài học kinh nghiệm cho người khác” và

30

“Bệnh viện đã tốt nay còn tốt hơn” cùng với hình thức hoạt động nhóm sinh động

và tạo động lực luôn được lồng ghép trong cách thức tổ chức.

Hoạt động an toàn người bệnh chưa dừng lại tại đó, Ban giám đốc bệnh viện

chỉ đạo và tổ chức thành công các lớp kỹ năng mềm giúp thúc đẩy hoạt động quản

lý chất lượng – An toàn người bệnh đạt được những bước tiến nhanh hơn như tổ

chức 17 lớp Kỹ năng giao tiếp hiệu quả và 2 lớp Kỹ năng làm việc đội/nhóm dành

cho nhân viên; đối với cán bộ quản lý triển khai 4 lớp Phát triển kỹ năng cá nhân, 1

lớp Kỹ năng dẫn giảng lấy người học làm trọng tâm, 4 lớp Chân dung nhà quản lý

chuyên nghiệp, 1 lớp Kỹ năng quản lý con người và một cho Quản trị nguồn nhân

lực … những kỹ năng cần thiết và quan trọng trong công tác quản lý cấp trung –

xương sống của bệnh viện. Vì có triển khai thực hiện thì càng hiểu rõ bốn chữ “cam

kết lãnh đạo”, tiêu chí tiên quyết cho hoạt động An toàn người bệnh và quản lý chất

lượng, một hành trình có điểm bắt đầu nhưng chưa điểm kết thúc.

Tóm lại, chương 4 giới thiệu sơ lược công tác khám chữa bệnh với chức

năng nhiệm vụ cụ thể 35 khoa/phòng của Bệnh viện Từ Dũ, bệnh viện tuyến một

trong hệ thống y tế Việt Nam với một qui mô tầm cỡ; và tổng quan hoạt động công

tác An toàn người bệnh tại bệnh viện từ tháng 9 năm 2011 đến nay.

31

CHƯƠNG 5: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

Chương này tác giả trình bày kết quả nghiên cứu bao gồm 4 phần, đầu tiên

tác giả mô tả mẫu, tiếp đến tác giả mô tả kết quả đánh giá thang đo văn hóa an toàn

người bệnh bằng phương pháp phân tích nhân tố khám phá (Exploratory Factor

Analyses - EFA) để đánh giá giá trị hội tụ và giá trị phân biệt của thang đo nhằm

xác định các câu hỏi được phân bổ vào từng lĩnh vực thuộc một khái niệm; và kiểm

định độ tin cậy của các câu hỏi bằng phép kiểm Cronbach’s Alpha; và phần thứ 3

tác giả trình bày kết quả của nghiên cứu gồm dạng thống kê mô tả nhằm xác định

thực trạng văn hóa an toàn người bệnh của Bệnh viện, được trình bày theo hướng

dẫn của Cơ quan nghiên cứu chất lượng y tế (AHRQ) để có thể so sánh cùng các

nghiên cứu tương tự trên thế giới; và cuối cùng trình bày kết quả kiểm định sự khác

biệt của các thành phần văn hóa an toàn người bệnh theo các đặc điểm chức danh

nghề nghiệp, chức vụ, thời gian công tác tại bệnh viện và thu nhập được thể hiện

qua mô hình hồi qui dường như không liên quan (Seemingly Unrelated Regression

– SUR).

5.1 Mô tả mẫu:

Tổng số đối tượng khảo sát là 2.118 người tương ứng với 2.118 bản câu hỏi.

Kết quả thống kê mô tả số lượng nhân viên theo khối, chức danh nghề nghiệp, chức

vụ tại khoa, thâm niên công tác tại bệnh viện cũng như tại khoa/phòng, đặc thù công

việc có tiếp xúc trực tiếp với người bệnh và mức thu nhập trung bình hàng tháng

của nhân viên sẽ được trình bày dưới dạng bảng như sau.

32

Bảng 5.1 Số lượng nhân viên theo khối

18.2

Khối phòng chức năng

Khối cận lâm sàng

16.3

Khối lâm sàng

65.5

Số liệu bảng 5.1 cho thấy nhân viên được phân bổ đến các khối lâm sàng, cận

lâm sàng và chức năng chiếm tỉ lệ lần lượt như sau 65,5 , 16,3 và 18,2 .

Bảng 5.2 Chức danh nghề nghiệp

BS

ĐD/NHS

14.4 18.2

DS

KTV

6.9

Khác

2.6 51

33

Bảng 5.2 cho thấy trong 2.118 đối tượng khảo sát, có 305 Bác sĩ tham gia

nghiên cứu (14,4 ), 1.080 điều dưỡng/nữ hộ sinh chiếm 51 số lượng nhân viên

bệnh viện; 2,6 dược sĩ; 6,9 kỹ thuật viên; và nhân viên văn phòng, thư ký y

khoa, thu ngân, kế toán … chiếm tỉ lệ khoảng 18,2 . Qua số liệu thống kê này cho

thấy, tại Bệnh viện Từ Dũ cứ một bác sĩ thì có khoảng 3 điều dưỡng/nữ hộ sinh.

Trong khi đó ở Việt Nam, cứ một bác sĩ thì có 1,5 điều dưỡng, trong khi tỷ lệ tối

thiểu mà Tổ chức Y tế Thế giới (2001) khuyến cáo là 1 bác sĩ/4 điều dưỡng. Sự

thiếu hụt điều dưỡng/nữ hộ sinh cũng là yếu tố nguy cơ làm tăng tần suất sự cố, rủi

ro trong quá trình chăm sóc sức khỏe sinh sản thai phụ.

Bảng 5.3 Thời gian công tác tại Bệnh viện

7.25

< 1 năm

23.25

1 - 5 năm

6 - 10 năm

> 10 năm

51.67

17.83

Bảng số liệu nêu trên cho thấy chỉ có khoảng 7 nhân viên bệnh viện có thời

gian công tác tại bệnh viện trên 6 tháng và dưới 1 năm, khoảng 23 nhân viên làm

việc từ một đến năm năm, và gần 70 nhân viên có thâm niên công tác tại bệnh

viện từ 6 năm trở lên. Qua số liệu nêu trên cho thấy hầu hết nhân viên bệnh viện với

thâm niên công tác từ một năm trở lên đủ thời gian hiểu rõ về văn hóa tổ chức mình

công tác.

34

Bảng 5.4 Thời gian công tác tại Khoa/Phhòng

Số liệu thống kê nêu trên cho thấy thời gian công tác tại bệnh viện và thời

gian công tác tại khoa/phòng của nhân viên bệnh viện chiếm tỉ lệ xấp xỉ bằng nhau.

Bảng 5.5 Công việc trực tiếp tiếp xúc với người bệnh

80 nhân viên bệnh viện tiếp xúc trực tiếp với người bệnh trong quá trình công tác.

35

Bảng 5.6 Chức vụ tại khoa/phòng

Số liệu thống kê cho thấy, trong số 2.118 nhân viên được khảo sát chỉ có gần

7 đối tượng giữ chức vụ là trưởng/phó khoa/phòng.

Bảng 5.7 Thu nhập

Kết quả bảng 5.7 cho thấy, khoảng 50 nhân viên có thu nhập trung bình

hàng tháng từ 8 đến 12 triệu, 30 nhân viên có thu nhập trung bình từ 5 đến dưới 8

36

triệu. Nhân viên có thu nhập trên 12 triệu chiếm 13 , và thu nhập từ 3 đến dưới 5

triệu chiểm tỉ lệ khoảng 7 .

5.2. Đánh giá thang đo văn hóa an toàn người bệnh bằng phương pháp

phân tích nhân tố khám phá (EFA) và kiểm định độ tin cậy bằng phép kiểm

Cronbach’s Alpha

Tác giả tiến hành phân tích nhân tố khám phá (EFA) cho từng thành

phần/lĩnh vực của văn hóa an toàn người bệnh nhằm xác định các biến nào đạt yêu

cầu nghiên cứu. Những biến có hệ số tải nhân tố (factor loading) dưới 0,5 và tổng

phương sai trích (cumulative) dưới 0,5 sẽ bị loại khỏi thang đo. Tiếp đến, tác giả

phân tích độ tin cậy bằng hệ số Cronbach’s Alpha (CA) với tiêu chí alpha ≥ 0,6 và

hệ số tương quan biến tổng của mỗi nhân tố (item – rest correlation) ≥ 0,3 thì các

nhân đó đạt yêu cầu và chứng minh thang đo thu được là tốt, có giá trị và độ tin cậy.

Kết quả tổng hợp được trình bày chi tiết trong bảng sau.

Văn hóa an toàn người bệnh

EFA

Cronbach’s Alpha

Kết

Factor

cumulative

alpha

item – rest

quả

Nhân tố

loading

correlation

0.5863

0.7632

Đạt

Bảng 5.8 Đánh giá thang đo

0.80

-

0.61

-

Y1 Làm việc theo ê kíp trong

khoa/phòng Mọi người trong khoa luôn sẵn lòng hỗ trợ nhau (A1)

0.72

-

0.52

-

0.81

-

0.62

-

Nhân viên trong khoa luôn làm việc theo nhóm để hoàn thành các công việc mang tính khẩn cấp (A3) Mọi người trong khoa luôn tôn trọng nhau (A4)

0.70

-

0.49

-

-

0.78

Đạt

Nhân viên trong khoa tự giác hỗ trợ lẫn nhau khi khoa bị quá tải công việc (A11) Y2 Quan điểm và hành động về ATNB của người quản lý

37

0.75

-

0.78

0.79

-

0.60

-

0.66

Y2a

0.45

-

Lãnh đạo khoa động viên, khen ngợi khi nhân viên thực hiện theo đúng các qui trình đảm bảo an toàn cho người bệnh (B1) Lãnh đạo khoa luôn lắng nghe và xem xét nghiêm túc các đề xuất của nhân viên trong việc cải tiến an toàn cho người bệnh (B2) Khi áp lực công việc tăng cao, lãnh đạo khoa luôn hối thúc nhân viên hoàn thành dù có thể bỏ qua các qui trình an toàn (B3) Dù có các sai sót cứ lặp đi lặp lại trong khoa nhưng lãnh đạo khoa vẫn không quan tâm (B4)

Không

Y2b

0.52

0.54

hệ thống

Đạt

0.78

0.41

0.64

0.29

0.73

0.35

Khoa chủ động triển khai các hoạt động để đảm bảo ATNB (A6) Nhân viên trong khoa cảm thấy chính các sai sót đã giúp khoa cải tiến tốt hơn (A9) Khoa có tiến hành đánh giá hiệu quả sau khi thực hiện các biện pháp can thiệp để cải tiến ATNB (A13)

0.52

0.56**

Y3 Cải tiến liên tục – Học tập

Đạt

0.78

0.32

0.76

0.32

-0.61

0.26*

ATNB Lãnh đạo Bệnh viện (BV) luôn cung cấp một môi làm việc nhằm trường thúc đẩy ATNB (F1) Các hoạt động của BV cho thấy ATNB là ưu tiên hàng đầu trong hoạt động chăm sóc người bệnh (F8) BV chỉ quan tâm đến ATNB khi có sự cố xảy ra (F9)*

Không

Y4 Hỗ trợ về quản lý cho

0.60

ATNB

đạt

0.43

Khoa luôn đặt vấn đề ATNB lên hàng đầu hơn

Y5 Quan điểm tổng quát về

38

0.41

0.44

0.05

0.07

Y5a

0.11

Y5b

Đạt

0.68

0.76

là cố gắng hoàn thành thật nhiều việc (A15) Khoa có những qui trình và biện pháp hiệu quả để phòng ngừa sai sót xảy ra (A18) Khoa của Anh/Chị chưa có sai sót nghiêm trọng xảy ra,chủ yếu là do may mắn (không phải do khoa chủ động phòng ngừa) (A10) Khoa đã từng có một số sai sót liên quan đến ATNB (A17) Phản hồi và trao đổi về sai sót

0.80

0.57

sự cố

0.85

0.64

0.81

0.58

Anh/Chị được thông báo trong về các khoa/bệnh viện và biện pháp khắc phục phòng ngừa được áp dụng (C1) Nhân viên được thông tin về các sai sót xảy ra trong khoa (C3) Khoa có tổ chức thảo luận các biện pháp để ngừa sai sót tái diễn (C5) Trao đổi cởi mở

0.61

0.68

Y6

Đạt

0.82

0.48

0.82

0.47

-0.70

0.40

Nhân viên có thể thoải mái góp ý với lãnh đạo khoa khi họ thấy có những sai sót trong khoa ảnh hưởng đến BN (C2) Nhân viên cảm thấy thoải mái, không e ngại trong việc yêu cầu lãnh đạo khoa/BV thực hiện các cải tiến nâng cao ATNB (C4) Nhân viên e ngại không dám thắc mắc và có ý kiến khi có những sự việc không đúng hoặc có thể có sai sót xảy ra trong khoa (C6)

Y7

39

0.63

0.71

Đạt

0.64

0.37

Báo cáo sự cố xảy ra nhưng đã được phát hiện và ngăn chặn kịp thời trước khi ảnh hưởng lên bệnh nhân (D1)

0.85

0.61

Báo cáo sự cố xảy ra do không tuân thủ các chính sách, quy trình, quy định, … của BV (D2)

0.87

0.64

tổn

0.47

0.61

Y8 Tần suất ghi nhận sự cố

Đạt

Báo cáo sự cố gây tử vong hoặc gây thương nghiêm trọng không mong đợi về mặt thể chất hoặc tinh thần người bệnh (D3) Y9 Làm việc theo ê kip giữa

0.78

0.45

các khoa/phòng Có sự hợp tác tốt giữa các khoa phòng (F4)

0.73

0.41

-0.65

0.37

-0.56

0.31

Không

Các khoa hợp tác tốt với nhau để đảm bảo chăm sóc BN tốt nhất (F10) Giữa các khoa phòng không có sự phối hợp tốt với nhau (F2) Anh/Chị cảm thấy không thoải mái khi làm việc với các nhân viên khoa khác (F6) Y10 Nhân sự

0.42

0.53

đạt

-0.51

0.21

Khoa có đủ nhân sự để làm việc (A2)

0.71

0.33

0.81

0.42

0.51

0.20

Đạt

Thời gian làm việc trong khoa chưa đảm bảo chăm sóc bệnh nhân (BN) tốt nhất (A5) Số lượng nhân viên trong khoa chưa đảm bảo chăm sóc BN tốt nhất (A7) Khoa thường làm việc một cách vội vã, cố gắng làm thật nhiều và thật nhanh các công việc nên dễ có nguy cơ sai sót (A14) Y11 Bàn giao và chuyển bệnh

0.44

0.59**

40

0.68

0.37

0.70

0.38

0.74

0.45

0.52

0.25*

Khi chuyển bệnh, các thông tin của người bệnh không được ghi nhận và bàn giao đầy đủ theo qui định (F3) Các thông tin quan trọng trong chăm sóc người bệnh thường không được bàn giao giữa các ca trực (F5) Việc trao đổi thông tin chăm sóc BN giữa các khoa thường có sai sót (F7) Có nhiều vấn đề liên quan đến ATNB xảy ra trong thời gian bàn giao giữa các ca trực ở BV (F11)*

0.52

0.56**

Đạt

0.79

0.40

0.75

0.36

0.61

0.26*

sai sót Nhân viên trong khoa cảm thấy bị thành kiến khi phạm sai sót (A8) Khi có sự cố xảy ra, khoa chỉ xem xét trách nhiệm cá nhân mà không tìm hiểu nguyên nhân do qui trình hay hệ thống (A12) Nhân viên lo lắng các sai sót của họ (nếu có) sẽ bị ghi nhận và làm cơ sở để đánh giá thi đua của họ (A16)*

Y12 Không trừng phạt khi có

*Loại trừ nhân tố ** Đã hiệu chỉnh

Bảng 5.8 trình bày kết quả phân tích EFA, các hệ số factor loading có giá trị

từ 0,45 đến 0,85. Và các giá trị Cronbach’s alpha được tính đạt từ 0,56 đến 0,78.

Như vậy, sau phần kiểm định thang đo 12 nhân tố thì thành phần Cải tiến liên tục,

học tập có hệ thống, Quan điểm tổng quát về an toàn người bệnh và Nhân sự bị loại.

Thành phần Quan điểm và hành động về an toàn người bệnh của người quản lý tách

ra thành 2 nhân tố. Do vậy, mô hình nghiên cứu được hiệu chỉnh có tất cả 10 yếu tố.

Phần phân tích hồi qui dường như không liên quan - SUR sẽ thực hiện trên mô hình

hiệu chỉnh này.

41

5.3 Thống kê mô tả xác định văn hóa an toàn người bệnh của Bệnh viện

Kết quả nghiên cứu về văn hóa an toàn người bệnh tại Bệnh viện Từ Dũ

được trình bày theo hướng dẫn của Cơ quan nghiên cứu chất lượng y tế (AHRQ) để

có thể so sánh cùng các nghiên cứu tương tự trên thế giới.

Bảng 5.9 Phân độ An toàn người bệnh

Hoàn hảo Rất tốt Chấp nhận được Kém Rất kém

Qua khảo sát 2.118 nhân viên bệnh viện, kết quả cho thấy, 70 nhân viên

bệnh viện nhận định bệnh viện đã làm rất tốt/hoàn hảo công tác an toàn người bệnh,

chỉ 1/3 số nhân viên nhận định an toàn người bệnh tại bệnh viện là chấp nhận được,

trong khi chỉ có một số rất nhỏ, không đáng kể (1,3 ) nhìn nhận là công tác an toàn

người bệnh kém/rất kém.

Bảng 5.10 Quan điểm tổng quát về An toàn người bệnh*

Rất đồng ý 

Hoàn toàn Không đồng ý không đồng ý   Không đồng ý

Không biết  Không biết

Đồng ý  Đồng ý

Khoa luôn đặt vấn đề an toàn người bệnh lên hàng đầu hơn là cố gắng hoàn thành thật nhiều việc (A15)

Khoa có những qui trình và biện pháp hiệu quả để phòng ngừa sai sót xảy ra (A18)

Khoa của Anh/Chị chưa có sai sót nghiêm trọng xảy ra, chủ yếu là do may mắn (không phải do khoa chủ động phòng ngừa) (A10)

Khoa đã từng có một số sai sót liên quan đến an toàn người bệnh (A17)

*Mang tính chất tham khảo

42

Qua số liệu thống kê nêu trên chứng minh rằng các Khoa/phòng luôn đặt vấn

đề an toàn người bệnh lên hàng đầu hơn là cố gắng hoàn thành thật nhiều việc

chiếm 86%. Một kết quả thật đáng mừng vì đảm bảo an toàn người bệnh là trách

nhiệm của mọi cơ sở y tế, mọi cán bộ lãnh đạo bệnh viện và cũng là sứ mệnh của

mọi thầy thuốc, mọi nhân viên y tế... cũng như lời thề Hippocrates – nguyên tắc

hàng đầu trong y khoa là “First, do no harm – Điều đầu tiên là không gây hại cho

người bệnh”. Không những thế, hầu hết tất cả khoa/phòng (93%) cho rằng họ có

những qui trình và biện pháp hiệu quả để phòng ngừa sai sót xảy ra. Do vậy,

khoảng 80% nhân viên bệnh viện không đồng thuận việc khoa/phòng của họ chưa

có sai sót nghiêm trọng xảy ra, chủ yếu là do may mắn chứ không phải là do khoa

chủ động phòng ngừa. Tuy nhiên, cũng hơn ½ tổng số nhân viên thừa nhận rằng

Khoa đã từng có một số sai sót liên quan đến an toàn người bệnh. Điều này có thể

lý giải vì y tế là một hệ thống phức tạp và đa dạng trong lĩnh vực chăm sóc bệnh

nhân (Runciman B, 2007).

Bảng 5.11 Tần suất ghi nhận sự cố/sai sót/lỗi

Không bao

Thường

Điểm

giờ

Hiếm khi

Đôi khi

xuyên

Luôn luôn

trung bình

3.7480

Báo cáo sự cố xảy ra nhưng đã được phát hiện và ngăn chặn kịp thời trước khi ảnh hưởng lên bệnh nhân (D1)

2.9646

Báo cáo sự cố xảy ra do không tuân thủ các chính sách, quy trình, quy định, … của bệnh viện (D2)

3.0443

Báo cáo sự cố gây tử vong hoặc gây tổn thương nghiêm trọng không mong đợi về mặt thể chất hoặc tinh thần người bệnh (D3)

Kết quả nghiên cứu cho thấy khoảng 70 nhân viên sẵn sàng báo cáo sự cố

suýt xảy ra (là sự cố xảy ra nhưng đã được phát hiện và ngăn chặn kịp thời trước khi

ảnh hưởng lên bệnh nhân), trong khi chỉ có 1/3 tổng số nhân viên báo cáo sự cố sai

43

biệt (sự cố xảy ra do không tuân thủ các chính sách, quy trình, quy định, … của

bệnh viện), và chỉ khoảng ½ số nhân viên thực hiện báo cáo sự cố đặc biệt nghiêm

trọng (sự cố gây tử vong hoặc gây tổn thương nghiêm trọng không mong đợi về mặt

thể chất hoặc tinh thần người bệnh). Điều này cho thấy mức độ tác động của sự cố

trên người bệnh sẽ ảnh hưởng đến hành vi báo cáo.

Bảng 5.12 Tần suất sự cố/sai sót/lỗi được báo cáo

1 - 5 0 ≥ 6

Bảng 5.11 và bảng 5.12 cho thấy nhận thức và hành vi báo cáo đôi khi không

song hành, dù lần lượt có 70 nhân viên sẵn sàng báo cáo sự cố suýt xảy ra, 37

báo cáo sự cố sai biệt, và 45 báo cáo sự cố đặc biệt nghiêm trọng. Nhưng khi khảo

sát định lượng về số sự cố đã được báo cáo trong một năm qua thì chỉ có khoảng 1/3

nhân viên đã từng thực hiện hành vi này.

44

Bảng 5.13 Quan điểm và hành động về an toàn người bệnh của người quản lý

Hoàn toàn

không đồng

Không

Không

Rất đồng

Đểm

ý

đồng ý

biết

Đồng ý

ý

trung bình

Không

Không đồng ý

biết

Đồng ý

4,1076

Lãnh đạo khoa động viên, khen ngợi khi nhân viên thực hiện theo đúng các qui trình đảm bảo an toàn cho người bệnh (B1)

4,0369

Lãnh đạo khoa luôn lắng nghe và xem xét nghiêm túc các đề xuất của nhân viên trong việc cải tiến an toàn cho người bệnh (B2)

2,1307

Khi áp lực công việc tăng cao, lãnh đạo khoa luôn hối thúc nhân viên hoàn thành dù có thể bỏ qua các qui trình an toàn (B3)

1,8576

Dù có các sai sót cứ lặp đi lặp lại trong khoa nhưng lãnh đạo khoa vẫn không quan tâm (B4)

Kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết nhân viên (88,35 ) đều nhận định rất

tốt về các cấp quản lý của họ trong cả quan điểm và hành động trong công tác quản

lý an toàn người bệnh như 91,3 ghi nhận Lãnh đạo khoa luôn động viên, khen

ngợi khi nhân viên thực hiện theo đúng các qui trình đảm bảo an toàn cho người

bệnh. Không những thế, Lãnh đạo khoa luôn lắng nghe và xem xét nghiêm túc các

đề xuất của nhân viên trong việc cải tiến an toàn cho người bệnh chiếm 90 . Và khi

áp lực công việc tăng cao, lãnh đạo khoa luôn hối thúc nhân viên hoàn thành dù có

thể bỏ qua các qui trình an toàn, có 82,1 nhân viên không đồng thuận với quan

điểm này. Và cũng 90 ý kiến không đồng ý quan điểm “Dù có các sai sót cứ lặp đi

lặp lại trong khoa nhưng lãnh đạo khoa vẫn không quan tâm”.

45

Bảng 5.14 Tính cải tiến liên tục và học tập một cách hệ thống*

Hoàn toàn không đồng ý 

Không đồng ý 

Không biết 

Đồng ý 

Rất đồng ý 

Không đồng ý

Không biết

Đồng ý

Khoa chủ động triển khai các hoạt động để đảm bảo an toàn người bệnh (A6)

Nhân viên trong khoa cảm thấy chính các sai sót đã giúp khoa cải tiến tốt hơn (A9)

Khoa có tiến hành đánh giá hiệu quả sau khi thực hiện các biện pháp can thiệp để cải tiến an toàn người bệnh (A13)

*Mang tính chất tham khảo

Hầu hết nhân viên ghi nhận rằng:”Bệnh viện đã luôn cải tiến không ngừng

và học tập có hệ thống”. Điều đó được chứng tỏ qua những con số được khảo sát

trong nghiên cứu như sau: hơn 90% nhân viên cho rằng Khoa chủ động triển khai

các hoạt động để đảm bảo an toàn người bệnh, và họ cảm thấy chính các sai sót đã

giúp khoa cải tiến tốt hơn. Và 83,4% nhân viên ghi nhận Khoa có tiến hành đánh

giá hiệu quả sau khi thực hiện các biện pháp can thiệp để cải tiến an toàn người

bệnh.

Bảng 5.15 Làm việc theo ê kíp trong Khoa/phòng

Hoàn toàn

Không

không đồng ý

đồng ý

Không biết

Đồng ý

Rất đồng ý

Điểm

Trung bình

Không

Không đồng ý

biết

Đồng ý

4,2999

4,1566

Mọi người trong khoa luôn sẵn lòng hỗ trợ nhau (A1) Nhân viên trong khoa luôn làm việc theo nhóm (team work) để hoàn

46

thành các công việc mang tính khẩn cấp (A3)

4,1392

Mọi người trong khoa luôn tôn trọng nhau (A4)

4,1347

Nhân viên trong khoa tự giác hỗ trợ lẫn nhau khi khoa bị quá tải công việc (A11)

Từ số liệu bảng 5.15 cho thấy, trung bình có 92,3 đối tượng nghiên cứu có

những trả lời rất tích cực trong lĩnh vực làm việc theo ê kíp trong khoa/phòng, mọi

người trong khoa luôn sẵn lòng hỗ trợ nhau (95,4 ); luôn tôn trọng nhau (90,8 );

họ luôn làm việc theo nhóm để hoàn thành các công việc mang tính khẩn cấp

(91,7%) và luôn tự giác hỗ trợ lẫn nhau khi khoa bị quá tải công việc (91,4%). Làm

việc đội nhóm hiệu quả trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe có tác động lớn và tích

cực đối với an toàn người bệnh (Baker, 2005), giúp giảm tần suất sai sót y khoa

(Kohn, 1999).

Bảng 5.16 Trao đổi cởi mở

Hoàn toàn

Không

không đồng ý

đồng ý

Không biết

Đồng ý

Rất đồng ý

Điểm

Trung bình

Không

Không đồng ý

biết

Đồng ý

3,4672

3,5875

2,4411

Nhân viên có thể thoải mái góp ý với lãnh đạo khoa khi họ thấy có những sai sót trong khoa ảnh hưởng đến bệnh nhân (C2) Nhân viên cảm thấy thoải mái, không e ngại trong việc yêu cầu lãnh đạo khoa/BV thực hiện các cải tiến nâng cao an toàn người bệnh (C4) Nhân viên e ngại không dám thắc mắc và có ý kiến khi có những sự việc không đúng hoặc có thể có sai sót xảy ra trong khoa (C6)

47

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, hơn ½ tổng số nhân viên có thể thoải mái

góp ý với lãnh đạo khoa khi họ thấy có những sai sót trong khoa ảnh hưởng đến

bệnh nhân (52,7 ), và họ cũng không có cảm giác e ngại trong việc yêu cầu lãnh

đạo khoa/bệnh viện thực hiện các cải tiến nâng cao an toàn người bệnh (61,4%). Do

vậy, có hơn 50 nhân viên không đồng ý quan điểm “Nhân viên e ngại không dám

thắc mắc và có ý kiến khi có những sự việc không đúng hoặc có thể có sai sót xảy

ra trong khoa”. Điều này cho thấy, mối liên hệ giữa nhân viên và lãnh đạo

khoa/phòng rất tốt, họ cởi mở và trao đổi thông tin trong khoa với nhau tốt, họ tôn

trọng lẫn nhau và điều quan trọng hơn cả là an toàn người bệnh được đặt lên hàng

đầu.

Bảng 5.17 Phản hồi và trao đổi về sai sót/lỗi

Hoàn toàn

Không

Không

Rất đồng

không đồng ý

đồng ý

biết

Đồng ý

ý

Điểm

trung bình

Không

Không đồng ý

biết

Đồng ý

3,9627

4,0204

Anh/Chị được thông báo về các sự cố trong khoa/bệnh viện và biện pháp khắc phục phòng ngừa được áp dụng (C1) Nhân viên được thông tin về các sai sót xảy ra trong khoa (C3)

3,8896

Khoa có tổ chức thảo luận các biện pháp để ngừa sai sót tái diễn (C5)

Số liệu thống kê của bảng trên cho thấy, khoảng 80 nhân viên bệnh viện

được thông báo về các sự cố/sai sót trong khoa/bệnh viện và biện pháp khắc phục

phòng ngừa được áp dụng; và họ có tổ chức thảo luận các biện pháp để ngừa sai sót

tái diễn. Điều này cho thấy việc trao đổi thông tin trong khoa, đặc biệt là việc phản

hồi và trao đổi về sai sót xảy ra được ghi nhận rất tích cực.

48

Bảng 5.18 Không trừng phạt khi có sai sót/lỗi

Hoàn toàn

không đồng

Không đồng

ý

ý

Không biết

Đồng ý

Rất đồng ý

Điểm

Trung

bình

Không đồng ý

Không biết

Đồng ý

2.5051

2.1997

3.4427

Nhân viên trong khoa cảm thấy bị thành kiến khi phạm sai sót (A8) Khi có sự cố xảy ra, khoa chỉ xem xét trách nhiệm cá nhân mà không tìm hiểu nguyên nhân do qui trình hay hệ thống (A12) Nhân viên lo lắng các sai sót của họ (nếu có) sẽ bị ghi nhận và làm cơ sở để đánh giá thi đua của họ (A16)

Về văn hóa không trừng phạt tại bệnh viện thì có khoảng 56,2 nhân viên có

ý kiến tích cực về lĩnh vực này. Tỉ lệ nhân viên trong khoa cảm thấy không bị thành

kiến khi phạm sai sót chiếm 64,4 . Và khi có sự cố xảy ra, khoa tiếp cận vấn đề

theo cách hệ thống (Cái gì? Tại sao?), chứ không tập trung vào yếu tố con người (Ai

làm?) với kết quả khảo sát chiếm 78,4 . Điều này rất quan trọng vì giúp tạo ra một

văn hóa làm việc khuyến khích công tác báo cáo sự cố với các yếu tố nguy cơ, rủi

ro cao góp phần cải thiện hệ thống và an toàn người bệnh. Tuy nhiên, bên cạnh đó,

số nhân viên lo lắng các sai sót của họ (nếu có) sẽ bị ghi nhận và làm cơ sở để đánh

giá thi đua chiếm tỉ lệ khá cao (64,6 ). Điều này có nghĩa rằng, dù trong thực tiễn

hoạt động bệnh viện, công tác báo cáo sự cố/sai sót được khuyến khích, văn hóa

trừng phạt dần bị đẩy lùi và được thay thế từ từ bằng văn hóa khuyến khích khen

thưởng, nhưng có lẽ niềm tin cần được gầy dựng qua các hoạt động xử trí sự cố

ngày càng mạnh mẽ hơn nữa và cần có yếu tố thời gian để họ chiêm nghiệm và

vững tin vào một văn hóa không buộc tội và không trừng phạt.

Và để lý giải cho lo lắng, quan ngại này của hơn 1.368 nhân viên, tác giả đã

tìm hiểu và nhìn lại bức tranh lịch sử môn an toàn người bệnh và nguồn gốc của văn

hóa buộc tội. Từ xưa đến nay, cách chúng ta giải quyết những vấn đề, sự cố, sai sót

49

trong y khoa là luôn dựa trên cơ sở cách tiếp cận con người - chúng ta chọn ra một

người liên quan trực tiếp đến chăm sóc bệnh nhân vào thời điểm xảy ra sự cố và

buộc họ chịu trách nhiệm. Hành động “quy trách nhiệm” này là cách làm phổ biến

để giải quyết vấn đề, và hành động này được coi là một trong những cản trở lớn

nhất đối với khả năng quản trị rủi ro và nâng cao chất lượng chăm sóc của hệ thống

y tế (Reason, 1990; Millenson, 2002; Gault, 2002; Berwick, 2003; Watton, 2004).

Xét về khía cạnh tâm lý học xã hội thì bản chất con người là muốn đổ lỗi cho

người khác và đổ lỗi được cho ai đó sẽ mang lại cảm giác hài lòng cho tất cả mọi

người tham gia điều tra vụ việc. Mấu chốt của nhu cầu là niềm tin rằng hành động

trừng phạt là thông điệp mạnh mẽ cho những người khác hiểu rằng sai sót là không

thể chấp nhận được và những người mắc sai sót sẽ bị trừng phạt (Maurino, 1995).

Năm 1984, cách nay ba thập kỷ, Perrow (1999) là một trong những người

đầu tiên viết về sự cần thiết phải dừng ngay việc “quy kết trách nhiệm” cho các cá

nhân, khi ông nhận thấy 60 đến 80 những sự cố, sai sót là lỗi hệ thống (Steel,

1981). Từ công trình nghiên cứu của Perrow và Turner (1976), Reason (1997) cũng

phân tích nguyên nhân sai sót của con người là do hành động của con người gần

như luôn bị kiềm chế và chi phối bởi những yếu tố nằm ngoài sự kiểm soát trực tiếp

của cá nhân, cũng như con người khó có thể tránh được những hành động mà họ

không cố ý thực hiện.

Ngày nay, phần lớn các nhà quản lý của các hệ thống công nghiệp, công

nghệ cao đều nhận thức rằng văn hóa buộc tội sẽ không giải quyết được các vấn đề

an toàn (Helmreich, 1998). Hệ thống y tế ở nhiều quốc gia mặc dù đã nhận thức

được vấn đề này, nhưng thực tế cho thấy con người vẫn chưa tách khỏi được cách

tiếp cận con người – văn hóa buộc tội hay văn hóa im lặng tập thể (che giấu sai

sót/sự cố) để hướng tới một văn hóa cởi mở hơn với cách tiếp cận quy trình, hệ

thống nhằm giúp nhận diện, phát hiện và phòng ngừa sai sót.

50

Bảng 5.19 Nhân sự*

Hoàn toàn không

Không đồng

đồng ý

ý

Không biết

Đồng ý

Rất đồng ý

Không đồng ý

Không biết

Đồng ý

Khoa có đủ nhân sự để làm việc (A2)

Thời gian làm việc trong khoa chưa đảm bảo chăm sóc bệnh nhân (BN) tốt nhất (A5)

Số lượng nhân viên trong khoa chưa đảm bảo chăm sóc BN tốt nhất (A7) Khoa thường làm việc một cách vội vã, cố gắng làm thật nhiều và thật nhanh các công việc nên dễ có nguy cơ sai sót (A14)

*Mang tính chất tham khảo

Kết quả nghiên cứu cho thấy 64% nhân viên có những nhận định rất tích cực

về lĩnh vực nhân sự của bệnh viện. Qua số liệu thống kê cho thấy, Khoa có đủ nhân

sự để làm việc chiếm khoảng 70%; 60% nhân viên không đồng tình việc thời gian

làm việc trong khoa chưa đảm bảo chăm sóc bệnh nhân tốt nhất và khoảng 80% ý

kiến không đồng tình về việc Khoa thường làm việc một cách vội vã, và cố gắng làm

thật nhiều, thật nhanh các công việc nên dễ có nguy cơ sai sót.

Bảng 5.20 Hỗ trợ về quản lý cho An toàn người bệnh

Hoàn toàn

Không

không đồng ý

đồng ý

Không biết

Đồng ý

Rất đồng ý

Điểm

Trung bình

Không

Không đồng ý

biết

Đồng ý

4.0220

4.2054

Lãnh đạo Bệnh viện (BV) luôn cung cấp một môi trường làm việc nhằm thúc đẩy an toàn người bệnh (F1) Các hoạt động của BV cho thấy an toàn người bệnh là ưu tiên hàng đầu trong hoạt động chăm sóc người bệnh (F8)

51

2.3785

BV chỉ quan tâm đến an toàn người bệnh khi có sự cố xảy ra (F9)

Số liệu cho thấy tại bệnh viện Từ Dũ, an toàn người bệnh được cấp quản lý

và lãnh đạo quan tâm (84 ). Điều này được minh chứng một cách cụ thể qua các số

liệu như sau. Hầu hết nhân viên nhận định Lãnh đạo Bệnh viện luôn cung cấp một

môi trường làm việc nhằm thúc đẩy an toàn người bệnh và các hoạt động của bệnh

viện cho thấy an toàn người bệnh là ưu tiên hàng đầu trong hoạt động chăm sóc

người bệnh, chứ không chỉ quan tâm đến an toàn người bệnh khi có sự cố xảy ra

chiếm 67,3 .

Bảng 5.21 Làm việc theo ê kíp giữa các Khoa/phòng

Hoàn toàn

Không

không đồng ý

đồng ý

Không biết

Đồng ý

Rất đồng ý

Điểm

Trung bình

Không

Không đồng ý

biết

Đồng ý

3.8978

Có sự hợp tác tốt giữa các khoa phòng (F4)

4.0177

2.4434

2.3873

Các khoa hợp tác tốt với nhau để đảm bảo chăm sóc BN tốt nhất (F10) Giữa các khoa phòng không có sự phối hợp tốt với nhau (F2) Anh/Chị cảm thấy không thoải mái khi làm việc với các nhân viên khoa khác (F6)

Qua số liệu khảo sát cho thấy 78 phản hồi tích cực về việc phối hợp hoạt

động giữa các Khoa/phòng. Hầu như các khoa luôn hợp tác tốt với nhau để đảm bảo

chăm sóc người bệnh tốt nhất và họ luôn cảm thấy thoải mái khi làm việc cùng nhau

(71,8%).

52

Bảng 5.22 Bàn giao và chuyển tiếp

Hoàn toàn

Không đồng

không đồng ý

Không biết

Đồng ý

Rất đồng ý

ý

Điểm

Trung

Không đồng ý

Không biết

Đồng ý

bình

2,2914

2,2263

2,4838

2,8397

Khi chuyển bệnh, các thông tin của người bệnh không được ghi nhận và bàn giao đầy đủ theo qui định (F3) Các tin quan thông trọng trong chăm sóc thường bệnh người không được bàn giao giữa các ca trực (F5) Việc trao đổi thông tin chăm sóc BN giữa các khoa thường có sai sót (F7) Có nhiều vấn đề liên quan đến an toàn người bệnh xảy ra trong thời gian bàn giao giữa các ca trực ở BV (F11)

Theo dữ liệu bảng trên cho thấy tại bệnh viện Từ Dũ, việc bàn giao, thông tin

khi chuyển bệnh được thực hiện khá tốt chiếm tỉ lệ hơn 63 . Trong đó, các thông

tin quan trọng của người bệnh được ghi nhận và bàn giao đầy đủ theo qui định

chiếm hơn 70 . Việc trao đổi thông tin chăm sóc người bệnh giữa các khoa thường

có sai sót chỉ chiếm khoảng 1/5 số trường hợp. Và một số vấn đề liên quan đến an

toàn người bệnh xảy ra trong thời gian bàn giao giữa các ca trực chiếm khoảng

30 . Việc trao đổi thông tin đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống y tế phức

tạp (JCI, 2011) thì việc chăm sóc người bệnh phụ thuộc rất nhiều vào thông tin và

liên lạc; liên lạc với cộng đồng, bệnh nhân, thân nhân người bệnh và giữa các nhân

viên y tế. Việc thất bại trong công tác liên lạc là một trong những nguyên nhân chủ

yếu dẫn đến mất an toàn cho người bệnh. Vì thế, với những số liệu thống kê nêu

trên là tín hiệu đáng mừng trong công tác an toàn người bệnh.

53

Tóm lại, qua kết quả thống kê mô tả nêu trên cho thấy văn hóa an toàn người

bệnh được đánh giá tích cực nhất là lĩnh vực “Làm việc theo ê kíp trong

khoa/phòng” với điểm số trung bình là 4,18 điểm, tiếp đến là “Quan điểm và hành

động về an toàn người bệnh của người quản lý” với điểm trung bình là 4,07; và lĩnh

vực nhận phản hồi tích cực thấp nhất, chỉ khoảng 2,3 điểm là thành phần “Bàn giao

và chuyển bệnh” và “Không trừng phạt khi có sai sót”.

5.4. Kết quả phân tích hồi qui

Sau khi đánh giá thang đo, văn hóa an toàn người bệnh chỉ gồm 10 thành

phần. Do vậy, mô hình nghiên cứu được hiệu chỉnh như sau.

Hình 5.4 Khung phân tích – Mô hình sau hiệu chỉnh

54

Bảng 5.23 Kết quả phân tích hồi qui

Tham chiếu

Văn hóa An toàn người bệnh

Y1

Y2a

Y2b

Y4

Y6

Y7

Y8

Y9

Y11

Y12

Chức danh nghề nghiệp

0,01

-0.14

0,12

-0,07

-0,17

-0,004

-0,26

-0,16

0,14

0,12

Nữ hộ sinh/Điều dưỡng

Bác sĩ

***

**

*

***

***

***

***

***

Kỹ thuật viên

-0,08

-0,14

0.04

0,08

-0,02

-0,05

-0,30

0,038

-0,02

0,07

***

**

Dược sĩ

-0,22

-0,23

0.06

0,20

-0,08

-0,12

-0,30

-0,005

0,04

0,10

*

*

Khác

-0,10

-0,09

0.14

-0,02

-0,19

-0,12

-0,22

-0,010

0,18

-0,01

**

***

**

***

***

**

Chức vụ Trưởng K/P

0,05

0.001

-0,07

0,26

-0,02

-0,07

-0,12

-0,05

-0,11

-0,08

Phó Khoa/Phòng (K/P)

**

Nhân viên

-0,22

-0,228

0,11

-0,04

-0,15

-0,15

-0,32

-0,01

-0,05

0,34

**

*

*

**

**

1 – 5 năm

-0,19

-0,26

0,17

-0,17

-0,11

0,03

-0,13

0,01

0,02

0,23

Thời gian công tác tại bệnh viện

55

*

***

***

***

***

***

< 1 năm

6 – 10 năm

-0,20

-0,28

-0,19

-0,13

0,06

0,08

0,02

0,13

0,27

0,26

*

***

***

***

***

***

11 – 15 năm

-0,12

-0,21

-0,11

-0,09

0,04

-0,12

0,08

0,13

0,25

0,22

**

***

***

***

16 – 20 năm

-0,19

-0,22

-0,18

-0,19

0,02

0,02

0,07

0,06

0,36

0,26

***

***

**

**

***

***

>20 năm

-0,10

-0,14

-0,09

0,01

0,11

0,06

0,03

0,19

0,32

0,25

***

***

***

*

Thu nhập hàng tháng 3 - < 5 triệu

5 - < 8 triệu

0, 11

-0,009

-0,12

0,07

0,006

-0,001

0,05

-0,03

-0,19

-0,03

**

*

8 – 12 triệu

0,05

-0,069

-0,19

0,11

0,013

-0,003

0,01

-0,06

-0,16

-0,14

*

>12 triệu

-0,06

0,03

-0,26

0,01

0,09

-0,009

-0,08

-0,12

-0,33

-0,10

**

***

cons

4,46

4,54

1,87

4.13

4,19

3,32

3,74

3,17

2,5

1.92

Lưu ý: *, **, *** có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 10 , 5 và 1

56

Theo kết quả hồi qui, tác giả nhận thấy chức danh nghề nghiệp ảnh hưởng

đến hầu như các thành phần của văn hóa an toàn người bệnh, ngoại trừ lĩnh vực

“Làm việc theo ê kíp giữa các khoa/phòng. Trong đó, yếu tố chức danh nghề nghiệp

có ảnh hưởng nhiều nhất trên lĩnh vực “Tần suất báo cáo sự cố” với sự khác biệt có

ý nghĩa thống kê. Qua số liệu nghiên cứu, tác giả nhận thấy nhóm điều dưỡng/nữ hộ

sinh làm việc theo ê kíp tốt hơn nhóm bác sĩ; họ hỗ trợ về quản lý trong công tác an

toàn người bệnh nhiều hơn bác sĩ, và khi có sai sót xảy ra, họ phản hồi và trao đổi

nhiều hơn bác sĩ, cũng quan ngại về việc bị trừng phạt khi có sai sót xảy ra và

“Hành động về an toàn người bệnh của người quản lý” cao hơn bác sĩ một cách có ý

nghĩa thống kê. Tuy nhiên, bên cạnh đó, số liệu cũng chỉ ra rằng tần suất ghi nhận

sự cố và thông tin chính xác trong bàn giao và chuyển bệnh của họ thấp hơn nhóm

bác sĩ. Một điều thú vị trong nghiên cứu khi kết quả cho thấy rằng việc báo cáo sự

cố của điều dưỡng và nữ hộ sinh thấp hơn nhóm bác sĩ trong khi thực tiễn hoạt động

bệnh viện cho thấy chiều ngược lại.

Bên cạnh đó, dữ liệu phân tích cho thấy yếu tố chức vụ ảnh hưởng có ý nghĩa

thống kê đến các thành phần văn hóa an toàn người bệnh như làm việc theo ê kíp

trong củng khoa/phòng, hỗ trợ quản lý về an toàn người bệnh, phản hồi và trao đổi

sai sót, trao đổi cởi mở, cũng như tác động đến tần suất ghi nhận sự cố và không

trừng phạt khi sai sót. Đặc biệt trong sự khác biệt có ý nghĩa thống kê đấy, tác giả

chú ý đến kết quả nhân viên quan tâm đến việc khi sai sót xảy ra, khoa/phòng xem

xét trách nhiệm hệ thống chứ không đổ lỗi cá nhân, không có cảm giác thành kiến

khi vi phạm và quan trọng không dựa vào sai sót để làm cơ sở đánh giá thi đua.

Điều đó thể hiện qua kết quả nghiên cứu khi nhóm nhân viên quan tâm đến thành

phần này cao hơn hẳn trưởng khoa/phòng. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cũng chỉ

ra rằng nhóm nhân viên làm việc theo ê kíp không tốt như nhóm trưởng

khoa/phòng.

Yếu tố “thâm niên công tác tại bệnh viện” có ảnh hưởng tích cực đến lĩnh

vực không trừng phạt khi sai sót và hành động về an toàn người bệnh của người

quản lý. Văn hóa không trừng phạt hiện hữu rõ trong nhóm nhân viên có thời gian

57

công tác trên một năm cao hơn nhóm làm việc dưới 1 năm. Và nhân viên có thâm

niên công tác càng lâu thì hành động an toàn người bệnh càng rõ nét khi họ không

bị chi phối trong công tác và luôn đặt an toàn lên hàng đầu cũng như quan tâm đến

các sai sót cứ lặp đi lặp lại. Tuy nhiên, số liệu nghiên cứu cho thấy nhóm nhân viên

công tác tại bệnh viện trên 1 năm thì làm việc nhóm không gắn kết và hỗ trợ về

quản lý cho công tác an toàn người bệnh thấp hơn nhóm thâm niên công tác dưới 1

năm. Nhóm này cũng không nghĩ rằng lãnh đạo khoa luôn lắng nghe và xem xét các

đề xuất của nhân viên trong việc cải tiến an toàn cho người bệnh, cũng như không

nhận hay ít nhận được sự động viên, khen ngợi của lãnh đạo khoa khi họ thực hiện

đúng qui trình cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm công tác dưới 1 năm.

Thu nhập trung bình hàng tháng của nhân viên có ảnh hưởng đến làm việc

theo ê kíp trong cùng một khoa/phòng, cụ thể là nhóm có mức thu nhập từ 5 triệu

đến dưới 8 triệu cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm có mức thu nhập thấp

nhất bệnh viện. Và nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, nhóm có thu nhập thấp nhất bệnh

viện thì thông tin bàn giao và chuyển bệnh chưa chính xác cao hơn các nhóm khác

có ý nghĩa thống kê.

Tóm lại với kết quả phân tích hồi qui dường như không liên quan (Seemingly

Unrelated Regression – SUR), tác giả nhận thấy thành phần “Không trừng phạt khi

có sai sót” chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố chức danh nghề nghiệp, chức vụ và

thời gian công tác tại bệnh viện với sự quan tâm của hơn 1.900 nhân viên có thâm

viên công tác tại bệnh viện trên một năm. Thông tin bàn giao và chuyển bệnh chưa

chính xác cũng như tần suất ghi nhận sự cố của nhóm nữ hộ sinh, điều dưỡng và

nhóm nhân viên hành chính, kế toán, hoặc thư ký y khoa cần được chú trọng vì có

sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Những lĩnh vực như phản hồi, trao đổi về sai sót

hay như hỗ trợ về quản lý trong công tác an toàn người bệnh của nhóm điều dưỡng,

nữ hộ sinh có tác động tích cực đến thành phần văn hóa an toàn người bệnh. Điều

quan trọng tác giả nhận thấy qua kết quả bộ dữ liệu, nhân viên có thâm niên công

tác tại bệnh viện từ một năm trở lên có khuynh hướng làm việc theo ê kíp kém hơn

(Y1), hỗ trợ quản lý cho an toàn người bệnh thấp hơn và khi sai sót xảy ra thì thiếu

58

phản hồi và trao đổi so với nhóm công tác dưới 1 năm. Nhân viên có thu nhập thấp

nhất bệnh viện thì thông tin bàn giao và chuyển bệnh chưa chính xác cao hơn các

nhóm khác có ý nghĩa thống kê.

5.5. Tóm tắt Chương 5

Trong chương 5, kết quả nghiên cứu ghi nhận dữ liệu như sau, với số mẫu

2.118 nhân viên, trong đó chiếm hơn ½ là điều dưỡng và nữ hộ sinh, bác sĩ chiếm tỉ

lệ 14,4 ; và chỉ có khoảng 7 đối tượng khảo sát giữ chức vụ trưởng/phó

khoa/phòng. Hầu hết người trả lời bản câu hỏi có thời gian công tác tại bệnh viện từ

một năm trở lên. Và 50 người tham gia nghiên cứu có mức thu nhập hàng tháng

trung bình từ 8 đến 12 triệu, 30 nhân viên trong khoảng 5 đến dưới 8 triệu và chỉ

7 nhân viên có mức thu nhập thấp nhất bệnh viện.

Số liệu thống kê của nghiên cứu cho thấy văn hóa an toàn người bệnh được

đánh giá tích cực nhất là lĩnh vực “Làm việc theo ê kíp trong khoa/phòng” với điểm

số trung bình là 4,18 điểm, tiếp đến là “Quan điểm và hành động về an toàn người

bệnh của người quản lý” với điểm trung bình là 4,07; và lĩnh vực nhận phản hồi tích

cực thấp nhất, chỉ khoảng 2,3 điểm là thành phần “Bàn giao và chuyển bệnh” và

“Không trừng phạt khi có sai sót”.

Sau khi kiểm định tính giá trị và độ tin cậy của thang đo nghiên cứu, văn hóa

an toàn người bệnh được hiệu chỉnh từ 12 thành phần xuống 10 thành phần sau khi

loại bỏ 3 nhân tố gồm “Cải tiến liên tục – học tập hệ thống”, “Quan điểm tổng quất

về an toàn người bệnh” và “Nhân sự”. Kết quả phân tích mô hình hồi qui dường

như không liên quan (Seemingly Unrelated Regression – SUR) chứng minh thành

phần “Không trừng phạt khi có sai sót” chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố chức danh

nghề nghiệp, chức vụ và thời gian công tác tại bệnh viện với sự quan tâm của hơn

1.900 nhân viên có thâm viên công tác tại bệnh viện trên một năm. Thông tin bàn

giao và chuyển bệnh chưa chính xác cũng như tần suất ghi nhận sự cố của nhóm nữ

hộ sinh, điều dưỡng và nhóm nhân viên hành chính, kế toán, thư ký y khoa cần

được chú trọng vì có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Những lĩnh vực như phản

59

hồi, trao đổi về sai sót hay như hỗ trợ về quản lý trong công tác an toàn người bệnh

của nhóm điều dưỡng, nữ hộ sinh có tác động tích cực đến thành phần văn hóa an

toàn người bệnh. Điều quan trọng tác giả nhận thấy qua kết quả bộ dữ liệu, nhân

viên có thâm niên công tác tại bệnh viện từ một năm trở lên có khuynh hướng làm

việc theo ê kíp kém hơn, hỗ trợ quản lý cho an toàn người bệnh thấp hơn và khi sai

sót xảy ra thì thiếu phản hồi và trao đổi so với nhóm công tác dưới 1 năm. Nhân

viên có thu nhập thấp nhất bệnh viện thì thông tin bàn giao và chuyển bệnh chưa

chính xác cao hơn các nhóm khác có ý nghĩa thống kê.

60

CHƯƠNG 6: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH

Chương 6 là chương tổng kết nghiên cứu. Chương này bao gồm phần tổng

kết phương pháp nghiên cứu, các khám phám chính của nghiên cứu, hàm ý chính

sách và phần nêu lên những hạn chế của nghiên cứu cũng như hướng mở rộng của

nghiên cứu.

6.1. Tóm lược phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng qua kết quả khảo sát

2.118 nhân viên bệnh viện có thời gian công tác tại bệnh viện ít nhất 6 tháng bằng

cách phỏng vấn bộ câu hỏi HSOPSC. Phương pháp thống kê mô tả được thực hiện

nhằm xác định thực trạng văn hóa an toàn người bệnh tại bệnh viện Từ Dũ, từ đó

làm nền tảng giúp hỗ trợ cho kết quả của phương pháp định lượng. Qua đó tác giả

xây dựng hàm hồi qui dường như không liên quan (Seemingly Unrelated

Regression – SUR) với biến phụ thuộc là văn hóa an toàn người bệnh, các biến độc

lập (biến giải thích) là các yếu tố chức danh nghề nghiệp, chức vụ, thời gian công

tác tại bệnh viện và mức thu nhập. Tác giả sử dụng phương pháp phân tích nhân tố

khám phá (Exploratory Factor Analyses - EFA) và phép kiểm Cronbach’s Alpha để

kiểm định giá trị và độ tin cậy của bộ câu hỏi, và phân tích số liệu bằng phần mềm

xử lý thống kê Stata12.

6.2. Các khám phá chính của nghiên cứu

Văn hóa an toàn người bệnh được đánh giá tích cực nhất là lĩnh vực “Làm

việc theo ê kíp trong khoa/phòng” với điểm số trung bình là 4,18 điểm, tiếp đến là

“Quan điểm và hành động về an toàn người bệnh của người quản lý” với điểm trung

bình là 4,07; và lĩnh vực nhận phản hồi tích cực thấp nhất, chỉ khoảng 2,3 điểm là

thành phần “Bàn giao và chuyển bệnh” và “Không trừng phạt khi có sai sót”.

Thành phần “Không trừng phạt khi có sai sót” chịu sự ảnh hưởng của các yếu

tố chức danh nghề nghiệp, chức vụ và thời gian công tác tại bệnh viện với sự quan

tâm của hơn 1.900 nhân viên có thâm viên công tác tại bệnh viện trên một năm.

Thông tin bàn giao và chuyển bệnh chưa chính xác cũng như tần suất ghi nhận sự

61

cố của nhóm nữ hộ sinh, điều dưỡng và nhóm nhân viên hành chính, kế toán, thư ký

y khoa cần được chú trọng vì có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Những lĩnh vực

như phản hồi, trao đổi về sai sót hay như hỗ trợ về quản lý trong công tác an toàn

người bệnh của nhóm điều dưỡng, nữ hộ sinh có tác động tích cực đến thành phần

văn hóa an toàn người bệnh. Điều quan trọng tác giả nhận thấy qua kết quả bộ dữ

liệu, nhân viên có thâm niên công tác tại bệnh viện từ một năm trở lên có khuynh

hướng làm việc theo ê kíp kém hơn, hỗ trợ quản lý cho an toàn người bệnh thấp hơn

và khi sai sót xảy ra thì thiếu phản hồi và trao đổi so với nhóm công tác dưới 1 năm.

Nhân viên có thu nhập thấp nhất bệnh viện thì thông tin bàn giao và chuyển bệnh

chưa chính xác cao hơn các nhóm khác có ý nghĩa thống kê.

6.3. Hàm ý chính sách

“Không trừng phạt khi có sai sót” là sự quan tâm của nhân viên bệnh viện.

Thấm nhuần quan điểm “Sai sót/sự cố là cơ hội cho cải tiến chất lượng bệnh viện”

và “Sai sót của người này là bài học kinh nghiệm cho người khác, cấp quản lý - lãnh

đạo bệnh viện cần tạo dựng tích cực hơn nữa một môi trường khuyến khích, khen

thưởng cho việc nhận diện và báo cáo sai sót tự nguyện với cơ chế khen thưởng như

sau. Tại mỗi khoa/phòng công tác, nhân viên báo cáo sự cố/sai sót nhiều nhất sẽ được đánh giá A+ theo tháng. Bác sĩ, điều dưỡng, nữ hộ sinh trưởng, phó khoa/

phòng sẽ được vinh danh trong các cuộc họp giao ban lớn với Ban giám đốc và

trưởng, phó khoa/phòng khác. Tên của cá nhân và tập thể sẽ được vinh danh trong

Bản tin bệnh viện vì những đóng góp trong hành trình chất lượng. Hình thức khen

thưởng tạo động lực có thể được thay đổi theo phong trào hoặc vào những thời điểm

nhất định nhằm mục đích mang lại hiệu quả cao nhất cho đúng nhu cầu và giá trị

mong đợi từ cá nhân và tập thể.

Bên cạnh đó, trong các cuộc họp phân tích nguyên nhân gốc sự cố, sai sót,

ban giám đốc và trưởng, phó khoa phòng thấm nhuần quan điểm “Vấn đề là gì? Tại

sao xảy ra và giải pháp khắc phục”. Thông tin đến tất cả nhân viên về sai sót, sự cố

nhằm tránh lặp lại tương tự bằng các hình thức tổ chức học hỏi từ sự cố, sai sót như

62

đóng vai, hay tổ chức trò chơi liên quan; trong đó vai trò của người tham dự là trung

tâm.

Thông tin trong bệnh viện, đặc biệt trong lĩnh vực khảo sát bàn giao và

chuyển bệnh cần được chuẩn hóa qui trình và tập huấn cho nhân viên. Nhân viên

cần được tập huấn lặp đi lặp lại hàng năm những kỹ năng giao tiếp hiệu quả, hoặc

kỹ năng làm việc nhóm bên cạnh chuyên môn ngành y, đặc biệt dành cho nhân viên

có thâm niên công tác từ một năm trở lên. Không những vậy, cấp quản lý, lãnh đạo

cần có những chính sách về tài chính – kinh tế y tế nhằm tăng thu nhập cho nhân

viên vì nghiên cứu đã chỉ ra rằng nhân viên có thu nhập thấp nhất bệnh viện thì

thông tin chưa chính xác cao hơn các nhóm khác có ý nghĩa thống kê.

Khuyến nghị chưa dừng lại tại đó, với tầm vĩ mô, cấp lãnh đạo bệnh viện cần

có những đóng góp ý kiến với cấp Sở y tế và Bộ y tế về việc thảo luận và ban hành

những luật định, thông tư hướng dẫn về việc nâng cao an toàn người bệnh trong đó

có cơ chế khen thưởng, khuyến khích và thông tin sai sót, sự cố nhằm tạo động lực

và niềm tin tại đơn vị triển khai.

6.4. Hạn chế của nghiên cứu và hướng mở rộng

Điểm thuận lợi của HSOPSC hiện nay đã có trang thông tin điện tử liên kết

các thành viên áp dụng bộ công cụ trên để khảo sát và có thể so sánh giữa các bệnh

viện với nhau. Một điểm yếu được nêu ra của HSOPSC là tính chính xác phụ thuộc

nhiều vào tình trạng tâm lý của đối tượng nghiên cứu, đặc biệt là các nội dung liên

quan đến sự quản lý hỗ trợ của các nhà lãnh đạo. Sau nghiên cứu này, tác giả nhận

định cần có những nghiên cứu sâu hơn trong từng lĩnh vực văn hóa an toàn người

bệnh như “Không trừng phạt khi có sai sót”, “Làm việc nhóm” và lĩnh vực trao đổi

– tần suất ghi nhận sai sót/sự cố hay phong cách lãnh đạo ảnh hưởng như thế nào

đến văn hóa an toàn người bệnh.

63

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Adams-Pizarro I., W. Z. A., Robinson J., et al. (2008). Using the AHRQ Hospital

Survey on Patient Safety Culture as an Intervention Tool for Regional

Clinical Improvement Collaboratives. In: Henriksen K, Battles JB, Keyes

MA, Grady ML, eds. Advances in Patient Safety: New Directions and

Alternative Approaches Vol 2: Culture and Redesign.

Baker DP., e. a. (2005). Medical teamwork and patient safety: the evidence-based

relation. Literature review, 050053.

Bedell S., e. a. (1991). Incidence and characteristics of preventable iatrogenic

cardiac arrests. Journal of the American Medical Association, 265, 2815-

2820.

Berwick., D. M. (2003). Improvement, trust and the health care workforce. . Quality

and Safety in Health Care, 12 (Suppl. 1), :i2i6.

Brborovic H., S. I., Brborovic O., et al. (2014). Development of a Croatian version

of the US Hospital Survey on Patient Safety Culture questionnaire:

dimensionality and psychometric properties. Postgrad Med J, 90, 125-132.

Dawson D, R. K. (1997). Fatigue, alcohol and performance impairment. Nature,

388, 235-237.

Dubois R, B. R. (1988). Preventable deaths: who, how often, and why? Annals of

Internal Medicine, 109, 582-589.

Eiras M., E. A., Grillo I. M., et al. . (2014). The hospital survey on patient safety

culture in Portuguese hospitals: instrument validity and reliability.

International journal of health care quality assurance, 27, 111-122.

Famolaro T, S. J., Dyer N. (2012). Hospital Survey on Patient Safety culture 2012

User Comparative Database Report. Agency for Healthcare Research and

Quality, Publication 12.

Flin R, O. C. P., Crichton M. . (2008). Safety at the sharp end: a guide to

nontechnical skills. Aldershot, UK, Ashgate Publishing Ltd.

64

Gama Z. A., B. A. M., Silva I. G., et al. (2013). Cross-cultual adaptation of the

Brazilian version of the Hospital Survey on Patient Safety Culture:

opportunities for improvement. Cadernos de saude publica, 29 (1473-5).

Gault., W. (2002). Blame to aim, risk management in the NHS. Risk Management

Bulletin, 7, 6-11.

Helmreich RL, M. A. (1998). Culture at work in aviation and medicine. Ashgate

Publishing.

Human factors in health care. Australian Commission on Safety and Quality in

Health Care. (2006).

Ito S., S. K., Kigawa M., et al. . (2011). Development and applicability of Hospital

Survey on Patient Safety Culture (HSOPS) in Japan. BMC Health Serv Res,

11:28.

Jones K. J., S. A., Xu L., et al. . (2008). The AHRQ Hospital Survey on Patient

Safety Culture: A Tool to Plan and Evaluate Patient Safety Programs. In:

Henriksen K, Battles JB, Keyes MA, Grady ML, eds. Advances in Patient

Safety: New Directions and Alternative Approaches. Vol 2: Culture and

Redesign.

Kohn LT, C. J., Donaldson MS. (1999). To err is human: Building a safer health

system. Washington, DC, Committee on Quality of Health Care in America,

Institute of Medicine, National Academies Press.

Leape L., e. a. (1993). Preventing medical injury. Quality Review Bulletin, 8, 144-

149.

Maurino DE, R. J., Johnson N, Lee RB. . (1995). Beyond aviation human factors

UK, Ashgate Publishing Ltd.

Millenson., M. (2002). Breaking bad news Quality and Safety in Health Care. 11,

206-207.

Najjar S., H. M., Baillien E., et al. (2013). The Arabic version of the hospital survey

on patient safety culture: a psychometric evaluation in a Palestinian sample.

BMC Health Serv Res, 13, 193.

65

Nie Y., M. X., Cui H., et al. . (2013). Validation of the French version of the

Hospital Survey on Patient Safety Culture questionnaire. Int J Qual Health

Care, 25, 459-468.

Nieva V. F., S. J. (2003). A tool for improving patient safety in healthcare

organizations. Qual Saf Health Care, 12 (Suppl 2), ii17-23.

Occelli P., Q. J. L., Kret M., et al. . (2013). Validation of the French version of the

Hospital Survey on Patient Safety Culture questionnaire. Int J Qual Health

Care, 25, 459-468.

Pilcher JJ, H. A. (1996). Effects of sleep deprivation on performance: A meta-

analysis. Sleep. 19, 318-326.

Reason., J. (1990). Human error. New York, Cambridge University Press.

Reis C. T., L. J., Martins M. (2012). Translation and cross-cultural adaptation of the

Brazilian version of the Hospital Survey on Patient Safety Culture: initial

stage. Cadernos de saude publica, 28, 2199-2210.

Robida., A. (2013). Hospital Survey on Patient Safety Culture in Slovenia: a

psychometric evaluation. Int J Qual Health Care, 25(469-75).

Runciman B, M. A., Walton M. (2007). Safety and ethics in health care: a guide to

getting it right.

Sarac C., F. R., Mearns K., et al. . (2011). Hospital survey on patient safety culture:

psychometric analysis on a Scottish sample. BMJ quality & safety, 20, 842-

848.

Singer S., M. M., Baker L., et al. (2007). Workforce perceptions of hospital safety

culture: development and validation of the patient safety climate in

healthcare organizations survey. Health Serv Res, 42, 1999-2021.

SJ Cox, T. C. (1991). The structure of employee attitude to safety: an European

example. Work and stress, 93-106

Steel K, G. P., Crescenzi C, Anderson J. (1981). Iatrogenic illness on a general

medical practice service at a university hospital. New England Journal of

Medicine, 304, 638-642.

66

Turner., B. (1976). Man-made disasters London. Wykeham Science Press.

Van Vegten A., P. Y., Giuliani F., et al. (2011). Patient safety culture in hospitals:

experiences in planning, organising and conducting a survey among hospital

staff. Z Evid Fortbild Qual Gesundhwes, 105, 734-742.

Vincent., C. (2001). Clinical risk management- enhancing patient safety. London,

British Medical Journal Books.

Vlayen A., H. J., Claes N., et al. (2012). A nationwide hospital survey on patient

safety culture in Belgian hospitals: setting priorities at the launch of a 5-year

patient safety plan. BMJ quality & safety, 21, 760-767.

Walton., M. (2004). Creating a ‘no blame’ culture: Have we got the balance right? .

Quality and Safety in Health Care, 13, 163-164.

Weingart SN., e. a. (2000). Epidemiology of medical error. British Medical Journal,

320, 774-777.

Weinger MB, A.-I. S. (2002). Sleep deprivation and clinical performance. Journal

Michael .(1999). William Osler: a life in medicine. Oxford, New York: Oxford

of the American Medical Association, 287, 955-957

University Press. p. 12 ISBN 978-0-19-512346-3

Australian Council for Safety and Quality in Health Care. (2005). National Patient

Safety Education Framework. Canberra, Commonwealth of Australia

Australian Commission on Safety and Quality in Health Care. (2006). Human

factors in health care.

Forum and End Stage Renal Disease Networks, National Patient Safety Foundation,

Renal Physicians Association. National ESRD Patient Safety Initiative:

Phase II Report. (2001). Chicago, National Patient Safety Foundation.

Institute for Safe Medication Practices. Error- prone conditions can lead to student

nurse- related medication mistakes. (2007). Medical News Today.

University of Washington Center for Health Sciences. Best practices in patient

safety education module handbook. Seattle, Center for Health Sciences.

(2005).

67

World Health Organization, Executive Board 109th session, provisional agenda

item 3.4. (2001)

World Health Organization, (2011). National Patient Safety Education Framework,

sections 4.2 and 4.5

WHO conceptual framework for the international classification for patient safety.

http://www.ahrq.gov/professionals/qualitypatientsafety/patientsafetyculture/

hospital/index.html

http://www.ahrq.gov/professionals/qualitypatientsafety/patientsafetyculture/t

ransguide.html.

(2009). Geneva, World Health Organization.