BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Lê Thị Mỹ Duyên
NHỮNG KHÓ KHĂN TÂM LÍ
CỦA MẸ ĐƠN THÂN TRONG VIỆC
GIÁO DỤC CON
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Lê Thị Mỹ Duyên
NHỮNG KHÓ KHĂN TÂM LÍ
CỦA MẸ ĐƠN THÂN TRONG VIỆC
GIÁO DỤC CON
Chuyên ngành : Tâm lí học
Mã số : 8310401
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ TỨ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào khác.
TP.HCM, ngày 29 tháng 9 năm 2018
Tác giả
Lê Thị Mỹ Duyên
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến quý thầy cô giảng dạy lớp Cao học
Tâm lí học khóa 27 và quý thầy cô Phòng Sau đại học đã truyền đạt kiến thức nền
tảng và tạo điều kiện thuận lợi để tác giả tham gia học tập và hoàn thành luận văn.
Xin bày tỏ lòng cảm ơn đến các Admin của "Hội những bà mẹ đơn thân" đã
tạo điều kiện cho cho tác giả được tham gia giao lưu, lắng nghe chia sẻ tâm tư của
những người mẹ đơn thân; nhóm khách thể nghiên cứu đã nhiệt tình hợp tác và giúp
đỡ tác giả trong việc thu thập thông tin nghiên cứu.
Tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến PGS.TS. Nguyễn Thị Tứ
đã truyền cảm hứng nghiên cứu khoa học, đã dành thời gian quý báu, tận tình hướng
dẫn tác giả trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn đến các bạn Cao học lớp Tâm lí học K26 đã
nhiệt tình giúp đỡ, chia sẻ kiến thức; gia đình, bạn bè, đã luôn bên cạnh động viên,
khuyến khích, ủng hộ và giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập và thực hiện
luận văn.
TP.HCM, ngày 29 tháng 9 năm 2018
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NHỮNG KHÓ KHĂN TÂM LÍ
CỦA MẸ ĐƠN THÂN TRONG VIỆC GIÁO DỤC CON .............. 6
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân
trong việc giáo dục con ........................................................................................ 6
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về mẹ đơn thân ở nước ngoài ........................... 6
1.1.2. Các công trình nghiên cứu mẹ đơn thân trong nước .................................. 10
1.2. Cơ sở lí luận về những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo
dục con ............................................................................................................. 13
1.2.1. Khó khăn tâm lí .......................................................................................... 13
1.2.2. Mẹ đơn thân ............................................................................................... 16
1.2.3. Hoạt động giáo dục con của mẹ đơn thân .................................................. 19
1.2.4. Khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con ........................ 22
1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong
việc giáo dục con ........................................................................................ 26
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................... 32
Chương 2. THỰC TRẠNG NHỮNG KHÓ KHĂN TÂM LÍ CỦA MẸ
ĐƠN THÂN TRONG VIỆC GIÁO DỤC CON ................................ 33
2.1. Thể thức nghiên cứu .......................................................................................... 33
2.1.1. Mẫu khách thể ............................................................................................ 33
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu thực trạng ........................................................... 33
2.2. Thực trạng những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con ..................................................................................................... 36
2.2.1. Kết quả chung về những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con ............................................................................................... 36
2.2.2. Những khó khăn tâm lí về mặt nhận thức của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con ............................................................................................... 39
2.2.3. Những khó khăn tâm lí về mặt thái độ của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con ............................................................................................... 41
2.2.4. Những khó khăn tâm lí về mặt hành vi của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con ............................................................................................... 43
2.2.5. So sánh sự khác biệt những vấn đề khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân
theo lí do trở thành mẹ đơn thân ................................................................ 45
2.2.6. Cách thức đối mặt và giải quyết những khó khăn tâm lí của mẹ đơn
thân trong việc giáo dục con ...................................................................... 47
2.2.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành những khó khăn tâm lí mẹ
đơn thân trong việc giáo dục con ............................................................... 49
2.2.8. Mô tả chân dung tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con ............ 51
2.3. Một số biện pháp giúp mẹ đơn thân giảm bớt những khó khăn tâm lí
trong việc giáo dục con .................................................................................... 60
2.3.1. Cơ sở đề xuất giải pháp ............................................................................. 60
2.3.2. Các nhóm biện pháp hỗ trợ, giảm bớt những khó khăn tâm lí trong
việc giáo dục con của mẹ đơn thân. .......................................................... 63
2.3.3. Đánh giá tính cần thiết và khả thi của các biện pháp ................................. 66
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 71
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................ 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 75
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Nội dung viết tắt
ĐTB
Điểm trung bình
ĐLC
Độ lệch chuẩn
MĐKK
Mức độ khó khăn
TCT
Tính cần thiết
TKT
Tính khả thi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê đặc điểm mẫu khách thể nghiên cứu ..................................... 33
Bảng 2.2. Bảng quy đổi điểm ................................................................................ 34
Bảng 2.3. ĐTB và thứ hạng tổng quát những mặt khó khăn tâm lí của mẹ
đơn thân trong việc giáo dục con .......................................................... 37
Bảng 2.4. Kết quả cụ thể những khó khăn tâm lí về mặt nhận thức của mẹ
đơn thân trong việc giáo dục con .......................................................... 39
Bảng 2.5. Kết quả khó khăn tâm lí về mặt thái độ của mẹ đơn thân trong
việc giáo dục con ................................................................................... 41
Bảng 2.6. Kết quả khó khăn tâm lí về mặt hành vi của mẹ đơn thân trong
việc giáo dục con ................................................................................... 43
Bảng 2.7. Sự khác biệt những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân theo lí do trở
thành mẹ đơn thân ................................................................................. 45
Bảng 2.8. Cách thức giải quyết những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân ............. 47
Bảng 2.9. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành những khó khăn tâm lí
của mẹ đơn thân .................................................................................... 49
Bảng 2.10. Bảng điểm trung bình về tính cần thiết của các biện pháp ................... 66
Bảng 2.11. Bảng điểm trung bình về tính khả thi của các biện pháp ...................... 68
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Điểm trung bình mức độ khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân theo lý
do làm mẹ đơn thân ............................................................................... 46
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Làm mẹ là thiên chức cao cả của người phụ nữ nên bất cứ người con gái nào
cũng có ước muốn kết hôn và sinh con. Nhưng trong xã hội ngày nay, dưới tác động
của nền kinh tế thị trường, sự du nhập văn hóa của Phương Tây đã làm ảnh hưởng
và thay đổi nhiều đến các giá trị sống của người phụ nữ. Họ không còn đặt nặng vấn
đề kết hôn rồi mới sinh con. Trên một bài báo khoa học tác giả Nguyễn Thị Tứ đã
dẫn lại số liệu thống kế xã hội năm 2007, có tới hơn 2 triệu phụ nữ chọn lối sống
độc thân, tỉ lệ độc thân chiếm khoảng 2,5% dân số Việt Nam trong đó chủ yếu là nữ
giới với tỷ lệ 87,6% tổng số người độc thân. Ngày nay xu hướng làm mẹ đơn thân
đang trở nên phổ biến trên toàn thế giới. Tại Mỹ vào năm 1960 tỉ lệ bố mẹ đơn thân
chỉ chiếm 9% nhưng đến năm 2000 con số này đã tăng lên 28%. Còn ở Úc năm
2003, tỉ lệ bố mẹ đơn thân là 14% nhưng có tới 31% những trẻ sơ sinh ra đời ở nước
này là từ những bà mẹ chưa kết hôn. Tại Anh số gia đình đơn thân chiếm 21% số
gia đình ở nước này.
Tuy nhiên, việc trở thành mẹ đơn thân và nuôi dạy một đứa trẻ nên người là
điều không dễ dàng. Bởi vì, mẹ đơn thân phải đối mặt với rất nhiều những khó khăn
về mặt vật chất lẫn tinh thần và đặc biệt là trong việc giáo dục con. Bởi vì người mẹ
lúc này phải đóng cả hai vai trò vừa làm cha vừa làm mẹ. Càng khó khăn hơn khi
đứa trẻ ngày một lớn lên sự thay đổi về tâm sinh lí theo từng giai đoạn lứa tuổi là
thách thức đối với những người mẹ đơn thân khi họ không có đầy đủ kiến thức về
nuôi dạy con, đặc biệt là với đứa con khác giới tính với mình. Bên cạnh đó, dư luận
xã hội, các áp lực từ gia đình sự dè biểu, thành kiến, dị nghị của mọi người lên trên
người phụ nữ “không chồng mà có con” càng tạo ra nhiều áp lực cho người mẹ gây
ra sự khó khăn trong việc giáo dục con của mẹ đơn thân.
Có thể thấy, người mẹ đơn thân gặp rất nhiều những khó khăn tâm lí trong
cuộc sống, đặc biệt là việc giáo dục con. Họ rất cần được sự quan tâm, chia sẽ giúp
đỡ từ người thân, bạn bè, xã hội. Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam chưa có nhiều
công trình nghiên cứu đi sâu về tâm lí mẹ đơn thân và chưa một công trình nghiên
cứu nào về những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc nuôi dạy con. Việc
2
tìm hiểu cụ thể, chi tiết những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục
con là một điều rất cần thiết để có thể giúp người mẹ đơn thân giảm bớt những khó
khăn tâm lí để việc giáo dục con có hiệu quả hơn.
Vì các lí do kể trên mà đề tài “Những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân
trong việc giáo dục con” được xác lập.
2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát thực trạng những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con
3. Đối tuợng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tuợng nghiên cứu
Những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục cho con.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu bao gồm 30 mẹ đơn thân, có con trong độ tuổi đi học
(từ 3 tuổi đến 25 tuổi), trên địa bàn tỉnh Bình Dương và Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
4.1. Về đối tượng nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con được thể hiện qua ba mặt: Nhận thức, thái độ và hành vi.
4.2. Về khách thể nghiên cứu
Mẹ đơn thân đang tham gia trực tiếp vào việc giáo dục con là những người
mẹ có trình độ, có sự hiểu biết và tiếp cận với các phương tiện truyền thông hiện đại
(internet, mạng xã hội...).
5. Giả thuyết khoa học
- Mẹ đơn thân có gặp khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con và khó khăn tâm
lí được thể hiện trên cả ba mặt: Nhận thức, thái độ và hành vi. Trong đó khó khăn
tâm lí về mặt thái độ là cao nhất.
- Có hai nhóm yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong
việc giáo dục con là yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận về khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con.
3
6.2. Khảo sát những khó khăn tâm lí tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục
con.
6.3. Đề xuất một số biện pháp giúp giảm thiểu những khó khăn tâm lí của mẹ
đơn thân trong việc giáo dục con.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Cách tiếp cận trong nghiên cứu
Đề tài tiến hành dựa trên cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu theo hướng tiếp cận
hệ thống - cấu trúc, hướng tiếp cận hoạt động - thực tiễn .
* Hướng tiếp cận hệ thống - cấu trúc
Dựa trên hệ thống cấu trúc để xây dựng cơ sở lí luận về khó khăn tâm lí của
mẹ đơn thân trong việc giáo dục con và phân tích một cách hệ thống dưới nhiều góc
độ. Bên cạnh đó, những khó khăn tâm lí này cũng được xem xét và phân tích đánh
giá trong các mối quan hệ với các thành phần khác trong cấu trúc nhân cách của con
người, đặc biệt là mối quan hệ với những phẩm chất và năng lực của bản thân.
* Hướng tiếp cận thực tiễn
Việc nghiên cứu trong đề tài sẽ dựa vào những hoạt động thực tiễn của mẹ đơn
thân trong việc giáo dục con để tìm hiểu những khó khăn tâm lí thường gặp trong
việc giáo dục của họ. Thông qua cách trả lời các câu hỏi và các hành vi, hoạt động
cụ thể trong việc giáo dục con của mẹ đơn thân mà người nghiên cứu có thể tìm
hiểu và phân tích đánh giá mức độ những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong
việc dạy con.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
7.2.1.1. Mục đích
Dựa trên sự tổng hợp tài liệu và các công trình nghiên cứu có liên quan đến
vấn đề khó khăn tâm lí nói chung và khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con. Từ đó khái quát hóa, hệ thống hóa một số vấn đề lí luận cơ bản về khó
khăn tâm lí trong việc giáo dục con của mẹ đơn thân để định hướng cho việc thiết
kế công cụ nghiên cứu để khảo sát thực trạng khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân
trong việc giáo dục con.
4
7.2.1.2. Cách thực hiện
Nghiên cứu các tài liệu bao gồm: luận án, luận văn, các bài viết đăng tải trên
tạp chí khoa học chuyên ngành và các kênh wedsite chính thống, các ấn phẩm được
xuất bản như sách, tạp chí.
7.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Đề tài sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu thực tiễn, trong đó
phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là phương pháp chính, các phương pháp nghiên
cứu còn lại gồm phương pháp quan sát, phương pháp phỏng vấn, phương pháp
nghiên cứu trường hợp là các phương pháp bổ trợ.
7.2.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
A. Mục đích
Để đánh giá mức độ khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con.
Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố khác tới khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân.
B. Cách thực hiện
Bảng hỏi tự thiết kế được căn cứ trên cơ sở lí luận của đề tài và các phương
pháp luận để đảm bảo phù hợp với mục đích nghiên cứu. Bảng hỏi được thử nghiệm
trước khi đưa vào điều tra chính thức trên khách thể.
7.2.2.2. Phương pháp quan sát
A. Mục đích
Phương pháp này được thực hiện nhằm ghi nhận những biểu hiện hành vi khó
khăn tâm lí ở mẹ đơn thân trong việc dạy con tại nhà, nơi công cộng, cũng như biểu
hiện về nhận thức của mẹ đơn thân về khó khăn tâm lí trong buổi phỏng vấn.
B. Cách thực hiện
Quan sát, ghi nhớ và ghi chép hệ thống lại những biểu hiện khó khăn tâm lí
của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con
7.2.2.3. Phương pháp phỏng vấn
A. Mục đích
Nhằm tìm hiểu sâu một số trường hợp tiêu biểu và thu thập thông tin một
cách trực tiếp. Ngoài ra còn được dùng để đánh giá độ trung thực trong việc trả lời
bảng hỏi.
5
B. Cách thực hiện
Tiến hành phỏng vấn một số mẹ đơn thân, từ những câu trả lời của họ sẽ khai
thác sâu hơn về cảm xúc, nguyên nhân, cách giải quyết của mẹ đơn thân trong
những tình huống ấy.
7.2.2.4. Phương pháp mô tả chân dung tâm lí
A. Mục đích
Việc sử dụng phương pháp này nhằm miêu tả chân dung thực trạng khó khăn
tâm lí ở một số mẹ đơn thân cụ thể trong việc giáo dục con. Kết quả nghiên cứu từ
phương pháp mô tả chân dung tâm lí bổ sung thêm cho những kết quả nghiên cứu
thu được từ các phương pháp khác.
B. Cách thực hiện
Tìm hiểu hoàn cảnh thực tại trong gia đình và mối quan hệ của mẹ đơn thân
với con của họ. Những khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con. Chân dung tâm lí
mẹ đơn thân được xây dựng trên những biểu hiện khó khăn tâm lí ở các mặt nhận
thức, thái độ và hành vi.
7.2.3. Phương pháp xử lí thông tin
A. Mục đích
Dùng phần mềm SPSS phiên bản 20.0 để xử lí các số liệu thu được từ bảng
hỏi nhằm định lượng và định tính các kết quả nghiên cứu của đề tài.
B. Cách thực hiện
Các phép tính thống kê và các công thức thống kê được sử dụng để tính hệ số
tin cậy, tỉ lệ phần trăm, điểm trung bình (ĐTB), độ lệch chuẩn (ĐLC), kiểm nghiệm
Anova để phân tích và xử lí số liệu điều tra.
6
Chương 1.
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NHỮNG KHÓ KHĂN TÂM LÍ
CỦA MẸ ĐƠN THÂN TRONG VIỆC GIÁO DỤC CON
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân
trong việc giáo dục con
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về mẹ đơn thân ở nước ngoài
Mẹ đơn thân là đề tài được nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau
trên thế giới quan tâm nghiên cứu như: Xã hội học, Nhân học, Y học, Tâm lí học,
Gia đình học và Giáo dục học ... Nhưng các công trình nghiên cứu về đề tài này nổi
bật hơn hẳn ở hai lĩnh vực Xã Hội học và Tâm lí học.
Dưới góc độ Xã hội học có thể kể đến các công trình nghiên cứu của các
tác giả sau đây
McLoyd, Jayaratne, Ceballo và Borquez, J. (1994) "Thất nghiệp và gián đoạn
công việc của các bà mẹ đơn thân Mỹ gốc Phi: Ảnh hưởng đến việc nuôi dạy con
cái và chức năng xã hội vị thành niên." Bock J. (2000) "Làm việc đó là đúng ? Các
bà mẹ đơn thân do chọn lựa và đấu tranh cho tính hợp pháp". Lansford J. E.,
Cebello R., Abbey và Stewart A. J. (2001) "Cấu trúc gia đình có quan trọng không?
So sánh các hộ gia đình, cha mẹ ruột, mẹ đơn thân, cha dượng và mẹ kế" Graham
S. (2012) "Chọn làm mẹ đơn thân, phụ nữ độc thân làm chủ gia đình hạt nhân",
"Câu chuyện về “người cha” vắng mặt: Phụ nữ đơn thân tìm kiếm sự giúp đỡ từ
các nguồn tài trợ" . Bên cạnh đó còn có một số công trình nghiên cứu của các tác
giả nước ngoài có liên quan đến mẹ đơn thân của Việt Nam như: Belanger (1996)
"Sự suy giảm hôn nhân ở Châu Á tình trạng phụ nữ độc thân trong bối cảnh Việt
Nam", Phinney (1998) "Vấn đề con cái của phụ nữ độc thân ở Bắc Việt Nam".
Phinney đi sâu tìm hiểu về phụ nữ đơn thân sau chiến tranh ở Việt Nam và quyết
định làm mẹ đơn thân của nhóm phụ nữ này.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu về mẹ đơn thân của các tác giả nước
ngoài dưới góc độ Xã hội học nhằm miêu tả hiện tượng, thực trạng và biểu hiện khó
khăn trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của mẹ đơn thân. Mẹ đơn thân gặp rất
7
nhiều khó khăn trong đời sống vật chất bởi vì trình độ thấp, sức khỏe không tốt nên
họ không thể kiếm được nhiều tiền, cuộc sống của mẹ con luôn bấp bênh, nghèo
khó. Các đề tài nghiên cứu cũng đã đề xuất các giải pháp giúp đỡ, hỗ trợ, cải thiện,
góp phần nâng cao chất lượng đời sống kinh tế cho nhóm đối tượng còn yếu thế này
trong xã hội.
Dưới góc độ Tâm lí học
Xã hội học đã đi sâu nghiên cứu về những khó khăn vật chất của mẹ đơn thân
thì khi nghiên cứu về đối tượng mẹ đơn thân Tâm lí học lại đi sâu vào những khó
khăn tinh thần của mẹ đơn thân. Tâm lí con người thì đa dạng nên các đề tài nghiên
cứu cũng rất phong phú. Tuy nhiên, điểm qua các công trình nghiên cứu về tâm lí
mẹ đơn thân phần lớn các công trình nghiên cứu thường tập trung vào ba nhóm: Xu
hướng lựa chọn trở thành mẹ đơn thân; Sức khỏe tinh thần mẹ đơn thân; Sự phát
triển tâm lí của đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi mẹ đơn thân.
Thứ nhất: Xu hướng lựa chọn trở thành mẹ đơn thân
Có thể kể đến các công trình nghiên cứu của nhóm các tác giả sau đây Hertz
R. (2006) "Cơ hội một mình, làm mẹ do lựa chọn: Cách phụ nữ lựa chọn làm cha
mẹ mà không có hôn nhân và tạo ra một gia đình người Mỹ mới", Dales (2014) có
bài viết "Ohitorisama - việc sống đơn thân và năng lực (phụ nữ) ở Nhật Bản",
Mannis (2015) "mẹ đơn thân do lựa chọn", Susan Golombok và cộng sự (2016)
“mẹ đơn thân do lựa chọn: Mối quan hệ giữa mẹ và con và điều chỉnh tâm lí của
trẻ em”. Theo kết quả nhận được từ các công trình nghiên cứu về xu hướng trở
thành mẹ đơn thân từ cuối thế kỉ 19 đến đầu thế kỉ 21, xu hướng làm mẹ đơn thân
ngày càng tăng lên. Giải thích về hiện tượng gia tăng xu hướng lựa chọn làm mẹ
đơn thân các tác giả cho rằng do có sự thay đổi trong nhận thức của người phụ nữ,
họ làm điều họ muốn bằng sự tự tin và bản lĩnh của họ. Bên cạnh đó ngày nay tình
hình chính trị, văn hóa, xã hội đã thay đổi. Sự bình đẳng giới, tôn trọng tự do cá
nhân, xu thế nữ quyền nên người phụ nữ đã mạnh dạng li hôn, giành quyền nuôi
con, sẵn sàng trở thành mẹ đơn thân khi họ cảm thấy không thể sống chung với
người chồng của mình nữa. Yếu tố tự chủ kinh tế đã góp phần làm cho xu hướng
làm mẹ đơn thân được dự đoán sẽ gia tăng trong quá trình phát triển. Thêm vào đó
8
mẹ đơn thân còn nhận được sự ủng hộ từ gia đình, bạn bè và xã hội nên sẽ làm cho
những người người phụ nữ muốn làm mẹ đơn thân trở nên mạnh dạn hơn với những
sự lựa chọn của mình.
Thứ hai: Sức khỏe tinh thần mẹ đơn thân
Ở các nước phát triển từ lâu chính phủ đã rất quan tâm đến đời sống vất chất
và sức khỏe tinh thần của người dân nói chung và đối tượng MDT nói riêng. Ở
những quốc gia này, việc chăm sóc sức khỏe tinh thần cho mẹ đơn thân được quan
tâm sâu sắc. Vì thế nên có rất nhiều công trình nghiên cứu về đời sống tinh thần mẹ
đơn thân, tìm hiểu những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân cũng được các nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu.
Năm 1997 đến 2002, một cuộc khảo sát cộng đồng rộng rãi ở Canada cho thấy
khoảng 11,2% bà mẹ đơn thân có triệu chứng trầm cảm, chán nản, thất vọng ê chề,
nhiều hơn gấp hai lần so với tỉ lệ ở các bà mẹ bình thường.
Bella DePaulo Ph.D, năm 2004 Đã phát hành cuốn sách "Single Out" nội dung
của quyển sách là những giải pháp giúp cho những người mẹ đơn thân bị kì thị và
chối bỏ vẫn có thể sống cuộc đời hạnh phúc, an yên bên cạnh con của mình.
Tạp chí khoa học Anh (The British Medical Journal), năm 2015 có bài viết
"mẹ đơn thân ở Anh: Dễ bệnh hơn vì không được gia đình ủng hộ". Theo kết quả
nghiên cứu này, các nhà khoa học đã phát hiện các bà mẹ đơn thân ở Anh có sức
khỏe kém hơn sức khỏe những mẹ đơn thân ở các nước châu Âu khác. Nguyên nhà
được xác định cho tình trạng này là do những người mẹ đơn thân ở Anh thường bị
gia đình bỏ rơi, kì thị, chối bỏ không chấp nhận việc họ làm mẹ đơn thân.
Qua các công trình nghiên cứu kể trên có thể thấy yếu tố tinh thần của người
mẹ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, chất lượng cuộc sống của họ. Tuy nhiên, khi
trở thành mẹ đơn thân thì hầu như các mẹ đơn thân ít nhiều điều gặp khó khăn về
mặt tâm lí. Do đó, nghiên cứu và hỗ trợ tinh thần mẹ đơn thân là điều đáng được
quan tâm.
Thứ ba: Sự phát triển tâm lí của đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi mẹ đơn thân
Một số tác giả có công trình nghiên cứu về vấn đề này như: McLanahan &
Sandefur (1994) "Lớn lên với một phụ huynh đơn thân: Điều gì làm tổn thương,
9
điều gì giúp ích", Amato P. R (2001) "Trẻ em trong ly hôn những năm 1990",
Aurora P. Jackson, Kathleen SJ Preston and Todd M. Franke (2010) "Cha mẹ đơn
thân và các vấn đề về hành vi của trẻ mẫu giáo". Kết quả của nghiên cứu này cho
thấy những căng thẳng, áp lực về việc phải một mình giáo dục con cái của các bà
mẹ đơn thân có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho hạnh phúc của trẻ em nghèo và
cận nghèo.
Issar Daryanai, Jessica, Hamilton, Abramson và Lauren B.Alloy "Cha mẹ đơn
thân và Tâm lí vị thành niên". Kết quả của công trình nghiên cứu này cho thấy trẻ
em lớn lên trong các gia đình mẹ đơn thân có nguy cơ mắc các bệnh tâm thần cao
hơn trẻ em được nuôi dưỡng trong các gia đình có đầy đủ cha mẹ. Nguyên nhân của
nguy cơ này là do quá trình giáo dục con của mẹ đơn thân. Các tác giả cũng cho
rằng khó khăn tâm lí của người mẹ đơn thân trong quá trình nuôi dạy con sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục con và điều đó đồng nghĩa với việc khó
khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong quá trình giáo dục con ảnh hưởng gián tiếp đến
nguy cơ mắc bệnh tâm thần ở trẻ vị thành niên. Tuy nhiên, trong đề tài này nhóm
nghiên cứu chỉ tập trung chủ yếu vào mối liên hệ giữa nguy cơ mắc bệnh tâm thần
của trẻ vị thành niên trong gia đình mẹ đơn thân với gia đình mẹ nuôi con cùng
chồng, thông qua mức độ kiểm soát, sự quan tâm và tính chất kỷ luật con của mẹ
đơn thân nhưng chưa đi sâu vào nghiên cứu khó khăn tâm lí của người mẹ trong quá
trình giáo dục con.
Các nghiên cứu trên đã khẳng định tâm lí của những đứa trẻ được nuôi dưỡng
bởi các bà mẹ đơn thân ít nhiều sẽ bị ảnh hưởng theo chiều hướng tiêu cực so với
những đứa trẻ sống chung với ba mẹ khác. Điều này được tạo nên bởi ảnh hưởng
trực tiếp từ việc giáo dục của mẹ đối với con và khó khăn tâm lí của người mẹ lại
ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục của người mẹ. Do đó, việc hỗ trợ người mẹ đơn
thân giảm bớt khó khăn tâm lí trong quá trình nuôi dạy con là rất cần thiết.
Như vậy, thông qua những công trình nghiên cứu lí luận và thực tiễn, các nhà
khoa học trên thế giới đã minh chứng rằng mẹ đơn thân gặp rất nhiều khó khăn
trong cuộc sống khó khăn về mặt vật chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên, ngày nay khi xã
hội đã phát triển, xu hướng làm mẹ đơn thân ngày càng gia tăng, những người phụ
10
nữ hiện đại chủ động trở thành mẹ đơn thân đã có thể độc lập tài chính, đảm bảo ổn
định đời sống vật chất cho chính mình và con của họ. Xã hội đã có cái nhìn thoáng
hơn với những người phụ nữ sinh con nhưng chưa từng kết hôn đã giảm tải cho họ
phần nào gánh nặng dư luận xã hội. Nhưng cho dù làm mẹ đơn thân chủ động hay
bị động, có hay không có khó khăn về vật chất đi chăng nữa thì một khi đã làm mẹ
đơn thân, một mình nuôi con nên người thì ít nhiều họ cũng sẽ gặp khó khăn tâm lí.
Mà theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đã trình bày ở trên, có thể thấy
được khó khăn tâm lí nó ảnh hưởng trực tiếp đến không chỉ chất lượng đời sống
tinh thần, sức khỏe của người mẹ mà còn ảnh hưởng đến cả người con của họ. Đặc
biệt là những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con cái.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu mẹ đơn thân trong nước
Ở Việt Nam, đối tượng mẹ đơn thân cũng được các nhà khoa học chú ý và bắt
đầu nghiên cứu rộng rãi khoảng 20 năm trở lại đây. Tuy nhiên, những nghiên cứu về
mẹ đơn thân chưa có nhiều. Đa số các công trình nghiên cứu là bước đầu tìm hiểu
về cuộc sống của những người mẹ đơn thân, những khía cạnh tâm lí và những khó
khăn mà họ gặp phải trong quá trình nuôi dạy con, chân dung và vị thế của mẹ đơn
thân trong xã hội.
Thuật ngữ mẹ đơn thân chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam từ cuối thế kỉ XIX đầu
thế kỉ XX. Ngày xưa trong dân gian không có thuật ngữ này. Ông bà xưa gọi những
người phụ nữ có chồng mất là "Góa phụ". Còn những người con gái chưa chồng mà
có thai bị xã hội biệt thị và đối xử vô cùng tàn bạo. Nhân gian gọi những người phụ
nữ này là "chữa hoang", "gái hư" và trừng phạt họ bằng những luật lệ hà khắc đó là
cạo đầu bôi vôi, trói chân tay bằng dây thừng rồi bỏ vào lồng heo thả trôi trên sông
cho đến chết. Thời xưa, khi người con gái chưa kết hôn mà lại mang trong mình một
bào thai và để cho gia đình, làng xã biết tức là họ đã mang trong mình tội chết.
Khi chế độ phong kiến được xóa bỏ, chế độ trọng nam khinh nữ không còn quá
bành trướng, quyền làm mẹ của người phụ nữ được bảo vệ. Những luật lệ vô nhân
tính bị bỏ đi, người phụ nữ mới có vai trò và tiếng nói riêng của mình. Từ đó sự cực
khổ, nỗi vất vả khi phải mang nặng đẻ đau và nuôi con một mình mới được nhiều
11
người quan tâm và các nhà xã hội học mới vào cuộc tìm hiểu và có các chính sách
hỗ trợ cho mẹ đơn thân về các mặt của đời sống.
Một trong những nhà khoa học đầu tiên có công trình nghiên cứu về mẹ đơn
thân sớm nhất là tác giả Lê Thị Nhâm Tuyết năm 1991 "Một mình mẹ đẻ con". Bài
viết được thực hiện trong chuyến đi công tác thực tế tại Thái Bình, tác giả đã tiếp
xúc trao đổi nghiên cứu một số trường hợp mẹ đơn thân tại xã An Hiệp, huyện
Quỳnh Phụ, Lê Thị Nhâm Tuyết đã miêu tả, phân tích lại tâm trạng của những
người mẹ đơn thân đa phần là những người phụ nữ "quá lứa lỡ thì" khi họ đi "xin
con", "kiếm con" để nuôi, dưới cái nhìn đầy sự kì thị của mọi người xung quanh.
Tác giả Nguyễn Thị Khoa năm 1997 đã cho ra mắt ấn phẩm "Phụ nữ không
chồng có con những khía cạnh tâm lí". Tác giả đã miêu tả đời sống tâm lí phức tạp
của những người phụ nữ có mối quan hệ ngoài luồng với những người đàn ông đã
có vợ và có con riêng với những người đàn ông ấy. Do đó, trong tâm trí họ luôn tồn
tại một nỗi sợ đối với người vợ chính thức của người đàn ông họ đang qua lại. Do
đó họ rất mong muốn được sự che chở, bảo vệ, quan tâm, chia sẻ của cha đứa bé.
Tác giả Nguyễn Thị Khoa cũng nhấn mạnh phụ nữ không có chồng mà có con phải
gánh vác một mình mọi công việc trong gia đình. Họ thiếu tình yêu vợ chồng, thiếu
đời sống chăn gối. Thêm nữa, tuy xã hội hiện nay đã có những quan tâm và giảm
bớt định kiến đối với phụ nữ không chồng mà có con, nhưng thực tế nhiều khó khăn
khác nhau đang từng ngày đè nặng trên cuộc sống của họ (Nguyễn Thị Thu Vân,
2016).
Cái tên tiếp theo có thể kể đến là Tác giả Lê Thi người có rất nhiều công trình
nghiên cứu về mẹ đơn thân. Năm 1998, Lê Thi đã phát hành cuốn sách "Gia đình
phụ nữ thiếu vắng chồng". Bức tranh toàn diện đầu tiên về gia đình mẹ đơn thân ở
Việt Nam, tác giả đã liệt kê tất cả mọi lí do mà người chồng không có mặt ở gia
đình. Bốn năm sau đó, năm 2002 Lê Thi lại tiếp tục phát hành ấn phẩm "Cuộc sống
của những người phụ nữ đơn thân ở Việt Nam" đã đi sâu vào nghiên cứu đời sống
vật chất và tinh thần, tâm tư, tình cảm của người mẹ đơn thân với ba chương:
Chương 1. Những nguyên nhân xã hội ảnh hưởng đến tình trạng phụ nữ đơn thân ở
nước ta, lịch sử và hiện tại. Chương 2. Thực trạng đời sống phụ nữ đơn thân: hoàn
12
cảnh, tâm tư và nguyện vọng. Chương 3. Sự giúp đỡ của gia đình, cộng đồng xã hội
Nhà nước đối với phụ nữ đơn thân.
Tác giả Nguyễn Thị Thu Vân năm 2016 trong luận án tiến sĩ đã thực hiện đề
tài "Vị thế của người mẹ đơn thân trong xã hội Hàn Quốc hiện nay và liên hệ với
thực tiễn ở Việt Nam". Đề tài này cho chúng ta một cách nhìn tương quan về vị thế
của người mẹ đơn thân tại Việt Nam hiện nay với một nước bạn cùng chung khu
vực Đông Nam Á (Nguyễn Thị Thu Vân, 2016).
Tác giả Nguyễn Thị Tứ có bài viết "Người mẹ đơn thân trong xã hội hiện đại
dưới góc nhìn Tâm lí học" được đăng tải trên tạp chí giáo dục và xã hội số đặc biệt
tháng 4 năm 2017. Nội dung bài báo phản ánh thực trạng hiện tượng làm mẹ đơn
thân chủ động trong xã hội hiện đại ngày nay. Tuy nhiên, tác giả nhấn mạnh dù làm
mẹ đơn thân chủ động hay bị động thì những người mẹ đơn thân cũng gặp rất nhiều
những khó khăn tâm lí. Theo tác giả nhiều người mẹ đơn thân sau ly hôn thường
chịu áp lực về kinh tế và tinh thần, người mẹ đơn thân không kết hôn mà sinh con
thường phải chịu những áp lực tinh thần từ phía gia đình, xã hội, tâm lí cô đơn lẻ
bóng và từ chính đứa con của họ. Nỗi khổ lớn nhất của các bà mẹ đơn thân là không
biết trả lời ra sao khi con cái hỏi về cha của chúng. Nếu không nhận được những
câu trả lời thỏa đáng từ mẹ, chúng thường mặc cảm, tự ti và dần xa lánh mẹ. Bên
cạnh đó, tình yêu và cách chăm sóc của mẹ rất khác với cha. Để phát triển hoàn
thiện, một đứa trẻ cần cả cha và mẹ. Người cha giúp hình thành ở con tính cách
mạnh mẽ của người đàn ông, người mẹ giúp con hình thành tính cách dịu hiền của
phụ nữ. Thiếu vắng cha sẽ làm tăng khả năng trẻ có hành vi lệch lạc, tình thương và
sự bao bọc quá nhiều của mẹ dễ dẫn con cái đến sự thụ động, mất cảm giác an toàn.
Ngoài ra, nếu người mẹ không biết cách chăm sóc, giáo dục con tốt, những đứa trẻ
lớn lên rất dễ mất cân bằng, trầm cảm hoặc hư hỏng. Nhiều chuyên gia tâm lí đã chỉ
ra, những đứa con của các bà mẹ đơn thân thường có hai xu hướng phát triển: Dễ hư
hỏng vì thiếu sự giáo dục của người cha hoặc sống rất bản lĩnh, nhân hậu và hiếu
thảo (Nguyễn Thị Tứ, 2017).
Tổng quan lại thông qua các công trình nghiên cứu về mẹ đơn thân được kể
trên có thể thấy mẹ đơn thân là nhóm đối tượng gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc
13
sống. Cho dù mẹ đơn thân chủ động hay bị động thì ít nhiều họ điều gặp khó khăn
về mặt tâm lí, gặp khó khăn trong việc nuôi dạy con và họ cần rất nhiều sự hỗ trợ từ
gia đình và xã hội. Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam các công trình nghiên cứu về
mẹ đơn thân còn ít và các nghiên cứu thiên về khó khăn vật chất. Còn về mặt tâm lí
của mẹ đơn thân thì lại có rất ít các công trình đào sâu vào nghiên cứu khó khăn tâm
lí của người mẹ đơn thân, đặc biệt là những khó khăn tâm lí của người mẹ khi phải
giáo dục con một mình. Trong khi đó giáo dục gia đình lại là yếu tố ảnh hưởng rất
nhiều đến việc hình thành nhân cách ở một đứa trẻ. Hồ Chí Minh có nói "Hiền dữ
phải đâu là tính sẵn _ Phần nhiều do giáo dục mà nên". Trong khi đó những khó
khăn tâm lí của người mẹ lại ảnh hưởng trực tiếp đến việc giáo dục con của họ. Do
đó việc tìm hiểu, nghiên cứu những khó khăn tâm lí cụ thể và chi tiết của người mẹ
đơn thân có thể gặp phải trong quá trình giáo dục con là rất cần thiết và cấp bách
trong thời đại hiện nay khi xu hướng làm mẹ đơn thân ngày càng gia tăng. Để kịp
thời giúp mẹ đơn thân giảm tải những khó khăn tâm lí này để việc giáo dục con đạt
hiệu quả tốt hơn.
1.2. Cơ sở lí luận về những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo
dục con
1.2.1. Khó khăn tâm lí
1.2.1.1. Định nghĩa khó khăn tâm lí
Khó khăn tâm lí là một thuật ngữ tâm lí được nhiều nhà nghiên cứu diễn giải
khác nhau:
Theo tác giả Nguyễn Thị Thiên Kim (2007) đã định nghĩa "khó khăn tâm lí là
đặc điểm tâm lí cá nhân nảy sinh trong quá trình hoạt động của chủ thể, gây ra
những trở ngại làm ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình và hiệu quả của quá trình
hoạt động". Đồng quan điểm với tác giả Nguyễn Thị Thiên Kim, hai tác giả Trần
Kim An và Nguyễn Thị Thanh Phương đã sử dụng định nghĩa này cho đề tài "khó
khăn tâm lí của phụ nữ sau sinh con đầu lòng" được đăng tải trong Kỷ yếu Hội thảo
khoa học toàn quốc lần thứ 2 Tâm lí học, giáo dục học với tình yêu, hôn nhân và gia
đình năm 2017.
14
Tác giả Đoàn Thị Tỵ (2008) thì cho rằng “khó khăn tâm lí là những thiếu hụt,
những cản trở, những vướng mắc về mặt tâm lí của chủ thể cần vượt qua để thực
hiện một nhiệm vụ hay hành động nào đó”.
Tác giả Đặng Thị Lan thì miêu tả cụ thể hơn về các mặt biểu hiện của khó
khăn tâm lí “khó khăn tâm lí là toàn bộ những nét tâm lí cá nhân (nảy sinh trong
quá trình hoạt động với hoàn cảnh xác định) ít phù hợp với yêu cầu, đặc trưng của
hoạt động đó, gây trở ngại cho tiến trình và kết quả hoạt động”. khó khăn tâm lí
được biểu hiện ở ba mặt: nhận thức, thái độ và hành vi.
Tác giả Lý Thị Minh Hằng (2014) trong luận văn tiến sĩ của mình về đề tài
khó khăn tâm lí của phụ nữ đã có định nghĩa "khó khăn tâm lí là những yếu tố tâm lí
gây cản trở hoạt động của chủ thể, có thể biểu hiện ở nhận thức, thái độ và hành
vi".
Về mặt ngữ nghĩa theo kiến thức phổ thông được truyền bá rộng rãi trong các
hoạt động xã hội của quần chúng nhân dân. Mọi người thường hay sử dụng "Khó
khăn vật chất và khó khăn tinh thần" diễn giải về điều này trong một đề tài nghiên
cứu khoa học tác giả Nguyễn Thị Tứ đã làm rõ vấn đề như sau:
Khó khăn được hiểu là những trở ngại trong quá trình hoạt động của con
người và đòi hỏi con người phải nỗ lực vượt qua. Dựa vào nguốn gốc xuất phát và
tính chất của những khó khăn có thể chia thành hai loại khó khăn vật chất và khó
khăn tinh thần.
Khó khăn vật chất (hay còn gọi tắt là những vấn đề khó khăn) là những vấn
đề nảy sinh dưới tác động của các yếu tố sinh học và xã hội của con người, chúng
gây ra bất lợi cũng như cản trở các dạng hoạt động của con người và đòi hỏi con
người phải có sự nỗ lực vượt qua để giải quyết chúng.
Khó khăn tinh thần hay còn gọi là khó khăn tâm lí là những thiếu hụt, cản
trở hoặc vướng mắc trong tâm lí của chủ thể mà họ cần vượt qua để thực hiện thành
công một nhiệm vụ hay một hành động nào đó. khó khăn tâm lí thể hiện ở ba mặt
nhận thức, thái độ và hành vi. (Nguyễn Thị Tứ, 2011)
Tóm lại, các tác giả tuy diễn đạt khái niệm khó khăn tâm lí ở các dạng hoạt
động khác nhau nhưng nhìn chung đều thống nhất khó khăn tâm lí là những nét tâm
15
lí cá nhân gây nên những khó khăn, cản trở cho hiệu quả hoạt động của chủ thể.
Trong nghiên cứu này tôi đồng quan điểm khó khăn tâm lí với tác giả Nguyễn Thị
Tứ.
Khó khăn tâm lí những thiếu hụt, cản trở hoặc vướng mắc trong tâm lí của
chủ thể mà họ cần vượt qua để thực hiện thành công một nhiệm vụ hay một
hành động nào đó. Khó khăn tâm lí thể hiện ở ba mặt nhận thức, thái độ và hành
vi.
1.2.1.2. Biểu hiện khó khăn tâm lí trong hoạt động
Các biểu hiện của khó khăn tâm lí trong hoạt động được xem xét trên ba mặt
biểu hiện: Nhận thức, thái độ và hành vi:
Về mặt nhận thức: Nhận thức giúp con người hiểu, biết đầy đủ mọi thông tin
về các sự vật hiện tượng, trên cơ sở đó mà chủ thể thể hiện thái độ và hành vi ứng
xử tương ứng. Người có khó khăn tâm lí về mặt nhận thức có thể tồn tại ở hai dạng:
dạng đầu tiên khó khăn tâm lí là khó khăn khi nhận thức về chính bản thân mình
trong hoạt động, dạng thứ hai khó khăn khi nhận thức về đối tượng hoạt động. Đối
với người có khó khăn tâm lí ở dạng thứ hai thường có hiểu biết không đầy đủ về
đối tượng hoạt động. Chính sự không hiểu biết đầy đủ này dẫn đến hiệu quả hoạt
động không như mong muốn.
Về mặt thái độ: Khó khăn tâm lí của chủ thể hoạt động ở mặt thái độ được
biểu hiện thông qua cách nhìn nhận, quan điểm đánh giá, xúc cảm, tình cảm v.v…
của chủ thể đó đối với đối tượng và thường được biểu hiện như tránh né, lo sợ, xa
lánh, không hào hứng và thường hay có xúc cảm, tình cảm âm tính đối với hoạt
động, không điều khiển được trạng thái cảm xúc của mình, nhạy cảm thái quá và
biểu lộ cảm xúc không phù hợp. Khi chủ thể hoạt động có những thái độ, tình cảm
không tích cực đối với hoạt động thì sẽ dẫn đến hiệu quả hoạt động không cao.
Về mặt hành vi: Hành vi là toàn bộ những biểu hiện của con người ra bên
ngoài cuộc sống. Hành vi được biểu hiểu là sự phối hợp vận động của các bộ phận,
giác quan trên cơ thể con người hướng vào một đối tượng nào đó để giải quyết một
nhiệm vụ, mục đích nhất định. Người có khó khăn tâm lí trong hoạt động thường
biểu hiện hành vi thiếu tự nhiên, gò bó, lúng túng, hành động không phù hợp với
16
tình huống, bối cảnh. Đây là dạng khó khăn tâm lí biểu hiện cụ thể, dễ nhận thấy
nhất trong hoạt động của chủ thể hoạt động. Những khó khăn tâm lí về mặt hành vi
có thể là kết quả của sự chi phối bởi nhận thức và thái độ tình cảm hoặc do những
kỹ năng hoạt động không có hiệu quả cao.
1.2.2. Mẹ đơn thân
1.2.2.1. Định nghĩa mẹ đơn thân
Trong Tiếng Anh người ta gọi những người mẹ đơn thân là "Single mother"
đây là cách gọi chính thống nhất trên thế giới về đối tượng này.
Tại Đức có từ "Alleinerziehende" nghĩa là những người giáo dục con một
mình.
Theo Klett - Davies Martina trong cuốn sách "Going ít alone ? Lone morther
in late modernity" đã định nghĩa "mẹ đơn thân là một nhóm đồng nhất, có những
bất lợi tương tự nhau và họ luôn cảm thấy bị chôn vùi trong những ràng buộc và áp
lực của xã hội ".
Trong khu vực Đông Nam Á, tại Hàn Quốc, Kang Eun Hwa định nghĩa "phụ
nữ làm mẹ đơn thân (phiên âm tiếng Hàn là: Mi – hon – mo) là thuật ngữ dùng để
chỉ những phụ nữ không trải qua thủ tục kết hôn hợp pháp, nhưng có con và nuôi
con một mình" (Nguyễn Thị Thu Vân, 2012).
Có thể thấy trên giới người ta định nghĩa cho những người phụ nữ nuôi con
một mình là mẹ đơn thân. Tuy nhiên, phần lớn những nghiên cứu về hiện tượng mẹ
đơn thân ngày nay và xu hướng làm mẹ đơn thân các tác giả tập trung vào nhóm đối
tượng mẹ đơn thân chưa từng kết hôn.
Tác giả Lê Thi gọi nhóm phụ nữ này là "phụ nữ thiếu vắng chồng" "phụ nữ
đơn thân". Tuy nhiên, nếu dùng từ "Phụ nữ đơn thân" thì dễ gây hiểu lầm với
những người phụ nữ đang còn độc thân chưa lập gia đình, đồng thời cũng chưa nói
lên được vai trò làm mẹ chăm lo cho con một mình của họ.
Theo Mai Huy Bích trong quyển Xã hội học gia đình (2011), Gia đình đơn
thân là một biến thể của gia đình hạt nhân, gồm hai thế hệ (cha hoặc mẹ và con cái
chưa kết hôn), trong đó thế hệ thứ nhất (tức thế hệ cha mẹ), không đủ hai người của
17
cặp vợ chồng, mà chỉ có một người (hoặc mẹ hoặc cha) do nhiều nguyên nhân khác
nhau (ly hôn, góa, hay đơn giản là không hoặc chưa kết hôn mà có con ...).
Từ đó, mẹ đơn thân có thể hiểu nôm na là khái niệm chỉ người phụ nữ một
mình nuôi con (con ruột hoặc con nuôi) mà không cần đến vai trò của người đàn
ông vì nhiều lí do.
Theo Wikipedia
Mẹ: thông thường được dùng để chỉ người phụ nữ mang thai, sinh ra và nuôi
lớn đứa trẻ. Tuy nhiên, vì sự phức tạp và các khác biệt trong các định nghĩa và vai
trò của người mẹ về mặt văn hóa, xã hội và tôn giáo nên rất khó có thể có một định
nghĩa chung về mẹ được chấp nhận rộng khắp.
Đơn thân: là tình trạng một người chưa lập gia đình (chưa kết hôn) hoặc
người đã ly hôn nhưng chưa kết hôn lại (tái hôn, đi bước nữa).
Theo định nghĩa như trên ta có thể hiểu "mẹ đơn thân là người phụ nữ mang
thai, sinh ra và nuôi lớn đứa trẻ mà không có người đàn ông bên cạnh, họ có thể
chưa từng kết hôn hoặc đã li hôn"
Ngày nay, khi xã hội có nhiều thay đổi, sự du nhập của văn hóa Phương Tây
đã làm ảnh hưởng đến tư tưởng, lối sống của những người trẻ về các giá trị của tình
yêu, hôn nhân, gia đình và con cái. Đã bắt đầu có những người phụ nữ họ chỉ cần
con mà không cần chồng, họ lựa chọn nuôi con một mình. Nên phạm trù của mẹ
đơn thân ở Việt Nam được mở rộng hơn bao gồm cả những người làm mẹ nhưng
chưa từng kết hôn. Tuy nhiên, số lượng những người mẹ đơn thân chủ động này
ngày càng tăng nên nó nổi lên như một hiện tượng, một xu hướng mới về hôn nhân,
gia đình.
Tuy nhiên, trong đề tài nghiên cứu này đối tượng nghiên cứu là những khó
khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong hoạt động giáo dục con. Cho nên khách thể
nghiên cứu là những người mẹ đang nuôi dạy con một mình mà không có người đàn
ông bên cạnh. Bất kể là họ đã kết hôn hay chưa từng kết hôn, đứa con do chính họ
sinh ra hay là con nuôi đều được. Do đó trong đề tài này người nghiên cứu sử dụng
định nghĩa mẹ đơn thân sau đây:
18
Mẹ đơn thân là người phụ nữ nuôi con một mình mà không có người đàn
ông bên cạnh (Bất kể là họ đã kết hôn hay chưa từng kết hôn, đứa con do chính
họ sinh ra hay là con nuôi)
1.2.2.2. Đặc điểm tâm lí của mẹ đơn thân
Thứ nhất: Mạnh mẽ, độc lập, quyết đoán, có tính chịu đựng cao
Những người mẹ nuôi con một mình thường có tính cách mạnh mẽ, quyết
đoán. Bởi lẽ, họ phải một mình giải quyết tất cả mọi thứ trong cuộc sống của họ.
Đặc biệt là những người mẹ đơn thân chủ động, khi quyết định nuôi con một mình
mà không cần có người bạn đời bên cạnh, họ đã lên cả kế hoạch làm mẹ. Do đó, họ
phải thật sự bản lĩnh mới có thể chịu trách nhiệm và làm tốt trách nhiệm của một
người mẹ đối với đứa con của mình. Họ là những người chịu áp lực tốt để có thể
cân bằng mọi thứ từ công việc xã hội đến công việc nhà và nuôi dạy con. Chính
phần tính cách này trong con người của họ đã giúp họ làm tốt trách nhiệm thiêng
liêng và cao cả của một người mẹ đối với con.
Thứ hai: Cảm thấy có lỗi với con
Trong tâm trí của những người mẹ đơn thân dù ít hay nhiều họ vẫn cảm thấy
có lỗi với con. Bởi vì, họ nghĩ mình đã không cho con được một gia đình trọn vẹn
có đầy đủ cả cha lẫn mẹ như những đứa trẻ khác. Đối với những trường hợp người
mẹ sau khi li hôn cảm giác tội lỗi này càng nhiều hơn. Họ tự trách chính mình đã
làm một người vợ không tốt để dẫn đến việc li hôn và vì thế con họ mới không có
cha. Cảm giác tội lỗi này có thể theo họ suốt đời, có những trường hợp nặng còn
làm cho người phụ nữ bị sa sút tinh thần và stress sau khi ly hôn.
Thứ ba: Cảm giác cô đơn, lẻ bóng cần sự giúp đỡ, chia sẻ, lắng nghe
Tuy là những người phụ nữ độc lập, quyết đoán nhưng rồi cũng có những phút
giây họ cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Phụ nữ là những người giàu cảm xúc nên những
lúc đêm về, sau một ngày làm việc mệt mõi làm sao họ tránh khỏi những phút
chạnh lòng khi chỉ có một mình. Đặc biệt là những khi con bệnh, mẹ bệnh là lúc họ
rất cần đến sự chia sẽ của mọi người xung quanh: Gia đình, bạn bè, xóm giềng...
Đối với họ được chia sẽ và lắng nghe là một nguồn động viên to lớn giúp họ vượt
qua những nỗi buồn, những vất vả, khó khăn trong cuộc sống của mình.
19
Thứ tư: Đặt hết mọi tâm tư tình cảm vào con
Khi trở thành mẹ đứa con thường trở cả thành thế giới của mẹ. Con là nguồn
sống, nguồn an ủi và nguồn động lực cho mẹ làm việc. Khi người phụ nữ chọn làm
mẹ đơn thân họ thường có xu hướng đặt hết mọi tâm tư, kỳ vọng, sự yêu thương của
bản thân vào đứa trẻ. Nhưng vô tình chính sự yêu thương, kì vọng quá mức của mẹ
đặt vào con sẽ làm đứa trẻ cảm thấy bị ngột ngạt, nó cảm thấy trách nhiệm của nó
quá nặng nề với mẹ. Và chính người mẹ cũng sẽ dễ rơi vào trạng thái hụt huẫng khi
thấy con ngày càng trưởng thành, ngày càng rơi xa vòng tay của mẹ. Khi con có bạn
bè, người yêu hay có vợ, chồng. Họ sẽ có cảm giác giống như bị cướp mất con.
Thứ năm: Có xu hướng bù đắp cho con bằng vật chất
Bao giờ người mẹ cũng muốn dành mọi điều tốt nhất cho con. Nhưng lại
không thể cho con một người cha như con mong muốn người mẹ lại càng muốn bù
đắp lại cho con những điều khác như: Thời gian bên con, sự yêu thương hay tiền
bạc, của cải, vật chất, luôn muốn cho con một cuộc sống đầy đủ để con không cảm
thấy thiếu hụt, xấu hổ với bạn bè. Vì thế, họ cố gắng mua cho con những món đồ
chơi, vật dụng đắc tiền. Con thích gì sẽ chiều theo ý của con. Tuy nhiên, phần lớn
các mẹ đơn thân không nhận ra rằng tình cảm chỉ có thể bù đắp bằng tình cảm và
không gì có thể thay thế được vai trò của một người cha.
Thứ sáu: Hy sinh hạnh phúc cá nhân vì con
"Gái một con trông mòn con mắt" những người phụ nữ sau khi có con họ sẽ
trở nên mặn mòi, chính chắn, có nét quyến rũ riêng nên không thiếu người theo đuổi
và vì thế không khó để những người mẹ đơn thân này có thể tìm được cho mình một
bến đổ mới. Nhưng họ sợ khi có gia đình mới đứa con của họ sẽ không được chăm
sóc tốt, sợ người chồng mới sẽ không thương con riêng của mình. Nên kể cả một số
người mẹ trẻ cũng chọn việc một mình nuôi con trưởng thành. Họ chấp nhận hi sinh
hạnh phúc đôi lứa của mình để dành mọi sự chăm sóc yêu thương tốt nhất cho con.
1.2.3. Hoạt động giáo dục con của mẹ đơn thân
1.2.3.1. Giáo dục con là chức năng của gia đình
Giáo dục con cái là một trong những chức năng quan trọng của gia đình.
Trong một gia đình truyền thống, người cha thường đóng vai trò trụ cột trong việc
20
giáo dục con, cha sẽ đóng vai “hung thần” nghiêm khắc, cương nghị là người có
quyền lực để giữ nề nếp trong gia đình và là người xử phạt khi con phạm lỗi lầm.
Người mẹ sẽ đóng vai trò “bà tiên” nhẹ nhàng khuyên bảo, tâm sự cùng con. Sự
phối hợp hợp giữa cha và mẹ trong việc giáo dục con sẽ làm cho đứa trẻ trở nên
ngoan ngoãn, biết vâng lời, có phép tắt.
Trong gia đình mẹ đơn thân, người mẹ cũng thực hiện chức năng giáo dục con
như chức năng chính của gia đình truyền thống. việc giáo dục con của mẹ đơn thân
cũng hướng đến hai nhiệm vụ: phát triển trí tuệ và giáo dục đạo đức. Tuy nhiên điều
khác biệt lớn nhất là trong quá trình giáo dục này người mẹ phải đóng hai vai vừa
phải làm cha vừa phải làm mẹ. Đôi lúc phải dịu dàng, mềm mỏng với con nhưng có
khi phải cứng rắn, cương quyết để dạy con. Do đó việc nuôi dạy con đối với người
mẹ đơn thân là một vấn đề nan giải, một trách nhiệm nặng nề.
Giáo dục con của mẹ đơn thân là một quá trình giáo dục tổng thể, bao gồm
toàn bộ những tác động có hệ thống, có mục đích của cha mẹ đến trẻ, giúp hình
thành và phát triển nhân cách cho con cái.
1.2.3.2. Nội dung và phương pháp giáo dục con cái của mẹ đơn thân
Dân gian có câu “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà” câu tục ngữ này có phần quy
chụp khi mọi trách nhiệm về việc dạy dỗ con không tốt sẽ được đỗ lỗi hết về phía
người mẹ. Bởi vì ông bà ta cho rằng một đứa trẻ "hư" là do sự nuông chiều quá mức
của người mẹ, người bà những người nuôi dạy con theo cảm xúc, luôn chiều chuộng
con cháu. Mặc khác, câu tục ngữ trên muốn nói đến tầm quan trọng của người mẹ
trong việc giáo dục con và sự ảnh hưởng của người phụ nữ trong gia đình đến các
giá trị đạo đức và sự hình thành nhân cách của một đứa trẻ.
Giáo dục gia đình khác với giáo dục nhà trường sẽ không có một chương trình
cụ thể, một nội dung khoa học bài bản. Thông thường người mẹ sẽ dạy con những
kiến thức thường nhật, để đáp ứng và giải quyết những vấn đề diễn ra hàng ngày
xung quanh trẻ, sẽ linh động theo thực tế cuộc sống của mẹ và con. Nội dung giáo
dục này sẽ phụ thuộc vào kiến thức và kỹ năng của người mẹ, sự gần gũi của mối
quan hệ giữa mẹ và con và quan trọng hơn hết là khả năng tiếp thu của đứa trẻ. Dù
21
vậy nội dung giáo dục con của mẹ đơn thân vẫn xoay quanh một số nội dung sau
đây:
Thứ nhất: Trò chuyện, chia sẻ tâm tư, nguyện vọng, tình cảm, sinh hoạt vui
chơi cùng con.
Thứ hai: Động viên, khích lệ, khen thưởng khi con làm tốt, đồng thời giải
thích phân tích cho con nghe những lỗi lầm của mình, định hướng khắc phục cho trẻ
và đôi khi là ra những hình phạt phù hợp, thích đáng để trẻ nhận ra sai lầm của
mình.
Thứ ba: "Tiên học lễ, hậu học Văn" lễ nghĩa, phép tắt, những giá trị đạo đức là
những điều người Mẹ dạy cho con đầu tiên.
Thứ tư: Cung cấp kiến thức và hướng dẫn một số kĩ năng sống cho trẻ.
Thứ năm: Người mẹ cũng chính hình mẫu, là tấm gương phản chiếu cho con
những giá trị về đạo đức và lối sống, từ đó định hình sự hình thành và phát triển
nhân cách cho trẻ.
Ngoài những nội dung kể trên, trong một gia đình mẹ đơn thân do ly hôn hay
hay những đứa trẻ sinh ra ngoài gia thú, đặc biệt là người mẹ chọn làm mẹ đơn thân
chủ động mà chưa từng kết hôn thì có những điều khác biệt mà người mẹ đơn thân
sẽ phải nói, diễn giải cho con hiểu rõ. Đó là là giải thích cho con nghe thích đáng
về bố của chúng. Đứa trẻ rất nhạy cảm chúng sẽ nhanh nhận ra sự khác biệt tại sao
bạn bè mình có bố còn mình thì không. Bố mình là ai ? Hàng tá câu hỏi được đặt ra
trong đầu của trẻ? Trong cuốn sách "Mẹ xấu" của nhà văn Sung-Kyung Park (Văn
Ngọc Minh Quyên dịch). Kể về cuộc sống của một đứa trẻ lớn lên với một bà mẹ
đơn thân và cha cậu mãi mãi là ẩn số. "Từ hồi bé tôi đã lẻo đẽo theo mẹ hỏi về bố.
Hiển nhiên, tôi mong chờ một câu trả lời không có nữa lời dối trá. Nhưng trái với
mong muốn của tôi, chưa bao giờ mẹ thẳng thắn trả lời. Mẹ luôn lảng tránh câu
hỏi, như người có thói quen vay nợ chậm trả tìm cách trốn chủ nợ". Bà "Mẹ xấu"
này chưa bao giờ cho cậu biết gì về cha ngay cả cái tên cha cậu là gì với lí do "Khi
biết tên ai đó rồi thì mọi việc sẽ trở nên rất khó khăn" và từ lúc đó trong cậu đã hình
thành suy nghĩ "Trên thế gian này, có những người tuyệt đối sẽ không bao giờ hạnh
phúc. Những bà mẹ mất con, những bà mẹ bỏ rơi con - đây đích thực là những bà
22
mẹ xấu và con của những bà mẹ xấu. Tôi và mẹ đều thuộc nhóm sẽ không thể trở
nên hạnh phúc" (Sung - Kyung Park, 2015).
Khi không được giải thích hợp lí về cha của mình những đứa trẻ sẽ rất hay
nghi ngờ và buồn bả và làm cho đứa trẻ trở nên tự ti, mặc cảm về bản thân. Nên
điều cần thiết là người mẹ phải giải thích cho con hiểu về ý nghĩa và giá trị sự có
mặt của chúng trên cuộc đời này, đối với mẹ, với xã hội và chính bản thân chúng.
1.2.4. Khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con
Khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con là những thiếu hụt,
cản trở hoặc vướng mắc trong tâm lí của mẹ đơn thân, mà điều đó làm ảnh hưởng
tiêu cực đến quá trình và hiệu quả hoạt động giáo dục con mà họ cần vượt qua để
thực hiện thành việc giáo dục con. Khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo
dục con biểu hiện ở ba mặt nhận thức, thái độ và hành vi.
* Biểu hiện khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con
Về mặt nhận thức
Trong quá trình dạy con, người mẹ đơn thân thường gặp cả hai dạng khó khăn
tâm lí nhận thức cơ bản: dạng thức nhất khó khăn khi nhận thức về chính bản thân
mình trong vai trò làm mẹ với trách nhiệm giáo dục con, dạng thứ hai khó khăn khi
nhận thức về quá trình giáo dục con.
Những khó khăn tâm lí về dạng thứ nhất khi nhận thức về chính bản thân mình
trong vai trò làm mẹ với trách nhiệm giáo dục con thường do những suy nghĩ lệch
lạc, bi quan, tự ti, tự động tiêu cực của người Mẹ gây nên. Một số suy nghĩ tự động
tiêu cực của người mẹ đơn thân trong việc giáo dục con:
Thứ nhất: Bản thân là một người mẹ không tốt.
Người mẹ mang mặc cảm tội lỗi khi nghĩ rằng mình là nguyên nhân tạo nên sự
bất hạnh cho con khi không cho con một người cha, một gia đình trọn vẹn như bao
đứa trẻ khác. Mình không thể trở thành một người mẹ tốt, việc nuôi dạy con nên
người là điều không thể.
Thứ hai: Bản thân phải là một tấm gương hoàn hảo
Trong suy nghĩ của mẹ đơn thân luôn áp đặt cho mình phải trở thành một hình
mẫu hoàn hảo. Bản thân không được phạm phải một sai lầm nào, nếu có cũng
23
không được cho con biết, phải cho con thấy mẹ luôn là người đúng
Thứ ba: Con sẽ không ổn khi không có mẹ bên cạnh.
Con luôn cần mình chở che, chăm sóc, con sẽ không thể làm ổn được việc gì
nếu không có mẹ bên cạnh: Học hành, ăn uống, mua sắm ...
Thứ tư: Con đi ra ngoài đường sẽ gặp nguy hiểm
Cho con ra ngoài xã hội, tiếp xúc với nhiều người là đẩy con vào vòng nguy
hiểm. Bởi vì xã hội bây giờ rất phức tạp và người xấu ở khắp mọi nơi.
Thứ năm: Mẹ mà tái hôn thì con sẽ khổ
Khi bản thân mình đi bước thêm bước nữa, con sẽ khổ. Bởi vì cha dượng sẽ
không thương con riêng của vợ và lúc đó con sẽ hờn trách mình đã không yêu
thương con đã đi theo người khác.
Đối với những khó khăn tâm lí về dạng thứ hai khi nhận thức về việc giáo dục
con thường là do người mẹ không có đầy đủ kiến thức về sự phát triển tâm sinh lí
của đứa trẻ, không nắm bắt được nhu cầu, mong muốn của đứa trẻ.
Về mặt thái độ: Khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân ở mặt thái độ được biểu
hiện thông qua cách nhìn nhận, quan điểm đánh giá, xúc cảm , tình cảm v.v… đối
với việc giáo dục con của mình. Người mẹ đơn thân thường có thái độ tránh né, lo
sợ, xa lánh, không hào hứng và thường hay có xúc cảm, tình cảm âm tính đối với
việc giáo dục con. Người mẹ không điều khiển được trạng thái cảm xúc của mình,
nhạy cảm thái quá và biểu lộ cảm xúc không phù hợp. Một số biểu hiện cụ thể về
khó khăn tâm lí về mặt thái độ của mẹ đơn thân.
Thứ nhất: Thái độ mâu thuẫn
Người mẹ đơn thân không có sự nhất quán trong suy nghĩ và biểu cảm cảm
xúc, trong lời nói và hành động. Họ che giấu cảm xúc đau khổ, tuyệt vọng, mệt mõi
của mình trước mặt con bằng những nụ cười hoặc một thái độ bình thường như
không có chuyện gì xảy ra. Họ không muốn con thấy những cảm xúc thật sự của họ.
Họ rất muốn trừng phạt để răn dạy con khi con phạm lỗi nhưng họ rất khó thực hiện
nó.
24
Thứ hai: Không kiềm chế được cảm xúc bản thân
Người mẹ đơn thân cảm thấy bực mình và dễ nổi nóng với con họ hay to
tiếng, có những hành động lời nói nóng giận gây xúc phạm con và rồi sau đó họ
cảm thấy đau khổ vì những thái độ đó.
Thứ ba: Cảm thấy bất lực trong việc dạy con
Người mẹ nuôi con một mình này cảm thấy rối bời khi phải dạy con về những
vấn đề mà họ không biết, không hiểu rõ như việc giáo dục giới tính cho cậu con trai.
Hay những lúc con của mình ngỗ nghịch họ không biết phải có thái độ như thế nào
với con mới là đúng, họ tỏ vẻ ngại ngùng, buồn rầu và bất lực.
Thứ tư: Thường xuyên cảm thấy mệt mõi và căng thẳng
Người mẹ đơn thân thường xuyên có cảm giác mệt mõi, căng thẳng trong việc
dạy con, họ cảm thấy nhiều áp lực và dễ rơi vào stress.
Thứ năm: Để tâm trạng mình phụ thuộc vào con
Người mẹ đơn thân để cho đứa con "lập trình" cảm xúc của họ. Họ cảm thấy
vui khi của họ vui. Họ sẽ đau buồn vật vã khi con họ đau khổ. Tâm trạng của họ lên
xuống thất thường vì con, họ đang có cảm xúc khá tích cực nhưng chỉ cần con họ có
một chút lỗi lầm hay trục trặc gì đó như đạt thành tích kém chẳng hạn tâm trạng họ
sẽ lập tức tuột dốc.
Về mặt hành vi
Người mẹ đơn thân gặp khó khăn tâm lí về mặt hành vi sẽ được biểu hiện rất
rõ ràng và dễ nhìn thấy rất trong các hoạt động của họ khi tương tác với con. Người
mẹ đơn thân có khó khăn tâm lí trong hoạt động thường biểu hiện hành vi thiếu tự
nhiên, gò bó, lúng túng, hành động không phù hợp với tình huống, bối cảnh. Những
khó khăn tâm lí về mặt hành vi có thể là kết quả của sự chi phối bởi nhận thức và
thái độ tình cảm hoặc do những kỹ năng giáo dục không có hiệu quả cao. Một số
biểu hiện cụ thể khó khăn tâm lí về mặt hành vi của người Mẹ thường thấy:
Thứ nhất: Khó khăn trong việc tâm sự, trò chuyện, chia sẻ với con
Một số người mẹ đơn thân gặp khó khăn khi giao tiếp trò chuyện cùng con. Họ
không thể nói chuyện với con nhiều hơn 3 câu. Bởi vì đứa trẻ không thích nói
chuyện với mẹ. Mặt khác, mẹ đơn thân không biết quá nhiều về đời sống tình cảm
25
và các mối quan hệ bạn bè của con. Một số người mẹ thậm chí còn không hề biết
bạn thân của con là ai. Bên cạnh đó đứa trẻ cũng không chủ động hỏi han, tâm sự
cùng mẹ của mình. Hơn thế, nhiều trẻ vị thành niên còn không muốn mẹ biết về
những hoạt động của mình trên mạng xã hội nên nhiều trẻ đã không cho mẹ xem
thông tin hay tương tác với chúng trên các trang mạng xã hội như: zalo, facebook,
instagram ...
Thứ hai: Ngại ngùng khi nói chuyện, cung cấp kiến thức giới tính cho con
Nhiều người mẹ đơn thân không có đầy đủ kiến thức và kĩ năng về sự phát
triển tâm sinh lí lứa tuổi nên họ chỉ thường dạy con phần này theo bản năng và kinh
nghiệm của bản thân họ. Nên thường họ không thể trả lời cho con một cách chính
xác những thông tin mà chúng muốn biết. Họ cảm thấy rất khó nói, ngại ngùng, ấp
úng khi nói về chuyện giới tính, đặc biệt là với đứa con khác tính với mình. Do đó
nhiều người Mẹ đã chọn cách tránh né hoặc không bao giờ nhắc đến vấn đề giáo
dục giới tính cho con.
Thứ ba: Khó khăn khi thực thi trừng phạt và hình thức khen thưởng cho con
Một số người mẹ đơn thân không thể nào thực thi những hình phạt đối với
con. Bởi vì họ xót con, nên họ thường hay tha thứ bỏ qua những lỗi lầm của con
một cách dễ dàng. Ngoài ra khi dạy con nếu đứa trẻ không nghe lời Mẹ và làm theo
hướng khác họ lại chấp nhận và nuông chiều theo ý muốn của con.
Thứ tư: Người mẹ cố gắng thể hiện mình là người mẹ tốt
Người mẹ luôn cố gắng thể hiện cho con thấy mình là một người mẹ tốt. Để
khi họ giáo dục con, con sẽ nghe lời của mẹ. Họ không cho phép bản thân phạm bất
kì sai lầm gì trong việc dạy con.
Thứ năm: Giải thích các thắc mắc của con về bố chúng
Người bố luôn là một ẩn số đối với những đứa trẻ trong gia đình mẹ đơn thân
và không phải người mẹ nào cũng sẵn sàng để có thể giải thích được tường tận về
bố chúng. Họ gặp khó khăn khi phải giải thích cho con nghe về xuất hiện của chúng
trên đời này và sự không có mặt của bố trong gia đình nhất là với những người mẹ
đơn thân chủ động. Việc giáo dục con có nhận thức và thái độ tốt đối với bố và có
những hành vi cư xử phải phép với bố là một điều khó. Điều này phụ thuộc vào tình
26
cảm người mẹ dành cho người bố của con. Khi họ có sự tôn trọng họ sẽ nói với con
những điều tích cực với bố chúng. Ngược lại những người mẹ có thành kiến với
người đàn ông đã từng làm tổn thương mình họ có sự căm hờn, thù ghét. Vô tình
người mẹ có thể truyền những cảm xúc tiêu cực ấy qua cho con làm cho hình ảnh
người bố trở nên tệ hại trong lòng đứa trẻ.
1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong
việc giáo dục con
Sẽ có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con. Tuy nhiên, trong đề tài này chúng tôi sẽ tìm hiểu hai nhóm yếu tố ảnh
hưởng đến người mẹ đó là nhóm các yếu tố chủ quan và nhóm các yếu tố khách
quan.
A. Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân
trong việc giáo dục con
Đối với nhóm yếu tố chủ quan xuất phát từ chính bản thân người mẹ thường sẽ
là: Thu nhập cá nhân, thời gian bên con, tính cách, sức khỏe, trình độ và nghề
nghiệp của người mẹ đơn thân.
Thu nhập cá nhân: Điều kiện kinh tế gia đình là một trong những yếu tố ảnh
hưởng lớn khó khăn đến tâm lí của người nẹ trong việc giáo dục con. Chúng ta
không thể kết luận người mẹ giàu nuôi dạy con tốt hơn người mẹ nghèo hay ngược
lại. Tuy nhiên, nếu người mẹ có thu nhập ổn định, cuộc sống kinh tế của gia đình
được đảm bảo thì mẹ đơn thân sẽ có nhiều thời gian bên cạnh, chăm sóc, quan tâm,
gần gũi tâm sự và giáo dục con thì sẽ tốt hơn. Khi kinh tế ổn định người mẹ đơn
thân sẽ không đặt quá nhiều vào việc kiếm tiền, tinh thần mẹ thoải mái sẽ hổ trợ rất
nhiều cho việc giáo dục con. Đặc biệt có nguồn lực về kinh tế họ có thể chọn cho
con mình những môi trường và điều kiện giáo dục tốt nhất có thể để đứa trẻ có một
môi trường học tập tốt nhất.
Tính cách: Tính cách của người mẹ sẽ quyết định phương pháp và cách thức
dạy con của họ. Cách họ tương tác với con và cách để họ vượt qua những khó khăn
tâm lí. Tính cách của con người vô cùng đa dạng và phong phú nhưng có thể quy về
hai nhóm tính cách nhóm hướng ngoại và nhóm hướng nội.
27
* Nhóm tính cách hướng ngoại: Người mẹ thường có xu hướng thể hiện cảm
xúc ra bên ngoài, họ hay chia sẻ mọi thứ với con và với mọi người xung quanh mọi
cung bậc cảm xúc tiêu cực và tích cực. Họ dễ dàng nổi nóng, tức giận, phản ứng
nhanh, mạnh với nguồn kích thích nhưng họ lại nhanh nguội đi và trở về trạng thái
ổn định.
* Nhóm tính cách hướng nội: Người mẹ có xu hướng âm thầm chịu đựng và
"gặm nhấm" những nỗi đau của mình. Họ suy nghĩ nhiều về những lỗi lầm của con
và của chính bản thân họ. Họ hay có những suy nghĩ mang tính tiêu cực. Họ có
phong cách trầm tĩnh, bình thản nhưng hay suy tư, u buồn.
Vì sự khác nhau giữa hai nhóm tính cách này nên có thể thấy nhóm những
người mẹ có tính cách hướng ngoại nhanh chóng vượt qua được những trở ngại tâm
lí hơn là nhóm những người mẹ hướng nội.
Thời gian: Phần lớn mẹ đơn thân có thời gian bên con rất ít. Người mẹ đơn
thân rất bận rộn trong việc đi làm kiếm tiền. Bởi vì đa phần những người mẹ đơn
thân là trụ cột kinh tế trong gia đình nên họ phải phải chăm lo tất cả mọi mặt đời
sống của mẹ và con. Chính công việc tạo ra kinh tế gia đình và các hoạt động xã hội
đã chiếm gần hết thời gian của họ. Vì vậy, họ có ít thời gian được ở bên con đây là
một trong những nguyên nhân tạo nên khó khăn cho người mẹ khi giáo dục con. Họ
không có nhiều thời gian để chia sẻ, trò chuyện cùng con, quan tâm chăm sóc con
và kịp thời nhận ra các vấn đề của trẻ để giúp trẻ. Từ đó mối quan hệ gần gũi, gắn
bó giữa hai mẹ con cũng bị ảnh hưởng và việc giáo dục con sẽ trở nên khó khăn
hơn.
Trình độ: Yếu tố trình độ được nói đến ở đây không chỉ là bằng cấp, trình độ
học vấn phổ thông mà muốn nói đến sự hiểu biết của người mẹ. Có thể có những
người mẹ học không cao, không có bằng cao đẳng, đại học nhưng họ có một vốn
sống sâu sắc, sự trải nghiệm cuộc sống, chính chắn trong suy nghĩ và hành động là
những yếu tố giúp người mẹ nuôi dạy tốt đứa con của mình. Trình độ, kiến thức
không nói lên tất cả về khả năng giáo dục con của những người mẹ đơn thân. Tuy
nhiên, trong nghiên cứu này trình độ tốt nghiệp lớp 12 được dùng làm thước đo
mang tính chất định ước. Chúng tôi cho rằng đối với những người mẹ có trình độ
28
học vấn lớp mười hai và từ mười hai trở lên thì họ có sự hiểu biết, nhận thức tốt,
biết cách tư duy. Khi trở thành mẹ họ sẽ có những kiến thức và kỹ năng phổ thông
để nuôi dạy con, bên cạnh đó họ cũng có thể tự trang bị cho mình những kiến thức
cần thiết khác để có thể giáo dục con tốt. Khi ấy việc giáo dục con với họ sẽ trở nên
dễ dàng và suông sẽ hơn những người mẹ không có đầy đủ sự hiểu biết về sự phát
triển của trẻ.
Nghề nghiệp: Công việc hàng ngày của người mẹ đơn thân sẽ có sự ảnh
hưởng nhiều đến việc giáo dục con của mẹ đơn thân. Tính chất của công việc sẽ ảnh
hưởng đến cách thức người mẹ giao tiếp với con, cách họ nói chuyện và dạy dỗ con.
Bên cạnh đó nghề nghiệp người mẹ đơn thân có sự tác động đến các yếu tố khác
như thu nhập cá nhân, thời gian bên con. Tuy nhiên, tính chất riêng biệt của ngành
nghề như: đối tượng hoạt động, lĩnh vực, tính chất công việc, áp lực công việc, kĩ
năng làm việc cũng sẽ góp phần tạo nên những khó khăn tâm lí của những người mẹ
trong việc giáo dục con.
Ví dụ: Cách giáo dục con của một người mẹ làm nghề bác sĩ sẽ có phần nhẹ
nhàng, mềm mỏng trong lời nói hơn một người mẹ làm nghề buôn bán ngoài chợ.
Chính cách nói chuyện, sử dụng ngôn từ của người mẹ cũng sẽ ảnh hưởng đến
những khó khăn tâm lí của người mẹ khi họ giáo dục con.
Sức khỏe: Thể trạng của người mẹ là một yếu tố đáng kể trong việc giáo dục
con của mẹ đơn thân. Những người mẹ có thể lực tốt là một ưu thế cho việc giáo
dục con.
Ví dụ: Người mẹ có sức khỏe tốt có thể tận dụng thời gian cuối tuần để chơi
thể thao (cầu lồng, bơi lội, đạp xe ...) hay đi du lịch, tham gia các hoạt động xã hội
cùng con.
Có nhiều người mẹ có bệnh trong người, thể trạng yếu họ sẽ ít chịu được
những căng thẳng, mệt mỏi trong việc giáo dục con. Điều cũng sẽ ảnh hưởng đến
một số hoạt động trong giáo dục con như chơi cùng con hay xử phạt con.
29
B. Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến khó khăn tâm lí của mẹ đơn
thân trong việc giáo dục con
Những yếu tố có thể ảnh hưởng đến người khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân là:
Gia đình, bạn bè, dư luận xã hội và những "vệ tinh" theo đuổi mẹ đơn thân.
Gia đình: Nguồn lực lớn nhất của phần lớn những người mẹ đơn thân là gia
đình lớn của họ. Đặc biệt là gia đình mẹ ruột. Bởi vì người mẹ thường hay bận rộn
với công việc kinh tế nên việc chăm sóc, giáo dục con trẻ sẽ được giao cho ông bà.
Phần lớn thời gian trong ngày đứa trẻ sẽ ở với ông bà nhiều hơn ở với mẹ nên ông
bà là những người quan trọng thứ hai trong việc giáo dục con trẻ. Gia đình sẽ giúp
người mẹ một phần trong việc chăm sóc và giáo dục đứa trẻ nên người. Có thể nói
gia đình lớn vừa là chỗ dựa tinh thần vừa là chỗ dựa vật cho người mẹ đơn thân.
Tuy nhiên, không phải người mẹ nào cũng may mắn nhận được sự chia sẻ, giúp đỡ
từ gia đình, có những người mẹ đơn thân không may không có gia đình lớn bên
cạnh hay bị gia đình bỏ rơi, hất hủi họ sẽ cảm thấy vô cùng cô đơn và tủi thân. Vì
thế tâm lí người mẹ sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều từ đó hình thành những khó khăn tâm
lí cho mẹ đơn thân trong quá trình nuôi dạy con.
Bạn bè: Người ta có câu "Ở nhà nhờ cha mẹ, ra đường nhờ anh em" anh em ở
đây có nghĩa là bạn bèl. Bạn bè là yếu tố thứ hai có sức ảnh hưởng đến mẹ đơn thân
bên cạnh gia đình lớn. Đối với những người mẹ có một nhóm bạn thân hay vài
người bạn tri kỉ là một điều tích cực. Bởi vì bạn bè có thể giúp mẹ đơn thân phần
nào trong việc giảm tải các khó khăn tâm lí của họ trong việc giáo dục con. Vì trong
thực tế, nhiều người không thể tâm sự, chia sẻ mọi chuyện với gia đình nhưng với
bạn bè thì có thể bày tỏ được nỗi lòng. Đồng thời các mẹ có thể chia sẽ kinh nghiệm
nuôi dạy con với nhau và hỗ trợ nhau trong việc giáo dục con. Những hội nhóm mẹ
đơn thân là một nơi giúp cho những người mẹ đơn thân có thể chia sẻ được những
nỗi niềm của mình, những khó khăn trong quá trình nuôi dạy con.
Ngược lại, khi một người mẹ đơn thân bị bạn bè dè biểu, so sánh và cho rằng
làm mẹ đơn thân thì không thể nào nuôi dạy con tốt bằng việc có chồng để cha dạy
cho con hay trẻ con chỉ nghe lời ba. Khi ấy tâm lí người mẹ chắc chắn sẽ bị ảnh
hưởng rất nhiều.
30
Dư luận xã hội: Trong xã hội văn minh và hiện đại như ngày nay cách nhìn
nhận của mọi người về mẹ đơn thân đã có nhiều thay đổi tích cực. Người ta tôn
trọng những người phụ nữ dám can đảm nuôi con một mình và thấu hiểu cho những
khó khăn, vất vả của người mẹ họ có cái nhìn thiện cảm, bao dung hơn với những
mẹ đơn thân.
Tuy nhiên, ở xã hội nào cũng vậy không phải ai cũng ủng hộ mẹ đơn thân. Đặc
biệt là ở những vùng quê xa xôi, hẻo lánh còn nghèo nàn và lạc hậu, còn chịu sự ảnh
hưởng nặng nề của lối sống xưa cũ, tư tưởng và cách nhìn nhận của xã hội về mẹ
đơn thân vẫn chưa cởi mở, người ta vẫn còn những suy nghĩ tiêu cực, những lời
dèm pha dành cho những người phụ nữ "không chồng mà lại có con". Sự dè biểu,
xem thường những đứa trẻ không có cha là những "tảng đá" vô hình đè nặng lên vai
những người mẹ đơn thân. Ngay cả chính đứa trẻ khi chúng bị nghe những lời nói
này từ xóm giềng, sự chỉ trích ác ý của người lớn sẽ làm cho tâm hồn đứa trẻ bị tổn
thương rất nhiều. Chúng sẽ sinh ra ghét mẹ chúng đối với những đứa trẻ quá nhỏ và
người mẹ cũng vì điều này mà cảm thấy đau khổ vô cùng nên sẽ rất ảnh hưởng đến
việc giáo dục con.
Vì thế rất cần sự tuyên truyền của các đoàn thể xã hội để làm cho mọi người
hiểu hơn về cuộc sống của mẹ đơn thân. Có những chính sách hỗ trợ phù hợp về
mặt xã hội lẫn cung cấp kiến thức giáo dục con để giúp mẹ đơn thân có thể nuôi dạy
con tốt hơn.
Những "vệ tinh" theo đuổi mẹ đơn thân
"Gái một con trông mòn con mắt" tình cảnh độc thân của người phụ nữ luôn
được sự "dòm ngó" của những người đàn ông độc thân và kể cả những người đàn
ông đã có gia đình. Trong những người theo đuổi ấy sẽ có người thật lòng muốn
chăm sóc cho mẹ và con nhưng cũng không hiếm những người đàn ông với ý niệm
đen tối, chỉ muốn vui đùa, trêu ghẹo thỏa mãn những nhu cầu riêng ích kỉ của bản
thân mình. Do đó, với những người theo đuổi không tử tế như thế là một khó khăn
cho mẹ đơn thân. Bởi sự phiền toái từ những người đàn ông này mang lại.
Ví dụ: Người đàn ông theo đuổi mẹ đơn thân họ cho rằng một mình người phụ
nữ không thể nào chăm sóc và nuôi dạy được một đứa trẻ nên người, lúc nào trong
31
nhà cũng cần phải có một người đàn ông làm trụ cột. Họ làm cho người mẹ bị
hoang mang và lo sợ khi giáo dục con về việc người đàn ông là trụ cột gia đình
nhưng trong chính gia đình mình thì không có đàn ông. Nhưng người phụ nữ lại
không thích người đàn ông ấy nên cảm thấy ông ấy rất phiền.
32
Tiểu kết chương 1
Nghiên cứu về khó khăn tâm lí và mẹ đơn thân là vấn đề được nhiều nhà khoa
học trên thế giới quan tâm. Ở Việt Nam, nghiên cứu về mẹ đơn thân được các nhà
nghiên cứu quan tâm nhiều ở mặt khó khăn vật chất. Khó khăn tâm lí của mẹ đơn
thân thì hiếm có và đặc biệt khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục
con thì rất hiếm.
Khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con là những thiếu hụt,
cản trở hoặc vướng mắc trong tâm lí của mẹ đơn thân, mà điều đó làm ảnh hưởng
tiêu cực đến quá trình và hiệu quả hoạt động giáo dục con mà họ cần vượt qua để
thực hiện thành việc giáo dục con. khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo
dục con biểu hiện ở ba mặt nhận thức, thái độ và hành vi.
Về mặt nhận thức: Mẹ đơn thân thường gặp cả hai dạng khó khăn tâm lí về
nhận thức: Khó khăn khi nhận thức về chính bản thân mình trong vai trò làm mẹ với
trách nhiệm giáo dục con. Dạng thứ hai khó khăn khi nhận thức về việc giáo dục
con thường là do người mẹ không có đầy đủ kiến thức về sự phát triển tâm sinh lí
của đứa trẻ, không nắm bắt được nhu cầu, mong muốn của con
Về mặt thái độ: Mẹ đơn thân không điều khiển được trạng thái cảm xúc của
mình, nhạy cảm thái quá và biểu lộ cảm xúc không phù hợp. Những biểu hiện khó
khăn cụ thể về mặt thái độ như sau: Thái độ mâu thuẫn; Không kiềm chế được cảm
xúc bản thân; Cảm thấy bất lực trong việc dạy con; Mệt mõi, căng thẳng, stress; Để
tâm trạng mình phụ thuộc vào con .
Về mặt hành vi: Người mẹ đơn thân có khó khăn tâm lí trong hoạt động
thường biểu hiện hành vi thiếu tự nhiên, gò bó, lúng túng, hành động không phù
hợp với tình huống, bối cảnh Một số biểu hiện khó khăn tâm lí về mặt hành vi của
mẹ đơn thân: Khó khăn trong việc tâm sự, trò chuyện, chia sẻ tâm tư tình cảm với
con; Ngại ngùng khi nói chuyện, cung cấp kiến thức giới tính cho con; Khó khăn
khi thực thi trừng phạt và hình thức khen thưởng cho con; Cố gắng thể hiện mình là
người mẹ tốt; Giải thích các thắc mắc của con về bố chúng
Những yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo
dục con gồm có yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan.
33
Chương 2.
THỰC TRẠNG NHỮNG KHÓ KHĂN TÂM LÍ
CỦA MẸ ĐƠN THÂN TRONG VIỆC GIÁO DỤC CON
2.1. Thể thức nghiên cứu
2.1.1. Mẫu khách thể
Đề tài nghiên cứu trên 30 mẹ đơn thân, hiện có con trong độ tuổi từ 3 tuổi đến
25 tuổi, tại TPHCM và Bình Dương, cụ thể thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2.1. Thống kê đặc điểm mẫu khách thể nghiên cứu
Lí do làm mẹ đơn thân Trình độ
Thụ Sinh con Từ lớp Đặc điểm Chồng Xin con tinh nhưng Dưới Ly hôn 12 trở mất nuôi nhân không kết lớp 12 lên tạo hôn
1 4 23 7 14 7 4 Số lượng
36,8 % 18,4% 10,5% 2,6% 10,5% 76,5% 23,3% Tỷ lệ %
30 30 Tổng
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu thực trạng
A) Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
a. Bảng hỏi mở thăm dò ý kiến về những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân
trong việc giáo dục con
Mục đích: nhằm thu thập các thông tin cần thiết để làm tư liệu xây dựng bảng
hỏi chính của đề tài.
Nội dung: chúng tôi tổ chức thăm dò ý kiến 20 mẹ đơn thân thuộc các ngành
nghề, trình độ khác nhau về các vấn đề khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con và
cách thức giải quyết khi gặp khó khăn.
b. Bảng khảo sát ý kiến chính thức những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân
trong việc giáo dục con
Mục đích: nhằm thu thập số liệu cụ thể về thực trạng các khó khăn tâm lí của
34
mẹ đơn thân trong việc giáo dục con sinh trên một lượng mẫu nhất định.
Nội dung: Bản khảo sát gồm các mục hỏi chi tiết
Phần 1: Các thông tin cá nhân của khách thể khảo sát
Phần 2: Khảo sát thực trạng về các khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con được thể hiện qua ba mặt bao gồm: các khó khăn tâm lí về mặt nhận
thức, khó khăn tâm lí về mặt thái độ, khó khăn tâm lí về mặt hành vi trong hoạt
động giáo dục con.
Phần 3: Yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành những khó khăn tâm lí của mẹ
đơn thân trong việc giáo dục con
Phần 4: Cách thức mẹ đơn thân vượt qua những khó khăn tâm lí trong việc
giáo dục con
Phần 5: Mẹ đơn thân tự đánh giá về hiệu quả các hoạt động giáo dục con của
họ.
Phần 6: Khảo sát tính thực tế và khả thi của các giác pháp giúp mẹ đơn thân
vượt qua khó khăn tâm lí.
Cách cho điểm
Phần 2: Cho điểm tương ứng từ 1-5 điểm theo MĐKK tăng dần từ khó khăn
rất thấp (1 điểm) cho đến khó khăn rất cao (5 điểm).
Bảng 2.2. Bảng quy đổi điểm
ĐTB Mức độ khó Ý nghĩa tương đương
khăn tâm lí Nhận thức Thái độ Hành vi
1 - 1,79 Rất thấp Hoàn toàn sai Hoàn toàn Không bao giờ
không đồng ý
1,8 - 2,59 Thấp Sai Không đồng ý Hiếm khi
2,6 - 3,39 Trung bình Phân vân Phân vân Thỉnh thoảng
3,4 - 4,19 Cao Đúng Đồng ý Thường xuyên
4,2 - 5,0 Rất cao Rất đúng Rất đồng ý Rất thường
xuyên
35
Phần 3: Các yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con, cho điểm tương ứng từ 1 – 5 theo mức độ không ảnh hưởng đến rất
ảnh hưởng
Phần 4: Mẹ đơn thân tự đánh giá hiệu quả các hoạt động giáo dục con của họ,
cho điểm tương ứng từ 1 – 5 theo mức độ kém, yếu, trung bình, khá, tốt.
c. Bảng khảo sát ý kiến tính cần thiết và khả thi của các biện pháp giúp mẹ
đơn thân giảm thiểu những khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con
* Mục đích: nhằm thu thập số liệu cụ thể về tính cần thiết và khả thi cho các
giải pháp giúp mẹ đơn thân giảm thiểu các khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con
sinh trên một lượng mẫu nhất định.
* Nội dung: Bản khảo sát gồm các mục hỏi chi tiết
Phần 1: Tính cần thiết của các giải pháp
Phần 2: Tính khả thi của các giải pháp
* Cách cho điểm
mẹ đơn thân sẽ đánh giá tính cần thiết và khả thi cho các giải pháp, cho điểm
tương ứng từ 1 – 3 theo mức độ không cần thiết đến rất cần thiết và không khả thi
đến rất khả thi.
B) Phương pháp phỏng vấn
* Mục đích: nhằm tìm hiểu sâu sắc, cụ thể hơn về những khó khăn tâm lí của
mẹ đơn thân trong việc giáo dục con sinh trên một lượng mẫu nhất định.
* Nội dung: Phỏng vấn dựa trên các phần của bảng hỏi chi tiết của phần điều
tra bằng bảng hỏi và khai thác sâu hơn theo nội dung mà mẹ đơn thân chia sẻ để
hiểu kĩ hơn về những khó khăn tâm lí của họ.
* Cách thực hiện
Phỏng vấn sâu 10 mẹ đơn thân để tìm hiểu những khó khăn tâm lí cụ thể ở
từng mặt nhận thức, thái độ, hành vi mà mẹ đơn thân đang gặp phải cũng như cách
thức mẹ đơn thân đã dùng để giải quyết khi gặp khó khăn ấy nhằm minh họa thêm
cho số liệu thu được.
C) Phương pháp mô tả chân dung tâm lí
* Mục đích: Để hiểu rõ hơn nguồn gốc, nguyên nhân của những khó khăn tâm
36
lí trong việc giáo dục con của mẹ đơn thân, những trải nghiệm cảm xúc của họ trong
quá trình đó và cách mẹ đơn thân thân đối mặt với những khó khăn tâm lí đó và
cách họ đã đối mặt và vượt qua chúng. Để minh họa rõ ràng hơn cho số liệu thu
được.
* Nội dung: Tìm hiểu lí do và hoàn cảnh đưa đẩy họ trở thành mẹ đơn thân,
hoàn cảnh hiện tại của mẹ và con, cách thức dạy con của mẹ đơn thân, một vài tình
huống cụ thể mà mẹ đơn thân đã gặp phải, cách thức họ đã đối mặt và vượt qua.
Những trải nhiệm cảm xúc của mẹ đơn thân trong suốt quá trình nuôi dạy con, đặc
biệt là những giai đoạn khó khăn.
* Cách thực hiện
Mô tả chân dung tâm lí được thực hiện dựa vào phương pháp phỏng vấn sâu,
phân tích dữ liệu thông qua bảng khảo sát. Mô tả chân dung tâm lí theo lát cắt
ngang, để tìm hiểu những khó khăn tâm lí cụ thể, chi tiết trong những hoàn cảnh và
tình huống tại một thời điểm cụ thể. Thực hiện mô tả 3 chân dung mẹ đơn thân.
Trường hợp 1: mẹ đơn thân do chồng mất và không gặp khó khăn tâm lí trong
việc giáo dục con
Trường hợp 2: mẹ đơn thân do li hôn và có con ngoài gia thú với người đã có
gia đình, có mức độ khó khăn tâm lí cao.
Trường hợp 3: mẹ đơn thân do hoàn cảnh đặc biệt. Khách thể nghiên cứu
trong trường hợp này chính là con gái của trường hợp 2, có mức độ khó khăn tâm lí
cao.
2.2. Thực trạng những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục
con
2.2.1. Kết quả chung về những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con
37
Bảng 2.3. ĐTB và thứ hạng tổng quát những mặt khó khăn tâm lí của mẹ đơn
thân trong việc giáo dục con
Số TT Những mặt khó khăn tâm lí ĐTB ĐLC Thứ hạng
1 Nhận thức 3,46 0,51 2
2 Thái độ 3,64 0,49 1
3 Hành vi 2,84 0,49 3
ĐTB chung 3,31 0,42
Kết quả ĐTB chung ở bảng trên cho thấy mẹ đơn thân gặp khó khăn tâm lí ở
mức độ trung bình (ĐTB = 3,31). Trong đó, mặt khó khăn tâm lí mà mẹ đơn thân
gặp khó khăn nhiều nhất là "mặt thái độ" (ĐTB =3,64) ở mức độ khó khăn tâm lí
cao, tiếp theo là khó khăn tâm lí "mặt nhận thức" (ĐTB = 3,46) cũng ở MĐKK cao,
ở vị trí thứ 3 là khó khăn tâm lí “mặt hành vi”(ĐTB=2,84) MĐKK trung bình.
Mẹ đơn thân gặp nhiều khó khăn tâm lí nhiều nhất ở mặt thái độ khi giáo dục
con, điều này có thể giải thích là do khi bắt đầu thực hiện thiên chức làm mẹ, cuộc
sống của người phụ nữ hoàn toàn thay đổi để thích nghi với việc chăm sóc, nuôi
nấng, dạy dỗ một sinh linh bé bỏng nên người. Người mẹ nào đứng trước cột mốc
quan trọng này cũng sẽ khó tránh khỏi việc bỡ ngỡ. Trong khi đó, nữ giới là giới rất
giàu cảm xúc, nhạy cảm và dễ kích động hơn đàn ông. Thực tế cho thấy trước khi
trở thành mẹ đơn thân hay nói cách khác nguyên nhân làm cho người mẹ trở thành
mẹ đơn thân, phần lớn là những cú sốc tâm lí, những tổn thương làm họ đau đớn (ly
hôn, phụ rẫy, chồng mất) nên cũng không ít lần họ trút những đau buồn, giận dữ lên
con cái của mình. Bên cạnh đó, khó khăn tâm lí về mặt nhận thức cũng ở mức độ
khó khăn tâm lí cao nên từ bên trong nhận thức của họ đã tiêu cực, đã lệch lạc thì
việc thể hiện thái độ ra bên ngoài đối với con họ cũng có thể dễ hiểu. Những người
phụ nữ từng trải qua biến cố, đổ vỡ đa phần có xu hướng mất niềm tin vào đàn ông,
tình yêu và hôn nhân, khi ấy họ thường trở nên mạnh mẽ hơn, bản lĩnh, bất cần và
sự giận dữ, nghi ngờ trong họ cũng sẽ cao hơn, họ nhạy cảm và dễ dàng bị kích
động, từ đó họ không quản lí tốt được cảm xúc bản thân. Chính những điều này đã
38
tạo nên những khó khăn tâm lí cao về mặt nhận thức và thái độ trong việc giáo dục
con của mẹ đơn thân
Qua phỏng vấn trực tiếp mẹ đơn thân, kết quả cũng cho thấy các mẹ gặp khó
khăn cao trong nhận thức và thái độ trong việc dạy con:
Chị K.L (38 tuổi), chị có của một cậu con trai 12 tuổi. Chị đi làm cả ngày, con
trai chị ban ngày thì sang nhà nhà ông bà ngoại ăn uống, nghỉ ngơi. Chiều chị đi làm
về mới ghé nhà ba mẹ ăn tối rồi đón con về nhà. Buổi tối chính là khoảng thời gian
chị cùng con học bài và làm bài tập. Chị chia sẻ "chị thật sự quá mệt mỏi với việc
dạy con học, chị không hiểu sao một bài toán đơn giản như vậy mà chị dạy hoài con
vẫn không làm được, chị rất bực mình bữa nào chị cũng nổi điên với nó, chị bực
mình la nó, mày chậm tiêu i như cha mày vậy đó" chị K.L cũng chia sẻ thêm chị biết
nói như vậy với con là không đúng nhưng thật sự là chị quá nóng giận chị kiềm chế
được cảm xúc của mình.
Ngược lại với chị K.L thì Chị M.T (40 tuổi) lại cảm thấy rất có lỗi với đứa con
gái bé bỏng 18 tuổi của mình. Chị M.T chia sẻ khi vừa tốt nghiệp đại học thì chị
biết tin mình đã có thai được 8 tuần. Chị báo tin cho người yêu hay tưởng rằng sẽ có
một đám cưới diễn ra nhưng không không như chị dự đoán, người yêu chị bảo chị
phá bỏ cái thai đi vì anh không muốn có con lúc này. Anh chỉ hơn chị 2 tuổi và hiện
chưa có việc làm ổn định, anh không muốn kết hôn và sinh con sớm. Chị thương
con nên không bỏ giọt máu của mình, hai người chia tay và anh không nhận con.
Chị nói nhìn con lớn lên từng ngày mà chị vừa vui mừng vừa lo lắng. Chị nói "Chị
luôn tự trách bản thân mình ngày đó sao không biết chọn người mà yêu, yêu chi tên
"Sở Khanh" để giờ con chị không có cha như con nhà người ta, mà chị rất là sợ con
bé nhà chị nó lại trót dại giống chị, rồi lại khổ đời nó nên mỗi lần thấy nó đi với
một thằng con trai nào dù là bạn cùng lớp chị cũng tức giận, điện thoại con về lập
tức, khi con về chị không có đánh con hay la con chị chỉ nói mẹ không thích con đi
với con trai như vậy" và được biết từ nhỏ chị đã cấm con gái yêu sớm hay có mối
quan hệ thân mật với bạn khác giới. Chị cho rằng phải phòng ngừa từ nhỏ như vậy
mới không có nhiều việc rắc rối xảy ra sau này.
39
2.2.2. Những khó khăn tâm lí về mặt nhận thức của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con
Bảng 2.4. Kết quả cụ thể những khó khăn tâm lí về mặt nhận thức của mẹ đơn
thân trong việc giáo dục con
Khó khăn tâm lí về mặt nhận thức của mẹ Thứ Số TT ĐTB ĐLC đơn thân trong việc giáo dục con hạng
Tôi nghĩ mình là một người mẹ không tốt khi
1 không cho con một người bố, một gia đình 3,13 1,28 7
trọn vẹn .
Đứa con của tôi quá thiệt thòi và nó cần được
3,93 0,79 5 2
bù đắp đầy đủ vật chất và tình thương của mình.
Tôi cần là một tấm gương hoàn hảo cho con. 4,17 0,70 2 3
Tôi không thể nào hiểu nổi con đang nghĩ gì. 2,87 1,07 11 4
Tôi không có đầy đủ kiến thức về sự phát 3,23 0,82 6 5 triển từng giai đoạn lứa tuổi của con.
Con luôn cần sự có mặt, che chở của tôi. Tôi
6 nghĩ con khó có thể làm được việc gì nếu 2,70 1,09 12
không có tôi bên cạnh.
Nguy hiểm, lừa đảo luôn có mặt ở mọi nơi 4,57 0,50 1 7 khi con đi ra ngoài một mình.
Tôi không thể bắt con làm việc nhà, tôi sợ 2,93 1,26 9 8 con mệt muốn con tập trung học tập.
Tôi phải cố gắng mua cho con những thứ mà 3,00 1,26 8 9 những đứa trẻ khác có.
2,90 1,30 10 10 Điều gì lúc nhỏ tôi muốn mà không được, bây giờ tôi sẽ mua hết cho con.
4,03 0,99 4 11 Tôi nghĩ khi mình đi thêm bước nữa con sẽ không được chăm sóc tốt.
Tôi thà hi sinh ở vậy một mình để lo cho con 4,07 0,83 3 12 được tốt nhất.
Điểm trung bình chung 3,46 0,51
40
Trong 12 khó khăn nhận thức, có đến 5 khó khăn mẹ đơn thân đánh giá là
MĐKK cao (ĐTB từ 3,93 đến 4,57). Trong 5 khó khăn này, mẹ đơn thân gặp khó
khăn nhiều nhất với suy nghĩ "Nguy hiểm, lừa đảo luôn có mặt ở mọi nơi khi con đi
ra ngoài một mình" (ĐTB = 4,57). Khó khăn nhận thức đứng thứ hai và ba lần lượt
là "Tôi cần là một tấm gương hoàn hảo cho con (ĐTB = 4,17), "Tôi thà hi sinh ở
vậy một mình để lo cho con được tốt nhất" (ĐTB = 4,07). Bảy khó khăn còn lại mẹ
đơn thân đánh giá khó khăn ở mức trung bình, với thứ bậc thấp nhất là ý nghĩ "Con
luôn cần sự có mặt, che chở của tôi. Tôi nghĩ con khó có thể làm được việc gì nếu
không có tôi bên cạnh." (ĐTB =2,7).
Kết quả này cho chúng ta thấy rất phù hợp với thực tế phần đông nỗi lo lắng
của những người mẹ là lo lắng cho sự an toàn cho con "Nguy hiểm, lừa đảo luôn có
mặt ở mọi nơi khi con đi ra ngoài một mình" nên nhận thức này có ĐTB cao nhất
trong nhóm cũng dễ hiểu. Tuy nhiên, người mẹ với suy nghĩ thái quá sẽ gây khó
khăn cho họ trong việc giáo dục con khi kiểm soát con quá mức, không cho con tiếp
xúc với thế giới bên ngoài cánh cửa cổng và có cơ hội giao tiếp với thế giới xung
quanh. Bên cạnh đó người mẹ luôn muốn trong mắt con mình là người mẹ hoàn hảo
nên luôn tạo áp lực cho bản thân cố gắng bằng mọi cách để được điều đó. Nhu cầu
hạnh phúc lứa đôi, được chia sẻ, yêu thương luôn là mong muốn của người phụ nữ.
Tuy nhiên, tình yêu thương của người mẹ còn cao cả hơn cả hạnh phúc riêng tư của
mình nên người mẹ luôn có suy nghĩ "Tôi thà hi sinh ở vậy một mình để lo cho con
được tốt nhất" nhưng vô tình khi người mẹ dồn tất cả sự yêu thương cho đứa con, sẽ
đòi hỏi ở con cao hơn, mong đợi nhiều hơn sẽ làm đứa trẻ sẽ cảm thấy ngột ngạt và
đôi khi người mẹ sẽ bị hụt huẫng bởi những mong đợi của chính mình. Trong nhóm
này suy nghĩ "Con luôn cần sự có mặt, che chở của tôi. Tôi nghĩ con khó có thể làm
được việc gì nếu không có tôi bên cạnh." là được đánh giá gây khó khăn thấp nhất
(ĐTB= 2,07). Thực tế những người mẹ đơn thân là những người do kinh tế chính
trong gia đình, nên phần lớn thời gian họ sẽ đi làm chứ không bên cạnh con, việc
chăm sóc con sẽ có người hỗ trợ cho họ thông thường là gia đình lớn hoặc người
giúp việc hay vú nuôi. Nên suy nghĩ này đứng cuối bảng là hợp lí.
41
H.D (30 tuổi), chị nói "Mình thương con lắm, con còn nhỏ mới 4 tuổi, biết con
rất cần mẹ, mình cũng sợ không có mình bé sẽ không ngoan, nhưng vì cuộc sống
của hai mẹ con nên mình phải chấp nhận đi làm xa nhà, mỗi tuần chỉ về nhà vào
cuối tuần, nhưng ở nhà có ông bà ngoại chăm cháu, ngày nào cũng gọi zalo thấy
mặt con nên mình cũng bớt lo hơn"
2.2.3. Những khó khăn tâm lí về mặt thái độ của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con
Bảng 2.5. Kết quả khó khăn tâm lí về mặt thái độ của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con
Những khó khăn tâm lí về mặt thái độ của Thứ Số ĐTB ĐLC mẹ đơn thân trong việc giáo dục con hạng TT
Tôi cảm thấy rối bời bởi vì con. 3,37 1,03 7 1
Tôi muốn phạt con nhưng khi thực hiện tôi 2 3,93 1,11 3 thấy rất đau lòng nên thường bỏ qua cho con.
Tôi để cho con muốn làm gì thì làm. 3,50 1,07 5 3
Tôi cảm thấy bực mình và dễ nổi nóng với con. 3,17 1,14 8 4
Tôi cảm thấy bất lực với đứa con của mình. 3,17 0,87 9 5
Tôi cảm thấy áp lực, căng thẳng, mệt mỏi 6 4,37 0,71 1 muốn buông xuôi.
7 Tôi cảm thấy vui khi con tôi vui và khi con bị 4,03 0,61 2 đau hay buồn tôi vô cùng đau khổ.
8 Tâm trạng tôi hay lên xuống thất thường (tôi
đang rất vui nhưng chỉ cần con tôi ngỗ nghịch 3,80 1,06 4 hay đạt thành tích kém tâm trạng tôi sẽ lập tức
tuột dốc)
9 Tôi che giấu cảm xúc của mình, không cho con 3,47 0,94 6 biết tôi đang lo lắng, bất an.
Điểm trung bình chung 3,64 0,49
42
Có 9 thái độ cụ thể của nhóm vấn đề khó khăn thái độ trong hoạt động giáo
dục con của mẹ đơn thân, trong đó có đến 7 trên 9 thái độ gây khó khăn ở mức cao
và rất cao cho cho mẹ đơn thân vì sự xuất hiện thường xuyên của chúng. Đứng đầu
trong nhóm là thái độ "Tôi cảm thấy áp lực, căng thẳng, mệt mỏi muốn buông xuôi".
(ĐTB = 4,37). Tiếp theo vị trí thứ hai và ba lần lượt là "Tôi cảm thấy vui khi con tôi
vui và khi con bị đau hay buồn tôi vô cùng đau khổ" (ĐTB = 4,03), "Tôi muốn phạt
con nhưng khi thực hiện tôi thấy rất đau lòng nên thường bỏ qua cho con"(ĐTB =
3,93). Trong nhóm này chỉ có hai thái độ có cùng ĐTB là 3,17 nằm ở MĐKK trung
bình là "Tôi cảm thấy bực mình và dễ nổi nóng với con." và "Tôi cảm thấy bất lực
với đứa con của mình."
Theo kết quả từ bảng 2.5 có thể thấy thái độ "căng thẳng, mệt mỏi, muốn
buông xuôi" là những cảm xúc tiêu cực được nhóm khách thể nghiên cứu đánh giá ở
MĐKK rất cao. Điều này có thể giải thích như sau. Cảm giác mệt mỏi, áp lực thì bất
kì người mẹ nào cũng có khi nuôi dạy một đứa trẻ. Tuy nhiên, trong gia đình truyền
thống bên cạnh người mẹ còn có bố cùng giáo dục con nhưng đối với người mẹ đơn
thân thì họ phải một mình gồng gánh tất cả, cảm giác cô đơn, tủi thân, tạo nên sự
dồn nén cảm xúc trong họ quá lớn càng làm cho họ trở nên mệt mỏi khi giáo dục
con. Bên cạnh đó, thứ hạng thứ hai "Tôi cảm thấy vui khi con tôi vui và khi con bị
đau hay buồn tôi vô cùng đau khổ." và thứ tư "Tâm trạng tôi hay lên xuống thất
thường (tôi đang rất vui nhưng chỉ cần con tôi ngỗ nghịch hay đạt thành tích kém
tâm trạng tôi sẽ lập tức tuột dốc)" cho chúng ta thấy người mẹ đơn thân để cho đứa
con lập trình cảm xúc của chính họ, họ vui buồn theo, con là tất cả mọi ngọn nguồn
cảm xúc. Do đó họ không chủ động làm chủ được tâm trạng và cảm xúc của chính
mình chính điều này đã làm họ rất chênh vênh. Trong nhóm khó khăn thái độ này
chỉ có hai thái độ được nhóm mẫu nghiên cứu đánh giá ở MĐKK trung bình là "Tôi
cảm thấy bực mình và dễ nổi nóng với con" và "Tôi cảm thấy bất lực với đứa con
của mình." những người mẹ này mặc dù họ gặp khó khăn trong cảm xúc của chính
mình nhưng đối với con họ cố gắng không để cảm xúc của mình ảnh hưởng đến
con. Nên thái độ của họ với đứa trẻ ít gặp khó khăn hơn. Điều này cũng góp phần lí
giải mức độ khăn khăn hành vi của mẹ đơn thân chỉ ở mức trung bình.
43
2.2.4. Những khó khăn tâm lí về mặt hành vi của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con
Bảng 2.6. Kết quả khó khăn tâm lí về mặt hành vi của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con
Những khó khăn tâm lí về mặt hành vi STT ĐTB ĐLC Thứ hạng của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con
Tôi làm dùm con cho xong việc khi con 2,97 1,07 4 1 không chịu làm.
Ra lệnh, áp đặt, cưỡng chế con thực hiện 4,10 1,02 1 2 theo các ý muốn của mình.
Con tôi không thích nói chuyện với tôi, nó
3 không bao giờ biết hỏi han hay chủ động 2,07 1,20 10
bắt chuyện với tôi.
Sử dụng đòn roi khi dạy con 2,50 0,94 7 4
5 Ám thị con 2,47 1,14 8
Tôi thấy ngại ngùng, nên hay né tránh,
6 không thể nào nói chuyện về sức khỏe 2,67 1,27 6
sinh sản, giới tính với con của mình.
Tôi không thể nào thực thi những hình 3,47 1,04 3 7 phạt đối với con.
Tôi luôn cố gắng thể hiện cho con thấy 3,87 1,01 2 8 mình là một người mẹ tốt.
9 Dùng tiền để khống chế con 2,03 0,99 11
Tôi bối rối khi phải giải thích với con về 2,30 1,29 10 9 Bố nó.
11 Con không chịu nghe lời tôi nói. 2,83 1,20 5
ĐTB chung 2,84 0,49
44
Có 11 hành vi khó khăn cụ thể của nhóm khó khăn về mặt hành vi trong việc
giáo dục con của mẹ đơn thân. ĐTB cho nhóm khó khăn hành vi là 2,84 ở MĐKK
trung bình. Từ bảng trên cho thấy, trong việc giáo dục con khó khăn hành vi với
người mẹ đơn thân, ở thứ bậc cao nhất là khó khăn về việc “Ra lệnh, áp đặt, cưỡng
chế con thực hiện theo các ý muốn của mình.” (ĐTB = 4,10) tương ứng với mức độ
cao. Thứ hạng thứ hai và ba lần lượt là hành vi "Tôi luôn cố gắng thể hiện cho con
thấy mình là một người mẹ tốt." (ĐTB = 3,87) và "Tôi không thể nào thực thi những
hình phạt đối với con." (ĐTB = 3,47) nằm ở MĐKK trung bình. Đây là mặt khó
khăn duy nhất có tới 4 hành vi gây khó khăn được mẹ đơn thân đánh giá ít xảy ra
với họ có ĐTB từ 2,03 đến 2,50. Hành vi được các mẹ đơn thân đánh giá ít sự ảnh
hưởng nhất với họ là "Dùng tiền để khống chế con" (ĐTB = 2,03).
Qua kết đã được nêu ở trên có thể thấy mẹ đơn thân không quá gặp khó khăn
trong hành vi giáo dục con. Chỉ có duy nhất một hành vi được nhóm mẹ đơn thân
đánh giá ảnh hưởng ở mức độ cao là việc “Ra lệnh, áp đặt, cưỡng chế con thực hiện
theo các ý muốn của mình.” (ĐTB = 4,10). Việc những đứa trẻ ngang ngạnh không
chịu nghe lời buộc lòng người mẹ phải dùng đến cách cuối cùng áp đặt, cưỡng chế
là điều không xa la khi dạy một đứa trẻ. Tuy nhiên, với những người mẹ đơn thân
họ phải đối mặt với việc này thường xuyên hơn, bởi lẽ trẻ con thường sợ nên hay
nghe lời người Bố hơn là Mẹ. Nhưng một điều đáng chú hơn là có đến năm hành vi
được nhóm khánh thể nghiên cứu đánh giá ở mức độ ít ảnh hưởng đến họ được sắp
xếp theo thứ tự giảm dần MĐKK như sau "Sử dụng đòn roi khi dạy con" (ĐTB =
2,50), Ám thị con (ĐTB = 2,47), "Tôi bối rối khi phải giải thích với con về Bố nó."
(ĐTB = 2,30) "Con tôi không thích nói chuyện với tôi, nó không bao giờ biết hỏi
han hay chủ động bắt chuyện với tôi." (ĐTB = 2,07), "Dùng tiền để khống chế con"
(ĐTB = 2,03). Trong khi, khó khăn nhận thức và khó khăn thái độ ở mẹ đơn thân
nằm ở mức độ cao mà khó khăn hành vi lại rơi vào mức độ ít khó khăn đến khó
khăn trung bình điều này có thể giải thích như sau: Trong nhóm khánh thể nghiên
cứu này có đến 76,5% mẹ đơn thân có trình độ trên 12, điều này cũng phù hợp với
xu hướng chung của thế giới tỉ lệ mẹ đơn thân có trình độ ngày càng cao. Bởi vì có
kiến thức và kỹ năng trong việc dạy con, cho nên khi tương tác với đứa trẻ họ
45
không gặp nhiều khó khăn. Mặc dù khó khăn nhận thức và khó khăn thái độ ở mức
độ cao nhưng với trình độ và sự hiểu biết họ có thể vượt qua và làm chủ được cảm
xúc và suy nghĩ của mình để tránh việc ảnh hưởng đến con. Nên những hành vi có
thể gây ra tổn thương sâu sắc đến tâm lí đứa trẻ như đòn roi, thù dọa (ám thị), khống
chế bằng việc không cho con tiền điều không xảy ra thường xuyên trong hành vi
dạy con của mẹ đơn thân. Bên cạnh đó thứ hạng thấp khó khăn cho hành vi "giải
thích với con về người bố của chúng" (hạng 9) hay việc "con không thích nói
chuyện cùng mẹ" (hạng 10) đã nói lên mối quan hệ gần gũi gắn bó của mẹ và con,
người mẹ đơn thân làm tốt trong việc tâm sự, trò chuyện cùng con.
Chị L.A nói về những khó khăn trong hành vi khi tương tác với con như sau:
"Có nhiều khi con ngỗ nghịch, chị giận đến run người, tay giơ lên rồi nhưng chị
kiềm lại được, chị không muốn đánh con hay nặng lời với con, chị biết khi nóng
giận lời nói xác thương ghê lắm" (chị cười khi nói về điều này).
2.2.5. So sánh sự khác biệt những vấn đề khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân
theo lí do trở thành mẹ đơn thân
Bảng 2.7. Sự khác biệt những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân theo lí do trở
thành mẹ đơn thân
STT Lí do trở thành mẹ đơn thân ĐTB khó khăn tâm lí
1 Ly hôn 3,33
2 Chồng mất 3,26
3 Xin con nuôi 3,07
4 Thụ tinh nhân tạo 3,64
5 Sinh con nhưng không kết hôn 3,49
ĐTB chung 3,31
Kết quả bảng 2.7 cho thấy, khi dùng kiểm nghiệm Anova với độ tin cậy 95%
(mức xác xuất 0,05) để so sánh mức độ khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con với
lí do trở thành mẹ đơn thân thì chưa đủ điều kiện để kết luận có sự khác biệt vì mức
xác xuất là 0,62 > 0,05. Tuy nhiên khi so sánh ĐTB mức độ khó khăn tâm lí giữa
46
các nhóm lí do trở thành mẹ đơn thân, có thể thấy ở nhóm những người mẹ sinh
con nhưng chưa từng kết hôn và thụ tinh nhân tạo có ĐTB mức độ khó khăn
tâm lí cao hơn hẳn những nhóm còn lại và ở mức độ khó khăn tâm lí cao. Điều này
nói lên ở những người phụ nữ làm mẹ nhưng chưa từng kết hôn có nhiều khó khăn
tâm lí hơn những người mẹ đã từng kết hôn.
Biểu đồ 2.1. Điểm trung bình mức độ khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân
theo lý do làm mẹ đơn thân
Có thể giải thích về kết quả này như sau: sẽ có sự khác biệt về tâm thế khi trở
thành người mẹ đơn thân của người làm mẹ đơn thân chủ động và bị động. Đối với
những người mẹ muốn trở thành mẹ đơn thân chủ động (Trong nghiên cứu này có
thể kể đến những người phụ nữ đã ly hôn mà chính họ là người đã đề đơn ly hôn.
Trong nhóm khách thể nghiên cứu có 14 mẹ đơn thân ly hôn thì có đến 11 mẹ đơn
thân là người đứng chủ đơn xin ly hôn, chiếm 78,6 % và một số người góa phụ
chồng mất do bệnh tật, đã ủ bệnh trong một thời gian và họ biết trước được chuyện
chồng sẽ mất). Trước khi bước vào cuộc sống của mẹ đơn thân chăm sóc con một
mình, họ thường có cả một kế hoạch chăm sóc và nuôi dạy con. Họ đã lường trước
được những khó khăn vật chất lẫn tinh thần họ sẽ gặp phải và do có sự chuẩn bị nên
47
họ chủ động được trong cuộc sống, trong việc chăm sóc và nuôi dạy con. Đối với
những người làm mẹ đơn thân bị động (trong nghiên cứu này là những người mẹ
đơn thân bị ruồng bỏ khi mang thai hoặc sống với nhau mà không đăng kí kết hôn
hay cưới hỏi) họ đột nhiên phải trở thành mẹ đơn thân tất nhiên họ phải có sự hoang
mang và lo sợ và thường lí do để họ phải làm mẹ đơn thân bị động cũng chính là
một nỗi đau tinh thần của họ như ly hôn, chồng mất hay bị ruồng rẫy bởi nhân tình.
Do đó lúc vừa bắt đầu làm mẹ đơn thân họ đã phải chịu những tổn thương rất lớn
nên sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến việc giáo dục con và dư luận xã hội cũng khá ác ý
với những người mẹ không chồng mà có con này.
2.2.6. Cách thức đối mặt và giải quyết những khó khăn tâm lí của mẹ đơn
thân trong việc giáo dục con
Bảng 2.8. Cách thức giải quyết những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân
Thứ hạng Số Cách thức giải quyết khó khăn ĐTB ĐLC ở từng TT nhóm
Tự mình giải quyết vấn đề 3,27 0,43
1 Âm thầm chịu đựng 3,90 0,89 2
2 Nghĩ đến con cần mình và tiếp tục cố gắng 4,23 0,63 1
3 Giữ một khoảng cách với con, để tâm trạng 2,03 0,85 7 của mình không bị phụ thuộc vào con
4 Đọc sách tạo động lực, nuôi con hoặc một 3,20 0,99 5 thể loại sách mà tôi yêu thích.
5 Chơi thể thao, tập thể dục 2,23 0,94 6
6 Làm những việc yêu thích như: đi mua sắm, 3,63 0,85 4 ca hát, nấu ăn
7 Đi chùa, nhà thờ ... 3,67 1,21 3
Tìm kiếm sự giúp đỡ từ người khác 2,81 0,45
1 Trò chuyện tâm sự cùng con 3,77 0,81 1
2 Tham gia các hoạt động xã hội hoặc câu lạc 2,40 1,00 6 bộ: từ thiện, clb mẹ đơn thân …
48
Thứ hạng Số Cách thức giải quyết khó khăn ĐTB ĐLC ở từng TT nhóm
3 Chia sẻ hình ảnh, tâm tư của mình lên mạng 3,17 1,31 3 xã hội: Facebook, zalo, instagram
4 Like, theo dõi các bài viết của những trang 2,67 1,06 5 mẹ đơn thân trên facebook.
4 5 Tâm sự cùng những bà mẹ đơn thân khác 2,93 1,20
6 Tâm sự cùng người thân, bạn bè, tri kỉ hay 3,63 0,92 2 một ai đó mà tôi tin tưởng.
7 Tìm đến các chuyên gia trị liệu, tham vấn 1,13 0,43 7 tâm lí
Kết quả bảng 2.8 cho thấy, khi gặp khó khăn hầu hết mẹ đơn thân chủ yếu
chọn cách thức trước hết là tìm cách tự mình giải quyết vấn đề (ĐTB = 3,27), sau
đó mới tìm kiếm sự giúp đỡ (ĐTB = 2,81).
Với việc chọn phương hướng giải quyết vấn đề là tự mình giải quyết thì cách
thức mẹ đơn thân sử dụng rất thường xuyên là "Nghĩ đến con cần mình và tiếp tục
cố gắng" (ĐTB = 4,23). Bên cạnh đó các mẹ đơn thân cũng thường xuyên "ầm thầm
chịu đựng" (ĐTB = 3,90). Thứ hạng thứ 3, thứ 4 cũng nằm trong những cách thức
nhóm khách thể thường xuyên sử dụng lần lượt là "Đi chùa, nhà thờ" (ĐTB = 3,67),
"Làm những việc yêu thích như: đi mua sắm, ca hát, nấu ăn ..."(ĐTB = 3,63). Ba
cách thức còn lại trong nhóm các cách thức mẹ đơn thân sử dụng để vượt qua khó
khăn tâm lí chỉ nằm ở mức độ hiếm khi sử dụng và thỉnh thoảng sử dụng. Nhóm
khách thể nghiên cứu thỉnh thoảng chọn cách "Đọc sách tạo động lực, nuôi con
hoặc một thể loại sách yêu thích" (ĐTB = 3,20). Hai cách thức nằm ở mức hiếm khi
các mẹ sử dụng là "Tập thể dục, chơi thể thao" (ĐTB = 2,23), "Giữ một khoảng
cách với con, để tâm trạng của mình không bị phụ thuộc vào con" (ĐTB = 2,03). Có
thể thấy những cách thức mà mẹ đơn thân lựa chọn để tự mình vượt qua những khó
khăn tâm lí trong việc giáo dục con có xu hướng tác động vào bên trong họ. Họ ám
thị bản thân mình, luôn tự động viên mình vì con mà cố gắng. Phần lớn họ vẫn chịu
49
đựng và tìm đến các giải pháp tâm linh như đi chùa và nhà thờ. Tuy nhiên, những
cách thức tích cực tốt về mặt sức khỏe lẫn tinh thần như chơi thể thao, tập thể dục,
rèn luyện sức khỏe, giữ tinh thần thoải mái tránh bị chi phối cảm xúc bởi con hay tự
nâng cao kỹ năng giáo dục con họ lại hiếm khi sử dụng tới.
Khi chọn phương hướng giải quyết vấn đề là tìm kiếm sự giúp đỡ thì đối
tượng đầu tiên trước hết mẹ đơn thân nghĩ đến chính là con của họ "tâm sự cùng
con" (ĐTB = 3,77), tiếp theo đối tượng thứ hai mà mẹ đơn thân tìm đến nhờ sự giúp
đỡ là những người mà họ tin tưởng "Tâm sự cùng người thân, bạn bè, tri kỉ hay một
ai đó mà tôi tin tưởng" (ĐTB = 3,63). Năm nhóm đối tượng còn lại trong bảng khảo
sát những người mà nhóm khách thể tìm đến, chỉ nằm ở mức thỉnh thoảng và hiếm
khi. Trong đó, "Tìm đến các chuyên gia trị liệu, tham vấn tâm lí" là đối tượng nhóm
mẹ đơn thân không bao giờ và hiếm khi tìm đến.
2.2.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành những khó khăn tâm lí mẹ
đơn thân trong việc giáo dục con
Bảng 2.9. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành những khó khăn tâm lí của
mẹ đơn thân
Thứ hạng STT Các yếu tố ĐTB ĐLC trong nhóm
Các yếu tố khách quan 3,48 0,46
Sự chia sẻ từ bạn bè 1 3,23 0,63 3
Sự “quấy rối” từ những người đàn ông đã có 2 3,13 0,78 4 gia đình.
3 Gia đình lớn 4,10 0,71 1
4 Dư luận xã hội 3,47 0,86 2
Các yếu tố chủ quan 3,94 0,34
1 Thu nhập cá nhân 4,40 0,72 2
2 Thời gian bên con 4,40 0,63 2
3 Tính cách của Mẹ 4,43 0,72 1
4 Sức khỏe Mẹ và con 3,37 0,56 3
5 Trình độ 4,00 0,66 2
6 Nghề nghiệp 3,43 0,69 4
50
Khi xem xét những yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành những khó khăn của
mẹ đơn thân, chúng tôi chia thành 2 nhóm yếu tố khách quan và chủ quan.
Ở nhóm yếu tố khách quan chúng tôi xem xét ở khía cạnh gia đình, bạn bè, dư
luận xã hội và những người theo đuổi mẹ đơn thân. Trong đó mẹ đơn thân đánh giá
yếu tố "gia đình lớn" ( ĐTB = 4.1) ảnh hưởng rất nhiều đến việc hình thành những
khó khăn của mình, xếp thứ hạng 1; Ở thứ hạng 2 là "dư luận xã hội" ( ĐTB = 4.1)
ở mức ảnh hưởng nhiều. Hai yếu tố còn lại là "Sự chia sẻ từ bạn bè" và "Sự “quấy
rối” từ những người đàn ông đã có gia đình" được mẹ đơn thân đánh giá chỉ ảnh
hưởng ở mức trung bình.
Như vậy về mặt khách quan, có thể thấy yếu tố "gia đình lớn" là yếu tố ảnh
hưởng rất nhiều đến họ. Trong quá trình phỏng vấn sâu nhóm khách thể nghiên cứu
cho thấy sự ảnh hưởng này có cả hai chiều giúp họ giảm tải hoặc càng làm tăng
mức độ khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con. Bên cạnh đó yếu
tố "dư luận xã hội" cũng ảnh hưởng nhiều đến họ. Có những người mẹ bỏ ngoài tai
những lời ra tiếng vào của xóm giềng để nuôi con thiệt tốt. Tuy nhiên, không ít thì
nhiều tâm lí họ cũng sẽ bị tổn thương.
Ở nhóm yếu tố chủ quan, mẹ đơn thân đánh giá có đến 4 trên 6 yếu tố có sự
ảnh hưởng rất nhiều đến sự tồn tại những khó khăn của mình. Thứ hạng thứ nhất
thuộc về yếu tố "tính cách của mẹ" (ĐTB = 4.43), 3 yếu tố còn lại ở mức độ ảnh
hưởng rất nhiều có cùng điểm trung bình 4.00 là "Thu nhập cá nhân", "Thời gian
bên con", "Trình độ". Hai yếu tố còn lại cũng được người mẹ đơn thân đánh giá ở
mức ảnh hưởng nhiều theo mức độ ảnh hưởng tăng dần là "Sức khỏe mẹ và con"
(ĐTB = 3.43) và "Nghề nghiệp" (ĐTB = 3.37).
Như vậy về mặt chủ quan, có thể thấy các tố từ chính bản thân họ là những
yếu tố ảnh hưởng rất nhiều đến những khó khăn tâm lí của họ trong việc giáo dục
con. "Tính cách của mẹ" là yếu tố được nhóm khách thể đánh giá làm cho họ gặp
nhiều khó khăn nhất. Có thể thấy tính cách là yếu tố khó thay đổi ở con người, do
đó có thể một số khó khăn người mẹ gặp phải là do chính họ gây nên. Yếu tố thứ
hai được những người mẹ đánh giá ảnh hưởng ở mức độ cao đó là "Thu nhập cá
nhân" điều này cũng có thể dễ dàng hiểu được trong hoàn cảnh mẹ đơn thân thì vấn
51
đề tài chính là một vấn đề lớn với họ nên nó cũng sẽ có tác động không nhỏ đến
những áp lực, khó khăn tâm lí của người mẹ trong việc giáo dục con.
Tóm lại, từ kết quả phân tích ở trên có thể thấy những yếu tố chủ quan là
những yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân
trong việc giáo dục con. Điều này cần được lưu trong các biện pháp hỗ trợ giảm tải
khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân là tập trung vào các biện pháp hỗ trợ thay đổi từ
nhận thức, thái độ và hành vi từ bản thân người mẹ.
2.2.8. Mô tả chân dung tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con
2.2.8.1. Trường hợp thứ nhất: mẹ đơn thân do chồng mất và gặp khó khăn
tâm lí mức độ trung bình trong việc giáo dục con
A. Thông tin chung
- Họ và Tên: Chị N.T.M.A
- Sinh năm: 1968
- Nghề nghiệp: Buôn bán
- Lý do làm mẹ đơn thân: Chồng chị mất do tại nạn giao thông
- Số con: 01
- Họ và tên con: N.M.Q Giới tính: Nam Sinh năm: 1994
B. Thực trạng gia đình hiện nay
Mẹ góa con côi. Chồng chị mất năm 2007 và chị ở vậy nuôi con cho đến bây
giờ. Hiện tại, con trai chị đang du học tại Bỉ chuyên ngành kiến trúc.
C. Tiến trình nghiên cứu
Đây là khách thể mà người nghiên cứu đã quen biết từ trước khi tiến hành
nghiên cứu mô tả tâm lí. Hiện tại tâm lí của chị M.A khá thoải mái vì con chị đã lớn
và tự lập. Khi trả lời bảng khảo sát chị được yêu cầu, hãy nhớ lại chị vào thời điểm
khó khăn nhất trong việc giáo dục con. Chân dung tâm lí chị M.A được mô tả trong
phần này cũng chính là khoảng thời gian chị được yêu cầu nhớ lại để trả lời khảo
sát. Năm 2007, lúc chồng chị vừa qua đời.
D. Chân dung tâm lí
1. Bối cảnh năm 2007
Chồng đột ngột qua đời là một cú sốc quá lớn với chị M.A và con trai. Năm đó
52
Q vừa lên lớp 7, Q bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu nổi loạn: Trốn học theo bạn bè
chơi game, kết quả học tập sa sút. Cô giáo gọi về thông báo chị mới biết tình hình
của con
Công việc của chị cả ngày phải ở ngoài chợ. Nên chị không có nhiều thời gian
quan tâm đến con. Chỉ có buổi tối chị mới coi con học bài một lát. Tầm 21 giờ là
chị đi ngủ để sáng dậy sớm buôn bán.
2. Chân dung tâm lí
Mặt nhận thức: Chị không biết phải dạy con thế nào. Chị M.A cho rằng Q thay
đổi như vậy là do ba mất nên Q buồn chán và bị bạn bè lôi kéo.
Mặt thái độ: Đau khổ vì chồng mất, hoang mang vì con và cảm thấy mệt mỏi,
căng thẳng, bất lực. Chị luôn trong trạng thái u tư, rầu rĩ.
Mặt hành vi: Chị đến từng quán game để bắt con về, nghe ai nói thấy con ở
đâu thì chị tới đó. Lúc đầu chị lôi con về nhà mới đánh, con vẫn không sợ, lúc sau
chị đánh con ngay ngoài tiệm, vậy mà con không bỏ tật. Tối về chị không ngủ được,
chị thao thức, trằn trọc cả đêm chị luôn suy nghĩ phải làm gì với con. Chị buâng
khuâng suy nghĩ suốt mấy tháng trời. Nhưng chị âm thầm chịu đựng mọi thứ không
chia sẻ cùng ai.
3. Cách giải quyết vấn đề
Sau những đêm thao thức đó chị đã ra một quyết định mà với chị nó là một
việc làm động trời. Chị cho con đi học trường tư. Chị chia sẻ về cách giải quyết của
chị như thế này "Cách nào làm được chị làm hết rồi từ nhẹ nhàng đến làm dữ, rồi
đánh đập nó sợ đó nhưng nó thấy bạn nó đi chơi được vài bữa nó cũng theo tụi kia.
Nên giờ chị thấy muốn nó dứt hẳn phải cách li nó với đám bạn ham chơi của nó ra.
Thế là chị quyết định cho nó đi học trường K.K ".
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con
Yếu tố khách quan: Ngôi trường tư mà chị dự định cho Q đi học là một ngôi
trường tư có tiếng ở Sài Gòn. Muốn vào được trường phải có hai điều kiện: học lực
giỏi và có tiền, vì học phí ở đây rất đắc đỏ. Học sinh học nội trú, ăn uống, ngủ nghỉ,
học tập hoàn toàn tại trường. Một tuần chỉ được về nhà vào chiều thứ sáu và trở lại
trường vào chiều chủ nhật. Hoàn cảnh chị M.A lại không mấy khá giả. Chị kể cho
53
con đi học là quyết định "năm ăn năm thua" của chị, khi chị nói ý định của mình
với người thân điều vấp phải phản ứng nặng nề. Những câu mọi người thường nói
chị "Nhà có hai mẹ con, để nó nhà hủ hỉ, cho nó đi mày không buồn hả, không
thương con hả?", "Ba nó mới chết, nó còn nhỏ cho nó đi chi tội nghiệp nó
quá","Tiền đâu mà cho nó học cho nổi, một mình mày làm mà nuôi nó chắc chỉ đủ
ăn".
Yếu tố chủ quan: Những điều mọi người nói cũng là điều mà chị suy nghĩ và
đắn đo suốt mấy tháng liền. Nhưng cuối cùng chị cũng ra quyết định cho con đi học
xa nhà. Chị bỏ ngoài tai hết lời mọi người. Chị nói với Q. "Con đi học thử đi, học
được thì học không học nổi thì về, trường đó có mấy đứa giỏi mới học nổi thôi". Chị
khích con vậy mà con qua được hai tháng học thử trong hè chính thức là học sinh
của trường.
5. Mức độ khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con
Kết quả trả lời bảng hỏi của chị như sau: Khó khăn nhận thức ĐTB = 2.60,
khó khăn thái độ ĐTB = 2.80, khó khăn hành vi ĐTB = 3.20. ĐTB chung cho khó
khăn tâm lí là 2.87 ở mức độ khó khăn trung bình.
Qua quá trình tìm hiểu và trao đổi cùng chị nhận thấy tuy chị trình độ không
cao, chị chỉ học đến lớp 3 rồi nghỉ ở nhà phụ ba mẹ buôn bán. Nhưng chị có sự hiểu
biết, chị thấu hiểu tầm quan trọng của việc học tập. Đánh giá được chất lượng từng
môi trường giáo dục. Sáu năm sau ngày chị cho con đi học trường tư, những người
có điều kiện ở quê mới bắt đầu nghĩ đến chuyện cho con lên thành phố học để đậu
đại. Có thể thấy chị là người có tầm nhìn xa và quyết tâm kiên định. Khi vượt qua
hết mọi rào cản tâm lí, các yếu tố tác động bên ngoài để đưa ra những cách giải
quyết vấn đề đúng. Mặc dù chị có những biểu hiện của khó khăn tâm lí trong việc
giáo dục con nhưng chính chị đã bình tỉnh để tìm ra hướng giải quyết vấn đề tốt
nhất cho chị và con trai.
2.2.8.2. Trường hợp thứ hai: mẹ đơn thân do li hôn và có con ngoài gia thú
với người đã có gia đình, có mức độ khó khăn tâm lí cao
A. Thông tin chung
- Họ và Tên: Chị L.T. M
54
- Sinh năm: 1964
- Nghề nghiệp: Công nhân
- Lý do làm mẹ đơn thân: Li hôn
- Số con: 02
- Họ và tên con: L.K.N Giới tính: Nữ Sinh năm: 1988
- Họ và tên con: T.L.P Giới tính: Nam Sinh năm: 2005
B. Thực trạng gia đình hiện nay
Chị T.M hiện đang sống với hai con. Con gái chị chưa lập gia đình, con trai
đang đi học lớp 8.
C. Tiến trình nghiên cứu
Sau khi có kết quả điều tra bảng hỏi nhận thấy khách thể có mức độ khó khăn
tâm lí rất cao, nên người nghiên cứu tiến hành phỏng vấn sâu và mô tả chân dung
tâm lí.
D. Chân dung tâm lí
1. Hoàn cảnh hiện tại
Chồng và chị li hôn đã 19 năm. Năm đó con gái đầu của chị 16 tuổi. Bốn năm
sau đó chị sinh đứa con thứ hai với một người đàn ông vẫn đang sống với vợ con.
Sau khi sinh con. Người đàn ông đó cho chị một căn nhà nhỏ và ba mẹ con hiện tại
đang sống trong ngôi nhà này. Cha của P đã không còn qua lại với Chị T.M từ lâu
nhưng thỉnh thoảng ông vẫn cho tiền P. khi con sang nhà thăm.
2. Chân dung tâm lí
Mặt nhận thức: Chị cho rằng không có chị con không làm được chuyện gì ra
hồn. Chị mà nói là con phải nghe, nói một lần con không nghe thì nói hoài cũng
phải nghe
Mặt thái độ: Chị hay nổi nóng vô cớ với con, rất bực mình khi nói con không
nghe, chị hay đánh và mắng con. Chị luôn cảm thấy mệt mỏi và bất lực trong việc
dạy con. Chị thường xuyên để cho con muốn làm gì thì làm.
Mặt hành vi: Con không thích nói chuyện với chị, cả hai người con điều rất ít
khi chủ động bắt chuyện trước với mẹ. Chị phải thường xuyên la rày, áp đặt con
mới chịu nghe lời. Có khi chị phải dùng roi và tiền để khống chế con.
55
4. Cách giải quyết vấn đề
Mỗi khi cảm thấy mệt mỏi trong việc dạy con chị sẽ lên mạng đọc báo, xem
video. Việc chị làm thường xuyên hơn là dọn dẹp nhà cửa. Chị cũng hay về nhà mẹ
ruột của mình gần đó để chơi với cháu.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con
Yếu tố khách quan: Hiện tại chị đi làm và nuôi đứa con đang còn đi học. Con
gái lớn của chị đã đi làm, đã tự lo được cho bản thân. Tuy nhiên, cuộc sống ba mẹ
con chỉ vừa đủ chứ không dư nhiều. Chị phải đi làm 12 tiếng mỗi ngày mới đủ tiền
lo cho con. Nên điều đó cũng làm cho chị cảm thấy mệt mỏi, dễ nóng giận khi dạy
con.
Yếu tố chủ quan: Bản thân chị là người không thích chia sẻ với người khác về
sự thiếu thốn hay đau khổ của mình. Chị luôn cố tỏ ra chị là một người mẹ hoàn
hảo.
6. Mức độ khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con
Kết quả trả lời bảng hỏi của chị như sau: Khó khăn nhận thức ĐTB = 4.0, khó
khăn thái độ ĐTB = 4.5, khó khăn hành vi ĐTB = 4.3. ĐTB chung cho khó khăn
tâm lí là 4.3 mức độ khó khăn tâm lí rất cao.
Qua quá trình tìm hiểu và chia sẻ cùng chị T.M được biết. Chị gặp khó khăn
nhiều nhất trong việc nói chuyện, tâm sự cùng con. Chị không biết cách để nói cho
con nghe. P nay đã 13 tuổi, con đang bước vào giai đoạn tuổi dậy thì nhưng khi
được hỏi chị có chia sẻ những kiến thức sức khỏe giới tính cho con hay không chị
T.M trả lời như sau: "Chị ngại nói mấy chuyện đó lắm, chị cũng không biết gì để
nói, ngay cả với K.N con gái lớn chị từ đó giờ chị còn không có nói gì với nó, lớn
rồi tự nó sẽ biết"
Trong quá trình phỏng vấn sâu để tìm hiểu về những khó khăn tâm lí của
chị T.M trong việc giáo dục con. Chị có chia sẻ thế này "Chị đi làm cả ngày, về nhà
mệt rồi thời gian đâu mà dạy nó (P). Nên từ nhỏ đến giờ toàn chị nó dạy nó đó, nó
nghe lời chị nó hơn là chị". Khi được biết chị K.N chính là người giáo dục P trực
tiếp. Trong hoàn cảnh này chị K.N xem như vừa là con của một người mẹ đơn thân
vừa làm mẹ đơn thân "bất đắc dĩ" nên người nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn sâu
56
chị K.N để tìm hiểu thêm sự ảnh hưởng từ những khó khăn tâm lí trong việc giáo
dục con của người mẹ đơn thân có mức độ khó khăn tâm lí rất cao đã ảnh hưởng
đến con họ như thế nào và chị K.N cũng chính là trường hợp thứ ba được miêu tả
chân dung tâm lí.
2.2.8.3. Trường hợp thứ ba: mẹ đơn thân do hoàn cảnh đặc biệt, có mức độ
khó khăn tâm lí cao. (Khách thể nghiên cứu trong trường hợp này chính là con
gái của trường hợp 2)
A. Thông tin chung
- Họ và Tên: L.T.K.N
- Sinh năm: 1988
- Nghề nghiệp: Giáo viên
- Lý do làm mẹ đơn thân: Nuôi em của mình
- Số con: 01
- Họ và tên con: T.L.P Giới tính: Nam Sinh năm: 2005
B. Thực trạng gia đình hiện nay
Chị K.N hiện đang sống với mẹ và em trai đang học lớp 8.
C. Tiến trình nghiên cứu
Sau khi có kết quả điều tra bảng hỏi và tiến hành phỏng vấn sâu miêu tả chân
dung tâm lí của mẹ đơn thân gặp khó khăn tâm lí ở mức độ rất cao thì được biết chị
K.N là con gái của trường hợp hai nhưng chị lại đang trực tiếp giáo dục em của
mình. Nên c K.N được xem như vừa là con của một người mẹ đơn thân vừa làm mẹ
đơn thân "bất đắc dĩ" nên người nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn sâu chị K.N để
tìm hiểu thêm sự ảnh hưởng từ những khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con của
người mẹ đơn thân gặp khó khăn tâm lí ở mức độ rất cao sẽ ảnh hưởng đến con họ
như thế nào.
D. Chân dung tâm lí
1. Hoàn cảnh hiện tại
Chị K.N hiện đang sống với mẹ và em trai, chị chưa lập gia đình.
2. Chân dung tâm lí
Mặt nhận thức: Chị muốn mình là một tấm gương thiệt tốt cho em noi theo,
57
chị thấy mình giống mẹ của em trai hơn là chị gái vì em rất đeo theo chị.
Mặt thái độ: Chị luôn cảm thấy mệt mỏi và bất lực trong việc dạy em, chị
không muốn phải dạy em nữa. Chị hay che giấu cảm xúc của mình không cho em
biết. Chị hay nổi nóng với em.
Mặt hành vi: Chị phải thường xuyên la rày, áp đặt em mới chịu nghe lời. Có
khi chị phải dùng tiền để khống chế em. Chị cảm thấy khó khăn khi phải thể hiện
mình là một người chị đúng mực.
5. Cách giải quyết vấn đề
Mỗi khi cảm thấy mệt mỏi trong việc dạy em chị sẽ đi dọn dẹp nhà cửa. Chị đi
nhậu với bạn và lên mạng chơi game.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con
Yếu tố khách quan: Hiện tại chị là giáo viên mềm non, Tính chất công việc
cũng làm cho chị rất mệt mỏi. Chị cũng không có nhiều thời gian quan tâm đến em
Yếu tố chủ quan: Bản thân chị là người không thích chia sẻ với người khác về
sự thiếu thốn hay đau khổ của mình. Ngay cả với mẹ chị cũng không chia sẻ. .
5. Mức độ khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con
Kết quả trả lời bảng hỏi của chị như sau: Khó khăn nhận thức ĐTB = 3.4, khó
khăn thái độ ĐTB = 3.8, khó khăn hành vi ĐTB = 3.2. ĐTB chung cho khó khăn
tâm lí là 4.46 mức độ khó khăn tâm lí cao.
Khi được hỏi về cảm xúc của chị lúc ba mẹ chia tay chị K.N chia sẻ "khi mẹ
có em đó là lúc chị bị khủng hoảng nhất, chị cảm thấy đau khổ, mất mát vì sự chia
tay của bố mẹ, thêm vào đó khi chị đã lớn 16 tuổi rồi mà lại có em, còn là em ngoài
gia thú."
Quan sát thấy chị K.N khá xúc động khi nhớ về việc quá khứ, chị đã khóc. Khi
được hỏi về mẹ của mình là người mẹ như thế nào trong việc giáo dục con chị K.N
chia sẻ như sau: "Mẹ của chị rất kì lạ, kì cục không ai bằng. Ngày nào cũng vậy cứ
hễ đi làm về tới nhà là mẹ kiếm chuyện chửi thằng bé, đại loại như nhà dơ không
quét, mặc dù nhà đã được quét sạch. Mẹ chị thích áp đặt, mẹ muốn làm gì thì làm,
muốn là làm ngay, làm cho bằng được, không bao giờ biết hỏi han, suy nghĩ, ý kiến
của con".
58
Khi được hỏi lại những lúc như vậy chị làm gì ? Chị nói "Chị im lặng nhịn mẹ,
vì có một lần chị trả lời lại khi mẹ nói vô lí, thế là mẹ khóc bù lu bù loa lên, kể lễ đủ
thứ, thế là từ đó chị không trả lời mẹ nữa, không phải chị sợ mẹ mà vì chị không
muốn lớn chuyện". Chị chia sẻ thêm từ nhỏ tới giờ có chuyện gì xảy ra chị điều một
mình giải quyết, gánh chịu, không hề chia sẻ với mẹ. Chị ít khi nào chủ động hỏi
chuyện với mẹ, mẹ hỏi thì chị trả lời thôi. Mối quan hệ mẹ con giữa chị và mẹ rất xa
cách. Vì tính mẹ khó chịu như vậy, nên cậu nhóc ở nhà không có bu theo mẹ, mà từ
nhỏ nó đã bám theo chị. Chị làm gì nó tò tò theo đó, muốn gì sẽ xin chị. Chị nói
"Nó y như con chị vậy đó em chứ không phải con mẹ, nó không có nghe lời mẹ mà
nó nghe chị, ở nhà nó chỉ sợ mình chị mà thôi. Đôi khi chị cũng mệt mỏi vì nó lắm.
Chị đi làm cả ngày về nhà rất mệt, tối lại phải dạy nó học, chị cảm thấy áp lực,
cẳng thẳng vô cùng. Tới nỗi khi nó lên lớp 7 chị nói với Mẹ chị không dạy nó học
nữa, chị mệt quá rồi và chị cho nó tự học, chị không dò bài hay theo sát nó nữa".
Theo lời chị nói, đôi khi chị muốn đi chơi với bạn bè nhiều hơn một chút, nhưng lại
không dám về nhà sau 9h vì phải làm gương cho em, chị cảm thấy không được thoải
mái.
6. Sự ảnh hưởng của con từ khó khăn tâm lí của mẹ trong GDC.
Qua quá trình quan sát và trao đổi với chị K.N tôi nhận thấy chị có rất nhiều
nỗi niềm bị kiềm nén, chị thường xuyên rơi vào trạng thái căng thẳng mà thường lí
do chính cho những buồn phiền của chị là mẹ chị. Nói chính xác hơn là từ chính
những khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con của mẹ chị đã ảnh hưởng đến những
khó khăn tâm lí của chị trong chính việc chị dạy em mình và trong cả cuộc sống của
chị.
Về mặt nhận thức: Chị sợ hôn nhân, chị sợ sự tan vỡ. Chị muốn có con nhưng
sợ lập gia đình và chị có ý định làm mẹ đơn thân.
Năm nay chị đã 30 nhưng khi được hỏi đến chuyện tình cảm và lập gia đình chị
chia sẻ thế này. "Những lúc cô đơn, tủi thân chị rất muốn lấy chồng cho có người
bầu bạn, có con cho chị khỏi phải suy nghĩ nhiều. Nhưng chị rất sợ sự tan vỡ như
ba mẹ chị, nỗi đau thời thơ ấu cứ bám riết lấy chị. Chị sợ con chị khổ vì nghèo, gia
đình cũng không hạnh phúc. Phần nữa còn mẹ già, em thơ chị bỏ không đành, mặc
59
dù mẹ chị hối thúc chị lấy chồng, nhờ người làm mai làm mối đủ đường, vì thấy chị
trước giờ không có quen ai".
Khi được hỏi mong muốn của chị bây giờ là gì chị chia sẻ thế này "Chị thì nếu
có tiền chị sẽ thụ tinh nhân tạo, chị rất muốn có con nhưng chị sợ kết hôn".
Mặt thái độ: Chị K.N có rất nhiều biểu hiện lo âu, chị hay suy nghĩ nhiều, chị
hay khóc vào buổi đêm. Chị ít nói, ngại giao tiếp với mọi người. Chị không thích
đám đông, ghét sự ồn ào
Trong những lần trao đổi nói chuyện cùng chị, tôi gặp chị 10 lần trong khoảng
thời gian 6 tháng. Nhưng mỗi lần chia sẻ nói chuyện, chị điều khóc. Chị nói "ở
trường, mọi người coi chị như đàn ông vậy đó em, chưa bao giờ có ai nhìn thấy chị
khóc. Còn ở nhà cũng vậy, thậm chí chị còn chưa bao giờ khóc trước mặt mẹ, dù
hầu như đêm nào mà chị thảnh thơi là chị lại nhớ đến chuyện quá khứ, chị lại khóc
tức tưởi."
Mặt hành vi: Chị chưa từng hẹn hò với ai dù có nhiều người theo đuổi, ai đến
với chị, chị cũng lo sợ bỏ chạy trước.
Qua quá trình phỏng vấn sâu và mô tả chân dung ba trường hợp lí do làm mẹ
đơn thân khác nhau cho thấy có sự thống nhất giữa kết quả phỏng vấn và kết quả
thu được từ bảng hỏi về những khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con của người
mẹ đơn thân.
Đặc biệt chân dung tâm lí ở trường hợp thứ ba, đã cho thấy rõ hậu quả của khó
khăn tâm lí trong GDC tới con cái. Nhưng cũng thông qua trường hợp này, người
nghiên cứu mong muốn những đề tài sau chúng ta sẽ nghiên cứu chuyên sâu hơn về
xu hướng làm mẹ đơn thân của những người phụ nữ được nuôi dạy bởi những người
mẹ đơn thân. Bởi vì, mặc dù chị K.N chia sẻ mẹ chị là một người mẹ dạy con không
tốt nhưng bản thân chị lại muốn trở thành mẹ đơn thân. Điều đó cho thấy, sự ảnh
hưởng của người mẹ đến con cái của mình là rất lớn, nên khi các vấn đề khó khăn
tâm lí của mẹ không được giải quyết sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển nhân
cách, thế giới nội tâm và thế giới quan của những đứa con.
Phương pháp mô tả chân dung tâm lí cho thấy: Mẹ đơn thân nào cũng gặp rất
nhiều những khó khăn tâm lí. Mỗi người có một cách phản ứng, đối mặt, giải quyết
60
và vượt qua khó khăn khác nhau. Cả ba chân dung tâm lí điều là những người mẹ
đơn thân mạnh mẽ và bản lĩnh. Họ cố gắng, nổ lực vượt qua hết những biến cố, khó
khăn trong cuộc sống của mình để giáo dục con được tốt nhất. Tuy nhiên, trong 3
chân dung tâm lí chỉ có chân dung thứ nhất là người mẹ có cách thức đối mặt và
vượt qua khó khăn tâm lí tích cực và đạt được hiệu quả. Hai chân dung tâm lí còn
lại phản ánh rất rõ tác hại, hậu quả của những khó khăn tâm lí trong giáo dục con
của mẹ đơn thân gây ra. Tác hại ấy ảnh hưởng đến cả hạnh phúc, nhận thức, thái độ
và hành vi của người con gái trong gia đình. Có thể thấy xu hướng mẹ đơn thân có
tính chất di truyền phát sinh trong gia đình mẹ đơn thân. Khi người mẹ, chọn làm
mẹ đơn thân thì người con gái của họ có thể bị ảnh hưởng từ mẹ. Tư tưởng làm mẹ
đơn thân từ đó được hình thành và góp phần vào hình thành xu hướng làm mẹ đơn
thân đang gia tăng trong xã hội hiện nay.
2.3. Một số biện pháp giúp mẹ đơn thân giảm bớt những khó khăn tâm lí trong
việc giáo dục con
2.3.1. Cơ sở đề xuất giải pháp
A) Cơ sở lí luận
Thứ nhất: khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con biểu
hiện ở ba mặt nhận thức, thái độ và hành vi.
Khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con là những thiếu hụt,
cản trở hoặc vướng mắc trong tâm lí của mẹ đơn thân, mà điều đó làm ảnh hưởng
tiêu cực đến quá trình và hiệu quả hoạt động giáo dục con mà họ cần vượt qua để
thực hiện thành việc giáo dục con. Khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo
dục con biểu hiện ở ba mặt nhận thức, thái độ và hành vi.
Về mặt nhận thức: Người mẹ đơn thân thường gặp cả hai dạng khó khăn tâm
về nhận thức cơ bản: dạng thức nhất khó khăn khi nhận thức về chính bản thân
mình trong vai trò làm mẹ với trách nhiệm giáo dục con.
Về mặt thái độ: Người mẹ đơn thân thường có những biểu hiện khó khăn cụ
như sau: Thái độ mâu thuẫn; Không kiềm chế được cảm xúc bản thân; Cảm thấy bất
lực trong việc dạy con; Mệt mõi, căng thẳng, stress; Để tâm trạng mình phụ thuộc
vào con .
61
Về mặt hành vi: Thường có những biểu hiện như sau: Tâm sự, trò chuyện,
chia sẻ tâm tư tình cảm với con; Cung cấp kiến thức giới tính cho con; Trừng phạt
và khen thưởng; Người mẹ cố gắng thể hiện mình là người mẹ tốt; Giải thích các
thắc mắc của con về bố chúng.
Thứ hai: Có hai nhóm yếu tố ảnh hưởng đến đến khó khăn tâm lí của mẹ
đơn thân trong việc giáo dục con: yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan.
Tóm lại, người mẹ đơn thân gặp khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con trên
cả ba mặt nhận thức, thái độ và hành vi. Vì vậy, muốn giúp người mẹ đơn thân giảm
bớt những khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con thì các biện pháp phải tác động
vào cả ba mặt: Nhận thức, thái độ và hành vi. Bên cạnh đó còn có hai tố chủ quan
và khách quan tác động vào những khó khăn ấy, nên trong các giải pháp phải hướng
đến việc giải quyết cả yếu tố chủ quan lẫn khách quan.
B) Cơ sở thực tiễn
Từ kết quả thu được qua khảo sát thực tế những khó khăn tâm lí của mẹ đơn
thân trong việc giáo dục con. Những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân được biểu
hiện ở ba mặt: nhận thức, thái độ, hành vi được trình bày cụ thể như sau:
Nhóm mẹ đơn thân trong nghiên cứu có mức độ khó khăn tâm lí là khó khăn
trung bình. Tuy nhiên, khi xét riêng mức độ về từng mặt nhận thức, thái độ và hành
vi. Có thể thấy khó khăn về mặt nhận thức và mặt thái độ ở mức độ khó khăn tâm lí
cao. Chỉ có ở mặt hành vi, khó khăn ở mức trung bình. Cụ thể khó khăn ở từng mặt
các mẹ đơn thân gặp phải như sau:
Về mặt nhận thức
Trong nhóm khó khăn này, ba suy nghĩ làm mẹ đơn thân gặp khó khăn ở mức
độ rất nhiều lần lượt từ hạng nhất đến hạng ba là: "Nguy hiểm, lừa đảo luôn có mặt
ở mọi nơi khi con đi ra ngoài một mình", "Tôi cần là một tấm gương hoàn hảo cho
con", "Tôi thà hi sinh ở vậy một mình để lo cho con được tốt nhất"
Tóm lại, về mặt nhận thức nguồn gốc của những khó khăn tâm lí của mẹ đơn
thân có nguyên nhân sâu xa như sau: Vì người mẹ đơn thân không thể dạy cho con
các kĩ năng nhận diện, phòng chống và đối phó với những tình huống nguy hiểm
trong cuộc sống nên mới luôn có những suy nghĩ tiêu cực, lo lắng quá mức cần thiết
62
cho con khi cho con ra ngoài. Bên cạnh đó người mẹ thiếu sự tin tin về bản thân
mình nên mới luôn cố gắng làm người hoàn hảo. Khi người mẹ dành quá nhiều tình
cảm hơn mức cần thiết cho con mình thì họ dễ rơi vào những suy nghĩ lệch lạc và
làm cho bản thân mình mệt mỏi khi con không được như những gì mà người mẹ
mong đợi.
Về mặt thái độ
Đứng đầu trong nhóm khó khăn về mặt thái độ là trạng thái "Tôi cảm thấy áp
lực, căng thẳng, mệt mỏi muốn buông xuôi". Tiếp theo vị trí thứ hai và ba lần lượt là
"Tôi cảm thấy vui khi con tôi vui và khi con bị đau hay buồn tôi vô cùng đau khổ"
và "Tôi muốn phạt con nhưng khi thực hiện tôi thấy rất đau lòng nên thường bỏ qua
cho con".
Những khó khăn về mặt thái độ của những người mẹ đơn thân xuất phát từ
việc người mẹ đơn thân không có kĩ năng ứng phó với stress, không biết cách thư
giãn, giải tỏa căng thẳng mệt mỏi. Bên cạnh đó họ cũng không biết cách quản lí cảm
xúc bản thân. Người mẹ nuông chiều theo cảm xúc yếu đuối của mình, thương con
nhưng thiếu lí trí.
Về mặt hành vi
Trong việc giáo dục con khó khăn hành vi với người mẹ đơn thân, ở thứ bậc
cao nhất là khó khăn về việc "Ra lệnh, áp đặt, cưỡng chế con thực hiện theo các ý
muốn của mình". Thứ hạng thứ hai và ba lần lượt là hành vi "Tôi luôn cố gắng thể
hiện cho con thấy mình là một người mẹ tốt." và "Tôi không thể nào thực thi những
hình phạt đối với con."
Có thể thấy khi muốn hạn chế, giảm bớt đi những khó khăn tâm lí về mặt hành
vi của người mẹ đơn thân trong việc giáo dục con thì nên tập trung vào những việc
cung cấp cho người mẹ những kĩ năng cần thiết trong việc giáo dục con. Đồng thời
là kĩ năng tư duy tích cực, thay đổi nhận thức từ bên trong người mẹ để họ cảm thấy
tự tin hơn về mình từ đó những khó khăn về hành vi của mẹ đơn thân mới được
giảm bớt.
Trong các yếu tố ảnh hưởng nhiều đến khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong
việc giáo dục con là yếu tố chủ quan hơn các yếu tố khách quan. Ngoài yếu tố: tính
63
cách, thu nhập cá nhân, thời gian gian bên con được nhóm khách thể đánh giá mức
độ ảnh hưởng nhiều và rất nhiều thì điều cần quan tâm nhất là "Trình độ" trình độ ở
đây sẽ không nói đến vấn đề bằng cấp hay ngành học mà muốn nói đến những kiến
thức và kĩ năng nuôi dạy con của người mẹ.
Bên cạnh đó yếu tố khách quan tuy không ảnh hưởng nhiều bằng yếu tố chủ
quan trong việc tạo nên khó khăn tâm lí cho người mẹ nhưng hai yếu tố được người
mẹ đơn thân đánh giá ảnh hưởng nhiều đến họ là gia đình và dư luận xã hội. Trong
đó yếu tố "dư luận xã hội" nên được các ban ngành đoàn thể, các tổ chức trong xã
hội quan tâm để giúp cho người mẹ đơn thân có tiếng nói trong cộng đồng, để giúp
họ giảm bớt được những áp lực từ dư luận xã hội gây nên.
Từ thực tiễn cho thấy người mẹ thực sự gặp khó khăn tâm lí trên ba mặt nhận
thức thái độ và hành vi. Do đó, muốn giúp người mẹ đơn thân giảm bớt những khó
khăn tâm lí trong việc giáo dục con thì các biện pháp phải tác động vào cả ba mặt:
Nhận thức, thái độ và hành vi. Bên cạnh đó yếu tố chủ quan là yếu tố tác động chính
đến người Mẹ nên các biện pháp cần hướng vào giải quyết các vấn đề bên trong
người mẹ. Tuy nhiên gia đình lớn và dư luận xã hội cũng có sự ảnh hưởng nhiều
đến khó khăn tâm lí của người mẹ. Điều này cần được chú ý đối với các biện pháp
hỗ trợ từ gia đình và xã hội.
2.3.2. Các nhóm biện pháp hỗ trợ, giảm bớt những khó khăn tâm lí trong
việc giáo dục con của mẹ đơn thân.
Căn cứ vào cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn về những khó khăn tâm lí cụ thể và
các yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con của mẹ đơn thân.
Người nghiên cứu xin đề xuất một số biện pháp sau đây:
Nhóm biện pháp 1: Biện pháp giáo dục
Mục đích: Tác động toàn diện trên cả ba mặt nhận thức, thái độ, hành vi
Giúp mẹ đơn thân có nhận thức đúng đắn về việc giáo dục con lành mạnh và
khoa học. Có thái độ phù hợp trong việc dạy con và những hành vi tích cực, đúng
đắn mang lại hiệu quả cao trong việc giáo dục con.
Nội dung cụ thể trong từng mặt như sau:
Nhận thức: Nâng cao nhận thức của mẹ đơn thân về giá trị của bản thân mình
64
và tư duy tích cực. Cung cấp cho mẹ đơn thân những kiến thức nuôi dạy con khoa
học và tương tác cùng con hiệu quả
Thái độ: Hướng dẫn mẹ đơn thân thể hiện những thái độ phù hợp trong việc
giáo dục con.
Hành vi: Hướng dẫn kỹ năng giáo dục con khoa học, kỹ năng thoát hiểm cho
trẻ. Thực hành phương pháp thư giãn, giảm căng thẳng mệt mõi.
Cách thực hiện:
- Tổ chức chuyên đề: Chuyên đề nuôi con tích cực, nuôi con khoa học, tư duy
tích cực để thành công và hạnh phúc, làm mẹ không khó....
- Nâng cao nhận thức chăm sóc sức khỏe tinh thần cho mẹ đơn thân (Phim về
mẹ đơn thân, )
- Tổ chức chương trình tập huấn cho các cán bộ hội phụ nữ phường xã về kiến
thức nuôi dạy con khoa học để họ kịp thời hỗ trợ mẹ đơn thân.
- Tổ chức hội thảo, tập huấn cho mẹ đơn thân các kỹ năng đối mặt với Stress,
áp lực tâm lí và tự vượt qua chúng.
- Tổ chức hội thảo, tập huấn cho mẹ đơn thân các kỹ năng giao tiếp cùng con,
kĩ năng giáo dục kĩ năng thoát hiểm cho trẻ
- Phát hành các ấn phẩm giáo dục dành riêng cho mẹ đơn thân (Sách, tạp chí,
cẩm nang, phim tài liệu ...)
Nhóm biện pháp 2: Biện pháp về việc hỗ trợ về hành chính
Mục đích: Bảo vệ quyền lợi cho mẹ đơn thân
Nội dung: Các tổ chức chính phủ, các cơ quan, ban ngành hỗ trợ và bảo vệ
quyền lợi hợp pháp cho mẹ đơn thân.
Cách thực hiện:
- Thành lập các tổ chức, cơ quan, hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mẹ
đơn thân.
- Có những văn bản hành chính về chính sách hỗ trợ cho mẹ đơn thân trong
việc cho con đi học ở trường.
Nhóm biện pháp 3: biện pháp về truyền thông và xã hội
Mục đích: Tạo tiếng nói cộng đồng, thay đổi cách nhìn nhận của mọi người về
65
mẹ đơn thân. Để giảm bớt đi sự kì thị của mọi người với những người mẹ đơn thân.
Tạo sự quan tâm của các ban ngành đoàn thể đến mẹ đơn thân. Tạo sự kết nối trong
cộng đồng người mẹ đơn thân. Tạo cơ hội cho mẹ đơn thân tiếp cận với các dịch vụ
tiện ít.
Nội dung:
- Các câu lạc bộ sân chơi dành cho mẹ đơn thân
- Dịch vụ tiện ích hỗ trợ, giúp đỡ mẹ đơn thân (Giữ trẻ, giúp việc nhà, giao
hàng...)
Cách thực hiện:
- Tổ chức các hoạt động, chương trình truyền hình thực tế, tạo tiếng nói cộng
đồng, giúp mọi người có cái nhìn tích cực hơn về mẹ đơn thân.
- Kêu gọi những nhà chuyên môn (Tâm lí, bác sĩ, giáo viên...) viết và in ấn
phát hành sách, báo, tạp chí có nội dung về giáo dục con dành riêng cho mẹ đơn
thân.
- Tăng cường các hoạt động tham vấn tâm lí hỗ trợ tinh thần, tạo điều kiện cho
mẹ đơn thân tiếp cận với các dịch vụ.
- Thành lập các kênh hỗ trợ online cho mẹ đơn thân (Fanpage Facebook, hôi
nhóm zalo, trang wed ...)
- Thành lập các sân chơi, câu lạc bộ tạo cầu nối cho các mẹ đơn thân giao lưu
với nhau.
- Phát triển các dịch vụ tiện ích hỗ trợ, giúp đỡ mẹ đơn thân (Giữ trẻ, giúp việc
nhà, giao hàng...)
66
2.3.3. Đánh giá tính cần thiết và khả thi của các biện pháp
Bảng 2.10. Bảng điểm trung bình về tính cần thiết của các biện pháp
BIỆN PHÁP ĐTB THỨ STT HẠNG
Nhóm biện pháp giáo dục 2.47
Tổ chức chuyên đề: Chuyên đề nuôi con tích cực, 2.60 3
1 nuôi con khoa học, tư duy tích cực để thành công và
hạnh phúc, làm mẹ không khó ...
2 Làm phim về cuộc sống của mẹ đơn thân. 2.63 2
Tổ chức chương trình tập huấn cho các cán bộ hội 2.60 4
3 phụ nữ phường xã về kiến thức nuôi dạy con khoa
học để họ kịp thời hỗ trợ mẹ đơn thân.
Tổ chức hội thảo, tập huấn cho mẹ đơn thân các kỹ 2.67 1
4 năng đối mặt với Stress, áp lực tâm lí và tự vượt qua
chúng.
Tổ chức hội thảo, tập huấn cho mẹ đơn thân các kỹ 2.17 6
5 năng giao tiếp cùng con, kĩ năng giáo dục kĩ năng
thoát hiểm cho trẻ
Phát hành các ấn phẩm giáo dục dành riêng cho mẹ 2.13 5 6 đơn thân (Sách, tạp chí, cẩm nang, phim tài liệu ...)
Nhóm biện pháp truyền thông xã hội 2.49
Tổ chức các hoạt động, chương trình truyền hình 2.60 3
1 thực tế, tạo tiếng nói cộng đồng, giúp mọi người có
cái nhìn tích cực hơn về mẹ đơn thân.
Kêu gọi những nhà chuyên môn (Tâm lí, bác sĩ, 2.63 2
giáo viên...) viết và in ấn phát hành sách, báo, tạp 2 chí có nội dung về giáo dục con dành riêng cho mẹ
đơn thân.
3 Tăng cường các hoạt động tham vấn tâm lí hỗ trợ 2.20 6
67
tinh thần, tạo điều kiện cho mẹ đơn thân tiếp cận
với các dịch vụ.
Thành lập các kênh hỗ trợ online cho mẹ đơn thân 2.70 1 4 (Fanpage Facebook, hôi nhóm zalo, trang wed ...)
Thành lập các sân chơi, câu lạc bộ tạo cầu nối cho 2.48 4 5 các mẹ đơn thân giao lưu với nhau.
Phát triển các dịch vụ tiện ích hỗ trợ, giúp đỡ mẹ 2.33 5 6 đơn thân (Giữ trẻ, giúp việc nhà, giao hàng...)
Nhóm biện pháp hành chính 2.4
Thành lập các tổ chức, cơ quan, hỗ trợ và bảo vệ 2.23 1 1 quyền lợi hợp pháp cho mẹ đơn thân.
Có những văn bản hành chính về chính sách hỗ trợ 2.60 2
2 cho mẹ đơn thân trong việc cho con đi học ở
trường.
Từ kết quả của bảng trên có thể thấy Tính cần thiết của nhóm các phương
pháp về truyền thông và xã hội có ĐTB cao nhất 2.49, tiếp theo là các biện pháp
thuộc nhóm giáo dục ĐTB = 2.47 và nhóm còn lại ĐTB = 2.4. Sự chênh lệch điểm
trung bình ở các nhóm giải pháp không nhiều, điều này cho thấy mẹ đơn thân cần
được sự hỗ trợ về mọi mặt trên mọi phương diện. Cụ thể trong các biện pháp thuộc
nhóm giáo dục "Tổ chức hội thảo, tập huấn cho mẹ đơn thân các kỹ năng đối mặt
với Stress, áp lực tâm lí và tự vượt qua chúng" (ĐTB = 2.67) là biện pháp được
nhóm khách thể đánh giá cần thiết nhất với họ. Tiếp theo là nên "làm những bộ
phim về mẹ đơn thân" (ĐTB = 2,63) và "Tổ chức chuyên đề: Chuyên đề nuôi con
tích cực, nuôi con khoa học, tư duy tích cực để thành công và hạnh phúc, làm mẹ
không khó ..." (ĐTB = 2,60). Trong nhóm các giải pháp truyền thông và xã hội
"Thành lập các kênh hỗ trợ online cho mẹ đơn thân (Fanpage Facebook, hôi nhóm
zalo, trang wed ...)" (ĐTB = 2,7) là biện pháp được mẹ đơn thân cảm thấy cần thiết
nhất.Bên cạnh đó họ cũng cần thiết "Có những văn bản hành chính về chính sách
hỗ trợ cho mẹ đơn thân trong việc cho con đi học ở trường" (ĐTB = 2,60). Có thể
68
thấy điều những người mẹ đơn thân cần nhất chính là kỹ năng đối mặt với áp lực và
vượt qua chúng, bên cạnh đó là kỹ năng nuôi dạy con.
Bảng 2.11. Bảng điểm trung bình về tính khả thi của các biện pháp
Stt Biện pháp ĐTB Thứ hạng
Nhóm biện pháp giáo dục 2,23
Tổ chức chuyên đề: Chuyên đề nuôi con tích cực,
1 nuôi con khoa học, tư duy tích cực để thành công và 2,63 1
hạnh phúc, làm mẹ không khó ...
2 Làm phim về cuộc sống của mẹ đơn thân. 1,83 6
Tổ chức chương trình tập huấn cho các cán bộ hội
3 phụ nữ phường xã về kiến thức nuôi dạy con khoa 2,20 5
học để họ kịp thời hỗ trợ mẹ đơn thân.
Tổ chức hội thảo, tập huấn cho mẹ đơn thân các kỹ
4 năng đối mặt với Stress, áp lực tâm lí và tự vượt qua 2,33 2
chúng.
Tổ chức hội thảo, tập huấn cho mẹ đơn thân các kỹ
5 năng giao tiếp cùng con, kĩ năng giáo dục kĩ năng 2,33 2
thoát hiểm cho trẻ
Phát hành các ấn phẩm giáo dục dành riêng cho mẹ 6 2,30 4 đơn thân (Sách, tạp chí, cẩm nang, phim tài liệu ...)
Nhóm biện pháp truyền thông xã hội 2,36
Tổ chức các hoạt động, chương trình truyền hình
1 thực tế, tạo tiếng nói cộng đồng, giúp mọi người có 2,33 3
cái nhìn tích cực hơn về mẹ đơn thân.
Kêu gọi những nhà chuyên môn (Tâm lí, bác sĩ,
giáo viên...) viết và in ấn phát hành sách, báo, tạp
2 chí có nội dung về giáo dục con dành riêng cho mẹ 2,23 5
đơn thân.
69
Tăng cường các hoạt động tham vấn tâm lí hỗ trợ
3 tinh thần, tạo điều kiện cho mẹ đơn thân tiếp cận với 2,17 6
các dịch vụ.
Thành lập các kênh hỗ trợ online cho mẹ đơn thân 4 2,53 2 (Fanpage Facebook, hôi nhóm zalo, trang wed ...)
Thành lập các sân chơi, câu lạc bộ tạo cầu nối cho 5 2,57 1 các mẹ đơn thân giao lưu với nhau.
Phát triển các dịch vụ tiện ích hỗ trợ, giúp đỡ mẹ 6 2,27 4 đơn thân (Giữ trẻ, giúp việc nhà, giao hàng...)
Nhóm biện pháp hành chính 2,17
Thành lập các tổ chức, cơ quan, hỗ trợ và bảo vệ 1 2,6 1 quyền lợi hợp pháp cho mẹ đơn thân.
Có những văn bản hành chính về chính sách hỗ trợ 2 1,73 2 cho mẹ đơn thân trong việc cho con đi học ở trường.
Kết quả Tính khả thi của các nhóm giải pháp cũng tương ứng với các thứ
hạng của tính cần thiết. Nhóm khách thể nghiên cứu cho rằng. Các biện pháp truyền
thông xã hội là nhóm khả thi nhất (ĐTB = 2,36), tiếp theo là các biện pháp giáo dục
(ĐTB = 2,23) và cuối cùng là nhóm các biện pháp hành chánh (ĐTB = 2,17). Trong
nhóm các biện pháp giáo dục, nhóm khách thể đánh giá biện pháp khả thi nhất là
"Tổ chức chuyên đề: Chuyên đề nuôi con tích cực, nuôi con khoa học, tư duy tích
cực để thành công và hạnh phúc, làm mẹ không khó ..." (ĐTB = 2,63). Trong nhóm
các giải pháp truyền thông và xã hội biện pháp nhóm khánh thể cho là khả thi nhất
là "Thành lập các sân chơi, câu lạc bộ tạo cầu nối cho các mẹ đơn thân giao lưu
với nhau" (ĐTB = 2,48). Tuy nhóm khách thể đánh giá biện pháp hành chính "Có
những văn bản hành chính về chính sách hỗ trợ cho mẹ đơn thân trong việc cho con
đi học ở trường" là cần thiết với họ nhưng họ lại cho rằng đây là giải pháp không
khả thi (ĐTB = 1,73).
Tóm lại, khi khảo sát thực tế có thể thấy, mẹ đơn thân cần những biện pháp hỗ
trợ cho họ những kiến thức và kĩ năng nuôi dạy con và kỹ năng giúp họ tự vượt qua
70
các căng thẳng, mệt mỏi trong việc giáo dục con. Bên cạnh đó, yếu tố truyền thông
xã hội phát huy được ưu điểm của nó khi được nhóm khách thể đánh gái cao về tính
cần thiết và tính khả thi. Đây chính là những điều cần lưu ý cho các ban ngành,
đoàn thể trong xã hội có thể kịp thời hỗ trợ, giúp đỡ mẹ đơn thân trong việc giảm
bớt những khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con.
71
Tiểu kết chương 2
Kết quả nghiên cứu thực trạng những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong
việc giáo dục con cho thấy mẹ đơn thân gặp khó khăn tâm lí mức độ cao ở mặt thái
độ và mặt nhận thức. Còn mặt hành vi thì MĐKK trung bình.
Mặt nhận thức có năm khó khăn mẹ đơn thân gặp phải ở mức độ cao là: Nguy
hiểm, lừa đảo luôn có mặt ở mọi nơi khi con đi ra ngoài một mình; Tôi cần là một
tấm gương hoàn hảo cho con; Tôi thà hi sinh ở vậy một mình để lo cho con được tốt
nhất.
Mặt thái độ có đến 7 trên 9 thái độ gây khó khăn ở mức cao và rất cao cho cho
mẹ đơn thân vì sự xuất hiện thường xuyên của chúng. Bao gồm: Tôi cảm thấy áp
lực, căng thẳng, mệt mỏi muốn buông xuôi; Tôi cảm thấy vui khi con tôi vui và khi
con bị đau hay buồn tôi vô cùng đau khổ; Tôi muốn phạt con nhưng khi thực hiện
tôi thấy rất đau lòng nên thường bỏ qua cho con.
Mặt hành vi chỉ có một hành vi được nhóm khách thể đánh giá khó khăn ở
mức độ cao là: Ra lệnh, áp đặt, cưỡng chế con thực hiện theo các ý muốn của mình.
Còn các hành vi ở mức khó khăn trung bình là: Tôi luôn cố gắng thể hiện cho con
thấy mình là một người mẹ tốt; Tôi không thể nào thực thi những hình phạt đối với
con.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê những khó khăn theo lí do làm mẹ
đơn thân với nhóm vấn đề khó khăn tâm lí được khảo sát. Tuy nhiên quan sát điểm
trung bình chung ta thấy điểm trung bình mức độ những khó khăn tâm lí của nhóm
mẹ đơn thân sinh con nhưng không kết hôn cao hơn hẳn các nhóm làm mẹ đơn thân
khác.
Kết quả khảo sát cho thấy, khi gặp khó khăn mẹ đơn thân thường tự mình giải
quyết vấn đề sau đó mới tìm kiếm sự giúp đỡ từ người khác
Có hai nhóm yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân. Trong đó
nhóm yếu tố chủ quan có tác động mạnh mẽ hơn nhóm yếu tố khách quan. Yếu tố
chủ quan ảnh hưởng rất nhiều nhất đến mẹ đơn thân là: Tính cách của mẹ; Thu nhập
cá nhân; Thời gian bên con; Trình độ. Còn đối với yếu tố khách quan là: Gia đình
lớn và dư luận xã hội.
72
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con được hiểu là những
vấn đề nảy sinh trong quá trình mẹ giáo dục con. Những vấn đề này gây nhiều bất
lợi và cản trở việc giáo dục con của người mẹ, đòi hỏi mẹ đơn thân phải nỗ lực vượt
qua. khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân được thể hiện qua ba mặt: Nhận thức, thái độ
và hành vi.
Kết quả khảo sát thực trạng những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân trong việc
giáo dục con cho thấy trong việc giáo dục con mẹ đơn thân gặp khó khăn ở mức độ
cao về mặt nhận thức và thái độ và khó khăn tâm lí về mặt hành vi mức độ trung
bình.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê về MĐKK tâm khó khăn
tâm lí với lí do làm mẹ đơn thân. Tuy nhiên, điểm trung bình khó khăn tâm lí của
nhóm mẹ đơn thân sinh con nhưng chưa từng kết hôn cao hơn nhóm mẹ đơn thân đã
từng kết hôn.
Khi gặp khó khăn, đa số mẹ đơn thân đều tự mình giải quyết vấn đề hơn là tìm
kiếm sự hỗ trợ từ bên ngoài. Khi tìm kiếm sự hỗ trợ từ những nguồn lực khác,
nguồn lực mà nhóm đối tượng nghiên cứu lựa chọn nhiều nhất là từ phía gia đình.
Tuy vậy, vẫn còn nhiều khó khăn mẹ đơn thân chưa giải quyết được.
Trong các nguyên nhân gây ra khó khăn tâm lí cho mẹ đơn thân ở mức độ cao,
nguyên nhân chủ yếu là những nguyên nhân chủ quan các đến từ chính bản thân của
người mẹ. Đây là kết quả đáng phải lưu ý để giúp mẹ đơn thân giảm thiểu những
khó khăn tâm lí. Muốn làm được điều này bản thân người mẹ đơn thân phải có
những sự thay đổi, điều chỉnh, nổ lực vượt qua những khó khăn từ chính bản thân
mình.
Về phía khách quan, nguyên nhân của các khó khăn này chủ yếu là do dư luận
xã hội, từ đó cho thấy các đơn vị truyền thống, các đoàn thể ban ngành nên có
những chương trình, dự án hỗ trợ cộng đồng, làm cho mọi người có sự nhìn nhận
đúng đắn, tích cực hơn về mẹ đơn thân. Để những người mẹ đơn thân được sống
trong một xã hội công bằng, với sự đón nhận và yêu thương của mọi người.
73
Với kết quả nghiên cứu thực trạng nêu trên nhiệm vụ nghiên cứu đã hoàn
thành, giả thuyết cũng được chứng minh.
2. Kiến nghị
2.1. Đối với các ban ngành đoàn thể, hội liên hiệp phụ nữ thành phố
Tổ chức các hoạt động, chương trình truyền hình thực tế, tạo tiếng nói cộng
đồng, giúp mọi người có cái nhìn tích cực hơn về mẹ đơn thân.
Phát triển các dịch vụ y tế, xã hội chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần cho
người mẹ đơn thân.
Tăng cường các hoạt động tham vấn tâm lí hỗ trợ tinh thần, tạo điều kiện cho
mẹ đơn thân tiếp cận với các dịch vụ.
Thành lập các kênh hỗ trợ online cho mẹ đơn thân (Fanpage Facebook, hôi
nhóm zalo, trang wed ...)
Thành lập các sân chơi, câu lạc bộ tạo cầu nối cho các mẹ đơn thân giao lưu
với nhau.
Phát triển các dịch vụ tiện ích hỗ trợ, giúp đỡ mẹ đơn thân (Giữ trẻ, giúp việc
nhà, giao hàng...)
2.2. Đối với gia đình lớn của mẹ đơn thân
Không thành kiến, kì thị, bỏ rơi, nói lời ác ý, sử dụng bạo lực đối với mẹ đơn
thân.
Yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ , hỗ trợ cuộc sống và việc chăm sóc nuôi
dưỡng con cháu phụ với mẹ đơn thân.
Động viên, quan tâm, chia sẽ những khó khăn tâm lí của mẹ đơn thân.
Quan tâm đến đời sống tinh thần của mẹ đơn thân, rủ rê họ tham gia vào các
hoạt động vui chơi, giải trí, du lịch cùng gia đình lớn, giúp họ có một đời sống tinh
thần khỏe mạnh.
Lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng của họ đối với gia đình lớn. Cố gắng
thực hiện những điều đó bằng tất cả sự yêu thương.
Có cái nhìn bao dung, vị tha và thấu hiểu đối với mẹ đơn thân.
2.3. Đối với chính bản thân người mẹ đơn thân
Hãy có cái nhìn lạc quan tích cực hơn trong cuộc sống, tự bản thân rèn luyện
74
học cách tư duy tích cực.
Hãy lựa chọn cho mình những hình thức xả stress phù hợp, để tạo sự cân bằng
trong cảm xúc. Biết cách quản lí cảm xúc tích cực và đôi lúc hãy thể hiện đúng với
cảm xúc của mình.
Chủ động tìm đến sự hỗ trợ từ người thân, bạn bè và xã hội khi cần thiết, để
giúp bản thân vượt qua khó khăn tâm lí
Tìm hiểu, trang bị thêm cho mình những kiến thức và kĩ năng nuôi dạy con và
chọn lọc những phương pháp thật sự phù hợp với hoàn cảnh thực tế của hai mẹ con,
để áp dụng vào việc giáo dục chính đứa con của mình.
Tham gia vào các hội nhóm, câu lạc bộ mẹ đơn thân để giao lưu, kết nối với
cộng đồng. Để có thể nhận được sự chia sẻ và giúp đỡ khi cần thiết.
75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Amato PR, Keith B (1991), Parental divorce and the well -being of children: a
meta- analisis, Psychol Bull 110: 26-26.
Bella DePaulo Ph.D (2004), Single Out, USA.
Bock J. (2000), Doing the right thing? Single mothers by choice and the struggle
for legitimacy. Gender & Society, 14, 62–86. 10.1177/089124300014001005
Ellen Lipman (1997), Single motherhood and mental health: implications for
primary prevention. The British Medical Journal.
Golombok, Susan, Sophie Zadeh, Susan Imrie; Venessa Smith and Tabitha Freeman
(2016), Single Mothers by Choice: Mother–Child Relationships and
Children's Psychological Adjustment. Journal of Family Psychology.
30.4.2016: 409–418. NCBI. http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/26866836.
Graham (2012), Choosing single motherhood? Single women negotiating the
nuclear family ideal In Cutas D & Chan S. (Eds.), Families: Beyond the
nuclear ideal (pp. 97–109). London, UK: Bloomsbury Academic.
Graham S. Ebethaj F, & Richards M (2014), Stories of an absent “father”: Single
women negotiating relatedness from donor profiles In Freeman, Cambridge,
UK: Cambridge University Press; 10.1017/CBO9781139814737.015
Hertz R. (2006), Single by chance, mothers by choice: How women are choosing
parenthood without marriage and creating the new American family. New
York, NY: Oxford University Press.
Hetherington E. M., & Stanley-Hagan M. (1999), The adjustment of children with
divorced parents: A risk and resiliency perspective. Journal of Child
Psychology and Psychiatry, 40, 129–140. 10.1111/1469-7610.00427.
Issar Daryanai, Jessica L. Hamilton, Lyn Y. Abramson và Lauren B.Alloy (2016),
Single Mother Parenting and Adolescent Psychopathology.
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC5226056/).
Jadva V., Badger S., Morrissette M., & Golombok S. (2009), Mom by choice, single
by life’s circumstance. Findings from a large scale survey of the experiences
of single mothers by choice. Human Fertility, 12, 175–184.
76
10.3109/14647270903373867.
Klett - Davies Martina (2001), Going ít alone ? Lone morther in late modernity,
London school of Economics, UK.
Lansford J.E. Cebello R., Abbey A., & Stewart A. J. (2001), Does family structure
matter? A comparison of adoptive, two-parent biological, single-mother,
stepfather, and stepmother households, Journal of Marriage and the Family,
63, 840–851. 10.1111/j.1741-3737.2001.00840.
Lê Thi (1996), Gia đình phụ nữ thiếu vắng chồng, Nxb Khoa học Xã hội.
Lê Thi (1998), Gia đình Việt nam hiện nay, Nxb Khoa học Xã hội.
Lê Thi (2002), Cuộc sống của những người phụ nữ đơn thân ở Việt Nam, Nxb Khoa
học Xã hội.
Lê Thi (2006), Cuộc sống và biến động hôn nhân, gia đình Việt Nam hiện nay, Nxb
Khoa học Xã hội.
Lê Thị Nhâm Tuyết (1991), Một mình mẹ đẻ con , http://www.gopfp.gov.vn/
Lý Thị Minh Hằng (2014), Khó khăn tâm lí của phụ nữ trong đấu tranh chống bạo
lực gia đình, luận án Tiến sĩ tâm lí học, Viện Hàn Lâm khoa học xã hội Việt
Nam. Học Viện Khoa học Xã hội.
Mai Huy Bích (2011), Xã hội học gia đình, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
McLanahan S., & Sandefur G. (1994), Growing up with a single parent: What hurts,
what helps, Cambridge, MA: Harvard University Press.
Murray C., & Golombok S. (2005a), Going it alone: Solo mothers and their infants
conceived by donor insemination, American Journal of Orthopsychiatry, 75,
242–253. 10.1037/0002-9432.75.2.242.
Murray C., & Golombok S. (2005b), Solo mothers and their donor insemination
infants: Follow-up at age 2 years, Human Reproduction, 20, 1655–1660.
10.1093/humrep/deh823.
McLoyd, V. Jayaratne, T. E. Ceballo, R., & Borquez, J. (1994), Unemployment and
work interruption among African American single mothers: Effects on
parenting and adolescent socioemotional functioning. Child Development,
65, 562-589.
77
Nguyễn Thị Tứ (2013), Khảo sát những khó khăn của sinh viên năm nhất Trường
Đại học Sư phạm TPHCM, Hội thảo kỉ yếu 2013, Nxb Đại học Sư phạm.
Nguyễn Thị Thu Vân (2016), Vị thế của người mẹ đơn thân trong xã hội Hàn Quốc
hiện nay và liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam" luận án Tiến sĩ, Viện Hàn Lâm
khoa học xã hội Việt Nam.
Nguyễn Thị Thiên Kim (2007), Khó khăn tâm lí trong hoạt động học tập của sinh
viên năm nhất trường Đại học Sư phạm Tp.HCM. Luận văn tốt nghiệp Thạc
sĩ. Trường Đại học Sư phạm TP. HCM.
Olson, S. L., & Banyard, V. (1993), Stop the world so I can get off for a while:
Sources of daily stress in the lives low-income single mothers of young
children. Family Relations, 42, 50-56.
R. Forssell S., & Patterson C.(2010b), Parenting and child development in adoptive
families: Does parental sexual orientation matter? Applied Developmental
Science, 14, 164–178. 10.1080/10888691.2010.500958.
Slade A., Belsky J., Aber J. L., & Phelps J. L. (1999), Mothers’ representations of
their relationships with their toddlers: Links to adult attachment and
observed mothering. Developmental Psychology, 35, 611–619.10.1037/0012-
1649.35.3.611.
Sung-Kyung Park (2016) Văn Ngọc Minh Quyên dịch, Mẹ xấu, Nxb Nhã Nam.
Trần Kim An, Nguyễn Thị Thanh Phương (2017) Khó khăn tâm lí của phụ nữ sau
sinh con đầu lòng được, Kỷ yếu Hội thảo khoa học toàn quốc lần thứ 2, Nxb
thông tin và truyền thông.
Võ Thị Cẩm Ly (2017), Phụ nữ làm Mẹ đơn thân ở nông thôn Bắc Trung Bộ: Chân
dung xã hội và thực tiễn sinh kế, luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vũ Thị Khánh Linh (2017), Phong cách giáo dục con của cha mẹ học sinh trung
học cơ sở, Nxb Thông tin và truyền thông.
Weissenberg R., & Landau R. (2012), Are two a family? Older single mothers
assisted by sperm donation and their children revisited, American Journal of
Orthopsychiatry, 82, 523–528. 10.1111/j.1939-0025.2012.01187.
78
Zaslow M. J., Weinfield N. S., Gallagher M., Hair E. C., Ogawa J. R., Egeland B.,
et al. De Temple J. M. (2006), Longitudinal prediction of child outcomes
from differing measures of parenting in a low-income sample. Developmental
Psychology.
42, 27–37. 10.1037/0012-1649.42.1.27.
https://www.universalclass.com/articles/self-help/pros-and-cons-in-single-
parent-families.htm
PL1
PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1: CÁC MẪU PHIẾU HỎI
1. Phiếu ban đầu
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN ************************************************************
Câu 1 : Khi trở thành mẹ đơn thân Chị/ Cô cảm thấy như thế nào ?
Câu 2 : Theo Chị/Cô mẹ đơn thân sẽ gặp những khó khăn tâm lí nào trong việc dạy
con ? Câu 3 : Theo Chị/Cô những yếu tố nào ảnh hưởng đến những khó khăn tâm lí đó ?
Câu 4 : Chị /Cô đã làm gì để khắc phục những khó khăn tâm lí ấy ?
2. Phiếu khảo sát chính
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
Chúng tôi đang thực hiện một nghiên cứu về những khó khăn tâm lí của mẹ
đơn thân trong việc giáo dục con nhằm đưa ra những giải pháp giúp mẹ đơn thân
giảm bớt những khó khăn này. Người nghiên cứu kính gửi đến quý phụ huynh phiếu
thăm dò ý kiến này mong quý phụ huynh vui lòng cho biết ý kiến của mình bằng
cách trả lời những câu hỏi sau đây:
Đánh dấu X vào ô □ hoặc cột tương đương với ý kiến của cô/ chị vào bảng
dưới đây. Đối với câu hỏi mở xin vui lòng ghi lại ý kiến của cô/chị vào chỗ trống
bên cạnh mỗi câu hỏi.
*************************************************************
Phần 1: Thông tin chung + Năm sinh: .........................................................
+ Nghề nghiệp: ....................................................
+ Số con: ............ Tuổi của con: .................... Giới tính con: ...............
Lý do trở thành Mẹ đơn thân: □ Ly hôn □ Chồng mất □ Xin con nuôi □ Thụ tinh nhân tạo □ Sinh con nhưng không kết hôn
Phần 2: Nội dung khảo sát
PL2
Câu 1: Cô/Chị suy nghĩ như thế nào về những nhận thức dưới đây trong
việc giáo dục con ?
Có 5 mức độ: Rất đúng (RĐ), Đúng (Đúng), Phân vân (PV), Sai (S) và Hoàn
toàn sai (HTS)
Mức độ nhận thức Stt Nội dung RĐ Đ PV S HTS
1 Tôi nghĩ mình là một người mẹ không tốt khi
không cho con một người bố, một gia đình trọn vẹn .
2 Đứa con của tôi quá thiệt thòi và nó cần được
bù đắp đầy đủ vật chất và tình thương của
mình.
3 Tôi cần là một tấm gương hoàn hảo cho con.
4 Tôi không thể nào hiểu nổi con đang nghĩ gì.
5 Tôi không có đầy đủ kiến thức về sự phát
triển từng giai đoạn lứa tuổi của con.
6 Con luôn cần sự có mặt, che chở của tôi. Tôi
nghĩ con khó có thể làm được việc gì nếu
không có tôi bên cạnh.
7 Nguy hiểm, lừa đảo luôn có mặt ở mọi nơi
khi con đi ra ngoài một mình.
8 Tôi không thể bắt con làm việc nhà, tôi sợ
con mệt muốn con tập trung học tập.
9 Tôi phải cố gắng mua cho con những thứ mà
những đứa trẻ khác có.
10 Điều gì lúc nhỏ tôi muốn mà không được,
bây giờ tôi sẽ mua hết cho con.
11 Tôi nghĩ khi mình đi thêm bước nữa con sẽ
không được chăm sóc tốt.
12 Tôi thà hi sinh ở vậy một mình để lo cho con
được tốt nhất.
PL3
Câu 2: Khi gặp phải những khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con,
Cô/Chị đã thể hiện thái độ như thế nào?
Có 5 mức độ: Rất đồng ý (RĐY), đồng ý (ĐY), Phân vân (PV), không đồng ý
(KĐY), hoàn toàn không đồng ý (HTKĐY)
Mức độ biểu hiện thái độ Stt Nội dung RĐY ĐY PV KĐY HTKĐY
1 Tôi cảm thấy rối bời bởi vì con.
Tôi muốn phạt con nhưng khi thực hiện tôi thấy rất đau lòng nên thường bỏ qua 2
cho con.
3 Tôi để cho con muốn làm gì thì làm.
4 Tôi cảm thấy bực mình và dễ nổi nóng với con.
Tôi cảm thấy bất lực với đứa con của 5 mình.
Tôi cảm thấy áp lực, căng thẳng, mệt 6 mỏi muốn buông xuôi.
Tôi cảm thấy vui khi con tôi vui. Và
7 khi con bị đau hay buồn tôi vô cùng
đau khổ.
Tâm trạng tôi hay lên xuống thất
thường (tôi đang rất vui nhưng chỉ cần 8 con tôi ngỗ nghịch hay đạt thành tích
kém tâm trạng tôi sẽ lập tức tuột dốc)
Tôi che giấu cảm xúc của mình, không 9 cho con biết tôi đang lo lắng, bất an.
PL4
Câu 3: Cô/Chị hãy đánh giá mức độ biểu hiện của các hành vi khó khăn tâm lí
dưới đây mà Cô/Chị có thể gặp phải trong quá trình giáo dục con?
Có 5 mức độ: Rất thường xuyên (RTX), thường xuyên (TX), thỉnh thoảng
(TT), hiếm khi (HK), không bao giờ (KBG)
Mức độ biểu hiện hành vi Stt Nội dung RTX TX TT HK KBG
1 Làm dùm con cho xong việc khi con
không chịu làm.
2 Ra lệnh, áp đặt, cưỡng chế con thực hiện
theo các ý muốn của mình.
3 Con tôi không thích nói chuyện với tôi,
nó không bao giờ biết hỏi han hay chủ
động bắt chuyện với tôi làm tôi rất bực
mình.
4 Sử dụng đòn roi
5 Ám thị, hù dọa con
6 Tôi thấy ngại ngùng, nên hay né tránh,
không thể nào nói chuyện về sức khỏe sinh sản, giới tính với con của mình.
7 Tôi không thể nào thực thi những hình
phạt đối với con.
8 Tôi luôn cố gắng thể hiện cho con thấy
mình là một người mẹ tốt.
9 Tôi dùng tiền để khống chế con
10 Tôi bối rối khi phải giải thích với con về
Bố nó.
11 Con không chịu nghe lời tôi nói.
PL5
Câu 4: Cô/Chị hãy đánh giá mức độ của các yếu tố ảnh hưởng đến khó
khăn tâm lí của mẹ đơn thân hoạt động giáo dục con ?
Có 5 mức độ ảnh hưởng: Rất ảnh hưởng (RAH), Ảnh hưởng nhiều (AHN),
Ảnh hưởng trung bình (AHTB), Ít ảnh hưởng (IAH), Không ảnh hưởng (KAH)
Các yếu tố ảnh hưởng đến Mức độ ảnh hưởng
Stt RAH AHN AHTB IAH KAH
khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con
1 Thu nhập cá nhân
2 Thời gian
3 Tính cách
4 Sức khỏe
5 Trình độ
6 Nghề nghiệp
7 Sự chia sẻ từ bạn bè
8 Sự “quấy rối” từ những người đàn
ông đã có gia đình.
9 Gia đình lớn
10 Dư luận xã hội
Câu 5: Cô/Chị đã đối mặt và vượt qua những khó khăn tâm lí trong hoạt
động giáo dục con như thế nào ?
Có 5 mức độ: Rất thường xuyên (RTX), thường xuyên (TX), thỉnh thoảng
(TT), hiếm khi (HK), không bao giờ (KBG)
Mức độ thể hiện Cách thức đối mặt với khó khăn Stt tâm lí trong việc giáo dục con RTX TX TT HK KBG
1 Âm thầm chịu đựng
2 Nghĩ đến con cần mình và tiếp tục
cố gắng.
3 Giữ một khoảng cách với con, để tâm trạng của mình không bị phụ
thuộc vào con
4 Đọc sách tạo động lực, nuôi con
hoặc một thể loại sách mà tôi yêu
PL6
thích.
5 Chơi thể thao, tập thể dục
6 Làm những việc tôi yêu thích như:
đi mua sắm, ca hát, nấu ăn
7 Đi chùa, nhà thờ ...
8 Trò chuyện tâm sự cùng con
9 Tham gia các hoạt động xã hội hoặc
câu lạc bộ: từ thiện, clb mẹ đơn
thân …
10 Chia sẻ hình ảnh, tâm tư của mình
lên mạng xã hội: Facebook, zalo, instagram
11 Like, theo dõi các bài viết của
những trang mẹ đơn thân trên
facebook.
12 Tâm sự cùng những mẹ đơn thân
khác
13 Tâm sự cùng người thân, bạn bè, tri
kỉ hay một ai đó mà tôi tin tưởng.
14 Tìm đến các chuyên gia trị liệu,
tham vấn tâm lí
PL7
3. Phiếu khảo sát tính cần thiết và khả thi của các giải pháp
PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN
Nhằm xuất một số những giải pháp góp phần giảm bớt những khó khăn tâm lí
của mẹ đơn thân trong việc giáo dục con. Người nghiên cứu kính gửi đến quý cô/
chị phiếu thăm dò ý kiến và mong quý cô/chị vui lòng cho biết ý kiến của các cô/ chị về tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp dưới đây bằng cách:
Đánh dấu X vào cột tương đương với ý kiến của cô/ chị vào bảng dưới đây:
Tính cần thiết có ba mức độ: Không cần thiết (KCT), cần thiết (CT) và rất cần
thiết (RCT)
Tính khả thi có ba mức độ: Không khả thi (KKT), khả thi(KT) và rất khả thi
(RKT)
****************************************
Nội dung các biện pháp
Mức độ cần thiết Mức độ khả thi Stt Nội dung các biện pháp RCT CT KCT RKT KT KKT
1 Tổ chức chuyên đề: Chuyên đề nuôi
con tích cực, nuôi con khoa học, tư
duy tích cực để thành công và hạnh
phúc, làm mẹ không khó
2 Làm phim về cuộc sống của mẹ đơn
thân.
3 Tổ chức chương trình tập huấn cho
các cán bộ hội phụ nữ phường xã về
kiến thức nuôi dạy con khoa học để
họ kịp thời hỗ trợ mẹ đơn thân.
4 Tổ chức hội thảo, tập huấn cho mẹ đơn thân các kỹ năng đối mặt với Stress, áp lực tâm lí và tự vượt qua chúng.
5 Tổ chức hội thảo, tập huấn cho mẹ đơn thân các kỹ năng giao tiếp cùng
con, kĩ năng giáo dục kĩ năng thoát hiểm cho trẻ
PL8
6 Phát hành các ấn phẩm giáo dục dành
riêng cho mẹ đơn thân (Sách, tạp chí,
cẩm nang, phim tài liệu ...)
7 Tổ chức các hoạt động, chương trình truyền hình thực tế, tạo tiếng nói
cộng đồng, giúp mọi người có cái
nhìn tích cực hơn về mẹ đơn thân.
8 Kêu gọi những nhà chuyên môn (Tâm lí, bác sĩ, giáo viên...) viết và in
ấn phát hành sách, báo, tạp chí có nội
dung về giáo dục con dành riêng cho
mẹ đơn thân.
9 Tăng cường các hoạt động tham vấn
tâm lí hỗ trợ tinh thần, tạo điều kiện
cho mẹ đơn thân tiếp cận với các
dịch vụ.
10 Thành lập các kênh hỗ trợ online cho
mẹ đơn thân (Fanpage Facebook, hôi
nhóm zalo, trang wed ...)
11 Thành lập các sân chơi, câu lạc bộ
tạo cầu nối cho các mẹ đơn thân giao
lưu với nhau.
12 Phát triển các dịch vụ tiện ích hỗ trợ,
giúp đỡ mẹ đơn thân (Giữ trẻ, giúp
việc nhà, giao hàng...)
13 Thành lập các tổ chức, cơ quan, hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mẹ đơn thân.
14 Có những văn bản hành chính về chính sách hỗ trợ cho mẹ đơn thân trong việc cho con đi học ở trường.
PL9
PHỤ LỤC 2: MẪU PHIẾU PHỎNG VẤN Họ và tên :............................. Năm sinh.....................................................................
Nghề nghiệp:......................... Lý do làm mẹ đơn thân..............................................
Số con:......................Giới tính con:......................tuổi của con................................. Nội dung phỏng vấn 1. Hoàn cảnh hiện tại của gia đình. 2. Những khó khăn tâm lí mẹ đơn thân gặp phải trong việc giáo dục con. 3. Những trải nghiệm cảm xúc của mẹ đơn thân khi gặp khó khăn tâm lí. 4. Cách mẹ đơn thân đối mặt và vượt qua nó. 5. Những yếu tố ảnh hưởng đến những khó khăn tâm lí đó.
PL10
PHỤ LỤC 3: MỘT SỐ BẢNG SỐ LIỆU THỐNG KÊ TRONG SPSS
3.1. Khách thể nghiên cứu
Lý do trở thành mẹ đơn thân
lý do làm mẹ đơn thân
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
Valid
ly hôn
14
36.8
46.7
46.7
chồng mất
7
18.4
23.3
70.0
xin con nuôi
4
10.5
13.3
83.3
thụ tinh nhân tạo
1
2.6
3.3
86.7
4
10.5
13.3
100.0
sinh con nhưng không kết hôn
Total
30
78.9
100.0
Missing
System
8
21.1
Total
38
100.0
Nghề nghiệp
nghenghiep
Frequency
Percent
Valid Percent Cumulative Percent
36.7
11
28.9
36.7
Valid
giáo viên
50.0
4
10.5
13.3
nhan viên văn phòng
60.0
3
7.9
10.0
công chức nhà nước
76.7
5
13.2
16.7
kinh doanh, buôn bán
83.3
2
5.3
6.7
công nhân
90.0
2
5.3
6.7
nội trợ
100.0
3
7.9
10.0
y sĩ
Total
30
78.9
100.0
Missing
System
8
21.1
Total
38
100.0
3.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng
Điểm trung bình mức độ khó khăn tâm lí chung và ĐTB ở từng mặt nhận thức,
thái độ hành vi
PL11
Report
NT
TD
HV
tbkk
Mean
3.4611
3.6444
2.8424
3.3160
N
30
30
30
30
Std. Deviation
.50748
.49467
.49097
.42083
3.3. Tương quan giữa mức độ khó khăn tâm lí trong việc giáo dục con và lí do trở
thành mẹ đơn thân
Test of Homogeneity of Variances
tbkk
Levene Statistic
df1
df2
Sig.
.389a
3
25
.762
a. Groups with only one case are ignored in computing the test of homogeneity of variance for tbkk.
ANOVA
tbkk
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
Between Groups
.490
4
.122
.659
.626
Within Groups
4.646
25
.186
Total
5.136
29