34
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ----------------------------------
Tangmany SYSOMEPHONE
THIẾT KẾ CẤU TRÚC VECTOR BIỂU HIỆN MANG GEN MÃ
HÓA ENZYME COLUMBAMINE O- METHYLTRANSFERASE
Ở CÂY BÌNH VÔI (Stephania spp.)
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
1
THÁI NGUYÊN, NĂM 2020
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ----------------------------------
Tangmany SYSOMEPHONE
THIẾT KẾ CẤU TRÚC VECTOR BIỂU HIỆN MANG GEN MÃ
HÓA ENZYME COLUMBAMINE O- METHYLTRANSFERASE
Ở CÂY BÌNH VÔI (Stephania spp.)
Chuyên ngành: Di truyền học
Mã số: 8 42 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
Giảng viên hướng dẫn: TS. Phạm Thị Thanh Nhàn
2
THÁI NGUYÊN, NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Thiết kế cấu trúc vector biểu hiện mang gen
mã hóa enzyme columbamine O-methyltransferase ở cây Bình vôi (Stephania
spp.)” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Mọi kết quả thu được là trung
thực, không sao chép từ kết quả nghiên cứu khác. Tất cả những tham khảo và
kế thừa đều được trích dẫn đầy đủ.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2020
Tác giả luận văn
i
Tangmany SYSOMEPHONE
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn chính phủ hai nước Lào và Việt Nam đã dành
cho tôi học bổng học tập, để tôi có thể bước chân vào học tập và nghiên cứu tại
Khoa Sinh học, Trường Đại học sư phạm - Đại học Thái Nguyên.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Phạm Thị Thanh Nhàn,
người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện, giúp đỡ tôi trong
quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi xin trân trọng cảm ơn sự hỗ
trợ của Đề tài cấp Bộ mã số B2019-TNA-09.
Tôi xin cảm ơn các thầy cô và cán bộ Khoa Sinh học, bộ phận Sau đại học
của Phòng Đào tạo, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã trang bị cho tôi
những kiến thức, kinh nghiệm quý giá về các môn học liên quan đến chuyên
ngành của tôi và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành khóa học.
Tôi xin cảm ơn ThS. Trần Thị Hồng, cán bộ phòng thí nghiệm Công nghệ
gen và Công nghệ tế bào của Khoa Sinh học, Trường Đại học sư phạm – Đại
học Thái Nguyên, đã giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện thí
nghiệm.
Tôi xin cảm ơn những ý kiến nhận xét của các thầy cô trong Hội đồng
đánh giá luận văn ngày 16 tháng 11 năm 2020.
Tôi xin cảm ơn toàn thể đồng nghiệp, gia đình, bạn bè đã động viên, giúp
tôi vượt qua những khó khăn trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và sinh
sống tại Thái Nguyên, Việt Nam.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2020
Tác giả luận văn
ii
Tangmany SYSOMEPHONE
MỤC LỤC
Trang
i LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................
ii LỜI CẢM ƠN ............................................................................................
MỤC LỤC................................................................................................... iii
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT......................................................................... v
DANH MỤC CÁC HÌNH........................................................................... vi
DANH MỤC CÁC BẢNG.......................................................................... vii
1 MỞ ĐẦU ...................................................................................................
3 Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU.........................................................
3 1.1. Cây Bình vôi .......................................................................................
1.1.1. Nguồn gốc, phân loại và đặc điểm sinh học cơ bản của cây Bình vôi 3
1.1.2. Giá trị của cây Bình vôi ………………………………………….... 7
1.1.3. Hiện trạng khai thác và bảo tồn nguồn gen cây bình vôi …………. 12
1.2. Gen CoOMT ở cây Bình vôi và bộ Mao lương……………………… 13
1.3. Vector biểu hiện gen và ứng dụng kỹ thuật chuyển gen trong cải thiện
hàm lượng dược chất có hoạt tính ở cây thuốc ……………….....………. 15
Chương 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................. 22
2.1. Vật liệu nghiên cứu.............................................................................. 22
2.2. Hóa chất, thiết bị và địa điểm nghiên cứu............................................ 23
2.2.1. Hóa chất nghiên cứu.......................................................................... 23
2.2.2. Thiết bị nghiên cứu........................................................................... 24
2.2.3. Địa điểm nghiên cứu......................................................................... 24
2.3. Phương pháp nghiên cứu ……............................................................. 24
2.3.1. Nhóm phương pháp tạo dòng gen..................................................... 24
iii
2.3.1.1. Thiết kế mồi colony- PCR.............................................................. 24
2.3.1.2. Tạo vector pUC19_1113bp tái tổ hợp............................................. 25
2.3.1.3. Tạo dòng vi khuẩn tái tổ hợp mang vector pUC19_1113bp........... 25
2.3.1.4. Tách chiết và tinh sạch plasmid...................................................... 26
2.3.2. Nhóm phương pháp thiết kế vector biểu hiện mang gen đích ........ 27
2.3.2.1. Xử lý enzyme cắt giới hạn............................................................. 27
2.3.2.2. Thôi gel và tinh sạch sản phẩm PCR ............................................ 28
2.3.2.3. Gắn gen CoOMT 1113 bp vào vector pBI121................................. 28
2.3.2.4. Biến nạp DNA plasmid vào tế bào E.coli bằng phương pháp sốc
nhiệt............................................................................................................ 29
2.3.2.5. Phương pháp PCR trực tiếp từ khuẩn lạc (colony-PCR)................. 29
2.3.2.6. Tách chiết plasmid từ tế bào E.coli............................................... 30
2.3.2.7. Phương pháp kiểm tra plasmid tái tổ hợp bằng enzyme cắt giới
hạn............................................................................................................... 31
2.3.2.8. Phương pháp biến nạp vào Agrobacterium tumefaciens bằng xung
điện............................................................................................................. 31
2.3.2.9. Chọn dòng A. tumefaciens tái tổ hợp............................................... 32
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN................................................. 33
3.1. Nghiên cứu lý thuyết về đặc điểm trình tự gen và protein CoOMT .... 33
3.2. Kết quả tạo dòng tế bào vi khuẩn tái tổ hợp mang gen nhân tạo
CoOMT ...................................................................................................... 35
3.3. Kết quả thiết kế vector pBI121-1113 và tạo chủng Agrobacterium
tumefaciens tái tổ hợp mang gen CoOMT.................................................. 36
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ....................................................................... 40
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CÔNG BỐ ......................................... 41
iv
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 42
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Tên tiếng Anh Nghĩa tiếng Việt
DNA Deoxyribonucleic acid Axit deoxyribonucleic
cDNA ADN bổ sung Complementary
Deoxyribonucleic Acid
CoOMT Columbamine O-
Methyltranferase
Cs/cs Cộng sự
EB Extration buffer
EDTA Ethylene diamine
tetraacetic acid
EST expressed sequence tag
Fw Mồi xuôi Primer forward
LB Lysogeny Broth Môi trường nuôi cấy vi
khuẩn
OMT O-Methyltranferase
PCR Polymerase Chain Reaction Phán ứng chuỗi Polymerase
Rv Mồi ngược Primer reverse
SDS Sodium doecyl sulfate
SMT S-adenosyl-L-
methionine:scoulerine 9-O-
methyltransferase
SOC môi trường giàu dinh dưỡng Soil organic carbon
v
(dùng để tạo dòng vi khuẩn)
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 1.1. Hình ảnh về cây Bình vôi………................................................. 6
Hình 1.2. Công thức cấu tạo của palmatin và L-tetrahydropalmatin (rotundin)... 11
Hình 1.3. Con đường sinh tổng hợp tetrahydropalmatine và palmatine ..... 14
Hình 1.4. Sơ đồ cấu trúc vector chuyển gen pBI121……………………… 16
Hình 1.5. Sự tương tác của Agrobacterium và cơ chế chuyển T-DNA…... 18
Hình 1.6. Cấu trúc Ri-plasmid của A. rhizogenes…………………………… 19
Hình 2.1. Sơ đồ cấu trúc vector pUC19……………………………........... 22
Hình 2.2. Sơ đồ cấu trúc vector pBI121…………… …………………….. 23
Hình 3.1. So sánh trình tự amino acid suy diễn của các enzyme OMT trong
con đường tổng hợp palmatine .................................................................... 34
Hình 3.2. Mô hình cấu trúc không gian 3D của protein CoOMT....……… 34
Hình 3.3. Cấu trúc thứ cấp của protein CoOMT.......................................... 35
Hình 3.4. Hình ảnh điện di sản phẩm colony- PCR..................................... 36
Hình 3.5. Kết quả điện di sản phẩm cắt xử lý vector PUC-1113 và vector
pBI121 với enzyme XbaI và SacI ................................................................ 37
Hình 3.6. Kết quả chọn dòng plasmid tái tổ hợp pBI121-1113 trong E. Coli 37
Hình 3.7. Kết quả chọn dòng plasmid tái tổ hợp pBI121-1113 trong
vi
A.tumefaciens............................................................................................... 38
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1. Hoạt tính sinh học của alkaloid phân lập từ một số loài thuộc
chi Bình vôi Stephania…………………………………………………………... 10
Bảng 2.1. Cặp mồi đặc trưng của phản ứng colony- PCR........................... 24
Bảng 2.2. Thành phần phản ứng nối ghép gen............................................. 25
Bảng 2.3. Thành phần phản ứng colony-PCR…………………………….. 26
Bảng 2.4. Thành phần dung dịch tách plasmid …………………………... 27
Bảng 2.5. Thành phần của phản ứng cắt enzyme giới hạn........................... 28
Bảng 2.6. Thành phần phản ứng nối ghép gen............................................. 28
Bảng 2.7. Thành phần của phản ứng cắt enzyme giới hạn………………... 31
vii
Bảng 2.8. Thành phần phản ứng PCR…………………………………….. 32
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Bình vôi có tên khoa học là Stephanta spp., họ Tiết dê (Menispermaceae),
là một loài cây thân thảo dạng dây leo, phần rễ phát triển thành củ to, bám vào
núi đá, có củ nặng tới hơn 40kg. Vỏ thân củ màu đen, xù xì giống như hòn đá.
Củ còn được gọi là “củ một”, “củ mối trôn”, “ngải tượng”, “tử nhiên”… Cây
Bình vôi thường ưa mọc ở những vùng có núi đá tại tỉnh Hà Giang, Tuyên
Quang, Hòa Bình, Hà Tây (cũ) … Trong củ Bình vôi chứa một lượng chất
alkaloid: L-tetrahydropalmatin (rotundin), stepharin, roemerin, cycleanin.
Những hợp chất này được sử dụng phổ biến để điều chế các loại thuốc quý có
tác dụng an thần, dưỡng huyết, thanh nhiệt, giải độc, giảm đau, sốt nóng, đau
dạ dày, trị ho có đờm, hen suyễn, khó thở… Hiện nay, cây Bình vôi đang bị
khai thác nhiều, số lượng cây Bình vôi tự nhiên ngày càng giảm mạnh. Bình
vôi đã được ghi trong Sách đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá “sẽ nguy cấp”
(V) và Danh mục Thực vật rừng quý hiếm (nhóm 2) của Nghị định số
32/2006/NĐ - CP ngày 30/3/2006 của Chính phủ.
Chi Bình vôi (Stephanta) có khoảng trên 45 loài, còn ở Việt Nam có từ
14 đến 16 loài, trong đó một số loài như Bình vôi hoa đầu (Stephania
cepharantha Hayata), Bình vôi tím (Stephania rotunada Lour), Thiên kim đằng
(Stephania japonica Miers) đang được khai thác, và nhìn chung hàm lượng
rotundin của các loài Bình vôi là thấp và rất thấp, tùy thuộc từng loài và điều
kiện sinh thái. Do vậy, định hướng nghiên cứu nhằm tăng hàm lượng rotundin
ở cây Bình vôi được quan tâm, trong đó xác định việc tăng cường biểu hiện
enzyme chìa khóa tham gia trong quá trình chuyển hóa tổng hợp rutundin là rất
quan trọng. Columbamine O-methyltransferase (CoOMT) mới được phát hiện
là một enzyme chìa khóa trong chuỗi chuyển hóa tổng hợp rotundin ở cây thuộc
bộ Mao lương, trong đó có cây Bình vôi [77]. Biểu hiện mạnh gen mã hóa
1
enzyme CoOMT sẽ làm tăng các sản phẩm chuyển hóa thứ cấp và hàm lượng
rotundin trong cây Bình vôi được nâng cao. Xuất phát từ những lí do trên chúng
tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Thiết kế cấu trúc vector biểu hiện mang gen
mã hóa enzyme columbamine O- methyltransferase ở cây Bình vôi
(stephania spp.)”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Thiết kế được cấu trúc vector biểu hiện mang gen mã hóa enzyme
columbamine O- methyltransferase ở cây Bình vôi.
3. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu lý thuyết về đặc điểm trình tự gen và protein CoOMT.
- Tạo dòng tế bào vi khuẩn tái tổ hợp mang gen nhân tạo CoOMT.
- Thiết kế vector chuyển gen pBI121-1113 và tạo chủng Agrobacterium
2
tumefaciens tái tổ hợp mang gen CoOMT.
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cây Bình vôi
1.1.1. Nguồn gốc, phân loại và đặc điểm sinh học của cây Bình vôi
Về nguồn gốc, phân loại: Chi Bình vôi hay chi Thiên kim đằng (danh
pháp khoa học: Stephania, đồng nghĩa: Perichasma) là một chi thực vật có hoa
trong họ Biển bức cát (Menispermaceae hay còn gọi là họ Tiết dê), có nguồn
gốc ở miền đông và nam châu Á cũng như Australasia. Tên gọi dân dã trong
tiếng Việt là Bình vôi [91].
Về mặt phân loại, cây Bình vôi thuộc:
Giới (regnum): Plantae
Bộ (ordo): Ranunculales
Họ (familia): Menisperrnaceae
Chi (genus): Stephania Lour [13].
Trên thế giới chi Bình vôi (genus: Stephania) có khoảng 50 loài, phân bố
ở vùng nhiệt đới, chủ yếu như là các nước châu Á như: Trung Quốc 43 loài,
Thái Lan 18 loài, Indonesia 17 loài, Việt Nam 14-16 loài, Malaysia 17 loài, Ấn
Độ 11 loài, Philippine 8 loài, Papua New Guinea 8 loài, Myanma 5 loài, Nhật
Bản 2 loài, Sri Lanka 2 loài, Lào 2 loài, Đông Timor 1 loài, Nepal 1 loài. Ngoài
ra còn có ở châu Úc: Australia 7 loài và châu Phi 12 loài [11].
Ở Việt Nam, các loài trong chi Bình vôi phân bố rất rộng, trên nhiều địa
phương từ Bắc vào Nam. Song các khu vực có số loài phong phú, đa dạng và
tập trung hơn cả ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Yên Bái, Bắc Cạn,
Tuyên Quang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Lai Châu, Sơn La, Hòa
Binh, Hà Tây, Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Một số ít
loài (S. venosa, S. cambodica, Gagnep, S. pierrei) chỉ gặp ở các tỉnh phía Nam
như: Đắc Lắc, Lâm Đồng, Bình Định, Phú Yến, Ninh Thuận, Khám Hòa, Bà
3
Rịa-Vũng Tàu và An Giang [8].
Đặc điểm sinh học
Các loài trong chi Bình vôi (Stephania) đều là dây leo, sống lâu năm hoặc
hằng năm. Ở giai đoạn non thân thường nhẵn, màu xanh nhạt, xanh bóng hoặc
xanh đậm. Trên thân già thường có những rãnh dọc, những mụn cóc sần sùi,
màu nâu xám, nâu đen hoặc màu nâu đất. Rễ dạng sợi hoặc phình to tạo thành
rễ củ. Củ rất đa dạng về hình thái, kích thước và màu sắc. Củ thường có dạng
hình cầu, hình trứng, hình trụ hoặc hình dạng bất định. Có loài rễ củ thường chỉ
nặng 0,5 – 2kg (hoặc 3 kg), nhưng cũng có loài cho củ có thể nặng tới 50-70
kg. Tuy thuộc vào từng loài, tuổi cây và điều kiện môi trường sống mà hình
thái, màu sắc vỏ củ cũng có nhiều thay đổi (nhẵn hoặc xù xì, màu nâu sáng, nâu
đậm, xám tro, đen…). Thịt củ nạc hoặc có lẫn những vằn xơ, màu trắng ngà,
vàng tươi, vàng nhạt hoặc đỏ nâu, đỏ tươi [16].
Lá Bình vôi mọc cách. Cuống lá thường mảnh, dài 2 đến 5 hoặc 15 đến 20
cm và hai đầu phồng lên [8], có khi gấp khúc ở gốc [11]. Cuống lá đính vào lá
thường ở những vị trí cách xa mép dưới của gốc là ở những khoảng cách nhất
định, tùy thuộc vào từng loài (có thể từ 1/5 đến 1/3 chiều dài phiến lá). Phiến
lá mỏng hoặc dài, nhẵn mỏng hoặc rải rác có lông, hình khiên, hình tam giác
rộng, hình trứng-tam giác, tam giác tròn hoặc gần tròn; mép lá nguyên hoặc
chia thùy; gân lá dạng chân vịt, gồm 8-9 hoặc 10-12 gân chính cùng xuất phát
từ đỉnh cuống lá. Chóp lá nhọn, thuôn nhọn, tù hoặc gần tròn; gốc lá gần tròn,
phằng hoặc gần hình tim. Màu sắc của phiến lá tùy thuộc vào từng loài (màu
xanh nhạt, xanh vàng nhạt, xanh đậm, xanh nâu nhạt hoặc đốm tía) [24].
Hoa đơn tính khác gốc. Cụm hoa đực, cái thường mọc từ kẽ lá. Cụm hoa
có dạng tính tán đơn, tán kép, xim tán kép, hình đầu đến tán ngù [8], có cuống
đơn độc hoặc xếp theo kiểu chum ít nhất ở các nhánh tán cấp 1, các nhánh
cuống cùng đôi khi không đều hoặc đôi khi các xim tụ họp thành đầu hình đĩa
[13]. Hoa đực thường có cấu tạo đối xứng tỏa tròn, đài 6-8 rời, xếp thành 2
4
vòng; 3-4 cánh hoa, dạng vỏ sò, màu vàng, đôi khi trắng xanh; nhị 2-6, thường
4, chỉ nhị dính nhau tạo thành ống hình trụ, đầu nhụy xòe thành đĩa tròn. Hoa
cái thường chỉ gồm 1 lá đài và 2 cánh hoa (rất ít khi có 3-4 lá đài và 3-4 cánh
hoa), bầu hình trứng có 4 đến 6 hoặc 7 núm nhụy hình dùi [24].
Quả hạch, dạng hình gần tròn, hình trứng, trứng bầu, 2 bên dẹt. Ở quả
trưởng thành cuống quả lệch về một phía gần với dấu vết còn lại của núm nhụy.
Bầu 2 noãn, nhưng chỉ có màu vàng đậm hoặc đỏ tươi, nhẵn bóng. Hạt hình
móng ngựa, hình trứng đẹp hoặc hơi tròn, 2 mặt bên lõm, ở giữa có lỗ thủng
hoặc không, dọc theo gờ lưng bụng thường có 4 hàng vằn hoặc gai (một số loài
có 5 hàng [24]. Đặc điểm hình thái của hạt thường đặc trưng cho từng taxon;
nên đây được coi là một trong những dấu hiệu đáng tin cậy để giám định tên
khoa học đối với các loài chi Bình vôi [8]. Cây mầm có lá mầm ít nhiều bằng
rễ mầm, bao quanh bởi nội nhũ [14].
Sinh thái, sinh trường và phát triển của các loài Bình vôi
Các loài thuộc cây Bình vôi thường sinh trưởng trong các rừng nguyên
sinh hay rừng thứ sinh. Chúng thường mọc trên đỉnh hay các sườn núi đá vôi,
núi đất xen lẫn đá, các dài đất ven đường, ven song, đôi khi gặp ở ven bòe biển.
Sống thích hợp ở nhiệt độ trung bình năm 21- 23oC, lượng mưa 2000- 2500
mm, ưa đất nhiều mùn, thoát nước, độ pH= 6,5- 7. Một số loài có thể phân bố
ở độ cao tới 2000 – 2800 m so với mực nước biển. Hầu hết các loài Bình vôi
đều ưa đất có độ ẩm vừa phải và đặc biệt ở giai đoạn ra hoa tạo quả.
Các loài Bình vôi hiện có ở Việt Nam có 2 thời vụ chồi chính trong năm.
Vụ chồi đông xuân, bao gồm các chồi sớm xuất hiện (trên thân và trên đầu củ)
ngay từ tháng 11- 12. Những chồi này ở trạng thái “chồi ngủ” cho đến mùa
xuân (tháng 1- 2) thì bắt đầu thời kỳ sinh trưởng mạnh. Chỉ trong vòng 1- 2
tháng, chồi đã dài tới hơn 1 m. Chồi đông xuân là lứa chồi quan trọng nhất của
cây Bình vôi, vì trên loài chồi này cây sẽ ra lá, ra hoa, quả và mọc ra lứa chồi
xuân hè (chồi cấp II). Số lá chồi cấp II nhiều hơn cấp bội so với chồi đông xuân
5
(tính trên cùng một đơn vị chiều dài của chồi). Lá trưởng thành ngay trong mùa
hè và sẽ rụng hết khi mùa khô hanh (tháng 10). Sự rụng lá hàng năm cũng là
tập tính quang trọng của cây Bình vôi. Sự tái sinh chồi mạnh mẽ của cây Bình
vôi còn thể hiện ở khả năng mọc mầm trên các mảnh bổ ra từ củ đem vùi xuống
đất. Những mảnh ở đầu củ (khoảng 1/3 củ trở lên) mọc mầm tốt hơn những
mảnh khác. Có thể áp dụng khả năng này để nhân giống cây Bình vôi. Trong
tự nhiên, hoa Bình vôi được thụ phấn chéo chủ yếu nhờ côn trùng.
Hạt Bình vôi thường rất nhỏ, khối lượng trung bình của 1000 hạt thường
chỉ khoảng 10- 29g. Hạt phát tán nhờ nước. Các cá thể Bình vôi trồng từ hạt
thường sinh trưởng, phát triển khá nhanh. Chỉ sau 5- 6 tháng tuổi, cây đã vươn
dài tới 50-100) cm, phân cành khỏe. Ở một số loài, cây có thể bắt đầu ra hoa và
cho quả khi mới bước vào giai đoạn 6- 8 tháng tuổi. Trong quá trình sinh
trưởng, rễ chính thường lớn dần tạo thành củ (ở những loài có củ) hoặc phân
nhánh nhiều tạo thành rễ dạng sợi (ở những loài chỉ có rễ dạng sợi) [8].
Hình 1.1. Hình ảnh về cây Bình vôi
6
(Nguồn: http://www.thuocvuonnha.com/c/dung-cu-binh-voi-chua-mat- ngu/hoi-dap)
1.1.2. Giá trị của cây Bình vôi
Trong nhân dân củ Bình vôi được sử dụng là một vị thuốc dân gian. Củ
Bình vôi thái nhỏ, phơi khô được dùng dưới dạng sắc hay ngâm rượu chữa hen,
ho lao, lỵ, sốt, đau bụng.
Theo kinh nghiệm trong y học cổ truyền, Bình vôi được dùng dưới dạng
thuốc sắc, thuốc bột hoặc rượu thuốc để chữa bệnh mất ngủ, sốt nóng, nhức
đầu, đau dạ dày, ho nhiều đờm, hen suyễn khó thở… Liều dùng: 6 - 12 g/ngày
[2], [3]. Thuốc ngâm rượu gồm bột Bình vôi (1 phần) với rượu 40° (5 phần);
mỗi ngày uống 5 - 15 ml rượu, có thể thêm đường cho dễ uống [6]. Để tránh bị
ngộ độc, nên sử dụng liều lượng 0,02 – 0,025g đối với trẻ 1 – 5 tuổi; 0,03 –
0,05g đối với trẻ 5 – 10 tuổi [6], [21]. Trong y học hiện đại, Bình vôi chủ yếu
được dùng làm nguyên liệu chiết xuất lấy L-tetrahydropalmatin hoặc
cepharanthin tuỳ theo loài. L-tetrahydropalmatin (Rotundin) được dùng là
thuốc trấn kinh, an thần dùng trong các trường hợp: Mất ngủ, trạng thái căng
thẳng thần kinh, một số trường hợp rối loạn tâm thần [6], [17], [94]. Liều dùng
là 0,05g - 0,10g dưới dạng viên L-tetrahydropalmatin hydroclorid hoặc sulfat
[6], [94].
Trong củ Bình vôi chứa một lượng chất alkaloid: L-tetrahydropalmatin
(rotundin), stepharin, roemerin, cycleanin. Những hợp chất này được sử dụng
phổ biến để điều chế các loại thuốc. Các alkaloid này thuộc nhóm alkaloid dẫn
xuất của nhân isoquinolin. Trong đó quan trọng nhất là rotundin.
Một số kết quả nghiên cứu cho thấy hoạt tính sinh học của alkaloid và
rotudin trong cây như sau:
Alkaloid là một hợp chất hữu cơ chứa nitơ, đa số có nhân vòng, có phản
ứng kiềm, thường gặp ở thực vật và đôi khi trong động vật, có dược lực tính
mạnh và độc, cho kết tủa và phản ứng màu với một số thuốc thử gọi là thuốc
thử của alkaloid. Các alkaloid trong cây tồn tại dưới dạng muối với các hợp
7
chất hữu cơ như acid succinic, acid oxalic, acid malic, acid meconic [55].
Alkaloid thường là các chất có trọng lượng phân tử cao, ở thể rắn ở nhiệt
độ thường. Các alkaloid ở thể rắn thường là các alkaloid không bay hơi, các
alkaloid bay hơi thường ở thể lỏng. Ở thể rắn, chúng dễ kết tinh và có độ chảy
xác định. Một số alkaloid không đo được độ chảy do bị phá hủy ở nhiệt độ thấp
hơn độ chảy. Các alkaloid ở dạng lỏng thường không có oxy trong phân tử
(nicotin, spartein). Các alkaloid ở dạng lỏng dưới dạng tự do nhưng khi tạo
muối với acid thì nó có thể chuyển sang thể rắn (spartein ở thể lỏng nhưng
spartein sulfat ở thể rắn). Tuy nhiên có một vài trường hợp ngoại lệ một số
alkaloid có oxy trong phân tử nhưng vẫn ở thể lỏng như arecolin, pilocarpin
[16], [4].
Alkaloid nói chung là những chất có hoạt tính sinh học, có nhiều chất rất
độc. Tác dụng của alkaloid thường khác nhau ở những loại cây khác nhau.
Trên thế giới hiện nay dùng nhiều thuốc tổng hợp nhưng vẫn không bỏ được
các alkaloid lấy từ cây cỏ, vì có chất chưa tổng hợp được, và cũng có nhiều
thuốc sản xuất tổng hợp không rẻ hơn chiết xuất hoặc tác dụng của chất tổng
hợp chưa bằng tác dụng của các chất lấy từ cây. Do đó, người ta vẫn dùng
phương pháp chiết xuất từ cây, ví dụ như ajmalin, morphin, reserpin, quinin,
eserin hoặc vừa sử dụng thuốc có nguồn gốc thiên nhiên vừa tổng hợp vừa bán
tổng hợp, ví dụ như: ajimalisin, theobromin, cafein, ephedrine, atropine,
vincamin [16], [4], [8].
Trước đây, người ta cho rằng nhân cơ bản của các alkaloid là do các chất
đường hay thuộc hợp chất của đường kết hợp với ammoniac để có nitơ mà sinh
ra. Ngày nay bằng phương pháp dùng các nguyên tử đánh dấu (đồng vị phóng
xạ) người ta chứng minh được alkaloid tạo ra từ các acid amin. Qua định tính
và định lượng alkaloid trong các bộ phận khác nhau của cây và theo dõi sự thay
đổi của chúng trong quá trình phát triển của cây, người ta thấy nơi tạo ra
8
alkaloid không phải luôn luôn là nơi tích tụ alkaloid. Nhiều alkaloid được tạo
ra ở rễ lại vận chuyển lên phần trên mặt đất của cây, sau khi thực hiện những
biến đổi thứ cấp chúng được tích lũy ở lá, quả hoặc hạt.
Năm 1941, Trần Xuân Thuyết cùng với Đỗ Tất Lợi và P. Bonnet đã phát
hiện ra hỗn hợp alkaloid của củ Bình vôi, đặt tên là rotundin - có tác dụng an
thần gây ngủ, hạ huyết áp, điều hòa tim, giãn cơ trơn, do đó giảm các cơn đau
do co thắt cơ trơn [96].
Năm 1998, Nguyễn Tiến Vững và cs đã tiến hành thăm dò tác dụng của
L-tetrahydropalmatin trên điện não thỏ. Tất cả các thỏ được tiến hành đặt điện
cực vào vùng cảm giác, vận động và thể lưới thân não. Kết quả là sau khi cho
thỏ uống L-tetrahydropalmatin với liều 100 mg/kg thể trọng trong 7 ngày liền,
thành phần các sóng điện não trong vỏ não vùng cảm giác-vận động và trong
thể lưới thân não có những biến động rõ. Sự tăng thành phần sóng chậm denta
và giảm thành phần sóng nhanh beta chứng tỏ rằng L-tetrahydropalmatin có tác
dụng tăng cường quá trình ức chế trong các tế bào thần kinh ở vỏ bán cầu đại
não và thể lưới thân não [14].
Năm 1996, Dương Hữu Lợi thử nghiệm tiêm cho chuột nhắt trắng 0,1 ml
dung dịch L- tetrahydropalmatin ở các nồng độ khác nhau 0,5%, 1%, 2% nhận
thấy đều có tác dụng làm chuột nhắt trắng trấn tĩnh, tác dụng này được duy trì
trong vòng 3-5 giờ [4].
Theo Zhu (1991), D-tetrahydropalmatin và L-tetrahydropalmatin được
phân lập từ nhiều loài thuộc chi Stephania và cây Corydalis ambigua không chỉ
có tác dụng giảm đau mà còn có tác dụng an thần gây ngủ [90].
Năm 1986, Phạm Duy Mai và Phan Đức Nhuận nghiên cứu đã cho thấy
gindarin hydroclorid (L- tetrahydropalmatin hydroclorid) và hỗn hợp alkaloid
chiết từ củ Bình vôi đều tăng cường tác dụng gây ngủ của thiopental một cách
rõ rệt. Gindarin hydroclorid với liều 30 mg/kg thể trọng chuột có khả năng kéo
dài thời gian ngủ lên 1,5 lần. Hỗn hợp alkaloid với liều 100 mg/kg thể trọng
9
chuột cũng có tác dụng tương đương [18].
Bảng 1.1. Hoạt tính sinh học của alkaloid phân lập từ một số loài thuộc
chi Bình vôi Stephania
Hoạt tính Tên chất Tài liệu
Chống sốt rét
[30], [53]
Kháng sinh
[48], [71]
Diệt giun sán [40]
Chống virus [26], [51]
Chống ung thư
[29], [31]
Dehydroroemerine, tetrahydropalmatine, xylopinine, cepharanthine, Nmethylliriodendronine, 2-O, N dimethylliriodendronine, liriodenine, dicentrinone, corydine, aloe-emodine Glabradine, dịch chiết trong cồn từ củ từ loài S. glabra (Roxb.) Mies, dịch chiết trong methanol từ rễ của loài S. japonica, cepharanone D,Nformyl-asimilobine, Nformylannonain Dịch chiết trong cồn từ rễ của loài của cây S. glabra (Roxb.) Miers Dịch chiết từ củ trong methanol của loài S. cepharantha Hayata dl-tetrandrine, fangchinoline, d- tetrandrine, d-isochondrodendrine, dịch chiết trong cồn từ củ của loài S. venosa (Blume) Spreng, aporphine, cepharanthine, cepharanoline, isotetrandrine. (−)-Stepholidine, Ltetrahydropalmatin An thần [41], [90]
Kích đẻ cho phụ sản Tetrandrine [89]
[31], [42]
Đảo chiều đa kháng Insotrilobine và trilobine [46]
Chống viêm và Tetrandrine, fangchinoline,
Ltetrahydropalmatin, cepharinthin giảm đau
Miễn dịch Tetrandrine [47], [63]
Chặn kênh Ca2+ Tetrandrine [67], [79]
10
Chống oxi hóa Fangchinoline cepharanthine [45], [74]
Nguyễn Tiến Vững đã thử tác dụng kéo dài thời gian gây ngủ của L-
tetrahydropalmatin trên chuột nhắt trắng cho thấy L- tetrahydropalmatin đã kéo
dài giấc ngủ của pentotal rất rõ rệt, liều 40 mg/kg thể trọng chuột (bơm trực
tiếp vào dạ dày) đã làm tăng thời gian ngủ cùa chuột lên 8 lần [14].
Theo Mantsch John R, Li Shi-Jiang. L-tetrahydropalmatin có tác dụng
trong điều trị cai nghiện cocain và trong điều trị cai nghiện oxycodone [56].
Rotundin có tên khoa học là L-tetrahydropalmatin, đây là một alkaloid,
lần đầu tiên thu được vào năm 1902 nhờ phương pháp hydro hóa palmatin trong
quá trình nghiên cứu cấu trúc của palmatin theo phản ứng [50].
Hình 1.2. Công thức cấu tạo của palmatin và L-tetrahydropalmatin (rotundin)
Rotundin có công thức phân tử: C12H25NO4. Khối lượng phân tử là
M=355,43. Danh pháp quốc tế của rotundin: 5,8,13,13a-tetrahydro-2,3,9,10-
tetramethoxy-6H dibenzo [a, g] quinolizine.
Đây là một hợp chất hữu cơ gồm 4 vòng kết dính, chứa nhân dị vòng
isoquinolin, vì thế nó thuộc loại isoquinolin alkaloid và đó cũng là một trong
các bộ khung alkaloid rất thường gặp trong một số họ thực vật.
Rotundin là hợp chất ít độc và có nhiều hoạt tính vô cùng phong phú. Kết
quả nghiên cứu ở Liên Xô (cũ), Rumani, Trung quốc đã chỉ ra rằng L-
tetrahydropalmatin rất ít độc. Thí nghiệm cho thấy rằng một liều cao hơn 30
mg/kg cơ thể được tiêm vào mạch máu con thỏ chỉ làm thỏ mệt 1-2 ngày, đồng
11
tử bị liệt nhất thời rồi hết [16], [6].
Rotundin được áp dụng từ năm 1944 và suốt trong cuộc kháng chiến
chống Pháp đã được dùng để điều trị có kết quả một số trường hợp đau tim,
mất ngủ, hen, đau bụng, tác dụng rõ rệt nhất là gây ngủ và an thần. Rotundin
nguồn gốc tự nhiên có những ưu điểm nổi bật như độc tính thấp, sự dung nạp
thuốc tốt, mang lại giấc ngủ sinh lý. Sau khi ngủ không bị mệt mỏi và không
gây nhức đầu như các loại thuốc tổng hợp từ hoá chất [10].
Năm 2001, Nguyễn Minh Chính sử dụng thuốc tiêm rotundin sulfat có tác
dụng ức chế thần kinh trung ương, tương tự như diazepam [19]. Phạm Thị Kim,
Bùi Minh Đức và các cán bộ khoa học khác ở Viện Dinh dưỡng và Học viện
Quân y đã thử nghiệm rotundin liều cao trên chuột (150mg/kg thể trọng), tương
đương với 7,5g dùng cho người lớn để uống (gấp 15 lần liều dùng theo Dược
điển Trung Quốc-1988) mà chuột không chết và hiện tại không xác định được
LD50 đường uống. Điều đó chứng tỏ độ an toàn cao của chế phẩm. Rotundin ít
độc. Khi tiêm vào mạch máu thỏ với liều 30 mg/kg, con vật đó tuy bị mệt nhất
thời nhưng lại khỏi sau 1-2 ngày. Ở Trung Quốc, ngoài dạng viên 30mg và
60mg, rotundin còn có ở dạng tiêm là rotundin sunfat, mỗi ống chứa 2ml
(60mg), dùng làm thuốc giảm đau, an thần, gây ngủ trong điều trị loét dạ dày,
hành tá tràng, đau dây thần kinh, mất ngủ do lo âu, căng thẳng thần kinh... [10],
[95]. Chu Hongyuan, Jin Guozhang và cộng sự. nghiên cứu cơ chế giảm đau
của L-tetrahydropalmatin thấy thuốc có tác dụng ức chế receptor dopamin D2,
ứng dụng này đã được sử dụng trong bài thuốc cai nghiện ở Trung Quốc [35].
Một số sản phẩm của rotundin đã được thương mại hóa tại Việt Nam như:
Rotundin của công ty Dược phẩm TW3 [92], Rotundin của Công ty cổ phần
Dược phẩm TW2 [93].
1.1.3. Hiện trạng khai thác và bảo tồn nguồn gen cây bình vôi
Loài Bình vôi có khu phân bố chia cắt, sống ở vùng núi đá vôi, nơi cư trú
bị xâm hại do nạn chặt phá rừng. Cây bị đào rễ để làm thuốc dẫn đến nguy cơ
12
tuyệt chủng cao. Loài đã được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (2007) với cấp đánh
giá “sẽ nguy cấp” (Bậc V) và Danh mục Thực vật rừng, Động vật rừng nguy
cấp, quý hiếm (nhóm 2) của Nghị định số 32/2006/NĐ - CP ngày 30/3/2006
của Chính phủ để hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại [12].
Trước tình hình trên cần áp dụng các biện pháp, kỹ thuật nuôi cấy tạo nguồn
nguyên liệu ổn định, đáp ứng nhu cầu làm thuốc ngày một tăng.
1.2. Gen CoOMT ở cây Bình vôi và bộ Mao lương
Hiện nay, hướng nghiên cứu genome và chức năng của các gen trên đối
tượng cây Bình vôi còn rất mới mẻ. Số trình tự gen đăng trên Ngân hàng gen
Quốc tế chưa nhiều, chủ yếu là các nghiên cứu trình tự gen mã hóa protein
ribosome S2, S3, S4, S7, S8, S11, S12, S14, S15, S16, S18, S19, 23S, 4.5S, 5S,
L14, L16, L20, L22, L23, L33, L36, CP43, NADH dehydrogenase subunit 1,
NADH dehydrogenase subunit 2, NADH dehydrogenase subunit 5, NADH
dehydrogenase subunit 6, NADH dehydrogenase subunit 7, cytochrome b và c,
RNA polymerase alpha, RNA polymerase beta, photosystem protein, envelope
membrane protein, acetyl-CoA carboxylase beta, ribulose-1,5-bisphosphate
carboxylase/oxygenase, ATP synthase, Psa A và B, ATPase, maturase K,
ribosomal RNA, tRNA ở cây Stephania. Bên cạnh đó, hệ gen lục lạp của loài
Stephania japonica cũng được xác định trình tự, kích thước của trình tự được
xác định dài 157719 bp [76].
Thực vật bậc cao có rất nhiều loại hợp chất thứ cấp khác nhau, gồm hơn
25000 terpenoid, khoảng 12000 alkaloid và 8000 phenolic [36]. Trong đó nhiều
chất có hoạt tính sinh học cao và được dùng làm thuốc, đặc biệt là các alkaloid.
Methyltransferase là enzyme chìa khóa trực tiếp tham gia nhiều con đường sinh
tổng hợp nhiều hợp chất quan trọng [66]. Mỗi methyltransferase trong quá trình
sinh tổng hợp palmatine (gồm có S-adenosyl-L-methionine: norcoclaurine 6-
O-methyltransferase (6OMT) [68], [59], [69], [49], [57]; S-adenosyl-L-
methionine: coclaurine N-methyltransferase (CNMT) [43], [83], [33], [34]; S-
13
adenosyl-L-methionine: 3’ -hydroxy-N-methylcoclaurine 4’-O-methyltransferase
(4’OMT) [57], [43]; S-adenosyl-L-methionine: scoulerine 9-O-methyltransferase
(SMT) [58], [78] và CoOMT) đòi hỏi tính đặc thù về cơ chất chặt chẽ cho dù
các cơ chất có sự tương đồng về cấu trúc.
Hình 1.3. Con đường sinh tổng hợp tetrahydropalmatine và palmatine [77]
Công trình nghiên cứu của Takashi Morishige và cs (2002) là công trình
14
đầu tiên đã xác định được gen mã hóa columbamine O-methyltransferase tham
gia trực tiếp chuyển hóa cơ chất tetrahydrocolumbamine để sinh tổng hợp
rotundin. Các tác giả cũng xác định được trình tự cDNA mã hóa enzyme này
dài 1053bp, mã hóa cho 351 amino acid (với mã số AB073908 trên Ngân hàng
gen Quốc tế). Các kết quả nghiên cứu xác định tất cả các gen O-
methyltransferase có liên quan đến sinh tổng hợp isoquinoline trong tế bào
Copapis Japonica. Tác giả giải trình tự 1014 cDNA được phân lập từ tế bào
nuôi cấy sản xuất alkaloid với hàm lượng cao của C. Japonica. Trong đó, tác
giả phát hiện ra tất cả ba O-methyltransferase và một O-methyltransferase
giống như bản sao cDNA có mã số CJEST64. cDNA này khá giống với cDNA
của gen mã hóa S-adenosyl-l-methionine: coclaurine 6-O-methyltransferase và
S-adenosyl-l-methionine: isoflavone 7-O-methyltransferase. Nhờ S-adenosyl-l-
methionine: columbamine O-methyl-transferase xúc tác chuyển đổi
columbamine thành palmatine, là một trong những thành phần chưa được phân
giải trong quá trình tổng hợp isoquinoline alkaloid ở C. japonica, tác giả đã xác
định được sự khác biệt của protein trong E.coli và đánh giá sự hoạt động của
columbamine O-methyltransferase. Protein tái tổ hợp biểu hiện rõ ràng hoạt
tính O-methyl hóa sử dụng columbamine, cũng như (S) -
tetrahydrocolumbamine, (S) -, (R, S) -scoulerine và (R, S) -2,3,9,10-
tetrahydroxyprotoberine làm chất nền. Kết quả này chứng tỏ rõ ràng rằng EST
rất hữu ích để phân lập gen quan tâm theo con đường sinh tổng hợp tương đối
tốt. Mối quan hệ giữa cấu trúc và sự nhận biết chất nền của O-methyltransferase
liên quan đến sinh tổng hợp isoquinoline alkaloid và palmatine [77].
1.3. Vector biểu hiện gen và ứng dụng kỹ thuật chuyển gen trong cải thiện
hàm lượng dược chất có hoạt tính ở cây thuốc
Ðặc điểm của kỹ thuật chuyển gen gián tiếp thông qua Agrobacterium là
bất kỳ DNA nào đã tạo dòng đều có thể được chuyển vào hệ gen của tế bào
15
thực vật Hai lá mầm. Trước đây, loại vector thường được đề cập đến là vector
liên hợp (co-intergrative vector), tuy nhiên gần đây vector nhị thể (binary
vector) là phổ biến hơn. Hệ vector nhị thể đặc trưng bởi việc phân cắt Ti
plasmid thành hai phần riêng biệt: Ti plasmid và vector T – DNA. Hệ vector
được thiết kế bao gồm hai plasmid tự tái bản. Loại vector vận tải mang GOI
giữa đoạn ngoại biên của T – DNA và một plasmid hỗ trợ có gen vir đảm nhiệm
chức năng vận chuyển vào tế bào thực vật. Plasmid hỗ trợ được cải biến từ các
Ti plasmid bình thường bằng cách loại bỏ gen kích thích tế bào thực vật phát
triển thành khối nhưng vẫn duy trì khả năng xâm nhập vào tế bào thực vật. Để
tái bản trong A. tumefaciens, vector nhị thể được thiết kế gồm các phần sau: (i)
Vị trí ghép nối đa điểm; (ii) Đoạn khởi đầu tái bản ở cả E. coli và A.
tumefaciens; (iii) Gen chọn lọc hoạt động được ở cả vi khuẩn và thực vật; (iv)
Gen có khả năng vận chuyển (oriV, oriT, trfA); (v) Đoạn T – DNA ngoại biên.
Ngoài ra, còn một số thành phần phụ trợ khác như đoạn kích thích vận chuyển
T – DNA [15], [60], [70].
Vector chuyển gen pBI121 có kích thước 14,75 kb, được cấu trúc bởi các
thành phần như 35S-promoter, chứa gen GUS với cặp enzyme giới hạn
XbaI/SacI, gen NPTII mã hóa protein kháng kháng sinh kanamycin (Hình 1.4).
16
Hình 1.4. Sơ đồ cấu trúc vector chuyển gen pBI121
Kỷ nguyên Genomics (Hệ gen học) đang được ứng dụng trên cây dược liệu
và ở nhiều cây trồng khác. Gần đây dữ liệu hệ gen học được phát triển dựa trên
những thông tin về trình tự các gen, dữ liệu EST (expressed sequence tag), thư
viện cDNA, microarray. Những nguồn thông tin này là cơ hội của việc ứng dụng
các tiến bộ kỹ thuật chuyển gen, là cơ sở của những hiểu biết về chức năng gen
trên cơ sở tách dòng gen và phương pháp di truyền ngược. Trên cơ sở đó, nghiên
cứu xây dựng một hệ thống chuyển gen ổn định và có hiệu quả ở cây dược liệu
nói chung, cây Bình vôi nói riêng là điều cần thiết đi tới thành công trong chiến
lược cải thiện hàm lượng các dược chất quan trọng. Hai nhóm phương pháp được
ứng dụng trong nghiên cứu chuyển gen ở thực vật là chuyển gen trực tiếp và
chuyển gen gián tiếp. Trong đó, phương pháp chuyển gen trực tiếp bằng súng
bắn gen và chuyển gen gián tiếp thông qua A. tumefaciens đã được ứng dụng
phổ biến [37].
Agrobacterium là các vi khuẩn đất thuộc nhóm vi khuẩn Gram âm, yếm
khí, gây ra bệnh sần ở thân và rễ khi xâm nhiễm qua vết thương. Agrobacterium
thuộc họ Rhizobiaceae, chi Agrobacterium có 4 loài chính, trong đó A.
tumefaciens được sử dụng nhiều nhất cho việc chuyển gen. A. tumefaciens cũng
giống như các loại vi khuẩn khác là có mang các plasmid. Các thực nghiệm
cho thấy, khi xử lý vết thương bằng vi khuẩn A. tumefaciens không mang
plasmid sẽ không gây ra khối u ở thực vật. Khối u này chỉ được hình thành khi
vi khuẩn có mang plasmid. Như vậy chứng tỏ rằng plasmid của vi khuẩn đã
chuyển vào tế bào thực vật các vật chất di truyền gây bệnh u ở cây. Do vậy
người ta gọi chúng là các Ti-plasmid (tumor inducing plasmid).
Ti-plasmid là một plasmid lớn có kích thước khoảng 200 kb. Trên Ti -
plasmid có đoạn T-DNA được giới hạn bằng bờ phải (right border) và bờ trái
(left border). T-DNA là đoạn sẽ tách khỏi plasmid, chuyển vào tế bào thực vật và
gắn vào bộ gen của cây. T-DNA chứa các gen tổng hợp auxin, cytokinin gây nên
17
sự phân chia tế bào liên tục và hình thành khối u. Ngoài ra nó còn chứa các gen
tổng hợp nên các axit amin biến dạng gọi là các opine là nguồn cacbon và nitơ
bổ sung cho vi khuẩn (các chất này không tồn tại ở cây bình thường). Ngoài T-
DNA, trên Ti-plasmid còn có vùng gây độc, có chứa các gen vir chịu trách
nhiệm trong hoạt động lây nhiễm, chuyển nạp T-DNA vào hệ gen tế bào thực
vật và tiêu hóa opine [9].
Hình 1.5. Sự tương tác của Agrobacterium và cơ chế chuyển T-DNA
Agrobacterium có 3 thành phần di truyền cần thiết cho quá trình
chuyển gen: (1) Vùng T-DNA: là đoạn DN chuyển từ vi khuẩn Agrobacterium
vào tế bào thực vật. Đặc điểm của vùng này là xâm nhập ổn định vào bộ gen của
cây chủ, không mã hóa cho các sản phẩm trợ giúp quá trình biến nạp, độ dài thay
đổi khác nhau ở các Ti-plasmid tự nhiên và mang rất nhiều gen có thể biểu
hiện trong quá trình chuyển hóa của tế bào thực vật [28]; (2) Vùng gây độc Vir
(Virulence Region): gồm 24 gen vir được sắp xếp trong 8 operon từ virA đến
virH, mỗi operon chứa một số gen. Vùng Vir có vai trò kích thích việc biến nạp
của T-ADN. Trong đó vir A, B, D, G có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá
trình biến nạp ở tế bào thực vật; vir C, E, F, H có tác dụng làm tăng cường hiệu
quả quá trình biến nạp gen [39]; (3) Nhiễm sắc thể (NST) của Agrobacterium:
18
Vùng Vir có vai trò chủ yếu trong quá trình biến nạp T-DNA, tuy nhiên NST
của vi khuẩn cũng rất cần thiết đối với quá trình này. Chúng tác dụng lên bề mặt
của tế bào vi khuẩn, giúp tạo ra exopolysaccarid, đồng thời gắn vi khuẩn vào tế
bào thực vật … Ngoài ra những gen khác như vir A đóng vai trò thứ yếu hơn trong
quá trình biến nạp [44].
Trong quá trình nuôi cấy tạo sinh khối tế bào thực vật nhằm giảm hoặc
mất tính biệt hóa ở các mô, tế bào nuôi cấy cần thiết bổ sung các chất điều tiết
sinh trưởng vào trong môi trường nuôi cấy. Đây là một trong những trở ngại
lớn do tồn dư các chất điều tiết sinh trưởng trong sinh khối tế bào nuôi cấy ảnh
hưởng trực tiếp đến sản phẩm và sức khỏe người sử dụng. Tuy nhiên, việc này
hoàn toàn có thể khắc phục trong nuôi cấy sinh khối từ rễ tơ [65].
Hình 1.6. Cấu trúc Ri-plasmid của A. rhizogenes [84]
Vi khuẩn đất A.rhizogenes là vi khuẩn gram âm, gây bệnh rễ tơ ở thực
vật hai lá mầm. A.rhizogenes mang Ri-plasmid và đây là tác nhân gây bệnh rễ
tơ ở các mô tế bào thực vật bị xâm nhiễm. Tế bào thực vật bị thương tiết ra các
polyphenol hấp dẫn các vi khuẩn, tại đây chuyển một đoạn T-DNA từ Ri-
plasmit vào hệ gen của tế bào vật chủ. Các gen mã hóa sinh tổng hợp auxin ở
vi khuẩn A.rhizogenes có vai trò quan trọng quá trình hình thành rễ tơ ở thực vật
[26]. Trong thực tế, gen tạo rễ tơ đã được các nhà nghiên cứu sử dụng để thiết
19
kế vector biểu hiện mang gen chuyển. Cấu trúc vector biểu hiện mang gen
chuyển và gen tạo rễ tơ được chuyển vào thực vật thông qua A. tumefaciens, giúp
cho việc phân tích cây chuyển gen được thuận lợi, nhanh chóng sau 2- 4 tuần
chuyển gen.
Đặc trưng nổi bật của hệ thống rễ tơ là chúng có khả năng phát triển
nhanh, phân nhánh cao và ổn định trên môi trường nuôi cấy mà không cần bổ
sung chất điều hòa sinh trưởng thực vật. Bên cạnh đó, khả năng tổng hợp ra
các hợp chất tự nhiên của hệ thống rễ tơ cũng cao hơn rất nhiều so với thực
vật nguyên vẹn, cũng như so với hệ thống dịch treo tế bào ở nhiều loài thực
vật. Với sự chuyển gen của A.rhizogenes vào tế bào, rễ tơ có khả năng tổng
hợp ra nhiều loại hợp chất tự nhiên với hiệu suất cao mà các tế bào không phân
hóa và các rễ bất định không chuyển gen không tổng hợp lại hoặc tổng hợp với
hàm lượng không đáng kể. Rễ tơ được xem như là nguồn nguyên liệu có giá trị
trong sản xuất các hợp chất tự nhiên có lợi như dược phẩm, các chất phụ gia
trong ngành mỹ phẩm và thực phẩm. Hơn nữa, kỹ thuật này có ý nghĩa lớn
trong việc sản xuất các sản phẩm hợp chất tự nhiên trên quy mô công nghiệp
với hiệu suất cao, giảm chi phí trong quá trình sản xuất từ đó giảm giá thành
sản phẩm. Bên cạnh việc chuyển T-DNA của A.rhizogenes vào tế bào, ta còn
có thể chuyển các gen ngoại lai thông qua việc tái tổ hợp đoạn gen đó vào trong
đoạn T-DNA của A.rhizogenes. Các gen này có thể là gen biểu hiện ra các hợp
chất mục tiêu hay có thể là các gen mã hóa các enzyme chìa khóa trong con
đường sinh tổng hợp hợp chất tự nhiên mong muốn [52], [65].
Các nghiên cứu về cải tiến việc sản xuất alkaloid C. roseus đã tập trung
vào việc nuôi cấy tế bào và rễ tơ để làm sáng tỏ quy định về sự biểu hiện quá
mức của các gen liên quan đến quá trình sinh tổng hợp TIA ở cây chuyển gen.
Magnotta và cộng sự (2007) đã phân tích sự biểu hiện protein DAT trong rễ C.
roseus và kết luận rằng nó thay đổi cấu trúc MIA. Kết quả này cho thấy sự biểu
hiện quá mức của các gen trong con đường vindoline có thể dẫn đến những thay
20
đổi đáng kể hàm lượng alkaloid trong cây C. Roseus [54]. Dựa trên nghiên cứu
về sự biểu hiện mạnh của gen ORCA3 và G10H trong cây C. Roseus. Pan Q và
cộng sự (2012) kết luận rằng sự biểu hiện quá mức này làm tăng đáng kể sự
tích lũy của strictosidine, vindoline, catharanthine và ajmalicine [64]. Trong
năm 2010, Wang và cộng sự đã chuyển thành công gen G10H và ORCA3 vào
cây dừa cạn thông qua A. rhizogens MSU440. Do đó, hàm lượng catharanthine
trong cây chuyển gen tích lũy cao gấp 6,5 lần so với cây không chuyển gen
[82]. Ngoài ra, hệ thống tái sinh và chuyển gen ở C. roseus sử dụng
Agrobacterium tumefaciens được phát triển và hoàn thành thành công bởi
Wang và cộng sự (2012) [81].
Một số nghiên cứu khác như chuyển gen gus ở cây cà chua của Đỗ Xuân
Đồng và cs (2007), ở cây dưa hấu của Nguyễn Thị Thanh Nga và cs (2012), ở
cây dầu mè của Võ Thị Thúy Huệ và cs (2011), ở cây thông nhựa của Vương
Đình Tuấn và cs (2012), ở cây xoan ta của Bùi Văn Thắng và cs (2013). Ngoài
ra, nghiên cứu chuyển gen cũng được tiến hành trên cây lan hồ điệp
(Phalaenopsis amabilis) của Trần Lê Lưu Li và cs (2008) với thí nghiệm lây
nhiễm bởi A.tumefaciens CV58 pGV2260 mang vector 35S -GUS-INT chứa
gen uidA và nptII và thu được kết quả biểu hiện gus tối ưu ở nồng độ AS 50μM
21
sau 4 ngày đồng nuôi cấy [7], [20], [23], [25], [1], [22].
CHƯƠNG 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Trình tự cDNA mang thông tin di truyền mã hóa cho enzyme
columbamine O-methyltransferase (có mã số AB073908 trên Ngân hàng gen
NCBI) được sử dụng để tổng hợp gen nhân tạo. Trình tự gen nhân tạo có kích
thước 1113 bp được tổng hợp trên nền frit, tổng hợp gen theo công nghệ của
Công ty Phù Sa gồm trình tự cDNA CoOMT, Kdel, Cmyc và trình tự nhận biết
của enzyme giới hạn XbaI, SacI.
Vector tách dòng pUC19 do Công ty Phù Sa cung cấp (hình 2.1).
22
Hình 2.1. Sơ đồ cấu trúc vector tách dòng pUC19
Vector biểu hiện pBI121-GUS được phòng Công nghệ tế bào thực vật,
Viện Công nghệ Sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
cung cấp (hình 2.2).
Hình 2.2. Sơ đồ cấu trúc vector biểu hiện pBI121
2.2. Hóa chất, thiết bị và địa điểm nghiên cứu
2.2.1. Hóa chất nghiên cứu
Các hóa chất được sử dụng trong nghiên cứu gồm: Enzyme phusion DNA
polymerase và T4-DNA ligase (Thermo Scientific), Kit tách chiết plasmid
(QIAprep Spin Miniprep Kit, Qiagen), kit tinh sạch DNA GeneJET PCR
purification Kit (Thermo Scientific), thang DNA 1 Kb (Thermo Scientific).
Các hóa chất thông dụng khác: SDS, Tris-HCl, EDTA (Serva, Đức);
isoamylalcohol, chloroform (Roth, Đức); phenol, EtBr (Ethidium bromide),
23
glycerol, agarose (Gribco, Mỹ); ethanol, agar (Fluka, Đức); carbenicillin
(Merk, Đức); cao nấm men, bactor peptone, d-NTPs (Promega, Mỹ); MgCl2,
CaCl2, NaOH, NaCl, kali acetate, axit acetic, glucose (Sigma).
2.2.2. Thiết bị nghiên cứu
Các thiết bị được sử dụng trong nghiên cứu gồm: Máy PCR (MJ Research,
Mỹ), Máy đọc trình tự, máy ly tâm Eppendorf, máy điện di DNA, máy xác định
DNA trên gel agarose (Bio-Rad, Mỹ), máy làm khô DNA (Speed Vac), pipet
man, tủ cấy vô trùng, máy lắc ổn nhiệt (New Jersey, Mỹ), máy đo pH, máy tính
chuyên dụng.
2.2.3. Địa điểm nghiên cứu
Các thí nghiệm và luận văn được hoàn thành tại phòng thí nghiệm Công
nghệ gen, Công nghệ tế bào thực vật, Di truyền học thuộc Khoa Sinh học,
Trường Đại học Sư phạm- Đại học Thái Nguyên. Một phần thí nghiệm được
thực hiện tại phòng Công nghệ tế bào thực vật, Viện Công nghệ Sinh học, Viện
Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Nhóm phương pháp tạo dòng gen
2.3.1.1. Thiết kế mồi colony- PCR
Dựa trên trình tự gen đăng kí trên Ngân hàng gen quốc tế NCBI mã số
AB073908. Chúng tôi sử dụng phẩn mềm DNAstar thiết kế cặp mồi đặc trưng
cho phản ứng colony- PCR để tạo dòng tế bào vi khuẩn tái tổ hợp mang vector
pUC19_1113bp. Thông tin về cặp mồi được trình bày trong bảng 2.1.
Bảng 2.1. Cặp mồi đặc trưng của phản ứng colony- PCR
Nhiệt Kích
TT Tên mồi Trình tự (5' - 3') độ bắt thước gen
cặp dự kiến
24
1 Fw TCTAGAATGGATACTCCGAACAC 58oC 1113bp 2 Rv GAGCTCTCAGAGTTCGTCTT
2.3.1.2. Tạo vector pUC19_1113bp tái tổ hợp
Vecor pUC19 được cắt mở vòng bằng enzyme SmaI. Sản phẩm cắt được
điện di kiểm tra trên gel agarose 1% và tinh sạch bằng kit Jena Bioscience.
Phản ứng ghép nối gen mục tiêu CoOMT vào vector pUC19 có thành phần
được trình bày ở bảng 2.2. Hỗn hợp phản ứng được trộn đều, sau đó ly tâm
nhanh để bảo đảm tất cả thành phần nằm dưới đáy của tube PCR. Phản ứng
được ủ ở 37oC trong 15 phút, sau đó đặt lên nước đá để chuẩn bị biến nạp.
Bảng 2.2. Thành phần phản ứng nối ghép gen
Thành phần Thể tích (µl)
Mạch thẳng vector (100ng) 1
DNA (300 ng/µl) 5
Dung dịch đệm eClone 1,5
Enzyme eClone 1
Nước khử ion 6,5
Tổng thể tích 15
2.3.1.3. Tạo dòng vi khuẩn tái tổ hợp mang vector pUC19_1113bp
Hỗn hợp phản ứng ligation được bổ sung vào 100µl tế bào khả biến trong
tube 1.5 ml và ủ trên nước đá khoảng 30 phút. Sau đó, hỗn hợp được sốc nhiệt ở
42oC trong 60-90 giây. Tube phản ứng tiếp tục được đặt trong đá 5 phút, sau đó
được thêm 1 ml môi trường giàu dinh dưỡng (SOC) và nuôi lắc ở 37oC trong 60
phút. Tiến hành ly tâm thu tế bào vi khuẩn, đổ bỏ dung dịch nổi và trải 100 µl lên
đĩa môi trường thạch có chứa kháng sinh chọn lọc ampicillin (100µg/ml).
Sau 16 - 18 giờ nuôi khuẩn trên đĩa môi trường thạch, các khuẩn được
chọn lọc dựa trên kiểu hình được sử dụng cho phản ứng colony- PCR. Thành
phần của phản ứng được trình bày ở bảng 2.3.
Các dòng tế bào dương tính với phản ứng colony- PCR được nuôi trong
môi trường LB lỏng thu sinh khối để tách chiết và tinh sạch plasmid (trong 16
25
giờ, ở 37oC).
Bảng 2.3. Thành phần phản ứng colony-PCR
STT Thành phần Thể tích (l)
1 Nước deion, khử trùng 6,5
2 PCR Master mix 2X 7,5
3 Primer forward (10 pmol): Fw 0,5
4 Primer reverse (10 pmol): Rv 0,5
5 Tế bào vi khuẩn
Tổng thể tích của phản ứng 15
2.3.1.4. Tách chiết và tinh sạch plasmid
Sau khi kiểm tra sản phẩm tách dòng tiến hành tách plasmid bằng dung
dịch sol I, sol II, sol II (Bảng 2.4). Các bước được tiến hành như sau:
Bước 1: Chuyển 2ml dịch nuôi sang ống eppendorf. Ly tâm 6000 v/p ở 4oC
trong 5 phút. Loại bỏ dịch môi trường để thu nhận cặn tế bào.
Bước 2: Làm tan cặn tế bào trong 100l dung dịch Sol I (giữ trong đá),
Bước 3: Bổ sung 200l dung dịch Sol II vào mỗi eppendorf. Đậy nắp chặt, đảo
ngược eppendorf vài lần và giữ trên đá trong 1 phút
Bước 4: Bổ sung 150l dung dịch Sol III. Đậy nắp chặt, đảo ngược eppendorf
vài lần và giữ trong đá trong 3-5 phút.
Bước 5: Ly tâm 12000 v/p trong 10 phút ở 4oC và hút chuyển dịch phía trên
sang ống mới. Bổ sung hỗn hợp chloroform: isoamin (24:1) theo tỉ lệ
1:1, đảo đều mẫu sau đó để ở nhiệt độ phòng 15 phút.
Bước 6: Ly tâm 12000 v/p trong 10 phút ở 4oC và hút dịch phía trên chuyển
sang ống mới.
Bước 7: Tủa plasmid bằng cách bổ sung 1 lần thể tích isopropanol lạnh và giữ
ở -20oC trong 30 phút.
Bước 8: Thu tủa bằng cách ly tâm 12000 v/p trong 10 phút ở 4oC. Rửa sạch
26
mẫu bằng cách bổ sung 0,5ml ethanol 70độ. Ly tâm thu tủa 12000v/p
trong 10 phút ở 4oC (lặp lại 2 lần).
Bước 10: Làm khô tủa bằng máy SpeedVac trong 2 phút hoặc để mở nắp trong
15 phút ở nhiệt độ phòng trong box bật quạt.
Bước 11: Hoà tan tủa plasmid trong 50l H2O khử vô trùng chứa 20g/ml
RNase. Mẫu được lưu giữ ở -20 oC.
Bước 12: Kiểm tra DNA plasmid bằng điện di trên gel agarose 1,0 %.
Bảng 2.4. Thành phần dung dịch tách plasmid
Dung dịch Hóa chất Nồng độ Thể tích
Tris- HCl, 1M, pH 8,0 25 mM 2,5 ml Dung dịch I (Sol I) EDTA, 0,5M, pH 8,0 10 mM 2 ml (khử trùng, giữ 4oC) Glucose 50 mM 0,9 g
Dung dịch II (Sol II) NaOH, 2N 0,2 N 10 ml
(Pha mới trước khi sử SDS, 10% 1% 10 ml dụng)
CH3COOK, pH 5,5 5,0 M 60 ml Dung dịch III (Sol III) CH3COOH 11,5% 11,5 ml (giữ 4oC) 28,5 ml H2O
(Tổng thể tích mỗi loại Sol, V= 100 ml)
Sử dụng kit tinh sạch plasmid của Jena Biociense để tinh sạch các dòng tế
bào dương tính với clony- PCR trước khi tiến hành giải trình tự.
2.3.2. Nhóm phương pháp thiết kế vector biểu hiện mang gen đích
2.3.2.1. Xử lý enzyme cắt giới hạn
Vector pUC-1113 và vector pBI121 được xử lý bằng enzyme XbaI và
SacI. Thành phần phản ứng cắt được thực hiện theo sự hướng dẫn của hãng sản
xuất bộ kit sử dụng enzyme.
Phản ứng được ủ trong 2 giờ ở 37oC. Sản phẩm cắt sau đó được điện di
27
kiểm tra trên gel agarose 1% dưới điều kiện 120V, 40 phút.
Bảng 2.5. Thành phần của phản ứng cắt enzyme giới hạn
Thành phần Thể tích (µl)
Nước deion, khử trùng 14
Buffer Tango 10X 4
DNA (50 ng/µl) 20
XbaI (5U/ µl) 1
SacI (10 U/ µl) 1
40 Tổng thể tích của phản ứng
2.3.2.2. Thôi gel và tinh sạch sản phẩm PCR
Mảnh gel chứa đoạn gen có kích thước 1113 bp và vector pBI121 được
thu nhận vào ống 2 ml. Bổ sung dung dịch đệm gắn (binding buffer) vào gel
theo tỷ lệ: Vmẫu : Vđệm = 1 : 1, trộn đều và chuyển hỗn hợp dung dịch lên cột, ly
tâm 13000 v/p trong 1 phút. Loại bỏ dịch chảy qua cột. Bổ sung 500l dung
dịch đệm rửa (washing buffer), ly tâm 13000 v/p trong 1 phút, đổ dịch chảy qua
cột, ly tâm bổ sung 1 phút để loại bỏ hết dung dịch đệm rửa. Hoà tan DNA
trong 30 – 50l nước cất hoặc dung dịch EB, đã được làm ấm đến 50oC, để ở
nhiệt độ phòng 1 phút, sau đó ly tâm 13000 v/p trong 1 phút.
2.3.2.3. Gắn đoạn gen CoOMT 1113 bp vào vector pBI121
Sản phẩm thôi gel sau khi tinh sạch được gắn vào vector tách dòng
pBI121. Thành phần phản ứng nối ghép như sau:
Bảng 2.6. Thành phần phản ứng nối ghép gen
STT Thành phần Thể tích (l)
1 2 3 4 5 1 1 6 1 1 Dung dịch đệm (10x) T4 ligase DNA (20 ng/ µl) pBI121 plasmid (20 ng/ µl) H2O
28
Tổng thể tích 10
Hỗn hợp được ủ ở 22oC trong 60 phút và sau đó được biến nạp vào tế
bào khả biến E.coliDH5α.
2.3.2.4. Biến nạp DNA plasmid vào tế bào E. coli bằng phương pháp sốc nhiệt
+ Chuẩn bị tế bào khả biến:
Tế bào E.coli DH5α được cấy ria trên môi trường LB đặc và nuôi qua đêm
ở 37oC. Chọn một khuẩn lạc nuôi cấy trong 5ml LB lỏng, lắc 200 v/p, ở 37oC,
qua đêm. Hút 1% dịch khuẩn ở trên cho vào 50ml LB lỏng, lắc 200 v/p, ở 37oC,
trong 2-3 giờ, đo OD600nm đạt 0,4 - 0,6 thì chuyển dịch nuôi cấy sang ống ly
tâm, để 15 phút ở trong đá (hoặc ở 4oC). Ly tâm 4000 v/p, ở 4oC, trong 5 phút.
Thu cặn và hoà tan trong 30ml CaCl2 0,1 M, để trong đá 15 phút, sau đó ly tâm
4000 v/p, ở 4oC, trong 5 phút (lặp lại ba lần, để trong đá lần thứ hai 30 phút,
lần thứ ba 60 phút). Đổ dịch CaCl2, hòa tan trong 1ml CaCl2/100ml LB ban
đầu. Bổ sung 15- 20% glycerol. Chia 50 l dịch tế bào khả biến vào mỗi ống
eppendorf 1,5 ml. Bảo quản tế bào khả biến trong tủ lạnh -84oC.
+ Biến nạp:
Tế bào khả biến được lấy ra từ tủ -84oC và được làm tan trên đá. Bổ sung
5l vector đã gắn gen vào ống đựng tế bào khả biến và trộn nhẹ. Hỗn hợp được
đặt trong đá 10-15 phút, rồi được chuyển sang bể ổn nhiệt có nhiệt độ 42oC
trong 1 phút 30 giây. Sau đó mẫu được lấy ra và đặt ngay lên đá lạnh trong 5
phút. Bổ sung 500 l môi trường LB lỏng, hỗn hợp được nuôi ở 37oC, lắc 200
v/p trong 1 giờ. Sử dụng que cấy trải, trải 100- 200 l dịch khuẩn lên đĩa môi
trường LB đặc có chứa 50mg/l carbenicillin, 100 µM IPTG, 40 mg/l X-gal. Ủ đĩa
ở 37oC qua đêm.
2.3.2.5. Phương pháp PCR trực tiếp từ khuẩn lạc (colony-PCR)
Các mẫu khuẩn tái tổ hợp sau biến nạp mọc trên môi trường LB đặc được
chọn lọc để thực hiện phản ứng colony- PCR. Thành phần của phản ứng colony-
29
PCR được trình bày trong bảng 2.3.
Chu kỳ nhiệt của phản ứng colony- PCR như sau: 94°C: 3min; (94°C: 30s;
58°C: 30s; 72°C: 60s) lặp lại 25 chu kỳ; 72°C: 5min; 4°C: ∞.
Sản phẩm colony-PCR được điện di kiểm tra trên gel agarose 1% để chọn
ra các khuẩn lạc mang gen có kích thước như mong muốn.
2.3.2.6. Tách chiết plasmid từ tế bào E. coli
Sử dụng Kit QIAprep Spin Miniprep (của hãng QIAGEN) và chỉ dẫn
của nhà sản xuất để tách chiết plasmid. Đây là phương pháp tách plasmid lượng
bé từ 1-1,5 ml dịch khuẩn E. coli, có số bản copy plasmid cao.
Quy trình: Hút 1,5 ml dịch khuẩn E.coli đã nuôi qua đêm trong môi trường
LB lỏng cho vào ống eppendorf 1,5 ml. Ly tâm 7000 v/p trong 5 phút để thu tế
bào. Hòa tan tế bào trong 250 l buffer P1 (lưu ý RNase đã được bổ sung vào
buffer P1). Bổ sung 250 l buffer P2, đảo ống nhẹ nhàng 4 – 6 lần để trộn đều.
Không votex, vì sẽ làm lẫn với DNA genome. Cần thiết có thể đảo ống cho đến
khi nhìn thấy dịch trắng sữa. Không để phản ứng phân giải quá 5 phút. Bổ sung
350 l buffer N3, đảo ống ngay lập tức nhưng nhẹ nhàng 4- 6 lần. Tránh kết
tủa cục bộ, đảo đều dung dịch nhẹ nhàng nhưng liên tục ngay sau khi bổ sung
buffer N3. Dung dịch trở nên có màu trắng sữa. Ly tâm ở 13000 v/p trong 10
phút. Hút dịch nổi cho vào cột QIAprep Spin Miniprep. Ly tâm ở 13000 v/p
trong 30- 60 giây, loại bỏ dịch chảy qua cột. Rửa cột QIAprep Spin Miniprep
bằng cách bổ sung 0,5ml buffer PB và ly tâm ở 13000 v/p trong 30- 60 giây.
Loại bỏ dịch chảy qua cột. Bước này là rất cần thiết để loại bỏ hoạt tính của
nuclease khi sử dụng chủng endA+ như JM, HB101 hoặc các thế hệ khác của
nó cũng như các chủng dại mà có mức độ hoạt tính cao của nuclease hoặc nồng
độ carbonhydrate cao. Chủng tế bào chủ như XL-1 và DH5 không cần thiết
phải sử dụng bước rửa này. Rửa cột QIAprep Spin Miniprrep bằng cách bổ
sung 0,75 ml buffer PE và ly tâm ở 13000 v/p trong 30- 60 giây. Loại bỏ dịch
30
chảy qua cột, và ly tâm bổ sung ở 13000 v/p trong 1 phút để loại bỏ hết buffer
rửa. Đặt cột trong một ống eppendorf 1,5 ml. Hòa tan DNA, bổ sung 50 l EB
hoặc nước cất tới tâm của mỗi cột QIAprep Spin Miniprrep, để ở nhiệt độ phòng
1 phút và ly tâm ở 13000 v/p trong 1 phút. Tiến hành điện di kiểm tra sản phẩm
tich sạch plasmid trên gel agarose 1%.
2.3.2.7. Phương pháp kiểm tra plasmid tái tổ hợp bằng enzyme cắt giới hạn
Để kiểm tra các plasmid tái tổ hợp chứa vector pBI121, các plasmid này
được kiểm tra bằng cách xử lý bằng enzyme XbaI và SacI. Thành phần phản
ứng cắt được thực hiện theo sự hướng dẫn của hãng sản xuất bộ kit sử dụng
enzyme (bảng 2.7).
Bảng 2.7. Thành phần của phản ứng cắt enzyme giới hạn
Thành phần Thể tích (µl)
Nước deion, khử trùng 8
Buffer Tango 10X 2
DNA (50 ng/µl) 10
XbaI (5U/ µl) 0.5
SacI (10 U/ µl) 0.5
Tổng thể tích 20
Phản ứng được ủ trong 2 giờ ở 37oC. Sản phẩm cắt sau đó được điện di
kiểm tra trên gel agarose 1% dưới điều kiện 120V, 40 phút.
2.3.2.8. Phương pháp biến nạp vào Agrobacterium tumefaciens bằng xung điện
Sau khi chọn được dòng plasmid tái tổ hợp, plasmid được biến nạp vào
vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens K599 (khuẩn để kiểm tra cấu trúc chuyển
gen bằng cách tạo rễ tơ trong thời gian ngắn 2 tuần) và AGL1 (dòng khuẩn để
biến nạp vào cây chuyển gen mong muốn) bằng phương pháp xung điện
(Sambrook và cộng sự, 1989). Sau khi xung điện xong, các dịch khuẩn được
trải trên môi trường có kháng sinh chọn lọc streptomycin 100 mg/l và
kanamycine 50 mg/l (với chủng K599) và môi trường có kháng sinh chọn lọc
31
kanamycine 50mg/l, rifamycine 50 mg/l và carbenicilin 50mg/l (với chủng
AGL1). Đĩa được ủ ở 28oC, ở điều kiện tối trong 2 ngày. Các chủng vi khuẩn
tái tổ hợp được lưu giữ ở điều kiện -84oC để phục vụ cho các thí nghiệm chuyển
gen sau này.
2.3.2.9. Chọn dòng A.tumefacines tái tổ hợp
Để chọn A.tumefacines tái tổ hợp, chúng tôi chọn 3 khuẩn lạc riêng rẽ
từ mỗi chủng, sau đó nuôi lỏng thu sinh khối và tách plasmid. Các plasmid này
được sử dụng làm khuôn cho phương pháp PCR. Thành phần của phản ứng
được trình bày ở bảng sau.
Bảng 2.8. Thành phần phản ứng PCR
STT Thành phần Thể tích (l)
1 Nước deion, khử trùng 10.5
2 PCR Master mix 2X 12,5
3 Primer forward (10 pmol) 0,5
4 Primer reverse (10 pmol) 0,5
5 Plasmid (20 ng/ul) 1
Tổng thể tích 25
Chu kỳ nhiệt của phản ứng colony- PCR như sau: 94°C: 3min; (94°C:
30s; 58°C: 30s; 72°C: 60s) lặp lại 25 chu kỳ; 72°C: 5min; 4°C: ∞.
Sản phẩm PCR được điện di kiểm tra trên gel agarose 1% để chọn ra các
32
dòng A.tumefacines mang gen có kích thước như mong muốn.
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Nghiên cứu lý thuyết về đặc điểm trình tự gen và protein CoOMT
Hiện nay, sự hiện diện và chức năng của các protein tham gia con đường
sinh tổng hợp rotundin nói riêng, palmatine nói chung vẫn đang được các nhà
khoa học quan tâm, khám phá. Takashi và cs (2002) lần đầu tiên đã xác định
được trình tự cDNA của gen CoOMT ở loài Coptis japonica và chứng minh được
vai trò chuyển hóa cơ chất columbamine thành palmatine. Đồng thời, các tác giả
đề xuất chức năng chuyển hóa cơ chất tetrahydro columbamine thành
tetrahydropalmatine (rotundin) dựa trên những kết quả thí nghiệm thu được [77].
Do vậy, định hướng nghiên cứu của chúng tôi là xác định vai trò, chức năng của
gen CoOMT trong con đường tổng hợp rotundin ở cây Bình vôi.
Từ trình tự cDNA thu được, Takashi và cs xác định được gen CoOMT có
sự tương đồng với gen 6OMT, 4’OMT và các gen OMT khác ở thực vật, mức độ
tương đồng cao hơn gen SMT (hình 1.3) [77].
Khi so sánh trình tự amino acid suy diễn của các enzyme OMT trong con
đường tổng hợp palmatine, cấu trúc phân tử enzyme có 3 motif (A, B, C) bảo
thủ (hình 3.1), có sự tương đồng với protein flavonoid 7OMT và caffeiic acid
OMT (lúa mạch), 6a-hydroxymaackia 3’OMT (đậu xanh), isoflavone 7OMT
(cỏ linh lăng, alfalfa), 4OMT và 6 OMT (Coptis), SMT (Coptis), caffeiic acid
OMT (alfalfa), caffeiic acid OMT (Arabidopsis), O-diphenol OMT và caffeoyl
CoA 3OMT (Tobacco), myo-inositol OMT (ice plant). Sự đa dạng về trình tự
này ở vị trí liên kết cơ chất, dự kiến nằm ở đầu N của Coptis OMTs [75]. Từ
trình tự amino acid suy diễn của các enzyme CoOMT, chúng tôi sử dụng phần
mềm Tin sinh học Phyre2 để mô hình hóa cấu trúc không gian 3D của phân tử
33
(hình 3.2, 3.3).
Hình 3.1. So sánh trình tự amino acid suy diễn của các enzyme OMT trong con
đường tổng hợp palmatine (CJEST64: trình tự amino acid suy diễn của CoOMT)
Hình 3.2. Mô hình cấu trúc không gian 3D của protein CoOMT
34
( : đoạn xoắn alpha; : Phiến gấp beta)
Hình 3.3. Cấu trúc thứ cấp của protein CoOMT
3.2. Kết quả tạo dòng tế bào vi khuẩn tái tổ hợp mang gen nhân tạo CoOMT
Phân tử cDNA tổng hợp nhân tạo của gen CoOMT được gắn vào vector
tách dòng. Trên môi trường nuôi dưỡng, chúng tôi chọn ra 15 dòng tế bào để
thực hiện phản ứng clony- PCR với cặp primer trên pUC19. Sản phẩm PCR được
điện di kiểm tra kích thước trên gel agarose 2% (90V/40 phút), sử dụng PSA
35
Loading buffer 6X. Kết quả được trình bày ở hình 3.4.
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 M
2000 bp 1000 bp 750 bp 500 bp 250 bp
Hình 3.4. Hình ảnh điện di sản phẩm colony- PCR nhân gen CoOMT
(M: PSA DNA Ladder. Giếng 1->15: sản phẩm PCR của 15 khuẩn lạc)
Chúng tôi tiếp tục chọn 4 dòng 1, 2, 3 và 15 để nuôi tăng sinh khối phục vụ
cho việc tách chiết, tinh sạch và giải trình tự plasmid tái tổ hợp thu được. Bộ kit
tinh sạch plasmid của Jena Biociense được sử dụng để tinh sạch 4 dòng nuôi lắc
ủ qua đêm (sau 16 giờ, 37oC).
Hai mồi trên vector được sử dụng để xác định trình tự như sau:
pUC19 Fwd.A: CAAGGCGATTAAGTTGGGTAAC
pUC19 Rv.A3: ATTTCACACAGGAAACAGCTATGA
Phân tích kết quả giải trình tự cDNA CoOMT cho thấy dòng 2 cho kết quả
đúng 100%, còn 3 dòng còn lại đều mang các đột biến điểm.
3.3. Kết quả thiết kế vector pBI121-1113 và tạo chủng Agrobacterium
tumefaciens tái tổ hợp mang gen CoOMT
Sau khi xử lý vector PUC-1113 và pBI121 với enzyme giới hạn XbaI và
SacI, chúng tôi thu được cấu trúc 35S-CoOMT-Cmyc-Kdel có kích thước khoảng
1113 bp và vector pBI121 đã được loại bỏ gen gus (hình 3.5).
Các sản phẩm này được gắn với nhau bằng enzyme T4 ligase, sau đó được
biến nạp vào trong E.coli để chọn dòng tế bào chủ chứa vector tái tổ hợp dựa trên
kiểu hình. Kết quả chọn các dòng plasmid pBI121-1113 bằng phản ứng colony-
36
PCR và cắt enzyme giới hạn XbaI và SacI được thể hiện ở hình 3.6.
14 758 bp
1113 bp
Hình 3.5. Kết quả điện di sản phẩm cắt xử lý vector pUC-1113 (A) và
vector pBI121 (B) với enzyme XbaI và SacI
14 758 bp
1113 bp
1113 bp
Hình 3.6. Kết quả chọn dòng plasmid tái tổ hợp pBI121-1113 trong E. coli
A. Kết quả điện di sản phẩm colony-PCR. M: marker 1kb (Thermo), NC:
đối chứng âm (H2O), 1-5: dòng khuẩn lạc từ 1-5
B. Kết quả cắt enzyme giới hạn plasmid tái tổ hợp. 1: Đối chứng pBI121; 3:
plasmid pBI121-1113 dòng số 3.
Cấu trúc vector đã thiết kế đầy đủ các thành phần cần thiết như 35S-CoOMT-
Cmyc-Kdel được biến nạp vào vi khuẩn A. tumefaciens bằng kĩ thuật điện xung. Vi
khuẩn A.tumefaciens sau khi biến nạp được nuôi cấy trên môi trường LB đặc bổ
sung kháng sinh chọn lọc kanamycin. Chúng tôi lựa chọn những khuẩn lạc tốt, phát
triển đồng đều chuyển sang môi trường LB lỏng bổ sung kháng sinh kanamycin để
37
nuôi cấy thu sinh khối, tách plasmid. Kết quả kiểm tra sự có mặt của gen CoOMT
trên plasmid ở 2 dòng vi khuẩn được chọn bằng phản ứng colony- PCR cho thấy
đều dương tính, nghĩa là mang gen đích CoOMT. Các dòng vi khuẩn A. tumefaciens
có plasmid tái tổ hợp chứa gen CoOMT được lưu giữ chủng để sử dụng cho việc
biến nạp vào cây Bình vôi và cây thuốc lá.
Chúng tôi đã chọn được dòng khuẩn số 2 mang plasmid tái tổ hợp với
đúng kích thước tính toán lý thuyết. Plasmid tái tổ hợp này được tinh sạch và
biến nạp vào 2 chủng A.tumefacines khác nhau: K599 (phục vụ cho đánh giá
nhanh sự hoạt động của cấu trúc vector chuyển gen nhờ vào sự hình thành rễ tơ
sau quá trình chuyển gen trong khoảng 2 tuần) và chủng AGL1 (biến nạp tạo cây
1113 bp
1113 bp
chuyển gen).
Hình 3.7. Kết quả chọn dòng plasmid tái tổ hợp pBI121-1113 trong
A.tumefaciens
A. Kết quả điện di sản phẩm PCR từ plasmid tái tổ hợp trong chủng
A.tumefaciens K599. M: marker 1kb (Thermo), NC: đối chứng âm
(H2O), 1-2: plasmid số 1,2
B. Kết quả điện di sản phẩm PCR từ plasmid tái tổ hợp chủng
38
A.tumefaciens AGL1. 1,2: plasmid dòng số 1,2
Kết quả chọn các dòng A.tumefaciens tái tổ hợp được thể hiện ở hình 3.7
cho thấy các dòng plasmid tái tổ hợp số 1 và 2 trong A.tumefaciens K599 và
AGL1 đều cho kết quả dương tính trong phản ứng PCR. Như vậy, chúng tôi đã
thiết kế và tạo thành công hai chủng vi khuẩn A.tumefaciens tái tổ hợp là K599
và AGL1 mang vector pBI121-1113 chứa gen chuyển CoOMT (hình 3.7) phục
vụ cho biểu hiện gen và đánh giá chức năng của gen này ở cây mô hình và cây
39
Bình vôi chuyển gen.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
- Từ trình tự cDNA của gen nhân tạo CoOMT dài 1113 bp có sự tương đồng
với gen 6OMT, 4’OMT và các gen OMT khác ở thực vật. Protein suy diễn
có 3 motif (A, B, C) bảo thủ giống với các protein họ OMT. Sự đa dạng
về trình tự protein ở vị trí liên kết cơ chất, dự kiến nằm ở đầu N-terminal
của Coptis OMTs.
- Tạo được thành công 01 dòng tế bào chủ mang gen CoOMT nhân tạo có
trình tự nucleotid cho kết quả đúng 100%, 03 dòng còn lại đều mang các
đột biến điểm.
- Thiết kế và tạo thành công chủng vi khuẩn A.tumefacines K599 và AGL1
mang vector pBI121-1113 chứa gen chuyển CoOMT, phục vụ cho biểu
hiện gen ở cây mô hình và cây Bình vôi.
2. Kiến nghị
Biểu hiện gen CoOMT ở cây mô hình và cây Bình vôi để đánh giá vai trò
40
của gen chuyển trong quá trình sinh tổng hợp rotundin.
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CÔNG BỐ
1. Tangmany SYSOMEPHONE, Ngô Diễm Quỳnh, PHANTHAHAK
Santhana, Nongkhan MANISOK, Phạm Thị Thanh Nhàn (2020), Nghiên
cứu công thức khử trùng mẫu và môi trường nuôi cấy in vitro cây bình vôi
vàng (stephania spp.), TNU Journal of Science and Technology 225(08):
239 – 244.
2. Pham Thi Thanh Nhan, Thongkham LAPHASY, Tangmany
SYSOMEPHONE (2020), Sterilization of sterilizing plant materials and
effect of cytokinin on shoot formation of Orthosiphon aristatus plantlets,
41
CASEAN – 6.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
[1]. Bùi Văn Thắng, Đỗ Xuân Đồng, Lê Văn Sơn, Chu Hoàng Hà (2013),
“Quy trình chuyển gen vào cây xoan ta (Melia azedazach L.) đạt hiệu suất
cao”, Tạp chí Sinh học, 35(2), tr. 227 - 233.
[2]. Dược điển Việt Nam V tập 2 (2007), NXB Y học. Hà nội – 2017. Tr. 1084.
[3]. Dược điển Việt Nam IV, NXB Y học, Hà nội – 2009. Tr. 697.
[4]. Dương Hữu Lợi (1996), “Nghiên cứu hoạt chất từ củ Bình vôi’, Tạp chí
y học Việt Nam, số 1, trang 14 – 23.
[5]. Đỗ Xuân Đồng, Chu Hoàng Hà, Lê Trần Bình (2007), “Nghiên cứu quy
trình tái sinh và hệ thống chuyển gen cà chua của Việt Nam”, Tạp chí
Công nghệ Sinh học, 5(2), tr. 217- 223.
[6]. Đỗ Tất lợi (2004), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb Y Học, Hà nội.
[7]. Đỗ Xuân Đồng, Chu Hoàng Hà, Lê Trần Bình (2007), “Nghiên cứu quy
trình tái sinh và hệ thống chuyển gen cà chua của Việt Nam”, Tạp chí
Công nghệ Sinh học, 5(2), tr. 217- 223.
[8]. Lã Đình Mỡi, Trần Minh Hợi, Dương Đức Huyến, Trần Huy Thái, Ninh
Khắc Bản (2005), Tài nguyên thực vật Việt Nam những cây chứa các hợp
chất có hoạt tinh sinh học, Tập I, NXB nông nghiệp, Hà Nội, tr. 58-82.
[9]. Lê Trần Bình, Cao Huyền Trang (2005) Nghiên cứu và phát triển vaccine
ăn được trong thực vật. Tạp chí công nghệ sinh học 3: 133-142.
[10]. Ngô Quang Đại (1999), Sản xuất thuốc giảm đau từ củ Bình vôi, Tạp chí
công nghiệp hóa chất, số 2-1999.
[11]. Nguyễn Quốc Huy (2010), Nghiên cứu về thực vật, thành phần hóa học,
một số tác dụng sinh học của một số loài thuộc chi Stephania Lour. ở Việt
Nam, Luận án tiến sĩ dược học, Trường đại học Dược Hà nội.
[12]. Nguyễn Tiến Bân (2007), Sách đỏ Việt Nam- phần thực vật, NXB khoa
42
học tự nhiên và công nghệ, tr285.
[13]. Nguyễn Tiến Vân (1997), Cẩm nang tra cứu và nhận biết các họ thực vật
hạt kín ở Việt Nam, NXB Nông Nghiệp Hà Nội
[14]. Nguễn Tiến Vững, Phạm Thanh Kỳ, Bùi Kim Liên, Chu Đình Kính, Trịnh
Văn Bảo (1998), Tác dụng của L-tetrahydropalmatin chiết suất từ củ loài
bình vôi Stephania glaba (Roxb) Miers lên điện tim và điện não thỏ, Tạp
chí dược học, 269, tr. 21-23.
[15]. Nguyễn Quang Thạch (chủ biên), Nguyễn Thị Lý Anh, Nguyễn Thị
Phương Thảo (2005), Giáo trình công nghệ sinh học nông nghiệp, Nxb
Nông Nghiệp - Hà Nội.
[16]. Nguyễn Minh Chính (2001), Nghiên cứu chiết tách Rotundin từ củ một số
loài Bình vôi (thuộc chi Stephania Lour.), điều chế Rotundin Sulfat để bào
chế thuốc tiêm, Luận án Tiến sĩ dược học, Hà nội
[17]. Phan Thanh Kỳ, Nguyễn Thị Tâm, Trần Văn Thanh (1997), Bài giảng
dược liệu, tập 2, Trường Đại học Dược Hà Nội
[18]. Phạm Duy Mai, Phan Đức Thuận (1986), Tác dụng Dược lý của Bình vôi,
Công trình NCKH Viện Dược liệu 1972 -1986, NXB Y học, Hà nội, 55-57
[19]. Nguyễn Minh Chính (2001), Nghiên cứu chiết tách rotundin từ củ một số
loài Bình vôi (thuộc chi Stephania Lour.), điều chế rotundin sulfat để bào
chế thuốc tiêm, NXB Đại học Cần Thơ, trang 3 - 4.
[20]. Nguyễn Thị Thanh Nga, Hồ Mạnh Tường, Phạm Thị Vân, Nguyễn Tường
Vân, Chu Hoàng Hà, Lê Trần Bình (2012), “Nghiên cứu quy trình chuyển
gen vào cây dưa hấu (Citrullus lanatus Thumb)”, Tạp chí Sinh học, 34(3),
tr. 389 - 396.
[21]. The Asia Foundation (2012), Cây thuốc người Dao Ba Vì, tr.32.
[22]. Trần Lê Lưu Li, Nguyễn Hữu Hoàng, Bùi Lan Anh (2008), “Thử nghiệm
chuyển gen trên lan hồ điệp (Phalaenopsis amabilis) bằng phương pháp
bắn gen và Agrobacterium tumefaciens”, Tạp chí phát triển KH&CN- ĐH
43
Quốc gia TP.HCM, 11(10), tr. 109 - 113.
[23]. Võ Thị Thúy Huệ, Mã Yến Thanh (2011), “Thiết lập quy trình tái sinh in
vitro và đánh giá bước đầu chuyển nạp gen vào cây dầu mè (Jatropha
curcas L.) thông qua Agrobacterium tumefaciens”, Tạp chí KHKT Nông
Lâm Nghiệp, số 1, tr. 6 - 10.
[24]. Vũ Đức Thắng (2014), Điều tra, thu nhập mẫu củ bình vôi ở một số tỉnh
Việt Nam và xây dựng phương pháp định lượng Rotundin bằng sắc ký lớp
mỏng kết hợp đo mật độ quang (TLC-Scanning), luận văn thạc sĩ sinh học,
Hà Nội.
[25]. Vương Đình Tuấn, Nguyễn Xuân Cường, Phan Thị Mỵ Lan (2012),
“Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến chuyển gen gus vào phôi trưởng
thành 6 gia đình Thông nhựa bằng vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens”,
Kết quả nghiên cứu Khoa học công nghệ lâm nghiệp giai đoạn 2006-2010,
NXB Nông nghiệp, tr. 60 - 66.
Tiếng Anh
[26]. Angerhofer, C.K., Guinaudeau, H., Wongpanich, V., Pezzuto, J.M.,
Cordell, G.A., 1999. Antiplasmodial and cytotoxic activity of natural
bisbenzylisoquinoline alkaloids. Journal of Natural Products 62, 59–66.
[27]. Aogi K., Nishiyama M. (1997), Overcoming CPT-11 resistance by using
abiscoclaurine alkaloid, cepharanthine, to modulate plasma trans-
membrane potential, Int-J-Cancer, vol. 72, pp. 295-300.
[28]. Bako L, Umeda M, Tiburcio AF, Schell J, Koncz C (2003) The VirD2
pilot protein of Agrobacterium-transferred DNA interacts with the TATA
box - binding protein and a nuclear protein kinase in plants. Proceedings
of the National Academy of Sciences of the United States of America
100: 10108-10113.
[29]. Bun Sok-Siya, Michele Laget, Aun Chea, Hot Bun, Evelyne Ollivier and
44
Riad Elias (2009), Cytotoxic activity of alkaloids isolated from Stephania
rotunda in vitro cytotoxic activity of cepharanthine, Phytother. Res., 23, pp.587-590.
[30]. Camacho, M.R., Kirby, G.C., Warhurst, D.C., Croft, S.L., Phillipson, J.D.,
2000. Oxoaporphine alkaloids and quinines from Stephania dinklagei and evalution of their antiprotozoal activity. Planta Medica 66, 478–480.
[31]. Chen Y. J., Tu M.L. (1997), Protective effect of tetrandrine on normal
human mononuclear cells against ionizing irradiation, Biol-PharmBull, 20, pp. 1160-1164.
[32]. Cardarelli M., Mariotti D., Pomponi M., Spano L., Capone I., Costantino
P. (1987), “Agrobacterium rhizogenes T-DNA genes capable of inducing
hairy root phenotype”, Mol Gen Genet, 209: 475- 480.
[33]. Choi K.B., Morishige T. and Sato F. (2001), “Purification and
characterization of coclaurine N-methyltransferase from cultured Coptis
japonica cells”, Phytochemistry, 56: 649–655.
[34]. Choi K.B., Morishige T., Shitan N., Yazaki K. and Sato F. (2002),
“Molecular cloning and characterization of coclaurine N-methyltransferase
from cultured cells of Coptis japonica”, J. Biol. Chem., 277: 830–835.
[35]. Chu, H., Jin, G., Friedman, E. et al (2008), Recent Development in
Studies of Tetrahydroprotoberberines: Mechanism in Antinociception
and Drug Addiction. Cell Mol Neurobiol 28, 491–499.
[36]. Croteau R., Kutchan T.M. and Lewis N. (2000), Biochemistry and Molecular
Biology of Plants, Buchanan, B., Gruissem, W. & Jones, R., eds, American
Society of Plant Physiologists, Rockville, Maryland, pp. 1250–1318.
[37]. Cunha, N.B., A.M.Murad, T.M. Cipriano, A.C.G. Araújo, F.J.L. Aragão,
A.Leite, G.R.Vianna, T.R.McPhee, G.H.M.F.Souza, M.J. Waters (2011),
“Expression of functional recombinant human growth hormone in
45
transgenic soybean seeds”, Transgenic res, 20: 811-826.
[38]. Diof M. F., Hehn A., Ptak A., Chrétien F., Doerper S., Gontier E.,
Bourgaud F., Henry M., Chapleur Y., Laurain-Mattar D. (2006), “Hairy
root and tissue cultures of Leucojum aestivum L. - Relationships to
galanthamine content”, Phytochem.Rev., 6 (2006): 137-141.
[39]. Ding ZS, Zhao M, Jing YX, Li LB and Kuang TY (2006) Efficient
agrobacterium mediated transformation of rice by phosphomannose
isomerase mannose selection. Plant Molecular Biology Reporter 24: 295-303.
[40]. Das, B., Pal, P., Tandon, V., Lyndem, L.M., Kar, P.K., Rao, H.S.P., 2004.
Anthelmintic efficacy of extract of Stephania glabra and aerial root
extract of Trichosanthes multiloba in vitro: two indigenous plants in Shillong, India. Journal of Parasitic Diseases 28, 37–44.
[41]. Ellenbroek, B.A., Zhang, X.X., Jin, G.Z., 2006. Effects of (−)stepholidine
in animal models for schizophrenia. Acta Pharmacologica Sinica 27, 1111–1118.
[42]. Furusawa Shinobu, Wu Jianghong (2007), The effects of biscoclaurine
alkaloid cepharanthine on mammalian cells: Implications for cancer,
shock, and inflammatory diseases, Life Sciences, Volume 80, pp. 1073– 1079.
[43]. Frenzel T. and Zenk M.H. (1990), “Purification and characterization of three
isoforms of S-adenosyl-L-methionine: (R,S)-tetrahydrobenzylisoquinoline-
N-methyltransferase from Berberis koetineana cell cultures”,
Phytochemistry, 29: 3491–3497.
[44]. Gelvin SB (2003) Agrobacterium and plant transformation: the biology
behind the “gene - jockeying” tool. Microbiology and Molecular
Biology 67: 16-37.
[45]. Gulcin, I., Elias, R., Gepdiremen, A., Chea, A., Topal, F., 2010.
46
Antioxidant activity of bisbenzylisoquinoline alkaloids from Stephania
rotunda: cepharanthine and fangchinoline. Journal of Enzyme Inhibition
and Medicinal Chemistry 25, 44–53.
[46]. Hall, A.M., Chang, C.J., 1997. Multidrug resistance modulators from
tephania japonica. Journal of Natural Products 60, 1193–1195.
[47]. Ho, L.J., Chang, D.M., Lee, T.C., Chang, M.L., Lai, J.H., 1999. Plant
alkaloid tetrandrine down reg ulates protein kinase C-dependent
signaling pathway in T cells. European Journal of Pharmacology 367,
389–398.
[48]. Hullatti, K.K., Sharada, M.S., 2007. Antimicrobial activity of Cissampelos
pareira. Cyclea peltata and Stephania japonica methanolic root extracts.
Advances in Pharmacology and Toxicology 8, 105–108.
[49]. Hara M., Yazaki K., Tanaka S. and Tabata M. (1995), “S-adenosyl-L-
methionine: norcoclaurine 6-O-methyltransferase from Thalictrum minus
cell cultures”, Phytochemistry, 38: 1131–1135.
[50]. Hotta T., Tanimura H. (1997), “Modulation of multidrug resistance by
cepharanthin in fresh human gastrointestinal tumor cells”, Oncology, 54,
pp. 153-157.
[51]. Liu, X.J., Wang, Y.F., Zhang, M.Y., 2004. Study on the inhibitory effect
of cepharanthine on herpes simplex type 1 virus (HSV-1) in vitro. Journal of Chinese Medicinal Materials (Chin) 27, 107–110.
[52]. Lodhi A., Charlwood B. (1996), “Agrobacterium rhizogenes-mediated
transformation of Rubia peregrina L: invitro accumulation of
anthraquinones”, Plant Cell, Tissue and Organ Culture, 46:103- 108.
[53]. Muregi, F.W., Chhabra, S.C., Njagi, E.N.M., Lang at-Thoruwa, C.C.,
Njue, W.M., Orago, A.S.S., 2004. Anti-plasmodial activity of some
47
Kenyan medicinal plant extracts singly and in combination with chloroquine. Phytotherapy Research 18, 379–384.
[54]. Magnotta M., Murata J., Chen J., De Luca V. (2007), “Expression of
deacetylvindoline-4-O-acetyltransferase in Catharanthus roseus hairy
roots”, Phytochemistry 68: 1922- 1931.
[55]. Manske R.H.F. (1973), The alkaloid- chemistry and Physiology, volume
XIV, Academic Press- New York- London.
[56]. Mantsch JR, Li SJ, Risinger R, Awad S, Katz E, Baker DA, Yang Z
(2007), “Levo-tetrahydropalmatine attenuates cocaine selfadministration
and cocaine-induced reinstatement in rats”, Psychopharmacology (Berl),
192, pp. 581-591.
[57]. Morishige T., Tsujita T., Yamada Y. and Sato F. (2000), “Molecular
characterization of the S-adenosyl-L-methionine: 3’-hydroxyroxy-N-
methylcoclaurine 4’-O-methyltransferase involved in isoquinoline alkaloid
biosynthesis in Coptis japonica”, J. Biol. Chem., 275: 23398–23405.
[58]. Muemmler S., Rueffer M. and Zenk M.H. (1985), “S-adenosylL-
methionine: (S)-scoulerine 9-O-methyltransferase, a highly stereo- and
regio-specific enzyme in tetrahydroprotoberberine biosynthesis”, Plant
Cell Reports, 4: 36–39.
[59]. Muller M.J. and Zenk M.H. (1992), “The norcoclaurine pathway is
operative inberberine biosynthesis in Coptis japonica”, Planta Med., 58:
524–527.
[60]. Matthews P.R., Wang M.B., Waterhouse P.M., Thornton S., Fieg S.J.,
Gubler F., Jacobsen J.V. (2001), “Marker gene elimination from transgenic
barley, using co-transformation with adjacent ‘twin T-DNAs’ on stDNAard
Agrobacterium transformation vector”, Mol Breed, 7: pp. 195 - 202.
[61]. Nawawi, A., Nakamura, N., Meselhy, M.R., Hattori, M., Kurokawa, M.,
Shiraki, K., Kashiwaba, N., Ono, M., 2001. In vivo antiviral activity of
48
Stephania cepharantha against herpes simplex virus type-1. Phytotherapy Research 15, 497–500.
[62]. Okamoto M., Ono M. (2001), Suppression of cytokine production and neural
cell death by the anti-inflammatory alkaloid cepharanthine: a potential
agent against HIV-1 encephalopathy, Biochem Pharmacol, 747-753.
[63]. Pang, L., Hoult, J.R., 1997. Cytotoxicity to macrophages of tetrandrine,
an antisili cosis alkaloid, accompanied by an overproduction of
prostaglandins. Biochemical Pharmacology 53, 773–782.
[64]. Pan Q., Wang Q., Yuan F., Xing S., Zhao J., Choi Y.H., Verpoorte R.,
Tian Y., Wang G. and Tang K. (2012), “Overexpression of ORCA3 and
G10H in Catharanthus roseus plants regulated alkaloid biosynthesis and
metabolism revealed by NMR-Metabolomics”, PLoS One 7: e43038.
[65]. Pham N.B. 2009, Production and secretion of recombinant sweet- tasting
thaumatin from suspension cells and hairy roots of Nicotiana tabacum,
phD Thesis, University of Heidelberg.2.
[66]. Poulton J.E. (1981), The Biochemistry of Plants, Conn, E.E., ed., Vol. 7,
Academic Press, New York, pp. 667–723.
[67]. Qian, J.Q., 2002. Cardiovascular pharmacological effects of
bisbenzylisoquinoline alkaloid derivatives. Acta Pharmacologica Sinica
23, 1086–1092.
[68]. Rueffer M., Nagakura N. and Zenk M.H. (1983), “Partial purification
and properties of S-adenosylmethionine:(R), (S)-norlaudanosolin-6-
O-methyltransferase from Argemone platyceras cell cultures”, Planta
Med., 49: 131–137.
[69]. Sato F., Tsujita T., Katagiri Y., Yoshida S. And Yamada Y. (1994),
“Purification and characterization of S-adenosyl-L-methionine:
norcoclaurine 6-O-methyltransferase from cultured Coptis japonica
cells”, Eur. J. Biochem., 225: 125–131.
[70]. Simoens C., Alliotte T., Mendel R., Muller A., Schiemannm J. Van
49
Lijsebettens M., Schell J., van Montagu M., DNA inze D. (1986), “A binary
vector for transferring genomic libraries to plants”, Nucl. Acids Res, 14, pp.
8073 - 8090.
[71]. Semwal, D.K., Rawat, U., 2009a. Antimicrobial hasubanalactam alkaloid
from Stephania glabra. Planta Medica 75, 378–380.
[72]. Semwal, D.K., Rawat, U., 2009. Gindarudine, a novel morphine alkaloid
from Stephania glabra. Chinese Chemical Letters 20, 823– 826.
[73]. Semwal, D.K., Rawat, U., Bamola, A., Semwal, R., 2009. Antimicrobial
activity of Phoebe lanceolata and Stephania glabra; preliminary
screening studies. Journal of Scientific Research 1, 662– 666.
[74]. Sharma, U, Sahu, R.K., Roy, A., Golwala, D.K., 2010. In vivo antidiabetic
and antioxidant potential of Stephania hernandifolia in streptozotocin-
induced-diabetic rats. Journal of Young Pharmacists 2, 255–260.
[75]. Shaghai-Maroof M.A., Soliman K.M., Jorgensen R.A., Allard R.W.
(1984), “Ribosomal DNA sepacerlength polymorphism in barley:
mendelian inheritance, chromosomal location, and population dynamics”,
Proc Natl Acad Sci, 81 (1984): 8014-8019.
[76]. SunY., Moore M.J., Zhang S., Soltis P.S., Soltis D.E., Zhao T., Meng A.,
Li X., Li J. and Wang H. (2016), “Stephania japonica chloroplast, complete
genome”, https://www.ncbi.nlm.nih.gov/nuccore/NC_029432.1.
[77]. Takashi Morishige, Emilyn Dubouzet, Kum‐Boo Choi, Kazufumi Yazaki,
Fumihiko Sato (2002), “Molecular cloning of columbamine O‐
methyltransferase from cultured Coptis japonica cells”, Eur J Biochem.,
269(22):5659-67.
[78]. Takeshita N., Fujiwara H., Mimura H., Fitchen J.H., Yamada Y. and Sato
F. (1995), “Molecular cloning and characterization of S-adenosyl-L-
methionine: scoulerine-9-O-methyltransferase from cultured cells of
50
Coptis japonica”, Plant Cell Physiol., 36: 29–36.
[79]. Takemura, H., Imoto, K., Ohshika, H., Kwan, C.Y., 1996. Tetrandrine as
a calcium antagonist. Clinical and Experimental Pharmacology and
Physiology 23, 751–753.
[80]. Vanhala L., Hiltunen R., Oksman-Caldentey K. M. (1995), “Virulence of
different Agrobacterium strains on hairy root formation of Hyoscyamus
muticus”, Plan Cell Rep., 14 (1995): 236-240.
[81]. Wang Q., Xing S., Pan Q., Yuan F., Zhao J., Tian Y., Chen Y., Wang G.,
Tang K. (2012), “Development of efficient Catharanthus roseus
regeneration and transformation system using Agrobacterium tumefaciens
and hypocotyls as explants”, BMC Biotechnol 12:34.
[82]. Wang C.T., Liu H., Gao X.S., Zhang H.X. (2010), “Overexpression of
G10H and ORCA3 in the hairy roots of Catharanthus roseus improves
catharanthine production”, Plant Cell Rep 29: 887-894.
[83]. Wat C.K., Steffens P. and Zenk M.H. (1986), “Partial purification and
characterization of S-adenosyl-L-methionine: norreticuline N-
methyltransferases from Berberis cell suspension cultures”, Z.
Naturforsch., 41c: 126–134.
[84]. Weising K., Kahl G. (1996), “Natural genetic engineering of plant cells:
the molecular biology of crown gall and hairy root disease”, World J.
Microbiol. Biotechnol., 12: 327- 351.
[85]. Xue, Y., Wang, Y., Feng, D.C., Xiao, B.G., Xu, L.Y., 2008. Tetrandrine
suppresses lipopolysaccharide induced microglial activation by inhibiting
NF-kappaB pathway. Acta Pharmacologica Sinica 29, 245–251
[86]. Yang, D.L., Mei, W.L., Dai, H.F., 2010a. Cytotoxic alkaloids from the
tuber of Stephania succifera. Chinese Journal of Medicinal Chemistry 20,
51
206–210.
[87]. Yang, D.L., Mei, W.L., Wang, H., Dai, H.F., 2010b. Antimicrobial
alkaloids from the tubers of Stephania succifera. Zeitschrift für
Naturforschung B 65, 757–761.
[88]. Zhang, H., Yue, J.M., 2005. Hasubanan type alkaloids from Stephania
longa. Journal of Natural Products 68, 1201–1207
[89]. Zhao, Y.Z., Kim, J.Y., Park, E.J., Lee, S.H.,Woo,S.W., Ko, G., Sohn,
D.H., 2004. Tetrandrine induces apoptosis in hepatic stellate cells.
Phytotherapy Research 18, 306–309.
[90]. Zhu X. Z, (1991), Development of Natural products as drugs acting on
central nervous system, Mem. Inst. Oswaldo. Cruz, 86, pp. 173-175.
Tài liệu website
[91]. http://123doc.org/document/254782-nghien-cuu-cay-binh-voi-va-cac-
hop-chat-alkaloid-trong-cay.htm
[92]. http://duocphamtw3.com/pr70-rotundin.html
[93]. https://baomuctim.com/rotunda-30mg
[94]. http://duoclieu.net/Binh%20voi.html
[95]. www.vinachem.com.vn/xuat-ban-pham/239-so-vnc/c3239.html
[96]. https://suckhoedoisong.vn/nhung-chien-cong-cua-mot-duoc-si-binh-di-
52
n32313.html