ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ THÚY NGA
NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN NGỌC TƢ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Hà Nội - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ THÚY NGA
NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN NGỌC TƢ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đoàn Đức Phƣơng
Hà Nội - 2016
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô và cán bộ của trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn Hà Nội đã tạo kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá
trình học.
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đặc biệt tới các thầy cô khoa Văn học của
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy,
tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho tôi trong suốt quá trình học tập.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Đoàn Đức Phương –
người thầy đầy tinh thần trách nhiệm và lòng thương mến đã dìu dắt, hướng
dẫn tôi ngay từ ngày đầu lựa chọn đề tài và theo dõi sát sao trong suốt quá
trình thực hiện luận văn.
Tôi vô cùng cảm ơn sự quan tâm ủng hộ, động viên của gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp trong thời gian tôi học tập cũng như thực hiện luận văn. Đó
chính là nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận
văn này.
Dù đã rất cố gắng và tâm huyết với đề tài nhưng luận văn khó tránh khỏi
những hạn chế, rất mong được sự góp ý của quý thầy cô và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày 18 tháng 9 năm 2016
Học viên
Nguyễn Thị Thuý Nga
MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2 3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu .................................................... 7 4. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................... 8 5. Cấu trúc luận văn ............................................................................................ 8
Chƣơng 1: KHÁI LƢỢC VỀ NHÂN VẬT VÀ SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ .............................................................................................................. 9 1.1. Khái lƣợc về nhân vật ................................................................................. 9 1.1.1. Khái lược về nhân vật trong văn học .................................................... 9 1.1.2. Khái lược về nhân vật trong truyện ngắn ........................................... 16 1.2. Sáng tác của Nguyễn Ngọc Tƣ ..................................................................... 21 1.2.1. Hành trình sáng tác ............................................................................. 23 1.2.2. Quan điểm sáng tác .............................................................................. 30
Chƣơng 2: CÁC LOẠI HÌNH NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ .......................................................................................... 38 2.1. Nhân vật kiếm tìm, khát khao hạnh phúc .............................................. 39 2.2. Nhân vật bình dị, nhân hậu ..................................................................... 49 2.3. Nhân vật lãng mạn, cô đơn ...................................................................... 58 2.4. Nhân vật vị tha, bao dung ........................................................................ 65
Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ .................................................................... 74 3.1. Nghệ thuật sử dụng chi tiết .......................................................................... 74 3.2. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình, hành động ................................................ 80 3.3. Nghệ thuật biểu hiện nội tâm ...................................................................... 86 3.4. Ngôn ngữ nhân vật ....................................................................................... 92 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 103 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 105
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ở vài thập kỉ gần đây, nền văn xuôi đương đại Việt Nam xuất hiện nhiều cây
bút nữ, trẻ cả tuổi nghề lẫn tuổi đời. Họ đã mang đến một làn gió mới với những
sáng tạo và phong cách văn học cá tính, độc đáo, dung dị, đời thường nhưng rất đỗi
sâu sắc. Tiêu biểu trong số các nhà văn nữ đó, Nguyễn Ngọc Tư được biết đến như
một “hiện tượng” đặc biệt trên văn đàn Việt Nam đương đại. Không chỉ gặt hái
được nhiều thành công ở trong nước mà các tác phẩm của chị còn để lại nhiều ấn
tượng sâu sắc trong lòng độc giả nước ngoài.
Dù là một cây bút trẻ nhưng Nguyễn Ngọc Tư đã tạo cho mình một phong
cách văn chương đặc sắc, mang đậm chất Nam Bộ. Tên tuổi của chị gắn liền với
những tác phẩm dường như đã “đóng đinh” trong lòng độc giả và giới phê bình. Các
tác phẩm văn chương của chị từng trở thành đề tài tranh luận sôi nổi trên nhiều tạp
chí và các diễn đàn văn học. Đặc biệt hơn, nhân vật trong các sáng tác của chị đã trở
thành một dấu ấn đặc trưng trong phong cách cũng như quan điểm sáng tác của chị
về cuộc sống và con người Nam Bộ. Thử nghiệm và sáng tác ở nhiều thể loại như
tản văn, truyện ngắn, tiểu thuyết, … nhưng dường như truyện ngắn là “sở trường
hiện tại”, thể loại đang khẳng định ưu thế của chị. Mỗi truyện ngắn là một nội dung,
một nhân vật có trạng thái, cảm xúc, tâm hồn khác nhau nhưng đều có một điểm
chung là viết về văn hoá, cuộc sống con người Nam Bộ. Các tác phẩm của chị có ý
nghĩa như một thứ “đặc sản miền Nam” vừa quen vừa lạ.
Khác với thế hệ của các nhà văn như Sơn Nam, Nguyễn Quang Sáng, Anh
Đức,… Nguyễn Ngọc Tư đã tạo cho mình một phong cách văn chương đặc sắc,
chuyên biệt từ những trang viết đầu tay. Đó là việc xây dựng hệ thống nhân vật như
con người thật ngoài đời, không chú trọng xây dựng mẫu nhân vật điển hình mà tập
trung khai thác vào chiều sâu tâm lý của nhân vật qua đó khái quát về số phận, đưa
ra những nét đặc trưng trong tính cách và chất người lao động nghèo ở Nam Bộ.
1
Nhân vật trong các truyện ngắn của chị vừa mang đậm tính truyền thống, đặc trưng
vùng miền, mộc mạc, nhân hậu, phóng khoáng, nghĩa tình vừa mang hơi thở của
cuộc sống hiện đại thức thời, nhạy bén.
Theo sự tìm hiểu của người viết, cho đến nay, các sáng tác của Nguyễn Ngọc
Tư được tiếp cận từ nhiều góc độ nghiên cứu văn học, văn hoá nhưng đa số là đi sâu
vào những phương diện cụ thể chứ chưa có nhiều đề tài nghiên cứu một cách kĩ
lưỡng, có hệ thống. Một số luận văn, khoá luận đã khai thác và tiếp cận tác phẩm từ
góc độ trần thuật học về cốt truyện, nhân vật, kết cấu, giọng điệu, ngôn ngữ, người
kể chuyện, đặc điểm sáng tác,… so sánh các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư với các
cây bút nữ cùng thời, khía cạnh nhân vật cũng có một vài công trình đề cập đến
nhưng chưa đi sâu và khái quát toàn diện. Vì vậy, đây chính là lý do khi người viết
chọn đề tài cho luận văn của mình là: Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
2. Lịch sử vấn đề
Hiện tại, Nguyễn Ngọc Tư là cây bút trẻ có được biết đến nhiều trong thời
gian khoảng một thập niên trở lại đây. Ngay từ những trang viết đầu tay, chị đã thu
hút được công chúng với một phong cách văn chương mới lạ mang đậm dấu ấn
Nam Bộ. Nguyễn Ngọc Tư không chỉ nổi tiếng ở trong nước mà các trang viết của
chị còn có sức lay động tới trái tim của độc giả nước ngoài. Vì vậy, những bài viết
về chị: phong cách văn chương, quan niệm sáng tác, truyện ngắn, tiểu thuyết, tản
văn,… được đăng tải rất nhiều trên các phương tiện truyền thông. Giới chuyên môn
và các nhà phê bình văn học cũng có những ấn tượng, nhận định và đánh giá cao về
phong cách văn chương, các tác phẩm của chị. Đó là một “tài năng hiếm có”, một
tâm hồn “tinh tế, cảm nhận mới mẻ”, một giọng văn bình dị, mộc mạc, giàu cảm
xúc. Có thể nói, ngay từ khi ra mắt bạn đọc những tác phẩm đầu tay của
mình, “những đứa con tinh thần” của chị đã nhận được rất nhiều sự đánh giá,
phê bình của độc giả. Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư đã được nghiên cứu
và phê bình, đánh giá dưới nhiều góc độ khác nhau.
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã có những ấn tượng sâu sắc về chị trong Lời
giới thiệu của tập truyện Ngọn đèn không tắt: “Ngọn đèn không tắt đã tạo nên một
2
không khí rất tự nhiên về màu sắc, hương vị của mảnh đất cuối cùng của Tổ quốc –
mũi Cà Mau, của những con người tứ xứ, về mũi đất của rừng, của sông nước, của
biển cả mà cha ông ta đã dày công khai phá… Qua ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư,
những con người lam lũ, giản dị, bộc trực ấy chứa đựng bên trong cả tâm hồn vừa
nhân hậu, vừa tinh tế qua cách đối nhân xử thế”.
Trong cuộc trao đổi với các nhà văn Trung Trung Đỉnh và Chu Lai về tác
phẩm Cánh đồng bất tận trong bài viết Chia sẻ cùng Nguyễn Ngọc Tư và “Cánh
đồng bất tận” trên trang http://giaitri.vnexpress.net/, nhà thơ Hữu Thỉnh (Chủ tịch
Hội Nhà văn Việt Nam) đưa ra những nhận xét: “Nguyễn Ngọc Tư đã có sự bứt phá
rất ngoạn mục, tự vượt lên chính mình và tạo nên những bất ngờ thú vị cho giới nhà
văn.”; “Nguyễn Ngọc Tư khiến cho người đọc phải xót xa vì sự tan vỡ của một gia
đình bé nhỏ trên cánh đồng bất tận là cuộc đời rộng mênh mông.”; “Nguyễn Ngọc
Tư đã đặt ra vấn đề về cách cứu vớt, về hậu quả của việc lấy cái ác để trả ác. Tác
phẩm đưa ra thông điệp, trước lỗi lầm, người ta chỉ có thể cứu vớt được bằng sự
khoan dung, tha thứ, lấy ân trả oán… Từ câu chuyện về gia đình và cách ứng xử
của con người, Nguyễn Ngọc Tư miêu tả sự đau đớn, vật vã của kiếp người bằng tất
cả tình yêu thương con người. Dòng chảy của chủ nghĩa nhân văn này đã có sức
cuốn hút sâu sắc đến bạn đọc mọi tầng lớp. Tác phẩm phải có được những giá trị
nhất định thì mới được bạn đọc yêu mến đến như thế chứ.” [61]
Cùng chia sẻ về Cánh đồng bất tận, nhà văn Chu Lai đưa ra ý kiến đồng tình:
“Tôi là người đã bỏ phiếu bầu Nguyễn Ngọc Tư vào Hội Nhà văn, bỏ phiếu ủng hộ
cô trong nhiều giải thưởng. Sáng tác của cô đề cập đến những vấn đề chính thống
với cái nhìn sâu sắc và đậm chất nhân văn chứ không câu khách, rẻ tiền. Cánh
đồng bất tận viết về những con người Nam Bộ với tính cách đặc thù: chân thực,
hồn nhiên, chất phác và bản năng. Cốt truyện mang tính chất cổ điển, không có gì
mới nhưng tác giả viết bằng thứ ngôn ngữ và hơi văn lạ, tạo được sức rung chuyển
thẩm mỹ. Cái hồn khí của truyện chứng tỏ nhà văn là người rất yêu vùng đất và con
người miền Tây chứ không hề có gì là xúc phạm, bóp méo sự thật. Người miền
3
Trung, miền Bắc đọc tác phẩm này sẽ cảm thấy yêu mến mảnh đất Cà Mau hơn.” [61]
Tác giả Bùi Việt Thắng trong Bài học văn chương từ Cánh đồng bất tận đăng
trên tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7/2006 nhận xét: “Nguyễn Ngọc Tư tỏ ra “bối
rối, thiếu bình tĩnh….non nớt,chưa đủ bản lĩnh nghệ thuật… thiếu một sự tự chuẩn
bị toàn diện về mặt kinh nghiệm sống, kinh nghiệm nghề nghiệp, và quan trọng nhất
là một nền văn hoá cần thiết”. Về phương diện ngôn ngữ, Bùi Việt Thắng nhận xét:
“văn viết Nguyễn Ngọc Tư rất gần với văn nói”. Từ những phân tích và nhận xét
chủ quan của mình, ông đi đến kết luận: “Nguyễn Ngọc Tư đang đi từ trong kênh
rạch ra biển lớn, thiết nghĩ, nhà văn phải có ý thức lao động nghệ thuật nhiều hơn
nữa để cho tác phẩm của mình trở thành tài sản quốc gia”. Ngược lại với những ý
kiến trên, đa số các bài viết tập trung làm nổi bật vẻ đẹp, sự cuốn hút của tác phẩm
từ cốt truyện, câu chữ, cho tới nội dung đầy tính nhân văn”. [28]
Tác giả Trần Thiện Khanh trong Bàn lại với tác giả Bùi Việt Thắng đăng trên
tạp chí Nghiên cứu văn học, số 8/2006 đã đưa ra những ý kiến không đồng tình với
tác giả Bùi Việt Thắng khi đã “thiếu khách quan khi qui kết Nguyễn Ngọc Tư “thấy
cây mà không thấy rừng”. Nhân vật người cha đâu chỉ có lòng hận thù, xét riêng
những tình tiết cuối truyện, phẩm chất tốt đẹp của nhân vật đó bộc lộ khá rõ. Bùi
Việt Thắng cắt đứt mối liên hệ giữa tư tưởng nhà văn với thế giới quan, giữa sáng
tác văn học và thực tế , khi ông nhấn mạnh Nguyễn Ngọc Tư thiếu “kinh nghiệm”,
“chưa đủ bản lĩnh nghệ thuật”.[19]
Trần Thiện Khanh cho rằng: “Từ Ngọn đèn không tắt, Ông ngoại đến Biển
người mênh mông, Giao thừa, Nước chảy mây trôi… và Cánh đồng bất tận, nghệ
thuật trần thuật của Nguyễn Ngọc Tư đã bắt đầu chín, đặc biệt khi chị tập trung tả
“khuôn mặt khác của cuộc sống”. Nếu không có một vốn sống dày dặn, dưới ngòi
bút của Nguyễn Ngọc Tư, nỗi đau se thắt, u uất của thân phân con người đâu hiện
ra tự nhiên và cảm động nhường ấy.” [19]
Nếu như trong Bài học văn chương từ Cánh đồng bất tận, tác giả Bùi Việt
Thắng yêu cầu ngôn ngữ của một cây bút có chất giọng Nam Bộ phải được “quốc
gia hoá”, chứ không được sử dụng “từ ngữ quá đặc thù vùng miền” thì tác giả Trần
4
Thiện Khanh phản biện lại: “Cánh đồng bất tận” có ngôn ngữ, giọng điệu, sắc
thái, cấu trúc riêng của mình, không thể cô lập “Cánh đồng bất tận” khỏi ảnh
hưởng của phương ngữ Nam Bộ”. [19]
Trong bài viết Lời đề từ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, tác giả Phạm Phú
Phong đã có những phát hiện: “Nguyễn Ngọc Tư rất hay sử dụng lời đề từ trong các
tác phẩm của mình: "Cánh đồng bất tận gồm 14 truyện, thì có 11 truyện được tác
giả sử dụng lời đề từ" [23]. Lời đề từ như là một ẩn dụ của câu chuyện. Nó góp
phần thâu tóm tư tưởng chủ đạo của tác phẩm hay đơn giản nó là tâm trạng, quan
điểm của tác giả trước cuộc sống, con người. Nguyễn Ngọc Tư đã tạo cho mình một
dấu ấn riêng, thể hiện ở lời đề từ trong mỗi câu truyện đúng như Phạm Phú Phong
nhận xét: "chị có sự đậm đặc của một giọng điệu văn chương Nam Bộ, trong đó có
những kế thừa thế hệ trước, nhưng lại là giọng điệu của đời sống hiện đại, không
trộn lẫn với bất kỳ ai. Đó là điều đáng quí, cần được khẳng định ở Nguyễn Ngọc
Tư". [23]
Trong bài viết Thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, tác giả
Trần Phỏng Diều đưa ra những nhận xét: “Cũng nói về vùng đất và con người Nam
Bộ nhưng Nguyễn Ngọc Tư có cách tiếp cận khác: không có gì lớn lao mà rất đỗi
đời thường, như dòng sông chẳng hạn. Nhưng từ cái nhỏ bé, đời thường tưởng
chừng như ai cũng biết mà khái quát nó lên, chuyển tải lòng mình vào đó mới chính
là giá trị của nghệ thuật. Thành công của Nguyễn Ngọc Tư cũng là ở đó. Giọng văn
của chị có duyên, đôi khi dí dỏm nhưng ngọt ngào và sâu sắc. Câu văn giản dị, mộc
mạc, chân tình, đọc truyện chị tưởng như đang trò chuyện với chị vậy. Phong cách
Nguyễn Ngọc Tư là như thế.” [10]
Xung quanh vấn đề "thế giới nhân vật" trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư,
có nhiều bài viết có giá trị khoa học bởi sự tâm huyết và đồng điệu của nhà phê
bình. Trong bài "Nguyễn Ngọc Tư, một nhà văn trẻ Nam Bộ" của Huỳnh Công Tín,
tác giả thừa nhận "Vùng đất và con người Nam Bộ trong sáng tác của chị được
dựng lại bằng chính chất liệu của nó là ngôn từ và văn phong nhiều chất Nam Bộ"
[27], Huỳnh Công Tín cũng đánh giá cao khả năng miêu tả tâm lí người và vật hết
5
sức sắc sảo của Nguyễn Ngọc Tư.
Trong bài viết của Đỗ Hồng Ngọc đăng trên báo Tuổi trẻ, số ra ngày
30/1/2005 có nhận định: “Người đọc bất ngờ trước những kiếp người, phận người
hôm nay, tại đây như một truyện kể, và bất ngờ trước một văn bút khá lạ của người
viết truyện. Nguyễn Ngọc Tư đã bắt đầu chạm vào những vỉa tầng cuộc sống của
những vùng đất cô sống và viết văn. Dữ dội và nhân tình, văn Tư bắt đầu là thế”.
Trong bài viết Nguyễn Ngọc Tư – điềm đạm mà thấu đáo trên trang http://tuoitre.vn/
ngày 22/4/2004, nhà văn Dạ Ngân đã đánh giá cao tài năng của Nguyễn Ngọc Tư:
“Nguyễn Ngọc Tư giỏi ở chỗ cái tưởng không có gì mà Tư cũng viết được, lại viết
rất có duyên, rất nhân hậu. Đọc cái nào cũng phải nhoẻn miệng cười sung sướng,
sung sướng mà lại ứa nước mắt, thấy nước mắt của mình cũng trong trẻo và đẹp đẽ,
ấy là cái đáng giá mà Nguyễn Ngọc Tư cho người đọc hôm nay”
Ngưỡng mộ và yêu quý tài năng được đánh giá “quý hiếm” này, Giáo sư Trần
Hữu Dũng – một Việt kiều tại Mỹ đã lập một website có tên là http://www.viet-
studies.net/NNTu/ để “thu thập vào một nơi những bài của (về) Nguyễn Ngọc Tư
rải rác trên web, và sau đó chia sẻ với những bạn thích văn Nguyễn Ngọc Tư như
tôi.” Điều đó đã cho thấy sức hút của Nguyễn Ngọc Tư rất mạnh mẽ. Bản thân vị
Giáo sư này cũng có những bài viết chuyên luận, khảo cứu về các sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tư. Trong bài viết Nguyễn Ngọc Tư, đặc sản miền Nam, ông cho
rằng: “Đọc truyện của Nguyễn Ngọc Tư, họ sẽ khám phá rằng nếu dùng đúng chỗ,
trong tay một tác giả cẩn trọng, phương ngữ mộc mạc miền Nam, giọng điệu dân dã
miền Nam hoàn toàn có khả năng cấu tạo một nhánh văn chương đặc biệt, không
giống, nhưng chuẩn mực không kém những miền khác. Mỗi truyện viết của Nguyễn
Ngọc Tư là một bữa ăn văn chương thịnh soạn, dọn bày chu đáo, gồm toàn đặc sản
miệt vườn, với những vật liệu hảo hạng, tươi sống.”; “Văn của Nguyễn Ngọc Tư
nghe như nhạc. Nhiều câu trong trẻo và buồn (nhưng không nghẹn ngào) như một
bản vọng cổ hoài lang. Giọng buồn của Nguyễn Ngọc Tư không là tiếng than vãn
thì thầm của một người lớn tuổi, nhưng là một lời thốt, lửng lơ, đứt ngang, nhưng
rất đủ, của một người trẻ bỗng nhiên phát giác những bất hạnh của cuộc đời, mà
6
vẫn hi vọng. Văn Nguyễn Ngọc Tư là văn của lời nói. Cách ngắt câu của cô là cách
ngắt của âm điệu. Cái tài của Nguyễn Ngọc Tư là đem những cảnh tượng rất bình
thường, khoanh lại, biến nó thành châu báu.”
Qua khảo sát, người viết thấy có khá nhiều luận văn, khoá luận tốt nghiệp
của học viên, sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Hà Nội tìm
hiểu về phong cách văn chương, các tác phẩm của chị từ góc độ trần thuật học,
thẩm mĩ, đặc điểm sáng tác,… Xung quanh vấn đề “thế giới nhân vật” trong truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư, đã có nhiều bài viết có giá trị khoa học. Nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư cũng đã có một số công trình đã đề cập đến, nhưng
thường đặt nó trong tổng thể thế giới nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư mà ít có
những khảo sát kĩ lưỡng. Cụ thể là Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt
Nam của Nguyễn Thị Phương với đề tài: Đặc điểm sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
(2012). Luận văn đưa ra những quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư về văn chương,
con người và sự chi phối những quan niệm đó tới sáng tác của chị. Đi khảo sát
một số kiểu nhân vật và những đặc điểm trong sáng tác.
Căn cứ vào quá trình tìm hiểu lịch sử vấn đề, dựa trên một số tập truyện ngắn
đã xuất bản và những bài viết của các nhà báo, nhà phê bình về các tác phẩm của
chị trong thời gian qua, người viết lấy đó là tư liệu để nghiên cứu về nhân vật trong
truyện ngắn của cây bút trẻ này.
Dựa trên những tư liệu đã có, người viết lấy đó là một số gợi ý để triển khai đề
tài của luận văn và lựa chọn cách tiếp cận lịch sử vấn đề, thống kê và khảo sát để
phân tích những loại hình nhân vật cũng như nghệ thuật xây dựng nhân vật truyện
Nguyễn Ngọc Tư qua những tập truyện khác nhau.
3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu
Luận văn này tập trung tìm hiểu “Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư” nhằm mục đích chỉ ra những đặc điểm cơ bản của các loại hình nhân vật trong
truyện Nguyễn Ngọc Tư, đồng thời tìm ra những nét độc đáo, đặc sắc trong nghệ
thuật xây dựng nhân vật của nhà văn.
Việc khảo sát và nghiên cứu thế giới nhân vật truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
7
chưa nhiều và chưa có hệ thống. Do đó, người viết mong muốn bổ sung thêm một
số nhận định có ý nghĩa khoa học bên cạnh những ý kiến đã có về vấn đề này và
đóng góp một chút công sức nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu nhà văn trẻ đầy
triển vọng Nguyễn Ngọc Tư, một điểm sáng của truyện ngắn Việt Nam đương đại.
Trong phạm vi luận văn này, người viết khảo sát các tập truyện ngắn sau của
nhà văn Nguyễn Ngọc Tư:
- Ngọn đèn không tắt (Tập truyện ngắn, Nxb Trẻ, 2000)
- Biển người mênh mông (Tập truyện, Nxb Trẻ, 2003)
- Giao thừa (Tập truyện, Nxb Trẻ, 2003)
- Nước chảy mây trôi (Tập truyện và kí, Nxb Văn nghệ TPHCM, 2004)
- Khói trời lộng lẫy (Tập truyện, Nxb Thời đại, 2010)
- Gió lẻ và 9 câu chuyện khác (Tập truyện, Nxb Trẻ, 2012)
- Cánh đồng bất tận (Tập truyện, Nxb Trẻ, 2014)
- Đảo (Tập truyện, Nxb Trẻ, 2014)
Đây là những văn bản tập hợp những tác phẩm đặc sắc, có giá trị và tiêu biểu
cho văn chương Nguyễn Ngọc Tư. Tuy nhiên, luận văn cũng chú ý đến nghiên cứu
những tác phẩm khác trong cả quá trình sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, thấy được
sự vận động trong truyện ngắn của chị.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, trên bình diện lí thuyết, người viết tiếp cận đối
tượng từ những phương pháp sau:
- Phương pháp tiếp cận văn hoá học
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp loại hình
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chƣơng 1: Khái lƣợc về nhân vật và sáng tác của Nguyễn Ngọc Tƣ
Chƣơng 2: Các loại hình nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ
8
Chƣơng 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ
Chƣơng 1
KHÁI LƢỢC VỀ NHÂN VẬT VÀ SÁNG TÁC
CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ
1.1. Khái lƣợc về nhân vật
1.1.1. Khái lược về nhân vật trong văn học
Trong một tác phẩm văn học, nhân vật là sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo, là
biểu hiện của khả năng chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật cùng với tư tưởng nghệ
thuật, lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn về con người. Sự tồn tại của nhà văn trong
thực tế là rất ngắn còn nhân vật thì tồn tại qua nhiều thế hệ. Với mỗi tác phẩm văn
học, đặc biệt là trong văn xuôi, nhân vật có yếu tố quan trọng tạo nên sự thành
công và sức hấp dẫn. Do nhân vật có vai trò quan trọng như vậy nên nhiều nhà văn
đã rất coi trọng việc xây dựng nhân vật trong quá trình sáng tác của mình.
Khái niệm nhân vật thường được quan niệm với một phạm vi rộng lớn, ngoài
những nhân vật là con người có tên hoặc không tên, được khắc hoạ sâu đậm hoặc
thoáng qua trong tác phẩm còn xuất hiện những sự vật, loài vật ít nhiều đều mang
bóng dáng của con người. Đó là những Dế Mèn, Dế Trũi, Bọ Ngựa, con mèo lười
trong truyện thiếu nhi của Tô Hoài, là vầng trăng, bông hoa hồng trong thơ Bác, là
lá trầu, cái chổi, hạt mưa trong thơ của Trần Đăng Khoa… Hơn thế, nhân dân
trong Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, đồng tiền trong Ơ-giê-ni Gơ-răng-đê
của Ban-dắc, hay thời gian trong sáng tác của Sê-khốp,… là những nhân vật, tuy
không phải là một con người, sự vật cụ thể mà chỉ là một hiện tượng nổi bật trong
tác phẩm.
Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật có tính ước lệ, có những dấu
hiệu để nhận biết: tên gọi, những dấu hiệu về tiểu sử, nghề nghiệp, những đặc
điểm riêng,… Những dấu hiệu đó thường được giới thiệu ngay từ đầu và thông
thường, sự phát triển về sau của nhân vật gắn bó mật thiết với những giới thiệu
ban đầu đó. Việc giới thiệu Thuý Vân, Thuý Kiều khác nhau dường như cũng báo
trước về số phận của hai nàng “tố nga”. Nếu vẻ đẹp của Thuý Vân là “mây thua,
9
tuyết nhường” gợi lên một cuộc sống êm đềm, nhẹ nhàng thì vẻ đẹp “hoa ghen,
liễu hờn” của Thuý Kiều lại gợi lên một số phận truân chuyên, trắc trở, nhiều nước
mắt. Hay trong truyện ngắn Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu, nhà văn đã giới thiệu
nhân vật Thai xuất hiện đầu tiên ở vùng núi có tên là Núi Đợi và cảnh vật xung
quanh toàn là những hòn vọng phu. Bối cảnh xuất hiện đó của nhân vật Thai là
một dụng ý nghệ thuật của nhà văn như ngầm dự báo về số phận của nhân vật sẽ
phải sống trong sự khắc khoải, đợi chờ giống như người chinh phụ hay nàng Tô
Thị.
Nhân vật còn được coi là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực,
phát ngôn cho nhận thức, quan điểm của mỗi tác giả. Những cái tên như chị Dậu,
anh Pha, Chí Phèo, là những nhân vật đại diện cho số phận của người nông dân
trước cách mạng tháng Tám. Những Điền, Hộ, Thứ,… trong các sáng tác của Nam
Cao lại đại diện cho tầng lớp trí thức tiểu tư sản nghèo thể hiện những quan niệm
nghệ thuật của nhà văn: “Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa
dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia
thoát ra từ những kiếp người lầm than” (Trăng sáng) hay “Văn chương không cần
đến sự khéo tay, làm theo một vài khuôn mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp
những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo
những cái gì chưa có.” (Đời thừa). Đọc một tác phẩm, điều đọng lại sâu sắc nhất
trong tâm hồn người đọc thường là những số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của
những con người được nhà văn thể hiện. Vì vậy, nhà văn Tô Hoài đã có lí khi cho
rằng “Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một
sáng tác”. Các nhân vật trong một tác phẩm nghệ thuật thực sự tạo thành một hệ
thống hoàn chỉnh. Chúng đều có mối liên hệ với nhau, không chỉ liên kết với nhau
bằng tiến trình sự kiện mà còn được miêu tả bằng lô-gíc tư duy nghệ thuật của nhà
văn. Hệ thống nhân vật bộc lộ nội dung của tác phẩm nhưng tự nó lại là một trong
các phương diện của kết cấu tác phẩm.
Nhân vật văn học có chức năng khái quát quy luật cuộc sống con người,
những suy nghĩ, ước ao, kì vọng của con người và thể hiện quan niệm của nhà văn
10
về cuộc đời. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn gắn liền mục đích sáng tác với những
vấn đề mà nhà văn muốn đề cập đến trong tác phẩm. Vì vậy, khi tìm hiểu nhân vật
trong tác phẩm, bên cạnh việc xác định những nét tính cách, cần nhận ra những
vấn đề của hiện thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật muốn thể hiện. Chẳng
hạn, khi nhắc đến một nhân vật, nhất là các nhân vật chính, người ta thường nghĩ
đến các vấn đề gắn liền với nhân vật đó. Gắn liền với Kiều là thân phận của người
phụ nữ có tài sắc trong xã hội cũ. Gắn liền với Kim Trọng là vấn đề tình yêu và
ước mơ vươn tới hạnh phúc. Gắn liền với Từ Hải là vấn đề đấu tranh để thực hiện
khát vọng tự do, công lí... Ðằng sau nhiều nhân vật trong truyện cổ tích là vấn đề
đấu tranh giữa thiện và ác, tốt và xấu, giàu và nghèo, những ước mơ tốt đẹp của
con người... Do nhân vật có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc
sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời cho nên trong quá trình mô tả
nhân vật, nhà văn có quyền lựa chọn những chi tiết, yếu tố mà họ cho là cần thiết
bộc lộ được quan niệm của mình về con người và cuộc sống. Chính vì vậy, không
nên đồng nhất nhân vật văn học với con người trong cuộc đời. Khi phân tích,
nghiên cứu nhân vật được xây dựng từ nguyên mẫu có thật ngoài đời cần đối
chiếu, so sánh để hiểu rõ thêm về nhân vật (anh hùng Núp trong Ðất nước đứng
lên, chị Sứ trong Hòn Ðất, chị Út Tịch trong Người mẹ cầm súng...) nhưng cũng
cần chú ý đến những vấn đề của hiện thực cuộc sống được nêu ra trong tác phẩm,
bởi nhân vật văn học là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo gắn liền với ý đồ tư
tưởng của nhà văn.
Nhân vật văn học còn thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mĩ
của nhà văn về con người. Vì thế nhân vật luôn gắn chặt với chủ đề của tác phẩm.
Nhân vật văn học còn được miêu tả qua các biến cố, xung đột, mâu thuẫn và mọi
chi tiết các loại. Đó là mâu thuẫn nội tâm của nhân vật, mâu thuẫn giữa nhân vật
này với nhân vật kia, giữa tuyến nhân vật này với nhân vật khác. Nhờ được miêu
tả qua xung đột, mâu thuẫn nên khác với hình tượng hội hoạ và điêu khắc, nhân
vật văn học là một chỉnh thể vận động, có tính cách được bộc lộ dần trong không
11
gian, thời gian, mang tính quá trình.
Nhân vật là một hiện tượng hết sức đa dạng. Những nhân vật được xây dựng
thành công từ xưa đến nay bao giờ cũng là những sáng tạo độc đáo, không lặp lại.
Tuy nhiên, xét về mặt nội dung, tư tưởng, kết cấu, chất lượng miêu tả,… có thể
thấy những hiện tượng lặp đi lặp lại tạo thành các loại nhân vật khác nhau. Để
nắm bắt được thế giới nhân vật đa dạng, phong phú, có thể phân loại nhân vật ở
nhiều góc độ khác nhau.
Dựa vào vị trí, vai trò của nhân vật trong tác phẩm: có các loại nhân vật
chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm.
Nhân vật chính: là nhân vật giữ vai trò then chốt, xuất hiện nhiều trong tác
phẩm. Nhân vật chính là nhân vật xuất hiện nhiều hơn cả trong tác phẩm, đóng vai
trò quan trọng trong việc thể hiện tập trung đề tài, chủ đề và tư tưởng của tác
phẩm. Nhân vật chính thường được khắc họa tương đối đầy đặn trên các mặt ngoại
hình, nội tâm, tính cách, quá trình phát triển. Đó là những nhân vật như Thuý Kiều
(Nguyễn Du), Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu), Chí Phèo (Nam Cao), Quỳ
(Nguyễn Minh Châu), Kiên (Bảo Ninh), …
Nhân vật phụ: là nhân vật phụ trợ, có tính chất bổ sung, không thể thiếu
trong tác phẩm. Đúng như G.N. Pospelov nhận xét đó là “nhân vật giữ chức năng
“dây cót” cho bộ máy cốt truyện vận động”. Chẳng hạn “thằng bán tơ” là một
nhân vật rất phụ trong Truyện Kiều. Nhưng không có nhân vật này thì sẽ cũng
không có sự kiện “gia biến” dẫn đến các sự kiện “bán mình”, “15 năm lưu lạc” về
sau,…
Nhân vật trung tâm: là nhân vật được thể hiện đặc biệt, có ý nghĩa tư tưởng – thẩm
mĩ sâu sắc nhất. Nếu nhân vật chính giúp người đọc hiểu được tư tưởng, khát vọng
và suy tư của nhà văn trước cuộc đời thì nhân vật trung tâm đóng vai trò là đầu
mối của mọi sự kiện diễn ra trong suốt tác phẩm, nơi quy tụ các mối mâu thuẫn
trong tác phẩm, nơi thể hiện các vấn đề trung tâm. Đó là các nhân vật như Jean
Christophe, EnmaBovary, Prométheus, Lecid, Kiều, Hamlet. Các mâu thuẫn, các
vấn đề chủ yếu thường được tập trung và bộc lộ ở các nhân vật trung tâm này. Cho
12
nên trong nhiều trường hợp người ta lấy tên nhân vật chính có ý nghĩa trung tâm
đặt tên cho tác phẩm như Don Quijote, Othello, A. Q chính truyện, Prometheus
bị xiềng, Edip làm vua,...
Dựa vào đặc điểm tính cách, việc truyền đạt lý tưởng của nhà văn: nhân vật
văn học được chia thành nhân vật chính diện và nhân vật phản diện.
Nhân vật chính diện: (còn gọi là nhân vật tích cực) thường được tác giả đề
cao và khẳng định, đó là nhân vật mang lí tưởng của thời đại; khi nhân vật này có
ý nghĩa mẫu mực cao độ cho lối sống của một tầng lớp, một giai cấp, một dân tộc
thì nó được gọi là nhân vật lí tưởng.
Nhân vật phản diện: mang sự phê phán, phủ định của tác giả, đó là những
nhân vật mang phẩm chất xấu xa, trái với đạo lý và lý tưởng, đối lập về tính cách
với nhân vật chính diện. Trong Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, có thể
nhận thấy hai tuyến nhân vật này, một bên là Lục Vân Tiên, Vương Tử Trực, Hớn
Minh, Nguyệt Nga một bên là cha con Võ Thế Loan, Bùi Kiệm, Trịnh Hâm…
Dựa vào thể loại văn học: ta có nhân vật trữ tình, nhân vật tự sự, nhân vật
kịch.
Nhân vật tự sự: là nhân vật được miêu tả theo phương thức tự sự, chủ yếu
xuất hiện trong các tác phẩm tự sự như trong tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa,
truyện thơ. Đây là loại nhân vật có thể được miêu tả đầy đặn nhất, phong phú nhất,
ít bị hạn chế.
Nhân vật kịch: là nhân vật được miêu tả theo phương thức kịch, chủ yếu xuất
hiện ở trong kịch. Vì kịch viết là để diễn bị hạn chế bởi không gian và thời gian
nên nhân vật kịch chỉ được miêu tả ở những khâu xung đột căng thẳng nhất. Do đó
nhân vật kịch giàu kịch tính, góp phần tạo nên tính kịch của vở kịch. Các nhân vật
có tính kịch trong tự sự là loại nhân vật gần gũi với nhân vật kịch.
Nhân vật trữ tình: là nhân vật được xây dựng theo phương thức trữ tình, trực
tiếp thể hiện cảm xúc, ý nghĩ trong tác phẩm. Nhân vật trữ tình thường xuất hiện
dưới dạng phiến đoạn trong nhiều thể loại khác nhau như thơ trữ tình, bút kí, tùy
13
bút nhưng chủ yếu là trong thơ trữ tình.
Dựa vào cấu trúc hình tượng: nhân vật được chia thành nhân vật chức năng
(hay mặt nạ), nhân vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng.
Nhân vật chức năng: có đặc điểm phẩm chất cố định, không thay đổi từ đầu
đến cuối, không có đời sống nội tâm, sự tồn tại và hoạt động của nó chỉ nhằm thực
hiện một số chức năng trong truyện và trong việc phản ánh đời sống. Nhân vật
đồng nhất với vai trò mà nó đảm nhận trong tác phẩm. Trong văn học cổ đại và
trung đại, đặc biệt là trong các sáng tác truyền miệng, đó đều là những nhân vật
chức năng. Ví dụ : Chức năng cho phép màu thử thách và ban phát hạnh phúc như
ông Bụt trong Tấm Cám; anh hùng xuất hiện để giết trăn tinh, yêu quái, phù thuỷ,
cứu người đẹp như Thạch Sanh trong truyện cổ tích cùng tên. Trong tuồng cổ, vai
trung bao giờ cũng cương trực, thực hiện đạo lý, vai nịnh, phản trắc, gièm pha,
hãm hại người tốt. Trong văn học phục hưng, nhân vật chức năng thường là nhân
vật thực hiện chức năng một chiều, hoặc có bề ngoài không đổi che đậy một cái gì
khác ở bên trong.
Nhân vật loại hình: là nhân vật thể hiện tập trung một loại phẩm chất, tính
cách nào đó của con người hoặc các phẩm chất, tính cách đạo đức của một loại
người nhất định, của một thời đại. Ví dụ: Các nhân vật của Molière như Apagon
thể hiện tập trung thói keo kiệt, Tartufe thể hiện thói đạo đức giả và ông Juocdan
là hiện thân cho thói phù phiếm, hám danh của gã tư sản muốn làm quý tộc. Nhân
vật loại hình là loại nhân vật mà ở đó có một nét tính cách được tô đậm trở nên
tiêu biểu cho loại người nào đó trong xã hội của những thời đại nhất định. Loại
nhân vật này dựa trên cơ sở tập trung miêu tả một nét tính cách nổi bật và thường
là nét tính cách trở thành tên gọi của nhân vật. Đó là nét “keo kiệt” của Apagon,
nét “đạo đức giả” của Tartufe trong hài kịch Molière, nét ”con người bổn phận”
trong Horatius hay Simen của P. Corneille,…
Nhân vật tính cách: là loại nhân vật có cá tính đầy đặn nhiều mặt, là con
người cụ thể, cá biệt, độc đáo. Trong nhân vật tính cách thường có rất nhiều mặt
khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Ví dụ, nhân vật Anđrây Bôncônxki của L.
14
Tônxôi, vừa có vẻ ngoài kiêu kì, lạnh lùng, tự cao, nhưng bên trong lại là con
người có lòng tự trọng, sống có lí tưởng và rất có trách nhiệm. Nhân vật Xcarlét
trong Cuốn theo chiều gió, vừa luôn mang trong mình những bài học chuẩn mực
về cách cư xử mà mẹ cô, một phụ nữ quý tộc cao quý, đã từng dạy dỗ, nhưng bên
cạnh đó, Xcarlét lại có tính cách rất thực dụng để có thể tồn tại được qua những
giai đoạn khốn khó nhất của cuộc đời. Nhân vật tính cách được chú ý nhiều ở mối
liên hệ, tương quan giữa các thuộc tính phức tạp có khi rất mâu thuẫn trong tính
cách. Và đặc biệt sự xung đột giữa những tính cách ấy trong quan hệ với tình
huống, môi trường, đã góp phần làm nhân vật luôn phải tự đấu tranh, dằn vặt.
Nhân vật Hộ (Đời thừa - Nam Cao) là một dạng như vậy. Trong những mối liên
hệ đó ta thấy nổi lên cách ứng xử riêng biệt của nhân vật, bộc lộ những mâu thuẫn
xung đột, chuyển biến của tính cách. Như vậy, nhân vật tính cách thường hiện ra
như một quá trình, có biến động, thay đổi một cách sinh động, biện chứng giống
như những con người hiện thực. Nhân vật Chí Phèo (Chí Phèo), chị Dậu (Tắt
đèn), chị Đào (Mùa lạc), Pie Bêdukhôp (Chiến tranh và hòa bình), bà Bôvari (Bà
Bôvari)... là những nhân vật tính cách.
Nhân vật tư tưởng: là loại nhân vật tập trung thể hiện một ý thức, một tư
tưởng nào đó mà theo tác giả loại ý thức, tư tưởng ấy rất đáng chú ý trong đời
sống xã hội. Giăng Vangiăng là nhân vật tư tưởng nhân đạo, thể hiện lòng yêu
thương con người vô bờ bến, thậm chí thương và tha thứ cho kẻ thù của mình.
Giave là con người của tư tưởng phụng sự pháp luật Nhà nước. Nhân vật người
điên trong Nhật kí người điên của Lỗ Tấn thể hiện tư tưởng lên án lễ giáo phong
kiến, cái lễ giáo nhân nghĩa ăn thịt người của xã hội trung cổ. Nhân vật Độ (Đôi
mắt) là thể hiện quan niệm về lối sống, cái nhìn, trách nhiệm của hai kiểu nhà văn.
Nhân vật hoạ sĩ trong Bức tranh của Nguyễn Minh Châu cũng là nhân vật tư
tưởng khẳng định một phẩm chất phải có của nhân cách: đó là sự tự biết xấu hổ,
biết sám hối, biết tự phán xét mình. Nhân vật tư tưởng còn là loại nhân vật giữ
chức năng bộc lộ một tư tưởng, một quan niệm nào đó. Trong Lục Vân Tiên, ông
Quán cũng là loại nhân vật tư tưởng, khi phát ngôn cho tư tưởng nhân nghĩa của
15
Nguyễn Đình Chiểu.
Để xây dựng thành công một nhân vật văn học, nhà văn phải có khả năng đồng
cảm phát hiện những đặc điểm bền vững ở nhân vật. Điều này đòi hỏi nhà văn phải
hiểu đời, hiểu người. Nhưng có một điều kiện không kém phần quan trọng là nhà
văn phải miêu tả, khắc hoạ nhân vật ấy sao cho có sức thuyết phục mạnh mẽ tới
người đọc. Đây là vấn đề liên quan trực tiếp đến những biện pháp xây dựng nhân
vật trong tác phẩm văn học. Có nhiều biện pháp khác nhau xây dựng nhân vật: sử
dụng các chi tiết, miêu tả ngoại hình, miêu tả hành động, biểu hiện nội tâm, biểu
hiện ngôn ngữ, …
Truyện ngắn có thể có cốt truyện hoặc không có cốt truyện nhưng nhất thiết
không thể không có chi tiết, ngoại hình, hành động, nội tâm, ngôn ngữ của nhân vật.
Chính nhờ vai trò quan trọng của yếu tố đó mà không khí, cảnh trí, tình huống, tính
cách, hành động, tâm tư, số phận của nhân vật được bộc lộ đầy đủ. Cũng chính nhờ
vai trò dẫn dắt câu chuyện của chi tiết, ngoại hình, hành động, nội tâm, ngôn ngữ
mà truyện ngắn trở nên hấp dẫn độc giả, đồng thời cũng giúp người đọc hiểu được
chủ đề, tư tưởng nghệ thuật tác phẩm.
Nói tóm lại, nhân vật văn học là một yếu tố không thể thiếu trong tác phẩm
văn học, nó là một chỉnh thể vận động, có tính cách được bộc lộ dần trong không
gian, thời gian, mang tính chất quá trình. Đọc tác phẩm văn học, người đọc có thể
hình dung ra được các nhân vật như đang hoạt động, đang hiện diện. Mỗi nhà văn
có thể đóng góp vào văn đàn bằng một loại hình nhân vật riêng, có thể ở ngoài ý
muốn của tác giả, để mỗi khi nhớ về nhân vật ấy người ta lại thấy thấp thoáng
bóng dáng nhà văn.
1.1.2. Khái lược về nhân vật trong truyện ngắn
Truyện ngắn là thể loại gần gũi với đời sống hằng ngày, súc tích, dễ đọc, lại
thường gắn liền với hoạt động báo chí, do đó có tác dụng, ảnh hưởng kịp thời trong
đời sống. Truyện ngắn đã hàm chứa cái thú vị của những điều sâu sắc trong một
hình thức nhỏ, gọn và đầy truyền cảm, truyền dẫn cực nhanh những thông tin.
Chính vì thế, truyện ngắn đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu đối với độc
16
giả.
Truyện ngắn có nhiều khả năng trong việc thể hiện quan niệm về con người.
Do dung lượng nhỏ, nắm bắt những nét bản chất nhất của cuộc sống,... truyện ngắn
có khả năng chuyển tải những vấn đề của thời đại, con người, một cách chính xác
nhạy bén. Cũng chính điều này đã khiến truyện ngắn trở thành thể loại cho phép nhà
văn thử nghiệm và triển khai những khía cạnh mới mẻ, linh hoạt trong quan niệm
nghệ thuật về con người. Những day dứt của kiếp người nhiều khi lại thể hiện trong
một anh kéo xe, trong một con điếm muốn tìm một khách làng chơi trong những
phút giây cuối cùng của một năm (Ngựa người, người ngựa - Nguyễn Công Hoan);
những ám ảnh về cuộc sống tù đọng nhiều khi không phải chỉ thể hiện ở những trí
thức, mà nó trở thành nhức nhối trong những kiếp người bé nhỏ (Hai đứa trẻ -
Thạch Lam)... Truyện ngắn đề cập đến nhiều loại người trong xã hội, gắn với mỗi
loại người, ấy là một vấn đề cần trăn trở, cần lưu tâm của cuộc sống nhân sinh. Anh
trí thức có những vấn đề của anh trí thức; người nông dân có những vấn đề của
người nông dân, kẻ lang thang có những vấn đề của kẻ lang thang...
Truyện ngắn thường chớp lấy những khoảnh khắc của kiếp người, lại có thể
chú trọng đến nhiều loại người, cho nên, những vấn đề thời sự, nổi cộm nhất của
cuộc sống được nó nắm bắt một cách nhanh chóng, nhạy bén. Sự nhanh chóng nhạy
bén này không chỉ thể hiện ở việc nắm bắt vấn đề, mà chỉ tính riêng đến thời gian
để ra đời một truyện ngắn cũng có thể nói lên điều đó. Nhà tiểu thuyết phát hiện ra
một vấn đề, nhưng để viết được một tiểu thuyết có dung lượng vừa phải, ít nhất
nghệ sĩ phải mất một năm. Những vấn đề nóng hổi của thời đại, những cách nhìn
nhận mới về con người loé lên trong đầu nhà văn, có thể nói, thời gian để quan niệm
ấy hoá thân thành thế giới nghệ thuật sẽ không cần nhiều như tiểu thuyết. Đây là
một đặc điểm cơ bản của thể loại cỡ nhỏ này. Cùng thể hiện quan niệm con người
khó mà hoà hợp được khi bước từ thời chiến vào thời bình, Bảo Ninh đã sử dụng
đến dung lượng hàng trăm trang trong tiểu thuyết Thân phận tình yêu, còn Nguyễn
Huy Thiệp chỉ cần dùng một truyện ngắn với dung lượng vài chục trang mà cũng
không kém phần ấn tượng (Tướng về hưu)... Vì thế, truyện ngắn không chỉ nắm bắt
17
một cách nhanh nhạy, mà còn thể hiện một cách ấn tượng và linh hoạt những khía
cạnh trong quan niệm nghệ thuật về con người. Không chỉ tạo điều kiện cho nhà
văn thể nghiệm và triển khai những khía cạnh mới mẻ, linh hoạt trong quan niệm
nghệ thuật về con người, truyện ngắn còn tạo điều kiện khai thác khả năng đồng
sáng tạo của độc giả. Đặt con người vào trong “tổng hoà các mối quan hệ xã hội”,
bên cạnh ý thức, nhân vật còn hiện diện cả phần nội tâm, tiềm thức và vô thức, các
tác giả truyện ngắn đã khêu gợi ở người đọc cách lý giải, nhìn nhận con người.
Truyện ngắn thường nêu ra các vấn đề của nhân sinh để người đọc tự suy
ngẫm, lí giải theo quan niệm của riêng mình. Phương thức tồn tại đầy đủ nhất của
tác phẩm văn học chính là tồn tại trong chủ quan tác giả, trong văn bản và trong sự
tiếp nhận của độc giả. Khai thác sự đồng sáng tạo từ phía người tiếp nhận không chỉ
tạo nên tính dân chủ trong tiếp nhận mà còn tăng sức nặng của những vấn đề được
đặt ra. Những vấn đề nhà văn chỉ nêu lên sẽ lớn dần trong sự tiếp nhận. Người đọc
không đơn giản là người tiếp nhận một cách thụ động mà còn là người tích cực chủ
động tham gia cùng nhà văn vào việc nhìn nhận về con người, bổ sung những quan
niệm của mình. Chính vì thế hình tượng nghệ thuật nói chung và quan niệm nghệ
thuật về con người nói riêng trong truyện ngắn trở nên phong phú và sâu sắc hơn.
Vấn đề đặt ra đối với sáng tác văn học nói chung không đơn giản là chuyện nhà văn
viết cái gì, mà là chuyện nhà văn đã gợi lên được điều gì trong lòng độc giả sau khi
đọc xong truyện đó. Vậy nên, truyện ngắn đã làm được điều này nhờ sức gợi của
mình. Để tạo nên sức gợi, bên cạnh việc lựa chọn cách trần thuật, tác giả truyện
ngắn cũng rất chú trọng đến lựa chọn những sự kiện, chi tiết thể hiện các khả năng
có thể có của cuộc đời con người. Những số phận, những con người, những sự kiện
phức tạp tự nó đã cho phép nhiều cách hiểu khác nhau.
Truyện ngắn thường sử dụng cách trần thuật đầy ẩn ý, thường sử dụng các
biểu tượng đa nghĩa. Chính điều này đã tạo nên tính hàm súc, cô đọng, chất thơ của
thể loại, đồng thời phát huy khả năng đồng sáng tạo của độc giả trong việc đưa ra
những quan niệm về con người, về cuộc sống nhân sinh. Người đọc sẽ luôn trăn trở
về cách nhìn nhận con người cùng Nam Cao khi đọc Lão Hạc, Chí Phèo, Tư cách
18
mõ...; sẽ luôn bị ám ảnh, và cùng Nguyễn Huy Thiệp suy nghĩ về con người khi đọc
những truyện ngắn của ông như: Sang sông, Tướng về hưu, Không có vua... Nếu
đem so sánh một tác phẩm với một tác phẩm thì rõ ràng, khả năng phản ánh hiện
thực đời sống, khả năng thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người của truyện
ngắn không thể bằng tiểu thuyết. Nhưng xét trên phương diện thể loại (bao gồm
nhiều tác phẩm) thì truyện ngắn không hề thua kém tiểu thuyết trong lĩnh vực này.
Như ta biết, mỗi truyện ngắn thường chỉ thể hiện một quan niệm nghệ thuật về con
người; chẳng hạn, truyện Sang sông của Nguyễn Huy Thiệp yêu cầu chúng ta phải
có cái nhìn khác về con người hiện nay, nhiều khi phải “đập tan bình cổ” để tiến
đến một tương lai tươi sáng hơn, truyện Bức tranh của Nguyễn Minh Châu lại cho
thấy bên trong con người luôn có cả rắn rết lẫn rồng phượng; truyện Hoá thân của
F. Kafka lại cho thấy sự bất lực của con người trong cuộc sống hiện tại... Như vậy,
nhiều tác phẩm gộp lại, ta lại thấy truyện ngắn có khả năng thể hiện một cách khá
toàn diện những cách nhìn nhận về con người. Cho nên, xét trên bình diện thể loại,
khả năng thể hiện phong phú, đa dạng quan niệm nghệ thuật về con người của
truyện ngắn là một thực tế.
Truyện ngắn thường “chớp lấy cái thần thái” của nhân vật, ẩn sau mỗi sự kiện,
chi tiết, nhân vật của truyện ngắn, bao giờ cũng là những ý tưởng hết sức sâu sắc.
Người đọc có cảm giác như người viết truyện ngắn có sẵn trong đầu những quan
niệm (tất nhiên, những quan niệm này cũng được rút ra từ sự quan sát thực tế), rồi
tìm những cảnh đời phù hợp với quan niệm ấy. Đọc truyện ngắn, người đọc phải đi
ngược lại tiến trình sáng tạo để tìm đến những quan niệm sâu sắc được nhà văn gửi
gắm kín đáo. Nhiều triết lí được đưa ra trong truyện ngắn (nhất là truyện rất ngắn),
ta có cảm giác như nó gần gũi với những bài học được rút ra từ truyện ngụ ngôn.
Chẳng hạn truyện Bé yêu của L. Corxinxki (Nga), truyện Lời nói tình yêu của B.
Laxkin, Sự biến hoá kì diệu của R. Kazkova... Nhà văn càng ít miêu tả, thuyết
minh cụ thể, chi tiết, thì sức khái quát càng cao. Ở một mức độ nào đó, truyện ngắn
gần với thơ trữ tình. Đó chính là tính cô đúc, hàm súc, nói ít gợi nhiều. Quan niệm
nghệ thuật về con người trong thơ và truyện ngắn đều đạt tính khái quát xã hội cao
19
nhưng truyện ngắn và thơ trữ tình vẫn có những nét riêng trong những khái quát về
con người. Có thể nói truyện ngắn là thể loại tạo điều kiện để người sáng tác không
ngừng vươn tới giới hạn tối đa trong cách hiểu con người.
Nội dung thể loại của truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời
sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn gọn. Bởi truyện
ngắn được viết ra để đọc liền một mạch. Tuy nhiên, truyện ngắn cũng có không ít
những giới hạn trong việc thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người. Trước hết,
do phải đảm bảo dung lượng “ngắn”, thể loại này chỉ có thể “nêu” lên những quan
niệm nghệ thuật về con người. Tức là truyện ngắn, không cho phép lí giải, phân
tích, chứng minh, triển khai một cách dài hơi những quan niệm được nhà văn đưa
ra. Với một quan niệm nghệ thuật về con người, nhà văn chỉ được phép thể hiện nó
trong số lượng chi tiết, nhân vật, sự kiện hết sức hạn chế.
Truyện ngắn là hình thức tự sự ngắn gọn nên nhân vật của truyện ngắn cũng
chịu sự chi phối của đặc điểm này. Nhân vật của truyện ngắn cũng là nhân vật tự sự
nhưng có những điểm khác so với nhân vật tự sự của tiểu thuyết. Các tác giả truyện
ngắn thường hướng tới khắc hoạ một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong
quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người chứ không nhằm tới việc khắc
hoạ những tính cách điển hình, có cá tính đầy đặn, nhiều mặt trong tương quan với
hoàn cảnh như ở tiểu thuyết. Nhân vật trong truyện ngắn thường là hiện thân cho
một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người
chứ không phải là toàn bộ tồn tại của con người trong mối quan hệ đối với xã hội.
Tác giả truyện ngắn thường hướng tới khắc họa một hiện tượng, một nét tính chất
trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người - nhân vật tâm trạng. Nhân
vật trong truyện ngắn được tác giả đặc tả qua những chi tiết tiêu biểu, sáng nhất và
đắt nhất. Chi tiết còn cần để khắc họa ngoại hình và miêu tả hành động nhân vật.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử, những khả năng của truyện ngắn được phát huy
và những hạn chế được khắc phục ở mức độ khác nhau, gắn với những quan niệm
nghệ thuật khác nhau về con người. Sau 1986, trong giai đoạn mới, truyện ngắn đã
phát huy được khả năng tiếp cận và phản ánh hiện thực con người một cách nhanh
20
nhạy và sắc bén. Với đặc trưng cơ bản của thể loại, truyện ngắn đã tạo cơ sở cho sự
biểu hiện những thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người. Có thể nói chưa
bao giờ trong văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng, con người lại được khai
thác ở nhiều chiều kích và bình diện đến vậy.
Tiếp cận với thế giới nhân vật trong các sáng tác, người đọc như được tiếp xúc
với những con người có thực ở ngoài đời, cũng sinh động, phong phú và không kém
phần phức tạp. Với ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, truyện ngắn góp phần làm cân bằng
hài hoà trở lại cách nhìn nhận con người có chiều sâu và toàn diện hơn.
1.2. Sáng tác của Nguyễn Ngọc Tƣ
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976, quê ở xã Tân Duyệt, huyện Đầm
Dơi, tỉnh Cà Mau. Sinh ra trong một gia đình nghèo, điều kiện gia đình lại khó khăn
nên Nguyễn Ngọc Tư chỉ học hết 9 rồi dừng lại. Tưởng như đây sẽ là trở ngại của
Nguyễn Ngọc Tư đến với nghề cầm bút, nhưng với sự động viên của người cha,
Nguyễn Ngọc Tư đã viết những gì mà mình nghĩ, viết những gì mà cô đã trải qua.
Sau ba truyện ngắn được đăng trên Tạp chí văn nghệ Cà Mau, Nguyễn Ngọc Tư đã
được nhận làm văn thư và học làm phóng viên báo tại đây. Chị lập gia đình với một
người là thợ kim hoàn và đến nay đã có hai bé trai. Trong cuộc sống đời thường,
Nguyễn Ngọc Tư là một người phụ nữ chân chất, hồn nhiên, thích cuộc sống giản
đơn nhưng nội tâm phức tạp. Trong văn chương, chị ví truyện của mình như trái sầu
riêng – nhiều người thích nhưng cũng không ít người dị ứng. Hiện tại, chị là một
trong những Hội viên Hội Nhà văn trẻ tuổi gây được nhiều chú ý nhất ở Việt Nam.
Với tác phẩm đầu tay là tập kí sự Nỗi niềm sau cơn bão, chị đã chính thức
bước vào nghề văn với giải ba báo chí toàn quốc năm 1997. Từ đó độc giả bắt đầu
biết đến tên tuổi của Nguyễn Ngọc Tư qua các tác phẩm đã được xuất bản như:
- Ngọn đèn không tắt (Tập truyện, Nxb Trẻ 2000)
- Ông ngoại (Tập truyện thiếu nhi, Nxb Trẻ 2001)
- Biển người mênh mông (Tập truyện, Nxb Kim Đồng 2003)
- Giao thừa (Tập truyện, Nxb Trẻ 2005)
21
- Nước chảy mây trôi (Tập truyện và kí, Nxb Văn nghệ TP.HCM, 2004)
- Đau gì như thể (truyện ngắn - Giải ba cuộc thi truyện ngắn của báo Văn
nghệ năm 2004-2005)
- Sống chậm thời @ (tản văn, 2006) - đồng tác giả với Lê Thiếu Nhơn)
- Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (tập truyện ngắn, 2005)
- Cánh đồng bất tận (tập truyện ngắn, 2005)
- Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư (tạp bút, 2005)
- Sầu trên đỉnh Puvan (2007)
- Ngày mai của những ngày mai (tạp bút, 2007)
- Gió lẻ và 9 câu chuyện khác (tập truyện ngắn, 2008)
- Biển của mỗi người (tạp bút, 2008)
- Yêu người ngóng núi (tản văn, 2009)
- Khói trời lộng lẫy (tập truyện ngắn, 2010)
- Gáy người thì lạnh (tản văn, 2012)
- Bánh trái mùa xưa (tản văn, 2012)
- Sông (tiểu thuyết, 2012)
- Chấm (thơ, 2013)
- Đảo (tập truyện ngắn, 2014)
- Trầm tích (tập truyện ngắn, 2014), ra chung với Huệ Minh, Lê Thuý Bảo
Nhi, Thi Nguyễn
- Đong tấm lòng (gồm hơn 30 tản văn, Nxb Trẻ, 2015).
Cùng với số lượng tác phẩm lớn thì số lượng giải thưởng dành cho Nguyễn Ngọc
Tư cũng khá nhiều :
- Chị từng đạt giải Nhất cuộc vận động sáng tác “Văn học tuổi 20 lần thứ II”
do nhà xuất bản Trẻ, Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh, báo Tuổi Trẻ tổ chức
năm 2000 với tập truyện Ngọn đèn không tắt.
- Giải thưởng văn học của Hội nhà văn Việt Nam năm 2001 cùng với tập
truyện ngắn Ngọn đèn không tắt. Tập sách này đã được chọn in lại trong Tủ sách
22
vàng của Nhà xuất bản Kim Đồng năm 2003.
- Nguyễn Ngọc Tư đạt giải Ba cuộc thi sáng tác truyện ngắn 2003 - 2004
của báo Văn nghệ với truyện ngắn Đau gì như thể…
- Là một trong “Mười gương mặt trẻ tiêu biểu năm 2003” do Trung ương
Đoàn trao tặng.
- Giải thưởng văn học ASEAN năm 2008…
- Chị cũng là tác giả trẻ nhất có tên trong tuyển tập truyện ngắn Việt Nam
được dịch và in ở Mĩ, do đó chị đã vinh dự được chọn lên hình của chương trình
Người đương thời năm 2005. Nhiều truyện ngắn của chị được dịch ra tiếng Anh,
tiếng Nhật để giới thiệu với độc giả ở nước ngoài.
Với một loạt những thành công liên tiếp như vậy, cho thấy, Nguyễn Ngọc Tư
là một trong những nhà văn trẻ đang ngày càng khẳng định được tài năng và vị trí
của mình trên văn đàn Việt Nam. Chị đã chứng tỏ mình là một người miệt mài lao
động, miệt mài sống và tích luỹ vốn sống để nuôi dưỡng cảm hứng và năng lực
sáng tác.
1.2.1. Hành trình sáng tác
Xuất hiện trên văn đàn một cách đầy ấn tượng với hương vị mặn mòi của
ruộng đồng Nam Bộ, các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư không chỉ mang đến cho
văn học Việt Nam một hơi thở mới nồng nàn đậm chất thôn quê của vùng đồng
bằng sông nước mà còn thể hiện những mảng hiện thực của đời sống, với đầy va
chạm, ngột ngạt.
Truyện ngắn đầu tay Ngọn đèn không tắt nổi bật sự nhân hậu, hồn hậu, và đây
là đặc điểm xuyên suốt trong văn của Nguyễn Ngọc Tư.
Năm 2003, Nguyễn Ngọc Tư cho xuất bản tập truyện Giao thừa với 17 truyện
ngắn, thể hiện ngòi bút già dặn hơn. Đến các tập Biển người mênh mông, Nước
chảy mây trôi, các trang văn của Ngọc Tư thường viết về những câu chuyện nhỏ
nhẹ, man mác buồn. Những câu chuyện được kể thật giản dị, tự nhiên, không cường
điệu, chân thành về cuộc đời, thân phận, nhỏ hơn nữa là niềm vui, nỗi buồn, ước
mong… của những con người nhỏ bé, thân thuộc đang vất vả mưu sinh giữa cuộc
23
đời thường.
Năm 2005, chị tạo ra bước đột phá mới theo một phong cách khác lạ so với
giai đoạn trước đó là cho ra đời tập truyện Cánh đồng bất tận gồm 13 truyện ngắn
xuất sắc, trong đó độc đáo nhất, gây xôn xao dư luận nhiều nhất là truyện được đặt
tên cho cả tập - Cánh đồng bất tận. Tác phẩm như một điểm mốc đánh dấu sự thay
đổi trong cách viết của nhà văn. Chị đã đi đến tận cùng những thể nghiệm trong bút
pháp của mình: loại bỏ tầm quan trọng của sự kiện để đào sâu vào tâm lý và cảm
xúc, đặt nhân vật vào trong những bối cảnh có tính tương phản cao. Nguyễn Ngọc
Tư đã để cho nhân vật cảm nhận chất thơ của cuộc sống nhọc nhằn, cơ cực, trong sự
ấm cúng của một triền sông nước, giữa cuộc sống bộn bề hôm nay. Truyện ngắn
Cánh đồng bất tận đã được đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình chuyển thể thành
một bộ phim điện ảnh cùng tên và gặt hái được nhiều thành công rực rỡ. Khác với
các truyện ngắn viết trước đó, ở tập truyện Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư đã
khéo léo linh hoạt tìm ra những phương thức thích hợp nhất để thể hiện sắc nét
dòng tâm trạng, cảm xúc, những suy tư, trăn trở... trong nội tâm của từng nhân vật.
Qua đó, việc đi sâu khám phá nội tâm của các nhân vật đã giúp Nguyễn Ngọc Tư
nhắn nhủ tới người đọc cần có một cái nhìn sâu sắc hơn trong cuộc sống này.
Trong năm 2005 - 2006, nền văn học nước nhà có nhiều bước chuyển biến,
đặc biệt thể loại truyện ngắn. Những tác phẩm truyện ngắn của chị đã mang đến một
sự khác biệt, mới lạ cho văn xuôi đương đại. Nguyễn Ngọc Tư đi sâu hơn vào việc
khai thác những mảng hiện thực đang bày ra trước mắt, với đầy va chạm, bụi bặm
và ngột ngạt của cuộc sống đời thường. Ở những tác phẩm này, chị vẫn chủ yếu viết
về những con người nông dân chất phác, sống cảnh đời nghèo khó, đơn côi, những
mối tình buồn thương, day dứt khôn nguôi trong: Cuối mùa nhan sắc, Hiu hiu gió
bấc, Mối tình năm cũ, Thương quá rau răm…
Tháng 9/2008, Nguyễn Ngọc Tư cho ra đời tập truyện ngắn tiếp theo Gió lẻ và
9 câu chuyện khác với lối viết quen thuộc, trở lại với cái nhìn đau đáu, xót xa về
thân phận con người, và trở lại với sự hóa thân tài tình vào các nhân vật. Trong tập
truyện này, tác giả đã hóa thân vào rất nhiều vai với nhiều tâm trạng khác nhau…
24
Từ cảm giác của một ông bố luôn thấy thua kém đứa con gái của mình, nỗi lòng của
một vị giáo sư già nua khi được một cô sinh viên đeo đuổi, sự day dứt của một
người mẹ đi ngoại tình không thể về để che chở cho các con khi trời mưa bão, đến
nỗi đau của một cô gái vì chứng kiến quá nhiều bi kịch đến nỗi không còn nói được
tiếng người. Từ một đứa trẻ đến một người già, từ một tâm hồn ngây thơ trong sáng
nhất đến một đầu óc lạnh lùng tàn nhẫn nhất.
Năm 2010, Nguyễn Ngọc Tư trở lại với bạn đọc văn học nước nhà với mong
muốn mang đến một sự khác lạ, một cái mới, hay cụ thể hơn là một tác phẩm để chị
vượt qua cái bóng của Cánh đồng bất tận. Chị đã dành hết tâm huyết và bút lực để
vẽ nên chân dung người phụ nữ miền Tây Nam Bộ trong Khói trời lộng lẫy gồm 10
câu chuyện nhỏ. Tập truyện vẫn chất giọng mộc mạc, dung dị của con người miền
Tây sông nước, viết về đề tài quen thuộc đậm chất Nguyễn Ngọc Tư: thân phận con
người, nhiều nhất là về những người đàn bà. Mỗi truyện là một câu chuyện về
những cuộc đời khác nhau, những bi kịch khác nhau nhưng đều đồng điệu ở những
thân phận con người đầy dang dở, mất mát và mặc cảm. Chị viết về những cảnh đời
cụ thể, những thân phận cụ thể, trong một góc nhỏ bé cụ thể, nhưng những cái
tưởng như nhỏ hẹp ấy lại mở ra một thế giới mới đầy chiều sâu và mênh mang cảm
xúc tình người. Ở đấy, người ta bắt gặp cái nồng ấm thủy chung của tình làng nghĩa
xóm, tình vợ chồng, tình cha con, tình nghĩa của những thân phận người dưng trôi
dạt về bên nhau bởi sự đẩy đưa của cuộc đời. Không chỉ dừng lại ở đó, Nguyễn
Ngọc Tư còn kể cho người đọc nghe những mất mát, những tai họa đang lớn dần
lên trong cuộc sống hàng ngày: tình trạng “nước đuổi”, tình trạng tàn phá thiên
nhiên, sự lộng hành của cái ác, tâm lý trả thù và những nỗ lực gần như tuyệt vọng
để cứu vãn cái đẹp và những giá trị bình an. Một lần nữa, với bút pháp tả thực kết
hợp thủ pháp tượng trưng, với cái “tâm” nhạy cảm đầy day dứt trước những vấn nạn
của xã hội đương thời, Nguyễn Ngọc Tư ngày càng đi được những bước vững chắc
hơn trong sự nghiệp của mình. Những truyện ngắn trong Khói trời lộng lẫy vẫn thể
hiện một Nguyễn Ngọc Tư chân chất, với những từ ngữ mộc mạc nhưng đầy thấm
thía và khiến người ta phải suy nghĩ rất nhiều. Trước đây, sáng tác của Nguyễn
25
Ngọc Tư thường là những trăn trở về vấn đề nông dân-nông thôn thì với tập truyện
này, nhà văn đã phản ánh đa diện những mặt trái của xã hội đương thời. Đó là xã
hội mà tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn tồn tại gây nên những hệ lụy nhói lòng.
Trong tập truyện, Nguyễn Ngọc Tư đã miêu tả sống động nỗi bất hạnh của những
nạn nhân trước cái tư tưởng lạc hậu này.
Năm 2012, Nguyễn Ngọc Tư cho ra đời tiểu thuyết đầu tay mang nhan đề
Sông. Tác phẩm được coi như là bước thể nghiệm của chị ở thể loại mới để vượt
qua “giới hạn của bản thân” đi đào sâu, tìm tòi, “khơi những nguồn chưa ai khơi và
sáng tạo những cái gì chưa có”. Sông là sự đổi mới toàn diện của Nguyễn Ngọc Tư.
Bởi, nó đã phản ánh được hơi thở của cuộc sống. Tác phẩm đề cập khá đầy đủ nhiều
mảng đề tài xã hội được dư luận nhắc đến hàng ngày như đồng tính, bi kịch gia
đình, ngược đãi trẻ em, tôn giáo, tệ nạn xã hội (ma túy, buôn lậu, dân đào vàng, lâm
tặc, mãi dâm, dân giang hồ xử nhau…), suy đồi đạo đức, ô nhiễm môi trường, lũ lụt,
lạm phát, lễ hội và tượng đài, báo mạng lá cải… đến những vấn đề chính trị nhạy
cảm cũng thấp thoáng như tranh chấp quyền lực, hòa hợp dân tộc, chủ quyền biển
đảo, quan hệ quốc tế… và tất nhiên là phải kể đến yếu tố sex.
Sông là câu chuyện của một lớp người trẻ hiện đại đi tìm cội nguồn và ý
nghĩa tồn tại của mình ngay trên chính quê hương mình. Tác giả để cho từng nhân
vật trôi đi trong một thực tại đầy hư ảo của kiếp người với ám ảnh “tồn tại hay
không tồn tại, đó mới là vấn đề”. Mỗi người đều có những thôi thúc sâu xa mà
chính họ cũng không biết chính xác nó là gì. Nỗi thất vọng với người tình đồng tính
là cái cớ để nhân vật Ân làm một cuộc soi lại chính mình. Hành trình đi ngược sông
Di của Ân cũng là hành trình đào xới lại tâm thức, lật lại từng kỷ niệm, những “tình
tiết” trong đời. Người cha chưa bao giờ là cha theo mọi nghĩa, kể cả điều sâu xa
nhất là cảm giác huyết thống với con người ấy Ân cũng không hề có. Với mẹ, Ân là
nơi để trút những kỳ vọng, yêu thương, là chiếc gương mà bà cần để ngày ngày soi
ngắm bản thân, chứ không phải như là chính con người cậu. Cuộc sống của sông là
sự chảy trôi, cũng như đời người, rốt cuộc tìm đến bản chất tận cùng ta chỉ thấy sự
vô thường. Những dòng sông bị lấp nhưng dòng chảy vẫn miệt mài ở dưới tầng sâu
26
dần bào mòn lòng đất, cho đến một thời điểm nào đó bật dậy thành những cuộc lở
sông kinh hoàng. Và bản chất con người cũng vậy. Sự vặn xoắn trong tâm thức con
người đi ngược với bản chất tự nhiên, chối bỏ nó hoặc che đậy nó, để có thể sống
yên ổn trong cái gọi là xã hội con người đều là cội nguồn bi kịch. Với ý nghĩa đó,
Sông không hề nhẹ nhàng nhưng nó lại như đang ẩn náu trong cái thời đại này.
Gần đây, chị cho xuất bản tập truyện ngắn Đảo (2014) gồm 17 truyện, trong
đó phần lớn là những truyện khá ngắn, khoảng trên dưới 2.000 chữ, thậm chí có
truyện chỉ trên dưới 1.000 chữ. Điểm khác biệt so với những truyện ngắn và truyện
vừa trước đây, đặc biệt là truyện vừa Cánh đồng bất tận, ở tập truyện này số chữ ít
đến mức không thể ít hơn được nữa, nhưng dường như tiếng vọng của hồn cốt câu
chuyện lại dài rộng ra trông thấy. Đảo của chị là những cuộc đi, mà cũng là những
cuộc trở về trong chính tâm hồn của nhân vật. Có gì đó xáo xác trong những giấc
mơ muốn tự mở cánh cửa cho cuộc đời mình nhưng lại không có cách nào thoát ra
được vòng tròn mà người đời vẫn gọi là “số phận”. Con người vùng vẫy, khao khát,
kiếm tìm để rồi tuyệt vọng, chỉ còn lại những cuộc rời đi trong những lựa chọn
muốn tan biến. Lúc thấy họ “đi vào khe của những cuốn sách, náu mình trong thứ
bóng tối trong veo” ở thư viện (Biến mất ở thư viện); lúc rẽ nước đi đâu đó xuống
lòng sông, nằm lại giữa đám cháy để được nhìn thấy, để được yêu thương…
Đâu đó trong tro tàn của những điều rạn vỡ là những trái tim thao thức khát vọng
hạnh phúc, tận tụy và thủy chung; là những con người đi tìm con đường đúng nghĩa
cho cuộc đời mình nhưng vẫn cứ mãi luẩn quẩn trong những khoảng sáng tối không
lối thoát. Đảo bắt đầu từ nội tâm và kết thúc bằng nội tâm của nhân vật song con
đường đó cũng dài vô tận trong cuộc đấu tranh, chịu đựng, khao khát và bản ngã
của mỗi người. Đảo thực ra chính là hành trình khám phá nội tại bản thân của các
nhân vật để rồi người đọc dễ dàng nhận thấy một phần chính mình trong đó, trong
cuộc hành trình trôi dạt đời người đó.
Truyện của Ngọc Tư luôn buồn. Chị từng nói niềm vui thì nhiều nhưng lại
không khiến người ta day dứt. Trong bài diễn từ của mình khi nhận Giải thưởng
Văn học Đông Nam Á, Nguyễn Ngọc Tư chia sẻ: “Tôi hay nghĩ về sức mạnh của
27
những giọt nước mắt. Chúng trong trẻo, giản dị nhưng lại gây rung cảm sâu sắc.
Những tối trên bản tin truyền hình, tôi nhìn thấy một em bé hay một phụ nữ ở xứ sở
xa xôi nào đó đang khóc, vì chiến tranh vì bạo lực hay vì thiên tai…và những giọt
nước mắt lay động bất cứ ai nhìn thấy chúng, bất chấp biên giới, màu da, thể chế
chính trị, ngôn ngữ hay những cách biệt văn hóa khác. Tôi nghĩ nếu vẽ một biểu
tượng của nghề viết mà tôi đang đeo đuổi tôi sẽ vẽ hình ảnh của giọt nước mắt hay
gần giống như thế, bởi văn học vẫn còn những rào cản ngôn ngữ. Khi viết về thân
phận, nỗi đau, sự bối rối thường trực của con người trước những biến cố của cuộc
đời, tôi luôn ao ước những trang viết của mình có được sự rung cảm như những
giọt nước mắt”. Vì thế, mà những giọt nước mắt xuất hiện trong truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư ngày càng trĩu nặng.
Văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư như thâm nhập được sâu vào thế giới bên trong,
soi chiếu những góc khuất tâm hồn con người. Từ đó làm cho thế giới nhân vật, cốt
truyện mang màu sắc lãng mạn, huyền ảo. Không những vậy nó còn tạo không gian
đa chiều, lung linh trên từng trang viết. Tạo thành thế giới biểu tượng trong tác
phẩm, đấy chính là một trong những yếu tố làm nên sự thành công của ngòi bút
Nguyễn Ngọc Tư. Mỗi tác phẩm là một hồi chuông rung lên cảnh tỉnh con người
hiện đại hãy biết sống yêu thương, chia sẻ với nhau, bởi lẽ chỉ có tình yêu thương
thực sự từ trái tim mới giúp con người thoát khỏi bi kịch cuộc đời. Đó là tiếng
chuông thức tỉnh mỗi con người tự nhìn nhận lại chính bản thân mình, để trở về
nguồn nhân ái giữa một thế giới lây lan, sự vô cảm, phân ly. Vì vậy, chúng ta thấy
trên trang viết của chị là những điều bức xúc, những nỗi đớn đau và cả những nụ
cười quê mùa, e thẹn, những giọt nước mắt ngân ngấn rưng rưng... nhưng trong cái
sầu ấy, chúng ta vẫn nhận thấy một niềm tin, một ánh sáng bền bỉ, dai dẳng trong
từng trang viết của chị.
Ra đời muộn hơn, có khi luân phiên giữa các tập truyện là những kí, tạp văn,
tản văn của Nguyễn Ngọc Tư được in thành các tập: Nước chảy mây trôi (tập
truyện ngắn và kí) NXB Văn nghệ TP.Hồ Chí Minh, 2004; Sống chậm thời @ (tản
văn, 2006) - đồng tác giả với Lê Thiếu Nhơn); Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư (tạp bút,
28
2005); Ngày mai của những ngày mai (tạp bút, 2007); Biển của mỗi người (tạp
bút, 2008), Yêu người ngóng núi (tản văn, 2009); Gáy người thì lạnh (tản văn,
2012), Bánh trái mùa xưa (tản văn, 2012), Đong tấm lòng (gồm hơn 30 tản văn,
NXB Trẻ, 2015). Tản văn của Nguyễn Ngọc Tư đã góp phần đáng kể trong việc
dựng lên một bức tranh cuộc sống sinh động, bộn bề những điều phải suy tư, trăn
trở. Phát huy đặc trưng riêng của thể loại tản văn, Nguyễn Ngọc Tư đã phản ánh rất
chân thực và đầy cảm xúc diện mạo của quê hương Đất Mũi thương yêu từ cảnh
sắc, sản vật, con người đến phong tục tập quán và cả những vấn đề bức sốt, thiết
thực về kinh tế chính trị ở nông thôn nơi đây. Không chỉ bao quát nhiều đề tài, nhà
văn đi sâu khai thác vẻ đẹp đặc trưng của xứ sở, tái hiện những nét đẹp văn hoá
nông thôn thuần hậu. Những trang viết của chị thể hiện sự gắn bó tha thiết, sự hoà
điệu nhịp nhàng giữa một tâm hồn chất phác, dung dị với nếp quê hồn hậu, mộc
mạc; khơi gợi nhiều tình cảm đáng quý nơi người đọc về quê hương xứ sở. Ngoài
ra, tản văn Nguyễn Ngọc Tư còn cho thấy một tấm lòng luôn nặng trĩu nỗi đời. Sự
rung động, cảm thông, chia sẻ với những trắc trở, trái ngang trong cuộc sống phản
ánh một tâm hồn nhân hậu, sâu sắc. Trang văn của chị đem lại cảm giác “sống
chậm”, “sống đầy” bởi nó sâu thẳm tình quê, nặng trĩu nỗi đời.
Trong dòng chảy chung của văn xuôi đương đại Nguyễn Ngọc Tư đã tìm cho
mình một lối đi riêng, một phong cách riêng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn
đọc. Nhà văn đã tạo ra một giọng điệu riêng: giọng tâm tình Nam Bộ với chất chính
luận nhẹ nhàng mà sâu sắc, lối viết chân tình, mộc mạc, không lên gân, không nặng
nề mà giàu cảm xúc, tần suất phương ngữ xuất hiện dày đặc trên từng trang truyện.
Ban đầu có thể chỉ là sự ngạc nhiên trước vẻ đẹp giản dị, quê mùa của những truyện
ngắn nhẹ nhàng dung dị, nhưng càng về sau chúng ta càng nhận thấy ở cây bút trẻ
này một sức sáng tạo mạnh mẽ, một nội lực dồn nén và biết cách bung tỏa một cách
hợp lý và chừng mực.
Tên tuổi của Nguyễn Ngọc Tư ngày càng được khẳng định và trở nên quen
thuộc đối với những người yêu văn chương trên mọi miền Tổ quốc. Qua từng câu
29
chuyện, mảnh đời chúng ta dường như đều tìm lại được quê hương đích thực trong
tâm tưởng, những kỷ niệm mà dường như không ai chia sẻ. Phải chăng vì vậy mà
tác phẩm của chị dễ dàng đi vào lòng người đọc.
1.2.2. Quan điểm sáng tác
Sau năm 1986, đất nước đổi mới trên nhiều phương diện trong đó đời sống tư
tưởng, văn hoá có những bước chuyển biến mạnh mẽ và sâu sắc. Bên cạnh những
cách tân nhằm đổi mới thể loại ở cả mặt hình thức và nội dung như thay đổi dạng
thức cấu trúc truyện, trần thuật, ngôn ngữ, chủ đề, đề tài, các thủ pháp lạ hoá,… các
chủ thể sáng tạo cũng đồng thời cách tân cả về mặt ý thức, tư tưởng, thẩm mỹ theo
hướng khai thác sâu, rộng và đa diện hơn. Quan niệm nghệ thuật về cuộc đời và con
người được quan tâm nhiều hơn và được coi là một công cụ đắc lực cho việc khám
phá thế giới nghệ thuật của nhà văn, bởi để sáng tạo một tác phẩm văn học, nhà văn
phải có quan niệm về thế giới ấy qua góc nhìn nghệ thuật như một điều kiện không
thể thiếu.
Trên thế giới đã có nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học đã ứng dụng khái
niệm quan điểm nghệ thuật về con người và cuộc sống để khảo sát các nền văn học
trên thế giới như: P.X.Likhasốp, I. Êrêmin, V.R.Secbina, V. V.Timôphiep,
N.G.Giulinxki… Ở Việt Nam, vấn đề này cũng được GS Trần Đình Sử đề cập đến:
“Quan niệm nghệ thuật về con người là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết,
tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm của nhà văn về con người được thể
hiện trong tác phẩm của mình” [24, tr. 15]. Như vậy, cái thúc đẩy sức sáng tạo nghệ
thuật chính là quan niệm nghệ thuật về cuộc đời và con người thể hiện sự thống
nhất giữa hiện thực được phản ánh và năng lực cắt nghĩa, lý giải nghệ thuật của nhà
văn. Ứng với một quan niệm về cuộc đời và con người là một thế giới nghệ thuật
tồn tại ngay trong khám phá của nhà văn. Trên cơ sở quan niệm nghệ thuật đã hình
thành trước trong tư duy, trong cảm xúc, tác giả có thể lựa chọn và xây dựng những
hình tượng nghệ thuật khác nhau. Và mỗi hình tượng nghệ thuật như vậy trong
những tác phẩm khác nhau của cùng một tác giả lại gặp nhau ở cùng một điểm dưới
sự chỉ đạo của quan niệm nghệ thuật của tác giả. Mỗi nhà văn lớn đều có một quan
30
niệm về nghệ thuật và cuộc đời của riêng mình. Chính điều này chi phối quá trình
thai nghén tác phẩm và phong cách nghệ thuật của nhà văn, đồng thời giúp độc giả
xác định được mức độ chiếm lĩnh con người của hình tượng văn học và sự đóng góp
tích cực của hiện tượng văn học đó vào lịch sử văn học cũng như vào sự phát triển
nhân cách con người.
Là một trong những cây bút trẻ có tiềm năng, với một phong cách văn chương
riêng biệt của nền văn học Nam Bộ nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung,
Nguyễn Ngọc Tư luôn có ý thức cao với nghề “cầm bút”, thể hiện một cách thẳng
thắn về quan niệm văn chương và sáng tác của mình.
Thuở mới chập chững bước vào nghề, Nguyễn Ngọc Tư coi cảm xúc là “cội
nguồn”, điểm tựa của sáng tác. Dù viết ở mảng nào, lĩnh vực nào, thể loại nào chị
vẫn quan niệm “Tôi là một cây bút nghĩ thế nào, viết thế ấy, nghĩ sao viết vậy” (Trả
lời phỏng vấn trên báo Tiền Phong ngày 31/10/2006). Chính những số phận bất
hạnh, trớ trêu với vô vàn trái ngang, trắc trở, những nhân vật nhỏ bé, người nông
dân nghèo lam lũ, người nghệ sĩ nghèo khổ, bất hạnh,… ở vùng nông thôn đồng
bằng Nam Bộ là nguồn cảm hứng để chị sáng tác. Vì thế, những trang viết đầu tay
của chị luôn thấm đượm một giọng điệu dân dã, mộc mạc nhưng buồn đến nao lòng.
Nó để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó phai về những kiếp người nhỏ
bé, lang thang, vô định giữa dòng đời. Chị không xây dựng những tình huống
truyện có xung đột, mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm, cao trào mà là những câu chuyện
với lời văn đậm chất thơ, chất trữ tình dàn trải, man mác, bâng khuâng với một nỗi
buồn lan toả đều trên từng mạch cảm xúc, ngấm dần in sâu vào trong tâm trí. Quan
niệm sáng tác văn chương dựa trên mạch cảm xúc của chị được thể hiện rõ nét nhất
qua thể loại tản văn. Bởi với chị, tản văn là thể loại truyền tải được nhiều cảm xúc
nhất: “Có thể tôi viết truyện là dành cho ai đó những viết tản văn là viết cho mình.
Tản văn như một giải pháp để tôi giải toả những suy nghĩ…” Khác với những nhà
văn ở các thế hệ trước như Sơn Nam, Đoàn Giỏi lấy bối cảnh từ mảnh đất Nam Bộ
và dựa trên góc nhìn của văn hoá để sáng tác, Nguyễn Ngọc Tư lại chọn một cách
tiếp cận là đi thẳng và đi sâu vào hoàn cảnh, tâm trạng, số phận của những con
31
người kiếm sống, lênh đênh, chìm nổi trên mảnh đất này. Với quan niệm “viết như
cảm xúc của mình”, văn chương của Nguyễn Ngọc Tư đã mang tới một “hương vị”
mới mộc mạc, giản dị nhưng rất đằm thắm, đầy ắp cảm xúc.
Là một nhà văn không chạy theo xu hướng của đám đông, không lựa theo thị
hiếu của độc giả để sáng tác, Nguyễn Ngọc Tư vẫn luôn giữ cho mình một cá tính
độc lập, có một lý tưởng thẩm mĩ riêng. Chị tôn trọng độc giả nhưng không vì thế
đánh mất “cái tôi”, “Bao giờ khi bắt tay vào viết, tôi cũng nghĩ thoáng qua tác phẩm
mới này ai sẽ khen, và biết cả một vài khuôn mặt những người chê. Lần nào cũng
nghĩ nhưng lần nào cũng viết như cảm xúc của mình bởi trước khi viết cho ai đó thì
tôi viết cho mình.”; “Mình không thể hiểu hết bạn đọc, có khi viết xong cái truyện
mà bản thân mình thấy thích lắm nhưng bạn đọc lại chê…Với lại, Tư cũng không có
ý tìm hiểu bạn đọc của mình”. “Lúc đầu chỉ viết để giải toả cảm xúc cho nó nhẹ
người đi, nhưng sau này thấy cái nghiệp mình đeo đuổi nặng trĩu, đầy nợ nần. Viết
vì mình là Nguyễn Ngọc Tư” [63]. Bởi vậy, chị không quan tâm đến những dư luận
trái chiều khi họ nói về tác phẩm của mình. Chị viết văn là viết cho chính mình,
chấp nhận là “kẻ đẽo cày giữa đường” mặc cho những lời khen chê, dị nghị, tán
dương hay “phê bình” của dư luận. Những truyện ngắn của chị luôn đong đầy cảm
xúc, dạt dào tình người, tình đất của miền quê Nam Bộ. Có thể, những điều chị viết
ra mang một sự giản dị, mộc mạc đến nỗi nó chỉ là những chuyện dễ thấy, thường
xuyên bắt gặp trong cuộc sống đời thường nhưng quá trình thai nghén nó lại chất
chứa nỗi lòng trắc ẩn, thương cảm của người nghệ sĩ kí thác vào trong tác phẩm của
mình. Tác phẩm Cánh đồng bất tận là một trong những đứa con tinh thần của chị
từng bị “kiểm điểm nghiêm khắc, rút kinh nghiệm” khi người ta cho rằng nó thiếu
tính giáo dục cho xã hội, giáo dục con người và thiếu tính định hướng chân - thiện -
mỹ để con người vươn tới. Sau một thời gian tranh cãi về tính thẩm mỹ, giá trị nội
dung, tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm, dư luận cũng nhận ra được vẻ đẹp của
nó. Cánh đồng bất tận đã phản ánh một cách “trần trụi” và chân thực về những vấn
đề nóng bỏng, những bức bách của nông thôn Nam Bộ, những tâm tư suy nghĩ của
người nông dân. Đó là không gian mênh mông sông nước, với cánh đồng dài bất tận
32
chứa những vui buồn, hạnh phúc và hy vọng của kiếp người. Sự tan vỡ của gia đình
bé nhỏ được bắt nguồn từ sai lầm của người mẹ và sự mê đắm vào việc trả thù của
người cha. Và cũng từ đây, ngòi bút của của Nguyễn Ngọc Tư trở nên khốc liệt và
nghiệt ngã hơn.
Chị coi sự đồng điệu, đồng cảm giữa nhà văn và công chúng hơn là lấy lòng
công chúng để trở nên nổi tiếng. Bên cạnh đó, chị cũng đưa ra một quan điểm về
nghề viết văn khá mới mẻ “…cô đơn là sự tối cần của người viết, nó là một điều
kiện hàng đầu của nhà văn. Không một người viết hay nào tôi biết mà không cô
đơn, không một thần tượng văn chương nào của tôi mà không bị cô đơn giày vò. Và
để chạy trốn nỗi cô đơn trong giao tiếp đơn thuần mặt nhìn mặt, tay nắm tay, việc
viết văn đã dẫn tôi đến sự cô đơn khác, đó là ở giữa đám đông mà họ không thấy
tôi, hoặc họ thấy một cái gì đó giống tôi, họ tưởng là tôi, nhưng tôi đang đứng ở
một chỗ khác, một mình, chờ một bàn tay chạm. Khi người ta bằng mọi cách chạy
trốn sự cô đơn thì tôi, và những đồng nghiệp của tôi lại nuôi cô đơn, cho nó ăn để
duy trì sự cô đơn tồn tại trong người mình cho cái gọi là sáng tạo văn chương.”
(Lời tựa Biển của mỗi người).
Nếu như Nam Cao từng thông qua các tác phẩm của mình để đưa ra những
tuyên ngôn về nghệ thuật: “Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu,
biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” (Đời
thừa) thì Nguyễn Ngọc Tư cũng đưa ra những phát ngôn về việc chọn đề tài sáng
tác cho mình với một giọng điệu khiêm nhường, dung dị: “Tư chọn viết những gì
mà người đi trước không viết thôi. Với những gì người đi trước viết rồi, nếu mình đi
lại con đường ấy, hoặc mình phải tránh qua một bên, hoặc là mình phải vượt trội
hơn. Nhưng vượt trội thì khó quá, ví dụ như để vượt qua Vũ Trọng Phụng thì
thôi…đi, Tư không tự làm khó mình mà chọn cái mình làm được”. Là người luôn có
ý thức và trách nhiệm với nghề cầm bút, Nguyễn Ngọc Tư xác định viết văn là:
“một lựa chọn khó, đầy nhọc nhằn, nặng nề, dằn vặt”. Đối với chị, con đường văn
chương dẫu có nhiều nhọc nhằn, gập ghềnh, trắc trở nhưng chị không hề nản lòng.
Chị vẫn giàu nhiệt huyết và miệt mài với hành trình sáng tạo nghệ thuật. Không
33
dừng lại ở những gì đã có hay ngủ quên trên chiến thắng, chị vẫn muốn vươn xa
hơn nữa trên con đường nghệ thuật. Chị muốn văn chương phải đúng nghĩa là nghề
sáng tạo chứ không rập khuôn, máy móc đi theo một quy trình đã được lập sẵn. Hơn
nữa, chị coi việc viết văn là lẽ sống “Tôi yêu viết lách vì viết lách làm tăng sức sống
trong tôi”. Người viết phải luôn sáng tạo và thay đổi không ngừng nghỉ, vượt qua
được những đỉnh cao của bản thân và luôn sẵn sàng thử nghiệm với những thể loại
mới. Người viết văn cần có những bản lĩnh, biết chấp nhận mạo hiểm để khám phá
những chiều sâu, những tư duy nghệ thuật mới: “Tôi cho phép mình sai sót, bởi nghĩ
không có gì là hoàn hảo hết. Trên con đường lên núi, đôi khi tôi muốn dừng lại nghỉ
chân, và gắng giữ mình đừng bao giờ bị lùi bước.”; “Tôi chỉ sợ cái bóng của Cánh
đồng bất tận quá lớn đến nỗi người đọc sẽ không nhìn thấy tôi. Trên cuộc hành
trình của đời mình, tôi tình cờ rẽ vào một con đường nhỏ, tình cờ dựng cái rào, rồi
thấy việc trèo qua cái rào do chính mình dựng lên là vô lý, nên tôi bỏ ngang, lại tiếp
tục tìm một con đường khác, nhưng bạn đọc thì cứ chờ tôi mãi ở cuối cái đường có
rào kia, bạn đọc không quan tâm tôi đã đi tới đâu, đã làm được gì.”; [59]“…tôi đã
thực sự nhìn thấy một bi kịch, là bạn đọc cứ trải chiếu ở cái chỗ Cánh đồng bất tận
và muốn tôi ngồi uống rượu mãi ở đó. Trong khi tôi muốn đi và thực sự đã đi rồi.
Tại sao tôi cứ luẩn quẩn ở cánh đồng đó trong năm năm, mười năm và hai ba mươi
năm nữa, mà không được đi uống rượu, ngắm cảnh ở không gian khác ? Tôi biết,
cái chỗ tôi muốn tới và thích tới không đông đảo người chờ đợi và chúc tụng;
nhưng tôi tự hào là mình cũng chịu dời chân khỏi cái hào quang cũ mà đi.” [53]
Hiện thực quê hương vốn là nguồn cảm hứng sáng tác của nhiều tác giả. Bởi
quê hương là tiếng vọng thiên liêng nhất đối với mỗi con người. Sinh sống chủ yếu
ở vùng đất Nam Bộ nên những tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư đều viết về đất và
người Nam Bộ. Mặc dù, đây là mảnh đất mới khai phá, nền văn hóa chưa thực sự
dày và sâu, lại nằm xa những trung tâm văn hóa, kinh tế lớn, đặc biệt là văn học ít
có thành tựu, không được đánh giá cao trong giới cầm bút, trong những tổng kết của
văn học Việt Nam. Nhưng những trang viết của chị về mảnh đất và con người nơi
đây đã trở thành một thứ “đặc sản” của miền Nam, chị tự ví văn chương của mình
34
như “một trái sầu riêng” mang dư vị và hương thơm nồng ấm.
Như mọi nhà văn chân chính, mối quan tâm lớn trước hết ở Nguyễn Ngọc Tư
là quan hệ giữa văn học với đời sống, với thời đại. Nhà văn phải hướng ngòi bút của
mình đến con người, những con người của đời thực, gần gũi mà sâu sắc, thấm thía.
Các truyện ngắn của chị luôn làm ám ảnh bạn đọc. Nhiệm vụ của nghệ thuật là phải
phản ánh được đối tượng mà nó hướng đến một cách sâu sắc nhất, với Nguyễn
Ngọc Tư nghệ thuật là một cái gì đó rất giản dị, không hề cao siêu. Con người mà
chị thể hiện trong văn chương rất gần gũi, đó là những người dân Nam Bộ mà chị
gặp và tiếp xúc hàng ngày, nhưng ở họ dường như lại mang những nỗi ám ảnh,
những nỗi buồn, những bi kịch. Nhân vật của chị từ những đứa trẻ đến những thanh
niên, cụ già; từ người phụ nữ đến những người đàn ông…tất cả dường như sống
trong bi kịch. Nhân vật nông dân thường nghèo khó, cơ cực, những khao khát dù
bình dị, nhỏ nhoi nhưng không bao giờ đạt được. Nhân vật người nghệ sĩ thường
sống hết mình với những vai diễn, nhưng khi rời sàn diễn họ trở về với đời thường
đầy nghiệt ngã, đắng cay. Nhà văn đã đi sâu vào những bi kịch của nhân vật, khai
thác, mổ xẻ nó qua tâm trạng nhân vật, từ đó thể hiện quan niệm của mình về con
người đồng thời cũng thể hiện quan niệm của mình về nghệ thuật. Khi xây dựng
nhân vật, chị thường hướng tới thế giới nội tâm, khai thác những góc khuất trong
tâm hồn con người, coi trọng tình cảm, coi trọng tình người. Vì vậy, nhân vật của
chị đa số là những con người hiền lành, cam chịu. Họ không khao khát kiếm tiền,
không nỗ lực cố gắng tìm lối thoát ra khỏi hoàn cảnh khó khăn của hiện tại. Chị có
biệt tài trong việc khai thác những truyền thống tốt đẹp của lịch sử, những vẻ đẹp
hiển hiện và tiềm ẩn của con người Nam Bộ trong cuộc sống thường nhật.
Điểm nổi bật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là việc xây dựng thành
công những hình tượng con người luôn sống hết mình vì người khác với tấm lòng
bao dung độ lượng, giàu đức hi sinh vì người khác. Đó cũng là một phẩm chất đẹp
của con người Nam Bộ được chị khắc hoạ rõ nét. Trong những truyện viết về đề tài
tình yêu dang dở, nhân vật của chị hầu hết đều sống hết mình người khác. Cả nhân
vật nữ và nhân vật nam đều có những cách cư xử hết sức cao thượng, sẵn sàng hi
35
sinh hạnh phúc của bản thân để vun đắp hạnh phúc tương lai cho người mình yêu.
Mỗi người một số phận, một hoàn cảnh nhưng họ đều giống nhau ở đức hi sinh. Họ
tự coi việc che chở nâng niu hạnh phúc cho người, trách nhiệm gánh khổ đau cho
người là bổn phận thiêng liêng của mình. Ông Mười (Mối tình năm cũ) lặng lẽ, âm
thầm hành động, chấp nhận mọi điều tiếng và sự hiểu lầm của bà con lối xóm cũng
chỉ vì lo cho vợ con. Tình yêu là một tình cảm đặc biệt, người ta có thể hi sinh tất cả
cho người yêu với mong muốn được ở bên người mình yêu, nhưng không mấy ai vì
yêu thương mà chấp nhận để cho người mình thương ra đi, tìm đến bến bờ hạnh
phúc mà họ mong chờ, còn mình thì ở lại với mối tình thầm cùng nỗi nhớ nhung,
nuối tiếc như ông già chăn vịt chạy đồng trong Cái nhìn khắc khoải, hay chuyện
của anh Hết trong Hiu hiu gió bấc… Mỗi người một mảnh đời, mỗi người một số
phận nhưng đa phần họ đều giàu lòng vị tha và đức hi sinh. Nhân vật trong các sáng
tác của Nguyễn Ngọc Tư không chỉ sống hết mình vì người khác mà qua đó cho
thấy cách ứng xử giữa cá nhân đối với tập thể và cộng đồng. Họ không chỉ bao dung
độ lượng mà hơn nữa họ còn trải rộng lòng mình để sống với những người quanh
mình, sống với cả một tấm lòng chân chất, hiền hậu của những con người Nam Bộ
phóng khoáng, thủy chung, nghĩa tình. Họ không chỉ tha thứ, bao dung mà còn biết
“buông” những thứ không thuộc về mình. Sống chân thành với người khác và thành
thật với chính mình. Họ tự nhân thức về địa vị cũng như tự nhận thức về cuộc sống,
tâm lý của mình.
Nhiệm vụ của nghệ thuật là phải phản ánh được đối tượng mà nó hướng đến
một cách sâu sắc nhất, với Nguyễn Ngọc Tư quan niệm về nghệ thuật của cô là một
cái gì đó rất giản dị, không hề cao siêu chút nào. Nghệ thuật chỉ đơn giản là làm sao
thể hiện được cho chuẩn xác nhân vật trong tác phẩm của mình, hướng ngòi bút của
mình đến con người, những con người của đời thực.
Tiểu kết
Với dung lượng nhỏ, nắm bắt những nét bản chất nhất của cuộc sống,... truyện
ngắn đã phát huy được khả năng tiếp cận và phản ánh hiện thực con người một cách
nhanh nhạy và sắc bén. Với đặc trưng cơ bản của thể loại, truyện ngắn đã tạo cơ sở
36
cho sự biểu hiện những thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người, nhân vật
qua đó cũng được xây dựng một cách chi tiết và có chiều sâu. Qua việc tìm hiểu
hành trình sáng tác và quan điểm sáng tác văn chương của Nguyễn Ngọc Tư, có thể
thấy một chất văn giản dị, gần gũi nhưng rất đỗi sâu sắc, thấm thía. Các truyện ngắn
của chị luôn làm ám ảnh bạn đọc. Nhân vật trong các truyện ngắn của chị đều
hướng tới cái chân, thiện, mỹ, đều bộc lộ tính cách của con người Nam Bộ: thẳng
thắn, bộc trực, quý trọng sự thật lòng, ghét sự giả dối. Họ coi trọng vấn đề tình cảm
hơn mọi thứ danh lợi, họ sống thành thật với con tim mình và với mọi người.
Nguyễn Ngọc Tư lấy đó là thước đo quan trọng để khẳng định sự hướng thiện của
những con người bình dị, nghĩa tình ấy. Nhân vật có những cân nhắc trong hành
động cũng như cách cư xử đối với mọi người điều đó có lợi hay có hại đối với
người khác. Mỗi người một số phận và hoàn cảnh khác nhau, tất cả đều được chị thể
hiện một cách chân thực và sâu sắc trong sáng tác của mình. Trong thế giới nghệ
thuật đó nhà văn đã định hình được một số kiểu loại nhân vật đặc sắc, bộc lộ cái
37
nhìn nhân hậu, lạc quan về con người.
Chƣơng 2
CÁC LOẠI HÌNH NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ
Nhân vật văn học là một chỉnh thể vận động, có tính cách, được bộc lộ dần
trong không gian, thời gian và mang tính quá trình. Muốn xây dựng nhân vật thành
công, nhà văn phải có một quá trình thai nghén, ấp ủ, đồng thời phải có khả năng
đồng cảm, nhập thân vào những tầng lớp xã hội khác nhau. Trong quá trình sáng tạo
ra một nhân vật, nhà văn buộc phải huy động toàn bộ năng lực tinh thần và quan
niệm thẩm mĩ của cá nhân để xây dựng nhân vật theo cách của riêng mình. Xây
dựng được những nhân vật sắc nét, có khả năng để lại dấu ấn trong lòng người đọc
luôn là một thử thách với nhà văn, nhất là với những cây bút truyện ngắn. Vì vậy,
nhân vật chính là đứa con tinh thần, là sản phẩm, vốn sống trực tiếp của nhà văn.
Bởi đó là kết quả của bản lĩnh sáng tạo, của kĩ thuật viết ở mỗi nhà văn.
Trên văn đàn Việt Nam hiện đại, đương đại những cây viết nữ: Võ Thị Hảo,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thuý,... đã trở thành những tên
tuổi quen thuộc đối với người yêu văn học. Những nữ nhà văn này đều để lại nhiều
dấu ấn và thành công nhất định trên con đường đổi mới truyện ngắn. Ở họ đều có
điểm chung là đi sâu vào khai thác đời sống tinh thần của con người hiện đại. Nếu
nhà văn Đỗ Bích Thuý làm người đọc nhớ đến một phong cách văn chương mang
đậm chất miền núi, nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ khai thác sâu vào những bất hạnh
của người phụ nữ, luôn khao khát tình yêu và hạnh phúc thì nhà văn Nguyễn Ngọc
Tư mang đến cho người đọc một thế giới nhân vật gắn liền với văn hoá và cuộc
sống Nam Bộ. Nhân vật của chị hiện lên rất đa dạng với những trạng thái, cảm xúc
vừa có nét tương đồng vừa có sự khác biệt.
Dựa trên quá trình khảo sát sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư chúng tôi nhận thấy
một số loại hình nhân vật tiêu biểu: nhân vật tìm kiếm, khát khao hạnh phúc; nhân
38
vật bình dị, nhân hậu; nhân vật lãng mạn, cô đơn và nhân vật vị tha, bao dung.
2.1. Nhân vật kiếm tìm, khát khao hạnh phúc
Gia đình chính là món quà mà cuộc sống đã ban tặng cho mỗi người. Mỗi
chúng ta, ai cũng luôn có niềm khát khao được yêu thương, được sống trong sự
quan tâm, săn sóc, chở che của tình thân, của người mình yêu. Chính tình yêu
thương của gia đình, của tình yêu đã trở thành nguồn sống để những lúc mệt mỏi,
chán chường, thấy bế tắc, tuyệt vọng, ta lại có người để sẻ chia, động viên, tiếp
thêm động lực, nguồn cảm hứng và quan trọng hơn là ta có nơi để nương tựa. Yêu
thương luôn là một nhu cầu cần thiết đối với mỗi người cho dù đó là một người
mạnh mẽ hay tàn ác. Bởi yêu thương giống như một “liều thuốc tiên” đã cảm hoá
họ đến với lương thiện, đến với việc làm “người”. Vì vậy, mái ấm gia đình trở
thành cái đích đến của hạnh phúc. Trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, hình ảnh
mái ấm gia đình xuất hiện trở đi trở lại rất nhiều lần. Quá trình tìm kiếm người
thân, tìm kiếm hạnh phúc gia đình, khát khao được yêu thương của nhiều nhân vật
đã trở thành một hành trình dài vô tận mà đôi khi kết quả nhận được vẫn là sự cô
đơn.
Truyện ngắn Biển người mênh mông kể về câu chuyện ông già Sáu Đèo lúc
nào cũng mang theo mình một con bìm bịp với hành trình tìm kiếm người vợ suốt
bốn mươi năm ròng rã. Ông lang bạt khắp nơi, ngược xuôi đi tìm vợ, tìm lại tổ ấm
của mình với biết bao nhiêu cơ cực, khó khăn. Vợ ông bỏ đi trong đau đớn, tủi
hờn khi ông chạm đến nỗi đau của bà là không thể sinh con. Điều đó đã khiến ông
day dứt, bỏ cửa, bỏ nhà, cất công đi kiếm bà nhưng “kiếm hoài không gặp”. Hình
ảnh con bìm bịp ông luôn mang theo bên mình chính là một kỉ vật sống nhắc nhở
ông về một thời gắn bó với sông nước quê nhà – nơi ông có một cuộc sống nghèo
nhưng hạnh phúc với người vợ trên thuyền. Tiếng kêu buồn não của con bìm bịp
như nói hộ nỗi lòng trĩu nặng đầy ân hận và day dứt của ông.
“Ông kể, hồi trẻ, ông toàn sống trên sông, ông có chiếc ghe, hai vợ chồng
lang thang xứ nầy xứ nọ. Gặp mùa lúa thì gặt mướn, gặp vịt bầy đổi đồng thì chở
39
thuê gặp rẫy bí, rẫy khóm thì mua về bán lại chợ nổi Cà Mau, nước ngược cắm
sào đậu lại thổi cơm, bìm bịp kêu, nước bò lên bãi, ông cho ghe ra bến. Cuộc sống
nghèo vậy mà vui lắm.”
Qua những lời tâm sự của ông Sáu Đèo với Phi có thể nhận thấy, ông luôn
khát khao có một mái ấm gia đình hạnh phúc.
“Ông biểu, “sống một mình thì buồn lắm, chú em nên nuôi con gì đó, con…
vợ thì tốt nhất, nếu chưa tính chuyện đó thì nuôi chó, mèo, chim chóc. Đừng nuôi
sáo, nuôi sáo kết cuộc rồi cũng chia ly hà, nó hay sổ lồng, chết yểu. Kiếm thứ dân
dã mà nuôi, để nhớ quê, nhớ gốc rễ mình, để đi đâu cũng muốn về nhà. Như qua,
phò con bìm bịp này như phò bà già vợ vậy mà vui”.
Không chỉ riêng ông Sáu Đèo mà nhân vật Phi cũng có một niềm khát khao
là được sống trong tình yêu thương của mái ấm gia đình. Anh cũng có một cuộc
hành trình tìm kiếm âm thầm về tình thân. Anh mong muốn tìm được một người
sẽ quan tâm, chở che, bảo ban, săn sóc chân thành giống như ngoại của anh. Lồng
trong câu chuyện của ông Sáu Đèo, câu chuyện của nhân vật Phi cũng là một sự
éo le, ngang trái. Sự xuất hiện của Phi trên cuộc đời này là kết quả của lần người
mẹ bị cưỡng bức nên không ai muốn nhìn thấy Phi trên đời. Vì vậy anh bị cha mẹ
bỏ rơi, sống với ngoại từ nhỏ. Ngoài tình yêu thương mà ngoại dành cho, Phi hoàn
toàn sống trong sự thờ ơ, lạnh nhạt của người cha và sự “vô tâm” của người mẹ.
Mẹ của Phi chỉ hỏi anh có “đủ tiền xài không?”, sẵn sàng đáp ứng cho anh những
nhu cầu về vật chất nhưng bà không biết rằng trong thâm tâm Phi, anh cần được
che chở, yêu thương bởi tình mẫu tử - điều mà bà khó làm được cho con. Sau khi
ngoại mất, Phi đắm chìm vào cuộc sống lưu lạc, lang thang của người nghệ sĩ.
Anh sống không nề nếp, bê bối dáng hình, đem lời ca tiếng hát làm cần câu cơm,
có người trọng, có người khinh, nhưng tuyệt nhiên không ai quan tâm Phi sống ra
sao kể cả mẹ Phi. Cho đến khi gặp được ông Sáu Đèo, Phi mới cảm nhận được ở
ông già một tình cảm ấm áp, bởi ông già là người đầu tiên thương và lo cho Phi
như ngoại. Và ông cũng là người duy nhất quan tâm đến ngoại hình của Phi, trân
trọng Phi như một người nghệ sĩ và cuối cùng khi dứt áo ra đi ông đã tin tưởng
40
giao cho anh “đứa con” của mình là con bìm bịp đen thui – nơi ông chất chứa
những nỗi niềm tâm sự. Ông Sáu Đèo và Phi là những con người không có quan
hệ máu mủ ruột rà, cô đơn, lưu lạc giữa “biển người mênh mông” nhưng nỗi khát
vọng về tình yêu thương đã gắn kết họ lại với nhau. Họ đã chia sẻ, yêu thương
nhau như người thân.
Hình ảnh những con người luôn khát khao, kiếm tìm tình yêu thương xuất
hiện rất nhiều trong các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư. Họ là những con người dù
nghèo, dù khổ nhưng niềm khát khao yêu thương và được yêu thương càng trở nên
cháy bỏng hơn, mãnh liệt hơn đối với những mảnh đời bất hạnh hẩm hiu. Trong
truyện ngắn Cái nhìn khắc khoải, hình ảnh ông Hai - một ông già Nam Bộ làm
nghề nuôi vịt chạy đồng lúc nào cũng giữ mãi hình bóng người vợ một thời đầu ấp
tay gối với mình trong căn nhà nhỏ. Ông luôn tìm về miền kí ức xưa để tưởng nhớ
lại những tháng ngày hạnh phúc bên người vợ hiền.
“Ở căn nhà lá cũ mèm này, ông có nhiều kỉ niệm. Mỗi khi trở về nó trở thành
những dòng dịu ngọt trong ông, nó chảy khẽ giữa những mạch máu. Những ngày
thơ ông có ba má, những ngày trẻ ông có người chăn gối cùng. Có cây lụa bên hè
làm chứng, mỗi lần nhà đổ bánh xèo, vợ ông ra hái đọt lụa, đứng tần ngần, “phải
ảnh có nhà để ăn”. Chiến tranh, ông đi biền biệt. Ngày về, chỉ còn đứa con trai.
Nó khóc, kể, “Bữa đó cúng đình, có cải lương, má rủ con đi. Tuồng Thoại Khanh
Châu Tuấn đó ba. Hát chưa xong khúc Thoại Khanh ngồi đờn cho công chúa
Châu Tuấn nghe, thì pháo đằng đồn Chẹt bắn lại, má con chết luôn”. Mùa đó lụa
ra lá từng chùm trắng xanh, non nhuốt. Ông bắt thèm ứa nước mắt.”
Cuộc sống cô đơn giữa bầy vịt khiến ông luôn mong muốn có một mái ấm
gia đình, mong muốn có một bàn tay người phụ nữ chăm sóc, yêu thương và chờ
ông mỗi chiều về. Khát khao ấy của ông tưởng như sắp trở thành hiện thực khi
ông gặp được một người phụ nữ bị chồng bỏ rơi. Nỗi thèm muốn có một mái ấm
gia đình bình yên đã thúc giục ông có dự định “đốt tràm sửa lại cái nhà, ở luôn
không chạy đồng nữa”. Nhưng rồi, “dự định” ấy bỗng “đứt đoạn” khi người phụ
nữ bỏ ông tìm về với chồng cũ. Mong ước có một bến đậu bình yên giản dị là vậy
41
đã không thành hiện thực. Ông cứ trông chờ theo với một ánh nhìn “khắc khoải”.
Ở truyện ngắn Người muôn năm cũ, người đọc bắt gặp một hình ảnh người
đàn ông mang trong mình một mối tình sâu đậm, theo đuổi nó suốt một hành trình
dài và cất nó trong một góc riêng của tâm hồn đến cuối cuộc đời. Nguyễn Ngọc
Tư không nhắc đến tên ông bằng một cái tên riêng, chỉ biết lúc trẻ ông theo cách
mạng, yêu một người con gái nhưng tình yêu ấy không thành vì người ông yêu là
con của một tên xã trưởng khét tiếng ác ôn. Yêu nhau thắm thiết nhưng không đến
được với nhau, ông mong đến ngày hoà bình để có thể gặp lại người xưa. Nhưng
khi đất nước đã hoà bình, người con gái ấy đã lấy chồng, có con rồi người chồng
lại bỏ đi vượt biên, ông muốn tiến tới nhưng người ấy sợ ảnh hưởng đến tương lai
của ông nên đã từ chối. Dẫu vậy, ông không từ bỏ, vẫn chờ đợi, vẫn ước mong
được sống cùng người thương cho đến tận cuối đời. Trong kí ức của ông hình ảnh
người xưa với bàn tay “ốp trầu chắc nụi” lúc nào cũng da diết, không bao giờ
nguôi ngoai.
Trong Cải ơi, ông già Năm Nhỏ đã phiêu bạt khắp nơi, ròng rã suốt mười hai
năm trời để tìm lại đứa con riêng của vợ đã bỏ nhà ra đi. Ông tìm con với một tấm
lòng yêu thương con thực sự, lo cho con và cũng là để giải toả cho mình. Tương tự
như vậy, hành trình tìm kiếm bà nội của nhân vật Dự trong Gió lẻ cũng là cách để
cậu có được sự thanh thản trong tâm hồn. Dự thề là sẽ không trở về nếu không tìm
được bà nội và cuộc tìm kiếm ấy nếu không có kết quả, Dự sẽ sống mãi trong nỗi
dằn vặt, day dứt. Hình ảnh người chị trong Mộ gió, cũng mang nét tương đồng,
khi luôn tạo cho mình một niềm tin và suy nghĩ là người em chỉ bỏ đi đâu đó chơi
rồi sẽ trở về. Cũng chính vì niềm tin ấy mà chị phải chịu những lời cay nghiệt của
bố mẹ khi không coi chừng em cẩn thận.
Chuyện tình của vị giáo sư già trong truyện ngắn Của ngày đã mất đã để lại
trong lòng người đọc một nỗi buồn man mác. Khoảng cách về tuổi tác và sự lão
hoá hiện rõ trên thân thể, ngoại hình đã khiến vị giáo sư không đủ dũng cảm đến
với người làm ông rung động. Những khát khao cháy bỏng yêu đương đều bị ông
kìm lại, cố gắng nén sâu vào bên trong và luôn tỏ ra lạnh lùng, thờ ơ, xa lánh với
42
cô sinh viên trẻ hơn mình năm mươi tuổi. Ông đã “chạy trốn” tình yêu của cô sinh
viên và phủ phận những cảm xúc của bản thân vì mặc cảm tuổi tác. Ông chọn sự
cô đơn vì ông không muốn người mình thương sẽ không được sống trong sự ngọt
ngào, cuồng nhiệt của tình yêu.
Khát vọng hạnh phúc trong tình yêu, tình cảm gia đình, kiếm tìm người thân
của các nhân vật đàn ông trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư không ồn ào, dữ
dội mà chỉ diễn ra trong âm thầm, lặng lẽ, dai dẳng nhưng rất đỗi mãnh liệt. Đôi
khi hạnh phúc, tình yêu thương đó đang ở ngay trong tầm tay nhưng vì mặc cảm,
tự ti bởi cái nghèo, sự già cỗi, bởi trái tim đã từng bị tổn thương họ lại buông bỏ,
chấp nhận một sự cô đơn. Nhân vật như muốn giấu đi nỗi buồn khổ, cô đơn ấy vào
sâu bên trong, nén chặt lại trong lòng mà không dám bung bật. Bởi họ giàu đức hi
sinh, cao thượng và họ cảm thấy mình không thể mang lại hạnh phúc cho người
mình yêu thương. Họ đi tìm hạnh phúc với một ý chí không bỏ cuộc nhưng lại
không giành giật, tranh giành để có nó. Nếu như viết về người đàn ông, nhà văn
thường chỉ ra những hụt hẫng trong cuộc tìm kiếm hạnh phúc mà phần nhiều là
mất mát và chờ đợi, tuyệt vọng thì với người phụ nữ, bằng sự đồng cảm riêng, tác
giả lại khai thác ở nỗi niềm đau thương. Đó là những nỗi đau đớn khi bị phụ bạc,
bị phản bội, nỗi khắc khoải chờ mong trong mỏi mòn hay là sự giằng xé trước
khát vọng tình yêu với ý thức về bổn phận làm mẹ.
Ở truyện ngắn Biến mất ở thư viện, nhân vật Hảo dù được một chàng trai ít
tuổi hơn yêu thương và chăm sóc hết mực nhưng trong cô lúc nào cũng luôn nhớ
về hình bóng cũ. Tối nào cô cũng đến thư viện để mong gặp lại người yêu cũ, nhìn
thấy một dáng hình quen thuộc đã “biến mất” từ lâu. Sự tìm kiếm ấy mặc dù biết
kết quả là vô vọng nhưng cô vẫn đi tìm trong sự mênh mông vô tận. Dù có sống
trong tình yêu với chàng trai trẻ nhưng “đôi lúc đang hôn nhau Hảo lại nhắc tới
một cuốn sách nào đó mà con mọt sách như tôi còn nghe lạ” để đến nỗi chàng trai
phải hậm hực mà thốt lên “người không ra gì mà nhớ hoài”. Tình yêu trong quá
khứ luôn ám ảnh cô đến nỗi chàng trai trẻ không chịu được sự “tìm kiếm mỏi mòn
43
và vô vọng” của Hảo cũng đã “biến mất” ở thư viện ấy.
Trong tác phẩm Duyên phận so le, nhân vật Xuyến có một khát khao mãnh
liệt của bản năng. Đó là khát khao được làm người mẹ đích thực của đứa con mà
mình không dám nhận là con đẻ. Xuyến là người phụ nữ làm nghề “buôn phấn bán
hương” ở khu du lịch văn hoá So Le. Cô bắt đầu bước vào sự lầm lỡ khi “mười
bảy tuổi có yêu một người, yêu đến nỗi bỏ cha, bỏ mẹ theo tình. Mười tám tuổi
thằng nọ phụ phàng, bỏ cù bơ cù bất giữa chợ. Lúc ấy đã không còn đường về nhà
nữa”. Khi làm tiếp viên cho một nhà hàng ở Mũi So Le, Xuyến cũng khát khao có
một tình yêu hạnh phúc bên người mình yêu là Khởi. Nhưng nghề nghiệp của cô
đã trở thành rào cản, Khởi bỏ đi khi thấy Xuyến đang tiếp khách làng chơi để lại
cho cô một nỗi buồn tủi, cay đắng. Dù cho nhân vật Năm có yêu cô thật lòng,
muốn gắn bó hạnh phúc trọn đời với cô, muốn cùng cô sinh con cái, gây dựng tổ
ấm nhưng cô đã từ chối. Nguyên nhân, một phần vì cô vẫn luôn nhớ về Khởi, phần
mãnh liệt hơn là bởi tình yêu lớn nhất và duy nhất cô đã dành cho bé Bi - đứa con
cô lén để ở chỗ gốc cây điệp già trong sân nhà vợ chồng ông giám đốc hiếm muộn.
Khát khao có được tổ ấm hạnh phúc đã mãnh liệt, khát khao được sống và chơi
đùa cùng với đứa con ruột mà không dám nhận lại càng dữ dội, cồn cào hơn. Đã
có lúc Xuyến thấy “Bi chơi lon ton một mình ngoài sân, không kìm được, Xuyến
xốc Bi lên chạy một đoạn rồi thất thần dừng sững lại, kêu lên hai tiếng trời ơi,
mình làm khổ nó rồi, mình nghèo như vầy… Xuyến đưa Bi quay lại”. Xuyến đã
vượt qua sự dè bỉu, ghẻ lạnh của người đời, chấp nhận công việc bồi bàn, tiếp
khách, từ chối xây dựng hạnh phúc với người thương mình thật lòng để được gần
con. Cô đã nén chặt lại khát khao có tổ ấm hạnh phúc để được làm một người mẹ
“hờ” trên danh nghĩa.
Nhân vật Diệu trong tác phẩm Làm má đâu có dễ cũng mang trong lòng một
khát khao bản năng như thế. Chị đã đánh đổi tình mẫu tử để có được sự nghiệp ca
hát rực rỡ cho nên trong mối quan hệ mẫu tử chị luôn khổ tâm, dằn vặt. Đứa con
gái như đòi lại được món nợ mà chị đã vay của má khi chỉ tiếng “má” bình thường
mà người nghệ sĩ ấy nửa đời không một lần được con mình mở miệng kêu. Hay
44
như Đào Hồng (Cuối mùa nhan sắc) cũng vì nghiệp ca hát mà đành đoạn gửi con
cho người khác đến nỗi đứa con lớn lên không thèm nhìn mặt mẹ. Họ hi sinh tình
cảm để hết mình vì nghệ thuật, được đắm mình vào nghệ thuật và cuối đời họ lại
đi tìm kiếm tình mẫu tử từ những đứa con mình đã “bỏ rơi”.
Đối với người Nam Bộ, tình nghĩa là một điều thiêng liêng và vô cùng trân
quý. Họ sẵn sàng yêu hết mình, tin thì rất mãnh liệt, lấy tình người để đối đãi với
nhau và cũng chấp nhận nén chặt đau thương của mình để người khác được vui,
được hạnh phúc. Dì Diệu trong truyện Làm mẹ là một tấm gương về phẩm chất
con người Nam Bộ như thế. Vợ chồng dì sống với nhau nhiều năm nhưng không
có con, dì Diệu mới bàn với chồng là nhờ Lành - người giúp việc trong nhà sinh
hộ. Bản hợp đồng đã được lập ra. Nhưng khi sắp đến ngày sinh con thì chị Lành
trốn mất. Dì đã kìm lại tâm lí, cảm xúc bản năng mà cùng chồng tất tả đi tìm Lành.
Dì quan tâm đến đứa bé thì ít mà quan tâm đến chị Lành mới nhiều. “Dì không
tiếc tiền của, công sức, dì không tiếc tình thương dồn đắp cho chị Lành, dì chỉ
cảm thấy xót xa cho mình, “làm người thì ai lại đi giành con với người ta?”, dì
luôn dằn vặt vậy”. Nhưng chị Lành cũng không ở tệ. Sau nhiều đêm suy nghĩ, khi
mà dì Diệu tìm kiếm trong tuyệt vọng thì chị Lành xuất hiện. Hai người phụ nữ -
hai người mẹ của đứa bé đã ôm chầm nhau khóc, ai cũng cảm thấy mình có trách
nhiệm phải thương yêu và chăm sóc cho đứa bé, cũng như quan tâm và chăm sóc
cho nhau.
Con người luôn khát khao mà những gì ta đang thiếu. Và trong tác phẩm
Cánh đồng bất tận, hình ảnh Nương và Điền luôn khát khao tình yêu của người
mẹ, tình cảm con người đến cháy bỏng. Qua đó cũng cho thấy sự thiếu vắng tình
yêu của người mẹ và sự cô đơn giữa những cánh đồng mênh mông. Chứng kiến
mẹ bỏ đi theo người đàn ông khác, cha thay đổi tâm tính trở thành một con người
đáng sợ, chị em Điền - Nương chỉ còn biết nương tựa vào nhau mà sống. Cả hai
phải xa rời cuộc sống thôn xóm để theo cha lênh đênh trên những cánh đồng bất
tận. Cũng từ đấy, hai chị em cảm nhận được sự đổi thay lớn lao ở cha mình, ông
trở nên lạnh lùng, khô cằn, dửng dưng và làm mọi chuyện theo bản năng…Cái cô
45
đơn của Nương và Điền còn là nỗi cô đơn của hai đứa trẻ phải sớm dời xa cái tuổi
thơ mà lẽ ra chúng phải được tận hưởng hơn hết chúng buộc phải kiềm lòng không
dám yêu thương ai hết để khỏi phải ngậm ngùi lúc dứt áo ra đi: “mình lỡ mến
người ta, mai mốt dời đi, buồn dữ lắm”. Mặc dù cố gắng che giấu cảm xúc thì lũ
trẻ cũng không thể đè nén được sự thèm khát tình thương và mái ấm gia đình. Đôi
khi cái thèm muốn, ao ước được sống trong tình yêu thương đến với Điền khi chợt
nhớ tới mẹ qua những hành động của chị, hay “nhìn những ông già ngồi chơi với
nhau, thằng Điền đứng tần ngần bên hàng rào dâm bụt bảo “phải chi ông già nầy
là ông nội mình, thương đỡ chơi, hen Hai”. Nghe câu nói đó tôi bỗng thấy mình
nghèo rơi nghèo rớt, nghèo đến nỗi không có… ông nội để thương”. Câu nói như
bâng quơ của con trẻ nhưng đã thể hiện niềm khao khát cháy bỏng, nó như ăn sâu
trong tiềm thức của chúng. Lòng hận thù đàn bà đã biến người cha trở thành một
kẻ vô tình, nhẫn tâm nhất trên đời. Dù bọn trẻ sống bên một người mà chúng gọi
là cha, nhưng có lẽ giữa họ chỉ có mối liên hệ duy nhất là đàn vịt, là cái ăn, là
chiếc ghe rách nát. Ông thường đánh đập hai chị em chỉ vì “chúng tôi là con mẹ”.
Tâm hồn hai đứa trẻ trở nên què quặt, thiếu hiểu biết, Điền mang một sự bất
thường của đứa con trai mới lớn. Với Nương, vì thiếu sự quan tâm chăm sóc của
người mẹ mà cô chưa tự ý thức được một cách đầy đủ về đời sống sinh lý của
mình. Cuộc sống cô đơn, buồn chán đi ngược lại với những gì mà những đứa trẻ
khác ở lứa tuổi của Nương, của Điền có được. Nương nhớ và thèm muốn được đi
học, với cha, cô luôn mong ông kết thúc cuộc sống du mục bằng một tình yêu thực
sự với một người đàn bà nào đó; điều này cũng có nghĩa Nương ao ước một cuộc
sống ổn định, một cuộc sống yên bình với cha, với em trai và với mẹ cho dù đó
không phải là người đã sinh thành ra mình. Sự chăm sóc tận tình của nhân vật
Sương như làm lay động nỗi khát khao được yêu thương, được đùm bọc của hai
đứa trẻ từ lâu đã thiếu vắng bàn tay chăm sóc của người mẹ. Bên cạnh đó, những
đứa trẻ cũng luôn khát khao có một cuộc sống bên những người hàng xóm thân
tình, đươc vui chơi với bạn bè, được đi học như bao đứa trẻ khác. Cái mong muốn,
46
cái khát khao ấy đơn giản biết chừng nào, vậy mà…nó vẫn không bao giờ trở
thành hiện thực. Vì tách biệt với “loài người” nên bọn trẻ đến với loài vịt như để
tìm chút an ủi và sẻ chia, để tạm quên đi nỗi buồn nơi sông nước mênh mông.
Khác với nhân vật Nương và Điền học cách bầu bạn với lũ vịt để làm dịu bớt
đi nỗi nguôi ngoai nhớ mẹ và nỗi “thèm người”, nhân vật Lam (Trò chơi quên
nhớ) đã đóng một vở kịch mất trí nhớ để mong được sống trong sự yêu thương,
quan tâm, săn sóc chân thành của người mẹ. Nếu Lam muốn được yêu thương,
muốn được “hưởng thụ” hạnh phúc của gia đình mang lại, Lam phải bỏ tiền để trả
giá “Sao lúc nào tôi cũng phải trả giá để được yêu thương?”. Từ nhỏ Lam đã sống
trong sự vô tâm của mẹ, không được mẹ yêu thương. Chính sự thiếu thốn ấy, đã
khiến Lam nghĩ ra đủ trò để mong nhận được sự quan tâm của người mẹ. Nhưng
tất cả những “vở diễn” mà Lam dàn dựng đồng thời kiêm luôn diễn viên chính
không thể làm người mẹ động lòng. Nếu thuở bé Lam chơi trò mất tích để được
nhìn thấy mẹ thì khi lớn lên Lam chơi trò mất trí nhớ mong nhận được sự quan
tâm, hỏi han, sự chăm sóc, yêu thương, sự xót xa mà mẹ dành cho nhưng nhận lại
chỉ là sự vô tâm, hờ hững. Mẹ Lam chỉ quan tâm đến việc nếu Lam mất trí thì cô
không thể tiến hành lễ cưới với con trai phó chủ tịch tỉnh sẽ ảnh hưởng tới công
việc kinh doanh của mình. Và cũng bởi trò chơi mất trí đó, cô nhận ra sự lạt lẽo,
thậm chí là sự vui mừng của những người bạn đồng nghiệp (được cô cho vay tiền)
trước sự mất trí của mình. Cô chợt hiểu ra rằng, nếu như cô mất trí thật sẽ chẳng
có ai yêu thương cô đến mức dùng tình thương để đánh thức những kí ức đã mất
của cô. Bởi vậy, tình thương đối với Lam dường như là một sự xa xỉ, một ước mơ
không thể thành hiện thực. Chuyện của Điệp cũng có nhiều nét tương đồng với
Lam. Từ nhỏ Điệp sống với ngoại, lúc mười tuổi cha Điệp bỏ đi không trở lại,
mười hai tuổi má Điệp đi làm ăn xa rồi lấy chồng khác nên cô rất thờ ơ với má
mỗi khi gặp mặt, coi đó như một cách để hành hạ má. Rồi dần dần hai má con
không có tình cảm với nhau. Cho đến khi phải xa bé Bơ (đứa trẻ Điệp nhận làm
con nuôi), thì cô quyết tâm đi thăm má để coi má xa Điệp có buồn như Điệp xa bé
Bơ không. Cuối cùng thì Điệp cũng tha thứ cho má vì nỗi thương má và thương
47
mình bao năm qua đã sống trong oán giận để cả hai má con cùng chịu đau khổ.
Câu chuyện thấm đẫm một nỗi buồn bởi con người không trọn vẹn yêu thương,
dẫu thương nhau hết lòng mà nhiều khi không vượt qua được những ngăn cách vô
hình để đến với nhau. Đây là bài học cho mỗi chúng ta vì cuộc sống luôn cần tha
thứ để yêu thương và được yêu thương.
Nhân vật Vĩnh trong truyện ngắn Sầu trên đỉnh Puvan cũng là một con
người cô đơn và luôn khao khát kiếm tìm. Lẽ sống của anh là tìm kiếm cái đẹp ở
đời. Đối với Vĩnh, hình ảnh đáng nhớ nhất chỉ là “một thằng bé gào khóc ngơ
ngác trước căn nhà sập bẹp, cháy rùng rùng sau trận bom”. Lớn lên, Vĩnh lao vào
kiếm tiền và dùng tiền đó đi đến những nơi đẹp nhất, sở hữu những thứ đẹp nhất,
đó như là một cách để anh giải toả sự cô đơn. “Anh gần như chạm tay vào tất cả
những gì mình muốn, tận mắt nhìn thấy những gì mà người đời ca tụng là tuyệt
vời nhất, chỉ những bông sầu trên đỉnh Puvan không tuỳ thuộc vào tham vọng hay
sự giàu có của anh, chỉ những bông hoa sầu trên đỉnh Puvan trong lòng anh cứ
mỗi năm một lần tan tác trước những cơn mưa sớm”. Giờ đây, khát vọng lớn nhất
của anh là được xem những bông sầu nở trên đỉnh Puvan. Vĩnh chờ cơ hội đó đã
mười lăm năm, bởi “sầu chỉ trổ bông dưới cơn mưa đầu tiên sau mười ba tháng
hạn liên tiếp, không một giọt nước nào rớt lên đỉnh núi xa xăm”. Nhưng thật
nghịch lý, khi anh đã thấy chúng rồi, thấy cái đẹp nhất rồi thì: “Bất ngờ, Vĩnh
không nghĩ ra cái gì có thể đẹp hơn nữa. Không còn cái gì có thể xứng đáng với
những bông sầu, để thay thế trong ý nghĩ về ngày mai của anh”. Và ngày mai
không còn gì để anh kiếm tìm nữa. Anh tuyệt vọng vì thấy mình không bằng
những kẻ khốn khổ nhất. Thằng Củi - người dẫn đường cho anh - dù thất học, dù
nghèo nhưng còn có mẹ; Dịu - cô gái bao theo anh - còn sống vì đứa con. Nghĩa là
hai con người ấy vẫn còn lẽ sống. Nhưng anh “Còn gì để mà chờ đợi, mà chinh
phục nữa. Anh còn níu được gì để ngồi dậy mỗi ban mai? Anh thì không vì ai,
không vì cái gì hết. Anh thấy sợ hãi ngày mai trống rỗng kia…”, bởi kí ức của
Vĩnh không còn gì ngoài hình ảnh xác người yêu bị ngã tàu và những vụn thịt của
người thân rơi vãi bởi bom đạn. Trong cơn tuyệt vọng, anh tìm đến cái chết. Bi
48
kịch của Vĩnh là bi kịch của một người cô đơn. Anh hoàn toàn tuyệt vọng khi
không tìm được mối liên hệ ràng buộc nào với cuộc sống, không người thân,
không người để yêu thương.
Hai đứa trẻ Sói và “em” trong truyện ngắn Ấu thơ tươi đẹp cũng là những
tình cảnh đáng thương. Tình cờ, hai đứa trẻ gặp nhau trên một chuyến tàu. Chúng
nhanh chóng có sự đồng cảm với nhau bởi chúng có hoàn cảnh gia đình giống
nhau: cha mẹ li hôn. Chúng ở với người này một thời gian, với người kia một thời
gian. Cha mẹ chúng hoặc bận rộn công việc, hoặc mải mê với những niềm vui mới
mà không quan tâm tới chúng. Sau cuộc “hội ngộ”, Sói và “em” chia tay, mỗi
người đi một hướng song chúng đều có chung một đích đến: đó là nơi có tình yêu
thương để những tâm hồn non nớt của con trẻ không bị tổn thương, với suy nghĩ:
“Thằng nhỏ Sói sẽ xuống một ga không có bầy chó sủa khi nó về nhà của chính
mình”, còn “Em thì mãi mãi ở lại con tàu này bằng một vốc thuốc ngủ vun vén ở
mỗi tiệm thuốc tây một chút”. Rốt cục, dù ở với cha hay với mẹ, chúng vẫn luôn
cảm thấy cô đơn, lạc lõng, luôn khao khát tình yêu thương và một mái ấm gia
đình.
Hình ảnh nhân vật đi tìm kiếm, khát khao hạnh phúc xuất hiện hầu hết trong
các tập truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Những cuộc tìm kiếm ấy là một hành
trình dài vô tận mà kết quả có khi nhận lại chỉ là sự cô đơn, đau khổ nhưng họ
không nản chí mà vẫn tiếp tục. Cũng vì thiếu thốn tình yêu thương nên họ mới
khát khao tìm kiếm, hành trình họ trải qua có nhiều nỗi đau về tinh thần và cũng
có nhiều kỉ niệm đẹp về tình người giữa “biển người mênh mông”. Không chỉ tìm
kiếm người thân, tìm kiếm tình yêu mà nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư còn đi tìm
kiếm lẽ sống, tìm kiếm niềm tin ở cuộc sống và hơn hết là tìm kiếm sự thanh thản
trong tâm hồn, mong chuộc lại những lỗi lầm trong quá khứ.
2.2. Nhân vật bình dị, nhân hậu
Nhân vật bình dị, nhân hậu trong các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư đa
phần là những người nông dân Nam Bộ chân chất có cuộc sống bình dị nhưng
chứa đựng những tấm lòng nhân hậu, bao dung. Nhà văn đã khai thác một mặt đời
49
sống của người nông dân, không chỉ là những người làm ruộng trên những cánh
đồng mà còn là những người nông dân làm nghề chăn thả vịt, bán vé số, buôn bán
nhỏ lẻ,… hay là những số phận có cuộc đời không như ý, bị mọi người khinh rẻ.
Họ đa phần là những người nghèo khổ, bất hạnh, thiệt thòi, thiếu thốn về điều kiện
sống nhưng lúc nào cũng chan chứa tình yêu quê hương tha thiết, coi trọng danh
dự. Số phận của họ gắn chặt và chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi những vấn đề thời sự
của xã hội, bởi trách nhiệm của những người làm lãnh đạo.
Lỡ mùa là một truyện ngắn phản ánh cuộc sống của người nông dân khi phải
mệt mỏi trông chờ vào sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh trước một dự án “treo”. Họ
là những người nông dân đang yên ổn làm ăn, cần cù cày cấy trên vùng đất Trảng
Cỏ, bỗng dưng lãnh đạo tỉnh cho quy hoạch hết ruộng đất để làm “khu du lịch sinh
thái lớn nhất nhì đồng bằng”. Tuy nhiên, dự án đó lại để treo mấy năm “chưa thấy
nhà nước bắt tay vô làm, ngó đất bỏ không”, cả một vùng đất rộng lớn dùng để
sản xuất nông nghiệp mà giờ đây chỉ là “cỏ ống, năn, lác rủ nhau lại mọc xanh
chơi” trong khi “Người Trảng Cỏ ngơ ngác một chút, rồi buồn, tiếc như ai đó dứt
khúc ruột mình ra, nhưng tuyệt nhiên không cãi”. Người dân đứng nhìn đất để
không như vậy thấy day dứt, tiếc nuối nên đã không ngại đường sá xa xôi, gác
công việc đồng áng lại kéo nhau một đoàn gần chục con người từ già đến trẻ lên
tỉnh gặp ông chủ tịch để hỏi về việc tiến hành dự án. Họ chỉ muốn gặp ông chủ
tịch “để coi nhà nước mình có làm du lịch nữa không, nếu không xin rút quyết
định lại để bà con còn canh tác”. Niềm mong muốn của họ là được tiếp tục cày
cấy, được làm nông, canh tác trên mảnh đất mà họ đã “cầm súng chiến đấu cả đời
để mơ có một miếng đất trồng lúa, có chốn nương thân” nhưng nhận lại là một sự
thơ ơ, dửng dưng, vô trách nhiệm của lãnh đạo. Hơn mười con người từ đứa trẻ
mới có bảy tuổi đến những ông già “môi run lều phều trước hàm răng trống” phải
vật vờ trên vỉa hè trước Ủy ban Nhân dân tỉnh trong mấy ngày mưa gió chỉ mong
được nghe câu trả lời từ ông chủ tịch. Vấn đề của dân bức thiết như vậy nhưng
ông chủ tịch lại bận đi họp hành, chẳng có ai lắng nghe những tâm tư của họ. Tác
phẩm không chỉ nói về nỗi niềm tiếc nuối về sự “lỡ mùa” của dân mải lo tìm
50
người “thấu hiểu” mà còn thể hiện một nỗi đau của dân khi niềm tin và hi vọng bị
bóp nát bởi sự trễ nải, thờ ơ của lãnh đạo. Buổi họp của ông được đánh đổi bằng
một vụ mùa của dân. Người nông dân Trảng Cỏ rất yêu và luôn muốn gắn bó với
mảnh đất đã nuôi sống họ qua bao thế hệ, họ cũng rất yêu nghề làm nông với một
niềm tự hào. Người đọc thấy buồn theo nỗi buồn của họ khi không được cày cấy
nhưng buồn và xót xa hơn nữa là khi thấy niềm tin, niềm hi vọng của họ gửi vào
nhầm chỗ.
Cũng giống như người nông dân Trảng Cỏ, người nông dân ở vùng đất Thổ
Sầu rất yêu và thương quê hương tha thiết. Họ thiết tha muốn gắn bó với mảnh đất
ông cha, nguồn cội, dẫu cho mảnh đất ấy không được phép “làm giàu”. Cuộc sống
của người nông dân ở Thổ Sầu như sống trong một nghịch lí. Bởi Thổ Sầu là vùng
đất rất thu hút và hấp dẫn khách du lịch, người ta kéo đến đó rất nhiều, có cả trong
nước và ngoài nước. Thông thường ngành du lịch phát triển luôn có một mối quan
hệ mật thiết, chặt chẽ với sự phát triển kinh tế - xã hội chung của vùng đầu tiên,
sau mới tới đất nước. Tuy nhiên, Thổ Sầu thì đi ngược lại với điều đó, mảnh đất
đó không được phát triển. Người dân ở đó nghèo quá, muốn được cải thiện cuộc
sống thì phải chuyển đi nơi khác, bởi lãnh đạo không cho phép Thổ Sầu “làm
giàu”, Thổ Sầu phải “nghèo bền vững”, “nghèo truyền thống”, nếu giàu thì không
làm được du lịch. Xót xa và cay đắng là chỗ Thổ Sầu chỉ thu hút, hấp dẫn khách
du lịch bởi cái nghèo đến mức gần như nguyên thuỷ. Những người khách du lịch
khi đến Thổ Sầu rất háo hức, vui sướng khi nhìn thấy những căn nhà tả tơi, những
đồ vật cũ kĩ, những lũ trẻ gầy nhom và đen đúa:
“Những căn nhà cột cặm gió thổi lá mục rơi lả tả, chiếc tivi đen trắng xài
bình ắc quy làm thót tim bọn trẻ con khi vở cải lương vẫn còn dài mà khung hình
chỉ còn chút xíu vì thiếu điện. Những cái cối xay bột bằng đá xám. Những cái vách
buồng được đan bằng sậy giập”, hay “một chiếc mùng chi chít những miếng vá
nhiều màu, mấy cái đèn cóc lụn tim, chiếc giường ngủ ghép bằng thân tre chẻ hai,
mắt tre dù đã chuốt kĩ vẫn gù lên, lông chông”.
Khách du lịch đến thăm quan chỉ để thoả mãn con mắt của họ. Thổ Sầu cho
51
họ được “thưởng thức” nỗi buồn khổ, sự nghèo khó của đồng loại như một thứ đặc
sản quý hiếm không thể tìm thấy ở nơi đô thị. Cho họ sự khoái chí, hớn hở khi
được xách dép lội trên con đường ọp ẹp bùn sình, được giới thiệu cho bạn bè:
“Thổ Sầu quá quyến rũ, khiến người ta mụ mị đi bởi cái nghèo, giản dị đến mức
nguyên thuỷ. Nhiều người khách mô tả, họ như rơi tõm vào một vũng buồn, và
chìm trong thứ bùn mát rượi và thơm ngọt mùi đồng bãi.” Thổ Sầu không được
bán phở, chỉ bán bánh dừa, bánh khọt, cốm gạo,… để giữ cái nghèo, cái đói, sự
thiếu thốn để người ta đến đó còn rút ra được những bài học cho bản thân. “Người
có quá khứ nghèo thì phơ phởn thấy mình đã thoát được cái nơi (tương tự) như
Thổ Sầu. Những người chưa từng nếm trải cuộc sống quê mùa thì trầm trồ, thắc
mắc chuyện không đâu, thí dụ như vì sao vài đứa nhỏ ở đây chỉ ăn cơm suông,
chừng hết cơm mới đụng đến mớ đồ ăn ít ỏi. Người thấy cuộc sống chật chội nặng
nề đến đây, bỗng thấy mình ham sống, thấy tràn trề sức lực trong cuộc chen chúc
mưu sinh…” để cho người phụ nữ thấy “mình quá giàu so với đám người này” và
những ông chồng vui mừng khi “dám chắc là trong ba tháng nữa bà vợ mình
không than vãn chuyện lương thấp lương cao.” Ở đây, ngòi bút của Nguyễn Ngọc
Tư gần có nét tương đồng với nhà văn Vũ Trọng Phụng qua cái cười mỉa mai,
châm biếm nhẹ nhàng khi thằng Đậu thấy hình ảnh mình trong mắt du khách là
một thằng con trai tàn bạo, man rợ với hành động lột da chuột đồng. Đó là công
cuộc mưu sinh của hai tía con thằng Đậu nhưng nó lại thấy tuyệt vọng khi “không
làm sao cải thiện được hình ảnh của mình”. Đúng với tên gọi nhan đề “Thổ Sầu”,
mảnh đất nghèo chứa đựng nhiều tâm trạng u uất. Họ không thể thoát được cái
nghèo bởi cái danh “mảnh đất du lịch về cái nghèo”, cho nên cả cuộc đời phải
ngụp lặn trong nghèo đói. Chính cách làm du lịch của chính quyền địa phương
vạch ra một chiến lược kinh doanh kì lạ đã đẩy những con người rất yêu quê
hương lúc nào cũng mang trên mình bộ mặt hậm hực, căm tức, những con người
nghèo khổ phải ngập chìm trong sự thiếu thốn vật chất và sự tổn thương tinh thần.
Tương tự như vậy, nhân vật ông Tư Nhớ trong truyện ngắn Đau gì như chưa
thể là một người nông dân hiền lành, nhân hậu, cũng vì sự quan liêu và thiếu trách
52
nhiệm của chính quyền địa phương đối với người dân mà ông Tư Nhớ bị chính
quyền xã bắt giam một cách oan ức với tội ông đã làm con gái riêng của vợ có
bầu. Khi nghe mẹ của Nga cũng là vợ của ông mắng rằng: “Sao anh lại hại đời
con gái tôi đến nỗi phải mang bầu?”, công an xã đã không điều tra, tìm hiểu sự
việc rõ ngọn ngành, không để cho ông phân trần, đã tới nhà mời ông đi và nhốt
ông năm ngày liền. Tuy nhiên, sau khi sự việc đã sáng tỏ ông Tư Nhớ muốn làm
đơn yêu cầu chính quyền xã xin lỗi và minh oan cho ông, nhưng chẳng có ai đoái
hoài tới. Ông Tư Nhớ cũng giống như bao người nông dân Nam Bộ khác, có tính
cách hiền lành, chất phác, sống tình nghĩa và rất coi trọng danh dự của bản thân.
Ông chấp nhận cắn răng chịu đựng những lời bàn tán ác ý, dè bỉu của xóm làng để
cùng con nuôi cháu nên người, đỡ đần người con riêng của vợ lúc khó khăn, bụng
mang dạ chửa nhưng trong thâm tâm lúc nào cũng đau đáu muốn được minh oan,
được sống đàng hoàng, ngẩng cao đầu. Ông muốn được thể hiện tình yêu của
người cha dành cho con gái, của người ông dành cho cháu ngoại, chứ không phải
thậm thụt quan tâm, giữ khoảng cách vì sợ mang tiếng oan “chồng quan tâm vợ,
cha quan tâm con”. Cũng vì tính hiền lành, chấp nhận chịu thiệt mà ông phải “cắn
răng” chờ đợi mỏi mòn, bỏ bao công sức lặn lội từ xã tới huyện tới tỉnh để được
chính quyền minh oan lấy lại danh dự, nhưng chẳng một ai thèm quan tâm:
“Ông ra xã, công an cười khà khà, như đang nói về vụ bắt nhầm con cá lóc,
hay con vịt con gà,“biết chú bị oan là tôi thả liển, chú còn đòi gì nữa?”. Ông cãi,
tui đâu có đòi gì, nhưng cậu ra thanh minh với bà con Xẻo Mê dùm vài tiếng được
không. Công an chạy qua hỏi chủ tịch, chủ tịch cười “chuyện của chú coi vậy mà
căng lắm, hồi trước tới giờ chính quyền chưa xin lỗi trước dân lần nào, tôi đâu có
dám phá lệ, hay chú lên huyện thử coi..” Rồi huyện chỉ lên tỉnh, tỉnh hứa để từ từ
coi lại…”
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư không chỉ phản ánh sự hời hợt, thiếu trách nhiệm
của người lãnh đạo tới cuộc sống và cuộc đời của người nông dân Nam Bộ mà qua
đó nhà văn còn ca ngợi, trân trọng những phẩm chất đáng quý của họ. Qua từng
trang viết, mỗi số phận người nông dân luôn hiện diện chân thực với vẻ cực khổ,
53
lam lũ, chân chất đáng thương. Ở đó còn mang nặng cả nỗi niềm ưu tư, lo lắng cho
sự tiến bộ và phát triển chung của một vùng quê. Trong Thương nhớ rau răm,
nhà văn kể về câu chuyện của ông trưởng ấp Tư Mốt trong việc “chiêu mộ nhân
tài”. Ông rất trân quý những người trẻ có tài về phục vụ làng quê, nhưng cũng rất
“giận đám trẻ cù lao đã được học hành nhưng chẳng đứa nào chịu quay về”. Văn
- một chàng bác sĩ trẻ, về nơi xứ Mút Cà Tha, khỉ ho cò gáy làm việc. Ông Tư đã
cố gắng làm mọi cách để Văn không buồn chán mà bám trụ nơi đây kể cả những
công việc buồn cười nhất: phụ nữ đau bụng kinh cũng bắt đi khám, không bệnh
cũng đi khám, uống rượu bị ói cũng khám… Hơn thế, ông cho cả đứa con gái của
mình, mỗi ngày sang trạm y tế dọn dẹp, mang thức ăn cho Văn…, mặc dù trong
lòng ông rất lo ngại. Có thể thấy, tính cách người nông dân Nam Bộ chân chất,
thật thà, đáng thương đáng quý như thế nào. Nhưng, đối với một người trẻ tuổi lại
đã quen sống nơi phố thị đô hội như Văn, vì một chút chuyện buồn “bỏ phố về
quê”, chẳng mấy chốc lại ra đi. Và, Văn ra đi không một lời từ biệt. “Lặng lẽ, như
trốn chạy”, khiến “Trưởng ấp Tư Mốt đứng ở trạm xá, thấy sau trước trống
không, trong lòng nghe đau tiếc như vừa thua một ván bài lớn”. Nỗi đau như xoáy
vào lòng người hơn khi mà “Thí dụ như con cá, lá rau, hạt gạo mến thương của
người cù lao không ràng buộc được một con người (như đã từng rịt chân ông lại),
thì cái bóng nhỏ nhoi của đứa con gái đang tuyệt vọng đứng ngóng chờ dưới bến
không có ý nghĩa gì sao? Tuyệt không đáng gì à?” Thương nhớ rau răm đã phơi
bày một hiện thực buồn thảm và nghèo nàn ở nông thôn Nam Bộ nói riêng và
nông thôn Việt Nam nói chung. Những đứa trẻ lớn lên, đi học thành tài chẳng
buồn quay trở lại quê hương, mảnh đất “khỉ ho cò gáy”, “chó ăn đá gà ăn sỏi”
huống chi là những trí thức trẻ sống ở thành phố. Mặc dù cuộc sống còn thiếu thốn
sự văn minh nhưng ở vùng đất cù lao Mút Cà Tha vẫn còn đó những tấm lòng
đáng quý như ông già Tư Mốt luôn yêu và muốn gắn bó với quê hương tha thiết.
Ở vùng sông nước Nam Bộ, việc xây dựng cầu đường là một việc làm rất
quan trọng. Nó có thể thay đổi nền kinh tế của cả một xã thậm chí của cả một
huyện bởi sự thuận lợi đi lại cũng như tránh được rủi ro mỗi khi nước lũ tràn về.
54
Thấy đó là việc làm bức thiết, anh Hai Nhỏ trong Qua cầu nhớ người đã cầm cố
hết đất vườn để tự nguyện xây cho xã Đội Đỏ một cây cầu. Hành động đó đã cho
thấy được tình cảm của những người nông dân luôn gắn bó và trăn trở với cuộc
sống của quê hương.
Với cái nhìn sâu sắc, tinh tế, Nguyễn Ngọc Tư đã phát hiện ra những ngõ
sâu trong tâm hồn những người nông dân Nam Bộ: những niềm vui, nỗi buồn, cốt
cách đặc trưng cũng như bản chất cố hữu của họ. Họ là những con người hiền
lành, chất phác, thật thà, chứa đựng tình yêu và tình người dạt dào như biển nước
Cà Mau. Họ yêu ai là yêu trọn đời, họ tin ai là tin đến si mê. Mặc dù cuộc sống
còn gặp nhiều khó khăn nhưng họ sẵn lòng cưu mang những người thất cơ lỡ vận.
Tiêu biểu cho tính cách này là truyện ngắn Cái nhìn khắc khoải. Nhân vật cô Út
trong truyện đã yêu và đặt niềm tin mãnh liệt vào một anh thợ gặt mà cô không hề
biết gốc gác ở đâu. Anh ta làm ít, nhậu nhiều, nợ nần chồng chất, chị phải nai lưng
ra trả. Nợ nhiều quá, người ta siết nợ, anh ta đành bỏ chị mà trốn đi. Vậy mà chị
không hề thù hận anh ta, chỉ trách một cách rất nhẹ nhàng bằng hai từ “tệ thiệt”,
giận quá, chị gọi anh ta bằng “thằng”, “thằng đó” rồi lại lập tức có tiếng xin lỗi đi
kèm, rồi lủi thủi ra bờ sông ngồi khóc, bơ vơ nơi xứ người, không biết phải đi về
đâu. Tính cách đó của nhân vật cô Út cũng là bản tính người phụ nữ Nam Bộ, hiền
lành, vị tha và yêu hết mình:
“Chị ngồi vấn vạt áo: “Ai cũng nói em ngu, cực cỡ nào em cũng chịu, miễn
là mình thương người ta”. Vậy mà cái thằng đó (xin lỗi!) tệ thiệt, làm ít, nhậu
nhiều. Tới đây, nhậu nhẹt, nợ nần, chị ra gánh trả. Nợ nhiều quá, mấy cái quán
tạp hóa đòi lấy xuồng, nửa đêm chồng chị trốn đi, bỏ chị lại. Không biết quê
chồng, không về được quê mình, chị ra bờ sông ngồi khóc”. Thấy chị khóc, ông
Hai chèo ghe ngang, quay mũi ghe lại, hỏi thăm cớ sự, và cho chị đến ở tạm nhà
mình. Biết mình là người ăn nhờ ở đậu, chị cố gắng làm lụng việc nhà, chăm sóc
ông chu đáo, nhưng vẫn một lòng mong ngóng tin “chồng”. Vì sự chăm sóc tận
tình của chị, trong ông Hai có chút tình cảm nảy sinh, nhưng khi nghe tin
“chồng” chị ở nơi nào ông liền chỉ cho chị, mặc dù có chút ngậm ngùi: “Ông
55
bước xuống đẩy mớ vỏ dừa vô mẻ un. Xơ dừa mịn, cháy rực, rồi tắt ngấm.
- Ảnh tên Sinh phải hôn cô Út? Ở, Sinh, ảnh… cũng đang gặt bên đó, cô Út
à.
- Anh Hai!
Chị buông cái khăn xuống kêu bàng hoàng.
- Tàu từ xã chạy nông trường lúc năm giờ, ngang đây, chắc cỡ sáu giờ rưỡi.
Cô ráng đón chuyến đó. Để lỡ tới bữa sau, sợ mấy ảnh lại chuyển đồng, kiếm cực
lắm. Tính vậy nghen cô Út”.
Gắn bó chặt chẽ với nếp sinh hoạt của các nhân vật là những dòng sông,
những cánh đồng với nắng và gió. Chăn vịt chạy đồng là một nghề quen thuộc của
người dân miền Tây Nam Bộ. Dân gian có câu “Muốn giàu nuôi cá, muốn khá
nuôi heo, muốn nghèo nuôi vịt”, chẳng ai “muốn” nghèo, bởi chăn vịt là một nghề
cơ cực và đầy rủi ro, đàn vịt hàng trăm con có thể chết vì dịch cúm gia cầm bất cứ
lúc nào. Biết vậy, họ vẫn phải chăn vịt, và những người làm nghề chăn vịt chạy
đồng đều có cuộc sống tạm bợ, phiêu bạt lênh đênh trên sông nước, nay đây mai
đó như ông già chăn vịt trong Cái nhìn khắc khoải. Ông đã từng tham gia chiến
tranh, trở về vợ đã chết vì đạn pháo. Ông sống một mình giữa bầy vịt khiến mấy
người bạn lang bạt của ông lần nào cũng cằn nhằn: “Cha nội nầy sống thấy rầu
quá trời đất, mai mốt con vịt xiêm nó chết rồi, để coi ông sống với ai”.
Cuộc mưu sinh và chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt cũng như sự dữ
dội, đầy rủi ro của nghề chăn vịt trong Cánh đồng bất tận khiến người đọc không
khỏi rùng mình. Không như những người chăn vịt chạy đồng khác, thường trở về
nhà khi hết mùa lúa chín, cha con Nương vẫn phải sống lang thang: “Đàn vịt đưa
chúng tôi đi hết cánh đồng này đến cánh đồng khác. Đôi khi không hẳn vì cuộc
sống”. Bởi mục đích người cha chọn nghề này vì muốn lìa bỏ quê hương, để mải
miết chạy theo hành trình trả thù đàn bà mà không biết rằng ông đang hủy hoại
chính cuộc đời mình và những đứa trẻ vô tội. Hình ảnh “Họ rải vôi trên những hố
chôn lớn bằng mấy khẩu đìa cộng lại. Họ chọn những con vịt còn sống, còn giãy
giụa, còn gào thét vào bao tải, buộc miệng và quăng xuống đó” không có gì xa lạ
56
trong thời điểm diễn ra dịch cúm gia cầm trên cả nước. Góp thêm vào bức tranh
điêu tàn đó là một cảnh tượng đầy ám ảnh: “Sáng sau, người ta tìm được một
người chăn vịt nằm sát mép hố, mắt chong chong ngó trời không chớp, miệng sủi
ra thứ nước bọt, trong vắt như bọt cua nhưng hôi nồng nặc. Chai thuốc trừ sâu
lăn lóc cạnh đó đã cạn tới giọt cuối cùng”. Có thể nói, cuộc sống của những người
chăn vịt chạy đồng lần đầu tiên được Nguyễn Ngọc Tư phơi bày một cách trần trụi
như vậy. Đó là cuộc sống của người dân quê còn đậm vẻ hoang sơ, hoang dã. Con
người ít được học hành, đành tự học cách sống, tự thích nghi với cuộc đời, sống
theo bản năng... ngay giữa thời hiện đại.
Viết về đề tài nông thôn nhưng Nguyễn Ngọc Tư không chỉ đặt người nông
dân trong “địa bàn” đồng ruộng, khi đất bị thu hẹp dần, chị còn đặt người nông
dân vào những môi trường rộng lớn hơn, xa lạ hơn: đó có thể là ở thành phố, ở
tỉnh, ở chợ,... để làm nổi bật sự lam lũ, sự thua thiệt, rủi ro của người nhà quê so
với những người thành phố. Truyện ngắn Giao thừa hé mở cho chúng ta thấy cuộc
sống khó khăn, nhọc nhằn của những con người từ ruộng ra phố bán dưa Tết, bán
bông Tết. Công việc cực nhọc, vất vả là thế mà nguy cơ lỗ vốn luôn chực chờ. Họ
phải bươn chải nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh, họ luôn phấp phỏng với nỗi lo âu
“dưa trúng mùa cả núi vầy ăn gì cho hết”, “năm nay chắc thua rồi”. Cảnh những
quầy hàng bán dưa, bán bông trên bãi đất xác xơ trống trải đối lập với những tòa
nhà cao tầng lộng lẫy, ngất ngưởng khiến người nông dân lam lũ ấy vẫn lạc quan
trong tình yêu với cuộc đời. Niềm vui của Đậm khi có Quý ở bên giúp đỡ trong
khung cảnh sắp giao thừa gợi cho người đọc bao cảm xúc. Nhân vật của Nguyễn
Ngọc Tư dù trong đói nghèo lam lũ nhưng biết vươn lên, khao khát hạnh phúc và
tình yêu. Họ biết tìm cho mình một lối sống, một cách để yêu thương, để tự tin
trước cuộc đời.
Truyện của Nguyễn Ngọc Tư so với các nhà văn đi trước như Sơn Nam, Hồ
Biểu Chánh đa phần hướng tới những tình cảnh gia đình nghèo, đề cập đến số
phận buồn của những con người nhỏ bé. Trong những năm 80, Đất rừng phương
Nam của Đoàn Giỏi đã dựng lên hình tượng người nông dân Nam Bộ khỏe mạnh,
57
chất phác mà rất trọng tình nghĩa. Bây giờ, Nguyễn Ngọc Tư lại mang đến cho ta
hình tượng người nông dân Nam Bộ cũng lam lũ, mộc mạc, chân chất nhưng nín
nhịn, giỏi chịu đựng và rất coi trọng danh dự của bản thân. Họ là những người
chăm chỉ, chất phác, hai sương một nắng, xoay đủ nghề để kiếm sống và vẫn
không thoát khỏi chữ “nghèo”. Nhà văn đã làm cho bức tranh đời sống hiện thực
của đồng bằng sông Cửu Long thêm phần sinh động. Bằng các tác phẩm của mình,
chị cũng làm cho bức tranh về nông thôn Việt Nam hiện đại đầy đủ hơn, hình ảnh
người nông dân thời nay rõ nét hơn.
2.3. Nhân vật lãng mạn, cô đơn
Nếu ở nhân vật bình dị, nhân hậu, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư nghiêng về việc
khắc hoạ tính cách người nông dân Nam Bộ thì ở hình tượng nhân vật lãng mạn, cô
đơn, nhà văn lại đi sâu vào việc tìm hiểu số phận của cuộc đời người nghệ sĩ. Bởi họ
là những con người rất nhạy cảm, đa sầu đa đoan nên mỗi lần rời ánh đèn sân khấu
sau những vai diễn mua vui cho thiên hạ, họ trở về với cuộc sống đời thực, đó cũng
là lúc họ thấy mình cô đơn, lạc lõng. Khi sống trong một vở kịch, người nghệ sĩ sẽ
xử lí các tình huống theo kịch bản đã có, đường đi nước bước thế nào họ cũng đã tỏ
nên họ cứ thế mà diễn. Tuy nhiên khi trở về với đời thực – nơi không phải là sân
khấu – họ không thể lấy nhân vật trên sân khấu mà diễn lại. Sự gồ ghề, gai góc của
cuộc sống không phải là một bức màn nhung cho người nghệ sĩ.
Cuộc sống hiện đại diễn tiếp với những guồng quay hối hả đã cuốn con người
vào nhịp sống nhanh, vội vàng, rất thực tế và thực dụng. Việc giữ cho mình được
hoàn hảo với cuộc sống đời thường và thành công trên ánh đèn sân khấu là một điều
khó khăn và thường xuyên khiến người nghệ sĩ phải chọn lựa, đánh đổi. Chính “vở
kịch” của cuộc sống không được biết trước đã khiến người nghệ sĩ cảm thấy khó
hoà nhập và luôn phải đối diện với sự cô đơn. Nếu đối với người bình thường sự cô
đơn có thể sẽ chóng qua và dễ dàng khoả lấp thì đối với những tâm hồn lãng mạn,
sự cô đơn như nhân lên gấp bội phần. Thậm chí có những lúc người nghệ sĩ cũng
rơi vào trạng thái cô đơn trong hành trình sáng tạo nghệ thuật. Bởi vậy, các nhà văn
chọn viết về nỗi cô đơn nhiều hơn. Nỗi cô đơn mà nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đề
58
cập đến trong các sáng tác của mình là cô đơn bản thể luận. Trẻ con cô đơn là bởi
không hiểu vì sao chúng được sinh ra, cuộc đời chúng sẽ như thế nào. Người lớn cô
đơn bởi họ đã chọn cho mình một đích sinh tồn mà họ biết rằng con đường đến đó
thật đa đoan và họ phải bước đi một mình, mất tất cả tự do khi tới đích. Nhà văn
Phan Thị Vàng Anh nói đến cả hai trạng thái tự cô đơn và bị cô đơn trong sáng tác
của chị. Họ là những người trẻ tuổi luôn ở trạng thái hẫng hụt, chơi vơi, cô đơn vì
không có điểm tựa tinh thần. Họ sống chông chênh, hờ hững. Đối với họ, cuộc sống
lúc nào cũng toát ra mùi vị đơn điệu, buồn chán, nhạt nhẽo. Nỗi cô đơn của Phạm
Thị Hoài nói đến là một kiểu lựa chọn hiện sinh, theo đó cô đơn là điều kiện của sự
sinh tồn. Cái cô đơn gắn liền với ấn tượng về một thế giới khủng hoảng, con người
tha hoá, mất khả năng giao tiếp. Ở đó khuôn mặt riêng của mỗi người bị xoá nhoà,
đó là những con người không có mặt. Còn đối với nhà Nguyễn Ngọc Tư, nỗi cô đơn
dành nhiều hơn cho những người có tâm hồn lãng mạn. Người nghệ sĩ cứ mải miết
rong ruổi trên hành trình đi tìm kiếm cái Đẹp đã trở nên cô đơn trong chính hạnh
phúc và gia đình của mình tự lúc nào. Tình trạng nhân vật cô đơn trong truyện ngắn
của chị là “cô đơn bị động”. Bản thân nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cũng tự nhận:
“Trong cõi văn chương, tôi là đứa cực kỳ cô đơn. Nếu tôi rất dễ dàng để nhân vật
của mình sống trong cô đơn tận cùng, trong hoang hoải chán chường, tôi cũng như
những con người trong Cánh đồng bất tận, sống giữa nhiều người, sống giữa cộng
đồng, sống giữa biển người nhưng có cảm giác cô đơn.”
Đối với người nghệ sĩ, để có được thành công trong sự nghiệp, họ buộc phải
lựa chọn hoặc đánh đổi hạnh phúc hay một điều gì đó quan trọng của bản thân.
Phần lớn những người nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư đều phải hi sinh
tình cảm riêng để sống trọn với nghề nghiệp, với kiếp cầm ca, với những vai diễn
trên sân khấu. Nhân vật dì Diệu trong Làm má đâu có dễ đã từ bỏ hạnh phúc được
làm mẹ để chọn nghiệp “xướng ca”, chấp nhận xa lìa đứa con vẫn còn đỏ hỏn trên
tay để được đóng vai Trưng Trắc mà chị đã khao khát, chờ đợi bấy lâu. Chị tin rằng
khi vào được vai diễn này chị sẽ thành danh trên con đường nghệ thuật, đạt đến đỉnh
cao của vinh quang.
59
“Đặt con xuống giường chị thấy cái miệng nhỏ xíu của nó mút mút. Rồi từ đó
chị không dám nhìn thêm một lần nào nữa, sợ mãi mãi mình không thể nhấc chân
đi. Mà chị thì không thể từ bỏ ước mơ của mình trở thành cô đào hát nổi tiếng. Làm
sao có thể từ chối vai diễn đã chờ đợi nàng Trưng Trắc oai hùng trong tiếng trống
Mê Linh”.
Tuy nhiên, càng đuổi theo ước vọng chị lại càng nhận lại sự bế tắc, cô đơn.
Việc lựa chọn con đường sân khấu đã khiến chị không làm tròn tình mẫu tử. Đứa
con mà chị dứt ruột đẻ ra không coi chị là mẹ mà coi chị như một người khách trong
nhà. Tiếng gọi “chế” thay bằng “má” cùng với sự thờ ơ, dửng dưng của bé San như
“muối xát vào lòng” chị. Chị trở nên cô đơn trong chính tổ ấm, hạnh phúc của mình.
Nhân vật Đào Hồng (Cuối mùa nhan sắc) cũng có nỗi cô đơn tương đồng với dì
Diệu. Cũng vì niềm đam mê với nghệ thuật, tình yêu nghề tha thiết, mà bà đã bỏ hết
lại tất cả, kể cả con cái để trở thành một chân lăng xăng trong đoàn diễn, kiếm sống
bằng nghề bán vé số dạo.
Đằng sau ánh hào quang sân khấu, cuộc đời thực của những người nghệ sĩ lại
chứa đựng đầy nỗi ưu tư, phiền muộn. Họ sống hết mình với những vai diễn nhưng
khi cởi bỏ mũ áo, rửa trôi lớp son phấn trên mặt đi rồi, trở về với cuộc đời thực thì
lòng họ lại se thắt, thật buồn. Họ thường có số phận hẩm hiu, không trọn vẹn.
Người thì phải gánh chè đi bán, người phải bán vé số, người nằm liệt giường
nhưng không có tiền để mua thuốc uống, người sẵn sàng bỏ nhà đi theo đoàn hát,
sẵn sàng đóng vai con nít suốt đời chỉ vì quá mê nghề ca hát này. Chú Sa trong
Chuyện vui điện ảnh vì muốn kiếm tiền giúp đỡ mẹ con cô Thư dựng lại mái nhà
mà sẵn sàng chấp nhận hoá thân hết mình vào diễn vai tên ác ôn khét tiếng đạt đến
nỗi hàng xóm xa lánh chú. Cay đắng ám ảnh hơn nữa là cuộc theo đuổi của San và
Phương trong Ngày đùa. Chỉ vì những cảm xúc của vai diễn, Phương không bao giờ
dám sống thực, sống hết mình với bản thân, cuộc đời mình: “Tôi thèm hạnh phúc
nhưng không cho phép mình hạnh phúc. Một tâm hồn đầy đủ sẽ không thể diễn
được những tâm tư giằng xé. Vì nghệ thuật tôi hi sinh cả cuộc đời mình.”
Trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, nhân vật lãng mạn không chỉ gặp
60
những bi kịch, lận đận về cuộc đời, số phận mà trong tình duyên họ cũng vấp phải
sự truân chuyên, cô đơn với những mối tình dang dở không trọn vẹn, những mối
tình đơn phương thầm lặng.
Đào Hồng (Cuối mùa nhan sắc) vì say mê ca hát mà bỏ nhà ra đi, tại gánh hát
cô quen và yêu Thường Khanh say đắm. Hai người có với nhau một đứa con nhưng
khi Thường Khanh bị bắt, Đào Hồng đã ôm con bỏ trốn. Trải qua bao năm tháng,
hình bóng Thường Khanh vẫn luôn in đậm trong tâm trí của cô, dẫu cho người đàn
ông đó đã bỏ cô đi và không hề biết đến sự tồn tại của đứa con. Ông Chín Vũ có cố
gắng đối xử tốt, yêu thương Đào Hồng một cách chân thành, say đắm, trái tim của
cô vẫn không thể đón nhận. Ngay cả khi đã già, mái tóc đã bạc trắng, cô vẫn giữ
chiếc gương cũ mờ ngày xưa mà Thường Khanh mua tặng, mà không chấp nhận
chiếc gương mới Chín Vũ mua cho: “Anh tài khôn làm gì, tui đâu có cần gương mới
… Mờ mờ tui mới thích …”. Đào Hồng đã chấp nhận sự cô đơn của tuổi già chỉ để
chờ hình bóng của Thường Khanh và rồi khi đối diện với con người đó cô lại giấu
cảm xúc của mình đằng sau những câu nói lạnh nhạt, đầy khách sáo và xa lạ. Càng
thể hiện mình mạnh mẽ, càng giả dối với cảm xúc của mình cô Đào càng chứng tỏ
sự cô đơn yếu ớt và tình cảnh đáng thương của mình trước độc giả. Đào Hồng giờ
đây đã tàn tạ hơn trước rất nhiều, sự minh mẫn, nhanh nhẹn, duyên dáng đã nhường
chỗ cho sự héo hon, những nếp nhăn và dáng điệu chậm rãi, cô không còn là người
con gái đã làm “đứng tim người ta” nữa.
Bên cạnh mối tình dang dở, thầm lặng của Đào Hồng mang đến sự day dứt, ái
ngại cho độc giả thì mối tình đơn phương của ông Chín Vũ dành cho Đào Hồng
cũng khiến người đọc phải xót xa, thương cảm. Ông là một chàng công tử Bạc Liêu
chính hiệu, vì vẻ đẹp “làm đứng tim” của Đào Hồng ngay ở phút đầu tiên gặp mặt
ông đã bỏ nhà theo gánh hát. Ông là người sống nặng tình, nặng nghĩa với Đào
Hồng, dám đứng ra nhận đứa con của Đào Hồng với Thường Khanh là con của
mình để bảo toàn danh dự cho người mình yêu, lúc nào cũng ở bên cạnh giúp đỡ chỉ
mong cô không phải lo lắng hay suy nghĩ nhiều. Trong thời gian thất lạc, ông đi tìm
kiếm Đào Hồng ở khắp nơi, nghe ngóng mọi thông tin về cô gần nửa đời người, chỉ
61
mong sao sẽ cũng người đó chia sẻ mọi buồn vui, lo toan của cuộc sống. Cho đến
khi gặp lại rồi, ông vẫn là người quan tâm Đào Hồng nhiều nhất, tỏ ra là người đàn
ông tâm lí: mua son, mua gương cho Đào Hồng. Vậy nhưng, ông nhận lại chỉ là sự
đơn độc, ông yêu hết mình nhưng kết cục ông sống trong một nỗi niềm cô đơn.
Người nghệ sĩ thường là những người có đời sống nội tâm phong phú, giàu
tình cảm, nhân ái, lúc nào cũng khao khát được cống hiến lời ca tiếng hát của mình.
Bởi đó cũng là nguồn vui, là lẽ sống của đời họ. Đối với họ nghề nghiệp và cuộc
sống đều là nghệ thuật, có mối quan hệ khăng khít không tách rời nhau. Họ khát
khao được cống hiến, được cháy hết mình với nghệ thuật, được gửi trọn cuộc đời
của mình cho nghệ thuật cho đến hơi thở cuối cùng. Những nhân vật Đào Phỉ, Đào
Hồng dẫu đã đi gần hết cuộc đời của mình nhưng vẫn nhiệt tình, tâm huyết mong
muốn được cống hiến cho tác giả, được gắn bó với nghề. Câu nói của Đào Hồng
trong Cuối mùa nhan sắc: “Tôi đã nguyện với Tổ cả đời đi theo nghiệp hát” đã để
lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả về hình ảnh của người nghệ sĩ trên hành
trình đi tìm nghệ thuật Chân - Thiện - Mỹ.
“Đào Phỉ tám mươi chín tuổi, đứng không nổi, diễn vai gì cũng ngồi trên ghế,
ngồi trên ghế mà lẫy roi sãy ngựa coi lạ hết biết…”.
“Đào Hồng dù ốm sát chiếu nhưng vẫn đòi ra hát. Ông Chín vẽ chân mày, tô
phấn thoa son cho bà rồi dìu bà ra ghế. Bà ngồi ghế mà hát (…), bà hát đến lịm
tiếng đi. Bà ngồi trên sân khấu, gục đầu. Cái gánh nặng tâm tư này, bà không mang
nổi nữa rồi. Khi ông Chín dìu bà xuống giường, bà đã hôn mê. Người ta hát vở cuối
cho bà, cho một người nghệ sĩ chân chính”.
Cũng bởi tình yêu nghệ thuật đã trở thành niềm đam mê mãnh liệt mà người
nghệ sĩ có tâm hồn lãng mạn luôn có ý thức rất cao về nghề nghiệp. Họ tôn trọng
nghề nghiệp cũng giống như tôn trọng phẩm chất đạo đức của bản thân. Họ sẵn
sàng lăn xả vào nghệ thuật như một con thiêu thân nhưng cũng sẵn sàng đưa ra
những giới hạn để phân biệt giữa nghệ sĩ chân chính và kẻ tầm thường.
Nhân vật San trong truyện Bởi yêu thương rất mê đắm cải lương và trân
trọng, gìn giữ tiếng tăm cho nền nghệ thuật. Chị rất muốn trở thành người nghệ sĩ
62
nhưng không dám biến mơ ước thành sự thật, bởi lí do: “Đi hát lỡ nổi tiếng,…người
ta biết lúc trước tôi từng làm tiếp viên quán bia thì dơ danh cả một giới nghệ sĩ, làm
người ta mất cảm tình với cải lương, vậy khác nào hại cả nền sân khấu nước nhà”.
San phản đối những ai mượn danh nghệ sĩ để làm hoen ố nghệ thuật, giọng điệu
nghe tưng tửng, vui vui, nhưng ngẫm nghe sao nghẹn ngào, xót xa. Chính sự quan
niệm về nghệ thuật như vậy, San muốn mình phải là một người nghệ sĩ chân chính
mẫu mực.
Con nhỏ Điệp trong truyện ngắn Chuyện của Điệp rất mê hát, ngoại của cô
không cản, nhưng ngoại dạy: “Con muốn diễn hay thì phải sống nhân ngãi trước
đã. Mình sống có tình thì đóng vai nào cũng dễ, con à”. Điệp là đứa rất biết suy
nghĩ và có những tìm tòi nghiêm túc trong nghề nghiệp của mình. Bằng sự chiêm
nghiệm cuộc đời, nó đã chỉ dạy cho bạn diễn cách đóng vai ác sao cho hay: diễn ác
không nhất thiết phải hùng hổ, bởi nhiều người ác ở đời có cái mặt tươi rói. Với
cách nhìn đời sắc sảo, Điệp rút ra bài học cho giới nghệ sĩ: người nghệ sĩ nên tuỳ
vào sức của mình, không nên đánh đổi tình thương để lấy sự nghiệp. Suy nghĩ của
Điệp cho thấy dù là người nghệ sĩ say mê nghề nghiệp nhưng vẫn luôn tỉnh táo
trong khát vọng tình yêu và hạnh phúc.
Nghề hát tuy có nhiều bạc bẽo nhưng cái tình của người nghệ sĩ thì thật cao
đẹp và đáng để chúng ta trân trọng. Vì cái tình của người nghệ sĩ mà ông Chín Vũ
(Cuối mùa nhan sắc) đã lập ra nhà “Buổi chiều”, bỏ công tìm kiếm những người
nghệ sĩ già cả, không nơi nương tựa, để dắt họ về đoàn tụ với nhau, để được sống
yên ổn lúc cuối đời. Chiều chiều, họ tập hợp lại, hát ở mảnh sân trước nhà, cho
những khán giả trong xóm để thoả lòng mong nhớ sân khấu: “Sân khấu là cái hàng
ba trông ra sân rộng, luống nào trồng bông sao nhái, bông mười giờ thì trồng, chỗ
trống dành cho bà con ngồi. Dàn đờn gồm ghita thùng, cây nhị cũ mèm. Không
micrô, nghệ sĩ ca bằng giọng của trời cho nghiệp đãi”. Ngọn lửa say mê nghề
nghiệp vẫn luôn cháy sáng trong họ. Nếu không có nghệ thuật, cuộc đời họ trở nên
vô nghĩa.
Bởi yêu thương cũng là một câu chuyện tình đầy trắc trở của người nghệ sĩ.
63
Sáu Tâm yêu đào Điệp, hết lòng chăm sóc cho cô (dù Điệp hơn Sáu Tâm đến cả
chục tuổi). Cũng vì cứu Điệp khi sân khấu sập xuống mà Sáu Tâm bị thương và
phải cưa chân, vĩnh viễn từ bỏ nghiệp ca hát. Rồi những năm sân khấu cải lương
gặp nhiều khó khăn, đoàn tan rã, đào Điệp cũng phải bỏ nghề. Sáu Tâm hàng ngày
lang thang bán khăn ngoài đường, phục vụ nhà hàng, thậm chí cả bốc mả thuê, để
có tiền thuốc thang cho cái u quái ác của đào Điệp. Cái tình người nghệ sĩ ở đây
đáng để chúng ta trân trọng.
Khi viết về cuộc đời, số phận của những nhân vật lãng mạn, cô đơn, Nguyễn
Ngọc Tư không chỉ thể hiện những vẻ đẹp trong phẩm chất, tính cách của nhân vật
mà thông qua nỗi cô đơn của người nghệ sĩ trong nghề ca hát, Nguyễn Ngọc Tư còn
đề cập đến văn hoá Nam Bộ qua loại hình âm nhạc, nghệ thuật. Những nhân vật
Đào Hồng, Đào Phỉ, Chín Vũ, San, Diệu… đều là những con người đi theo nghề ca
hát, diễn xướng chèo, tuồng, cải lương và đây là những loại hình nghệ thuật rất phổ
biến ở vùng sông nước Nam Bộ. Nghệ thuật hát xướng là một món ăn tinh thần
không thể thiếu của người Nam Bộ. Vì thế khi viết về ngành nghệ thuật này, qua
lăng kính xây dựng nhân vật, Nguyễn Ngọc Tư đã thể hiện được chất Nam Bộ trong
sáng tác của mình. Chính vì là món ăn tinh thần không thể thiếu, mà những nhân vật
của Nguyễn Ngọc Tư khi đi theo con đường nghệ thuật đã không chần chừ mà vừa
sẵn sàng sống chết với nghề bỏ lại sau lưng những bon chen, trở ngại của cuộc sống
vừa nguyện dâng hiến hết mình bằng một lối sống chân chính, bằng sự nỗ lực
không ngừng nghỉ của bản thân.
Qua những trang viết về người nghệ sĩ miệt vườn, nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc
Tư đã thể hiện một cái nhìn cảm thông, vừa sâu sắc vừa nhân hậu. Chị đã cho người
đọc thấy đằng sau những vẻ đẹp hào nhoáng, rực rỡ của ánh đèn sân khấu là những
góc khuất trong tâm hồn của những người nghệ sĩ mà ánh đèn sân khấu không soi
rọi tới được. Đó là những khao khát được sống trong tình yêu, khao khát được làm
vợ, làm mẹ, được yêu… bên cạnh niềm say mê nghệ thuật. Nhưng có lẽ nghề
nghiệp đã không cho họ có được niềm vui trọn vẹn. Tuy nhiên, trên hành trình để
tìm đến với cái Đẹp, họ cũng giữ cho mình một giá trị riêng. Đó là tấm lòng của
64
những người nghệ sĩ chân chính nguyện sống chết với nghề.
2.4. Nhân vật vị tha, bao dung
Nhân vật vị tha, bao dung trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là những
con người hành hiệp trượng nghĩa - một nét đặc trưng trong phong cách văn
chương Nguyễn Ngọc Tư không chỉ khơi gợi được cái tình của người Nam Bộ
mặn mà, sâu đậm, những trang viết của chị còn khắc hoạ nét chất phác, thật thà
hồn hậu, cởi mở, yêu thương, tình nghĩa của họ. Họ sẵn sàng cưu mang, giúp đỡ
người khác mà không so tính thiệt hơn ngay cả khi cuộc sống hiện tại của họ cũng
gặp nhiều khó khăn, long đong, vất vả, vật lộn trong công cuộc mưu sinh.
Ở những truyện ngắn viết về tình yêu dang dở, người đọc sẽ bắt gặp hình ảnh
khi thì nhân vật nữ khi thì nhân vật nam có cách ứng xử rất cao thượng, sẵn sàng
hi sinh hạnh phúc của bản thân để vun đắp hạnh phúc cho người mình yêu. Nhân
vật Phi trong truyện ngắn Lí con sáo sang sông là một anh con trai hiền lành, chân
chất nhưng vì hoàn cảnh gia đình nghèo khó anh không dám xây dựng tổ ấm hạnh
phúc với người mình yêu thương. Anh sợ mình sẽ không mang lại cho người yêu
một cuộc sổng đủ đầy, hạnh phúc. Vì vậy anh hết lòng vun vén tìm kiếm hạnh
phúc mới cho người yêu với hành động đầy nghĩa khí khi chống xuồng xuống tận
nhà chồng tương lai của người yêu để tìm hiểu xem gia cảnh lai lịch người đó như
thế nào, sau đó về bảo người yêu mình “em lấy chồng đi”.
“Lần đó, bên chồng em qua hỏi, ba má em hẹn ba ngày trả lời. Trước đó, em
đã từ chối bốn mối rồi. Một mình em chạy máy đi lòng vòng kiếm anh Phi. Cực
khổ lắm. Kiếm được rồi hỏi ảnh tính sao? Ảnh kêu em về xong ảnh chạy tắt qua
Rau Dừa, dò hỏi kĩ bên chồng em. Hỏi từ ông già, bà già cho tới đứa con nít, xong
ảnh kêu em ra nói một câu: em lấy chồng đi!”.
Ông già chăn vịt trong Cái nhìn khắc khoải đã cưu mang người đàn bà bị
chồng bỏ rơi khi chị không biết đi đâu về đâu. “Chèo tới gần nhà ông thấy một
người phụ nữ ngồi dưới bực cỏ đợi tàu (…) Dưới ghe ngó lên, mặt người phụ nữ
buồn so, buồn như sắp đâm đầu xuống sông mà chết. Ông khập khựng cho ghe đi
tới. Qua khỏi đám lá, ông quạt chèo trở lại. Ông hỏi chị nọ đi đâu, chị khóc như
65
mưa bấc, “Tôi cũng không biết mình đi đâu”. Dù nghèo nhưng ông sẵn lòng giúp
đỡ chị, cho chị ở nhờ, luôn tôn trọng chị. Thấy chị làm nhiều việc, ông rầy la. Ông
dựng cho chị cái nhà tắm bằng lá dừa, mua cho chị đôi dép mới. Những tưởng hai
cuộc đời cô đơn ấy nương tựa vào nhau, đem đến cho nhau hạnh phúc bình dị:
“Những chiều lùa bầy vịt no căng từ ngoài đồng về, ông xúc tô cơm, ngồi ngoài
gốc cây vú sữa già đã cưa thành cái đôn, vừa ăn vừa nhìn cây chanh núm bắt đầu
ra trái. Dưới chân cầu ao, chị đang lật đít xoong chùi lọ nghẹ, cảnh chiều êm
đềm.”. Nhưng, biết chị vẫn nặng lòng với người chồng đã bỏ mình mà đi, ông cất
công tìm giúp, và chỉ nơi chồng chị ở để chị trở về đoàn tụ với chồng. Sau khi
giục chị đón tàu đi cho kịp, ông nhìn theo với cái nhìn khắc khoải. Hơn ai hết,
người đàn ông ấy cũng đang khao khát có một mái ấm gia đình, có một bàn tay
phụ nữ chăm sóc. Nhưng không vì lòng vị kỉ, ông nhận thấy chị vẫn nặng lòng với
mối tình cũ, rồi lại lo “biết đâu người ta có nỗi khổ gì”. Chấp nhận sự trớ trêu và
ngang trái cho riêng mình, ông đã để chị ra đi…
Nhân vật Lương trong Bến đò xóm Miễu cũng là người có mối thâm tình và
giàu lòng nghĩa hiệp. Dù hoàn cảnh rất nghèo, anh làm nghề chèo đò, nhưng Lương
đã yêu thương và lấy Bông làm vợ. Cho dù Lương từng chứng kiến tất cả những gì
Bông đã trải qua: nào bán bia, nào làm gái bao, nào đi với người này người nọ, cho
dù Bông còn là một người phụ nữ tật nguyền, không có khả năng làm vợ (“Một nửa
chi dưới bất toại”). “Người không biết qua bến, nhìn Bông xinh đẹp tươi hồng, rồi
nhìn cái mặt già háp của Lương mà lòng tiếc hùi hụi, tiếc đôi đũa mộc với cái mâm
son, tiếc bông lài trắng cắm bãi cứt trâu xanh. Người biết chuyện cười Lương
khùng, cưu mang một đứa con gái lỡ lầm còn thêm chuyện không có khả năng làm
vợ”. Hành động nghĩa hiệp ấy của Lương khiến mọi người băn khoăn đặt câu hỏi.
Nhưng anh sẵn sàng chấp nhận mọi thiệt thòi miễn sao đem lại niềm an ủi cho
Bông. Có lẽ chỉ trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư ta mới bắt gặp nhiều tấm
lòng trượng nghĩa như thế. Điều này có ý nghĩa nhân bản sâu sắc, đặc biệt là trong
xã hội hiện đại ngày nay, khi con người bị xoáy vào những vòng quay của cuộc đời,
họ có vô vàn những lí do để “bỏ qua” những nỗi bất hạnh của người khác. Nhưng
66
nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư đã dừng lại trước những cảnh đời éo le trước những
số phận cần được cưu mang để mở rộng vòng tay giúp đỡ họ.
Tấm lòng và tình cảm của ông Mười đối với dì Thấm và đứa con riêng của liệt
sĩ Nguyễn Thọ trong truyện Mối tình năm cũ đã gây bất ngờ và làm xúc động lòng
người. Khi đoàn làm phim tài liệu về liệt sĩ Nguyễn Thọ đến, ông Mười tìm mọi
cách để né tránh, kiên quyết không cho vợ tham gia. Thấy vợ mỗi lần mang tập thư
tình của liệt sĩ Nguyễn Thọ ra xem đều khóc trong đau khổ, ông giấu bà đem đốt tập
thư đi. Bà con lối xóm đều chê trách, cho rằng ông quá nhẫn tâm, ông ghen tuông
hẹp hòi, rằng ông phân biệt đối xử với con riêng của vợ… Ông lặng lẽ âm thầm,
chấp nhận mọi điều tiếng và mọi sự hiểu lầm, bởi ông yêu thương bà vô hạn, ông
muốn dạy dỗ con nên người. Ông sợ tất cả những kí ức xa xưa khơi dậy trong lòng
sẽ khiến bà đau khổ, mỗi lần động chạm đến, nỗi đau lại càng bị khoét sâu hơn. Chỉ
có đạo diễn Trần Hưng hiểu hành động của ông “như một con gà trống đang xù
lông thủ thế bảo vệ vợ con nó”. Khi cảm nhận được sự tri âm, thông cảm của trưởng
đoàn, ông sẵn sàng đưa vợ đến tận đoàn làm phim để tham gia. Cho đến khi “Dì
Thấm run rẩy nhìn những bức hình, hức lên một tiếng rồi rũ xuống như tàu chuối
héo”, người quay phim hướng vào khuôn mặt của dì Thấm “đang đầm đìa nước”,
“ông Mười vẫn nhẫn nại chấm chiếc khăn lên khuôn mặt chớm già của dì, không
nói gì hết, khuôn mặt bì sì của ông hơi dúm lại, dường như ông cũng đau lắm, xót
lắm”, thì mọi người mới vỡ lẽ. Ông Mười chấp nhận sự hiểu lầm, không thanh
minh, không nhiều lời. Bởi với ông, sự hiểu lầm ấy không quan trọng bằng việc tìm
lại được “nụ cười nhẹ nhõm đậu trên khuôn mặt nhẹ nhõm, vô tư lự của dì”, miễn
sao vợ con ông được hạnh phúc.
Nhân vật “má tôi” trong Dòng nhớ khiến cho người đọc không khỏi băn
khoăn và ngạc nhiên đến thán phục. Hiếm có người nào được như vậy, bà đi khắp
các bến sông để tìm lại người vợ cũ cho chồng mình: “Tôi hỏi má tìm làm gì, má tôi
nói để cho hai người gặp lại, coi thần trí ba mầy có đỡ hơn không. Bây giờ thì ba
tôi cũng nằm xuống (…) Má tôi vẫn không ngừng tìm kiếm dì, hỏi để làm gì, má tôi
nói để cho dì hay và nói với dì, nếu sống mà không gần được, chừng nào chết, mời
67
dì lên nằm trên đất vườn tôi.” . “Má tôi” đã quên đi nỗi đau của bản thân, vượt lên
sự oán hận, ghen tuông để cất công đi tìm dì. Trong tâm can, bà mong việc làm ấy
phần nào an ủi được hai con người suốt đời yêu thương nhau mà đành đoạn phải xa
cách, chia lìa. Bà còn muốn người vợ cũ của chồng, khi mất, sẽ lên nằm cạnh chồng
mình để linh hồn ông bớt dằn vặt mà ngóng trông đau đáu về phía dòng sông miên
man chảy. Bản thân bà đã nén chặt những ngậm ngùi trong lòng để đem lại niềm
thanh thản cho người khác.
Nước chảy mây trôi cũng là một câu chuyện tình ngang trái và cảm động của
cô học trò tên Diệp. Diệp yêu thầy Nhiên, nhưng thầy lại yêu mẹ Diệp, nên khi cô
gọi tiếng “ba” mà lòng trào dâng cảm xúc của tình yêu. Cô quyết định đi xa để cho
những người mình thương yêu được hạnh phúc trọn vẹn. Là cô gái trẻ mộng mơ,
nhưng Diệp tỏ ra trưởng thành trong suy nghĩ khi cô ý thức rằng: “nếu phải đi xa để
những điều tốt đẹp còn nguyên lành mãi thì cũng đáng lắm chứ.” Quả thật con
người đôi khi không thể sống hồn nhiên trong cuộc đời này như “nước chảy mây
trôi”, mà chúng ta phải chấp nhận hi sinh, trả giá để có được hạnh phúc và giữ gìn
hạnh phúc.
Trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nhân vật sống hết mình vì người khác
không thể hiện qua tình yêu, sự hi sinh giữa người này đối với người kia mà còn
được thể hiện qua cách ứng xử giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng. Tiêu biểu
cho vấn đề này là những truyện ngắn như: Qua cầu nhớ người, Ngọn đèn không
tắt, Mối tình năm cũ, Ngày đã qua, Làm mẹ, Một dòng xuôi mải miết, Đau gì
như thể, Lỡ mùa…
Trong Qua cầu nhớ người, Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng nhân vật Hai Nhớ
rất đúng với bản chất của một anh “Hai lúa” Nam Bộ. Hai Nhớ tuy sống ở thôn
quê, nghèo khó, ít học nhưng rất trọng tình nghĩa; chung thủy “trước sau như
một”, đã thương ai là “thương lấy thương được, lúc bỏ thì bỏ không đành”. Đặc
biệt trong quan hệ với xóm làng, Hai Nhớ là một người “dám nghĩ dám làm”, lúc
nào cũng sống hết mình vì người khác. Tuy bản thân học hành không tới đâu,
cũng “không có tài năng nào đặc biệt” nhưng Hai Nhớ đã không ngại ngần “cầm
68
cố hết đất, vườn” của mình để có tiền bắc cây cầu cho bà con trong xã Đội Đỏ đi
lại dễ dàng.
“Mười tám tuổi, anh Hai đã nổi tiếng dám nghĩ dám làm. Quen chị Nhiễm
biết chị thích tân cổ, anh đi đào đất mướn, sắm cái loa sắt mắc lên ngọn tràm
bông vàng, chiều chiều mở casett cho Minh Vương, Lệ Thủy ca bài “Duyên kiếp”
lồng lộng trời Đội Đỏ. Cưới nhau rồi, anh đổi hai chục giạ lúa lấy cây đàn để gảy
từng tưng cho chị nghe chơi. Rồi anh đổi năm công ruộng để lấy chiếc máy suốt,
đổi những ngày êm đềm bên người vợ trẻ để lang thang giữa đồng khơi, những
mong cuộc sống sẽ khá lên… Lần này làm cầu, anh Hai biết mình sẽ phải hi sinh,
sẽ phải đánh đổi nhiều thứ lắm. Anh về nhà thưa với má đừng buồn, anh sẽ đứng
ra bắc cây cầu qua Đội Đỏ…”
Nếu ở Qua cầu nhớ người, sự hi sinh của một cá nhân mang lại lợi ích cho
cộng đồng được giới hạn trong phạm vi hẹp là một xã, thì ở truyện Ngọn đèn
không tắt hay Mối tình năm cũ… phạm vi được mở rộng ra cho cả dân tộc. Có
thể thấy, trong Ngọn đèn không tắt đó là tấm lòng của từng con người qua từng
thế hệ trong gia đình ông Hai Tương (Tư Lai, Tươi) dành cho những anh hùng liệt
sĩ – những người đã ngã xuống vì độc lập, tự do cho quê hương xứ sở. Công việc
hàng năm đi kể chuyện lịch sử quê hương của gia đình ông Hai Tương là việc làm
tuy nhỏ nhưng mang một ý nghĩa vô cùng lớn lao là: quyết giữ mãi ngọn lửa
truyền thống đấu tranh giữ nước của cha ông; để “ngọn đèn” lịch sử của dân tộc,
của cha ông cháy mãi, sáng mãi trong tâm hồn của thế hệ mai sau.
Bên cạnh những con người sẵn sàng cưu mang, che chở cho người khác
những lúc khó khăn hoạn nạn, những lúc “sa cơ lỡ vận”, người đọc còn bắt gặp
những con người có tấm lòng bao dung, độ lượng biết tha thứ cho những lỗi lầm
của người khác. Có thể thấy, mặc dù phải hứng chịu không biết bao nhiêu là nỗi
nhọc nhằn, cay đắng, thế nhưng qua những suy nghĩ của nhân vật Nương ở đoạn kết
của Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư đã gửi đến tất cả mọi người một thông
điệp làm người rất đáng để suy ngẫm, đó là: hãy yêu thương và tha thứ cho mọi
người. Nguyễn Ngọc Tư viết: “Đứa con gái thoáng nghĩ, rớt nước mắt, trời ơi, có
69
thể mình sẽ sinh con. Nhưng nó chấp nhận việc ấy, dù phũ phàng (với nó, chấp
nhận cũng là một thói quen). Đứa bé đó, nhất định nó sẽ đặt tên là Thương, là Nhớ
hay Dịu, Xuyến, Hương… Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ
tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, là trẻ con đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người
lớn.”
Ông Tư Nhớ trong truyện ngắn Đau gì như thể đã mở rộng vòng tay để cưu
mang cô Cúc và đứa con trong bụng cô. Không những cưu mang cô Cúc lúc bụng
mang dạ chửa, mà ngay cả khi Cúc bỏ ông ra ngoài xóm chợ, ông lại cưu mang đùm
bọc Nga - con gái của cô. Khi Nga có thai, dân làng đàm tiếu, ông bị đổ cho cái
tiếng là cha dượng hại đời con riêng của vợ: “Có người chưa đi qua cái miễu ông Tà
đã cười cợt bàn với nhau, hỏng biết thằng nhỏ kêu ông Tư Nhỏ là gì ha, là ngoại
hay là cha”. Có người kéo đến thăm chưa kịp nhìn đứa trẻ, nắc nẻ khen liền: “Trời
ơi, thiệt là giống chú Tư quá he.” Ông nổi quạu đùng đùng, “uất ức, trơ cứng cả
quai hàm” nhưng vẫn không hề oán giận hay trách mắng Nga. Ông hết lòng lo lắng,
động viên Nga trong những lúc khó khăn nhất, “Ba sợ bây làm chuyện dại, rồi lặng
đi một chút, ông thầm thì như nói với chính mình, người ta có ác miệng cỡ nào cũng
ráng mà sống nghen con.” Ông đối xử với Nga và với đứa con của cô rất tốt. Dù
biết Nga không phải con mình, nhưng người cha dượng vẫn yêu thương con của vợ
hết lòng, hơn cả người mẹ đẻ của cô. Nga cảm nhận được tình cảm mà cha dượng
dành chô cô, bởi vậy mà Nga vẫn ở lại với ông già Tư Nhỏ khi mẹ cô bỏ ông ra
sống ngoài xóm chợ. Trái tim nhân hậu bao dung và hành động nghĩa hiệp của ông
không phải ai cũng có thể hiểu và có thể làm được.
Hơn thế, nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư còn thường nghĩ tốt cho người khác,
tìm cách biện minh cho những lỗi lầm của người khác. Suy nghĩ của Tiên trong
truyện ngắn Nửa mùa khiến người đọc vừa giận lại vừa thương. Giận vì cô bị tay
nhạc sĩ phụ bạc mà vẫn một lòng nghĩ tốt cho hắn ta. Hoàn cảnh Tiên nghèo rớt
mùng tơi, cô không có nhà để ở, phải sống nhờ dưới mái hiên nhà người khác, cô
phải kiếm sống bằng đủ mọi nghề nặng nhọc. Nay, cái gánh ấy càng trở nên nặng
nhọc đến mức quá sức khi cô phải làm để nuôi thêm cả tên nhạc sĩ, để hắn có những
70
bữa ăn ngon, có quần áo đẹp, nhà cửa sạch sẽ. Tiên thấy: “đời này, kiếp này, mình
phải có nhiệm vụ che chở, bao bọc cho anh, chứ anh mảnh khảnh nho nhã thế kia
sao để lấm lem bụi đời.” Tên nhạc sĩ khi đã trở nên nổi tiếng rồi, hắn bỗng thấy ghê
tởm Tiên, thấy Tiên xấu xí, thô kệch và quê mùa. Ấy vậy mà cô không hề oán trách.
Suy nghĩ của cô là: hắn đã rời bỏ cô vì không muốn cô phải vất vả chứ không phải
vì bây giờ hắn nổi tiếng, giàu sang mà quên người đã cưu mang mình; và rằng hắn
cũng vô cùng đau khổ, dằn vặt khi phải làm như vậy: “Trong nó chỉ còn tràn ngập
những nỗi niềm thương nhớ…chắc là anh mặc cảm, anh không muốn làm gánh
nặng cho nó nên anh mới ra đi. Chắc là anh không dùng cách giả đò thân mật với
các cô gái khác vì sợ làm tan nát lòng nó… Tiên phải đi tìm anh, dù ở cùng trời
cuối đất, để nói với anh rằng nó có thấy nặng nề, cực nhọc gì đâu, cả nghĩ tới điều
đó nó còn không mảy may nữa là.” Tình thương yêu và sự bao bọc chở che, hi sinh
cho người mình yêu đã khiến tâm trí Tiên trở nên mù quáng, không còn chỗ cho sự
hờn giận, oán trách. Cho dù cô phải chịu nhiều vất vả, thiệt thòi, nhưng với tấm
chân tình vô tư, trong sáng, độ lượng, cô chỉ thấy cuộc đời này là một màu hồng,
chỉ thấy những điểm tốt của người khác. Hay có phải vì tình yêu mê muội đã khiến
cô khờ dại, không còn nhận ra bản chất của kẻ xấu, sự thay đổi của lòng người ?
Nguyễn Ngọc Tư đã khéo léo dẫn dắt người đọc đi qua từng chi tiết bằng những lập
luận hợp lí, để chúng ta thấy sự nhẹ dạ, cả tin, xả thân đến mức dại khờ của nhân
vật là hoàn toàn có lí. Đây cũng là nét tính cách nổi bật của con người Nam Bộ: đã
yêu thì yêu hết mình, đã tin thì tin mãnh liệt. Trong thế giới nhân vật truyện Nguyễn
Ngọc Tư, ta bắt gặp hình ảnh những con người giàu lòng trượng nghĩa, khi gặp
những số phận bất hạnh, những mảnh đời éo le, họ sẵn sàng cưu mang giúp đỡ mà
không so tính thiệt hơn. Tấm lòng hào hiệp tồn tại như một nét tính cách đặc trưng
của con người Nam Bộ. Nguyễn Ngọc Tư đã khắc hoạ thành công nét đẹp tâm hồn
ấy như một đặc trưng của người dân Nam Bộ qua những trang viết của mình.
Một điểm độc đáo và tạo nên một chất riêng trong phong cách của Nguyễn
Ngọc Tư là xây dựng hình tượng nhân vật biết cách sống “buông bỏ” và không cố
nắm giữ những gì không thuộc về mình, không phải của mình; phải biết “độ lượng”
71
với chính mình để thanh thản hơn trong cuộc sống. Vấn đề này thể hiện rõ nhất là ở
truyện Chuồn chuồn đạp nước và Sầu trên đỉnh Puvan.
Qua lối sống và cách ứng xử của những nhân vật vị tha, bao dung trong
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, ta thấy được mô típ những con người hành
hiệp, trượng nghĩa - một nét đặc trưng trong tính cách của con người Nam Bộ. Điều
này chúng ta cũng dễ dàng bắt gặp trong sáng tác của một số nhà văn Nam Bộ thế
hệ trước: Hồ Biểu Chánh, Đoàn Giỏi, Sơn Nam… Văn chương Nguyễn Ngọc Tư
không chỉ khơi gợi được cái tình của người Nam Bộ mặn mà, sâu đậm, những trang
viết của chị còn khắc hoạ nét chất phác, thật thà, hồn hậu, cởi mở, yêu thương, tình
nghĩa của họ. Họ có lối ứng xử, hành hiệp trượng nghĩa một cách rất tự nhiên, như
là một bản chất vốn có, coi đó là phép ứng xử thường nhật của họ. Đó như là một
nét tính cách đặc trưng của con người Nam Bộ. Nguyễn Ngọc Tư đã khắc hoạ
thành công nét đẹp tâm hồn ấy như một đặc trưng của người dân Nam Bộ qua
những trang viết của mình.
Tiểu kết
Gần như hầu hết các nhân vật trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư là những
con người lao động bình thường vùng đồng bằng sông Cửu Long. Cuộc sống đời
thường với những con người lao động bình thường làm nên thế giới nghệ thuật của
Nguyễn Ngọc Tư, có thể gọi là một “cảm quan đời thường” trong văn học. Với
một tấm lòng nhân hậu, yêu thương và đồng cảm sâu sắc, cùng với sự quan sát
tinh tế, Nguyễn Ngọc Tư đã tái hiện bức tranh đời sống của những người lao động
nghèo khó trên vùng đất Nam Bộ - quê hương của chị. Họ không chỉ nghèo khổ
mà còn gặp nhiều éo le ngang trái, khiến cho cuộc sống vốn đã vất vả lại càng
thêm túng quẫn. Tuy nhiên, đằng sau mỗi số phận éo le, ngang trái ấy luôn hiện
lên một niềm tin, niềm hy vọng vào cuộc sống sẽ đổi khác. Nhà văn đã chạm vào
những mảng tối của xã hội, những góc khuất trong tâm hồn của con người để
hướng tới một chân trời mơ ước, biến mọi đau thương, khổ cực thành hạnh phúc.
Trong những tình cảnh éo le, ngang trái, Nguyễn Ngọc Tư đã để nhân vật tự bộc
lộ những tâm tư, suy nghĩ, của mình tự có những cách ứng xử...từ đó làm nổi bật
72
tinh thần lạc quan và nghị lực vượt lên trên số phận. Vì vậy những trang viết của
Nguyễn Ngọc Tư đậm màu sắc hiện thực, nóng hổi chất đời thường như những
trang kí sự chân thực, của một tấm lòng đôn hậu, một tài năng sắc bén và một bản
73
lĩnh cứng cỏi của người cầm bút.
Chƣơng 3
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA
NGUYỄN NGỌC TƢ
Miêu tả con người, đó chính là công việc chủ yếu trong nhiệm vụ xây dựng
nhân vật của nhà văn. Cũng như nhiều tác giả khác, Nguyễn Ngọc Tư đã chọn lựa
một số biện pháp nghệ thuật thuộc sở trường của mình để tạo nên một thế giới nhân
vật phong phú và độc đáo. Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng nhân vật của mình qua
các đặc điểm về ngoại hình, tính cách, tâm lý, ngôn ngữ, hành động, … Qua những
yếu tố đó, người đọc thấy được chất Nam Bộ đặc quánh trong mỗi trang văn của
chị.
3.1. Nghệ thuật sử dụng chi tiết
Trong truyện ngắn, nhân vật thường có số lượng ít, chỉ xuất hiện trong các
tình huống nên bản thân nhân vật rất đa dạng và linh hoạt. Bởi truyện ngắn chỉ miêu
tả một đoạn đời của nhân vật, thậm chí một vài thời điểm ngắn ngủi, nên nó đòi hỏi
phải chọn lọc chi tiết. Chi tiết nghệ thuật là vật liệu xây dựng, làm tiền đề cho cốt
truyện phát triển. Nên có nhiều truyện ngắn, mặc dù không có một cốt truyện rõ
ràng, tiêu biểu nhưng vẫn tạo được ấn tượng với độc giả là nhờ vào chi tiết hay. Nhà
văn sử dụng chi tiết để miêu tả ngoại hình, nội tâm, hành động của nhân vật, cũng
như những cảnh vật, sự kiện có liên quan đến nhân vật đó. Các chi tiết được sắp
xếp, bố trí thật chặt chẽ, không thừa, không thiếu, có một quá trình phát triển lô-gic.
Truyện ngắn có thể có cốt truyện hoặc không có cốt truyện nhưng nhất thiết không
thể không có chi tiết. Chính nhờ vai trò quan trọng của chi tiết mà không khí, cảnh
trí, tình huống, tính cách, hành động, tâm tư, số phận của nhân vật được bộc lộ đầy
đủ. Cũng chính nhờ vai trò dẫn dắt câu chuyện của chi tiết mà truyện ngắn trở nên
hấp dẫn độc giả. Đồng thời chi tiết cũng giúp người đọc hiểu được chủ đề, tư tưởng
nghệ thuật tác phẩm, qua đó bộc lộ rõ quan điểm nghệ thuật của nhà văn.
Nhà văn Nguyễn Công Hoan từng có những nhận xét về vai trò của chi tiết: “Truyện
ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết.” Bản thân
74
nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cũng từng có ý kiến: “Truyện ngắn có thể có cốt truyện,
thậm chí là cốt truyện li kì, gay cấn, kể được. Truyện ngắn có thể chẳng có cốt
truyện gì cả, không kể được nhưng truyện ngắn không thể nghèo chi tiết. Nó sẽ như
nước lã.” Chính vì thế, trong các tác phẩm truyện ngắn, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư
đã rất tinh tế trong việc lựa chọn và sáng tạo chi tiết, do đó những truyện ngắn của
chị mặc dù chỉ viết xoay quanh cuộc sống sinh hoạt trong gia đình, làng xóm nhưng
vẫn không tạo cho người đọc cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Nét đặc trưng trong
các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư là những câu chuyện đời thường luôn có những
“chi tiết phát sáng” làm nên giá trị cho tác phẩm.
Trước hết, chi tiết trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư có vai trò khắc
họa rõ nét hành động qua đó làm nổi bật đời sống nội tâm, tính cách và phẩm chất
của nhân vật. Trong truyện Cái nhìn khắc khoải, khoảnh khắc ông lão đang quay
lưng (vì sợ phải đối diện với sự thật là người phụ nữ có chồng rồi) bỗng “ông không
nén được mắc ngoái nhìn” vì nghe “Gió lùa lao xao trên những tàu lá chuối. Tiếng
lá khô vỡ giòn giống hệt bước chân ai vậy.” chính là chi tiết “lật tẩy” ông già, phơi
bầy ra ánh sáng tình cảm yêu thương mà ông đã ra sức che giấu đối với người phụ
nữ. Chính “cái nhìn khắc khoải” đã tạo nên thần thái của ông già và nội tâm của ông
bộc lộ rõ ràng nhất, dữ dội nhất ngay trong ánh nhìn yêu thương mong chờ, như
tuyệt vọng đó. Có lẽ đó cũng chính là lý do vì sao Nguyễn Ngọc Tư chọn chi tiết
này là tựa đề cho cả truyện ngắn. Bên cạnh đó, những chi tiết khác trong truyện
cũng cho thấy sự am hiểu của chị hết sức tường tận về vùng đất đồng bằng và tâm lí
của con người Nam Bộ từng trải này:
“Tháng chín. Gió chướng non xập xòe trên ngọn dừa. Ông trở về kinh Mười
Hai, quê ruột của ông. Chèo gần tới nhà ông thấy một người phụ nữ ngồi dưới bực
cỏ đợi tàu. Chiều rồi, tàu cuối chạy lúc ba giờ rưỡi đi qua đã lâu lắm. Dưới ghe
ngó lên, mặt người phụ nữ buồn so, buồn như sắp đâm đầu xuống sông mà chết.
Ông khập khựng cho ghe đi tới. Qua khỏi đám lá, ông quạt chèo trở lại. Ông hỏi chị
nọ đi đâu, chị khóc như mưa bấc, “Tôi cũng không biết mình đi đâu”. Lãng xẹt vậy
đó. Ông ngại ngần ngó những tia nắng đỏ cuối cùng đậu phía đám dừa nước:
75
- Cô có sao không?
Người phụ nữ lắc đầu. Ông biểu chị xuống ghe cho quá giang. Chị vẫn khóc.
- Tôi biết đi đâu mà quá giang bây giờ. Hay... làm ơn cho tôi theo anh đêm
nay nghen.
Ông suy nghĩ rất lâu và trả lời một câu nhỏ xíu trong khi tụi vịt đạp đầu chen
nhau dưới sạp bằng tre đóng thưa thớt rộ lên lạc cạc inh ỏi. Đôi chân đàn bà dè dặt
bỏ xuống đầu ghe, con Cộc cúi đầu không nói không rằng lùi lũi lại tính mổ một cái
vô chân chị mừng chơi nhưng ông la: “Cộc! Bị đòn nghen mậy”. Nó dừng lại, đủng
đỉnh quay đi. Chị khịt mũi cái sột, lau nước mắt kêu: “Trời, vịt gì mà khôn quá
vậy?”. Con vịt ngoắc ngoắc cái đầu lại, ý nói, vịt xiêm chớ vịt gì, thiệt tình.”.
Chi tiết “Trời ơi ! Anh ! Ai lấy xuồng mình rồi. Mất hết rồi.” trong truyện ngắn
Một chuyện hẹn hò giống như một “biến cố” góp phần làm thay đổi câu chuyện.
Nó đã bộc lộ cách cư xử hời hợt, vô tâm của người đàn ông đối với người đàn bà.
Và cũng từ chuyện xuồng trôi đâu mất mà người đàn bà sẽ liều mình trở về nhà, bất
chấp cái chết, để đảm bảo danh dự cho con. Hay chi tiết ánh dao loé lên trong đêm
tối ở cua Bún Bò, tuy không giết được Hậu, nhưng đã giết chết trái tim, tình yêu và
hạnh phúc của chị trong truyện Một trái tim khô.
Trong truyện ngắn Nhà cổ, nhà văn có sử dụng những chi tiết chắt lọc kèm
theo những lời bình luận, nhận xét ngắn gọn để cho người đọc nhận diện được tính
cách, bản chất của từng con người trong “Nhân Phủ” tại làng cổ Phương Điền:
“Năm tôi mười sáu tuổi, qua bên đó chơi, biết hai anh đều lặng lẽ để bụng
thương chị Thể mất rồi. Chị Thể mồ côi, từ nhỏ về ở nhờ trong “Nhân Phủ”, đẹp
nết, đẹp người. Sinh thời, má anh Hải hay nắm tay trìu mến, “Má có hai thằng con
trai, chừng nào lớn, bây chọn một đứa, làm con dâu má nghen”. Chị Thể chỉ cười
cười, không nói. Chị hiền, dịu dàng như chiếc lá me, con trai xóm khác gặp một lần
còn nhớ, huống chi ba người họ lớn lên cùng nhau... nhưng nhường qua nhường lại
hoài, mãi không ai mở lời. Chú em nhịn ăn sáng, ốm ròm, mặt mày xanh ẻo cắc củm
dành tiền tha về cho chị Thể nào kẹp tóc, vòng bạc, dép, giày... Ông anh chẳng mua
gì, nhưng thấy chị vo cơm thì nhảy vào thổi lửa, thấy chị sắp giặt đồ, anh xách nước
76
để sẵn mấy thùng. Những buổi sớm mai, hai người cùng nhau xào nhân, nhồi bột,
hấp bánh bao. Khói quây lấy cả hai, khói thơm ngây dại mùi lá dứa. Người em thức
sớm học bài, thấy cảnh đó, đọc lung tung những câu chẳng có nghĩa gì.”
Trong truyện Làm má đâu có dễ, nhân vật chị Diệu thật đáng thương. Là má,
nhưng chị chưa bao giờ được con gọi bằng tiếng “má” bởi chị đã để con ở lại cho
mẹ nuôi, đi theo niềm đam mê ca hát, thực hiện ước mơ trở thành một cô đào hát
nổi tiếng. Nổi niềm đau đớn khi chị bỏ con chạy theo ước mơ chính là việc con gái
chị không bao giờ nhận chị là má khiến cho nhiều lần đứng trên sân khấu lòng chị
đau tê tái khi bạn diễn gọi mình là “má”. Tiếng gọi ấy đã đánh thức nỗi đau dai
dẳng, sâu kín trong lòng cô đào hát. Hết băn khoăn, rồi chị thật sự hối hận, quyết
định từ bỏ ánh đèn sân khấu để trở về “làm má” đích thực. Nhưng San, con chị, đã
coi chị như người dưng, như một người khách đến nhà chơi “Ủa, chế mới về hả?
Hồi sáng này em nấu nước, nghe lửa cười, biết thể nào cũng có khách, hỏng dè là
chế”. Nỗi đau bao năm nay càng trở nên đau đớn, quặn thắt hơn “Chị nghe niềm vui
như ngọn đèn vừa bị thổi chao ngọn, San ơi, má là khách sao, má mà là khách à,
con?”. Chỉ một chi tiết này thôi người đọc thấy được nỗi đau dồn nén của một
người mẹ trước sự lạnh lùng của đứa con. Đó là nỗi bất hạnh, là sự mất mát dường
như chị không bao giờ có thể lấy lại được, cũng không bao giờ có thể khỏa lấp
được. Chính vì vậy, nó tạo ra sức ám ảnh đối với người đọc.
Cũng nhờ tài xây dựng chi tiết, Nguyễn Ngọc Tư đã diễn tả sâu sắc nỗi cô
đơn, buồn tủi của nhân vật Sáu Đèo qua đoạn tâm sự của ông về việc làm nghề bán
vé số, về con bìm bịp và cuộc đời trong truyện ngắn Biển người mênh mông. Chi
tiết đã khắc họa được hình ảnh một con người Nam Bộ với nghề sông nước đã trở
thành cái “nghiệp chướng” mà dù không còn khả năng phải lên bờ, ông vẫn cố ráng
giữ một kỉ niệm của vùng sông nước là “con bìm bịp”. Những nhận xét của ông già
Nam Bộ này khiến cho ta phải suy nghĩ lâu hơn về nhiều lẽ của cuộc đời, về một
lớp người Nam Bộ có tính cách “giang hồ, phóng khoáng, nặng ân nghĩa”: “Đừng
nuôi sáo, nuôi sáo kết cục rồi cũng chia li hà, nó hay sổ lồng, chết yểu. Kiếm thứ
dân dã mà nuôi, để nhớ quê, nhớ gốc rễ mình, để đi đâu cũng muốn về nhà. Như
77
qua, nhiều lúc phò con bìm bịp nầy như phò bà già vợ vậy mà vui”. Đi bán ở đâu,
lâu lâu ông cũng tạt về nhà, quăng mấy con cá ươn cho “con quỷ sứ”, xong rồi từ
giã, “Tía đi nghen”. Trời mưa dầm, ông già đội áo đi kiếm cóc, rắn mối cho nó ăn.
Vui buồn gì cũng tía tía con con. Có đêm con bìm bịp kêu suốt, những tiếng bịp bịp
ngắn ngủn buồn thiu thỉu, ông bảo với Phi, nó nhớ sông đó. “Lúc nào qua thấy nhớ
sông nó đều kêu như vậy”. Ông kể, hồi trẻ, ông toàn sống trên sông, ông có chiếc
ghe, hai vợ chồng lang thang xứ này xứ nọ. “Gặp mùa lúa thì gặt mướn, gặp vịt bầy
đổi đồng thì chở thuê, gặp rẫy bí, rẫy khóm thì mua về bán lại chợ nổi Cà Mau,
nước ngược cắm sào đậu lại thổi cơm, bìm bịp kêu, nước bò lên bãi ông cho ghe ra
bến. Cuộc sống nghèo vậy mà vui lắm.”. Hay chi tiết sau khi ông Sáu Đèo đi mất
không trở lại, cũng không còn ai nhắc nhở Phi cắt tóc nữa đã khơi gợi sự lẻ loi, cô
đơn đến tận cùng của anh khi ở giữa biển người cô đơn. Như vậy, không cần biến
cố, hay khắc sâu những diễn biến nội tâm, chỉ bằng một chi tiết nhỏ, Nguyễn Ngọc
Tư đã khơi đúng cái mạch ngầm tâm trạng của nhân vật, thức dậy sự đồng cảm ở
mỗi người đọc đối với Phi.
Góp phần làm nên thành công cho truyện ngắn Cánh đồng bất tận, đánh dấu
sự đổi mới trong hành trình sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư chính là những chi tiết
đầy ám ảnh. Câu chuyện về hai chị em Nương và Điền sống trong sự thù hận của
người cha khi bị vợ mình phản bội thật đáng thương. Sống lang thang nay đây mai
đó hai đứa trẻ như cỏ cây hoang dại, chúng phải tự học đủ thứ, không biết thì thử,
không hiểu thì chất thành khối trong lòng. Và nhiều khi để hiểu được một vấn đề
nào đó chúng phải trả một giá rất cao. Chi tiết thằng Điền tìm được một cây ô môi
nhỏ và hai chị em trồng cây, nhìn thấy cây bén rễ đã ao ước “Ước gì đây là đất của
mình” thật đáng thương. Sống xa con người, lênh đênh khắp đồng này đến bãi kia,
hai đứa trẻ khao khát được sống như con người bình thường. Rồi đến chi tiết về lần
đầu tiên Nương ra máu tháng thật xót xa: “Máu chảy giữa hai đùi không tạnh được,
tôi thụp xuống, bụm chỗ ấy lại. Máu từ từ chảy qua kẽ tay, tôi thấy mình rỗng ra, tái
nhợt chết dần. Thằng Điền vói bứt đọt chuối, tọng vào miệng nhai ngốn ngấu, điên
dại, để lấy bả rịt lại chỗ máu. Thuốc gò nghe nói cầm máu rất tốt, cũng chẳng ăn
78
thua. Hai đứa nhìn nhau khóc, tôi đã mơ thấy ngôi mộ của mình, như chiếc giường
giữa bốn bề đồng nước…”. Thật tội nghiệp cho đứa con gái dậy thì thiếu tình
thương và sự chỉ bảo của người mẹ. Có những điều người ta chỉ gặp một lần trong
đời, nên sự trải nghiệm đối với hai đứa trẻ trong truyện cũng không giúp được gì
cho chúng. Bởi cái mà chúng cần là tình yêu thương, là cuộc sống thực sự của con
người lại là điều khó lòng mà chúng có được. Trong tác phẩm còn một chi tiết làm
cho người đọc không khỏi xúc động, đó là chi tiết cô bé Nương hay tìm đến con vịt
mù trong đàn để trút hết những nỗi niềm tâm sự, mong tìm được sự cảm thông chia
sẻ. Đây là một chi tiết đắt giá làm người đọc phải giật mình về mối quan hệ lỏng
lẻo, xa lạ giữa người với người trong cuộc sống. Cái nghèo cái đói về vật chất, về
miếng cơm manh áo đối với người nông dân bây giờ là chuyện rất… bình thường
nhưng cái nghèo, cái đói về mặt tình cảm, nỗi thiếu thốn về chữ tình, chữ nghĩa, sự
giả dối trong đối xử giữa người với người mới là điều quá sức.
Cuộc sống sinh hoạt đời thường, bình dị, của những người dân Nam Bộ còn
được thể hiện qua những chi tiết gợi không gian văn hóa sông nước đặc trưng. Đó là
cảnh những người đàn bà ngồi giặt giũ dưới bến sông, hình ảnh họ mang xoong
chảo ra bực sông chùi lọ nghẹ, săn đón ghe hàng bông, mua rau, và bán lại những
quày chuối chín trong vườn. Rồi những cảnh đi xem biểu diễn cải lương trên
những sân khấu tự dựng, hình ảnh chàng trai nằm trên ghe ca vọng cổ...Hay cảnh
nằm đu đưa, thò tay có thể hái xoài ăn, nghe chim hót trong vườn, nghe cá quẫy
dưới mương, ngắm vườn kiểng rồi ngủ thiếp lúc nào không hay. Tỉnh dậy thì ăn cá
lóc nướng trui với nước mắm me, rượu đế nếp than, chơi đàn kìm... Những chi tiết
đó thể hiện lối sinh hoạt của người dân miền Tây sông nước, góp phần hình thành
nên tính cách con người Nam Bộ nói chung và tạo nên chất Nam Bộ trong phong
cách sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.
Bên cạnh việc sử dụng những chi tiết gợi tả cuộc sống đơn sơ, mộc mạc,
Nguyễn Ngọc Tư còn phơi bày hiện thực cuộc sống nông thôn Nam Bộ với cái
nghèo, cái đói luôn quẩn quanh qua những chi tiết “vô tình” khiến người đọc dễ
hình dung về một cuộc sống thiếu thốn vật chất. Đó là những “ngôi nhà lá cũ
79
mèm” mà mỗi mùa gió chướng đều là nỗi lo vì không biết nó sẽ sập lúc nào, “cái
lồng bàn bằng tre đậy mâm cơm được lợp thêm một lớp vải, nếu không mọt trên
trần nhà rắc xuống như người ta rắc tiêu xay, mấy bộ ván mọt gặm lởm chởm, đi
trong nhà luôn phải đề phòng nước rớt, mấy cây cột bị mối gặm lam nham, búng
ngón tay nghe kêu bộp bộp...”. Cái nghèo hiện lên qua những vật dụng cũ kĩ, lạc
hậu hoàn toàn xa lạ với xã hội hiện đại: cái bình trà sứt vòi, cái lu đựng nước mưa,
cái nhà tắm làm bằng lá dừa, chiếc ti vi đen trắng mỗi lần mở phải đập thùm thùm;
vài xâu cốm gạo treo trên vách, mấy hũ kẹo, bánh ngọt, tiêu tỏi để bên nầy, trái
cây như khóm, bí rợ, khoai lang thì chất thành hàng bên kia; qua lối sinh hoạt kiểu
ăn đong hàng ngày: mỗi chiều về mua một ngàn mỡ nước, năm trăm bột ngọt, năm
trăm tỏi, năm trăm tiêu; qua những “gia tài” chỉ là gánh chè rong, chiếc xe kẹo
kéo, đàn vịt, chiếc ghe nhỏ....
Chính vì thế, trong các tác phẩm truyện ngắn, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã
rất tinh tế trong việc lựa chọn và sáng tạo chi tiết, do đó những truyện ngắn của chị
mặc dù chỉ viết xoay quanh cuộc sống sinh hoạt trong gia đình, làng xóm nhưng vẫn
không tạo cho người đọc cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Nét đặc trưng trong các
sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư là những câu chuyện đời thường luôn có những “chi
tiết phát sáng” làm nên sự sinh động, sức sống và giá trị cho tác phẩm.
3.2. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình, hành động
Miêu tả ngoại hình và hành động của nhân vật là một trong bước đầu tiên
góp phần phát triển tính cách nhân vật. Thông qua yếu tố xây dựng nhân vật này
người đọc sẽ dự đoán được nhân vật đó có đời sống vật chất và tinh thần ra sao.
Ngoại hình là dáng vẻ bên ngoài của nhân vật bao gồm y phục, cử chỉ, tác
phong, diện mạo… Nhà văn có thể khắc hoạ ngoại hình nhân vật một cách trực tiếp
thông qua ngôn ngữ người kể chuyện hoặc miêu tả một cách gián tiếp thông qua
ngôn ngữ hoặc cái nhìn của nhân vật khác. Ngoại hình nhân vật có thể được nhà văn
tập trung miêu tả trong một đoạn văn ngắn gọn, nhưng cũng có thể được miêu tả
một cách rải rác, xen kẽ giữa các chương, đoạn, qua những tình huống và hành động
khác nhau của nhân vật. Đó có thể là những nét của toàn thân hoặc chỉ là một vài
80
đặc điểm nổi bật nhất trong diện mạo của nhân vật. Khi xây dựng ngoại hình nhân
vật, nhà văn cần thể hiện những nét riêng biệt, cụ thể của nhân vật. Nhưng qua đó,
người đọc có thể nắm bắt được những đặc điểm chung của những người cùng nghề
nghiệp, tầng lớp, thời đại… Những nhân vật thành công trong văn học từ xưa đến
nay như Từ Hải (Truyện Kiều - Nguyễn Du); Chí Phèo, Thị Nở (Chí Phèo – Nam
Cao) cho thấy nhà văn bao giờ cũng lựa chọn công phu những nét tiêu biểu để khắc
hoạ nhân vật. Bởi vẻ bề ngoài, ngoại hình của một con người đôi khi có vai trò như
là một dấu hiệu giúp ta nhận biết được bản chất bên trong của họ. Thậm chí, những
đặc điểm về nhân tướng còn giúp ta đoán biết trước được số phận và cuộc đời nhân
vật.
Trong thế giới nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư, nhân vật người nông dân
thường có ngoại hình lam lũ, xấu xí và thô kệch. Vẻ bề ngoài của họ được nhào nặn
bởi công việc một nắng hai sương, chân lấm tay bùn nên lúc nào trông họ cũng khắc
khổ, xù xì. Cũng bởi vì cuộc sống mưu sinh đầy những cơ cực, vất vả nên khi trái
tim bị tổn thương hay trong lòng chất chứa những nỗi đau, sự day dứt, trăn trở, vẻ
ngoài của họ lại khiến người đọc chạnh lòng. Đó là những khuôn mặt đau thương,
đầy trách phận. Đôi dòng nước mắt trên khuôn mặt của ông già chăn vịt (Cái nhìn
khắc khoải) là nỗi khao khát về một mái ấm gia đình hạnh phúc: “Có một màn
nước mỏng, trong văn vắt, rân rấn tràn từ khoé mắt, chỗ đó, hơi giợn đỏ.” và hình
ảnh: “Ông ngồi bệt trên bờ mẫu, khăn sọc cũ quấn đầu, nón vải nâu lốm đốm mủ
chuối. Ông ngó lũ vịt và vấn điếu thuốc châm lửa, phà khói lên trời.” Nụ cười héo
queo héo quắt với đôi dòng nước mắt trên khuôn mặt ông già Năm Nhỏ (Cải ơi) khi
bị Diễm Thương trêu càng làm tăng thêm tình yêu thương, sự day dứt, trăn trở của
ông về người con riêng của vợ đã bỏ nhà đi. “Ông Năm bẽ bàng ngồi đó, bẽ bàng
lau nước mắt, cười héo queo héo quắt”; “Con nhỏ giỡn có duyên hết hồn” mà trên
khuôn mặt vẫn còn đầy ứ những thương yêu”. Hay đôi “dòng nước mắt chảy ròng
ròng” như không bao giờ khô được trên má của thằng Điền - một đứa trẻ bất hạnh
và đáng thương (Cánh đồng bất tận) khiến người đọc phải ngậm ngùi, xót xa, ái
ngại về cách cư xử của những bậc cha mẹ đối với con cái. Có nên vì thù oán, sự
81
không hợp nhau trong cuộc sống vợ chồng mà kéo theo những đứa trẻ vào “trò chơi
trả thù” để cho đối phương phải đau khổ còn mình thì hả hê. Vì người cha mải miết
trong “âm mưu” trả thù đàn bà nên đã đẩy những đứa trẻ thơ vào chốn mênh mông,
vô tận không được sống, được tận hưởng tình thương giữa người với người. Không
chỉ có những giọt nước mắt thể hiện khát khao mong mỏi mà đôi lúc nhà văn cũng
sử dụng việc miêu tả nước mắt để thể hiện sự đau khổ, hối hận của nhân vật đã có
những hành động lầm lỡ, sai trái. Đó là những “những “ý nghĩ bỗng bời bời, xấp xãi
chạy trên gương mặt tròn, tái ngắt”; “Mắt chị đã tắt ánh nhìn lấp lánh, cồn lên một
chút thất vọng, một chút não nề.” của người đàn bà lầm lỡ không thể trở về với các
con trong truyện ngắn Một chuyện hẹn hò.
Hình ảnh khuôn mặt khắc khổ của ông Ba Già (Lỡ mùa) “nhăn nhó, teo héo
như đít trái cau khô” và dáng “người ốm sọm, con mắt lõm trơ” vì mất ngủ, vì lo
lắng chuyện lỡ mùa bởi những quy hoạch treo của nhà nước làm cho nông dân
không có đất canh tác khiến người đọc phải chạnh lòng trước tấm lòng của người
nông dân yêu đồng ruộng, yêu lao động, yêu quê hương và hơn hết là sự “tiếc” khi
đất trồng cấy bỏ hoang cho cỏ mọc um tùm. Hình ảnh ông cùng những người nông
dân khô héo ngồi vật vạ trước cổng uỷ ban chờ ông chủ tịch tỉnh đã góp phần tô
đậm số phận của những người nông dân lam lũ, nhọc nhằn. Việc miêu tả dáng vẻ
lam lũ, khổ sở, ngồi vật vờ trước cổng uỷ ban nhân dân tỉnh của một đoàn người có
già có trẻ đã phê phán sự vô tâm, tắc trách, thói vô trách nhiệm, quan liêu, xa rời
quần chúng nhân dân của những người lãnh đạo. Vẻ ngoài kì dị, khùng khùng của
nhân vật Lương trong truyện ngắn cùng tên lại ẩn chứa một tâm hồn trong sáng,
nhân hậu. Nhà văn đã dụng công sử dụng thủ pháp miêu tả của điện ảnh để khắc
hoạ ngoại hình của nhân vật Lương: “Lương xấu trai thiệt. Tướng Lương nhỏ xíu,
teo héo. Đầu to, tóc dày, cứng, cháy nắng. Một bên mắt lé xẹ. Ai cũng cười: “Cái
thằng, mầy chèo mà không ngó đằng trước, ngó đâu trật lất vậy?”. Lương không
giận tựa như không biết giận. Cái thân nhỏ mồ côi mồ cút, nghèo xác xơ mà bày đặt
giận cuộc đời thì làm sao sống nổi. Suốt ngày Lương hệch miệng ra cười, làm như
82
vui, làm như không, khó nắm bắt. Trông Lương như một người trí não chậm phát
triển. Lương khoái cặp mắt mất đoàn kết của mình lắm, người ta nhìn anh biết, chứ
anh mà nhìn lại, người ta tưởng anh ngó đâu đâu.”
Sự tương phản giữa ngoại hình và tính cách của nhân vật giống như một thủ
pháp “đánh lừa” của nhà văn. Đôi khi nhân vật có vẻ ngoài tưởng như khó gần, lạnh
lùng, thậm chí có phần gây phản cảm, nhưng khi nhân vật cởi bỏ lớp gai của lông
nhím qua hành động quan tâm, yêu thương với nhân vật khác, người đọc lại càng
trân trọng hơn tấm lòng, trái tim ấm áp, giàu yêu thương của họ. Điển hình cho việc
sử dụng thủ pháp nghệ thuật này là nhân vật ông Mười, chồng dì Thắm trong truyện
ngắn Mối tình năm cũ. Hàng xóm láng giềng không ưa ông vì “mặt mày thì đen sì,
không biết vui hay buồn, già đầu rồi chưa nói câu nào nghe ngọt ngào với vợ”. Dù
đã cầu cứu đến cả chính quyền để ông Mười cho vợ đi làm phim, vậy mà ông “vẫn
nín thinh, ngồi vấn thuốc, uống trà, nhìn xa xôi.” Còn mấy ông già thì “chống gậy
le te về, bụng chửi, cái thằng, coi mặt chữ điền bự vậy, cái miệng rộng vậy mà ích
kỉ, hẹp hòi”. Phải đến khi kết thúc truyện, người đọc mới vỡ lẽ, thì ra đằng sau cái
vẻ bề ngoài lầm lì, vụng về ấy là một con người hết lòng thương yêu và chăm lo cho
vợ con của ông Mười. Mọi người mới “nhớ tới một chiếc khăn, một bàn tay thô,
một tấm lưng rộng” “ẩn sau vẻ mặt đau đớn, đẫm nước mắt của dì Thấm” hôm
quay phim tư liệu.
Trong truyện ngắn Cuối mùa nhan sắc, khi miêu tả những đổi thay trên
khuôn mặt người ca nữ nổi danh một thời, Nguyễn Ngọc Tư đã dùng những nét vẽ
chứa đựng cả nỗi niềm xót xa cho cuộc đời hồng nhan bạc phận của người nghệ sĩ:
“Ông Chín bàng hoàng nhận ra đào Hồng dù nhan sắc của bà ngày xưa không còn
nữa, mặt nhăn nhúm, nám đen, cái cổ cao ngày trước bây giờ gần như đổ gục vì
gánh nặng tâm tư mà cuộc đời chồng chất”. Những lời văn miêu tả ngoại hình ấy
luôn khơi gợi cho người đọc niềm thương cảm, ngậm ngùi xót xa đối với số phận
nhân vật.
Bên cạnh những nhân vật hiền lành, lương thiện, Nguyễn Ngọc Tư không phải
không thành công trong việc khắc hoạ những nhân vật phản diện xét từ góc độ
83
ngoại hình. Thực tế đời thường cũng rất khó nhận ra bản chất của họ qua những
biểu hiện bề ngoài. Chẳng hạn như nhân vật Bảo trong truyện ngắn Ngổn ngang;
nhân vật Thường - người chồng độc ác thuê người giết vợ trong truyện ngắn Một
trái tim khô. Khi vợ cấp cứu trong viện: “Ba đêm rồi Thường thức trắng, con mắt
lõm trơ, người căng như sợi dây đàn, lặng người theo mỗi tiếng Hậu rên, hớt hải
khi Hậu trở mình…” mà thực chất là quỵ xuống bởi câu hỏi tê tái của vợ sau khi
tỉnh: “Sao anh đành đoạn giết em?”. Nhân vật người cha trong truyện ngắn Cánh
đồng bất tận được Nguyễn Ngọc Tư dụng công giới thiệu vẻ đẹp ngoại hình, nó có
tác dụng như một “miếng mồi” để hấp dẫn những người phụ nữ nhẹ dạ. Qua cái
nhìn của một cô gái điếm, chị thấy anh ta “đang vồng lưng trong nắng sớm, chếnh
choáng: “Ba mấy cưng đẹp trai dễ sợ…”. Và người cha đó “vào tuổi bốn mươi,
quyến rũ từ cái cười, từ câu nói, ánh nhìn thăm thẳm, ngọt ngào” đến “khuôn mặt
chữ điền ngời ngợi” ấy đang che giấu trong mình một nỗi đau sâu hoắm, vời vợi,
lúc nào cũng ăm ắp mưu toan trả thù đàn bà.
Không miêu tả chi tiết khuôn mặt của nhân vật một cách tỉ mỉ, cụ thể, hình
dáng thế nào, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đôi khi chỉ điểm vài nét tiêu biểu, nhấn
mạnh vào một chi tiết để làm nổi bật đặc điểm của nhân vật. Trong Cải ơi, Nguyễn
Ngọc Tư chỉ miêu tả ngoại hình của Diễm Thương với vài nét “khuôn mặt cũng
hay, không đẹp nhưng bình thản, lạnh trơ, vui buồn không ra, đố ai biết nó nghĩ gì”,
“mái tóc nhuộm vàng hoe chơm chớm như rễ tre”, “nụ cười héo hắt”. Không miêu
tả chi tiết khuôn mặt của nhân vật theo kiểu mắt ra sao, mũi thế nào... Nguyễn Ngọc
Tư chỉ khái quát một cách rất chung chung nhưng chỉ cần đọc thế thôi người đọc đã
có thể tưởng tượng ra được khuôn mặt lạnh trơ là khuôn mặt thế nào; nụ cười héo
hắt là nụ cười ra sao. Có thể mỗi người sẽ hình dung một khuôn mặt không giống
nhau nhưng ở đó đều toát lên một điểm chung đó là tính cách rất lạnh lùng, bất cần
đời nhưng ẩn bên trong lại là yếu đuối, đau khổ.
Ngoài ra, để người đọc có thể thấy được rõ nét tính cách của nhân vật, Nguyễn
Ngọc Tư còn rất chú ý trong việc mô tả hành động của nhân vật. Thể hiện tính cách
nhân vật qua miêu tả hành động là một thủ pháp cơ bản trong nghệ thuật xây dựng
84
nhân vật. “Hành động là những việc làm cụ thể của nhân vật trong các quan hệ ứng
xử với các cá nhân vật khác nhau và trong những tình huống khác nhau của cuộc
sống’’. Hành động được xem như là kết quả cuối cùng của quá trình nhận thức, quá
trình tâm lý, quá trình tình cảm. Qua hành động, Nguyễn Ngọc Tư muốn để cho
nhân vật của mình nói lên những suy nghĩ, tư tưởng, trạng thái diễn biến bên trong
nhân vật.
Đọc Cánh đồng bất tận người đọc không thể quên được hành động “Người
cha cởi áo trên người để đắp cho đứa con gái. Ông ta bò quanh nó, tìm bất cứ cái
gì để có thể che cơ thể nó dưới mặt trời”. Có thể nói một hành động chăm sóc yêu
thương đó ông đã bỏ quên từ lâu lắm. Rồi hành động hết sức cảm động của ông
Mười (Mối tình năm cũ). Khi chứng kiến cảnh vợ đau khổ vì làm phim về người
yêu cũ đã mất, ông đã “nhẫn nại cầm chiếc khăn lau những dòng nước mắt trên
khuôn mặt vợ”. Trước hết ta nhận thấy đây là một hành động tràn đầy tình yêu
thương, sự nâng niu, trân trọng đối với người vợ đã chịu nhiều mất mát của mình.
Và đằng sau tình cảm ông dành cho vợ là tấm lòng vị tha, cao thượng, ông đã không
hề mảy may ích kỉ, nhỏ nhen trước chuyện vợ mình vì một người đàn ông khác mà
khóc.
Hành động “khăn gói bỏ xứ ra đi” tìm đứa con riêng của vợ cũng là hành động
thể hiện được tình yêu thương vô bờ của ông Năm Nhỏ trong Cải ơi. Thương con
lưu lạc, bơ vơ, thương vợ nghẹn ngào trong nỗi sầu lo lắng nhớ mong con, ông
quyết tâm tìm lại đứa con ấy. Ngoài ra, hành động quyết tâm ra đi cũng thể hiện
lòng tự trọng và sự cố gắng minh chứng cho tấm lòng trong sạch của mình trước
thái độ dò xét của những người xung quanh và sự ngờ vực của vợ. Hành động ra đi
còn xuất hiện rất nhiều trong tập truyện Cánh đồng bất tận: Sự ra đi của Tứ
Phương để nhường chị Thể cho anh trai, hành động nhân vật “má” đi tìm tin tức của
người vợ cũ cho chồng cũng là những hành động mà chỉ những con người có tấm
lòng vị tha, cao thượng mới có được. Hành động bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ nơi giàu sang
để đi theo tiếng gọi tình yêu của ông Chín trong Cuối mùa nhan sắc cũng là hành
động rất đáng trân trọng của một con người mạnh mẽ, dứt khoát lấy tình yêu là lẽ
85
sống cả đời của mình. Hay hành động ra đi tìm chồng của cô Út trong Cái nhìn
khắc khoải cũng đã thể hiện được tình cảm yêu thương, gắn bó và sự chung thuỷ
của người phụ nữ Nam Bộ... Những hành động đều rất nhẹ nhàng nhưng tất cả như
đã đều toát lên ý nghĩa nhân văn sâu sắc của nó.
Mỗi nhân vật khi làm bất cứ một điều gì, hành động như thế nào đều đã thể
hiện một phần tính cách của mình. Mô tả hành động của nhân vật, ngoài việc để góp
phần thúc đẩy cốt truyện, Nguyễn Ngọc Tư còn khéo léo thể hiện tính cách nhân
vật, góp phần xây dựng nhân vật trong tính hoàn chỉnh của nó.
3.3. Nghệ thuật biểu hiện nội tâm
Khái niệm biểu hiện nội tâm nhằm chỉ toàn bộ những biểu hiện thuộc cuộc
sống bên trong của nhân vật. Đó là những tâm trạng, những suy nghĩ, những phản
ứng tâm lý … của nhân vật trước những cảnh ngộ, những tình huống gặp phải trong
đời. Sự biểu hiện hợp lý và sâu sắc nội tâm góp phần rất lớn tạo nên sức sống của
nhân vật. Nói như L.Tonxtôi “mục đính chính của nghệ thuật… là nói lên sự thật về
tâm hồn con người, nói lên những điều bí ẩn không thể diễn tả bằng những ngôn
ngữ thông thường được.” Để làm được điều đó, nhà văn phải hiểu sâu sắc cuộc sống
và con người, nắm bắt được những biểu hiện và diễn biến dù nhỏ nhặt nhất đời sống
bên trong nhân vật.
Đối với nhà văn, thế giới nhân vật chính là nơi kết tinh những chiêm nghiệm
của đời sống gửi gắm những tư tưởng, tình cảm của mình. Với việc đi sâu vào tâm
lý, đặc biệt là bằng việc sử dụng thủ pháp độc thoại nội tâm, nhà văn Nguyễn Ngọc
Tư đã cho nhân vật tự ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với xung quanh,
tự mình bộc lộ với mình những cảm xúc suy nghĩ trung thực nhất. Vì vậy, phần lớn
trong các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chị thường sử dụng nghệ thuật biểu
hiện nội tâm để phản ánh rõ nét đời sống tâm tư, tình cảm của nhân vật. Thông qua
những biểu hiện nội tâm của nhân vật, người đọc sẽ biết được nhân vật đó có những
tính cách, phẩm chất, đời sống tinh thần ra sao, nắm bắt được diễn biến cốt truyện,
86
hiểu được những thông điệp mà nhà văn gửi gắm.
Những dòng độc thoại nội tâm của ông già Năm Nhỏ trong truyện ngắn Cải ơi
là những dòng hồi ức về những kỉ niệm đẹp thể hiện nỗi nhớ con day dứt, khuôn
nguôi: “Ông đã dắt con nhỏ đi hái xoài chín trong vườn hoang, đã chặt chuối làm
bè dạy cho nó lội, thả trâu, chơi diều, ông đã cõng con nhỏ đi tắt mấy vạt đồng đến
khám bệnh chỗ ông bác sĩ già, mỗi khi nó nhức đầu, sổ mũi. Cái cây kẹp nhỏ, mớ
dây thun khoanh, mấy cục kẹo dừa vung vinh trong túi áo mỗi khi ông đi chợ về…”.
Đó là một người cha độ lượng, giàu tình thương yêu đối với “đứa con riêng của vợ”.
Ông muốn lên ti vi để nhắn đứa trẻ bỏ nhà rằng: “Về đi con, đôi trâu có sá gì!”
Truyện ngắn Một mối tình là cả một dòng suy tưởng về quá khứ cũng như quá
trình đấu tranh tâm lí dữ dội, vượt thoát ra những ngại ngùng của nhân vật “tôi”, để
bày tỏ những tâm tư, tình cảm chôn giấu bấy lâu trong lòng: “Sao lúc nào tôi cũng
thèm ngồi ở đó, ở cái vị trí yên bình đó, nhất là bây giờ, khi tôi vừa lang thang hết
một mùa nắng (…) Rồi Trọng quay lưng đi, không để cho tôi kịp nhìn anh kĩ; nhưng
thật thà vậy, Trọng đứng lớ ngớ ở đây một hồi, thể nào không nén lòng tôi cũng ôm
chầm lấy anh mà khóc. Trời ơi, cảnh nầy, người nầy, sao y chang như năm ngoái,
năm kia, chỉ khác là thằng Bầu đã lớn bộn lên, và mớ tóc bạc trên đầu Trọng là
thay đổi, nó trắng thêm, nhiều thêm. Tôi tự hỏi lòng mình đang nghĩ đến cái gì mà
lòng đau quá vậy cà.” Đó là những cung bậc cảm xúc nhẹ nhàng, đằm thắm nhưng
cũng không kém phần say đắm, dữ dội của “tôi” đối với người anh rể khi chị gái
“tôi” đã bỏ anh ra đi. Tất cả những tình cảm ấy chỉ diễn ra trong âm thầm, lặng lẽ.
Bởi “tôi” không thể vượt qua được những ngại ngùng, tình yêu bị đè nén, nên “tôi”
tự đối thoại, tự chất vấn với cảm xúc của chính mình. Trong trường hợp này, hình
thức độc thoại nội tâm giúp người đọc thấu hiểu những cảm xúc, khám phá được
những bí ẩn trong thế giới tâm hồn nhân vật.
Trong một số truyện ngắn khác, tâm lí nhân vật có khi được bộc lộ tại một
thời điểm bất chợt, vì một duyên cớ nào đó mà con người sống lại những kí ức đau
khổ của mình. Chẳng hạn, nhân vật ông già điên trong truyện ngắn Sông dài con cá
lội đâu. Đó là một người con lầm lạc của xóm Phố, một ngày gặp thằng Bầu bỗng
87
nhớ lại những hồi ức đau thương của chiến tranh. Đan xen vào những lời thú tội là
tình cảm cháy bỏng đối với người yêu, với xóm Phố ngày xưa của một con người
sống cô độc, suốt đời héo hắt vì những lỗi lầm của mình mà không dám trở về xóm
Phố dù nhớ thương luôn chất chứa trong lòng. Hay những suy nghĩ của người đàn
bà trong truyện ngắn Một chuyện hẹn hò cũng giúp cho người đọc hiểu và thông
cảm với với những giây phút lầm lạc của chị. Qua những dòng độc thoại, chị trở
nên đáng thương hơn là đáng giận với những mong muốn được quay về, với nỗi day
dứt, dằn vặt trong lòng. Đó là tấm lòng của một người mẹ vẫn luôn hướng về các
con, vẫn ao ước được che chở đùm bọc cho các con ngay trong những giây phút
chống chếnh nhất của cuộc đời.
Trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, nhân vật luôn chất chứa
những nỗi niềm không dễ nói ra. Cũng có khi nói ra lại gây những trở ngại hoặc tổn
thương cho người khác. Và họ đã âm thầm chịu đựng nhưng cũng chính vì vậy mà
tiếng lòng càng dấy lên nỗi cô đơn, day dứt. Trong truyện Dòng nhớ, chỉ qua những
biểu hiện bên ngoài mà Nguyễn Ngọc Tư đã khái quát được thế giới tâm hồn nhân
vật. Hai người phụ nữ trong truyện đều khổ vì một người đàn ông. Một người “ba
tôi” yêu, nhưng nội không chịu, nên mới “dắt díu bỏ nhà đi”, có với nhau đứa con,
sau khi nó bị chết đuối thì “ba tôi bỏ người ta giữa dòng chơ vơ”. Còn một người
“năm này qua năm khác sống chung với ảnh” thì chịu cảnh chồng “hồn vẫn hướng
về dòng sông miên man chảy”, nhưng cả hai đều không có lỗi, cả hai đều đau khổ.
Hình ảnh người cha ngồi lặng lẽ trong đêm hút thuốc đã diễn tả nỗi nhớ day dứt,
khắc khoải, khuôn nguôi về cuộc tình cũ: “Những đêm đó, ba tôi hút thuốc dữ, cứ
nhìn chong chong ra ngọn đèn đỏ ối, nhỏ nhoi, buồn thiu ngoài kia”. Chính nỗi nhớ
đó đã tạo nên dáng ngồi như hoá đá của người đàn ông đêm này qua đêm khác.
Không chỉ mình ông đau, vẫn còn hai người đàn bà nữa: một người “ngồi trong
mùng lặng lẽ nhìn ba”, một người “lặng lẽ neo lại ngoài bến nhà tôi, treo ngọn đèn
chong lên cây đước chơm chởm những cái nhánh non”; “ba tôi thở dài, má tôi thở
dài” và người phụ nữ chong đèn ngoài kia hẳn cũng nén tiếng thở dài. Nguyễn Ngọc
88
Tư đã để nhân vật đắm chìm trong dòng chảy của suy nghĩ miên man mà dường như
quên đi thực tại. Nỗi đau của cả ba người đều không dễ nói ra, không thể chia sẻ
cùng ai.
Anh Hết (Hiu hiu gió bấc), dù yêu chị Hoài tha thiết mà buộc phải từ chối,
phải đóng vai một người đổ đốn, bê tha, ham cờ bạc, không lo làm ăn, cốt để chị
yên tâm mà đi lấy chồng. Bởi anh nghèo, mẹ chị Hoài lo con gái không được hạnh
phúc. Ngày cưới chị Hoài, anh dứt khoát không ngẩng lên nhìn chị lần cuối, vẫn
thản nhiên ngồi đánh cờ, chị vừa quay vào thì đám con nít trộ lên: “anh Hết, sao mà
khóc vậy. Đâu có. Có mà, nước mắt anh rớt lên con tướng vầy nè, đó, nó ướt nhẹp
đó thấy chưa”. Vậy mà anh Hết vẫn cười lớn, nói lớn: “Ừ, tại tao thương con chốt.
Qua sông là không mong về”…Chị Hoài vừa đi vừa khóc. Lời của anh Hết làm chị
Hảo thương điếng trong lòng. Con người này, nghĩa biết trọng mà tình cũng thâm.
Nguyễn Ngọc Tư có sự thấu hiểu sâu sắc đến tận tâm can nhân vật của chị. Vì vậy
mà thế giới tâm hồn của nhân vật luôn được quan tâm, soi chiếu ở nhiều góc độ
khác nhau.
Trong truyện ngắn Gió lẻ, tác giả rất chú trọng đến việc thể hiện tâm lí nhân
vật qua hành động, cử chỉ, nét mặt. Nhân vật “Em” đã khước từ tiếng nói của con
người, bởi với cô tiếng nói ấy chỉ dùng để dối trá lẫn nhau. Biểu hiện là mỗi lần
phải nghe những lời dối trá ấy, cô lại nôn thốc nôn tháo. Lần đầu tiên cô nôn khi
nghe một người phụ nữ ở chợ dụ dỗ về làm cho chị ta, không vất vả mà kiếm được
nhiều tiền. Khi nghe một đôi trai gái yêu đương thề thốt những lời lẽ to tát cô cũng
bị nôn. Cô nôn khi nghe ông Tám Nhơn Đạo lên truyền hình trong chương trình
“Giã từ lưu lạc”: “Khi người ta mời ông Tám Nhơn Đạo vào, và ông nói ông nhìn
thấy em đói rách trong chợ như thế nào, ông đã nuôi nấng, che chở và yêu thương
em ra sao. - Vợ chồng tui đơn chiếc nên tui cưng con nhỏ như con đẻ của mình
vậy.”. Phản ứng của cô khi nghe những lời nói đó: “một cái vòi đắng nghét từ miệng
em phun ra. Cả trường quay nhốn nháo.” Cô gái ghê tởm bởi chính ông ta đã hãm
hiếp cô chứ đâu có yêu thương cô như lời ông ta nói. Cô hiểu ra hành động chăm
sóc cho bà vợ tàn tật ngồi xe lăn và hành động dành cơm cho cô chỉ là cái vỏ bề
89
ngoài, nhằm che giấu bản chất bên trong vô cùng xấu xa, dâm dục và đểu cáng của
ông ta. Khước từ tiếng nói của con người, cô tìm đến với âm thanh của gió, của
chim, của các loài vật khác… bởi đó là những âm thanh chân thật, trong trẻo, không
có biểu hiện của sự giả dối như tiếng nói con người…
Tiêu biểu cho lối sử dụng biện pháp độc thoại nội tâm để khắc họa rõ nét tính
cách và số phận của nhân vật phải kể đến truyện ngắn Cánh đồng bất tận. Câu
chuyện hoàn toàn được kể từ nhân vật người kể chuyện xưng “tôi”. Nếu nhìn từ góc
độ nghệ thuật miêu tả tâm lí, chúng ta sẽ thấy chất liệu cơ bản để xây dựng tác
phẩm chính là những dòng độc thoại nội tâm trầm buồn của “tôi” kể về những kí ức
đau đớn trong quá khứ. “Tôi” miên man qua từng cánh đồng với biết bao sự kiện dữ
dội “Đàn vịt đưa chúng tôi đi hết cánh đồng nầy đến cánh đồng khác”. Có khi cảm
xúc của “tôi” được lồng ghép vào quá trình kể lại những biến cố của gia đình mình
với cô gái điếm: “Chúng tôi dong ghe đi, quặn lòng ngoái lại căn nhà đang quay
quắt giãy giụa trong lửa đỏ. Nghe vẳng theo âm thanh lốp bốp rất giòn của những
thanh gỗ cháy, và tiếng xóm giềng í ới gọi nhau…”. Có khi cô kể chuyện mà như
đang tự nói với mình: “Mùa du mục của chúng tôi kéo dài từ mùa mưa sang mùa
nắng, rồi lại mưa. Nhiều lúc tôi hơi nhớ con - người. Họ ở trong cái xóm nhỏ kia,
chỉ cách chỗ chúng tôi dựng trại vài ba công đất. Họ lúc nhúc trên thị trấn kia, nơi
chúng tôi thường ghé lại mua gạo, cám, mắm muối… dự trữ cho những chuyến chạy
đồng xa”. Cũng có khi qua những dòng độc thoại, nhân vật kín đáo bày tỏ những
suy ngẫm về cuộc đời, về số phận con người: “Và tôi chợt nghĩ, sự bất thường của
Điền, chẳng qua nằm trong chuỗi rất dài của sự trừng phạt. Điều đó lí giải cho việc
thiên nhiên ngày càng trở nên hung dữ hơn, khắc nghiệt hơn. Bằng những sấm
chớp, gầm gừ, dường như đất trời đã nín nhịn nhiều, cuồng nộ bắt đầu rồi đây. Có
lần, tôi lấy cao su gói lại mớ mùng chiếu, nhìn mưa thè cái lưỡi ướt nhão nhớt vào
lều, khoái trá nếm từng tấc đất, tôi tự hỏi, không biết chỗ khác (chỗ không có chúng
tôi) có mưa nhiều như vầy không. Ý nghĩ đó xuất hiện triền miên trong đầu tôi, rằng
trời chỉ trút mưa, trút nắng ở những nơi chúng tôi dừng chân lại. Nỗi bẽ bàng của
người đàn bà bị cha tôi bỏ rơi (và cộng thêm niềm đau vỡ của những người vây
90
quanh họ) đã thấu qua những tầng mây.”. Bằng ngôn ngữ giàu cảm xúc, tác giả di
chuyển điểm nhìn trần thuật sang nhân vật, chú trọng vào thế giới nội tâm của nhân
vật. Vì thế, truyện không thu hút người đọc bằng những tình tiết li kì, những sự kiện
mang tính hành động. Trong một thời gian dài sống thiếu thốn tình cảm của cha mẹ,
xa rời cuộc sống của xã hội loài người khiến nhân vật “tôi” hầu như không có nhu
cầu giao tiếp với những người bình thường. Từ mặc cảm đó, Nương và Điền gần
như quên hẳn ngôn ngữ con người, cho đến khi phát hiện ra mình có thể giao tiếp
bằng ngôn ngữ của vịt. Vì vậy mà ngay cả những đoạn đối thoại trong truyện ngắn
này cũng mang đậm màu sắc của độc thoại, nó chậm rãi và ngắt quãng. Dù khi sống
lại những kí ức trong quá khứ hay khi đối diện với những tai hoạ trước mắt, nhân
vật “tôi” dường như không sống với thực tại, với con người thực tại: “Những bữa
ăn nối tiếp nhau trong im lặng. Lúc và cơm, tôi hay bị ảo giác, tưởng mình đang
ngồi trên cánh đồng của chín năm trước (…) Cảnh không đổi, người cũng không,
cứ ngồi ngoáy mãi vết thương cũ, nhỏ nước mắt”. Tâm thế của “tôi” luôn hướng về
quá khứ. Vì vậy mà đối với “tôi”, độc thoại nội tâm chính là nhu cầu sống còn, như
một hình thức giao tiếp duy nhất.
Hay ở hình ảnh một người đàn ông – cha của Nương và Điền – bị vợ phản
bội đã hun đúc trong mình một sự hận thù và trả thù bằng cách mang đến đau khổ,
nỗi tuyệt vọng cho những người đàn bà khác. Ở nhân vật này, Nguyễn Ngọc Tư
không hề dùng một từ nào để nói rằng ông hận vợ hay căm thù người vợ của mình
như thế nào. Thế nhưng thông qua hành động, đặc biệt qua nét mặt, qua thái độ,
cách xử sự của nhân vật này người đọc có thể nhận thấy rõ lòng hận thù tột độ của
ông. Cũng vì lòng hận thù ấy mà chính ông đã đánh mất đi tuổi thơ của hai đứa con
mình để rồi cuối cùng ông phải hối hận trong sự ngậm ngùi, xót xa, bất lực và cả sự
nuối tiếc. Sâu sắc và thấm thía, ám ảnh và xót xa là những gì Nguyễn Ngọc Tư đem
đến cho bạn đọc ở phần cuối truyện.
Có thể thấy truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư không miêu tả tâm lý nhân vật
một cách dài dòng, không tốn nhiều trang văn bản để đi vào phân tích tâm lý nhân
vật; rất cô đọng nhưng lại súc tích, thể hiện sâu sắc nội tâm nhân vật. Nguyễn Ngọc
91
Tư không nói nhiều một cách trực tiếp đến tâm trạng nhân vật nhưng đọc truyện
ngắn của chị người ta thấy rất rõ những suy tư, tình cảm, những nỗi trăn trở của
nhân vật, ở đó là cả một trời tâm trạng. Nguyễn Ngọc Tư thể hiện tài năng ở việc
phân tích tâm lý nhân vật một cách rất tinh tế và vô cùng phong phú. Mỗi một nhân
vật trong truyện ngắn của chị lại mang một tâm trạng riêng, một nỗi niềm riêng và
cách thể hiện cũng rất riêng.
3.4. Ngôn ngữ nhân vật
Trong các trào lưu văn học hiện thực, việc cá thể hoá nhân vật qua ngôn ngữ
nhân vật được nhà văn đặc biệt quan tâm và được thực hiện bằng nhiều cách khác
nhau. Chẳng hạn, nhà văn có thể để cho nhân vật lặp đi lặp lại nhiều lần một số từ
hoặc một số câu cửa miệng của nhân vật (“Biết rồi, khổ lắm, nói mãi” của cụ cố
Hồng trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng), có thể để cho nhân vật sử dụng một số từ
địa phương, từ nước ngoài, cách phát âm sai… Nhưng dù sử dụng cách nào, ngôn
ngữ của nhân vật cũng phải có sự chọn lọc nhằm đạt đến sự thống nhất giữa các cá
thể hoá và khái quát hoá, đồng thời cũng phải phù hợp với hoàn cảnh của nhân vật.
Khái niệm ngôn ngữ nhân vật nhằm chỉ những lời nói nhân vật trong tác phẩm. Lời
nói đó phản ánh kinh nghiệm sống cá nhân, trình độ văn hoá, tư tưởng, tâm lý, thị
hiếu… Trong các tác phẩm tự sự nói chung, lời nói của nhân vật thường chiếm tỉ lệ
ít hơn so với ngôn ngữ người kể chuyện nhưng lại có khả năng thể hiện sinh động
và khêu gợi cho người đọc hình dung về bản chất, tính cách của nhân vật.
Xuất hiện trên văn đàn văn học với ngôn ngữ và giọng văn rất khác biệt so
với những nhà văn trẻ cùng thời. Văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư sử dụng rất nhiều từ
ngữ chỉ các sự vật, hiện tượng biểu tượng cho sông nước và miệt vườn Nam Bộ.
Chính việc sử dụng ngôn ngữ địa phương, những hình ảnh tạo không gian Nam Bộ
đặc trưng đã góp phần không nhỏ để Nguyễn Ngọc Tư tái hiện chân thực, sống
động không khí Nam Bộ. Điều đó cũng khiến câu chuyện được kể lôi cuốn người
đọc vào một thế giới chân thực, bình dị của những con người lam lũ miền sông
nước.
92
Phương ngữ Nam Bộ đặc trưng
Có thể nói ấn tượng đầu tiên và dễ thấy nhất trong ngôn ngữ truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư chính là khả năng khai thác và vận dụng nhuần nhuyễn từ địa
phương Nam Bộ để làm nổi bật văn hóa đặc trưng của vùng đất và con người nơi
đây. Với việc sử dụng những ngôn từ được lấy thẳng từ cuộc sống chung quanh,
nhà văn đã mang đến cho độc giả cảm giác gần gũi, thân thiện và được đắm chìm
trong bầu không khí “đặc quánh” chất Nam Bộ. Không chỉ nhằm phản ánh và làm
nổi bật những tính cách của con người vùng sông nước, Nguyễn Ngọc Tư còn khiến
người đọc cảm thấy bị hấp dẫn và thích thú trước văn phong giản dị, chân thành và
đầy sáng tạo.
Nguyễn Ngọc Tư đã sử dụng các danh từ trong mỗi sáng tác của mình để gọi
tên các sự vật, hiện tượng, hoàn cảnh đặc biệt mà chỉ bắt gặp trong thiên nhiên hoặc
sinh hoạt Nam Bộ. Những danh từ chỉ các địa danh vùng sông nước Nam Bộ như:
“Vàm Cỏ Xước”, “Vàm Cỏ Mắm”, “kinh Cỏ Chác”, “kinh Mười Hai”, “rạch Ráng”,
“chợ Ba Bảy Chín”… hay những tên ấp tên làng: “xóm Kinh Cụt”, “mút Cà Tha”…
Những danh từ chỉ địa hình, sản vật, cây cối, đồ dùng sinh hoạt hay hoạt động của
đời sống như: “áo bà ba, kinh, rạch, vàm, xẻo, chợ nổi, ghe, xuồng, vỏ lãi, nước
rong, nước kém, vịt chạy đồng, khô cá chạch, mắm, sú, đước, ô rô, dừa nước, cóc
kèn,…” . Cách gọi tên người trong quá trình giao tiếp rất đặc trưng của người miền
Tây Nam Bộ theo kiểu theo kiểu gọi tên theo thứ tự sinh ra trong gia đình như:
“Anh Hai”, “Anh Năm”, “Ông Tư”, “Thiếm Sáu”… Hoặc không thì gọi kèm tên
thật với thứ tự sinh hoặc tính cách của nhân vật như: Hai Nhớ, Tư Bụng, Tư Đờ,
Chín Vũ, Út Vũ, Út Thà,… Trong xưng hô với người trong gia đình, Nguyễn Ngọc
Tư rất thường hay sử dụng lớp từ: “má”, “tía”, “chế”, “má sắp nhỏ”, “má con tao”,
“má nó”, “ba thằng …”, “ba nó”, “bà nó”, “mầy”, “tao”, “bây”, “tụi bây”, “tụi
nó”,...
Nói về việc sử dụng từ địa phương trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư
không thể không đề cập đến hệ thống từ thể hiện sắc thái biểu cảm của người nói
đặt ở cuối những câu cảm hay câu nghi vấn. Đây cũng là lớp từ rất đặc trưng trong
93
ngôn ngữ giao tiếp của người miền Tây Nam Bộ như: “á”, “à”, “hen”, “hôn”, “phải
hôn”, “vậy”, “nghe”, “nghen”, “vậy nghen”,”chớ”, “chớ bộ, “mà”, “lận”, “quá
chừng”, “quá trời”, “vậy à”, “vậy cà”, “bộ”, “hả”, “ha”…
- “Con Cải tui về đây nè, bà con coi, nó lớn quá chừng hen” (Cải ơi)
- “Cho bỏ tội mê cờ, nghen” (Hiu hiu gió bấc)
- “Con Huệ nó dứt tình lẹ quá ha, dứt cái “rụp” (Huệ lấy chồng)
- “Tối nay lại chỗ tao nghe cải lương, nghe bây” (Cuối mùa nhan sắc)
- “Tôi tháo vách thiệt à, cô Hậu” (Một trái tim khô)
- “Mấy đứa con nít khen dì giống cô Tấm trong truyện cổ tích quá trời”!
(Chiều vắng)
Ngoài ra, đọc truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư người đọc dễ dàng nhận ra
một hệ thống từ biến âm thể hiện rõ đặc trưng ngôn ngữ của người dân vùng sông
nước đồng bằng sông Cửu Long so với người dân ở các vùng miền khác như: ổng
(ông ấy), bả (bà ấy), ảnh (anh ấy), chỉ (chị ấy), biểu (bảo), bịnh (bệnh), sanh (sinh),
gởi (gửi), kinh (kênh), ác nhơn (ác nhân),… Hệ thống từ biến âm này được lặp lại
khá thường xuyên trong ý thức sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Ngọc Tư góp phần
làm cho ngôn ngữ truyện ngắn của nhà văn “thuần chất Nam Bộ”. Vẻ đẹp của nó
không phải ở sự trau chuốt mà chính là sự bình dị, có chút gì hoang sơ. Mỗi câu văn
đều dày đặc phương ngữ, đúng như lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân nơi
đây. Các phương ngữ mà từ trước tới nay người ta vẫn nghĩ rằng nó chỉ có giá trị sử
dụng trong một vùng miền nhất định thì nay nó đã được đưa vào tác phẩm văn
chương một cách trọn vẹn.
Tuy nhiên, để tạo thêm sức hút, sức hấp dẫn và thể hiện chất riêng trong
phong cách sáng tác, Nguyễn Ngọc Tư còn sáng tạo, biến ngôn ngữ đời thường, đặc
trưng của vùng miền thành ngôn ngữ văn chương. Đó là việc nhà văn thêm yếu tố X
trong kết cấu AX (A là tính từ, X là yếu tố chỉ đặc tính do tính từ biểu thị), để tạo từ
mới mang tính miêu tả cụ thể, sinh động và cường điệu. Để diễn tả nỗi buồn,
Nguyễn Ngọc Tư có những cách nói rất “bình dân” như: “buồn ác chiến, buồn vô
địch cấp huyện, buồn như sắp đâm đầu xuống sông mà chết, buồn chao chát trong
94
lòng, giãy đành đạch, cười thúi mũi, mặc chết bỏ luôn, tiếc đứt ruột, nhức muốn
chết, ế ngoi ngóp…”. Để tả cảnh hành động bỏ chạy của ai đó, Nguyễn Ngọc Tư có
những cách nói lạ như: “chạy xịt khói, chạy xà quần, chạy xấc bấc xang bang”, …
Với cách sử dụng ngôn ngữ “vừa quen vừa lạ” ấy, nhà văn đã làm cho mỗi
truyện ngắn của mình giàu tính sinh động, gợi cảm xúc, vừa thể hiện được văn
phong hóm hỉnh, ngộ ngĩnh vừa thể hiện chiều sâu tâm lý của nhân vật. Thói quen
sử dụng từ ngữ như trên làm cho ngôn ngữ trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư
gần với ngôn ngữ hàng ngày của người dân nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu
Long, điều này góp phần tạo nên một văn phong trong sáng, giản dị, không cầu kì
và có phần nào đó nôm na, mộc mạc, chân chất nhưng vẫn tạo được một hiệu quả
cảm xúc và thẩm mỹ rất cao; giúp người đọc dễ dàng nhận ra Nguyễn Ngọc Tư với
những cây bút đương thời.
Ngoài ra, Nguyễn Ngọc Tư còn sử dụng khá nhiều thành ngữ mang sắc thái
khẩu ngữ như: “nước đổ lá khoai, chân ướt chân ráo, bán thân nuôi miệng, chết bờ
chết bụi, thất sơ thất sở, một cục đất chọi chim, yêu thầm nhớ trộm, tím ruột bầm
gan” và rất nhiều quán ngữ là những cách nói, cách diễn đạt rất đặc trưng của
phương ngữ Nam Bộ như: “té ra, mắc cười, trời đất quỷ thần ơi, rủi quá, mà ngộ,
hú vía, chết cha, đã đành, chỉ tội,…” Ngoài ra còn có những khẩu ngữ mang tính
thông tục cũng được tác giả sử dụng. Đó là những từ ngữ quá tự nhiên, thông
thường, tự nhiên thường chỉ quen dùng trong lớp người bị coi là kém văn hóa như:
“thằng ma cà bông, con quỷ sứ, con quỷ, con trời vật, tổ cha, khỉ khô, thằng cha,
thằng chả, vịt quỷ, cá quỷ…”
Như vậy, Nguyễn Ngọc Tư không chỉ thành công trong việc đưa phương ngữ
vào tác phẩm của mình, làm nên một đặc trưng riêng, một giọng văn riêng đậm chất
Nam Bộ mà còn thành công trong việc đưa một lượng lớn các từ ngữ mang phong
cách khẩu ngữ vào văn chương. Từ khẩu ngữ trong văn Nguyễn Ngọc Tư mang một
phong cách riêng, một cá tính riêng: vừa đậm đà phong vị miền Nam, nhẹ nhàng
đầy nữ tính, vừa dí dỏm, tinh nghịch đầy vẻ trẻ trung nhưng cũng gây ấn tượng
mạnh.
95
Ngôn ngữ giàu chất thơ
Ngôn ngữ trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư không chỉ mang đậm dấu
ấn văn hóa đặc trưng của vùng miền mà ở đó chất thơ của cuộc sống, của nội tâm
con người cũng được bộc lộ đặc sắc qua từng trang viết. Chất thơ trong văn xuôi
Nguyễn Ngọc Tư do nhiều yếu tố kết hợp nhưng về cơ bản là do biểu tượng được
sắp xếp lặp đi lặp lại mở ra nhiều tầng ý nghĩa và tạo âm hưởng trữ tình. Có lẽ
Nguyễn Ngọc Tư không chỉ sử dụng chất thơ để câu chuyện thêm đẹp, lời lẽ và
hình ảnh thêm ý vị mà còn để khơi thêm niềm đau, nỗi xót xa, sự ám ảnh cho con
người khiến trái tim thổn thức xốn xang với những kiếp người nhỏ bé, đau thương.
Chất thơ được thể hiện qua sự cảm nhận của nhân vật khi được hòa mình vào thiên
nhiên, lặng ngắm tự nhiên. Nhân vật trở nên thanh thản, bay bổng cùng vẻ đẹp của
tạo hóa bởi thiên nhiên đã nuôi dưỡng, gìn giữ phần nhân tính tốt đẹp của con
người. Vĩnh (Sầu trên đỉnh PuVan) một mình ngược núi ngắm cánh sầu đông nở
hoa bằng một thái độ chiêm bái trước tự nhiên huyền bí, từ chối trở về cuộc sống
hàng ngày dưới kia đầy đau đớn, mệt nhọc, chán chường, lựa chọn cái chết thanh
thản giữa tự nhiên. Những cánh hoa vô tư, dịu hiền, nhân từ, độ lượng, sáng trong
đã cứu rỗi tâm hồn mệt mỏi của chàng trai thành phố với trái tim u sầu. Ở đó, Vĩnh
trút bỏ được nỗi ưu phiền, nặng nợ trần gian. Bằng (Thềm nắng sau lưng) khao
khát được thả mình giao hòa với thiên nhiên, nghe “bìm bịp kêu thâm u trong bờ
dừa nước” quên mất lời hứa với má, “thả xuồng trôi dập dềnh trên chùm gọng,
đang nói tiếng chim giữa chơi vơi nước lớn”. Phiên (Khói trời lộng lẫy), cậu bé sáu
tuổi, “không nhổ cải bán vì tội nghiệp và kết quả là tôi có một giồng bông cải thắp
nắng lộng lẫy giữa mùa mưa (…) những con cá mang bụng no tròn sẽ được chúng
tôi trả lại cho sông.”
Chất thơ trong ngôn ngữ của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư còn được thể hiện
qua những câu chuyện thắm đượm tình người, cuộc sống mưu sinh, bươn chải của
những gia đình, những con người trên những chiếc ghe theo từng con nước lớn. Tất
cả đã được nhà văn tái hiện rất chân thật, sinh động nhưng cũng không kém phần
mượt mà và duyên dáng. Trong truyện Nhớ sông có đoạn: “Lúc đó con Thuỷ còn
96
mềm xèo nhỏ xíu như con mèo mướp. Hệt như Giang, nó lớn lên trên ghe. Lúc buôn
bán, lúc nấu cơm, ông Chín không bồng được, Giang buộc sợi dây dù vô chân nó,
đầu kia Giang buộc vô mũi ghe.. Bây giờ hỏi lại, Giang nói không có con kinh, con
rạch nào mà ghe chưa đi qua, không có con đường ngang ngõ tắt nào mà ông Chín
không biết. Xuôi dòng, ngược dòng, con nước kém, con nước rong...”. Hay trong
truyện Một dòng xuôi mải miết người đọc sẽ phần nào hiểu thêm về nghề “nuôi vịt
chạy đồng” trên những cánh đồng mênh mang, bạt ngàn “cò bay thẳng cánh” rất đặc
trưng ở vùng sông nước Nam Bộ: “Mùa gặt năm nào anh cũng xuôi ghe chở bầy vịt
đổi đồng về xóm Rạch Giồng này. Rồi cất cái chòi lợp bằng lá chuối, quây lưới cầm
vịt trên khúc đê trồng so đũa. Từ chỗ này, mỗi ngày anh lang thang lùa vịt đi ăn
khắp cả vạt đồng, qua tới vườn Xóm Lung. Tới khi người ta bừa đất chuẩn bị sạ vụ
mới, Sang lại ra đi”. Cuộc sống sông nước hiện lên đầy đủ gắn với nhân vật “tôi”
trong Dòng nhớ: “Nửa đêm, má tôi đi ém mùng lại, tôi thức giấc, ngó ra chỉ thấy
đốm lửa lập loè, lúc đỏ rực, lúc lại tắt thiu thiu. Má tôi ngồi trong mùng lặng lẽ
nhìn ba, còn ba thì nhìn ra sông. Sông cách nhà một cái bến dài chẻ ngang đám
dừa nước. Nếu không vướng tầm mắt vào đám ô rô mọc lởm chởm chồm từ mé lá
lên, không vướng mấy bụi ráng, bụi lức dại, có thể thấy lồng lộng một khúc sông.
Đêm sáng tỏ trăng, ngồi trên nhà có thể thấy một dòng chảy líu ríu, sáng loáng.
Ban đêm, con sông trước nhà tôi không ngủ, nó thức theo những chuyến tàu rầm rì
chảy qua, theo tiếng mái chèo quẫy chách bụp rất đều. Dài từ ngã ba Vàm đến đây,
nước chảy êm, khuất gió, những chiếc ghe đi đêm hay đậu lại, nghỉ ngơi. Lâu lâu,
có chiếc bông hàng ghe lặng lẽ neo lại ngoài bến nhà tôi, treo ngọn đèn chong lên
cây đước chơm chởm những cái nhánh con, mỗi nhóm lủng lẳng trái khóm, trái bầu
dầm nắng mưa đã teo héo. Không thấy bóng người, chỉ nghe tiếng gàu tát nước cọ
vô xuồng xao xác. Hừng đông chạy xuống bến thì ghe đã đi rồi. Những đêm đó, ba
tôi hút thuốc dữ, cứ nhìn chong chong ra ngọn đèn đỏ ối, nhỏ nhoi, buồn hiu ngoài
kia”. Qua đoạn văn trên, nhân vật “tôi” đã vẽ nên một bức tranh tiêu biểu về không
gian miền quê Nam Bộ đầy chất thơ và nhạc. Không gian ấy hiện lên là hình ảnh
những khúc sông lồng lộng với những bụi ô rô, bụi lức dại, những cây đước; với vẻ
97
đẹp lung linh của ánh trăng soi toả khúc sông. Và dòng sông ấy đang vận động theo
những chi lưu, có hành trình đi rõ ràng, có những lúc dữ dội nhưng có những lúc êm
đềm. Và để làm nên sự sống động của con sông là sự có mặt của những con thuyền
đang dọc ngang theo những hành trình đã định... Và dòng sông của tự nhiên ấy
dường như cũng là những dòng sông cuộc đời, những dòng sông thấm thía tình
người, tình đời. Người Nam Bộ gắn kết với dòng sông như máu thịt. Dòng sông trở
thành những người bạn tâm tình, nơi lưu giữ suốt cuộc đời của người dân nơi đây.
Trên dòng sông này, cha của nhân vật “tôi” trong Dòng nhớ chưa một ngày nguôi
thao thức. Tất cả đều gắn cuộc đời với dòng sông. Dòng sông trở thành một không
gian văn hoá cho người Nam Bộ sinh sống. Trong Cánh đồng bất tận có đoạn: “Và
dường như cách giao tiếp ngấm ngầm của tôi và Điền cũng trong chuỗi bất thường,
nó làm cho mối quan hệ với cha thêm rời rạc. Những bữa ăn nối tiếp nhau trong im
lặng. Lúc và cơm, tôi hay bị ảo giác, tưởng mình đang ngồi trên cánh đồng của chín
năm trước. Một cánh đồng miên viễn với gió lắt lay những khói nắng héo xèo, một
nhúm mây rất mỏng và rời rạc bay tha thểu trên cao. Đường chân trời mờ mờ xa
ngái. Một vài gò mả loang lổ dưới chòm trâm bầu. Tiếng chim kêu nhỏ từng giọt
thiu thỉu. Mùi rạ mới quyện với bùn tanh tanh. Bầy vịt rúc đầu vào nách, ngủ ơ hờ
dưới bóng cây tra treo từng chùm bông vàng tuyệt vọng lay như những chiếc
chuông câm.” Lời của “tôi” trong Cánh đồng bất tận lại vẽ lên một không gian vời
vợi, một không gian ảm đạm đặc thù của miền đất trũng Nam Bộ. Phải chăng trên
những cánh đồng thẳng cánh cò bay, một vài ngôi làng nho nhỏ sao lấp được
khoảng không gian vô tận kia. Những người nuôi vịt chạy đồng phải chăng cũng
góp phần cho khoảng không gian ấy bớt cô đơn, hiu hắt.
Ngôn ngữ trần thuật
Ngoài việc sử dụng ngôn ngữ mang sắc thái Nam Bộ đặc trưng để thể hiện nét
đặc sắc của văn hóa vùng miền, Nguyễn Ngọc Tư còn sử dụng ngôn ngữ trần thuật
theo cấu trúc tự sự để làm nổi bật tâm lý, khắc họa sâu sắc, chân thật hơn về chân
dung của nhân vật. Việc kết hợp giữa cách kể chuyện từ ngôi xưng thứ nhất với
ngôn ngữ “rặt Nam Bộ” đã tạo được cảm giác gần gũi, chân thành, tin tưởng với
98
người đọc. Bởi sử dụng từ địa phương trong văn học đôi lúc trở thành một trở ngại
lớn vì sẽ có người không hiểu được những phương ngữ đó. Nhưng khi được trải
nghiệm cùng nhân vật, hòa mình vào không gian văn hóa Nam Bộ trong truyện
ngắn của Nguyễn Ngọc Tư thì một vài chỗ khó hiểu về phương ngữ, người đọc
cũng sẽ dễ dàng thẩm thấu thông qua việc cảm nhận bằng tâm lí, cảm xúc của nhân
vật.
Trong phương thức tự sự, ngôn ngữ trần thuật không những đóng vai trò then
chốt, mà còn thể hiện phong cách, cái nhìn, giọng điệu, cá tính của tác giả. Ngôn
ngữ trần thuật mang tính chính xác, cá thể hóa. Mỗi câu, mỗi chữ trong tác phẩm có
thể chứa đựng nhiều tầng nghĩa, nhiều cách giải thích. Ngôn ngữ trần thuật còn là
ngôn ngữ đa thanh vì đặc trưng của ngôn ngữ văn xuôi là sự tác động qua lại rất
phức tạp giữa tiếng nói của tác giả, người kể chuyện và nhân vật, giữa ngôn ngữ
miêu tả và ngôn ngữ được miêu tả. Ngôn ngữ người kể chuyện trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư có khi là lời trần thuật trực tiếp, lời gián tiếp, lại có khi là nửa
gián tiếp, nửa trực tiếp. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật cũng chính là một cách để
người đọc cảm nhận được tính cách, suy nghĩ của nhân vật. Những lời đối thoại
giữa các nhân vật trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư nhiều khi không đảm bảo yêu
cầu của một cuộc đối thoại thông thường. Người tham gia cuộc đối thoại có khi
không trả lời, nếu có thì đáp lại bằng một phát ngôn không cụ thể. Trong truyện
ngắn Cái nhìn khắc khoải, cuộc đối thoại giữa nhân vật “cô Út” và “anh Hai” thực
chất chỉ là những lời độc thoại của “anh Hai”, còn nhân vật “cô Út” chỉ thốt lên
“anh Hai”.
“- Sáng nay tôi gặp thằng bạn, nó mới chạy bầy vịt từ nông trường qua. Tôi
hỏi, nghe nó nói thợ gặt An Bình đó.
- Anh Hai!
- Ảnh tên Sinh phải hôn, cô Út? Ờ ảnh tên Sinh, ảnh… cũng đang gặt bên đó,
cô Út à.
- Anh Hai!
- Tàu từ xã chạy nông trường lúc năm giờ, ngang đây, chắc cỡ sáu rưỡi. Cô
99
ráng đón chuyến đó. Để lỡ tới bữa sau, sợ mấy ảnh lại chuyển đồng, kiếm mệt lắm.
Thôi, tính vậy nghen, cô Út.”
Lí do cô Út chỉ biết kêu từ anh Hai là vì nhân vật cảm thấy vừa mang ơn tấm
lòng cao thượng, nhân nghĩa của ông Hai vừa cảm thấy như có lỗi khi không thể
cùng ông gây dựng cuộc sống chung. Còn người phát ngôn là ông Hai, dường như
đang cố nói cho nhanh những gì muốn nói như sợ người nghe thấy được cảm xúc
thực của mình.
Nguyễn Ngọc Tư ít thể hiện hành động của nhân vật mà chủ yếu tập trung
khai thác đời sống nội tâm của nhân vật. Vì vậy, lời đối thoại chiếm số lượng ít hơn
so với lời người kể chuyện.
Dễ dàng nhận biết lời đối thoại của các nhân vật tách hẳn ra khỏi lời người kể
chuyện qua những dấu gạch đầu dòng.
“- Gió mát thiệt, hen?
- Lương!
- Ôm tui đi.
- Ý trời, người ta dòm
- Thây kệ họ, ôm tui đi.
- Thôi, kỳ lắm…” (Bến đò xóm Miễu)
Có khi lời đối thoại của nhân vật trong truyện nằm trong lời người dẫn
chuyện, không có dấu hiệu xuống dòng và gạch đầu dòng như thông thường. Như
trong truyện Huệ lấy chồng, kiểu lời trần thuật đan xen với lời thoại của nhân vật
cũng được Nguyễn Ngọc Tư sử dụng để nhằm tăng hiệu quả biểu đạt: “Huệ cười,
người ta vậy, mầy còn nhắc làm chi. Mà, sao bữa nay gió lạnh quá chừng, gió te tái
đưa tới một tiếng gà đang gáy, nghe từng giọt, từng tiếng buồn thỉu.”
Những lời nửa trực tiếp trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư vẫn là lời người
trần thuật nhưng đồng thời là tiếng lòng của nhân vật. Dòng tâm trạng nhân vật đan
xen trong lời người trần thuật. Nó là ý nghĩ mang ngôn ngữ bên trong của nhân vật
song tồn tại như những diễn từ của người trần thuật. Đó là ngôn ngữ trong trẻo
nhưng nhiều suy tư của Diệp ở những đoạn độc thoại nội tâm được “thốt lên” bởi
100
người trần thuật: “Đâu nè, đâu phải muốn là làm, cũng phải suy nghĩ đắn đo dữ
lắm. Coi lại, làm gì có chuyện con người được sống hồn nhiên như nước chảy mây
trôi? Phải chọn lựa và trả giá chớ…” (Nước chảy mây trôi). Đó là lời nói đầy yêu
thương mà người trần thuật chỉ có thể có được từ ngôn ngữ độc thoại của trái tim
người mẹ: “Có nên nói hay không lời xưa rày má thường dạy thằng con trai lớn,
rằng sống trên đời, thấy phải thì làm, mà làm cũng đừng nghĩ sẽ được đáp đền xứng
đáng, vì có những thứ quý giá lắm, chẳng gì bù đắp được đâu.” (Qua cầu nhớ
người)
Từ điểm nhìn nhân vật, mượn ngôn ngữ giọng điệu nhân vật, người trần thuật
trong nhiều tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư đã kể chuyện với con mắt của chính
người trong cuộc. Người kể chuyện dùng lời văn trần thuật để miêu tả nội tâm, nói
lên nỗi lòng của nhân vật. “Cô thấy mình giống như cây cỏ ven đường, người ta đi
qua đạp, đi lại đạp vẫn ngoi lên sống, sống cỗi cằn. Những mùa lam lũ. Những mùa
cực nhọc. Một mình chống chọi. Đàn ông con trai coi được một chút mới lòng vòng
ở ngoài đã nghe thiên hạ rần lên “Thứ gái hư đâm đầu vô làm gì.” Ai mà muốn, chỉ
tại con nhỏ, thấy gió yêu gió, thấy hoa yêu hoa, đam mê bồng bột. Nghĩ mình học
chưa đến đâu nhưng là học những bài học bự nhất, đắt nhất.” (Giao thừa)
Bên cạnh việc khai thác và vận dụng hiệu quả vốn từ địa phương Nam Bộ và
khả năng vận dụng sáng tạo lời ăn tiếng nói hằng ngày (giàu hình ảnh và giàu sắc
thái biểu cảm) của người dân xứ Nam, Nguyễn Ngọc Tư còn vận dụng linh hoạt
ngôn ngữ trần thuật, hình thức đối thoại và độc thoại nội tâm để làm nổi bật thế giới
tâm hồn của nhân vật. Cách sử dụng ngôn ngữ như vậy đã thể hiện rất rõ những
phẩm chất về văn hóa, xã hội và con người vùng đồng bằng sông Cửu Long một
cách cụ thể và sinh động. Đặc điểm này ở một góc độ nào đó cũng có thể xem như
“cảm hứng về nguồn” rất mãnh liệt trong cái nhìn và tiếp cận hiện thực đời sống từ
góc nhìn văn hóa – phong cách riêng độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư.
Tiểu kết
Qua việc khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy
nghệ thuật xây dựng nhân vật trong các truyện ngắn của chị đã góp phần làm nổi
101
bật tính cách và phẩm chất chung của con người Nam Bộ đồng thời cũng tạo được
một chất riêng trong phong cách sáng tác, thể hiện một lối viết văn tự nhiên,
không màu mè, làm duyên làm dáng, khẳng định được vị trí của mình trong làng
văn chương hiện đại.
Nhà văn viết bằng lời ăn tiếng nói hằng ngày của người dân quê chị bởi theo
chị chỉ có ngôn ngữ ấy mới lột tả được cái tình cái nghĩa của người dân quê mình.
Chất Nam Bộ trong mỗi trang văn của chị đậm đặc từ việc miêu tả ngoại hình, tính
cách, suy nghĩ nội tâm cho tới ngôn từ của nhân vật. Nỗi đau, sự cô đơn, sự vất vả,
lam lũ của từng cảnh ngộ đều được nhà văn xây dựng qua những chi tiết, ngôn
102
ngữ giản dị nhưng rất đỗi sâu sắc.
KẾT LUẬN
Với cái nhìn chân chất, đầy cảm xúc, Nguyễn Ngọc Tư đã thổi vào hệ thống
nhân vật của mình những nét tính cách sinh động, bề ngoài giản dị nhưng nội tâm
sâu sắc vô cùng. Qua những nhân vật ấy, Nguyễn Ngọc Tư muốn gửi gắm những
quan niệm nhân sinh về con người, cuộc sống. Nhà văn cảm nhận con người trong
dạng thức nhân bản đời thường. Trong quá trình sáng tác, chị không lý tưởng hóa
con người. Nguyễn Ngọc Tư cảm nhận trong mỗi con người, ai cũng có những
phẩm chất, những thói tật, những cái tốt, những cái xấu và đương nhiên phẩm chất
phải là cơ bản làm nền tảng cho đạo đức bền vững. Theo Nguyễn Ngọc Tư, con
người bao giờ cũng gắn với một gia đình, một quê hương, một nghề nghiệp. Ở đó,
họ có những mối quan hệ, có niềm vui và nỗi buồn, có niềm hạnh phúc và nỗi khổ
đau. Họ không bị cuốn theo những vòng quay của cuộc đời, những lí do để “bỏ
qua” những nỗi bất hạnh của người khác. Nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư hiện lên
như những người nghĩa hiệp mang đậm chất Nam Bộ. Họ thành thật với chính
mình, bao dung, độ lượng, coi trọng tình cảm hơn mọi thứ danh lợi. Họ sống thành
thật với con tim mình và với mọi người. Nguyễn Ngọc Tư đã khắc hoạ thành công
nét đẹp tâm hồn ấy như một đặc trưng của người dân Nam Bộ qua những trang viết
của mình.
Trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, Nguyễn Ngọc Tư không chủ
định xây dựng nhân vật điển hình, tính cách điển hình mà chị muốn xây dựng
những con người rất đời, rất thực tế. Họ giản dị, chân phác yêu thương mình và yêu
thương người khác. Nhà văn tinh tế trong việc chọn lọc và sáng tạo chi tiết. Mỗi chi
tiết đều chứa đựng những hàm ý nghệ thuật sâu sắc thể hiện những tư tưởng và
quan điểm nghệ thuật của tác giả. Nhiều biện pháp nghệ thuật, từ việc miêu tả ngoại
hình, hành động cho đến khắc hoạ tính cách và tâm lí nhân vật đã được vận dụng
một cách tự nhiên, trong đó nghệ thuật độc thoại nội tâm trong dòng chảy ý thức
nhân vật tạo nên một nét riêng đặc sắc của Nguyễn Ngọc Tư. Trong nhiều trang
viết, chị tỏ ra có sự am hiểu sâu sắc những trạng thái tâm lí phức tạp của con người.
103
Đặc biệt, chị rất thành công trong việc diễn tả những cung bậc cảm xúc, trạng thái
cô đơn, day dứt, đau đớn của nhân vật. Tất cả tạo nên nét tính cách đặc trưng của
con người Nam Bộ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Ngôn ngữ Nam Bộ được
coi là một chất liệu chính để tạo nên phong cách của Nguyễn Ngọc Tư.
Tìm hiểu truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư dưới góc nhìn từ loại hình nhân
vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật, chúng tôi nhận thấy nhà văn đã khẳng định
vị trí của mình trong nền văn học đương đại bằng cái “tài” và cái “tâm” của người
cầm bút. Nhà văn có sự sáng tạo, tìm tòi, đổi mới cảm hứng sáng tạo và bút pháp
thể hiện. Những trang viết của chị đều xuất phát từ tình cảm, trái tim của một con
người yêu quê hương tha thiết và luôn viết về hiện thực cuộc sống đang diễn ra
xung quanh. Trong dòng chảy chung của văn xuôi đương đại, Nguyễn Ngọc Tư đã
tìm cho mình một lối đi riêng, một phong cách riêng để lại ấn tượng sâu đậm trong
104
lòng bạn đọc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO Tạ Duy Anh (2000), Nghệ thuật viết truyện ngắn và ký, Nxb Thanh niên 1.
Lại Nguyên Ân (1994), Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới 2.
Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG, Hà Nội 3.
Nguyễn Thành Ngọc Bảo (2008), Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, 4.
Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
5. Lê Huy Bắc (1998), Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, Tạp chí
Văn học, (số 9), tr. 66-67
6. Phan Quý Bích (2006), Sức lôi cuốn của ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư, Văn
nghệ trẻ, (số 46), tr. 10
7. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975 - 1995: Những đổi mới cơ
bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội
Nguyễn Minh Châu (1999), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội 8.
Chu Xuân Diên (1999), Cơ sở văn hoá, Nxb ĐHQG, Hà Nội 9.
10. Trần Phỏng Diều (2006), Thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư, Văn nghệ quân đội, (số 467), tr.94
11. Đăng Dung, Nguyễn Cương (1999), Các vấn đề của khoa học văn học, Nxb
KHXH, Hà Nội
12. Hà Minh Đức (chủ biên) (1998), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Văn học
13. Hà Minh Đức (chủ biên) (2008), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội
14. Lương Thúy Hà (2009), Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học KHXH&NV Hà Nội
15. Vũ Thị Thu Hà (2006), Khám phá thế giới nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học KHXH&NV Hà Nội
16. Lê Bá Hán (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG, Hà Nội
17. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
18. Nguyễn Thái Hòa (2001), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục
19. Trần Thiện Khanh (2006), Bàn lại với tác giải Bùi Việt Thắng, Tạp
105
chí Nghiên cứu văn học, (số 8)
20. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam (2002), Lí luận văn học,
Nxb Giáo dục, Hà Nội
21. Trần Thị Thanh Mai (2011), Nhân vật người phụ nữ trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu và Phan Thị Vàng Anh, Luận văn thạc sĩ, Đại học
KHXH&NV Hà Nội
22. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà
văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội
23. Phạm Phú Phong (2008), Lời đề từ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Tạp
chí nghiên cứu văn học, (số 6)
24. Trần Đình Sử (1993), Dẫn luận Giáo trình Thi pháp học, Nxb Đại học Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh
25. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học - một số vấn đề lí luận và lịch sử, Phần 1,
Nxb Đại học Sư phạm
26. Trần Đình Sử (2008), Tự sự học - một số vấn đề lí luận và lịch sử, Phần 2,
Nxb Đại học Sư phạm
27. Huỳnh Công Tín (2006), Nguyễn Ngọc Tư: Nhà văn trẻ Nam bộ, Tạp chí
Tạp chí Văn nghệ đồng bằng sông Cửu Long, (số 15)
28. Bùi Việt Thắng (2006), Bài học văn chương từ cánh đồng bất tận, Tạp chí
Nghiên cứu văn học, (số 7), tr.132
29. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội
30. Bùi Việt Thắng (2007), Truyện ngắn những vấn đề lí luận và thực tiễn thể
loại, Nxb ĐHQG, Hà Nội
31. Nguyễn Ngọc Tư (2003), Ngọn đèn không tắt, Tập truyện ngắn, Nxb Trẻ
32. Nguyễn Ngọc Tư (2003), Biển người mênh mông, Nxb Kim Đồng
33. Nguyễn Ngọc Tư (2003), Giao thừa, Tập truyện ngắn, Nxb Trẻ
34. Nguyễn Ngọc Tư (2004), Nước chảy mây trôi, Truyện ngắn và kí, Nxb Văn
nghệ TPHCM
35. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Nxb Văn hoá Sài
106
Gòn, 2005
36. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư, Nxb Trẻ
37. Nguyễn Ngọc Tư (2007), Ngày mai của những ngày mai, Nxb Phụ nữ
38. Nguyễn Ngọc Tư (2010), Khói trời lộng lẫy, Tập truyện ngắn, Nxb Thời đại
39. Nguyễn Ngọc Tư (2012), Gió lẻ và chín câu chuyện khác, Tập truyện ngắn,
Nxb Trẻ
40. Nguyễn Ngọc Tư (2014), Cánh đồng bất tận, Tập truyện ngắn, Nxb Trẻ
41. Nguyễn Ngọc Tư (2014), Đảo, Tập truyện ngắn, Nxb Trẻ
42. Nhiều tác giả (1987), Lí luận văn học tập 1, Nxb Giáo dục
43. Nhiều tác giả (1987), Lí luận văn học tập 2, Nxb Giáo dục
44. Nhiều tác giả (1987), Lí luận văn học tập 3, Nxb Giáo dục
45. Tâm An, Nguyễn Ngọc Tư của những cơn “gió lẻ”,
http://www.nxbtre.com.vn/diem-tin/nguyen-ngoc-tu-cua-nhung-con-quotgio-lequot-
1508.html, 29/09/2008
46. Thái Phan Vàng Anh, Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam
đương đại, http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c128/n1202/Ngon-ngu-tran-
thuat-trong-truyen-ngan-Viet-Nam-duong-dai.html, 02/12/2008
47. Nguyễn Trọng Bình, Giọng điệu chủ yếu trong truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư, http://www.viet-studies.net/NNTu/NNT_NguyenTrongBinh_2.htm,
13/09/2010
48. Nguyễn Trọng Bình, Đặc trưng ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư,
http://www.viet-studies.net/NNTu/NNT_NguyenTrongBinh_3.htm, 23/09/2010
49. Nguyễn Trọng Bình, Phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nhìn từ phương diện
nội dung tự sự, http://www.viet-studies.net/NNTu/NNT_NguyenTrongBinh_4.htm,
26/09/2010
50. Nguyễn Trọng Bình, Những dạng tình huống thường gặp trong truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư, http://www.viet-studies.net/NNTu/NNT_NguyenTrongBinh_5.htm,
30/09/2010
51. Nguyễn Trọng Bình, Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn văn hóa,
107
http://www.viet-studies.net/NNTu/NNT_NguyenTrongBinh_6.htm, 25/10/2010
52. Nguyễn Trọng Bình, Nguyễn Ngọc Tư và hành trình trở về, http://www.viet-
studies.net/NNTu/NguyenTrongBinh_v_BuiCongThuan.htm, 27/05/2011
53. Võ Đắc Danh, Nguyễn Ngọc Tư: Tôi như kẻ đẽo cày giữa đường,
http://www.viet-studies.net/NNTu/VoDacDanh_NguyenNgocTu.htm, 27/10/2008
54. Trần Hữu Dũng, Nguyễn Ngọc Tư đặc sản miền Nam, http://www.viet-
studies.net/NNTu/NNTu_THD.htm, 25/01/2004
55. Trần Hữu Dũng, Về Cà Mau thăm Nguyễn Ngọc Tư, Bút kí, http://www.viet-
studies.net/NNTu/ThamNNTu_THDung.htm, 23/08/2005
56. Đào Duy Hiệp, Chất thơ trong Cánh đồng bất tận,
http://www.khoavanhoc.edu.vn/liluan-phebinh/183-ts-ao-duy-hip-cht-th-trong-
canh-ng-bt-tn, 18/03/2015
57. Trần Yên Hòa, Từ “Bóng đè” đến “Cánh đồng bất tận”,
http://www.xuquang.com/j15/index.php?option=com_content&task=view&id=291
&Itemid=1 , 13/08/2006
58. Nguyễn Tiến Hưng, Nguyễn Ngọc Tư - cô đơn lên dốc,
http://www.tienphong.vn/van-nghe/nguyen-ngoc-tu-co-don-len-doc-35845.tpo,
21/01/2006
59. Trần Hoàng Thiên Kim, Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư: Tôi “điên” không... đều,
http://vnca.cand.com.vn/Ly-luan/Nha-van-Nguyen-Ngoc-Tu-Toi-dien-khong-deu-
325434/, 15/02/2008
60. Phạm Thái Lê, Hình tượng con người cô đơn trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư, http://thvl.vn/?p=12534, 10/02/2009
61. Hà Linh, Chia sẻ cùng Nguyễn Ngọc Tư và “Cánh đồng bất tận”,
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/chia-se-cung-nguyen-ngoc-
tu-va-canh-dong-bat-tan-1888023.html, 12/04/2006
62. Hoàng Thiên Nga, Đọc Nguyễn Ngọc Tư qua Cánh đồng bất tận,
http://www.viet-studies.net/NNTu/DocCDBT_HTNga.htm, 24/09/2005
63. Nguyễn Thanh Sơn, Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu,
108
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5872&rb=0102, 26/11/2005
64. Trần Ngọc Thêm, Tính cách văn hóa Nam Bộ như một hệ thống,
http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-nam-bo/408-tran-
ngoc-them-tinh-cach-van-hoa-nguoi-viet-nam-bo.html, 16/3/2008
65. Anh Vân, Nguyễn Ngọc Tư: Tôi viết như cảm xúc của mình,
109
http://giaitri.vnexpress.net/