1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ CHANH TRUYỀN THUYẾT GẮN VỚI
TÍN NGƯỠNG THỜ CÁ ÔNG
VÙNG DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG
VÀ MIỀN NAM VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ CHANH
TRUYỀN THUYẾT GẮN VỚI TÍN NGƯỠNG
THỜ CÁ ÔNG VÙNG DUYÊN HẢI
MIỀN TRUNG VÀ MIỀN NAM VIỆT NAM
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ QUỐC HÙNG
Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
3
Lời cảm ơn
Luận văn này trước hết xin được là nén nhang thành kính, con dâng đến vị
thần cá Ông đã chở che cuộc sống ngư dân và cho con một linh hồn để hoàn thành
được luận văn này.
Để có được bước đi của ngày hôm nay, con xin gửi lòng biết ơn sâu sắc tới
gia đình – những người thân yêu đã bảo trợ cho con trên con đường học tập.
Tôi xin cảm ơn với lòng biết ơn và trân trọng đến TS. Hồ Quốc Hùng, người
Thầy không chỉ giúp đỡ tận tình để tôi có thể hoàn thành luận văn, mà còn là người
đã định hướng cho tôi rất nhiều về con đường học tập nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn quý thầy cô trường Đại học Sư Phạm đã trực tiếp giảng dạy
lớp Văn Học Việt Nam khóa 21 và cho tôi tri thức, phương pháp cần thiết để tôi
hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin cảm ơn quý cô bác tại các lăng vạn tỉnh Bình Thuận, Vũng Tàu, Bến
Tre, Thái Bình đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập tài liệu viết bài.
Tôi xin cảm ơn Quý thầy cô trong hội đồng đã dành thời gian đọc bài luận
và sẽ cho tôi những đóng góp quý báu, để không chỉ hoàn thiện bài viết mà còn là
những kinh nghiệm cho tôi trên con đường học tập.
Tôi xin cảm ơn những người bạn đã bên tôi trong suốt những năm qua, đồng
hành, động viên tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 09 năm 2012
Học viên
Nguyễn Thị Chanh
4
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ Văn học “Truyền thuyết gắn với tín
ngưỡng thờ cá Ông vùng duyên hải miền Trung và miền Nam Việt Nam” là
công trình nghiên cứu của tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS.
Hồ Quốc Hùng. Những kết quả nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa
được công bố trong công trình nào khác.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 09 năm 2012
Học viên
Nguyễn Thị Chanh
5
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 7
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................................... 7
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................................. 8
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 12
4. Đóng góp của đề tài .................................................................................................... 12
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................ 12
6. Bố cục luận văn .......................................................................................................... 13
B. PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................... 14
Chương 1 - TỤC THỜ CÁ ÔNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VIỆT NAM ........ 14
1.1. Đôi nét về mỹ tự “cá Ông” ...................................................................................... 14
1.2. Khái quát tín ngưỡng thờ linh thần ......................................................................... 15
1.2.1. Tục thờ cá Ông trong tín ngưỡng thờ loài vật của nhân dân ............................ 16
1.2.2. Tục thờ cá Ông trong hệ thống các vị thần linh biển ....................................... 20
1.3. Vai trò thực tiễn và tính thiêng của cá Ông trong tâm thức người Việt ................. 23
1.4. Tục thờ cá Ông trong thực tiễn Việt Nam và các nước .......................................... 29
Chương 2 - HỆ THỐNG TRUYỀN THUYẾT CÁ ÔNG .............................................. 32
2.1. Truyền thuyết cá Ông qua các tư liệu sưu tầm và điền dã ...................................... 32
2.1.1. Truyền thuyết của người Chăm ........................................................................ 32
2.1.2. Truyền thuyết của người Việt ........................................................................... 36
2.1.2.1. Các truyền thuyết và cổ tích về cá Ông .................................................... 36
2.1.2.2. Truyền thuyết lịch sử hóa cá Ông thời kì bôn tẩu của vua Gia Long ....... 39 2.1.2.3. Một số truyện cá Ông cứu người gần đây ................................................. 42
2.2. Đặc điểm chung truyền thuyết cá Ông .................................................................... 45
Chương 3 - CỐT TRUYỆN, MOTIP TRUYỀN THUYẾT CÁ ÔNG ......................... 48
3.1. Đối tượng thần biển của hai dân tộc từ các tư liệu truyền thuyết ........................... 48
3.2. Cấu tạo cốt truyện của truyền thuyết cá Ông .......................................................... 58
3.3. Các motip tiêu biểu ................................................................................................. 66
3.3.1. Motip xuất thân thần kì và motip phạt – thưởng .............................................. 66
3.3.2. Motip cái chết thần kì ....................................................................................... 68
3.3.3. Motip cá cứu nạn .............................................................................................. 71
Chương 4 - MỐI QUAN HỆ GIỮA TRUYỀN THUYẾT VÀ TỤC THỜ CÁ ÔNG .. 76
6
4.1. Mối quan hệ trong sự tương tác giữa truyền thuyết với phần lễ và phần hội ......... 76
4.2. Mối quan hệ trong tâm thức kể và thờ cá Ông ........................................................ 83
TỔNG KẾT .................................................................................................................... 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 91
PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ CÁ ÔNG ........................................................... 96
7
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài Việt Nam là một quốc gia có bờ biển dài từ Bắc chí Nam đất nước. Với vị trí
địa lý thuận lợi ấy, đi biển và khai thác biển đã trở thành một ngành nghề truyền
thống của nhân dân. Tại nhiều nơi, những ngành nghề kinh tế gắn liền với biển như
đánh bắt cá, đóng tàu, du lịch… đã trở thành nghề chủ lực của vùng. Từ quá trình
chung sống với biển qua hàng trăm năm ấy, biển đã tạo riêng cho cư dân sinh sống
dọc theo dải đất này một nét văn hóa đặc thù. Đó là văn hóa biển với những nét
riêng biệt so với văn hóa nông nghiệp lúa nước tại các vùng đồng bằng, trung du.
Trong tâm thức người Việt, biển hiền hòa nhưng cũng rất bao la và dữ dội. Biển đưa
lại nhiều nguồn lợi nhưng cũng chứa đựng nhiều hiểm nguy rình rập, đe dọa sinh
mạng và cuộc sống của cư dân làm nghề ra khơi vào lộng. Vì thế, để mong tránh
khỏi những tai ương, cư dân nơi đây luôn kiêng dè, cầu khấn để xin các bậc thần
linh phù trợ, cứu giúp những con người nhỏ bé thoát khỏi hoạn nạn. Tâm lý e dè
kéo dài từ xa xưa cho đến tận ngày nay đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa ứng xử
của người Việt và các dân tộc khác cùng chung sống ở vùng ven biển đất nước.
Nếu tại đồng bằng, trung du, các làng thường có những mái đình thờ thần Hoàng và
các lễ hội gắn liền với hoạt động nông nghiệp, thì ở ven biển có những lăng đền thờ
thần biển, và lễ hội làng biển cũng trở thành một sinh hoạt nổi trội nhất trong tất cả
những sinh hoạt văn hóa truyền thống nơi đây. Hơn thế nữa, hội làng biển còn
phong phú về mặt nội dung. Ngoài hội làng thờ thần Hoàng và các vị thần biển
khác, nơi đây còn diễn ra lễ hội dành riêng cho cá Ông – một lễ hội chỉ có cư dân
miền biển mới có.
Lễ hội nghinh Ông chứa đựng nhiều nét văn hóa đặc sắc, có nhiều ảnh
hưởng, chi phối đến đời sống tâm linh của người dân ven biển. Đứng trên góc độ
văn hóa, tín ngưỡng thờ cá Ông không chỉ có ý nghĩa to lớn trong cộng đồng ngư
dân mà còn có ý nghĩa bảo tồn nhiều giá trị văn hóa dân gian. Những ngày lễ hội
luôn gắn với sinh hoạt tín ngưỡng, nghệ thuật như tế lễ, rước Ông, hát lễ, hát hội,
đua tài… là các sinh hoạt dân gian mà ở nhiều nơi đã bị mất đi vai trò cùng vị trí
của nó trong đời sống. Tham gia vào sinh hoạt này, các thành viên trong cộng đồng
làng biển được dịp giao lưu, tiếp xúc với nhau, thắt chặt thêm tình đoàn kết tương
8
trợ sau những ngày lênh đênh trên biển cả. Không chỉ thế, tục thờ cá Ông còn có ý
nghĩa về mặt sử học và văn học. Nó đánh dấu một bước tiến, mở rộng phạm vi sinh
sống và làm nghề của nhân dân từ đồng bằng, trung du hướng ra biển khơi, đẩy
mạnh nghề đánh bắt và khai thác biển. Xoay quanh tục thờ cá Ông là những truyền
thuyết được nhân dân sáng tác, bồi đắp tính thiêng của cá Ông. Các truyền thuyết
này ít nhiều đã phản ánh tâm thức của người dân về vị thần biển uy linh của họ.
Đồng thời, nó cũng chứa đựng trong đó những giá trị nhân văn tiềm ẩn như một quy
luật chung mà các tác phẩm dân gian thường thấy.
Xét dưới góc độ văn học, truyền thuyết về cá Ông đã trở thành một bộ phận
vừa song hành, vừa gắn bó khăng khít với lễ hội cá Ông. Khảo sát truyền thuyết
trong mối quan hệ tương tác với lễ hội là một nhiệm vụ khoa học của văn học dân
gian. Vì vậy, chúng tôi tiến hành chọn đề tài này để nghiên cứu, hy vọng có thể góp
thêm tiếng nói vào việc bảo tồn và khẳng định giá trị tốt đẹp của tín ngưỡng thờ
cúng thần biển đặc trưng ở vùng biển Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiếp xúc với nhiều tư liệu, bài viết về
cá Ông. Song hầu hết các bài viết này chưa chạm đến vấn đề truyền thuyết cá Ông
dưới góc độ văn học, mà chỉ đứng từ góc độ văn hóa để bàn luận đến tín ngưỡng và
giá trị của tục thờ cá Ông đối với đời sống nhân dân. Vì vậy, chúng tôi hy vọng dựa
vào những tư liệu này để sàng lọc những thông tin cần thiết cho đề tài. Sau đây là
một số tư liệu nói về tín ngưỡng này:
Trong các thư tịch cổ: Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, Đại
Nam Nhất Thống Chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, Thối thực ký văn của Trương
Quốc Dụng và một số ghi chép ký sự của người Trung Quốc, như lời dẫn lại sách
Chính tự thông của Trí Nguyên, An Nam trí dự lục ký của Cao Hùng Trưng, những
tài liệu này ghi chép ngắn gọn về cá Ông ở đặc điểm hình dáng và nhấn mạnh đến
tính thiện cứu người. Song nó như một dữ liệu thông tin có tính chất văn hóa và lịch
sử liên quan đến tín ngưỡng thờ Ông chứ không đề cập gì đến những câu chuyện
mang tính dân gian về tính thiêng của Ông.
Khoảng vài chục năm trở lại đây, tục thờ cá Ông ngày càng được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm. Cùng đề tài về tín ngưỡng thờ cá Ông, rất nhiều các bài viết
đăng trên các tạp chí, đặc biệt là tạp chí Văn hóa dân gian và các trang web đã trình
9
bày và mô tả khá nhiều các lễ hội ở khắp các tỉnh ven biển miền Trung và miền
Nam với các đặc thái riêng của từng vùng.
Trong tạp chí Văn hóa dân gian (số 3/1999) có bài viết “Tục thờ cá Voi ở các
làng biển từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân” của tác giả Trần Hoàng. Đây là một bài
viết sơ lược về tín ngưỡng thờ cá Ông trong một phạm vi hẹp ở khu vực biển Bình
Trị Thiên. Trong bài viết, tác giả nhấn mạnh đến sự phong phú của tục thờ diễn ra ở
rất nhiều làng biển. Nhiều lăng Ông không chỉ ngư dân làm biển thờ mà còn sâu vào
tận trong đất liền vùng sông nước và làm ruộng cũng có. Đồng thời, tác giả cũng
đánh giá rằng “Lễ hội cầu ngư vừa nhằm vào việc tưởng nhớ công đức của người
xưa, vừa thể hiện lòng mong ước, sự cầu chúc cho một mùa làm ăn phát đạt… tạo
cho đời sống văn hóa - tinh thần của ngư dân vùng biển từ đèo Ngang đến đèo Hải
Vân một nét riêng, đậm đà bản sắc dân tộc và địa phương”.
Bài “Lễ hội cầu ngư ở Thuận An” (tạp chí Văn hóa dân gian, số 3/2000) của tác
giả Lê Văn Kỳ. Đây là bài viết khá chi tiết và đào sâu vào tục thờ cá Ông từ góc độ
văn hóa học. Tác giả đã đi thực tế để mô tả kĩ một lễ hội rất long trọng và thiêng
liêng đối với ngư dân vùng biển. Ở đây, chúng ta có thể thấy từng bước trong nghi
lễ thờ Ông từ việc chôn cất, thờ cúng Ông đến lễ cầu ngư đầu mùa, từ lễ tế Thai
Dương phu nhân đến lễ bủa lưới cầu ngư được nhân dân tham gia tổ chức chu đáo.
Qua đó, chúng ta có thể cảm nhận được không khí vừa trang nghiêm, vừa thành
kính lại vừa đậm đà bản sắc văn hóa vùng biển. Lễ hội nghinh Ông là một tục thờ
quan trọng của ngư dân bởi vì “Biển cả mênh mông, sức con người có hạn, phương
tiện làm ăn đương thời còn quá thô sơ nên những người “vào lộng”, “ra khơi” đều
phải cầu mong thần linh phù hộ cho mình tai qua nạn khỏi, mẻ lưới đầy thêm. Đấy
là một nguyên nhân ra đời của tín ngưỡng cầu ngư và lý do tồn tại của những lễ hội
phản ánh về nó…”.
Đáng chú ý hơn, cũng trên tạp chí Văn hóa dân gian (số 2/2003) có bài viết
“Giao lưu văn hóa Việt – Chăm nhìn từ tục thờ cá Ông” của tác giả Nguyễn Thanh
Lợi. Đây có thể xem là bài viết mở đầu cho cuộc tranh luận tục thờ cá Ông của
người Việt hiện nay có nguồn gốc từ đâu? Trong bài viết này, tác giả đã chỉ ra rất
nhiều dẫn chứng trên các mặt lịch sử, văn hóa, địa lý… và có rút ra khẳng định tục
thờ cá Ông ngày nay vốn xuất phát từ tục thờ của người Chăm. Trước đó hai tác giả
Lê Quang Nghiêm (Tục thờ cúng của ngư phủ Khánh Hoà, Trung tâm Văn bút
10
Việt Nam, 1970, tr. 35-36) và Thái Văn Kiểm (“Le culte de la baleine”, 1971, tr.
12) cũng có nói nhưng lúc đó chưa có nhiều người quan tâm nên vấn đề này không
được bàn sâu. Đồng ý với tác giả Thanh Lợi còn một số tác giả khác như Đinh Văn
Hạnh, Nguyễn Thăng Long… Nhưng vấn đề này đã có những ý kiến trái chiều.
Trên tạp chí Văn hóa dân gian (số 4/2007), tác giả Nguyễn Xuân Đức có một bài
viết tranh luận lại vấn đề trên qua bài “Từ đền thờ Đức Ông, Đức Bà ở Cảnh Dương
nghĩ về tục thờ cá Voi của người Việt” và phản bác ý kiến của ông Thanh Lợi. Tác
giả Xuân Đức phủ nhận và cho rằng tục thờ cá Ông đã vốn có trong tâm thức người
Việt, không phải đến khi thấy người Chăm thờ mới học theo… Sau đó, có những
bài viết với các ý kiến trái chiều bàn luận song hiện nay thì vẫn chưa có một sự
thống nhất cho vấn đề này.
Bài “Tục thờ cá Ông ở ven biển Nam Trung Bộ” (Tạp chí Văn hóa dân gian,
4/2006) của tác giả Nguyễn Thanh Lợi, khác với các bài viết trước chỉ nói về tục
thờ cá Ông trong một địa bàn hẹp, bài viết này là một khảo sát trên diện rộng của cả
khu vực Nam Trung Bộ. Trong bài viết, tác giả đã chuyên sâu vào nhiều vấn đề liên
quan đến tín ngưỡng như nguồn gốc tục thờ, đối tượng thờ, kiến trúc lăng Ông, đặc
điểm nghi lễ thờ cúng, các sinh hoạt văn hóa dân gian liên quan đến tục thờ… Theo
tác giả, tục thờ cá Ông trong đời sống người Việt hiện nay là một quá trình tiếp thu
tín ngưỡng thờ của dân tộc Chăm và đã được người Việt biến cải đi rất nhiều.
Nhưng dù thế nào thì đây cũng là một tín ngưỡng tốt đẹp, nó không chỉ bảo lưu
nhiều giá trị văn hóa truyền thống mà nó còn thể hiện nét đẹp ứng xử của nhân dân
trước biển khơi.
Tác giả Nguyễn Xuân Hương với bài viết “Lễ hội cầu Ngư của cư dân ven biển
Quảng Nam và Đà Nẵng” (tạp chí Văn hóa dân gian, số 5/2002) nhấn mạnh “Lễ hội
cầu ngư là lễ hội cầu mùa, mà đường dây tạo ra nó chính là niềm tin của ngư dân về
sự phù trợ của ngư thần, đó là cá Ông – cá Voi… Ngư dân vùng biển Quảng Nam –
Đà Nẵng quan niệm cá Ông không chỉ là một vị thần biển - ân nhân của người đi
biển, mà thiêng liêng hơn, đó là một vị thần liên quan đến sự hưng thịnh của vạn
làng – một thành hoàng của vạn làng”. Như thế, với mỗi vùng khác nhau, niềm tin
và quan niệm về sự phù trợ của cá Ông đối với đời sống con người cũng có những
sự khác biệt.
11
Trên trang web www.nuiansongtra.com (14/7/2011) của Lê Hồng Khánh, có bài
viết “Tục thờ cúng cá Ông và hát múa bả trạo của cư dân ven biển – hải đảo Quảng
Ngãi”. Đây là bài viết mà chúng tôi cho rằng có đề cập đến truyền thuyết liên quan
đến cá Ông. Tuy nhiên, số lượng về tư liệu không nhiều và cũng không nhằm mục
đích cho công việc nghiên cứu văn học dân gian, mà đó chỉ là phác họa cho vấn đề
văn hóa tục thờ cá Ông.
Và rất nhiều bài viết, phóng sự của các tác giả khác về tín ngưỡng thờ này được
đăng tải trên tạp chí, các trang web địa phương…
Sự góp mặt của cá Ông đã làm phong phú thêm rất nhiều cho đối tượng thần linh
biển của người Việt. Qua những bài viết trên, chúng tôi thấy rằng: hầu hết các bài
viết đều có cái nhìn dưới góc độ văn hóa học, dân tộc học, tập trung mô tả lại các
hình thức nghi lễ thờ cá Ông tại mỗi vùng, nhưng chưa có bài viết nào bàn luận về
các truyền thuyết được hình thành từ tục thờ này. Song nhìn chung dù không đề cập
đến những truyền thuyết như là đối tượng khảo sát, nhưng để rút ra những nhận
định của mình, các tác giả phải sử dụng đến tư liệu truyền thuyết. Và do vậy, một
cách gián tiếp ta vẫn thấy được từ truyền thuyết những niềm tin thiêng liêng vào vật
linh.
Với sự tham khảo các tài liệu cùng quá trình đi điền dã, chúng tôi xác định tín
ngưỡng thờ cá Ông là một tục thờ cúng thuộc vào hàng quan trọng bậc nhất của cư
dân ven biển. Nó không chỉ có ý nghĩa trong đời sống tâm linh của ngư dân, mà còn
có ý nghĩa quan trọng đối với truyền thống văn hóa chung của dân tộc trong chiều
dài lịch sử, đặc biệt hiện nay nó còn có ý nghĩa cả trên lĩnh vực phát triển kinh tế
đất nước. Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu của những người đi trước về
phương diện văn hóa, chúng tôi muốn đào sâu tìm hiểu về tín ngưỡng này nhưng
trên phương diện của văn học, thông qua các truyền thuyết về cá Ông lưu truyền
trong dân gian. Tựu chung lại, chúng tôi muốn tìm hiểu một số vấn đề sau:
- Tâm thức của nhân dân vào cá Ông từ góc độ văn bản truyền thuyết được thể hiện
ra sao?
- Nguồn gốc tục thờ cá Ông, có hay không sự tiếp biến tục thờ và các yếu tố trong
truyền thuyết giữa hai dân tộc Việt và Chăm?
- Quá trình diễn tiến của truyền thuyết cá Ông trong quá khứ và hiện tại đi theo
chiều hướng nào?
12
- Mối quan hệ giữa truyền thuyết và tục thờ cá Ông?
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Các truyền thuyết về cá Ông của người Việt ở khu vực miền Trung và Nam bộ.
Ngoài ra, để có tầm nhìn bao quát, chúng tôi có đề cập cả một bộ phận truyền
thuyết của ngư dân miền Bắc.
- Lễ hội nghinh Ông và các trò diễn xướng trong mối quan hệ với truyền thuyết.
4. Đóng góp của đề tài
- Tìm hiểu dấu ấn của truyền thuyết trong các nghi lễ thờ cúng cá Ông của người
Việt.
- Tìm hiểu các truyền thuyết về cá Ông đang vận động trong đời sống tín ngưỡng
của các cư dân ven biển hiện nay.
- Thực hiện được một công trình nghiên cứu có tính tổng quát và chuyên sâu về tín
ngưỡng thờ cá Ông của hai miền Trung và Nam Việt Nam từ góc độ văn học.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê: chúng tôi dùng phương pháp này cho việc khảo sát và
thống kê truyền thuyết dựa theo một tiêu chí nhất định. Sự thống kê này nhằm để cố
gắng bao quát nhất những truyền thuyết có liên quan đến cá Ông được lưu truyền
trong dân gian từ xưa tới nay, từ đó làm cơ sở dữ liệu cho các nghiên cứu vấn đề về
sau.
- Phương pháp lịch sử: vấn đề của văn học dân gian luôn gắn với một quá trình của
lịch sử mà chúng tôi cần dựa vào để lý giải một số vấn đề chứa đựng trong đó.
Truyền thuyết thì không phải là lịch sử nhưng có những vấn đề của lịch sử lại được
đưa vào trong truyền thuyết. Thế nên, để tìm hiểu vấn đề sâu nhất, chúng tôi sử
dụng phương pháp này để có thể làm sáng tỏ những điều chứa đựng xếp chồng
trong truyền thuyết về cá Ông.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Từ cơ sở dữ liệu và các vấn đề đặt ra, chúng tôi
cần đến phương pháp này để đi vào từng khía cạnh chi tiết. Cụ thể, trong bài chúng
tôi sẽ phân tích những yếu tố đã nhào nặn nên các truyền thuyết khác nhau về cá
Ông, và các vấn đề khác để tìm hiểu về ý nghĩa nhân sinh trong mối quan hệ giữa vị
thần cá Ông với con người.
- Phương pháp so sánh: Truyền thuyết cá Ông có những đặc điểm chung với nhiều
truyện khác trong tâm thức sáng tác dân gian. Song song đó, nó cũng có những đặc
13
điểm riêng khác biệt… Chúng tôi dùng phương pháp này để đối chiếu, so sánh các
vấn đề đặt ra với các tư liệu khác cùng chủ đề để tìm ra được điểm đặc trưng của
truyền thuyết và tín ngưỡng cá Ông trong đời sống nhân dân.
- Phương pháp liên ngành: Văn học dân gian vốn có đặc trưng là tính nguyên hợp
của nhiều ngành trong đó. Nên trong đề tài, chúng tôi sử dụng đến các lĩnh vực khác
nhau: lịch sử, tôn giáo, địa lý, văn hóa… để làm sáng tỏ một số vấn đề trong bài.
- Phương pháp điền dã: Để có được tài liệu, thông tin cho đề tài, chúng tôi đã tiến
hành đi tới các lăng vạn thờ cá Ông thuộc ba tỉnh: Bình Thuận, Vũng Tàu, Bến Tre.
Ngoài ra, chúng tôi cũng liên hệ với một số nơi khác bằng điện thoại, thư tín để có
thêm thông tin cho bài viết. Nhưng quan trọng hơn cả, chúng tôi đi tìm về chính nơi
thờ cá Ông để cảm nhận được niềm tin và tín ngưỡng như cách ngư dân cảm nhận
để có được linh hồn xương sống cho đề tài.
6. Bố cục luận văn
Luận văn của chúng tôi gồm có 4 chương chính:
Chương 1 - TỤC THỜ CÁ ÔNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VIỆT NAM
Chương 2 - HỆ THỐNG TRUYỀN THUYẾT CÁ ÔNG
Chương 3 - CỐT TRUYỆN, MOTIP TRUYỀN THUYẾT CÁ ÔNG
Chương 4 - MỐI QUAN HỆ GIỮA TRUYỀN THUYẾT VÀ TỤC THỜ CÁ ÔNG
14
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1 - TỤC THỜ CÁ ÔNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN
HÓA VIỆT NAM
Xét trong dòng chảy văn hóa, bất kì một yếu tố nào góp phần tạo nên bộ mặt
văn hóa cũng luôn luôn nằm trong một hệ thống nhất định. Theo thời gian nó trở
thành một mắt xích trong tiến trình hình thành và phát triển văn hóa một dân tộc.
Nên khi xem xét một vấn đề về văn hóa cần phải nhìn nhận trong một hệ thống để
thấy được tính bao quát của nó. Tục thờ cá Ông cũng tương tự như thế. Để thấy
được vị trí của tục thờ cá Ông, trong chương này chúng tôi sẽ khái quát một số vấn
đề tín ngưỡng có bao quát cả nội dung tục thờ cá Ông trong đó. Từ vị trí đó, chúng
tôi sẽ đi sâu vào vai trò và những vấn đề liên quan đến truyền thuyết, tục thờ nhằm
đưa lại một cái nhìn vào bề sâu của tín ngưỡng từ góc nhìn văn học.
1.1. Đôi nét về mỹ tự “cá Ông”
Ông là một tiếng được sử dụng rất đa dạng trong đời sống. Đó là từ chỉ người
đàn ông hoặc người ở bậc sinh ra cha, mẹ mình: ông nội, ông ngoại. Người đàn ông
đứng tuổi, hoặc được kính trọng: ông giáo, ông sư. Người đàn ông cùng bậc hoặc
bậc dưới trong cách gọi thân mật: ông bạn. Đó cũng là từ chỉ bản thân mình trong
cách gọi trịch thượng.
Ngoài các nghĩa đó, ông còn là từ dùng để chỉ những loài, vật được con người tôn
sùng, kiêng nể: ông trăng, ông sao... Trong dân gian, để tỏ lòng kính cẩn trước đấng
thần thánh vô hình, người ta gọi đó là “ông”: ông trời, ông phật, ông bụt, ông thần,
ông Táo… Để gọi một người có chức tước, được coi là phụ mẫu của dân người ta
vẫn kính cẩn gọi người đó là ông, đức ông. Dân gian vẫn gọi hổ là Ông cọp, Ông ba
mươi để tỏ lòng kính - sợ trước vị chúa tể đầy sức mạnh (hổ đực hay cái đều gọi là
Ông)… Cũng như thế, với loài cá Voi, cá Heo và một số loài có thiên tính cứu
giúp người hoạn nạn hoặc giúp ngư dân đánh bắt được nhiều tôm cá, cư dân
miền biển thành kính gọi là Ông để bày tỏ lòng biết ơn. Như thế, Ông trong cá
Ông là một mỹ tự mà ngư dân gọi để bày tỏ sự kính – ơn đối với loài cá mà họ tôn
là phúc thần.
15
Danh từ Ông ở đây là tên gọi chung cho nhiều loài chứ không riêng gì chỉ
gọi cá Voi, nhưng trọng tâm của tên gọi này dành cho loài cá Voi. Khi nói đến Ông,
người ta đều nghĩ đến cá Voi đầu tiên trong tất cả các loài. Thường thì người ta gọi
chung là Ông, không phân biệt cá đực hay cái, to hay nhỏ. Nhưng người Việt vốn
có tư duy lưỡng phân lưỡng hợp – cặp đôi (Tư duy lưỡng hợp này có nguồn gốc từ
tư duy thần thoại Việt cổ như Ông Đùng, Bà Đà…) nên đi vào chi tiết, người ta
phân rõ ràng cá đực gọi là Ông, cá cái gọi là Bà. Cá đực mà còn nhỏ thì gọi là Cậu,
tương tự như thế, cá cái còn nhỏ người ta gọi là Cô, tính cặp đôi ở đây: cá Ông – cá
Bà; cá Cô – cá Cậu.
1.2. Khái quát tín ngưỡng thờ linh thần
Sùng bái tự nhiên là một đặc điểm cơ bản của các cư dân vùng nông nghiệp
lúa nước, bên cạnh hệ thống các nhân thần đầy quyền uy là một hệ thống các nhiên
thần có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống con người. Trong đó, thờ cúng loài vật là
một tín ngưỡng dân gian lâu đời và có vị trí quan trọng trong niềm tin của nhân dân.
Trong dân gian có câu “Nhất điểu, nhì xà, tam ngư, tứ tượng” cho thấy niềm kính
cẩn, điểm tựa tâm linh vào các loài vật rất mạnh trong niềm tin của nhân dân. Dấu
ấn của niềm tin ấy ngày nay vẫn tồn tại qua các đền thờ, lăng miếu trải khắp trong
các làng mạc từ Bắc chí Nam. Trong các đền miếu ấy, có nơi chỉ hương khói thờ tự
nhưng có nơi lại gắn với các lễ tục, diễn xướng, lễ hội, tạo nên một nét văn hóa đặc
sắc trong đời sống văn hóa các vùng miền. Và đặc biệt, xoay quanh các đền miếu ấy
gắn với một hoặc nhiều truyền thuyết có liên quan tạo nên phức hợp tổng thể cho
tính linh thiêng trên nhiều phương diện thực tiễn và huyền thoại.
So với tục thờ các thần thú ở khắp các vùng miền đất nước, tục thờ cá Ông
của ngư dân miền biển có thể xem là tục thờ lớn nhất, có phạm vi thờ cúng rộng lớn
và có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tâm linh của ngư dân miền biển.
Không chỉ thế, tục thờ này còn có những giá trị to lớn trên các phương diện đời
sống.
Xét về giá trị văn hóa, tục thờ cá Ông không chỉ tạo cho miền biển một vị thần hùng
vĩ, uy linh mà còn tạo ra một tín ngưỡng đẹp, gắn kết con người và con người gần
lại với nhau, thắt chặt tình đoàn kết tương hỗ của các ngư dân trong cuộc mưu sinh
nơi đầu sóng ngọn gió.
16
Xét về giá trị lịch sử, tục thờ cá Ông được nhiều người xem như một chứng nhân
quan trọng cho sự tiếp biến văn hóa của nhân dân Đại Việt trong quá trình Nam tiến
với người Chăm bản địa. Đó là một vấn đề vẫn còn chưa đi đến được kết luận cuối
cùng song nó cũng chứng tỏ được tầm ảnh hưởng đến nhiều phương diện của tục
thờ. Sau này, cá Ông được trọng vọng nhiều hơn khi góp mặt trong thời gian bôn
tẩu của vua Gia Long, thực hư ra sao vẫn là điều bí ẩn, nhưng dẫu sao khi tìm về
lịch sử triều Nguyễn cũng không thể quên được chi tiết này trong huyền thoại vì ở
nhiều lăng Ông vẫn còn các sắc phong của vua ban – một chứng tích hùng hồn cho
tính thần thiêng của cá Ông.
Xét về phương diện văn học, xoay quanh tục thờ cá Ông là những câu truyện,
truyền thuyết, sự tích được nhân dân sáng tác, thêu dệt để bồi đắp thêm tính thiêng
liêng của cá Ông. Từ các tích ấy, thông qua cách nhìn, cách cảm nhận đa chiều của
nhân dân dành cho Ông, chúng ta sẽ thấy được những ý nghĩa nhân văn, những giá
trị về văn hóa, lịch sử của cha ông ta xây đắp và lưu truyền cho con cháu đời sau.
Trong tín ngưỡng chung, tục thờ cá Ông cũng có những giá trị tích cực như các vị
phúc thần khác. Song trong những cái chung, tục thờ này có những nét riêng biệt để
tạo cho nó một giá trị không hòa lẫn. Điều đó chúng tôi sẽ chỉ ra ở các phần sau của
đề tài. Nhưng để thấy được cái riêng ấy, chúng ta cần thấy cái chung của tục thờ các
loài vật để có cái nhìn khái quát, rộng mở cho vấn đề về sau.
1.2.1. Tục thờ cá Ông trong tín ngưỡng thờ loài vật của nhân dân
Mỗi bản làng, mỗi vùng trên đất nước ta đều có một hoặc nhiều vị phúc thần
được nhân dân trong vùng tín ngưỡng, thờ tự để cầu mong sự chở che của thần cho
một cuộc sống no đủ, thuận hòa. Vị phúc thần ở đây có khi là nhân thần, có khi là
nhiên thần, loài vật mà ở nơi đó nhân dân gửi gắm niềm tin thiêng liêng về sức
mạnh phù trợ mang phúc lành đến cho muôn dân. Song khác với các nhân thần
thường được thờ sau khi các vị đó đã “hóa”, là người có công đức hoặc có hiển linh
cứu giúp, phù trợ cho dân làng thì các loài vật lại được nhân dân thờ ngay khi còn
sống. Nếu nhân thần được thờ theo cá nhân đơn lẻ thì loài vật được thờ theo loài.
Trong phạm vi đề tài về tục thờ loài vật, nên ở đây chúng tôi chỉ xin trình bày một
số tục thờ các loài vật trong tín ngưỡng của nhân dân để tham khảo thêm.
17
Tục thờ rắn là một trong những tín ngưỡng nguyên thủy của người Việt cổ.
Xuất phát từ môi trường tự nhiên gắn với điều kiện sông nước, đầm lầy, hình tượng
rắn đã được đồng hóa với nước, trở thành thủy thần và đi vào tâm thức dân gian từ
rất sớm và thường gắn với tục thờ các vị thần tự nhiên. Rắn là một hình tượng phổ
biến và có sức ám ảnh mạnh mẽ, phổ biến nhất của người Việt ở đồng bằng sông
Hồng. Tục thờ rắn với tư cách là thủy thần không chỉ phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ
mà còn có ở miền Trung, Tây Nguyên và cả miền Tây Nam Bộ. Rắn cũng là đối
tượng phải dè chừng, đối phó và chinh phục. Có lẽ vì thế mà ngày nay vẫn lưu
truyền nhiều câu chuyện, giai thoại về rắn quấn mình người phụ nữ sinh ra đứa con,
rắn trả thù người, rắn cứu người, rắn đền ơn con người… Nhất là các tích về sự xuất
hiện của rắn trong các đền miếu một cách kì lạ và bí ẩn là nền cho những huyền
thoại về rắn tiếp tục được hình thành. Trong dân gian, nhân dân tin rắn là hiện thân
của thần thánh. Các cụ già vẫn kể cho con cháu nghe về sự xuất hiện của rắn có
mào trong đền thờ thần làng vào những ngày lễ, hay người dân lưu truyền với nhau
về rắn trắng trong đền thờ đức thánh Trần (Nam Định) là rắn thần. Bên cạnh đó,
nhân dân còn thờ rắn trong hình tượng của vị thần người nhưng hoài thai từ rắn, ví
như đền Quan Lớn Đệ Tam ở Duy Tiên (Nam Định). Đó là đền thờ một trong ba vị
đại vương vốn là ba con rắn được sinh ra từ một cái bọc. Tương truyền, vị đại
vương này rất có công trong việc chống Thục nên được vua Hùng phong là Nhạc
Phủ Ngư thượng đẳng thần, sau được gia phong là Trấn Tây An Tam Kỳ Linh ứng
thái thượng đẳng thần. Đối với tín ngưỡng nhiều nước, rắn cũng là một đối tượng
rất được coi trọng và đề cao. Điều đó cho thấy các nước trên thế giới dù cách biệt,
chênh lệch nhưng vẫn có những yếu tố văn hóa giao nhau trong nhận thức từ thuở
hồng hoang của lịch sử loài người.
Không chỉ thờ rắn, người ta còn thờ cả cá sấu. Trong sử cũ ghi chép, thì với
tục thờ rắn và cá sấu, người xưa lấy các loài thủy tộc này làm vật tổ. Huyền thoại họ
Hồng Bàng (giải thích nguồn gốc các tộc người Việt cổ) kể rằng, ông Lạc Long
Quân (vị tổ của người Việt đồng bằng) là một loài rắn hoá thân mà thành. Hình cá
sấu được trang trí trên nhiều mặt trống đồng Đông Sơn. Tục thờ cá sấu sau này trở
nên phổ biến ở miền Nam, là vùng đất mới với nhiều hiểm nguy đe dọa tới tính
mạng con người, trong đó cá sấu cũng là một nỗi ám ảnh của vùng sông nước nên
được người dân lập đền thờ: “Cà Mau khỉ khọt trên lưng/ Dưới sông sấu lội trên
18
rừng cọp um” [43]. Cá sấu không chỉ có trong tục thờ của người Việt, mà còn trong
cả cộng đồng người Khơ-me Nam Bộ. Hình cá sấu được người dân nơi đây vẽ trên
những lá cờ trắng treo trên chùa, hoặc thầy cúng cầm trong đám đưa tang.
Từ rắn, cá sấu, một loài vật huyền thoại được hình thành - rồng được nhân
dân xem là loài mang đến phúc lành cho nghề nông. Cao hơn nữa, rồng là biểu
tượng của nguồn gốc tộc người (Truyền thuyết Con rồng cháu tiên của người Việt).
Về sau này, rồng còn được nhất thể hóa với hình tượng đế vương. Những thuyết về
việc sinh ra các bậc quân vương cao quý thường gắn với tích bà mẹ nằm ngủ mơ
thấy sao rơi, thấy rồng… Rồng là biểu tượng quyền uy của vua chúa. Rồng cũng là
hình tượng thường được trạm trổ ở trên các cột đình, chùa, cung điện, ngọc tẩm để
tăng thêm tính oai nghiêm, thần thánh. Thực ra, ban đầu nằm trong tín ngưỡng dân
gian rồng được đồng nhất với nước, mang lại điềm tốt lành. Do ảnh hưởng từ văn
hóa Trung Quốc mà rồng có thêm biểu tượng của vương quyền.
Một tục thờ khác rất phổ biến ở nhiều nơi đó là tục thờ hổ. Tục thờ này bắt
nguồn từ cuộc sống thời nguyên thủy xa xưa, khi con người còn sống trong điều
kiện săn bắt, hái lượm hoặc giai đoạn đầu của cuộc sống nông nghiệp, hổ chính là
sức mạnh thiên nhiên gần gũi và là tai họa đối với con người. Đặc biệt trong quá
trình di dân vào Đàng Trong, mối đe dọa từ hổ đến cuộc sống con người trở thành
nỗi ám ảnh. Điều đó còn ghi dấu ấn qua những đúc kết dân gian như: “Cọp Khánh
Hòa, ma Bình Thuận” [27] ở miền trung hoặc “U Minh, Rạch Giá thị quá sơn
trường; Dưới sông cá lội, trên rừng cọp đua” [43] ở miền Nam. Chính điều này các
đình miếu thờ hổ từ đó mà nhiều hơn nữa. Ngày xưa, người dân rất sợ hổ, giết được
hổ là lập được công lớn giúp dân làng, nhưng sau khi giết được thì người dân lại lập
miếu thờ. Đây là một tâm lý rất phức tạp vừa sợ nhưng lại vừa kiêng nể cọp của
nhân dân. Trong dân gian lưu truyền rất nhiều các giai thoại về hổ trả ơn người đã
cứu mình, hổ hàng phục vị sư chùa, hổ trung thành với chủ… Người dân cũng tin
tranh họa hình hổ có khả năng trấn yểm, đuổi trừ tà ma, thế nên trong nhiều nhà
thường treo tranh hổ, để tranh hổ dưới gối giúp trẻ con không quấy khóc ban đêm…
Không chỉ người Việt, một số đồng bào dân tộc thiểu số cũng có tục thờ hổ, trong
đó có người Khơ mú sống ở Tây Bắc và miền Tây Nghệ An. Một tập quán ăn sâu
vào tình cảm và tiềm thức của người Khơ mú thuộc họ Rvai (hổ) đó là nghi lễ cúng
ma nhà (Hrôigang). Vào dịp Tết Nguyên đán, người Khơ mú thuộc họ hổ đã diễn lại
19
các động tác của hổ, vật tổ của dòng họ. Với quan niệm hổ là tổ tiên của mình,
người Khơ mú thuộc họ Rvai kiêng không động tay vào hổ, không săn bắt hổ,
không giết hổ và không ăn thịt hổ.
Không chỉ thờ những loài có sức mạnh, người Việt còn thờ cả loài vật rất đỗi
bình thường. Đó là chó. Người ta coi chó là con vật có thể đem đến những điều may
mắn, thuận lợi và nhiều niềm vui. Chẳng những trước đây mà cả hiện nay vẫn có tín
ngưỡng dân gian về chó. Tục thờ chó của người Việt được thể hiện dưới hai hình
thức: Một là chôn chó đá trước cổng nhà như một linh vật để canh cổng với ý nghĩ
trừ tà, cầu sự bình an; Hai là đặt chó đá trên bệ thờ như một thần linh để thờ cầu
phúc lành. Một số nơi gọi chó đá một cách kính cẩn là quan lớn Hoàng Thạch. Ở Hà
Nội, có hai làng Địch Vĩ và Hát Môn là những nơi thờ vị quan lớn này.
Như vậy, trong tín ngưỡng thờ loài vật, nhân dân luôn tìm thấy một mặt lợi ích tích
cực cụ thể từ các loài để tôn thờ và ngợi ca. Và cá Ông cũng nằm trong mạch chung
ấy.
Xét theo trục Tây – Đông để chia thì lãnh thổ Việt Nam chia thành hai phần
đất liền và biển đảo. Những loài kể trên là các linh thần tiêu biểu cho phần đất liền,
còn ở biển, linh thần tiêu biểu nhất là cá Ông. Trong niềm tin của ngư dân, người ta
rất tin tưởng vào sự cứu giúp của Ông trên biển khơi. Nước ta có một chiều dài bờ
biển kéo dài từ Bắc chí Nam, cho nên không có vị linh thần nào lại có số lượng lăng
miếu thờ nhiều như cá Ông và có sức ảnh hưởng đến tâm linh tuyệt đối như vị phúc
thần này. Với các loài trên, một số nơi người ta thờ trong sự bái vọng, đời ông cha
truyền lại cho đời con cháu tiếp nối nhưng niềm tin tín ngưỡng có thể đã không còn
như nguyên gốc. Ví như trước đây, vì sợ mà người ta lập ra đền thờ hổ, thì nay
người dân chỉ thờ hổ trong sự cầu mong phước lành chứ không còn vì sợ như trước
kia. Nhưng niềm tin với cá Voi từ xưa tới nay thì vẫn còn nguyên vẹn. Ngư dân rất
tin và thành kính vào sự cứu giúp tính mạng con người trước sóng gió biển khơi của
Ông.
Qua một số các loài vật được thờ mà chúng tôi nêu trên, có thể thấy hai vấn
đề cần lưu ý sau:
Thứ nhất, người Việt có truyền thống thờ trực tiếp loài vật mà người dân tin tưởng
sự thờ đó sẽ mang lại sự an lành cho cuộc sống. Tục thờ loài vật có từ trong tâm
20
thức xa xưa của cha ông chúng ta từ thời nguyên thủy, không phải học từ lối thờ của
ai mới có.
Thứ hai, về nguyên nhân, gốc tích các loài được thờ. Sự thờ thần thú trong tâm linh
của nhân dân xuất phát từ nhiều điều, nhưng tựu trung lại nhân dân thờ một loài vật
thành thần trên hai điều sau:
+ Người ta thờ một loài bởi người ta sợ mà thờ, như các loài hổ, cá sấu… Người
dân lập miếu thờ các loài họ sợ vừa để lưu ý với những người xứ khác tới biết ở nơi
đây có nguy hiểm mà tránh, vừa để cầu sự an lành cho cuộc sống tại nơi có thú dữ
quấy phá.
+ Người ta thờ vì lòng kính trọng, biết ơn mà thờ. Đại diện nổi bật cho điều này
chính là cá Ông được nhân dân tôn thờ vì đức tính cứu người giữa biển khơi. So với
các loài vật linh khác, cá Ông chỉ mang đến điều tốt đẹp đến cho ngư dân. Người ta
thờ Ông vì lòng kính – biết ơn chứ không phải vì sợ như một số loài khác trong tín
ngưỡng.
1.2.2. Tục thờ cá Ông trong hệ thống các vị thần linh biển
Tục thờ cá Ông đã âm thầm đi vào đời sống tâm linh của cư dân ven biển từ
khi nào thì không ai rõ. Nhưng trước khi vị thần này đi vào đời sống ngư dân, trong
dân gian đã xuất hiện nhiều vị thần được nhân dân tôn thờ để phù trợ cho người đi
biển. Tất cả sự tôn kính đó thường được thể hiện trong nghi lễ và những huyền thoại
bao quanh. Chúng tôi nêu ra một số truyền thuyết về các vị thần đó như sau:
Ở phường Vạn Hương, quận Đồ Sơn, Hải Phòng có miếu trên đảo Hòn Dáu.
Miếu thờ Lão đảo thần vương, còn gọi là Nam Hải đại vương. Chuyện xưa kể vào
thời Trần sau cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên, trên đảo có dạt vào xác một
võ tướng cụt đầu. Sau đất đùn thành mộ, thần thường hiển linh trong trang phục võ
tướng không đầu ngồi câu cá. Dân cư lập miếu thờ và thường được thần giúp trong
lúc ra khơi. Đến đời chúa Trịnh Doanh (1754) khi đi du ngoạn Đồ Sơn thấy thần
linh ứng, liền phong là Lão đảo thần vương. Hơn 100 năm sau, vua Tự Đức đến
thăm đảo lại phong thần là Nam Hải đại vương. Hằng năm mở hội vào ngày 9-10
tháng Giêng âm lịch.
Đền thờ nữ thần ở cửa Cần Hải, Nghệ An. Không rõ ở cửa biển nào vị nữ
thần này đã hiển linh giúp vua, nhưng sau đó đã được vua sắc cho 12 cửa biển phải
21
lập đền thờ bà. Có nơi gọi đây là đền thờ Thánh Mẫu, và tùy vào mỗi nơi mà tích
truyện này có được kể khác đi. Theo truyền thuyết kể lại: Phu nhân họ Triệu, là
công chúa nhà Nam Tống, mẹ con ba người, phu nhân là con gái út. Trong cơn lửa
binh, mẹ con ba người vịn mạn thuyền trôi đến chùa Hải Giai, nhà sư thương đem
về nuôi nấng; sau vài tháng, phu nhân da thịt hoàng nguyên, diện mạo đẹp đẽ, nhà
sư muốn tư thông, phu nhân nhất thiết cự tuyệt. Nhà sư xấu hổ, nhảy xuống biển tự
tử. Ba mẹ con cùng khóc bảo rằng: “mẹ con ta nhờ sư mà sống, sư vì mẹ con ta mà
chết, lòng ta sao an”, rồi cũng nhảy xuống biển chết cả. Thi thể phu nhân trôi đến
cửa biển Kiền Hải (tục danh là Cửa Cờn) phủ Diễn Châu (Nghệ An) nước ta, tuy
chết lâu mà ngọc diện vẫn như sống, người bản xứ thấy làm lạ, vớt lên chôn cất hẳn
hoi, sau thấy có nhiều linh dị, mới lập đền thờ phụng. Hễ thuyền biển gặp cơn gió to
sóng lớn, nguy cấp, van vái với phu nhân thì đều được bình an vô sự. Vị thần này
sau được triều đình sắc phong là Đại Càn thánh nương. Cũng tương tự như tích này,
nhưng ở đền Đỏ, xã Thái Thượng (Thái Thụy, Thái Bình), nhân dân kể lại có khác
và đối tượng thờ cũng có khác. Theo tích này thì đối tượng được thờ chính là hoàng
hậu chứ không phải công chúa. Đền Đỏ vốn là ngôi đền linh thiêng nơi cửa biển,
nhân dân trong vùng thường gọi là đền Bà, đền thờ Thánh Mẫu. Theo thần tích tại
đây, Thánh Mẫu còn có tục danh là Đạm Đồng Lương, là Hoàng hậu của vua Đế
Bính (thời nhà Tống). Khi nhà Tống bị đế quốc Nguyên Mông xâm lăng, Vua Đế
Bính thất trận, bà đã đem hai người con gái và một người con nuôi chạy sang Việt
Nam lánh nạn, nương nhờ ở chùa Kính Thiên. Sau một thời gian, bà lại mắc oan
nên phẫn chí, cả bốn mẹ con gieo mình xuống biển ở cửa Lân tự tử. Thi hài trôi vào
cửa chùa Long Khánh, phủ Viễn Châu, xã Tân Hương, huyện Quỳnh Lâm (nay là
Quỳnh Lưu, Nghệ An). Nhân dân nơi đây đã lập miếu thờ và trở thành nơi linh
thiêng được nhân dân sùng bái. Song theo tích nào thì đây cũng là đền thờ vị thần
bảo hộ giúp người đi biển được bình an.
Ở huyện Kì Anh, Hà Tĩnh có đền thờ Chế Thắng phu nhân. Đây cũng là một
vị thần biển. Chế Thắng phu nhân là cung nữ của Trần Duệ tông, tên thật là Nguyễn
Thị Bích Châu, từng theo vua đi đánh Chiêm thành. Khi qua cửa biển, sóng gió nổi
lên, vua muốn bày lễ tế thần biển, bà phải đứng trên cái mâm đồng to để vua ném bà
xuống, nhờ vậy mà trời bớt sóng gió. Biết chuyện ấy, nhân dân trong vùng lập đền
thờ bà, cầu mong bà phù hộ dân làng mưa thuận gió hòa, ra khơi vào lộng an toàn.
22
Đền thờ Đông Hải đại vương Nguyễn Phục. Ông người xã Đoàn Tùng,
huyện Gia Lộc, xứ Hải Dương. Ông là người văn võ song toàn lại có tài ăn nói nên
đã nhiều lần được cử đi sứ ở Trung Quốc. Cuối đời vì không may cho số phận nên
đã bị vua Lê Thánh Tông xử tội chết vì trễ hẹn quân cơ. Sau khi được phong là phúc
thần, thần đã hiển linh giúp vua và nhân dân rất nhiều. Trong sách “thần tích Việt
Nam” có chép: Sau khi vua chiến thắng Chiêm Thành trở về, trên đường gặp sóng
to gió lớn nên không đi được. Một đêm Vua thao thức tai nghe gió gào, sóng dậy
trằn trọc không sao ngủ được. Vua sực nhớ lại thuyền lương trễ kỳ hạn là do sóng
lớn gây ra, trong lòng hối hận, thương tiếc đốc lương quan bị thác oan. Trong lúc
mơ màng Vua nhìn thấy ông đứng trước giường ngự tâu rằng: “Kẻ hạ thần cảm ơn
tri ngộ của bệ hạ nên dẫu thác, linh hồn vẫn theo ra chiến trận. Nay nhờ hồng phúc
quốc gia, bệ hạ dẹp xong Chiêm hầu, hạ thần lại xin theo hộ giá khải hoàn. Vua Lê
chợt tỉnh trông ra vầng Đông đã hửng sáng. Biển lặng sóng yên, đại quân vượt biển
trở về yên ổn” [48]. sau đó, vua Lê Thánh Tông truy phong Đốc lương quan
Nguyễn Phục tước Đại vương biển Đông Hải.
Đền thờ Đông Hải Đại Vương Nguyễn Phục ở làng Phú Xá được nhân dân quanh
năm hương khói phụng thờ với niềm tin và ước vọng thánh Đông Hải sẽ chở che,
bảo vệ và phù trợ cho nhân dân về cuộc sống bình an, no đủ của cả làng biển.
Và còn nhiều các vị thần biển khác, song tựu chung lại chúng ta có thể thấy
rằng các vị thần trên đều là các nhân thần. Đa số các vị thần đó đều có xuất thân từ
tầng lớp trên (tướng quân, công chúa, hoàng hậu), sau khi chết lại hiển linh giúp vua
thuận buồm xuôi gió ra chiến trận nên càng được nhân dân tôn kính. Sự giúp vua có
hay không là một điều bí ẩn, nhưng truyền thuyết về thần mà đến vua cũng phải
trông cậy vào sự giúp đỡ và tin tưởng thì hẳn đó là các vị thần rất thiêng, có ảnh
hưởng to lớn đến đời sống tín ngưỡng của nhân dân (có lẽ muốn bồi đắp thêm tính
thiêng của thần mà nhân dân gắn sự hiển linh của thần với những việc của nhà
nước, nâng tầm ảnh hưởng phù độ của thần lên mức tuyệt đối). Các tích truyện trên
chỉ phổ biến từ tỉnh Hà Tĩnh trở ra bắc, còn mạn trong này không thấy có. Điều
đáng lưu ý là các vị linh thần trong các truyền thuyết trên đều mang tâm thức biển.
Dường như mọi sức mạnh của thần được hun đúc từ biển hoặc có yếu tố biển. Sau
này ngư dân ven biển thờ vị thần cá Ông, là một thần thú chứ không phải nhân thần.
Nhưng kì lạ, sức ảnh hưởng và niềm tin vào Ông còn sâu sắc và lan rộng hơn tất cả
23
các vị thần trước đó. Có thể tìm thấy các đình, lăng, vạn thờ Ông kéo dài từ biển của
Quảng Ninh vào đến tận Cà Mau, Kiên Giang. Nếu tính tất cả thì phải trên 24 tỉnh
ven biển nước ta với hàng trăm lăng miếu thờ vị thần này. Từ cá Ông Voi, cư dân
ven biển còn thờ nhiều loài thủy tộc tạo thành một hệ thần linh biển phong phú gồm
cả nhân thần, thú thần và thủy thần. Các nhân thần ban đầu hiển linh giúp vua trong
chiến trận thì về sau trở thành thần bảo trợ người làm nghề đánh cá biển. Điều này
chứng tỏ rằng, người Việt sau một thời gian dài trọng nông, thuần nông đã bắt đầu
có sự chuyển hướng ra biển khơi, mở rộng ngành nghề. Đây là một sự đánh thức tố
chất của chủng tộc hơn là một sự manh nha học hỏi nghề đi biển từ người Chăm
trong quá trình Nam tiến của người Việt như nhiều người đã nói. Người Chăm và
Việt vốn là chủng tộc từ các đảo Nam Thái Bình Dương vượt biển để thiên di sang
Đông Dương. Họ hẳn là những người cừ khôi trong nghề đi biển, nhưng người Việt
cư trú trong vùng địa lý thuận lợi, nhân dân trồng trọt chăn nuôi cũng đủ cung cấp
lương thực nên họ không hướng biển. Sau này, trong quá trình di cư về miền Trung
đất ít lại khô cằn, một nghề nông không đủ nên nhân dân đã hướng ra biển khơi duy
trì cuộc sống lâu dài. Sự đối mặt với hiểm nguy trên biển đã thúc đẩy con người tìm
đến những vị thần giúp họ an lòng khi ra khơi. Hệ thống các vị thần phong phú
trong cộng đồng cư dân miền biển là minh chứng cho quá trình biển tiến lâu đời, từ
đó hình thành hệ văn hóa và ứng xử với biển của cư dân nơi đây. Đó cũng là lý do
vì sao tục thờ này dày đặc ở miền duyên hải miền Trung trở vào Nam.
1.3. Vai trò thực tiễn và tính thiêng của cá Ông trong tâm thức người Việt
Cá Voi cũng như những loài vật khác sinh ra có linh tính riêng của nó, nhưng
từ một loài cá bình thường trở thành thần linh thiêng thì ắt hẳn bên trong sâu xa
phải có một lý do nào đó. Bởi chỉ ở Việt Nam, loài cá Voi được tôn thành thần và
con người hết sức có ý thức bảo vệ loài này. Họ không ăn thịt, không săn bắt cá
Voi. Khi cá Voi bị mắc cạn, ngư dân huy động mọi người tìm cách đưa Ông ra biển.
Khi cá Voi mắc vào lưới, ngư dân vội cùng nhau mở lưới cho Ông đi ra. Khi Ông
lụy, ngư dân không tiếc công tiếc của mai táng cho Ông cẩn thận. Hằng năm, đến
ngày giỗ Ông, bà con ngư dân lại góp tiền bạc làm lễ cho Ông long trọng. Ông còn
sống hay Ông đã lụy cũng đều được ngư dân tôn kính. Vậy đặc tính nào, lý do nào,
vai trò nào đã góp phần linh thiêng hóa loài cá bình thường thành cá Ông?
24
Trong đời sống, cư dân ven biển rất tin tưởng vào sự phù trợ của cá Ông. Với
họ, cá Voi là một thần thú tính nết hiền lành, hay giải cứu con người khi lâm nạn
giữa biển khơi. Chúng tôi được nghe nhiều ngư dân kể lại chuyện này trong lúc đi
điền dã. Họ kể rằng khi Ông cứu người, Ông thường không cho ai biết đến sự có
mặt của mình. Với người bị nạn đang lênh đênh một mình trên sóng thì bỗng cảm
thấy như được nằm trên một tấm phản lớn, rồi từ từ họ lịm đi. Khi tỉnh dậy, người
đó đã thấy đang được nằm trên bờ cát. Họ tin rằng ở Ông có một phép thiêng khiến
họ không nhận ra sự có mặt của Ông bằng cách luôn làm cho người đó bị bất tỉnh
rồi đưa người vào. Khi gần đến bờ, chính Ông quẫy mình tạo ra cơn sóng lớn để hất
người vào bờ. Còn với những ghe thuyền gặp nạn, họ hô to lên lời cầu khấn Ông
giúp đỡ, nhiều thuyền bè đã được Ông tới áp mình đưa thuyền vào bờ an toàn. Ở
Bến Tre, chúng tôi lại nghe ngư dân nói về việc được cá Ông cứu, song họ lại tin
hơi khác với ngư dân miền Trung. Đó là không phải cá Ông đã cứu họ, mà một
phần hồn nào đó đã nhập vào cá Ông để giúp đưa họ vào bờ. Về hiện tượng cá Ông
cứu người, theo khoa học giải thích thì do Ông thở bằng phổi, Ông chỉ có thể lặn
sâu khoảng một giờ rưỡi nên bão biển khiến Ông bị ngạt, chính vì thế Ông thường
tìm đến các ghe thuyền để dựa lưng vào cho dễ thở và có hành động giống như đang
cứu các thuyền của ngư dân. Nhưng với các ngư dân, họ tin tưởng vào sự cứu giúp
của Ông. Nhờ có Ông họ mới thoát qua cơn hiểm nguy một cách thần kì. Ắt hẳn
trong thế giới này, vạn vật hữu linh và có nhiều điều tâm linh bí ẩn trong đó mà
khoa học sẽ khó lòng thâm nhập bằng con mắt thực chứng của mình. Khi đã vượt
qua cảnh ngàn cân treo sợi tóc bởi một điều vô cùng kì diệu, con người cảm thấy
Ông trở nên thiêng liêng và mang ơn nghĩa Ông. Từ đó, họ nảy sinh vấn đề tâm
linh, sùng bái Ông. Đây cũng là cách trả ơn đậm đà tính nhân văn của con người với
loài cá thiêng.
Không chỉ cứu người, cá Ông còn giúp cho ghe thuyền tôm cá đầy khoang. Ngư
dân truyền với nhau rằng, hễ thấy Ông ở đâu thì ngư dân sẽ đánh bắt được nhiều
tôm cá. Theo kinh nghiệm, khi nhìn thấy một vùng biển hóa đỏ là Ông xuất hiện,
đồng thời hàng đàn cá mòi, cá cơm, tôm… nổi đỏ dày đặc. Khi đó, các thuyền hối
hả đổ tới vùng có Ông xuất hiện và đánh bắt được rất nhiều tôm cá. Tính Ông vốn
hiền lành nên thấy người tới Ông lại đi chỗ khác nhường chỗ cho ngư dân. Thực ra
đây là đặc tính săn mồi của cá Ông. Thông thường Ông thường dồn đàn cá vào một
25
đám rồi mới ăn. Dấu hiệu quần tụ đó giúp ngư dân đánh cá thuận lợi hơn. Dù chỉ là
đặc tính của Ông, nhưng với ngư dân, điều đó mang lại cho họ sự may mắn. Vì ra
khơi đánh bắt được nhanh chóng trở về, nên họ thành kính tin rằng đó là Ông giúp
họ. Do vậy, ngư dân luôn mang trong lòng sự biết ơn Ông.
Ông sống là thế, Ông lụy cũng có nhiều điều kì lạ. Với ngư dân, cá Ông là phúc
thần nên khi Ông mất, người ta kiêng không gọi là chết mà phải gọi lụy hay đi tu.
Khi Ông sắp lụy, Ông luôn biết trước và sẽ tìm lối vào bờ trước khi bị lụy ngoài
khơi. Nếu có lỡ bị lụy khi chưa kịp vào bờ, Ông luôn nằm ngửa bụng tránh các loài
khác xâm phạm, đồng thời đi bên Ông luôn có một số loài thủy tộc khác canh giữ,
giúp đưa Ông vào bờ để ngư dân mai táng. Xác Ông khi phân hủy không có ruồi
nhặng hay bất cứ chó mèo gì dám đến gần, thịt không bao giờ thối rữa mà sinh dòi
bọ.
Lúc Ông lụy, người nào phát hiện đầu tiên sẽ làm con cả của Ông nhưng phải
là đàn ông. Nếu người đó là phụ nữ thì bãi miễn và trưởng tang phải là một người
nam trong gia đình. Trong bài khảo cứu Tín ngưỡng và ngạn ngữ dân gian vùng
thung lũng Nguồn Sơn, tỉnh Quảng Bình (1901), Cadière – một giáo sư phương Tây,
ở khá lâu vùng này đã mô tả về vai trò người con trưởng của Ông như sau: “Khi
chôn cất, cá phải được phủ liệm trọn vẹn bằng vải hoặc lụa. Người đầu tiên thấy cá
được mang tước là trưởng nam và thi hành phận sự ấy… Trưởng nam cá Voi cũng
thi hành phận sự y như trưởng nam trong gia đình có người quá cố. Ông ta bận áo
chế đại tang, đội mũ rơm, áo rộng, xổ lai, gấu áo bẻ ra ngòai, một tấm vải nhỏ kết
đằng sau, nghĩa là anh ta được xem như là người thân thuộc gần nhất của bậc thiêng
liêng vừa tạ thế. Chính anh ta là người sẽ cử hành mọi tang lễ và nhận nhiều ân lành
nhất của cá Voi”. Li kì hơn nữa, người này không chỉ để tang Ông như với cha mẹ
mình, mà lúc đưa Ông vào bờ chôn cất, nếu không có người con này thì dù có bao
nhiêu người đi nữa cũng không sao xê dịch nổi Ông, còn khi có người phát giác
Ông lụy đầu tiên cùng một số người nữa thì việc đưa Ông vào bờ rất dễ dàng. Điều
này nói ra có vẻ mê tín nhưng đây là một sự thật hoàn toàn, tất cả ngư dân trong các
vạn chài đều công nhận điều này. Và ngư dân rất mong được làm con cả Ông, bởi
tuy lúc tang chế họ rất vất vả, nhưng sau thời gian đó thì họ đều làm ăn rất khấm
khá và gặp nhiều may mắn.
26
Theo kinh nghiệm thực tế của ngư dân, hễ năm nào có Ông lụy vào bờ thì ba
năm sau đó ngư dân làm ăn được mùa. Ông vào càng lớn thì trúng mùa càng to.
Ngư dân tin rằng lấy huyết của Ông vẩy lên lưới sẽ đánh bắt được nhiều cá. Đặc
biệt, rượu rửa ngọc cốt của Ông được mọi người hứng lấy và rắc lên giàn lưới thì
khi đánh bắt sẽ được nhiều mẻ cá lớn. Với nhà có con nhỏ, người ta thường xin
xương của cá Cô hoặc cá Cậu về làm vòng đeo tay, hoặc khuyên tai sẽ trấn giúp trẻ
không bị giật mình, quấy khóc lúc đêm…
Cá Ông chưa bao giờ gây ra bất cứ điều hại nào cho ngư dân. Thậm chí Ông còn rất
đáng thương. Ngư dân ven biển tin rằng, khi Ông cứu được người thì Ông tích được
đức để đi tu sẽ hóa rồng. Còn nếu Ông cứu người không thành thì hoặc bị Long
Vương cho quân xử tội chém làm ba khúc (Đây là một hiện tượng kì lạ từng xảy ra
ở thế kỉ XIX, khi một Ông rất lớn bị phân làm ba khúc, dạt vào bờ), hoặc Ông sẽ tự
hại mình vì đã cứu người không thành. Đó là những điều mà ngư dân kể và khẳng
định tất cả điều trên đều có thực, khó lý giải bằng khoa học thực chứng, nhưng nó
vẫn ngày ngày hiện diện, khẳng định giá trị linh thiêng trong lòng các ngư dân. Cá
Ông chỉ mang đến điều lành, không gây điều ác cho ngư dân khi nào cả. Đó là một
phần lý giải vì sao đối với ngư dân, cá Ông lại có được một tình yêu mến, biết ơn,
quý trọng vô bờ.
Đó là những điều cơ bản về cá Ông trong tín ngưỡng của các ngư dân. Trong
các tài liệu thành văn và sử liệu ở nước ta cũng có ghi chép một vài điều sơ lược về
Ông. Những tài liệu này đều có nói đến tính thiện cứu giúp người của Ông. Và điều
quan trọng là tất cả tư liệu này dường như đều có dựa trên hiện thực, huyền thoại và
truyền thuyết dân gian.
Trương Quốc Dụng trong “Thối thực ký văn chép”: “Hải thu, tục gọi là cá Ông Voi,
mình dày không vây, đuôi giống đuôi tôm, kỳ nó rất sắc, mũi ở trên trán. Khi phong
ba nổi dậy, thuyền bị đắm giữa biển, cá voi xuất hiện thường đội lên lưng đưa
thuyền vào gần bờ” [38].
Trịnh Hoài Đức đã ghi lại trong “Gia Định thành thông chí” về cá Voi những
dòng như sau: “Tượng ngư (cá Voi): Đầu tròn, nơi trán có lỗ phun nước ra, miệng
mũi giống như con voi, trơn láng không có vảy, đuôi có hai chi giống như đuôi tôm,
tính từ thiện, biết cứu trợ người, nên các nhà ngư nghệ thường gọi là nhân ngư”
[38].
27
Quốc sử quán triều Nguyễn trong Đại Nam nhất thống chí chép: “Cá Voi có tục
danh là cá Ông Voi, đầu tròn, nơi trán có lỗ phun nước ra, sắc đen trơn láng, không
có vảy, đuôi có hai chĩa như đuôi tôm, có tánh từ thiện, hay giải cứu cho người khi
qua biển mắc nạn. Ðầu niên hiệu Minh Mạng, vua đặt tên là Nhân Ngư, đến đầu
niên hiệu Tự Ðức đổi lại Ðức Ngư. Loại cá này ở trong Nam Hải thì linh, còn ở
biển khác thì không linh” [38].
Một số ghi chép về cá Ông ở vùng biển Việt Nam cũng được tìm thấy trong các tài
liệu, ký sự của người Trung Hoa, như những lời dẫn lại sách Chính tự thông của Trí
nguyên, hoặc An Nam trí dự lục ký của Cao Hùng Trưng như sau: “Cá này là loại
cá rất lớn trong loại cá Hải Thu có tên gọi Hải Tù, nó phun ra hơi nước rồi tản lên
không trung gặp gió nước tản đi như mưa” [13]. Nội dung những hiểu biết về cá
Ông trong các tài liệu này khá sơ lược và cũng không khác mấy ghi chép của các
tác giả Việt Nam và thường được xếp vào mục “dị lục” (ghi lại, tìm lại những điều
lạ, những chuyện khác thường).
Sách Đại Nam Nhất Thống chí có ghi: “Cá Đao: Đao ngư, trên đầu có xương dài,
nanh sắc như dao cưa, sắc xanh không vảy, có loài đẻ con. Tục truyền khi cá Ông
Voi bơi đi, tất có đôi cá Đao đi trước để hộ vệ. Đấy cũng là việc lạ” [39].
Từ những ghi chép trên, có thể thấy một điều rằng tục thờ cá Ông trước thời vua
Gia Long chưa phải là một tục thờ lớn. Song cũng như dân gian, các ghi chép này
đều công nhận tính thiện cứu người của cá Ông trên biển và cũng dựa trên truyền
thuyết dân gian để rút ra những kết luận chung.
Xét về một góc độ khác, vai trò to lớn và tính linh thiêng của Ông được nâng
tầm từ một vị phúc thần bình thường lên hàng tôn thần cũng nhờ có sự bảo trợ từ
triều đình nhà Nguyễn. Ở đây, phải nói đến các truyền thuyết về cá Ông đã cứu giúp
vua Gia Long trong thời kì bôn tẩu. Mọi người vẫn nói rằng các truyền thuyết này
được vua Gia Long tạo ra nhằm khẳng định cho chân mạng đế vương của nhà vua –
một vị vua mà nếu không có chân mạng đó thì làm sao có thể làm vua khi các đời
chúa đều đã bị quân Tây Sơn đào phá hết mộ phần tổ tông. Song, đó là việc của lịch
sử. Còn việc cá Ông được nhận sắc phong từ các triều vua Nguyễn là có thực,
truyền thuyết đã được lưu truyền và chính những điều đó đã là một chứng cứ quan
trọng, một bức tường vững chắc để bảo trợ cho tín ngưỡng thờ cá Ông nâng lên tầm
cao linh thiêng. Vì vua là con trời, là bậc đế vương, là cha mẹ của muôn dân. Vua
28
mang trong mình những quyền năng tối thượng. Điều gì vua nói, vua ban và vua tin
thì trăm con dân cũng nghe theo. Huống hồ chi, tín ngưỡng thờ cá Ông vốn đã được
nhân dân tôn thờ, nay lại được vua tin, vua ban sắc phong thần đã khiến sự đức độ,
thần thánh của cá Ông càng thêm uy linh.
Các vua triều Nguyễn phong sắc thần cho cá Ông (Chúng tôi dựa trên bài viết của
sư thầy Thích Huệ Tánh – chủ trì chùa Phật Quang, thành phố Phan Thiết):
1. Năm Nhâm Tuất – 1802, Vua Gia Long lên ngôi phong: ĐẠI CÀN HOÀNG
TRIỀU, DỰC BẢO TRUNG HƯNG TÔN THẦN
2. Năm 1820, Vua Minh Mạng lên ngôi phong tiếp: ĐẠI CÀN HOÀNG TRIỀU
QUỐC GIA NAM HẢI DỰC BẢO TRUNG HƯNG TÔN THẦN
3. Năm Tân Sửu – 1844, Vua Thiệu Trị lên ngôi phong tiếp: ĐẠI CÀN HOÀNG
TRIỀU QUỐC GIA NAM HẢI CỰ TỘC DỰC BẢO TRUNG HƯNG TÔN
THẦN
4. Năm Đinh Mùi – 1847, Vua Tự Đức lên ngôi phong tiếp: ĐẠI CÀN HOÀNG
TRIỀU QUỐC GIA NAM HẢI CỰ TỘC NGỌC LÂN DỰC BẢO TRUNG
HƯNG TÔN THẦN
5. Năm Ất Dậu – 1885, Vua Đồng Khánh lên ngôi phong tiếp: ĐẠI CÀN HOÀNG
TRIỀU QUỐC GIA NAM HẢI CỰ TỘC NGỌC LÂN TỪ TẾ DỰC BẢO
TRUNG HƯNG TÔN THẦN
6. Năm Kỷ Sửu – 1889, Vua Thành Thái lên ngôi phong tiếp: ĐẠI CÀN HOÀNG
TRIỀU QUỐC GIA NAM HẢI CỰ TỘC NGỌC LÂN TỪ TẾ TRỢ TÍN DỰC
BẢO TRUNG HƯNG TÔN THẦN
7. Năm Đinh Mùi – 1907, Vua Duy Tân lên ngôi phong tiếp: ĐẠI CÀN HOÀNG
TRIỀU QUỐC GIA NAM HẢI CỰ TỘC NGỌC LÂN TỪ TẾ TRỢ TÍN TRỪNG
TRẠM DỰC BẢO TRUNG HƯNG TÔN THẦN
8. Năm Bính Thìn – 1916, Vua Khải Định lên ngôi phong tiếp: ĐẠI CÀN HOÀNG
TRIỀU QUỐC GIA NAM HẢI CỰ TỘC NGỌC LÂN TỪ TẾ TRỢ TÍN TRỪNG
TRẠM CHƯƠNG LINH DỰC BẢO TRUNG HƯNG TÔN THẦN
9. Năm Ất Sửu – 1925, Vua Bảo Đại lên ngôi phong tiếp: ĐẠI CÀN HOÀNG
TRIỀU QUỐC GIA NAM HẢI CỰ TỘC NGỌC LÂN TỪ TẾ TRỢ TÍN TRỪNG
TRẠM CHƯƠNG LINH THỦY TƯỚNG DỰC BẢO TRUNG HƯNG TÔN
THẦN
29
Đây là các sắc phong được các triều vua khi lên ngôi đều làm công việc ban sắc
phong thần trong cả nước. Ngoài ra, trong một triều vua còn nhiều sắc phong khác
ban cho thần cá Ông. Ví dụ, triều vua Thiệu Trị thứ 3 đã phong hàng trung đẳng
thần cho Ông Nam Hải, triều vua Tự Đức 33 cũng phong cá Ông lên hàng trung
đẳng thần.
Ở đây, không thể phủ nhận được vai trò của các truyền thuyết lịch sử hóa thời vua
Gia Long bôn tẩu gắn với cá Ông đã tạo ra trong dân gian một niềm tin xác tín trong
tín ngưỡng này. Trong lịch sử, chưa có một loài thần thú nào lại được nhận nhiều
sắc phong của triều đình như cá Ông.
Qua những điều kể trên, có thể thấy vai trò và tính thiêng của Ông chiếm lĩnh
vị trí quan trọng trong đời sống ngư dân. Chính vì những điều đó mà ngư dân đội ơn
và kính trọng tôn thờ, thành kính gọi là Ông chứ không bao giờ dám gọi tên cá
Voi… Trong dân gian, cá Ông còn được gọi là Ông Nam Hải, Ông Chuông, Ông
Sứa, Ông Lộng, Ông Khơi, Ông Sanh, Đức Ngư, Ngài… Như thế, tín ngưỡng thờ
cá Ông hoàn toàn dựa trên một cơ sở có thực trong đời sống. Sự gắn bó giữa cá Ông
với ngư dân có vẻ như rất ngẫu nhiên nhưng trong thực tế đây là một mối quan hệ
tương hỗ tích cực, nhiều lợi ích thiết thực. Từ việc giúp ngư dân đánh bắt tôm cá
đầy khoang cho đến những lúc gặp nạn ngoài khơi đều có sự che chở của loài cá
này. Sự chuyển hóa từ lợi ích sang tín ngưỡng là một logic phổ biến trong tư duy
chung của nhân loại. Nó cũng chính là cơ sở để hình thành nên hệ thống truyền
thuyết nhằm tôn vinh, ngợi ca và bày tỏ thái độ biết ơn, thành kính của nhân dân đối
với cá Ông.
1.4. Cá Ông trong thực tiễn Việt Nam và các nước
Những gì ở trên, chúng tôi đã trình bày về cơ sở tín ngưỡng thờ cá Ông của
người Việt Nam, một đất nước nhỏ nhưng có may mắn được chung sống với loài
vật to lớn và thông minh nhất thế giới. Cá Voi cứu giúp con người ở mọi nơi,
nhưng gần như chỉ riêng ở xứ sở nước ta, lòng tốt của cá Voi đã trở thành
niềm tin tâm linh trong tục thờ trang trọng và có ý nghĩa sâu sắc đến tâm thức
biển của nhân dân. Trên thế giới, rất nhiều nơi người dân không thờ cá Voi, song
họ cũng rất kính trọng và xem cá Voi như người bạn đồng hành tốt bụng trên biển.
Ở bộ tộc Haida (Mỹ) cũng có những truyền thuyết về tổ tiên của họ được cá Voi
30
đưa trên lưng vượt sóng biển trở về nhà. Nên với họ, cá Voi rất được tôn trọng. Ở
Pháp, năm 1993, một chiếc tàu đánh cá nhỏ của gia đình Colombier gồm ba người
đã may mắn sống sót qua cơn bão biển nhờ một đàn cá Heo bao quanh chiếc tàu.
Mõm của chúng đều quay về hướng Tây như hàm ý cho những người trên tàu biết
rằng đưa tàu về hướng đó thì mới có cơ may sống sót. Họ đã đi theo hướng đàn cá
chỉ và bắt gặp hòn đảo nhỏ Sainte Barte rồi neo tàu nấp cho đến khi bão tan. Để biết
ơn đàn cá Heo cứu mạng ngư dân, chính quyền thành phố Conquet đã cho xây dựng
một tượng đài hình cá Heo đặt ngay tại cảng. Người Eskimo ở vùng Alaska (Mỹ),
người dân tộc trên đảo Lembata (Indonesia), vì cuộc sống, họ đã săn bắt loài này
nhưng với một số lượng rất ít. Trước khi săn cá Voi, họ thường tổ chức lễ nghiêm
trang cầu xin cá Voi tha tội và xin sự chở che của Chúa. Và hầu như nhiều nước có
cá Voi sinh sống, con người rất có ý thức bảo vệ cho loài này nhưng không có tục
thờ như ở nước ta.
Cá Voi cứu giúp con người đã không chỉ đi vào niềm tin và lòng kính trọng của
nhân dân nhiều nơi trên thế giới, mà nó còn trở thành cảm hứng cho nhiều bộ phim
kinh điển. Có những bộ phim chỉ đưa cá Voi vào trong một phân cảnh, nhưng có
những bộ phim lấy cuộc sống của cá Voi làm nội dung chính, đưa đến người xem
nhiều sắc thái tình cảm xúc động về lối sống kì diệu của loài vật này. Điều quan
trọng là thông qua nội dung những bộ phim, chúng ta biết thêm về cái nhìn của mọi
người trên thế giới đối với cá Voi. Nhiều nơi, cách nhìn nhận của họ về cá Voi
không khác với người Việt chúng ta. Một số bộ phim tiêu biểu như: Phim Cá Voi
nổi giận của hãng Dino De Laurentiis sản xuất năm 1977. Bộ phim này lấy cảm
hứng từ một thực tế: cá Voi là người bạn thân thiện, cứu giúp con người nhưng
ngược lại, con người lại tổ chức săn bắt và giết hại chúng. Phim Giải cứu Willy do
hãng Warner Bros sản xuất năm 1993, được xây dựng từ cảm hứng thiện tính tốt
bụng của loài cá Voi: chúng rất thân thiện và tốt với con người nếu như được con
người đối tốt với chúng. Phim Phép màu do Mỹ sản xuất năm 2012, là bộ phim nói
về vấn đề mọi người hãy chung tay bảo vệ loài cá khổng lồ này… Qua những bộ
phim điện ảnh kể trên, chúng ta có thể thấy ở khắp mọi nơi trên thế giới, mọi người
đều có tâm thức nhìn nhận cá Voi là loài vật sống có tình nghĩa như con người. Các
bộ phim đã gây xúc động mạnh cho khán giả khi loài cá Voi cũng biết và hiểu tình
cảm của con người dành cho nó. Trên thế giới hiện nay, vấn đề bảo vệ cá Voi đang
31
trở nên hết sức quan trọng. Và trong công cuộc ấy, cá Voi đã làm nên những điều kì
diệu đối với cuộc sống con người. Nó là niềm tin tâm linh, là tín ngưỡng, là bài học
về lòng yêu thương và che chở cho không riêng đồng loại mà cả loài khác. Nó là
nhịp cầu để nối con người giữa các lục địa gần nhau hơn, đồng lòng hơn trong mục
tiêu bảo vệ loài thú hiền lành này. Bởi chính thiện tính rất tình cảm của cá Voi, nó
đã khiến cho trẻ em, người lớn, các tổ chức và cả chính phủ các nước đồng lòng
tham gia vào chương trình hỗ trợ và bảo vệ loài cá, người bạn đồng hành tốt nhất
của con người trên biển. Từ những điều đó, chúng ta mới thấy được tầm ý nghĩa vô
cùng quan trọng của tục thờ cúng cá Ông mà ông bà tổ tiên đã truyền cho con cháu
chúng ta ngày nay. Xét ở mức vi mô nội trong đất nước, cá Ông đã đưa đến cho
nhân dân một tập tục tốt đẹp, một ý thức sống tốt đẹp và những giá trị nhân văn tốt
đẹp. Còn trên tầm vĩ mô, tục thờ cá Voi của nhân dân ta là một hành động tích cực
cho vấn đề bảo vệ sự sống các loài trên trái đất. Không quy mô như một số nước,
nhưng ý thức, niềm tin và tục thờ cá Ông ở nước ta đã là việc làm đầy ý nghĩa nhân
văn trong sự chung sống hòa bình, thân thiện với loài cá “thần linh” này.
32
Chương 2 - HỆ THỐNG TRUYỀN THUYẾT CÁ ÔNG
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều truyền thuyết xoay quanh vị
thần cá Ông nằm trong truyện dân gian của người Việt. Bên cạnh đó có một số ít
của người Chăm như nhiều người vẫn nói. Trong chương này, chúng tôi sẽ tập trung
hệ thống lại các truyện làm cơ sở dữ liệu cho các mô tả về sau. Tuy nhiên, ở phần
này chưa phải là toàn bộ các truyền thuyết, các truyện mà chúng tôi sưu tầm được
trong ngư dân Việt. Vì để tránh trường hợp bị lặp khi dẫn chứng nên có một số
truyện nằm trong phạm vi hẹp của từng địa phương chúng tôi sẽ nêu ra trong quá
trình phân tích vấn đề. Hơn nữa, chúng tôi không giới hạn số truyện nhất định mà
chúng tôi khảo sát, nhằm để mọi người không bị đóng khung lại trong số truyện
chúng tôi giới thuyết bởi truyện về cá Ông còn rất nhiều. Dưới đây là những truyền
thuyết chúng tôi cho là phổ biến trên phạm vi rộng.
2.1. Truyền thuyết cá Ông qua các tư liệu sưu tầm và điền dã
Như trong phần đầu chúng tôi đã nói, hiện nay chúng tôi chưa tiếp xúc được
với một bài nghiên cứu nào đề cập riêng đến truyền thuyết cá Ông. Thế nên, ở đây
chúng tôi đã tham khảo từ nhiều bài viết dưới góc độ dân tộc học, văn hóa học cùng
các bài phóng sự của báo tỉnh trên trang mạng. Rải rác trong các bài viết này có một
vài truyền thuyết cá Ông được nêu ra, hoặc được ghi chép qua lời kể của người dân.
Từ những thu nhặt đó cộng với quá trình đi điền dã thực tế, chúng tôi tổng hợp lại
các truyền thuyết mà chúng tôi cho là ít nhiều đã có chạm đến khía cạnh của văn
học nghệ thuật và đưa vào thành hệ truyền thuyết cá Ông. Còn rất nhiều truyện
ngoài dân gian nhưng vẫn còn nằm ở tính sự kiện chúng tôi cũng nêu ra vì tuy mới
chỉ lưu truyền trong địa bàn hẹp song ở nhiều nơi lại có cách kể và nội dung khá
giống nhau (các truyện sau cùng của mục này nằm ở dạng đó). Ở đây, chúng tôi liệt
kê truyện theo tiêu chí phân nhóm dựa vào không gian, xuất xứ truyền thuyết được
lưu truyền.
2.1.1. Truyền thuyết của người Chăm
1. Truyền thuyết sau đây được khá nhiều bài viết nói tới. Mọi người cho rằng
đây là truyền thuyết về thần cá Ông của người Chăm, được lưu truyền dưới tên thần
Po Riyak. Đây là một truyền thuyết về thần được ghi chép trong bài viết “Tục thờ
33
cúng cá Ông và hát múa bả trạo của cư dân ven biển – hải đảo Quảng Ngãi” của
tác giả Lê Hồng Khánh (www.nuiansongtra.com), truyền thuyết kể lại rằng:
Cá Voi vốn là hóa thân của một vị thần tên là Ja Aih Wa. Thời trẻ, Ja Aih Wa được
cha mẹ cho theo thầy học phép thuật. Sau hơn mười năm tu luyện có phép thuật cao
cường, Ja Aih Wa khát khao được trở về xứ sở. Nhưng người thầy không đồng ý vì
cho rằng học trò của mình cần thêm thời gian để tu luyện và lĩnh hội đầy đủ tinh
hoa huyền thuật. Nhớ cha mẹ, quê hương, Ja Aih Wa đã cãi lời thầy, tự ý biến thành
cá voi, theo sông lớn đi ra biển và sau đó bị thầy trừng phạt. Sau lời nguyền của
thầy, Ja Aih Wa bị các loài thủy tộc ở biển Đông hành hình phải trải qua nhiều kiếp
nạn. Sự trừng phạt đồng thời cũng là thử thách. Xác Ja Aih Wa trôi dạt vào đất liền
rồi hóa thành thiên nga bay về cố xứ. Chốn quê nhà, Ja Aih Wa đau lòng khi biết
cha mẹ đã mất nên buồn bã đi tìm một đảo hoang để sống. Từ hình hài thiên nga, Ja
Aih Wa lại hóa thành người và tiếp tục tu luyện rồi qua đời trên đảo vắng. Cảm khái
tấm lòng hiếu thảo, sẵn sàng chịu xả thân vượt qua nguy nan tìm về gia đình,
thượng đế đã hóa phép để ông thành vị thần cứu nạn trên biển. Khi thành thần, Ja
Aih Wa đổi tên và tự xưng là Pô Riyak tức thần sóng biển. Từ đó, Ja Aih Wa trở
thành ân nhân của những người bị đắm thuyền giữa biển khơi. Mỗi khi nghe tiếng
nạn nhân kêu cứu thì Ja Aih Wa liền hóa thành cá Voi, rẽ sóng đến nâng thuyền và
người vào bờ.
2. Cũng có nội dung về thần Po Riyak, nhưng đây là một truyền thuyết thần
Po Riyak được ghi trong sách cổ Chăm do P.Mus ghi lại, được đăng trong bài “Giới
thiệu tác phẩm Ariya Po Riyak” do tác giả Báo Thị Hoa đăng lại nguyên bài phân
tích của PGS. Po Dharma trong chương trình thế giới Mã Lai – Đông Dương (Tập
san Vijaya, Hội bảo tồn văn hóa Champa, USA, số 5, tháng 10, 2005, tr.131-132).
Nội dung truyền thuyết thần Po Riyak như sau:
Po Riyak tên thật là Ja Aih Wa, sinh vào ngày thứ ba, mồng 4, tháng 4, năm Tý.
Theo tác phẩm Ariya Po Riyak, ngài là người Chăm Awal (Bani), gốc làng Pacem,
Phan Rí, sang du học ngành pháp thuật ở Makah mà người Mã Lai thường gọi là
Serambi Makah, tức là tiểu vương quốc Kelantan của liên bang Mã Lai. Khi nghe
tin quê hương ngài lâm vào cảnh loạn lạc vì bị người Jek (Người Việt) chiếm đóng,
ngài quyết định từ bỏ nhà trường để quay về cứu dân cứu nước. Sư phụ của ngài
khuyên là chưa nên quay về, vì thiên thần chưa cho phép. Nếu không, ngài sẽ gặp
34
nhiều điều không lành, có thể nguy hại đến tánh mạng. Ngài nhất quyết không nghe.
Nửa đêm, ngài quay xuống thuyền làm lễ tạ tội, rồi nhổ neo trở về Panduranga
(Ninh Thuận). Khi thuyền ngài đến gần Hải phận Champa, trời nổi mây mưa bão tố
và cá thần mang tên là Inâ Patrang hay Inâ Katrang đánh vỡ thuyền ngài. Bị chìm
đắm vào lòng đại dương, ngài được cá “Ông” (ikan limân) đưa về bờ đất liền ở
Gram Pari, Phan Rí. Người Chăm và cả người Việt thấy vậy liền lập đền thờ phụng
ngài ở đây.
3. Một truyền thuyết khác cũng giống như truyền thuyết số 2, nhưng phần
sau có sự khác biệt. Truyền thuyết này cũng được giới thiệu chung với truyền thuyết
trên trong tác phẩm “Giới thiệu tác phẩm Ariya Po Riyak” của tác giả Báo Thị Hoa.
Nội dung phần khác biệt đó như sau : Các bài phúng điếu Po Riyak do Ong Kadhar
xướng ca trong các lễ tục (Katé, Puis, Payak v.v.) và Ong Maduen hát trong lễ múa
Rija thì cho rằng khi thuyền ngài bị đắm, ngài ngồi trên lưng cá “Ông” trở về bờ đất
liền. Nhưng ngài từ chối ghé vào Pajai, Phan Rí ngay cả bờ Cà Ná nơi mà người
Chăm tìm cách đâm chém và liệng đá vào cá Ông chở ngài lên bờ: “Po mai di brok
dayep, dak gep ra klep, lac Po Ikan, Po mai di krâh melam, dak gep ra glam, lac
Po Ikan” (CAM 248a, tr. 247). Chính vì thế, ngài phải dừng chân ở Craok Dil, tức
là Sơn Hải, phía bắc Cà Ná (huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận), nơi mà người
Chăm và Việt lập đền thờ ngài và phúng điếu hàng năm. Trong phần sau truyền
thuyết Ariya Po Riyak còn có đoạn, Po Riyak hóa thân để cưới thêm bà vợ Kaho
gốc dân tộc miền núi, sinh ra hai đứa con gái. Po Riyak cũng hóa thân bay tận thế
giới thần linh để viếng thăm Po Klaong Garai và hóa thân vào trái lựu của thân mẫu
Po Klaong Garai để được sang viếng thăm nước Siam (Thái Lan).
4. Cũng nằm trong bài “Giới thiệu tác phẩm Ariya Po Riyak” như trên,
nhưng phần phụ lục có dẫn một bản xướng ca ghi trong sách cổ Chăm của Viện
Viễn Đông Pháp mang ký hiệu CAM 244, truyền thuyết về thần Sóng Cả của người
Chăm được giới thiệu chung ghi lại rằng : “Po Riyak người làng Pacem, là một
người thông minh và đức độ (câu 1-2), lại rất ham học. Khi ở trong nước, ông đã
gác bỏ chuyện gia đình (o patih gruk sang, câu 3) để theo thầy tìm học. Ông học rất
nhiều thầy, và nghe ở đâu có thầy hay, thầy giỏi là ông tìm đến đó để học. Sau cùng
thì ông quyết định sang Makah (Kelantan, Malai) để du học. Mục tiêu của ông là để
sau này cứu dân giúp nước (câu 4). Thầy thấy ông là một người thông minh, học
35
giỏi, nên truyền đạt cho ông tất cả các môn học (khoa học tự nhiên, triết lý, thuật trị
nước...), cũng như các pháp thuật (câu 8). Khi nghe tin trong nước loạn lạc,
quân Jek (Ðại Việt) tấn công Champa, lòng ông như sôi sục, ông muốn quay về để
cứu dân cứu nước. Thầy ông khuyên ông là chưa nên quay về. Ông không nghe,
nửa đêm quay xuống thuyền làm lễ tạ lỗi rồi nhổ neo về nước. Sáng dậy, thầy
không thấy ông, biết là ông đã trốn đi và nghĩ rằng ông vô lễ vì đã không nghe theo
lời mình nên có lời nguyền: “Nếu đi trên nước cá đớp, nếu đi trên rừng rắn cắn, cọp
vồ” (câu 27).
Không ngờ, lời nguyền của thầy ông trở thành linh ứng. Khi thuyền ông gần tới Hải
phận Champa, trời đang sáng bỗng tối sầm lại, trời nổi mây mưa rồi làm bão tố, rồi
loài thủy quái ina patrang và iya katrang bao vây và tấn công đánh vỡ thuyền ông
ra làm hai. Ông ngụp lặn trên biển cả mấy ngày đêm, một con cá “Ông” bơi lại đưa
ông về bờ Phan Rí. Người Chăm và cả người Việt thấy vậy đều thuần phục, tôn
vinh ngài là Po Riyak “Thần Sóng”, rồi lập đền thờ. Cũng kể từ đấy, dân vùng biển,
cả Chăm lẫn Việt (nhất là những ngư dân) có lễ tục thờ Po Riyak tức là thờ “Thần
Cá Ông”. Vì họ cho ông là hiện thân của loài cá này và chúa tể của biển cả.
Trong bài “Giao lưu văn hóa Việt – Chăm nhìn từ tục thờ cá Ông” của tác
giả Nguyễn Thanh Lợi (tạp chí Văn hóa dân gian số 2, 2003) tác giả đã dẫn ra hai
truyền thuyết về cá voi của người Chăm từ hai nguồn tư liệu viết bằng tiếng Pháp:
5. Một truyền thuyết do tác giả Thái Văn Kiểm ghi chép (Le culte de
baleaine, BSEI, N.S, Tome XLVII, N2,2e Trimestre, 1972, p.316, bản dịch Đỗ Lai
Thúy). Nội dung truyền thuyết kể rằng: “Từ thuở xa xưa người Chăm tôn xưng cá
Voi là vua sóng cả… Từ thuở xa xưa, người Chăm tôn thờ tất cả những gì có vẻ kì
lạ trong mắt họ. Chính khúc gỗ có hình dáng con đại bàng mà những người Bồ Đào
Nha đầu tiên tới trả bằng giá vàng là đối tượng của một truyền thuyết giải thích
nguồn gốc nhà trời của dân Chăm, nghĩa là người Chăm là con cháu của một cuộc
kết duyên của chim Ưng gỗ (tiếng Chăm là Patangahlau) và vua Sóng cả tức là cá
Voi. Bởi vậy, cá Voi luôn luôn bảo hộ những người đi biển bị đắm tàu và cứu giúp
họ”.
6. Một truyền thuyết do Antone Cabaton (Nouvelles recherches sur le Cham,
BEFEO, 1901, p.117 – 118) dẫn lại trong các bài tụng ca của dân tộc Chăm có
truyền lại một truyền thuyết sau: Ba người con trai của vua Đại Bàng Rừng Xanh
36
(có nơi ghi là con vua Kì Nam) và vua Cá Voi đã liên minh với nhau để cùng cai
quản lãnh thổ của họ. Khi vua cá Voi di chuyển, tất cả các loài cá theo hộ vệ.
Không may cho những ai ném đá hoặc đánh bắt. Vua cá Voi nổi lên mặt nước như
một cái phao… Khi các cơn bão hoành hành, vua cá Voi tìm đến những cửa sông…
Đó là những truyền thuyết của người Chăm mà chúng tôi sưu tầm được. Nói
chung, vì người Chăm đã không còn hoạt động về nghề đánh bắt cá như tổ tiên của
họ nên hệ truyền thuyết liên quan đến cá Ông cũng mai một, không còn nhiều người
nhớ. Hầu như các truyền thuyết này được lưu truyền trên văn bản, và trong một
phần nghi lễ thờ thần Po Riyak của lễ hội nông nghiệp, còn trong đời sống dân gian
thì cũng ít người biết tới.
2.1.2. Truyền thuyết của người Việt
2.1.2.1. Các truyền thuyết và cổ tích về cá Ông
7. Một truyền thuyết cá Ông (cá Heo) được bác Giang Văn Thuyên (60 tuổi,
Trưởng ban quản lý di tích đền Đỏ) và bác Phạm Khắc Ngự (70 tuổi, Thủ từ đền
Đỏ) ở thôn Sơn Thọ 2, xã Thái Thượng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình kể cho
chúng tôi nghe như sau: Ngư thần vốn là con của vua Thủy tề được lệnh canh giữ
kho có chứa một vật báu. Nhưng vì sơ xuất mà con trai vua Thủy tề làm vật báu bị
thất lạc nên bị phạt phải hóa thành cá Heo và phải đi tìm cho được vật báu ấy.
Trong thời gian đi tìm thì Ngài phải có nhiệm vụ cứu nạn, giúp đỡ con người để tích
đức, đồng thời phải tìm cho ra vật báu đó thì mới được hóa thành rồng. Thế nên
ngày nay, mỗi khi cá Heo nhảy và bơi lội ngoài biển, mọi người truyền rằng đó là
con vua Thủy tề đang đi tìm vật báu để được hóa rồng.
8. Truyền thuyết phổ biến nhất về cá Ông là truyền thuyết gắn cá Ông với
Đức Phật. Truyền thuyết này khá phổ biến ở khu vực miền Trung và được tác giả
Toan Ánh giới thiệu trong tác phẩm Hội hè đình đám (Nxb Trẻ, 2005). Ở đây,
chúng tôi giới thiệu truyền thuyết này qua lời kể của sư thầy Huệ Tánh, chủ trì chùa
Phật Quang, thành phố Phan Thiết, Bình Thuận vào lần đi điền dã tháng 4/2012.
Nội dung truyền thuyết kể rằng : Cá Voi vốn là tiền thân của Phật bà Quan Âm.
Phật bà trong một lần hóa thân thành cá Ông đi tuần du biển Nam Hải, nhìn lướt
trong sóng gió đại dương, Phật bà đã không khỏi đau lòng khi thấy các sinh linh
phải bỏ mình vì gặp phải phong ba bão táp, mà những nạn nhân này chỉ là những
ngư dân hiền lành, nhỏ bé trong cơn mưu sinh lấy nghề đánh cá nuôi thân.
37
Trước cảnh tượng đau lòng đó, Phật bà đã cởi chiếc áo pháp y, xé thành nhiều mảnh
nhỏ ném vung xuống biển mênh mông. Mỗi mảnh vụn theo ý nguyện của Phật biến
thành một con cá Voi với trách nhiệm cứu nguy những ngư dân lâm nạn trước bão
tố của Nam Hải đại dương. Kể từ đó, cá Voi trở thành ân ngư của những người dân
chài trên biển.
Nhưng lúc đó hình vóc cá Voi nhỏ bé không đủ sức chống chọi với sóng ba đào nơi
biển khơi để cứu giúp thuyền bè nặng nề. Phật bà lặn lội lên núi Linh Thứu, rừng
Thiên Trúc mượn những bộ xương ông Tượng đem về cho cá Voi. Nhờ thế cá Voi
mới trở nên to lớn và đủ sức vẫy vùng giúp người gặp nạn trên biển. Danh xưng cá
Voi cũng có từ ngày đó. Người ta cũng nói rằng bộ xương cá Voi và bộ xương của
loài voi trên rừng rất giống nhau.
Với thân hình to lớn và khỏe mạnh, cá Voi mặc sức vẫy vùng và chống chọi với
sóng gió to gió lớn, kèm giữ cho thuyền bè được thăng bằng, không bị chìm đắm
hay bị sóng đánh vỡ trong bão tố, lại dìu được ghe thuyền vào đến tận bờ. Nhưng
cũng vì to lớn quá nên cá Voi rất chậm chạp, nhiều khi biết có người gặp nạn nhưng
không kịp bơi tới hoàn thành nhiệm vụ. Phật bà liền ban cho cá Voi phép thâu
đường, có thể đến với người bị nạn nhanh chóng, dù ở bất cứ nơi đâu cũng có thể
đến kịp thời. Phật bà còn ban cho cá Voi ống thông đạo trên đỉnh đầu, ống này có
hai nhiệm vụ: một là phun vòi nước tịnh thủy báo cho ngư dân biết có bão bùng mà
nấp, hai là phun ống khói bạch vân để báo hiệu sự oai vang linh ứng của mình. Phật
bà còn dạy cho ngư dân 12 câu nguyện gọi là thập nhị đại nguyện (có chi tiết khác
kể rằng Phật bà dạy 108 câu nguyện, tương ứng với 108 hạt trên tràng hạt của các
sư thầy ; số 12 trong 12 câu nguyện có lẽ để tương đương với 12 cái tên của áo cà sa
đã hóa thành cá Voi) để mỗi khi có nạn thì khấn cá Voi đến cứu.
9. Một truyền thuyết khác được tác giả Nguyễn Thanh Lợi giới thiệu trong
bài Tục thờ cá Ông ở ven biển Nam Trung Bộ (Tạp chí văn hóa dân gian, số 4/2006)
kể về cá Ông ở thôn Quảng Hội (xã Vạn Thắng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa),
truyền thuyết liên quan đến Ông Nam Hải và một vị nhân thần là Quan Công: Một
con phượng hoàng đẻ ra hai trứng, một trứng rớt xuống biển Đông hoá thành ông
Nam Hải (cá Voi) và trứng kia rơi trên đất liền, được một vị hoà thượng ấp trong
đại hồng chung, sau 100 ngày nở ra Quan Thánh, vị này sau đó bị dẹp sau ót do
chui ra từ trong chuông.
38
10. Một truyền thuyết về cá Ông chúng tôi ghi chép được qua lời kể của ngư
dân Nguyễn Văn Lụm (xã Lạc Tân 2, huyện Cà Ná, tỉnh Ninh Thuận ). Truyện kể
rằng: cá Ông thuở xa xưa vốn là một vị tướng có chức tước lớn trong thiên đình, với
chức vị đó Ông được ban cho chiếc áo rất đẹp. Một ngày, Ông đi hút con ruốc để ăn
thì hút phải đứa bé đang tắm biển gần đó. Vì tội làm chết con người nên Ông bị
thiên đình trị tội, tước bỏ chiếc áo và chức tướng, rồi lệnh cho Ông phải có nhiệm
vụ cứu người chuộc tội. Thế nên, từ khi mất chiếc áo cá Ông chỉ còn bộ đồ màu đen
và phải túc trực ngoài biển cứu người chuộc tội khi xưa.
11. Một truyền thuyết mà chúng tôi thấy trong nhiều bài phóng sự có đề cập.
Ở đây, chúng tôi ghi chép lại theo lời kể của bác Lê Văn Hời, trưởng ban nghi lễ
dinh Ông Nam Hải, xã Phước Hải, huyện Long Điền, tỉnh Vũng Tàu trong lần đi
điền dã vào tháng 4/2012. Truyền thuyết kể rằng: cá Ông vốn là vị tướng quân được
Long Vương ra lệnh phải bảo vệ và giúp đỡ thuyền bè qua lại. Những vị tướng này
nếu không hoàn thành nhiệm vụ, khiến cho tàu đắm hoặc người chết sẽ bị trừng
phạt chém thành ba khúc, hoặc sẽ phải chết theo người mà cá Ông cứu không thành.
12. Trong bài “Tín ngưỡng thờ cá Ông ở Bến Tre” của Dương Hoàng Lộc
(www.bentre.gov.vn), trong bài viết tác giả đã ghi chép lại một truyền thuyết được
người dân tại xã An Thủy, huyện Ba Tri, Bến Tre kể lại nội dung như sau: Cá Voi
vốn là một vị thần trên thiên đình được Ngọc Hoàng sai xuống hạ giới, hóa thành cá
Voi ở từng cửa biển làm nhiệm vụ cứu giúp các thuyền ngư dân gặp nạn trên. Nếu
cá cứu được càng nhiều người sẽ tích được nhiều công đức cho đến khi thiên đình
mở hội khoa thi, công đức nhiều thì cá Ông sẽ vượt được vũ môn hóa thành rồng
bay về trời. Ngược lại, nếu cá còn ít công đức sẽ quay trở lại chốn cũ tiếp tục sứ
mệnh cho đầy đủ. Khi người dân gặp nạn mà cá Ông không cứu sẽ bị cá Đao phanh
thây, trừng phạt. Truyện này được nhân dân sáng tác có lẽ dựa trên một thực tế rằng
mỗi khi cá Ông đi đâu thường có cặp cá Đao, cặp Tôm càng và cặp Mực đi cùng.
13. Trong “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đổng Chi
(Nxb Giáo Dục Hà Nội, năm 2000, truyện số 178), có kể về “Sự tích bãi Ông Nam”,
cốt truyện như sau: Cá Voi là hóa thân từ chiếc áo cà sa của Phật bà. Để cho cá Voi
có thể làm nhiệm vụ cứu người được tốt, Phật bà đã ban cho cá Voi thân hình đồ sộ,
khả năng nhanh chóng đến với người cứu nạn và đặc biệt là một số quân đi theo hầu
hạ và nhắc nhở cá Voi không được lơ là với phận sự của mình. Quân hầu đó gồm có
39
cá Mực để chỉ đường vạch lối cho cá Voi đi được nhanh, cá Đao luôn cầm ngọn đao
bảo vệ tả hữu cá Voi. Vì cá Voi sống ở biển Nam nên từ đó họ gọi cá Voi là Ông
Nam hoặc cá Ông. Cá Ông trấn thủ ở vàm Ông Đốc và rất tận tụy với nhiệm vụ của
mình. Một ngày, cá Ông bỗng muốn đi ngao du một chuyến để ngắm nhìn phong
cảnh. Được sự chấp thuận của cá Mực và cá Đao, thế là bộ ba cùng nhau lên đường.
Nhưng một đêm nọ, khi cả ba đang đi thì sóng gió bất thường nổi lên, cả ba vội
vàng kéo nhau về. Vì có phép thần, cá Ông biết tin ở vàm sông Ông Đốc có một
thuyền đang gặp nạn. Nếu đi theo đường biển thì sẽ không kịp về cứu nạn, cá Ông
cùng quân hầu liền đi tắt theo vàm sông Bồ Đề để về cho kịp. Cá Ông hồi này đang
có mang, vì lối sông này cạn, thân hình Ông lại lớn, gió bão nổi lên mỗi lúc một
mạnh nên cái thai bị sảo ra và chết. Tuy đau lòng nhưng cá Ông vẫn cố bơi về cứu
được chiếc thuyền sắp chìm trong lòng biển và thêm năm chiếc khác. Từ đó, dân
chài vàm sông Bồ Đề lập miếu thờ đứa con bị sảo ra của Ông khi đi làm nhiệm vụ.
Miếu ấy người ta gọi là miếu Ông Nam, còn bãi nơi Ông vượt qua cũng có tên gọi
bãi Ông Nam từ đó.
14. Một truyền thuyết khác không nằm trong hệ thống truyền thuyết trên,
nhưng được ngư dân vùng Bình Thuận lưu truyền với nhau rằng: “Một người con
trai của vua ở tận bên Úc đi chơi tắm biển gặp nạn. Khi tình thế hết sức nguy hiểm
thì từ đâu có một con cá Voi đến đưa người con đó vào bờ. Từ đó, vị vua hết sức
cảm tạ cá Voi và tôn loài cá này thần thánh, ban bố lệnh cho khắp nơi không được
săn bắt hay giết thịt. Từ đó, nhân dân các nơi tôn thờ Ông thành thần bảo trợ cho
người đi biển” [62].
2.1.2.2. Truyền thuyết lịch sử hóa cá Ông thời kì bôn tẩu của vua Gia
Long
Các truyền thuyết về cá Ông ngoài những truyện gắn với đời sống dân gian,
còn có một bộ phận truyền thuyết cá Ông gắn với thời kì bôn tẩu mà dân gian cho là
có thật vào thời vua Gia Long phải thoát thân khỏi sự truy đuổi của quân Tây Sơn.
Các truyền thuyết này đều nói đến việc nhà vua và quan quân được cá Ông cứu giúp
khi đoàn binh trong tình trạng nguy cấp. Trong bài viết Tín ngưỡng thờ cá Voi ở Cà
Mau của tác giả Phạm Văn Tú, đăng tải trên tạp chí Văn hóa dân gian (số
3/2007,tr.48) có ghi chép hai truyền thuyết về cá Ông cứu vua như sau:
40
15. Vùng biển Kì Hòa và Cửa Sót (Hà Tĩnh): “Khi Nguyễn Ánh bị Nguyễn
Huệ đánh chiếm Gia Định lần thứ ba, phải bỏ chạy ra biển để sang Xiêm. Thuyền ra
đến ngoài khơi thì hết nước ngọt. Trước tình trạng nguy khốn đó, bỗng xuất hiện
một con cá Voi dâng đến cho dòng nước ngọt, cứu quan quân khỏi chết khát. Sau đó
trên đường đi, đoàn thuyền lại gặp bão lớn. Một lần nữa cá Voi lại hiện lên cứu, đưa
thuyền lánh vào đảo Côn Sơn (nay thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Vì vậy sau khi
lên ngôi, nhớ ơn cứu mạng, vua Gia Long phong sắc cho cá voi là Nam Hải Ngọc
Lân.
16. Vùng biển Quảng Nam- Đà Nẵng: vua Gia Long trên đường chạy trốn
quân Tây Sơn, khi đến cù lao Chàm thì bị quân Tây Sơn đuổi sát nút. Trong lúc
nguy cấp, vua cầu trời khấn phật, bỗng đâu một con cá Voi khổng lồ hiện ra nổi lên
từ mặt nước xông đến phía quan quân Tây Sơn quẫy mình gây sóng gió làm đắm
một số thuyền của quân Tây Sơn. Khi lên ngôi, Gia Long phong tặng cá Voi danh
hiệu “Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân”.
17. Trong bài Vàm Láng - Lễ hội Nghinh Ông, đăng tải trên trang
www.gocong.com (10/2007) có ghi chép tích cá Ông cứu vua ở Gò Công như sau:
Chúa Nguyễn Ánh trong cuộc chiến với quân Tây Sơn nhiều phen thất bại phải bôn
tẩu ra đảo Côn Lôn, Phú Quốc, mấy phen cầu viện Xiêm La. Đến một ngày vào
khoảng tháng giêng, sau khi tụ tập được các chiến thuyền và quân lính, bèn kéo
quân tới vây hãm thành Bình Thuận. Lúc đầu chúa Nguyễn thắng thế, nhưng sau đó
quân Tây Sơn được binh cứu viện nên chúa Nguyễn phải mở đường máu để tránh
họa diệt vong. Sau trận tử chiến, Nguyễn Ánh kéo tàn quân chạy về phương Nam,
quân Tây Sơn đuổi theo sau rất gấp. Khi thuyền vua và quân sĩ nhà Nguyễn đến cửa
sông Soài Rạp (con sông lớn phân ranh giữa tỉnh Gò Công với Gia Định, nay là
huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang), bão tố bỗng nổi lên dữ dội. Chúa Nguyễn
nhìn trời khấn nguyện “Nếu trời còn tựa nhà Nguyễn thì xin phù hộ Nguyễn Ánh
này qua cơn thập tử nhất sinh”. Thuyền của chúa Nguyễn đang trong thế nguy cấp
bỗng được cặp cá Ông nổi lên, kẹp vào hai bên mạn thuyền dìu đỡ thuyền vào bờ
bình an. Thuyền của quân Tây Sơn bị bão tố chặn đường nên không đuổi theo được
nữa. Nơi thuyền chúa Nguyễn được cá Ông đưa vào bờ thuộc địa phận làng Vàm
Láng, huyện Kiểng Phước của tỉnh Gò Công cũ. Do vậy, sau khi vừa lên ngôi vua
Gia Long đã sắc phong cho loài thủy tộc này tước Nam Hải Đại tướng quân và chỉ
41
thị cho ba làng gần nơi ông được giải cứu trước kia là xã Kiểng Phước, Gò Công,
Tiền Giang; xã Cần Giờ tỉnh Gia Định và Vũng Luông tỉnh Vĩnh Long phải lập lăng
thờ Nam Hải Đại tướng quân để cúng bái.
18. Ở Cầu Ngang, Trà Vinh: Tương truyền trong một lần bị tướng Tây Sơn
truy đuổi ráo riết, chúa Nguyễn Ánh lâm vào thế đường cùng, phía trước là cửa biển
mênh mông, phía sau là vó ngựa gần thêm. Tính mạng chỉ còn như chỉ mành treo
chuông. Gia Long khấn trời thì bỗng đâu Cá Ông nổi lên, vọi ba vòi nước lên trời tỏ
lòng qui phục. Chúa mừng rỡ cùng đám tàn quân vừa yên vị trên lưng thì Cá ông đã
rẽ sóng vượt cửa biển sang cù lao Cổ Chiên trước khi quân Tây Sơn đuổi kịp. Đặt
chân lên đất cù lao, khi chúa vừa thu quân rúc vào rừng rậm thì không biết từ đâu
hàng đàn rái cá rùng rùng xuất hiện, lăn mình xóa dấu quân đi. Tại dãy đất cù lao,
chúa Nguyễn Ánh lập đàn tế và phong cho cá Voi là Nam Hải Tướng quân và tộc
loài Rái cá là Lang Lại Tướng quân”.
19. Đây là truyền thuyết chúng tôi ghi chép được theo lời kể của sư thầy Huệ
Tánh ở chùa Phật Quang, trong chuyến đi công tác ở Cà Mau thầy đã ghi chép lại từ
lời kể của người dân sống gần Hòn Đá Chúa (Tỉnh Cà Mau). Truyện này cũng có
nội dung gần với truyện kể trên: Khi chúa Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đuổi theo
ráo riết, cùng đường, chúa Nguyễn Ánh và quan quân xuống thuyền vượt biển ra
đảo Phú Quốc. Chừng được mười hải lý thì trời nổi sóng gió bão bùng gây nguy cấp
đến tính mạng. Chúa Nguyễn Ánh liền thắp hương vái trời nếu đã cho Ngài có
mệnh đế vương thì xin hãy giúp Ngài vượt qua cơn nguy này. Sau lời khấn, bỗng từ
đâu hiện ra đàn cá Voi ào tới, cặp vào mạn từng chiếc thuyền mà đưa vua và quan
quân vào tới bờ vô sự. Lúc quan quân lên bờ bình an thì một đàn rái cá hiện ra xóa
dấu chân để quân Tây Sơn không phát hiện ra được. Thoát khỏi nạn Tây Sơn, vua
quan hội tề và dựng trong vùng một hòn đá để kỷ niệm. Hòn đá cao chừng 5m và có
khắc 3 chữ Nôm: Hòn Đá Chúa. Nay hòn đá ấy vẫn còn ở Minh Hải, Cà Mau.
20. Trong bài Những điều kì thú về cá Voi ở Bình Thuận của tác giả Trần
Thương (tạp chí Du lịch Việt Nam, năm 2000) có ghi chép một truyện tương tự:
Một truyền thuyết khác ở Bình Thuận kể rằng, vua Gia Long trong một lần ngự
thuyền rồng ở Huế, chẳng may thuyền gặp phong ba, trôi dạt vào đến tận Bình
Thuận. Vua được cá Ông cứu, đưa thuyền vào bờ, nhưng cá thì kiệt sức mà chết.
21. Một truyền thuyết cũng liên quan đến quãng đời bôn tẩu của vua Gia
42
Long được bác Tư – thủ từ dinh Ông Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, Bà Rịa Vũng
Tàu kể lại với chúng tôi như sau: Khi vua Nguyễn Ánh bôn tẩu tránh sự truy đuổi
của quân Tây Sơn thì trên thuyền bị hết nước ngọt. Vua quan dừng lại ở biển Hưng
Lương, Nhơn Lý (Bình Định). Vua Nguyễn Ánh đã khấn xin sự phù trợ của trời đất
giúp cho vua quan và quân sĩ qua cơn hoạn nạn. Vua khấn xong, khi mọi người đào
xuống cát ngay sát biển, đợi nước lắng trong thì đó lại là nước ngọt. Hiện nay biển
đó vẫn còn với tên gọi là giếng Be hoặc giếng Bẹn. Sau đó, quan quân lênh đênh
trên biển khơi và bị hết lương thực. Vua Nguyễn Ánh lại khấn xin sự trợ giúp thì
bỗng từ đâu xuất hiện đàn cá Voi. Đàn cá xua lại không biết bao nhiêu là cá cơm
cho quân sĩ chỉ việc xúc lên đầy khoang thuyền. Sau đó, đàn cá Voi cứ theo thuyền
vua xua cá cơm theo giúp quan quân đến tận đảo Phú Quốc mới thôi. Cho nên hiện
nay Phú Quốc được xem là rốn cá cơm của cả nước. Không có nơi đâu nhiều cá
cơm và nước mắm cá cơm ngon bằng ở nơi đó.
Trong dòng chảy của tín ngưỡng này, cùng tồn tại ở vùng Nam Đảo (châu Á), Nhật
Bản cũng có huyền thoại về các thần dạt vào từ biển. Đã có một truyền thuyết về
con cá Voi thần kì, chở đến cho người miền núi phía Nam Việt Nam một hài nhi
cứu thế, giải phóng loài người khỏi bị đau khổ. Trong khi đó ở Campuchia lại
không tìm thấy dấu vết gì về sự thờ cúng này.
2.1.2.3. Một số truyện cá Ông cứu người gần đây
Ngoài những truyền thuyết được lưu truyền có văn bản, chúng tôi cũng tiếp
cận với khá nhiều câu chuyện mang ý nghĩa thực tiễn và được phổ biến theo hình
thức truyền miệng. Đó là những câu chuyện do các ngư dân kể lại sau khi họ được
cá ông cứu sống khi gặp nạn ở giữa trùng khơi. Một số truyện kể về công đức Cá
Voi tiêu biểu như sau:
22. Đây là một truyện có thật được tác giả Phạm Văn Tú, đăng tải trên tạp
chí Văn hóa dân gian (số 3/2007,tr.48). Nội dung như sau:
Năm 1966, ông Nguyễn Văn Ngàn (tự Tư Ngàn) ở khu vực II thị trấn sông Ông
Đốc có con là ngư phủ đi làm thuê cho tàu ông Út Bí. Khi con ông Tư Ngàn ra khơi,
hôm đó biển động dữ dội, giông tố rất lớn trong lúc đang phụ lưới thì bị gió giật té
xuống biển mất dạng. Tàu vào bờ báo cho ông Tư Ngàn và gia đình tổ chức tang sự.
Trong khi đó con ông (anh Nguyễn Văn Hùng) trôi tới Đá Bạc (cách đó khoảng
20km) thì được ghe lưới Kiên Giang với lên. Thời gian từ khi rớt xuống biển cho
43
đến khi được vớt lên là một ngày một đêm. Khi kể về thời gian này, anh cho biết lúc
đã gần kiệt sức, anh khấn vái xin cá Ông cứu mạng và sẽ cạo đầu, ăn chay trường
thờ cá Ông. Sau đó anh cảm thấy phía dưới lưng được đỡ lên và có cảm giác như
nằm trên tấm phản gỗ, trôi nổi một ngày một đêm cho đến khi được vớt lên.
Hiện nay, ở khu di tích thờ cá Ông ở Đá Bạc, trên tấm vách bên ngoài tường
của điện thờ , người ta thấy còn lời tường thuật được ghi bằng chữ sơn màu đỏ của
ngư dân Nguyễn Văn Hùng thoát nạn nhờ sự cứu giúp của cá voi như sau:
Vào ngày 29 tháng 04 năm 1966 âm lịch, tôi đang đi trên ghe cào ngoài khơi Hòn
Chuối, ghe bị phá nước lại gặp trận giông to phủ vào ghe chỉ còn lá be nữa là chìm.
Tôi định năm anh em phải chết, tôi đã vái Ông: Sống được về nhà tôi xin cạo đầu.
Lúc đang tát nước, thấy ghe thật nhẹ nhàng còn sóng thì êm, đúng bốn tiếng đồng
hồ vào tới làn nước đục vùng nước cạn gần bờ. Ngang mũi Hòn Đá Bạc, tôi nghe
ghe chuyển một cái, nhìn thấy một khối da đen láng cách ghe 10m. Tôi tránh qua thì
ghe chìm xuống, sóng đưa tôi vào mũi Hòn. Lúc này tôi mới biết Ông độ. Tới hòn
tôi thấy khối đó là đầu Ông ngang khoảng 3m, không thấy chiều dài, sóng dập tàu
vào đá giật tới bảy lần, năm anh em lên được bờ đá, lúc đó ghe chìm.
23. Trên báo Dân Trí ngày 15/05/2010 có đăng một bài viết đáng chú ý của
phóng viên Công Bính ghi chép lại chuyện cá Ông cứu người. Nội dung bài viết kể
lại rằng: Một câu chuyện cho tới nay vẫn không ai dám khẳng định đúng sai, song
luôn được người dân xã Tam Tiến, huyện Núi Thành (Quảng Nam) truyền tai nhau
như một truyền thuyết. Đó là câu chuyện của ông Đặng Châu, người suốt 50 năm
nay vẫn thờ phụng bộ xương cá Ông tại nhà riêng và tin rằng nhờ đó mà ông đã hai
lần được cá Ông cứu sống khi gặp nạn giữa trùng khơi. Ông Châu kể, 50 năm trước,
vào một ngày biển lặng trời xanh, thuyền ông dừng lại ở khu vực biển Kỳ Hà (Núi
Thành) để câu và bất ngờ câu được con cá nhám trên 200 kg. Sau hơn 2 tiếng đồng
hồ vật lộn, mọi người mới đưa được con cá lên thuyền. Khi bỏ cá xuống khoang thì
bất ngờ nó quẫy mạnh và ói ra một bộ xương còn nguyên vẹn. Thấy lạ mọi người
định ném bộ xương về biển nhưng ông Châu nhất quyết không cho và cho rằng đó
là xương cá Ông, nên đem về nhà riêng thờ cúng và bảo quản từ đó cho đến bây
giờ.
Ông Châu kể tiếp: “Từ hồi đó, thuyền tôi làm ăn khấm khá hẳn lên, đời sống gia
đình cũng ổn định. Đặc biệt, nhờ cá Ông mà tôi đã thoát nạn hai lần”.
44
Lần thứ nhất là cách đây khoảng 20 năm. Khi đó, thuyền ông đánh cá ở bờ
biển Chu Lai (Núi Thành), lúc đó trời tối chưa câu được gì, ông cho bạn thả neo ở
độ sâu khoảng 27 sải tay, đêm về khuya trời đột nhiên trở gió chướng, con thuyền
chòng chành trên mặt biển. Bỗng nhiên có hai con cá Ông lớn lặng lẽ tựa hai bên
mạn thuyền dìu thuyền ông vào bờ để tránh gió. Lúc thuyền vào bờ an toàn, trời
cũng vừa hửng sáng. Lần thứ 2 là sau đó 5 năm, khi thuyền ông đánh cá đến 10 giờ
đêm thì đầy khoang nên quyết định quay vào bờ sớm hơn thường lệ. Con thuyền
đang nhằm bờ thẳng tiến thì bất ngờ xuất hiện gió Tây Bắc thổi ngược lại, thuyền có
nguy cơ bị lật úp do chở nặng. Lúc đó có con cá Ông cứ bơi trước thuyền khoảng
hơn 10 mét để che chắn hướng gió cho thuyền vào bờ an toàn.
Câu chuyện lạ kỳ của ông Châu là điển hình cho lòng tin của những ngư dân
vạn chài nhỏ bé trước biển khơi bao la “lành ít dữ nhiều”. Không rõ thực hư song từ
lâu đời, tín ngưỡng thờ cá Ông đã trở thành một nét đẹp truyền thống của những
ngư dân đi biển. Hiện tại, riêng xã Tam Tiến đã chôn cất được 7 con cá Ông và xây
riêng một đình thờ cá Ông ngay đầu thôn. Hàng năm vào ngày 10/9 âm lịch, người
dân lại linh đình tổ chức lễ giỗ cá Ông tại đình làng.
24. Trên báo Người Lao Động đưa tin ngày 20/5/2008, được ghi chép bởi hai
nhà báo Nguyễn Thạnh và Trần Hoàng Nhân về một truyện ly kì cá Ông cứu người
như sau: Ông Nguyễn Phê, 73 tuổi, ngụ làng Phú Câu, phường 6, TP Tuy Hòa, Phú
Yên được cả vùng biết đến nhờ từng được “ông” - cách gọi thành kính của ngư dân
đối với cá Voi- cứu vớt. Nhiều ngư dân Tuy Hòa bảo: “Ông Phê là nhân chứng sống
cho huyền thoại “ông Nam Hải”, làm cho chúng tôi càng có niềm tin mãnh liệt vào
ông, nhất là mỗi khi ra biển”.
Dù tuổi cao sức yếu nhưng ông Phê vẫn nhớ như in ngày được cá voi cứu cách nay
hơn 20 năm. Ông kể: “Tháng 3/1984, trong một chuyến đi câu ngoài khơi, khi vừa
bủa câu xong, một cơn lốc đi qua nhấn chìm tàu chúng tôi. Toàn bộ thợ thuyền đều
là thanh niên trai tráng nhưng không ai thoát chết. Năm đó tôi xấp xỉ 50 tuổi, tuy là
dân đi biển nhưng bơi rất yếu, tưởng đâu cũng xong đời rồi. Vật lộn với sóng biển
một lát, tôi đuối sức, miệng không ngớt khấn vái ông đến giúp.
Đến lúc gần như bất tỉnh, chỉ chực chìm lỉm xuống đáy biển, tôi chợt thấy mình
được nâng lên mặt nước, người nhẹ tênh. Dù mơ mơ màng màng nhưng tôi vẫn có
cảm giác rất rõ như mình đang được nằm trên một tấm ván trơn nhớt, rất êm ái, từ
45
từ trôi đi. Cứ như vậy vài ngày đêm, đói quá tôi ngất lịm lúc nào không biết. Khi
tỉnh dậy, tôi mới biết mình được một tàu đánh cá vớt lên. Những ngư dân tàu này
khẳng định tôi được “ông” cứu, bởi họ thấy dáng “ông” ở xa xa đang đưa tôi đến
gần tàu”. Dừng lại một lát như tưởng nhớ đến ơn cứu mạng của “ông Nam Hải”,
ông Phê tâm sự: “Nhiều người bảo rằng nhờ tôi luôn luôn tôn kính và có duyên với
“ông” nên khi lâm nguy mới được “ông” cứu, có lẽ vậy”. Ở làng Phú Câu có hơn 20
người từng được cá voi cứu về từ cõi chết như các ông Lê Mau, Lê Dậu, bà Chài...
Còn ở làng Đông Tác, phường Phú Đông - TP Tuy Hòa cách đó không xa, cũng có
hơn 50 người được cá voi “hộ”.
Trên đây chỉ là một vài câu chuyện điển hình trong hàng trăm những câu
chuyện cá Ông cứu người phổ biến trong đời sống ngư dân ven biển. Những truyện
này có nơi chỉ còn lại truyện, có nơi vẫn còn nhân chứng sống. Đó luôn là những
câu chuyện được mọi người thuộc nằm lòng vì niềm kính tín vào công đức của Ông.
Nhờ những câu chuyện hiện thực này mà tính thiêng của Ông có sức lan tỏa sâu
rộng và tăng thêm lòng tin của ngư dân đối với cá Ông vì được mắt thấy tai nghe
chứ không chỉ là truyền thuyết.
2.2. Đặc điểm chung truyền thuyết cá Ông
Trên đây, chúng tôi đã liệt kê những truyền thuyết và truyện về cá Ông từ các
tư liệu và thu thập trong quá trình đi thực tế. Qua toàn bộ truyền thuyết về cá Ông
hoặc ít nhiều có liên quan đến cá Ông kể trên, chúng tôi thấy truyền thuyết cá Ông
có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, các truyền thuyết về cá Ông có đời sống rất phong phú. Nếu có điều
kiện để đi điền dã thực tế ở nhiều tỉnh thành ven biển, chúng tôi tin rằng số lượng
truyền thuyết về cá Ông vẫn còn. Các truyền thuyết này mang những đặc điểm
chung của văn học dân gian: chúng tồn tại dưới những mẩu truyện kể ngắn, chỉ tập
trung kể các chi tiết chính nên các truyện rất súc tích, dễ nhớ, dễ lưu truyền qua các
thế hệ. Và hầu như, truyện kể về cá Ông không được định danh tên gọi cho truyện.
Đây là hiện tượng lạ đáng lưu ý. Các tích khác thường luôn có ít hoặc nhiều truyện
được định danh nhưng truyền thuyết về cá Ông lại không thấy. Và nếu chỉ sưu tầm
theo nguyên tác của dân gian thì cũng rất khó để định danh cho truyện vì nó chỉ là
những mẩu truyện ngắn. Điều này có mặt lợi là cùng trên một cấu trúc, tích về Ông
không gắn với một nhan đề nên dân gian thỏa sức thêu dệt truyện về Ông theo thẩm
46
mĩ của họ. Nhưng ngược lại, điều bất lợi là nếu các tích này không được ghi chép
thì nó sẽ bị lãng quên theo thời gian. Hơn nữa, các truyện này khi qua truyền khẩu
của dân gian nó luôn bị nhào nặn lại phù hợp theo cảm xúc thẩm mĩ của từng nơi và
từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Đó là một xu hướng hiện đại hóa tác phẩm theo
như quy luật vốn có của văn học dân gian. Vì thế nếu không có công tác sưu tầm lại
thì những truyền thuyết xa xưa sẽ bị lãng quên đi. Thực tế hiện nay những truyền
thuyết có tính chất cổ xưa đã và đang dần mai một, trong dân gian chỉ lưu truyền
truyền thuyết cá Ông cứu vua và cá Ông cứu người gần đây là nhiều.
Thứ hai, truyền thuyết về thần biển của người Chăm được lưu truyền thường
ở thể loại xướng ca lễ tục. Các truyền thuyết này không phải ai cũng nhớ và biết tới
vì nó chỉ được diễn xướng trong mùa lễ hội có nghi thức lễ cúng thần Po Riyak,
không được kể phổ biến bất cứ lúc nào như các truyền thuyết của người Việt. Đó là
bởi vì người Chăm đã không còn theo nghề biển nhiều nên tín ngưỡng về thần biển
cũng không còn đậm đặc. Thế nên, bộ phận truyền thuyết này cũng có xu hướng thu
hẹp lại trong đời sống nhân dân và có nguy cơ bị đóng băng trên văn bản.
Thứ ba, truyền thuyết cá Ông gắn với thuở hàn vi của vua Gia Long rất phong
phú về số lượng và có sức sống lan tỏa mạnh trong đời sống cư dân ven biển. Trong
quá trình đi khảo sát, truyện đầu tiên mà chúng tôi được ngư dân kể về cá Ông luôn
là truyện cá Ông cứu vua. Truyền thuyết đó ai và ở đâu mọi người cũng biết. Thậm
chí, người dân kể về tích này gắn với bất cứ một cửa biển hoặc một địa danh nào mà
họ biết và cho là sự kiện ấy có thể xảy ra ở đó. Trong tất cả các truyền thuyết về cá
Ông, riêng truyền thuyết về Ông gắn với thời kì bôn tẩu của vua Gia Long là có gắn
với các địa danh. Đây là một kiểu truyền thuyết chúng tôi cho rằng nó mang tính
tổng hợp cả về nhân vật, phong vật và địa danh. GS. Kiều Thu Hoạch đã có định
nghĩa về truyền thuyết rằng: “Truyền thuyết là một thể tài truyện kể truyền miệng,
nằm trong loại hình tự sự dân gian; nội dung cốt truyện của nó là kể lại truyện tích
các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa phương theo quan
điểm của nhân dân” [57, tr.141]. Trong truyện về cá Ông, nằm trong tích truyện vua
Gia Long xây dựng cơ đồ thì nhân vật chính trong truyền thuyết hẳn là vua Gia
Long, nhưng nằm trong hệ thống truyền thuyết về cá Ông thì nhân vật chính đã bị
đảo ngược. Các tích này đều gắn với một địa danh có thực dọc theo các vùng ven
biển. Đồng thời nó là sự giải thích vì sao ở vùng đó nhân dân lại lập lăng thờ Ông.
47
Đây là một cứ liệu dân gian cho quá trình bôn tẩu gian khổ của vua Gia Long, đồng
thời nó cũng nói lên được phạm vi có mặt của cá Ông suốt dọc dài đất nước. Sự dày
đặc này cũng tương ứng với thời kì Nam tiến của dân tộc, đồng thời với việc mở
rộng nghề đi biển của cư dân Việt trên vùng đất mới.
Thứ tư, tùy mỗi giai đoạn lịch sử mà tác phẩm tự sự dân gian có vị trí nổi bật.
Nhưng thể loại dân gian không bao giờ có sự phân định rõ ràng mà có sự đan xen,
chuyển hóa hình thức nghệ thuật vào nhau, khiến cho tác phẩm vừa giống thể loại
này lại vừa thuộc thể loại khác. Ở đây, các truyện cá Ông gọi chung là truyền thuyết
nhưng nhiều truyện lại chứa đựng những yếu tố của cổ tích. Nó mang nhiều yếu tố
hoang đường như nguồn gốc xuất thân, hay khi tích đủ đức thì cá Ông sẽ được hóa
rồng…Đó đều là những motip khá quen thuộc trong truyện cổ tích về loài vật mà
chúng ta vẫn thấy. Ở trên chúng tôi có trích dẫn một truyện cổ tích về cá Ông do
Nguyễn Đổng Chi ghi chép. Thực ra thì đó là một truyện đã được tác giả nhào nặn
lại từ nhiều truyện nhỏ để thành một truyện cổ tích hoàn chỉnh. Còn trong dân gian
thì truyện như thế hầu như không có. Những mẩu truyện này có mang những yếu tố
của cổ tích nên nó dễ dàng để kết cấu thành một truyện dài. Thực tế đời sống cư dân
các truyện kể rất ngắn gọn và dễ nhớ để có thể lưu truyền được rộng rãi và bền bỉ.
Bên cạnh đó, bộ phận truyền thuyết về cá Ông không bị phong kín lại như các
truyền thuyết khác. Nó chưa dừng lại mà vẫn có sự âm thầm chuyển hóa, hình thành
nên bộ phận truyền thuyết mới, góp vào nguồn truyền thuyết cá Ông thêm phong
phú theo thời gian và không gian.
Tóm lại, xuất phát từ lòng biết ơn Ông, nhân dân bằng trí tưởng tượng phong
phú đã thêu dệt nên rất nhiều các tích truyện. Các tích này không nằm ngoài sự hàm
ơn, tôn kính cá Ông. Ngoài ra, nó cũng thể hiện đời sống tinh thần phong phú và
mối quan hệ tôn trọng của nhân dân với muôn loài.
48
Chương 3 - CỐT TRUYỆN, MOTIP TRUYỀN THUYẾT
CÁ ÔNG
Ở đây, dưới góc độ của người nghiên cứu văn học, chúng tôi muốn đi vào
tìm hiểu cấu trúc chung của các truyền thuyết được hình thành xoay quanh trục cá
Ông. Song chúng tôi không chỉ thuần túy tìm hiểu vào kết cấu, đặc điểm thi pháp
của các truyền thuyết, mà còn hướng tới lý giải các yếu tố dân gian đã góp phần
nhào nặn vào tác phẩm, góp thêm cái nhìn tổng thể về tục thờ cá Ông trên nhiều
phương diện đời sống.
Song, trước khi đi vào bàn luận vấn đề chính, chúng tôi nhận thấy cần phải làm
sáng tỏ một vài vấn đề khác liên quan đến truyền thuyết của người Chăm và người
Việt. Hiện nay, trên văn đàn đang diễn ra sự tranh luận về nguồn gốc tục thờ cá Ông
là của người Chăm bản địa, được người Việt trong bước đường Nam tiến tiếp thu
hay bản nguyên tục thờ cá Ông đã có sẵn trong tâm thức người Việt? Vấn đề này
đến nay vẫn chưa có hồi kết. Trong quá trình nghiên cứu tư liệu về cá Ông, chúng
tôi thấy có những tình tiết liên quan đến vấn đề trên. Bởi vấn đề tiếp biến tục thờ
hay chỉ là sự cộng hưởng tín ngưỡng thờ thần biển của hai dân tộc có mối quan hệ
mật thiết đến sự hình thành truyền thuyết cá Ông. Lý giải được điều này sẽ giúp
chúng ta thấy được truyền thuyết của hai dân tộc có sự chuyển hóa vào nhau hay
cùng độc lập tồn tại song song. Điều này có ý nghĩa lớn trong nhận định việc có hay
không sự giao thoa văn hóa biển của hai dân tộc từ góc độ tín ngưỡng. Vì vậy, đứng
trên phương diện của người nghiên cứu văn học dân gian, chúng tôi xin diễn giải
một vài khía cạnh về vấn đề trên từ các tư liệu truyền thuyết.
3.1. Đối tượng thần biển của hai dân tộc từ các tư liệu truyền thuyết
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi thấy một vấn đề cần phải làm sáng tỏ
trước khi bàn luận về tục thờ này là của ai như các nhà nghiên cứu vẫn đang tranh
luận. Và theo chúng tôi, đây là một vấn đề rất quan trọng song mọi người hầu như ít
người quan tâm. Đó chính là đối tượng thờ thần biển của hai dân tộc Chăm và
Việt. Bàn về điều này, chúng tôi thấy có nhà nghiên cứu Sử Văn Ngọc, Phan Đăng
49
Nhật và Nguyễn Xuân Đức có nói tới nhưng rất sơ lược. Sử Văn Ngọc trong bài
“Văn hóa sông nước miền Trung với cái nhìn địa văn hóa người Chăm” có viết về
lễ Palao Rija Sah tại cửa biển trong hai ngày một đêm của người Chăm, có đoạn
“Lễ này cũng giống như lễ cầu ngư của cư dân người Kinh, nhưng bóng dáng thần
Nam Hải (cá Ông) rất mờ nhạt. Người Chăm chỉ thờ thần Po Riyak (thần Sóng),
không thờ cá Ông” [1, tr.28]. Nguyễn Xuân Đức trong một bài viết cũng đồng ý với
ý kiến của ông Phan Đăng Nhật và Sử Văn Ngọc, cho rằng người Chăm thờ thần Po
Riyak, còn người Việt thờ thần cá Ông.
Qua khảo cứu tài liệu, chúng tôi cũng cho rằng nhận định trên có cơ sở xác thực.
Trong tục thờ thần biển của hai dân tộc, đối tượng thờ không trùng khít với nhau,
tức không cùng một đối tượng. Theo như sử liệu thì năm 1832, vua Minh Mạng
cấm người Chăm không được đi biển vì sợ họ có sự liên lạc với nước ngoài gây bất
ổn cho vùng đất mới xác lập, kể từ đó người Chăm không còn đi biển nên tục thờ
này cũng mai một dần, từ đó khiến cho truyền thuyết về thần Sóng Biển không phổ
biến trong đời sống dân gian.
Chúng tôi cho rằng đôi khi chúng ta đứng ngoài nhìn vào tục thờ thần Po Riyak của
người Chăm và cho rằng đó là gốc tích tục thờ thần cá Ông của người Việt, và sách
vở cũng ghi chép như thế nhưng có khi lại không hề chính xác như cách nhân dân
nhìn nhận, thể hiện. Tục thờ về một vị thần biển của người Chăm thì không phải
chuyện mới xảy ra của ngày hôm qua, mà đã của mấy thế kỉ. Yếu tố thần cá Ông
trong lễ thờ của người Chăm hiện nay đã không rõ ràng và đậm nét. Tuy nhiên,
chúng ta vẫn còn những truyền thuyết về thần Po Riyak của người Chăm và những
truyền thuyết về thần cá Voi của người Việt để tìm thấy quan điểm, đối tượng được
thờ của nhân dân chứa đựng trong đó; bởi hầu như mỗi vị thần được tôn thờ luôn
được gắn với một hoặc nhiều truyền thuyết của dân gian nhằm bồi đắp, tô dưỡng
tính thần linh cho vị thần ấy. Nhân dân muốn tôn thờ, coi trọng điều gì thì trong
truyền thuyết họ sẽ xây dựng những yếu tố, chi tiết để nhấn mạnh cho điều đó. Thế
nên, để biết đích xác được đối tượng thờ chúng tôi sẽ bắt đầu đi từ những truyền
thuyết còn được lưu truyền lại đến ngày nay. Đối tượng thờ của người Việt đến hôm
nay vẫn còn và rõ ràng đích xác là cá Ông, nên chúng tôi sẽ đi sâu vào tìm hiểu đối
tượng thờ của người Chăm. Từ đó, chúng ta mới có thể thấy được: có hay không
mối quan hệ sâu xa trong tục thờ cá Ông của hai dân tộc?
50
Truyền thuyết về thần Po Riyak thì các truyền thuyết 1 đến 4 mà chúng tôi đã
dẫn ra là về vị thần này, nên chúng tôi sẽ bám sát vào các tích này để làm sáng tỏ
vấn đề.
Trong truyền thuyết 1 có nói rằng “Cá Voi vốn là hóa thân của một vị thần tên là Ja
Aih Wa”, lưu ý chi tiết này, bởi theo niềm tin của người Chăm, thần Po Riyak là
người có nhiều quyền năng khác nữa. Ở đây, cá Voi là một hóa thân - tức hóa thân
thành cá Voi cứu người là một trong những quyền năng của thần. Điều này hoàn
toàn khác với “Po Riyak là một hóa thân của cá Ông” [42] như tác giả Nguyễn
Thanh Lợi đã nhấn mạnh.
Truyền thuyết 2 của người Chăm có một chi tiết đáng chú ý như sau:
“…Khi thuyền ngài đến gần hải phận Champa, trời nổi mây mưa bão tố và
cá thần mang tên là Inâ Patrang hay Inâ Katrang đánh vỡ thuyền ngài. Bị chìm đắm
vào lòng đại dương, ngài được cá “Ông” (ikan limân) đưa về bờ đất liền ở Gram
Pari, Phan Rí. Người Chăm và cả người Việt thấy vậy liền lập đền thờ phụng ngài
ở đây”.
Trong truyền thuyết 3 có nói:
“… Khi thuyền ngài bị đắm, ngài ngồi trên lưng cá “Ông” trở về bờ đất liền.
Nhưng ngài từ chối ghé vào Pajai, Phan Rí ngay cả bờ Cà Ná nơi mà người Chăm
tìm cách đâm chém và liệng đá vào cá Ông chở ngài lên bờ… Chính vì thế, ngài
phải dừng chân ở Craok Dil, tức là Sơn Hải phía bắc Cà Ná nơi mà người Chăm và
Việt lập đền thờ ngài và phúng điếu hàng năm..”.
Trong bài nghiên cứu của Nguyễn Thanh Lợi, tác giả cũng có cho biết một chi tiết
rằng ở làng Mỹ Nghiệp, Ninh Thuận có đền thờ thần Po Riyak của người Chăm.
Trước đây, trên tường của đền thờ có vẽ người cưỡi cá Voi đi giữa biển khơi
[42].
Trong bài “Trả lời cho Đắc Văn Kiết: Katê phát xuất từ thời Sa Huỳnh hay Po
Rome?” của hội Champaka có đoạn như sau:
“Trong bài viết, Đắc Văn Kiết cho rằng: Khi biển động, nổi cơn dông thì người
Chăm cúng Thần biển (Pô Riyak). Đây chỉ là câu chuyện do Đắc Văn Kiết tự suy
đoán mà thôi. Po Riyak không phải là Thần Biển mà là nhân vật Champa Awal sang
Mã Lai du học. Khi nghe tin vương quốc Champa bị biến loạn, Ngài xin sư phụ trở
về quê hương cứu nước, nhưng bị từ chối. Chính vì thế, Ngài tìm cách trốn về
51
Champa. Trên đường về, sư phụ dùng bùa phép gây bão tố để đánh chìm tàu của
Ngài ở ngoài khơi. Chính cá Voi là con vật đưa Ngài đến tận bờ bể Sơn Hải (Phan
Rang) nơi mà ngư dân người Việt lập nên đền miếu để thờ cá Voi này chứ
không phải thờ thần biển.
Người Chăm cũng có đền thờ Po Riyak tại thôn Mỹ Nghiệp và Phước Đồng (Phan
Rang). Mỗi đầu năm, bà con Chăm thường làm lễ cho Po Riyak để tưởng niệm
thần Awal cưỡi con cá Voi về Champa hầu xin thần linh này phù hộ cho họ mà
thôi, chứ không phải vì biển động hay cơn dông mà người Chăm làm lễ thờ cúng Po
Riyak như Đắc Văn Kiết nêu ra. Đắc Văn Kiết đừng quên rằng dân tộc Chăm hôm
này không còn ai sống về nghề biển” [54].
Trong bài diễn xướng mở đầu cho nghi lễ thờ thần Po Riyak có đoạn sau:
“Ngài Po Riyak quê ở Tánh Linh
Người mẹ vĩ đại đã sinh ra Ngài
Ngài thông minh từ thuở bé,
Đạo đức tuyệt vời tỏa sáng khắp nơi.
Lớn lên quên cả việc nhà,
Đi khắp dân gian tìm học bùa phép” [35].
Còn đây là một đoạn trong chèo bả trạo được diễn xướng khi đưa cốt cá Ông nhập
vào lăng của người Việt:
“…Đưa Ông về tới lăng đàn
Rước vào nhập điện hộ an dân tình
Hộ cho lớn nhỏ thái bình
Hộ cho bổn vạn dân tình an khương
Làm ăn ai nấy phú cường
Cùng năm mãn tháng miên trường chấn hưng
Nội vạn lớn nhỏ đều mừng
Ngàn năm chín kiếp xin đừng vong ân…” [60]
Như chúng tôi đã nói, tôn thờ điều gì nhân dân sẽ xây dựng hình tượng cho điều đó.
Trong các dẫn chứng chúng tôi vừa nêu, vị thần mà dân tộc Chăm kính trọng chính
là vị thần người Ja Aih Wa chứ không phải cá Ông. Toàn bộ câu truyện được xây
dựng nhằm tô điểm cho vẻ đẹp tài đức của Ja Aih Wa trước khi trở thành thần Po
52
Riyak. Cá Ông chỉ đóng vai trò phụ trong truyền thuyết, khi nào cần cứu người bị
nạn thì thần Po Riyak mới hóa thân thành cá Ông.
Một điều đáng lưu ý khác, qua các chi tiết của các truyền thuyết, chúng ta thấy có
điểm chung trong cách nhìn nhận giữa hai dân tộc về cá Ông: đó chính là bản tính
thiện cứu giúp con người của loài cá này (cá Ông sự đức độ). Nhưng: truyền
thuyết của người Chăm lấy hình ảnh của cá Ông nhằm để nâng cao, hoàn thiện cho
vẻ đẹp tài năng, đức độ của vị thần Po Riyak. Còn truyền thuyết người Việt xây
dựng các yếu tố thần thánh, kể cả lấy hình ảnh của Phật Bà từ tâm ra nhằm để xây
dựng hình ảnh nhân tính, thần linh của cá Ông. Đây là hai việc làm hoàn toàn khác
nhau.
Tóm lại, từ truyền thuyết cho đến tục thờ của người Chăm và truyền thuyết đến tục
thờ của người Việt, chúng tôi nhận thấy rằng đối tượng thờ thần biển của hai dân
tộc không hề đồng nhất như mọi người vẫn nhận định:
+ Đối tượng thờ của người Việt là cá Ông. Người Việt thờ đích danh loài cá này
với một tấm lòng biết ơn, thành kính. Cá Ông trong tín ngưỡng thờ của người Việt
là một vị thần.
+ Đối tượng thờ của người Chăm là một vị thần người, tên Ja Aih Wa sau thành
thần đổi tên là Po Riyak. Cá Ông chỉ là một hóa thân hay thậm chí chỉ là một thú
tùy dụng chứ không phải đối tượng tâm linh chính của người Chăm. Điều này giống
như người Việt ngày 23 tháng chạp vẫn thường cúng cá chép để đưa Ông Táo về
trời, nhưng đối tượng thờ chính là Ông Táo chứ không phải cá chép. Hay người
Việt cũng tin thờ các loài chim hạc để các vị thần tiên cưỡi bay về trời. Chim hạc ở
đây là một linh điểu, nhưng cũng chỉ là một loài thú tùy dụng (cô tiên cưỡi chim
hạc), và cá Voi trong tín ngưỡng của người Chăm cũng tương tự như thế. Điều này
có thể thấy trong các đoạn truyền thuyết trích dẫn trên.
Như thế, truyền thuyết của người Chăm vẫn được mọi người xem là lời giải
thích của dân gian về nguồn gốc ra đời vị thần cá Ông nhưng đúng hơn là thần Po
Riyak. Để triệt để vấn đề đối tượng thần biển của hai dân tộc mà hầu như tất cả mọi
người đều đồng nhất là một, chúng tôi sẽ tiến hành tìm hiểu sâu vào các yếu tố nhào
nặn nên tác phẩm thần biển của dân tộc Chăm. Ở đây chúng tôi sẽ tiến hành mô tả
về cấu trúc và tìm hiểu về ý nghĩa của vị thần biển người Chăm trong truyền thuyết.
53
Từ đó, chúng ta sẽ thấy rõ ràng hơn sự khác biệt trong tâm thức về vị thần biển của
hai dân tộc.
Bốn truyền thuyết đầu có motip gần tương đồng với cấu trúc về truyền thuyết người
anh hùng trong lịch sử được Kiều Thu Hoạch khái quát như sau:
LAI LỊCH (bao gồm SINH ĐẺ THẦN KÌ và HÌNH DÁNG DỊ THƯỜNG) TÀI
ĐỨC SỰ NGHIỆP CHẾT THẦN KÌ HIỂN LINH; ÂM PHÙ SẮC
PHONG, GIA PHONG [57, tr.145]
Trong truyền thuyết về thần Po Riyak không theo như trật tự trên, nhưng cũng có
những sự kiện về một con người được mọi người tôn vinh về tài năng: học được
phép thuật cao cường, thiên biến vạn hóa, trải qua được nhiều kiếp nạn vẫn sống sót
trở về. Một con người của đạo đức: có hiếu khi dám vượt vạn dặm đường xa về
thăm cha mẹ/ Khi nghe tin quê nhà có nạn thì ngay lập tức trở về cứu dân giúp
nước. Ở đây không có sự kiện nhân vật chết thần kì nhưng có sự hiển linh, sau khi
chết được thượng đế cho làm thần Sóng Biển, hóa thành cá Voi cứu giúp con người
nơi sóng gió biển khơi. Ngoài ra, trong tín ngưỡng người Chăm, vị thần này còn có
quyền lực tạo mây mưa, gió bão. Vị thần này cũng được nhận sắc phong của triều
đình nhà Nguyễn. Đọc kĩ từng chi tiết, truyền thuyết thần Po Riyak được nhân dân
kể hay ghi chép đều trọng phần tài đức, quá trình vượt qua thử thách để minh
chứng cho tài đức, sau khi chết với tài năng, đức độ ấy ông đã được nhân dân tôn
lên thành thần.
Bốn truyền thuyết đầu tiên mà chúng tôi liệt kê, truyền thuyết đầu tiên là bản kể của
dân gian. Hai truyền thuyết tiếp theo là bản ghi chép trong sách cổ Chăm. Bản thứ
tư là bản rút ra từ bài diễn xướng lễ tục, nghi thức đầu tiên để mời thần Po Riyak về
chứng lễ với dân làng. Từ các truyền thuyết này, chúng ta có thể thấy chúng có nội
dung tương tự nhau, chỉ khác về một số tình tiết truyện và chúng đều có mô hình
chung như sau:
Người tài đức học phép vượt qua nhiều nạn thử thách hóa thần có
nhiều quyền năng (tạo mây mưa, hóa cá Voi giúp người, ban ơn hoặc giá
họa…). Cá Voi trong truyền thuyết này đóng vai trò phụ, một yếu tố để tạo thêm
tính toàn năng cho thần Po Riyak.
Truyền thuyết về thần Po Riyak dù sách hay dân gian đều có nói đến việc Ja Aih
Wa đi du học phép thuật ở Mã Lai.
54
Ở đây, truyền thuyết về thần Po Riyak là hiện thân của dấu ấn về một dân tộc
đi biển cừ khôi. Hơn thế nữa, nó đọng lại dấu ấn về mối quan hệ thân thiết của
hai quốc gia Champa và Mã Lai trong lịch sử. Địa danh Makah mà truyền thuyết
ghi chép, trong truyền thống của người Mã Lai đó là một thánh địa ở thế giới siêu
hình. PGS. Po Dharma chỉ ra rằng Makah chính là để chỉ Kelantan, một tiểu bang
của Mã Lai có mối quan hệ khăng khít với Champa. Nó đóng vai trò quan trọng
trong việc truyền bá Hồi giáo từ Mã Lai sang Champa. Khi đến Kelantan, ta sẽ bắt
gặp những tên gọi, những địa danh mang dấu ấn rất rõ ràng của Champa, như
“Pengkalan Chepa” (nơi đỗ/ điểm dừng chân của Champa), Kampung Chepa (ngôi
làng Champa), Gong Chepa (con chim công Champa)… Ngôi thánh đường ở
Kampung Laut, vốn là ngôi thánh đường Islam vào bậc cổ xưa nhất của Malaysia ,
nhưng nó lại được xây dựng bởi các kĩ sư Champa, để thuận tiện cho việc dừng
chân nghỉ ngơi và hành lễ của họ trong những chuyến hành trình đi buôn với xứ
Demak ở quần đảo Jawa (Indonesia ngày nay) vào khoảng đầu thế kỉ 16. Ngoài
truyền thuyết về thần Po Riyak có liên quan đến vùng đất Kelantan, văn học Chăm
vẫn còn ghi truyền thuyết về vị hoàng tử Mã Lai đến từ vùng đất Kelantan, sang
Champa để giúp nhân dân chống ngoại bang. Sau đó ông kết duyên với công chúa
Champa và truyền dạy cho dân chúng một số yếu tố của văn hóa Mã Lai: dụng cụ
âm nhạc, tín ngưỡng Hồi giáo… Cuối cùng nhà vua phải trở về Mã Lai nối nghiệp
cha, công chúa xứ Chiêm đã quyên sinh với các con tỏ lòng chung thủy… (lễ múa
Rija ở Chăm là một dấu ấn cho truyền thuyết này). Một truyền thuyết khác về nàng
công chúa đến từ Mã Lai với ý đồ biến Champa thành một quốc gia Hồi giáo. Để
đạt được ý đồ, nàng phải chinh phục trái tim của vị hoàng tử. Sau cùng, hai người
yêu nhau nhưng vì trái đạo nên họ không thể đến được với nhau.
Nói như thế để thấy sự mật thiết, gần gũi văn hóa giữa hai quốc gia Champa và Mã
Lai trong lịch sử. Truyền thuyết về thần Po Riyak của người Chăm mang nhiều yếu
tố văn hóa đa dạng và nó cũng nằm trong dòng chảy giao thoa văn hóa biển. Nó vừa
mang màu sắc huyền thoại, vừa mang dấu ấn lịch sử bang giao giữa Champa và Hồi
giáo Mã Lai. Dường như đó là một lịch sử trong truyền thuyết chứ không chỉ là câu
chuyện về một vị thần biển linh thiêng.
Mặc dù thần Po Riyak vẫn còn được tôn sùng trong một số lễ hội như Kate, Puis,
Payak… của dân tộc Chăm, nhưng đó là một vị thần Sóng Biển mang màu sắc văn
55
hóa Chăm pha Mã Lai chứ không phải thuần của dân tộc Chăm, và đó không phải là
vị thần cá Ông như của dân tộc Việt vẫn thờ cúng hàng năm.
Ở phần sau của truyền thuyết về thần Po Riyak, có đoạn thần Po Riyak đã
hóa thân để cưới bà vợ Kaho gốc dân tộc miền núi, sinh được hai người con gái.
Đoạn này trong dân gian không thấy nhắc đến. Theo chúng tôi, phần truyền thuyết
này cùng với hai truyền thuyết 5, 6 mà chúng tôi đã liệt kê dường như có một mối
quan hệ nào đó ẩn tàng. Một là cá Voi và chim Ưng gỗ đã có cuộc kết duyên và sinh
ra dân tộc Chăm. Hai là cá Voi và ba người con trai vua Kì Nam đã liên kết cùng
nhau cai quản lãnh thổ Champa. Ba là thần Po Riyak kết duyên với người vợ gốc
dân tộc miền núi sinh ra hai người con gái. Xâu chuỗi các chi tiết trên, ta sẽ thấy
một mắt xích quan trọng trong cấu trúc các truyền thuyết đó liên quan đến cá Voi
của dân tộc Chăm như sau:
Po Riyak/ Cá Voi (đại diện biển) + đại diện trên đất liền (núi)
Sinh con cái
Sinh ra dân tộc Chăm
Cai quản lãnh thổ
Từ cấu trúc trên, chúng tôi nhận thấy đây là nét tâm thức dân gian có trong nhiều
dân tộc. Đó là sự kết hợp Núi - Biển trong thế lưỡng hợp để cho ra những con người
đầu tiên của giống loài và cả ý thức về mặt lãnh thổ. Trong tâm thức người Việt, sự
kết hợp của mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân chính là sự kết hợp của Núi – Biển.
An Dương Vương xây thành ở vùng trung du, nhưng đến khi thất trận thì trở về với
biển. Truyền thuyết về trận đánh nhau triền miên giữa Sơn Tinh – Thủy Tinh cũng
chính là trận chiến giữa Núi – Biển. Một lần nữa, tâm thức này lại xuất hiện trong
tâm thức của dân tộc Chăm nhưng trong một hình ảnh tượng trưng khác, có lẽ để
phù hợp với phong vật địa phương. Phải nói rằng, sự kết hợp Núi – Biển, Tây –
Đông là một kết nối có tầm quan trọng bậc nhất đối với các vùng lãnh thổ Chăm.
Đây có thể là một quá trình tiếp biến giữa văn hóa biển truyền thống với văn hóa
núi rừng khi lập quốc trên vùng đất hẹp miền Trung. Điều này đã được thể hiện rất
rõ trong cách xây dựng các công trình kiến trúc và kinh tế liên quan mật thiết giữa
núi và biển của dân tộc Chăm.
Hoàn toàn khác với mô hình phát triển của cư dân Đại Việt thường theo
hướng Bắc – Nam, mô hình xây dựng trong mọi lĩnh vực của người Chăm luôn theo
56
hướng Tây – Đông, kết hợp hài hòa cấu trúc Núi- Biển bên cạnh các con sông.
Trong mỗi vùng văn hóa Champa có 3 trục quay quanh nhau gồm trục kinh tế (cảng
thị), trục quản lý xã hội (thành) và trục tinh thần (tôn giáo) tạo nên sức sống và bản
sắc văn hóa. Ngoài ra, vị trí xây tháp của người Chăm đều được xây dựng trên đồi
cao, thoáng đãng, không bị che khuất tầm nhìn và hướng của các tháp đều quay mặt
ra hướng Đông, đó là hướng của biển.
Sự kết nối Tây – Đông ấy có lẽ đã có tác động đến tâm thức lãnh thổ của
người dân. Lịch sử đã đưa lại cho mọi người đúc kết rằng, đất đai và lãnh thổ với
người dân là xương máu. Nhận thức về giá trị lãnh thổ của quốc gia đã cho người
Chăm tâm thức họ là con cháu của sự kết nối Núi - Biển, hoặc không thì cũng là con
dân chịu sự cai quản của hai đấng quyền năng Núi – Biển kết hợp lại. Ngày nay,
vương quốc Champa đã không còn nhưng sự hiện tồn của những giá trị vật chất thể
hiện ý thức ấy vẫn còn có thể thấy dọc theo vương quốc Champa xưa.
Nói tóm lại, cá Ông trong dân gian Chăm gợi lại một tiềm thức xưa của nhân dân về
thần Sóng Biển trong mối quan hệ và gốc gác với địa phận lãnh thổ dân tộc nơi mà
từ đó họ ra đi. Hình ảnh cá Ông xuất hiện trong truyền thuyết Chăm ít có liên quan
đến tục thờ như cá Ông trong truyền thuyết người Việt.
Đối chiếu giữa phong tục, tập quán và niềm tin của nhân dân Chăm - Việt vào vị
thần biển linh thiêng của mình, chúng tôi nhận thấy có một số điều đáng lưu tâm.
Theo truyền thuyết về sự ra đời của vị thần cá Ông người Việt, từ trong truyền
thuyết cho đến niềm tin trong thực tế đời sống nhân dân ngày nay đều đầy lòng
thành kính và biết ơn. Cá Ông trong tín ngưỡng ngư dân Việt rất hiền lành, chỉ có
cứu giúp người. Có rất nhiều loài thần thú được thờ trong tín ngưỡng Việt, và nhân
dân cho rằng đó là quân của nhà trời được phái xuống giúp nhân dân hoặc vì mắc
tội mà bị đày xuống trần gian. Cá Ông là loài duy nhất được nhân dân khoác cho
truyền thuyết ra đời từ chiếc áo cà sa của Đức Phật nhân từ. Thậm chí, ngư dân còn
tin rằng nếu cá Ông không làm trọn vẹn bổn phận cứu người thì sẽ bị Long Vương
trừng phạt phải bị chém làm ba khúc hoặc phải chết theo người mà cá Ông cứu
không thành. Sử sách có chép rằng “Ðầu niên hiệu Minh Mạng, vua đặt tên là
Nhân Ngư , đầu niên hiệu Tự Ðức đổi lại Ðức Ngư” - đây đều là những mỹ tự
tôn vinh vị phúc thần chỉ làm điều lành cho các ngư dân nơi sóng bể bao la.
57
Khác hẳn với người Việt, trong quan niệm của người Chăm đối với vị thần Sóng
Biển của họ có khác. Theo P.Mus:
“Nam Hải Vương có uy quyền trên mọi người làm nghề chài lưới hay thương
thuyền dùng đại dương này làm kế sinh nhai. Mọi thái độ ương ngạnh không tôn
trọng uy quyền Po Riyak sẽ trở thành món mồi ngon trong các trận mưa bão mà chủ
nhân chính là Thần Po Riyak. Vì quá khiếp sợ trước uy quyền này, cư dân Việt
Nam ở miền trung làm nghề chài lưới hay thương thuyền gốc người Trung Hoa
thường tin vào Po Riyak là Nam Thần của người đi biển” [35].
Trong truyền thuyết cũng như niềm tin của người Việt, chúng tôi chưa khi nào nghe
tới uy quyền của cá Ông khiến ngư dân khiếp sợ. Nhưng trong tín ngưỡng người
Chăm, thần Po Riyak hiện lên không chỉ là một vị thần cứu giúp người mà còn là
một vị có quyền uy mang lại cả phúc lành và sự giá họa đến cho ngư dân. Nỗi sợ
ấy hẳn nằm trong lòng tín ngưỡng người Chăm, và họ cũng tin rằng người Việt
cũng mang trong lòng nỗi sợ ấy. Điều này có vẻ hơi mang tính quy chụp, thiếu
thuyết phục, bởi với người Việt, thần cá Ông rất hiền lành, đức độ không bao giờ
mang điềm họa đến cho dân làng.
Xét cho cùng, Po Riyak là thần linh đã hiện thân trong quá khứ, và thần Po
Riyak là thần Po Riyak, cá Voi là cá Voi. Thần Po Riyak của người Chăm không
phải là thần cá Voi như của người Việt. Nhưng với cư dân Việt ven biển, đối tượng
thờ là thần cá Ông, một loại thú linh thiêng, cứ lúc nào có xác của cá Ông bị chết
trôi dạt vào bờ, cư dân ở đó đều tiến hành tang lễ mai táng rất trang trọng (người ta
nói là Ông lụy, kiêng không dùng từ chết), xây lăng đắp mộ, thờ cúng, vì lòng biết
ơn, chứ không phải nỗi khiếp sợ như trong bài phân tích của PGS. Po Dharma. Theo
niềm tin của người Việt, thần cá Ông chỉ cứu vớt những người tốt, còn những con
người sống không có đức, dù có cầu nguyện cũng sẽ không được thần đến cứu.
Từ đánh giá về nguồn tư liệu trên, có thể nói rằng tục thờ cá Ông có nguồn gốc thực
tiễn của ngư dân Việt ven biển và có thể có xen lẫn với tục thờ thần biển của người
Chăm. Đó là một sự cộng hưởng nhưng có phần mờ nhạt. Trong truyền thuyết cá
Ông, nó vừa mang yếu tố mơ hồ của người Chăm khi truyền thuyết đang mai một,
vừa mang yếu tố sống động trong cuộc sống hiện tại của ngư dân Việt. So với các
truyền thuyết loài vật khác, truyền thuyết về cá Ông là một truyền thuyết “sống”.
Truyền thuyết ấy không chỉ có ở trong quá khứ mà kéo dài tới tận ngày nay vẫn
58
đang âm ỉ tiếp tục hình thành. Trong đời sống cư dân biển đang có một lớp truyền
thuyết mới được hình thành trên cơ sở tín ngưỡng cổ xưa pha trộn với nhận thức
thời hiện đại. Bởi qua hàng thế kỉ, cá Ông vẫn còn đó, và sự cứu giúp người giữa
biển khơi của cá Ông vẫn hiện diện như dân gian truyền tụng. Càng đi qua nhiều
lớp thời gian, giá trị linh thiêng của cá Ông càng được bồi tụ. Nhiều người biết đến
và thêm lòng tôn kính Ông hơn.
3.2. Cấu tạo cốt truyện của truyền thuyết cá Ông
Ở trên, chúng tôi đã minh chứng sự khác nhau về đối tượng thờ thần biển của
hai dân tộc Chăm và Việt. Nên ở phần này chúng tôi loại trừ truyền thuyết của
người Chăm ra và đi sâu tìm hiểu vào truyền thuyết, truyện của người Việt. Xét
truyền thuyết cá Ông của người Việt, những truyện chúng tôi sưu tầm và tổng hợp
mới chỉ ở dạng những mẩu truyện nhỏ, chưa thành một tác phẩm hoàn chỉnh.
Những truyện này có đặc điểm khác biệt hẳn với các truyện về loài vật ở chỗ: nó
không ra đời trong phạm vi một vùng nhất định, cũng không nằm trong thời gian
của cổ tích hay thần thoại - mà, truyện cá Ông ra đời theo sự kiện xảy ra ở một thời
gian nào đó bất kì, kể cả hiện tại ngày nay và được xây dựng trên mô hình cấu trúc
của truyền thuyết hoặc cổ tích. Từ một sự kiện ngẫu nhiên nhưng có nét thần kì lại
trở thành một chi tiết đắt cấu thành nên tích truyện mới về ngư Ông. Cũng không
giống như kiểu truyện về các loài khác như hổ, rắn được gắn với nhiều chủ đề
phong phú: báo oán, trả ơn, hay hình tượng của vật gắn với cuộc chiến đấu, kết hôn,
thuần phục trước cái thiện… Truyện về cá Ông chỉ có duy nhất một chủ đề: cá Ông
cứu giúp con người qua hoạn nạn. Khắp các nơi từ Bắc vào Nam, các truyện có
khác về tình tiết, kiểu dạng nhưng tựu chung lại duy nhất chủ đề ấy. Tựa như một
cái cây có rất nhiều cành, nhánh, chủ đề cá cứu người xuyên suốt mọi truyền thuyết
trong các tình tiết khác nhau. Ở mỗi nơi, tùy vào một điểm nhấn nào đó về cá Ông
mà dân gian sẽ huyền thoại lên thành một câu truyện, tạo ra sự đa dạng cho các tích,
nhưng đó là một sự đa dạng trong cái thống nhất chung.
Trong sự thống nhất nhưng đa dạng ấy, chúng tôi nhận thấy truyền thuyết cá Ông
được chia làm ba kiểu truyện chính:
+ Kiểu truyện về nguồn gốc ra đời của cá Ông (truyện 7 → 13)
+ Kiểu truyện cá Ông cứu vua Gia Long (truyện 15 → 21)
59
+ Kiểu truyện cá Ông cứu người (truyện 14, 22 → 24 và những truyện tương tự
trong đời sống ngư dân ngày nay)
Sau đây, chúng tôi sẽ lần lượt đi vào từng kiểu truyện để làm sáng tỏ một số đặc
điểm của thể loại. Trong kiểu truyện thứ nhất, có dạng thức:
Dạng thức 1:
Thần hoặc vật của thần → cá Ông → cứu người gặp nạn trên biển
chuộc lỗi ←
nhân dân tôn thờ ←
tích đức hóa rồng ←
cứu không thành bị xử tội ←
Những truyện này có cách xây dựng hình ảnh cá Ông đúng như đặc điểm và cấu
trúc thường thấy về sự tích loài vật. Đó là lý giải đặc điểm nổi bật nhất của loài đó
qua cái nhìn hư cấu tưởng tượng của dân gian: Để giải thích vì sao con ngỗng
không ăn tép, dân gian đã giải thích bằng việc con tép từng làm vật thay mạng cho
con ngỗng trong bữa cơm mời bạn của ông chủ con ngỗng, nhớ ơn con tép nên từ
đó con ngỗng không bao giờ ăn tép; Về sự tích con dã tràng, nhận thấy đặc điểm nổi
bật của loài này suốt đời se những viên cát nhỏ rồi lăn ra sóng, dân gian đã liên
tưởng thành một câu truyện về người nông dân tiếc hai viên ngọc quý đã bị bà vợ
đánh cắp mang xuống thủy cung nên quyết chí chở cát lấp biển đòi ngọc rồi chết
hóa thành con dã tràng; Đặc điểm nổi trội của loài hổ là sức mạnh phi phàm, nên
trong sự tích con hổ, dân gian đã tập trung miêu tả một vị thần nhà trời có sức mạnh
và tính tình hống hách. Ngọc Hoàng không thể trị được mà phải nhờ tới Phật Quan
Âm giúp, sau vị thần bị đày xuống trần gian nhưng cho làm chúa tể muôn loài để an
ủi thân phận trước đây… Đó là một cách lý giải sự vật theo cái nhìn vừa thơ ngây,
vừa phong phú lại thể hiện óc quan sát tinh tế về các loài trong tự nhiên của dân
gian. Ở cá Ông, đặc điểm nổi bật nhất là bản tính thiện cứu giúp con người nên
được nhân dân tôn lên trong màu áo từ bi của Phật Bà Quan Âm cứu khổ cho chúng
sinh. Trong sự tích khác lại cho đây là nhân vật nhà trời được lệnh phải xuống dưới
trần gian cứu giúp con người bị nạn trên biển, giúp nhiều sẽ tích được nhiều công
đức để có cơ hội hóa rồng. Sự tích về cá Ông khác với các sự tích khác ở chỗ, nó
không nêu lên vấn đề xã hội mà chỉ tập trung đề cao bản tính thiện của cá Ông. Nếu
các sự tích về loài hổ, rắn… thường gắn với một vấn đề về lẽ sống thiện ác của con
60
người, thì các tích về cá Ông cho đến hiện tại chúng tôi chưa bao giờ nghe về một
tích nào có hàm chứa nội dung xã hội trong đó. Hầu như các truyện chỉ nhằm giải
thích tại sao cá Ông lại cứu người với các yếu tố nhằm nâng tính thiêng của Ông lên
mức độ tuyệt đối. Các truyền thuyết này có dáng dấp của truyện cổ tích nhiều hơn,
nhưng nó lại sát thực với đặc điểm của cá Ông và gần với hiện thực hơn.
Như ở trên chúng tôi đã nói, phạm vi và thời gian ra đời của truyện cá Ông không
nằm trong một không gian hay thời gian cố định. Nó ra đời dựa trên đặc điểm hoặc
sự kiện có thực về cá Ông mà nhân dân nhận thấy qua quan sát, đúc kết. Chính điều
này đã tạo cho truyện cá Ông một cấu trúc không đóng khung trong một dạng nhất
định. Nó là một cấu trúc mở. Ở kiểu truyện về nguồn gốc ra đời của cá Ông cũng
tương tự. Các truyện thường kể tới đoạn vì sao cá Ông cứu người thì đã có thể dừng
lại và kết thúc câu chuyện, nhưng tùy vào mỗi nơi người nghệ sĩ dân gian có thể
thêm hoặc bớt, hoặc nhấn mạnh các tình tiết ở bất cứ phần đầu hoặc phần sau cho
câu chuyện thêm phần sinh động theo vốn kiến thức dân gian cùng cái nhìn của họ
về cá Ông. Điều này tạo cho truyện cá Ông một đời sống rất phong phú về số lượng
bởi nhãn quan của nhân dân trên nhiều vùng miền phối tạo. Trong kiểu truyện này,
ngoài phần truyện chính dẫn dắt để lý giải vì sao cá Ông cứu người, chúng tôi còn
nhận thấy ở dạng truyện này ẩn chứa những giá trị đời sống, văn hóa thực tiễn được
hòa trộn vào tùy theo nếp sống mỗi nơi. Xét về phương diện tìm hiểu tiến trình văn
hóa của nhân dân trong quá khứ thì nó là một chi tiết có giá trị:
Truyền thuyết cá Ông ra đời từ chiếc áo cà sa của Phật bà phổ biến ở khu vực miền
Trung. Đây có thể là một tích được các nhà sư sáng tác hơn là của tầng lớp bình
dân. Chúng ta biết rằng ảnh hưởng của Phật giáo vào văn học trong giai đoạn thế kỉ
XIII – XIV đã được lịch sử công nhận (truyện Quan Âm Thị Kính, Tấm Cám…).
Truyền thuyết cá Ông trong tín ngưỡng của Phật giáo cho thấy dấu ấn về niềm tin
đạo Phật phổ rộng và rất sâu sắc trong đời sống nhân dân khi họ bạo dạn xa nơi
chôn rau cắt rốn, xa mồ mả tổ tiên để đi vào Nam tìm lẽ sống. Ở miền đất mới
hoang vu, đầy hiểm nguy rình rập khiến họ cần một nơi nương tựa trong tâm linh để
an cư lạc nghiệp. Đạo Phật vốn là đạo tâm. Phật tức tâm tựa như một bức tường vô
hình luôn kề cận với con người nên được mọi người sẵn sàng đón nhận. Cá Ông tựa
Phật ở chỗ Ông cứu người trong cơn hiểm nguy và hoàn toàn vô tư lự nên được
61
nhân dân kính yêu, xây dựng cho Ông một nguồn gốc huyền thoại tô điểm cho tính
linh thần và đức độ của Ông.
Truyền thuyết cá Ông là thần nhà trời đứng canh ở các cửa sông cứu người bị nạn,
truyện này phổ biến ở khu vực Tây Nam bộ. Đây là dấu ấn về sự phát triển, mở
rộng nghề ngư nghiệp của nhân dân miền Nam trên vùng đất mới. Tín ngưỡng thờ
cá Ông ở đây ban đầu là tín ngưỡng thờ thần của nghề chài lưới và đóng đáy ở các
cửa sông, ven bờ (đáy rạo, xiệp, lưới…) mà họ gọi chung là nghề “hạ bạc”. Do đó,
họ mới có quan niệm cá Ông trấn giữ ở các cửa sông để cứu người không cho bị lạc
ra khơi. Về sau, khi việc đánh bắt xa bờ mở rộng thì vai trò của cá Ông theo đó
cũng được mở rộng ra, phù hộ cho ngư dân những ngày dài đánh bắt nơi biển cả. Ở
tỉnh Bến Tre còn có các lăng nằm tận sâu trong đất liền, cách biển đến 20, 30 cây
số. Ở Vang Quới Đông vẫn còn một lăng Ông của dân làm chài lưới ven sông. Đây
là Ông khi lụy theo dòng nước trôi sâu vào bên trong, được một người đốn củi tình
cờ bắt gặp ở làng bên cạnh. Sau đó, người này nói lại và các cụ cao tuổi ở Vang
Quới Đông sắm lễ đi qua làng có Ông lụy xin thọ tang Ông và mang hài cốt về thờ
[39]. Hẳn ở đây, tâm thức và niềm tin vào Ông vẫn còn rất sâu đậm trong tâm thức
của những người dân có gốc gác từ miền Trung đi vào. Tín ngưỡng thờ Ông vẫn có
ảnh hưởng mạnh mẽ đến cả người làm lưới ven sông chứ không chỉ ngoài khơi sóng
gió.
Truyền thuyết cá Ông là chiếc áo cà sa của Phật, tướng quân của Long Vương, thần
tướng nhà trời, con trai vua Thủy Tề có phần nghiêng về đặc điểm truyện cổ tích.
Đó là dựa trên đặc điểm của cá Ông và tưởng tượng ra một thần tích liên quan đến
để lý giải. Những đặc điểm này phản ánh đúng với quy luật của văn học dân gian có
tính phổ biến rất rộng rãi. Những hình ảnh, motip ấy cứ lặp đi lặp lại trong tư duy
dân gian ở nhiều thể loại và nhiều truyện. Ở đây, các truyện đều xây dựng cá Ông
có một xuất thân cao quý, linh thiêng. Trong xuất phát điểm của nguồn gốc cá Ông
cho thấy tính chất khuôn mẫu của cổ tích khá sâu sắc trong tâm thức nhân dân. Tuy
vai trò và mục đích của các yếu tố đó có khác nhau trong mỗi truyện nhưng đó đều
là những hình ảnh mà hầu như ai cũng biết tới. Và nó được cải biến một cách có ý
thức để đi đến một định hình mới đúng theo nguyện vọng của nhân dân xây dựng
hình tượng cá Ông. Ở kiểu dạng thứ nhất này, nguồn gốc xuất thân và vì sao cá Ông
lại cứu người là trọng tâm trong tưởng tượng, hư cấu của dân gian nhằm lý giải điều
62
đó. Nó vừa có nét chất phác, thơ ngây như đặc điểm chung của văn học dân gian
vốn có, nhưng nó cũng hàm chứa những giá trị hiện thực được hòa trộn và nén chặt
vào trong đó.
Sang tới kiểu truyện thứ hai: cá Ông cứu vua Gia Long, kiểu này có dạng
thức:
Dạng thức 2:
Vua gặp nạn trên biển → Ông cứu → Ông được phong thần → Ông được thờ →
Ông trở thành phúc thần bảo trợ cho dân làng.
Đây là kiểu truyện phổ biến rộng rãi nhất trong đời sống nhân dân. Trong bài
diễn văn để mở đầu lễ hội nghinh Ông hàng năm, thường tích cá Ông cứu vua Gia
Long luôn được dẫn ra để ngầm khẳng định vai trò thiêng liêng, cao quý của Ngài.
Đây là một sự chọn lựa rất thông minh của nhân dân. Việc làm này mang đến ba
điều lợi ích thiết thực cho tất cả mọi người và cá Ông: Thứ nhất, vua Gia Long
khẳng định được chân mạng đế vương với muôn dân; Thứ hai, cá Ông nghiễm
nhiên được một sự bảo trợ từ phía triều đình cho tính thần thiêng của mình; Thứ ba,
cư dân ven biển có một vị thần quyền uy với rất nhiều sắc phong từ triều đình
phong tặng cho Ông. Phải thừa nhận một điều rằng, truyền thuyết cá Ông cứu vua,
sự linh thiêng gắn với quyền năng bảo trợ đã trở thành một hệ truyền thuyết mang
sức sống mãnh liệt trong tâm thức ngư dân. Trong khi các truyền thuyết khác
(không kể các truyện mới gần đây), theo chúng tôi thấy thì nó đang có nguy cơ bị
đóng băng trên văn bản, ít truyền thuyết tồn tại dưới dạng truyền khẩu, ngoài những
người lớn tuổi còn biết tới và kể lại thì hầu như mọi người chỉ nhớ được tích cá Ông
cứu vua Gia Long.
Xét mặt cấu trúc trên diện rộng thì truyền thuyết cá Ông là cấu trúc mở,
nhưng nếu xét cấu trúc truyền thuyết chỉ ở kiểu truyện này thì đây là một cấu trúc
riêng biệt có dạng thức như chúng tôi đã khái quát. Kiểu truyện này có hai yếu tố
nòng cốt mà bất cứ một truyện nào cũng phải đảm bảo và tuân thủ theo: Cá Ông cứu
vua và truyện bao giờ cũng gắn với một địa danh có thực. Địa danh này không nhất
thiết phải đúng với truyện đã vốn có mà người kể có thể lựa chọn một địa danh nào
đó để nhằm làm tăng tính chất hiện thực của câu chuyện. Trong bài “Tín ngưỡng
thờ cá Ông ở Ba Tri Bến Tre” của Dương Hoàng Lộc có cho biết một chi tiết rằng:
theo Nguyễn Duy Oanh ghi chép “Dân chài vùng Bãi Ngao (Ba Tri) cũng thuật rằng
63
cũng có lần thuyền của vua Gia Long đến đây gặp sóng to gió lớn và cũng được cá
Ông hộ tống đến Bãi Ngao” [39], nhưng đến khi đi điền dã đúng địa điểm trên thì
chúng tôi cũng giống như Dương Hoàng Lộc đều không nghe thấy ai kể cũng như
biết rằng có tồn tại truyền thuyết đó tại Bãi Ngao. Có thể truyện đó theo thời gian đã
bị lãng quên, hoặc nó nằm vào trường hợp như chúng tôi vẫn thấy là người kể chỉ
gán truyện cho một địa danh để câu chuyện cá cứu vua thêm phần sinh động, đáng
tin. Nên truyện kể tùy thuộc vào mỗi người, mỗi nơi mà có phần khác nhau, không
nhất định phải nằm trong một khuôn mẫu cố định.
Truyền thuyết lịch sử gắn với thời kì gian khổ của các bậc đế vương không khó tìm
thấy trong tác phẩm văn học dân gian. Các truyền thuyết ấy thường gắn với một tích
kì lạ nhằm để nhân dân tin rằng đây là bậc đế vương đã được trời ban định, nên
trong những lúc nguy cấp tưởng như mất mạng nhưng vẫn vượt qua một cách thần
kì. Trong nhiều tích truyện loài vật giúp vua, hầu như các loài luôn là thần thú xuất
hiện để tô điểm, khẳng định cho mệnh bá vương của vua (Rùa vàng giúp An Dương
Vương, rùa vàng cho Lê Lợi mượn kiếm…). Đây là cách “dùng thần quyền để củng
cố vương quyền” [57, tr.144]. Có thể lúc mới đầu, tích cá Ông cứu vua chỉ là một
truyện được thêu dệt nhằm khẳng định cho chân mạng đế vương của vua Gia Long
như trước đó các triều đại vẫn làm. Nhưng khi đi vào trong nhân dân, mục đích ban
đầu ấy đã bị biến đổi: những truyền thuyết này trở thành các tích đề cao tính thiêng
liêng, đức độ của cá Ông trong tâm thức cư dân biển. Ý đồ của triều đình dùng tín
ngưỡng cá Ông để huyền thoại hóa cho chân mệnh của nhà vua. Ngược lại, dân gian
lại lấy quyền uy và sự bảo trợ của triều đình để huyền thoại hóa cho sự thiêng liêng
của cá Ngài. Điều này cho thấy, tín ngưỡng cá Ông chiếm một vai trò lớn trong đời
sống nhân dân nên thay vì đóng một vai trò phụ, hình ảnh cá Ông lại trở thành yếu
tố chính với mức độ bao phủ rộng khắp các vùng biển.
Qua tới kiểu truyện cá Ông cứu nạn, kiểu truyện này có dạng thức:
Dạng thức 3:
Ngư dân gặp nạn → Ông cứu → Thờ (lăng, đền thờ, cúng giỗ) → Ông mang phúc
lành cho dân làng (dạng này phổ biến ở các truyện ngày nay)
Như ban đầu chúng tôi đã nói, chủ đề xuyên suốt các tích truyện về cá Ông
đó là cá Ông cứu nạn. Nhưng ở kiểu truyện thể hiện tập trung rõ ràng nhất cho chủ
đề này thì phải tới các tích truyện gần đây. Các truyện kiểu này có số lượng nhiều
64
hơn tất cả. Kể cả ở kiểu truyện cá Ông cứu vua Gia Long cũng nằm trong kiểu
truyện này. Song vì các tích trên đã có một kiểu truyện riêng, đời sống riêng nên
chúng tôi tách ra để có thể đi sâu hơn. Các truyện nằm trong kiểu này thì nơi đâu
ngư dân cũng có truyện để kể. Nhưng, hầu hết các truyện đang nằm trong tính sự
kiện chứ chưa thành một truyền thuyết được phổ biến trên diện rộng. Nhân vật
trong truyện kể chưa ở mức độ khái quát chung cho cả cộng đồng.
Các truyện dạng này có hai đặc điểm chính: thứ nhất, tình tiết truyện xuất phát từ
một sự kiện cá cứu người có thực trong đời sống; Thứ hai, các tích kể nhằm nhấn
mạnh nhân duyên, phước đức của người được cá Ông cứu và tính linh thiêng của cá
Ông. Ví như các truyện chúng tôi đã trích dẫn ở phần đầu chương II. Ở đây có thể
thấy, các truyện này đang có xu hướng gắn với phạm vi một địa phương, một con
người nhất định chứ không phiếm chỉ hóa. Chúng tôi nhận thấy trong dạng thức cá
Ông hiển linh cứu người được thể hiện trong nhiều cách khác nhau rất thú vị. Đây là
điều chúng tôi để ngỏ cho ai có quan tâm sẽ đào sâu vào hơn nữa. Lấy ví dụ một
truyện về sự linh thiêng của Ông đã giúp dân làng được người dân ở đảo Lý Sơn,
tỉnh Quảng Ngãi kể lại như sau: “Có một năm khi trời đang yên, biển đang lặng ngư
dân đồng loạt ra khơi đánh cá nhưng thần Nam Hải hiển linh (hình thức lên đồng)
gọi tất cả ghe thuyền phải vào bờ, nếu không sẽ gặp bão tố. Khi tất cả ghe thuyền đã
vào tới bờ thì bão tố nổi lên theo đúng lời ứng của Ngài. Ngoài ra, nhiều lần Ngài
đã cứu các ngư dân bị xiêu lạc và đưa dẫn về tới đảo một cách an toàn” [31]. Đó chỉ
là một trong nhiều cách hiển linh của cá Ngài mà chúng tôi được biết (báo mộng,
lên đồng, xin keo…) để cứu nạn ngư dân. Điều này cho thấy các motip dân gian có
sự ảnh hưởng khá sâu sắc đến các tích truyện về cá Ông, dù trong thời hiện đại khoa
học đang lấn sân và “khoanh vùng” ý thức dân gian trong những lý giải vốn được
gán với thời kì con người chưa phát triển về nhận thức.
Như chúng tôi đã nói ở trên, cấu trúc truyện cá Ông là một cấu trúc mở. Người nghệ
sĩ dân gian có thể miêu tả tỉ mỉ nhằm nhấn mạnh ở phần nào của câu chuyện một
cách tùy ý, miễn rằng truyện hấp dẫn, sinh động với cả người kể và người nghe. Ở
dạng truyện này cũng thế. Có hơi khác với hai kiểu truyện, một kiểu nhấn mạnh về
nguồn gốc, một kiểu nhấn mạnh về cá Ông và uy quyền của nhà vua, kiểu truyện
này thường tập trung mô tả cảnh Ông cứu người với những chi tiết rất li kì. Đây là
những truyện chưa thành truyền thuyết, nghĩa là nó chưa trở thành truyện mang tính
65
khái quát và có sức nén thông tin trong đó nhưng theo chúng tôi thì nó đang trên
con đường vận động để thành truyền thuyết khi đã đủ độ lắng thông tin và độ chín
về thời gian.
Tổng hợp lại từ ba dạng thức trên, chúng ta thấy được một cấu trúc cốt lõi trong các
truyền thuyết và các truyện trên:
Người gặp nạn → Cá Ông cứu → Cá Ông được thờ
Cấu trúc cốt lõi chung của các truyện được xây dựng dựa trên đặc điểm tính thiện
cứu giúp con người của cá Ông. Còn chi tiết cụ thể từng truyện thì rất phong phú, ít
trùng lặp. Mỗi truyện về cá Ông luôn dựa trên một điều có thật mà ngư dân mắt
thấy tai nghe rồi được nhào nặn lại, mỗi nơi mỗi khác kéo theo tình tiết truyện cũng
không giống nhau. Với những điều kể trên, và qua các dạng thức được mô hình hóa,
chúng ta có thể thấy cốt truyền thuyết về cá Ông không đổi nhưng tình tiết đã có
nhiều biến đổi đáng lưu ý:
+ Thứ nhất, các truyền thuyết về cá Ông không hoàn toàn chỉ là huyền thoại hay
một sản phẩm của trí tưởng tượng huyễn hoặc, mà luôn luôn được xây dựng trên
một cơ sở thực tiễn nào đó theo quan sát lâu dài của ngư dân đúc kết thành.
+ Thứ hai, phần gốc tích của cá Ông có xu hướng mờ nhạt dần đi, thay thế vào đó là
các chi tiết tập trung cho sự cứu mạng người của cá Ông.
+ Thứ ba, các chi tiết huyền thoại hóa đã lược bớt dần, thay vào đó là các yếu tố
hiện thực được đề cao, làm sao để câu truyện kể ra càng đáng tin, càng gần với thực
tế thì càng hấp dẫn.
Qua hiện trạng ấy, có thể thấy: nếu trước đây, truyền thuyết về cá Ông nằm trong
phạm vi văn học dân gian rộng lớn, là một thể loại dựa trên trí tưởng tượng của
nhân dân, thì nay truyền thuyết cá Ông có xu hướng gắn với một phạm vi hẹp hơn,
với một con người thực, việc thực trong một địa danh có thực, không còn phiếm chỉ
hóa như trước đây nữa. Sự tương đồng giữa các tình tiết và thực tế khiến cho truyện
nằm giữa lằn ranh của lịch sử và nghệ thuật. Nhưng có thể từ chính những truyện cá
thể, mang tính địa phương này, lâu dần khi đủ điều kiện nền tảng, cơ sở sẽ được
khái quát lên thành hệ truyền thuyết cá Ông mang tính phổ quát mới và nằm trong
phạm vi của văn học nghệ thuật hơn là tính sự kiện.
66
Qua quá trình vận động trên, chúng tôi nhận thấy, tâm thức của người Việt luôn gắn
liền với niềm tin vào sức mạnh thần linh, dù cho thời đại đổi thay và có tác động
đến nhiều mặt nhận thức của con người. Có lẽ nhờ điều đó mà nét đẹp trong văn
hóa biển mới được lưu giữ và bảo toàn.
3.3. Các motip tiêu biểu
Ở phần trước, chúng tôi đã đi vào tìm hiểu cấu trúc cốt truyện chung của
truyền thuyết cá Ông. Hầu hết các truyện dân gian có xu hướng xây dựng theo cấu
trúc cốt lõi ấy, chỉ thay đổi các chi tiết mà dân gian đã nhào nặn từ một hoàn cảnh
thực tiễn và đưa vào trong tác phẩm.
Trong phần này, chúng tôi sẽ nghiên cứu về các motip tiêu biểu dựa trên các truyền
thuyết đã được nêu ở trên và một số các truyền thuyết khác. Motip là yếu tố để tạo
thành tác phẩm. Nó thường xuất hiện lặp đi lặp lại ở nhiều truyện dân gian. Với tần
số xuất hiện ấy, motip truyện dần dần đóng một vai trò quan trọng. Nó không chỉ là
một đơn vị nghệ thuật của tác phẩm mà còn có ý nghĩa trong việc tìm hiểu quan
niệm thẩm mĩ về cuộc sống được nhân dân gửi gắm vào đó.
3.3.1. Motip xuất thân thần kì và motip phạt – thưởng
Trong dân gian, đối với những nhân vật và loài vật có đặc điểm khác thường,
phi phàm thường được nhân dân khoác cho một nguồn gốc xuất thân kì lạ, hoặc
cũng mang một tính cách khác thường. Trong truyền thuyết về cá Ông, chúng ta lại
thấy motip ấy. Cá Ông là tướng quân của Long Vương, con vua Thủy Tề, thần
tướng nhà trời. Tư duy thần thoại, truyền thuyết, cổ tích vốn được xem là tư duy của
loài người thuở còn mông muội, chưa lý giải được điều gì bằng khoa học mà chỉ
bằng óc tưởng tượng để giải thích. Nhưng óc tưởng tượng ấy không phải chỉ chung
chung, giản đơn mà đi với một sự khôn khéo trong lựa chọn. Chúng ta có thể thấy,
không phải ngẫu nhiên cá Ông lại được gắn với một nguồn gốc thần linh. Motip
xuất thân thần kì này có chức năng dự báo những việc làm cao cả về sau mà trong
tư duy của nhân dân, chỉ có thần thánh hoặc bậc tài năng hơn người mới tạo ra
được. Ở đây, cá Ông đã khiến dân gian ngưỡng mộ, kính nể vì hành động cứu người
trong cơn bão tố biển khơi mà không ai nghĩ có thể sống sót qua được. Vậy mà cá
Ông đã làm được điều thần tích ấy, nên dân gian đã lựa chọn một nguồn gốc cao
quý để tô điểm cho Ông một sự thần thánh khác thường. Điều đó cho thấy một tư
duy về óc tưởng tượng có lựa chọn xác đáng của nhân dân. Sự việc tới đó tưởng
67
như đã đủ. Nhưng dân gian chưa dừng óc tưởng tượng của mình ở đó mà còn tiếp
tục đẩy xa hơn. Trong xuất thân thần kì còn có motip về vị thần nhà trời phạm tội
nên bị đày xuống trần chịu phạt. Đây có thể xem là một motip cổ xưa và chung cho
nhiều nền văn học cả phương Đông lẫn phương Tây. Quỷ Satan trong Kinh Thánh
cũng chính là một vị thiên thần nhiều quyền lực. Bởi chính sự sa ngã, kiêu ngạo và
phạm tội với Chúa trời mà bị đày xuống trần làm quỷ Satan. Cá Chép Vàng cũng có
nguồn gốc thiên đình, vì mắc lỗi mà phải xuống trần chịu lỗi, phải tu hành cho đủ.
Khi đã tu thành chính quả thì cá chép hóa rồng bay về trời. Trong sự tích con hổ, hổ
vốn là một vị thần nhà trời tên Phạm Nhĩ. Phạm Nhĩ cậy sức khỏe và tài phép hơn
người nên thường gây sự, làm loạn trên thiên đình. Sau đó, Ngọc Hoàng phải nhờ
đến Phật bà bắt và đày Phạm Nhĩ xuống trần gian. Nể tình Phạm Nhĩ vốn là vị thần
oai linh nên trời cho xuống trần làm chúa tể sơn lâm, là loài hổ hay còn gọi Ông Ba
Mươi. Và đến cá Ông, chúng ta lại gặp lại motip thần nhà trời bị phạt xuống trần
tích công chuộc lỗi. Dường như dân gian không hài lòng với vị thần tốt bụng cứ
ngụp lặn ngoài khơi cứu người nên phải tạo ra một cái cớ hợp lý cho hành động ấy,
bằng cách cho vị thần phạm tội và bị đày xuống trần làm công việc gian khó ấy. Tới
đây, tư duy dân gian lại một lần nữa thể hiện sự triệt để của mình trong lý giải và
mơ ước. Tới truyền thuyết 7 và 12, chúng ta thấy có một motip khác, mà chúng tôi
gọi là motip thưởng, đó là cá Ông khi cứu người tích đức đủ sẽ có cơ hội hóa rồng.
Motip cá hóa rồng cũng là motip rất phổ biến. Trong dân gian vẫn kể về tích cá
chép vượt Vũ môn tam cấp để được hóa rồng hay thuồng luồng nhả ngọc hóa rồng.
Ở đây, có một hoặc nhiều sự thử thách được đặt ra để được nhận thưởng. Cá chép
muốn hóa rồng phải vượt qua cổng vũ môn rất cao được tạo ra từ linh khí của trời
đất. Thuồng luồng muốn hóa rồng đã phải đưa người qua sông trong nhiều năm và
còn phải nhả viên ngọc đã ngậm trong miệng để được hóa rồng. Trong truyền thuyết
7, cá Ông muốn hóa rồng phải tích đức đủ và còn phải tìm cho ra được vật báu mà
ngày trước Ông chểnh mảng trông coi nên đã làm mất. Trong truyền thuyết 12, cá
Ông phải làm công việc cứu người làm sao cho đủ để vượt được vũ môn mà triều
đình mở ra để hóa rồng. Có thể thấy một triết lý nhân sinh quan và mơ ước của nhân
dân được chuyển tải vào trong truyện: sau tất cả những nỗ lực vượt qua khó khăn
thì luôn có phần thưởng xứng đáng được trao tặng. Vì công sức bỏ ra của cá Ông rất
nhiều nên nhân dân đã tưởng tượng ra một món quà xứng tầm cho công đức ấy.
68
Chính là cá hóa rồng. Khi cá thành rồng sẽ được tung hoành bay trên mây hoặc vẫy
vùng nơi biển cả, tự do không gì sánh bằng. Rồng còn hô mưa gọi gió mang đến
mùa màng tươi tốt. Hơn thế nữa, rồng còn là biểu tượng của sức mạnh, quyền uy và
sự cao quý. Hóa rồng – một sự lý tưởng là món quà ý nghĩa nhất mà nhân dân dành
tặng cá Ông. Nhưng cái ẩn đằng sau điều này chính là óc công bằng và ước mơ tới
cuộc sống tốt đẹp lý tưởng của nhân dân. Chúng ta vẫn nghe về chàng cóc lấy vợ
tiên, Sọ Dừa lấy được người vợ đẹp người đẹp nết, cô Tấm sau bao gian khổ cũng
được trở về cung có cuộc sống hạnh phúc…và cá Ông làm việc thiện tới một lúc
nào đó sẽ được hóa rồng. Điều này bộc lộ sinh động quan điểm thẩm mĩ của nhân
dân về cái đẹp trong cuộc sống, về sự công bằng với số phận không chỉ con người
mới có mà cả muôn loài cũng thế.
3.3.2. Motip cái chết thần kì
Motip cái chết thần kì xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm văn học dân gian.
Đặc biệt là trong truyền thuyết về các anh hùng lịch sử, motip về cái chết thần kì rất
phổ biến. Trong bài viết “Về sự tái sinh của nhóm truyền thuyết anh hùng bộ lạc ở
vùng Thuận Hóa” của Hồ Quốc Hùng, tác giả có nói về motip này, trong đó nổi lên
một dạng motip người anh hùng chết không toàn thây theo công thức tách nhập để
hòa vào núi sông. Không rõ có mối tương quan hay chuyển hóa gì ở công thức này
giữa người anh hùng vào cá Ông hay không, nhưng ở đây, chúng tôi gặp lại motip
về sự chết thần kì này ở khá nhiều truyện tại các vùng biển liên quan đến cá Ông.
Ví dụ 1: Truyện này được ghi chép ở Lăng cá Ông trên đường Hoàng Hoa Thám,
thành phố Vũng Tàu. Truyện kể rằng vào thế kỉ XIX có một đầu cá Ông rất lớn đã
dạt vào Bãi Sau. Đầu cá to đến nỗi không thể kéo vào bờ. Ngư dân phải lấy tre rào
lại cho thịt tan hết mới lấy được cốt đưa về miếu Bãi Trước để thờ. Cùng thời gian
đó, có một thân cá Voi rất lớn đã dạt vào biển Cần Giờ (Gia Định), một phần đuôi
cá dạt vào biển Long Hải (Vũng Tàu). Ngư dân truyền rằng đây là vị tướng quân
của Long vương ra lệnh phải bảo vệ thuyền bè qua lại trong vùng biển. Nhưng vị
tướng này đã không hoàn thành nhiệm vụ khiến cho chiếc tàu bị đắm trong cơn bão
tố nên Long vương nổi giận hạ lệnh chém làm ba khúc [53].
Ví dụ 2: Tương tự như truyện trên, ở Kiểng Phước (Gò Công) cũng có một đền thờ
cá Ông như thế. Tương truyền rằng một lần trời đổ mưa ròng rã ba ngày đêm, ngoài
bờ sông Soài Rạp có một cá Ông lụy vào nhưng chỉ có phần giữa, khúc đuôi và
69
khúc đầu đâu mất. Nhân dân trong vùng lấy cốt Ông đưa vào thờ ở đình làng Vàm
Láng (thuộc Kiểng Phước). Không bao lâu, một ngư phủ ở Phước Hải qua Vàm
Láng xin thỉnh cốt Ông về Bà Rịa và đền bù lại cho dân làng 100 quan tiền. Người
đó cho biết rằng, cá Ông lụy về báo mộng cho hay vì Ông phạm tội với thiên đình
nên bị phạt thân xác ở ba nơi. Đầu Bà Rịa, thân ở Kiểng Phước, đuôi ở Vũng Tàu.
Nếu dân làng Phước Hải tìm đủ ba khúc lại trong một lăng thờ thì Ông sẽ phù hộ
cho làng Phước Hải thịnh vượng. Nhưng lời đề nghị ấy đã không được chấp nhận,
vì dân làng Vàm Láng cũng tin tưởng tôn kính khúc xương dù chỉ là khúc giữa của
Ông cũng đem đến nhiều phúc lợi [52].
Ví dụ 3: Ở dinh Vạn Phước Lộc, ngụ phường 9, thị xã Lagi, tỉnh Bình Thuận cũng
lưu truyền một truyền thuyết mà chúng tôi có dịp nghe qua lời kể của bác Nguyễn
Sáng (thủ từ dinh Vạn Phước Lộc). Truyện kể rằng: tại dinh hiện nay thờ rất nhiều
Ông, trong đó có một Ông khi lụy vào chỉ có phần đầu. Một phần dạt về Mũi Điện ở
Hàm Thuận Nam, một phần dạt về Phước Hải Vũng Tàu. Ngư dân truyền rằng Ông
mắc tội lỗi gì đó nên bị xử chia làm ba khúc. Sau đó, Ông ở không yên và báo mộng
về báo mọi người tìm đầy đủ thân xác cho Ông thì Ông phù hộ cho dân làng, nhưng
điều đó đã không thể thực hiện vì nơi khác họ cũng có quan niệm “dù chỉ là một
khúc của Ông cũng đem lại phúc ấm cho dân làng” nên họ không cho đưa đi.
Với dạng truyện này, chúng tôi được ngư dân khẳng định là đã từng có nhưng lâu
lắm rồi, từ đời ông cố ông sơ tới giờ, con cháu chỉ biết và thờ như thế chứ thực sự ra
sao thì cũng không rõ lắm.
Cái chết không toàn thây được dân gian lưu truyền thường xảy ra trong hai trường
hợp: một là chết không toàn thây nhằm để chê trách, lên án đối tượng sống thất
nhân nên phải chịu tội. Hai là cái chết không toàn thây nhằm để tô điểm cho cá tính,
đức tính hơn người của nhân vật đó. Trong motip người anh hùng chết không toàn
thây thuộc vào trường hợp thứ hai, có dạng: Người anh hùng thất trận -> thân chia
ba khúc hòa vào núi sông. Còn ở truyền thuyết cá Ông có dạng: Ông không hoàn
thành nhiệm vụ -> thân chia làm ba khúc chịu tội. Ở đây, cá Ông bị xử phạt nhưng
không phải là đối tượng của sự lên án, mà theo cách kể của nhân dân, sự chết của
Ông là đối tượng của lòng tôn kính, thương cảm. Dường như lờ mờ có một sự tương
quan trong cái chết thần kì của người anh hùng được chuyển hóa vào trong dạng
truyện này. Đây là một ý thức đề cao đối tượng thờ của nhân dân. Về cái chết của
70
người anh hùng, đó là “cái chết hòa thành sự sống bất tử. Anh linh các vị anh hùng
hòa vào hồn thiêng sông núi sống mãi muôn đời với con cháu” [4, tr.51]. Ở đây, cái
chết kì lạ của Ông được nhân dân khoác cho màu sắc tâm thức của nhân thần. Hơn
nữa, ở đây cũng có một motip nhỏ khác, đó là báo mộng. Báo mộng là một motip
rất phổ biến ở nhiều truyện trong dân gian. Nhưng hầu hết motip báo mộng chỉ xuất
hiện trong hành động của con người, rất hiếm có tích về sự báo mộng trong hành
động của loài vật. Trường hợp cá Ông như thế này là hiếm thấy. Như thế, motip về
cái chết kì lạ của Ông được tôn trong sự thần kì và motip báo mộng, cho thấy trong
tâm thức của nhân dân, người ta đã đồng nhất cá Ông với nhân thần. Ông là một vị
tướng quân chứ không đơn giản chỉ là loài cá có thiện tính sinh sống ngoài biển
khơi.
Trong motip về cái chết thần kì của cá Ông còn xuất hiện một hình thức khác, đó là
cá về chầu Ông Bà. Nói cách khác là cá trở về với tổ tiên.
Ngư dân ở dinh Ông Phước Hải, xã Long Hải, huyện Long Điền, Vũng Tàu còn kể
cho chúng tôi nghe một câu chuyện khá li kì về việc mai táng Ông như sau:
Nhiều trường hợp, cá Ông mắc cạn vào bờ được ngư dân giúp sức đưa ra
nhưng hôm sau đã thấy cá Ông đó lụy vào trong bãi. Người dân tin rằng đó là cá về
chầu Đức Ông, Đức Bà. Có lần cá Ông lụy gần đảo Côn Sơn, các thuyền ngư liền
hợp sức đưa xác Ông vào đảo để an táng vì từ đó vào đảo gần hơn vào đất liền.
Nhưng kì lạ thay, khi thuyền quay hướng về phía đảo để đi thì một đàn cá Voi ở đâu
tới cản mũi thuyền không cho đi. Ngư dân hiểu rằng Ông không chịu mai táng ở
đảo nên quay thuyền vào đất liền thì đàn cá Voi không cản lối mà còn hộ tống đoàn
thuyền đưa Ông đã lụy vào bờ. Khi gần tới nơi, đoàn cá Voi phun nước ở lỗ đạo
hàm ý cảm ơn rồi quay ra biển. Thế nên ở đảo Côn Sơn không có mộ cá Voi. Ngư
dân cho rằng đó là vì cá Voi lụy luôn về với ông bà. Ông bà trước được mai táng ở
đâu thì lớp sau sẽ theo về lụy cùng nơi đó.
Ngư dân sống gần ngôi miếu thờ cá Ông “Ngư Linh Miếu” ở vùng biển xã
Cảnh Dương (Quảng Trạch, Quảng Bình) cũng lưu truyền một tích, được ông Phạm
Quốc Hồng, thường trực hội ngư dân kể lại như sau: trước đây, có một cá Cô bị mắc
cạn vào bãi biển xã Cảnh Dương. Ngư dân thấy vậy liền hợp sức đưa Cô trở lại
biển. Cô ra ngoài thì bơi vài vòng rồi biến mất. Nhưng đến sáng hôm sau, lúc mực
nước ở mức cao nhất thì cũng cá Cô đó lại vào ngay chỗ cũ và đã lụy. Mọi người tin
71
rằng đây là một cá Cô vào chầu Đức Ông, Đức Bà và mọi người đưa về mai táng
chu đáo cho Cô. Người dân cũng tin rằng vì Cảnh Dương là một vùng đất lành nên
các Đức Ông, Đức Bà đã chọn nơi đây làm nơi nương tựa để lụy. Đây là một điều
tốt lành cho một năm làm ăn may mắn [32].
Ở thôn An Đông, An Vĩnh, Quảng Ngãi cũng lưu truyền một câu chuyện về
Ông lụy rất kì lạ. Truyện được kể bởi anh Nguyễn Đạt, người trực tiếp dìu xác Ông
vào bờ như sau: một hôm, anh cùng đứa con trai đầu đi ra khơi lặn ốc thì thấy Ông
lụy. Hai cha con liền cho thuyền quay hướng rồi dìu xác Ngài vào bờ để an táng.
Ban đầu anh định đưa Ông vào lăng Dạn (thôn An Đông) để mai táng nhưng khi
cho thuyền chạy thì thế nào cũng không được. Thấy Ông ngỏ ý về hướng Tây, anh
cho thuyền chạy theo hướng này thì thuyền đi nhanh và nhẹ hơn nhiều. Sau khi
chôn cất xong, nghe các vị cao niên truyền lại mọi người mới biết sở dĩ Ông không
vào lăng Dạn do ở đó chỉ những vị có chức tước lớn mới được vào tu [55].
Những truyện như trên chúng tôi thấy có ở rất nhiều nơi. Ngư dân biển truyền và tin
rằng cá Ông rất linh thiêng, sống có nơi mà lụy cũng có nơi chứ không phải chỗ nào
Ông cũng vào. Về sự lụy của cá Ông như thế này có thể xem là một motip con trong
motip về cái chết thần kì: motip cá về chầu ông bà. Motip này là một sự chuyển hóa
uyển chuyển từ tâm thức cội nguồn “Cáo chết ba năm vẫn quay đầu về núi”. Rất
nhiều truyền thuyết về các vị anh hùng lịch sử khi chết và có motip dạng này: người
anh hùng phải trở về được quê nhà mới chịu tắt thở hoặc để đầu rơi xuống đất rồi
chết. Còn nếu chết mà chưa trở về tới quê nhà được thì luôn có một điềm báo mộng
về để bà con dân làng tìm đưa xác về quê hương bản quán chôn cất. Ở đây tình tiết
cá Ông lụy cũng được nhân dân tin và huyền thoại gần như thế. Khi lụy cá luôn tìm
về đúng nơi của Ông bà. Thực tế là có những nơi cá thường lụy nhưng có những nơi
không bao giờ thấy cá dạt vào. Có thể hình dung ra một diễn tiến như sau về tâm
thức của nhân dân với cá Ông: càng về sau này, hình tượng cá Ông càng có một sự
chuyển hóa đan xen giữa hình tượng của thần thú sang hình tượng nhân thần.
Những giá trị về đạo lý nhân dân nhẹ nhàng đưa vào trong các tích truyện cá Ông.
Đây không chỉ là một sự để tỏ lòng tôn kính mà còn là cách để nhân dân lưu truyền
những giá trị đạo đức tốt đẹp thông qua hình tượng cá Ông.
3.3.3. Motip cá cứu nạn
72
Truyền thuyết từ 7 đến 13 thuộc vào kiểu truyện về nguồn gốc ra đời của cá
Ông. Nhân dân lấy một nhân vật, một vị thần, một vật thần…để giải thích nguồn
gốc ra đời của cá Ông. Cụ thể như sau:
a. Thần mắc tội → cá Ông → cứu người
b. Áo cà sa → cá Ông → cứu người
c. Thần nhà trời → cá Ông → cứu người → hóa rồng
d. Quân Long Vương → cá Ông → cứu người → xử phạt
e. Con trai vua Thủy tề → cá Ông → cứu người tích đức +tìm vật báu →hóa rồng
Từ những dạng thức thức trên, có thể thấy motip cá Ông cứu người (*) là yếu tố
quan trọng nhất, nhưng ở mỗi truyện thì vị trí của yếu tố này không giống nhau. Ở
ba dạng đầu, motip cá Ông cứu người rất đơn giản. Đây là điều quan trọng khi xem
xét về một sáng tác của dân gian. Vấn đề này được tác giả Nguyễn Tấn Đắc đánh
giá như sau: “Trong khi xem xét những dạng khác nhau của huyền thoại, cần đặc
biệt chú ý những dạng đơn giản này. Càng ít yếu tố và liên hệ, nó càng dễ gần với
những ý nghĩ xa xưa, nguyên thủy hơn. Huyền thoại, ban đầu thường mới chỉ là
những ý tưởng đơn giản về những liên hệ thần kì mà người nguyên thủy đã tưởng
tượng ra theo cách suy nghĩ đặc biệt của họ. Từ những ý nghĩ thần kì ban đầu đó
dần dần đã xây dựng nên những câu chuyện thần thoại có đầu có đuôi, gồm cả một
chuỗi nhiều yếu tố và liên hệ” [57, tr.52]. Ở dạng thức a, b, motip cá cứu người
không có mối liên hệ về sau, nhưng qua đến dạng c, d, e thì khác, motip cá cứu
người đã có sự liên hệ ràng buộc: thưởng – phạt. Từ chi tiết đơn giản cá thấy người
gặp nạn thì cứu, bây giờ đã sang một liên hệ phức tạp hơn: cứu được nhiều người
thì tích được nhiều công đức hóa rồng/ cứu người không thành bị xử chém/ cứu
người tích đức + tìm vật báu thì được hóa rồng. Điều đó có nghĩa rằng, cứu người là
nghĩa vụ và trách nhiệm của cá Ông. Có thể thấy sự phát triển của motip: cá cứu
người -> cứu người là trách nhiệm, có thưởng phạt. Điều này cho thấy, trong tâm
thức cộng đồng ngư dân nhìn nhận về cá Ông có sự biến chuyển. Cá Ông được tôn
là phúc thần, nhưng ngầm trong đó, nhân dân cũng đánh giá về mối quan hệ tương
hỗ công bằng giữa cá Ông và ngư dân. Ngư dân bảo vệ Ông, giúp Ông khi Ông gặp
nạn (mắc cạn, ăn phải con sam, mắc vào lưới…), khi Ông lụy được chôn cất cẩn
thận, được lập lăng thờ cúng hằng năm đầy đủ. Ngược lại, cá Ông có trách nhiệm
phải cứu giúp con dân gặp nạn. Cứu thành thì có thưởng, không thành phải chịu tội.
73
Đây là một sự phát triển trong tư duy nhận thức, đánh giá mối quan hệ của con
người với vạn vật không phải hoàn toàn lệ thuộc tự nhiên, vào thần thánh mà đã có
sự khẳng định, độc lập nhưng vẫn nằm trong mối tương trợ lẫn nhau. Và dù thế nào,
con người vẫn luôn là trung tâm của mọi sự vật, sự việc trong vũ trụ này.
Qua đến kiểu truyện thứ hai, mà chúng tôi cho là rất tiêu biểu vì kiểu truyện
này đã và đang ngầm diễn tiến trong các truyện có xu hướng huyền thoại hóa hiện
nay. Đó là kiểu truyện cá Ông cứu nạn. Đặc biệt là kiểu truyện cá Ông cứu vua Gia
Long rất phổ biến trong đời sống ngư dân. Kiểu truyện cá cứu vua có dạng: vua gặp
nạn → cá Ông cứu → khẳng định chân mạng đế vương (i)
Nói cách khác, vua được cứu vì có chân mạng đế vương. Dạng thức này sau đó đã
chuyển qua các truyện cá cứu người của ngư dân biển ngày nay. Qua những truyện
được liệt kê ở phần trước, cùng với việc đi điền dã, chúng tôi nhận thấy tất cả các
câu chuyện kể về cá Ông cứu người dân gặp nạn luôn có một chi tiết mà chúng tôi
cho là rất quan trọng: cá Ông chỉ cứu những người sống có đức độ. Người sống
không tốt, không tu chí làm ăn, nhất là với nghề đi biển thì dù có kêu xin cũng
không được Ông cứu. Kể về điều này, bác Lâm Văn Giỏi (70 tuổi, Vạn trưởng vạn
ngư nghiệp Tân Long, thị xã Lagi, Bình Thuận) nhấn mạnh với chúng tôi rằng:
“Cũng có nhiều trường hợp khi đi hành nghề trên biển, ngư dân bị sóng to gió lớn,
hoặc tai nạn chìm thuyền, trôi nổi lênh đênh trên biển, nếu người nào có phước đức
nhân duyên thì được Thần Ân Nam Hải dựa vào người làm cho mê man rồi để trên
lưng đưa vào bờ cứu sống. Người có nhân duyên với Ông cũng khó lắm, mười
người có khi chỉ có một người được Ông cứu thôi. Còn như tích vua Gia Long là vì
vua có chân mạng đế vương nên khi Ông cứu, Ông cứu hết cả vua và quan quân vì
phải có quân thì vua mới thành nghiệp. Việc cá Ông cứu người là có thật, vì lẽ đó
mà dân rất tin tưởng và thường cầu nguyện mỗi khi gặp tai nạn trên biển”. Yếu tố
người phải có đức độ nhân duyên mới được Ông cứu chỉ đang trong quá trình nhào
nặn, chúng tôi cho rằng đến một lúc đủ độ chín thì nó sẽ trở thành một chi tiết trong
hầu hết các truyền thuyết cá Ông cứu người của giai đoạn sau. Có thể khái quát
dạng thức đó như sau: người gặp nạn → cá Ông cứu → khẳng định người sống có
đức độ (i’). Nói một cách khác thì người được cứu vì người đó sống có đức độ.
Kết hợp giữa hai dạng thức (i) và (i’), chúng ta thấy xuất hiện một motip mới:
motip cá cứu người có điều kiện (**).
74
Ở đây, giữa hai motip (*) và (**) có một mối quan hệ khăng khít với nhau. Motip
sau là bước chuyển và phát triển lên từ motip trước. Nói rõ hơn thì đây là một bước
chuyển biến trong tâm thức và ý thức nhân dân trong sự yêu chuộng tính công bằng
và đi lên trong ý thức con người. Từ motip cá cứu người → cá cứu người có điều
kiện, rõ hơn là từ tâm thức cho rằng cá cứu tất cả mọi người bị nạn và việc làm này
thuộc về trách nhiệm của cá, thì sau đó đã thành cá cứu người với điều kiện con
người phải có lối sống đức độ. Trọng tâm trách nhiệm từ loài vật đã được chuyển
sang cho con người: muốn được cá cứu, nhất định phải là người sống có phước đức.
Nếu motip ở các thần thoại khác đòi hỏi phải có sự tham gia của một yếu tố ngẫu
nhiên thiên định, thì ở đây, motip này lại cần có sự tham gia của yếu tố nhân định.
Nhân định ở đây, chính là bản tính lương thiện của con người hoặc một tố chất tốt
đẹp nào đó để cảm động được cá Ông thì mới được cứu (sống tốt đẹp, khấn nguyện
sẽ ăn chay trường, làm việc phước đức…). Hẳn ở đây, lòng yêu chuộng sự công
bằng, yêu chuộng cái đẹp, nhân nghĩa và tinh thần khuyến khích con người cần phải
sống bác ái với nhau đã trở thành hạt nhân cho sự cân chỉnh lại nhận thức về hành
động cứu người của cá Ông. Ngầm trong đó, dân gian cũng chuyển hóa yếu tố chính
thúc đẩy cá Ông cứu người vì sự thưởng phạt sang cho con người cần sống tốt để
nhận được sự cứu giúp của Ông. Điều này cho thấy tính chủ động của con người
trước biển khơi bao la và dữ dội. Thay vì đợi chờ nhận được sự cứu giúp của Ông
một cách ngẫu nhiên (thực tế thì có lẽ có cả sự ngẫu nhiên), thì con người chuẩn bị
cho mình một khả năng sẽ được Ông cứu giúp nhờ vào niềm tin và lối sống tốt đẹp
của mình. Đấy là một nguồn sức mạnh trong tâm linh để con người bớt nỗi lo sợ,
thêm sự bình tĩnh để đi vào nơi khó khăn trong cuộc mưu sinh.
Qua các motip đã phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy truyền thuyết về cá
Ông không phải hoàn toàn độc lập trong cấu trúc. Nó có sự chuyển hóa từ các motip
dân gian vốn có trước đây để hình thành một cấu trúc cho riêng. Trong sâu xa, nó
chính là một phần sự chuyển hóa ý thức của nhân dân vùng nông nghiệp lúa nước
khi mở rộng địa bàn nghề nghiệp hướng ra biển khơi. Đằng sau lớp vỏ văn bản chứa
đựng những ý nghĩa phong phú về mặt tinh thần của nhân dân. Chính điều đó đã tạo
cho truyền thuyết cá Ông những tình tiết li kỳ, hấp dẫn và nổi bật lên được tính
thiêng liêng của Ông đối với đời sống ngư dân.
75
Qua toàn bộ những gì chúng tôi đã trình bày, có thể thấy tựu chung lại một
số điểm sau:
- Thứ nhất, truyền thuyết cá Ông mang một dấu ấn về sự khai thác biển mạnh mẽ
của nhân dân trên vùng đất mới. Ông luôn nằm trong niềm tin kính ngưỡng tôn thờ,
biết ơn của nhân dân, cho nên trong các tích về Ông thường nằm trong khuynh
hướng được thần thánh hóa nhằm tăng thêm vẻ đẹp và tính thiêng liêng của Ông
trong tín ngưỡng dân gian.
- Thứ hai, như nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng đã nói “Bao giờ còn Dân thì bấy
giờ cũng còn Folklore, Dân vạn đại thì Folklore cũng vạn đại” [57, tr.14]. Truyền
thuyết về cá Ông cũng thế, khi nào còn người đi biển thì khi đó tín ngưỡng và
truyền thuyết về cá Ông sẽ còn mãi với thời gian. Truyền thuyết về cá Ông ắt hẳn sẽ
còn tiếp tục được nhào nặn, hình thành trong những yếu tố tâm lý và quan niệm ở
thời đại mới. Đó là một hệ truyền thuyết “sống” theo cả hai nghĩa: sống mãi với thời
gian và vẫn sẽ còn những truyền thuyết mới ra đời. Nhưng điều đó cần độ lắng của
thời gian để những truyện mang tính sự kiện đủ điều kiện trở thành tác phẩm nghệ
thuật.
- Thứ ba, các yếu tố nghệ thuật trong truyền thuyết cá Ông cho thấy đó là sự chắt
lọc, nhào nặn rất uyển chuyển của nhân dân từ cơ sở của thực tiễn cuộc sống, với
các chi tiết có thực, việc thực. Hơn thế nữa, dưới góc nhìn của nhân dân, hình tượng
cá Ông không chỉ nằm hẹp trong một phạm vi vị thần biển, mà còn tích hợp trong
đó những giá trị đạo đức, khuyến khích con người sống hướng thiện, ước mơ và lý
tưởng về cái đẹp. Chúng tôi cho đây là một sự thông minh và cực kì khéo léo của
nhân dân trong sự chuyển hóa lý thuyết đạo đức vào các truyền thuyết cá Ông để trở
thành một động lực hành động, hướng tới cuộc sống cao đẹp hơn.
76
Chương 4 - MỐI QUAN HỆ GIỮA TRUYỀN THUYẾT
VÀ TỤC THỜ CÁ ÔNG
Trong phần này, chúng tôi sẽ tiến hành tìm hiểu vào sự tương tác giữa truyền
thuyết và tục thờ cá Ông. Đi vào vấn đề này, chúng tôi sẽ nghiên cứu trên hai bình
diện sau: thứ nhất là mối quan hệ trên các nghi lễ và phần hội với truyền thuyết;
Thứ hai là mối quan hệ trong tâm thức khi kể và khi thờ cá Ông của ngư dân.
4.1. Mối quan hệ trong sự tương tác giữa truyền thuyết với phần lễ và phần hội
Con đường thiêng hóa của một nhân vật, một loài luôn bắt đầu từ một sự
ngưỡng mộ công đức bởi nhân dân. Sau đó, dân gian sẽ lấy một chi tiết nào đó về
nhân vật, về loài đó rồi huyền thoại hóa lên trong tưởng tượng để mang lại tầm vóc,
hình ảnh lớn lao khác thường. Chính những yếu tố huyễn hoặc này tạo cho truyền
thuyết một màu sắc thần linh, kết hợp với tín ngưỡng thờ làm cho nhân vật chính
trong truyền thuyết trở nên sống động, thiêng liêng trong tâm thức của nhân dân.
Trong nhiều tín ngưỡng dân gian, truyền thuyết và tín ngưỡng, lễ hội thường có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Nếu lễ hội là nơi lưu giữ để truyền thuyết sống mãi
cùng thời gian thì nhiều hình thức diễn xướng, nghi lễ trong lễ hội có nguồn gốc
xuất phát từ truyền thuyết. Nói về vấn đề diễn xướng và truyền thuyết, tác giả
Nguyễn Khắc Xương đã viết rằng:
“Diễn xướng không phải chỉ để góp vui trong hội làng mà còn mang một mục
đích quan trọng hơn, một ý nghĩa thiêng liêng đối với cả dân làng. Thông qua diễn
xướng với các tính chất tín ngưỡng, người dân lao động nông thôn dưới chế độ
phong kiến – lạc hậu về tri thức khoa học tự nhiên, cũng như không hiểu biết mọi
quy luật của vận động xã hội, đã đặt biết bao hi vọng tốt đẹp vào quyền phép thiêng
liêng, mong mỏi và tin tưởng rằng thần thánh sẽ hiển ứng và phù hộ cho dân làng,
cho dân được một đời sống tươi vui, mùa màng tốt đẹp, sinh nở “con đàn cháu
đống”… Diễn xướng ấy không chỉ có giá trị thẩm mĩ mà còn có giá trị thực hành;
không chỉ đem lại hứng khởi mĩ cảm cho người tham dự mà còn đem lại cho họ
niềm tin sẽ đạt tới cuộc sống no ấm, an vui… Nhưng không nên quên một yếu tố
quan trọng khác, đó là cơ sở của thần thoại, truyền thuyết của các diễn xướng. Nếu
những diễn xướng hội làng được tổ chức chỉ để mua vui, giải trí, không cần được
77
giải thích bởi lí do nào khác, thì diễn xướng lễ tục lại được giải thích bằng thần
thoại, truyền thuyết” [57, tr.153].
Như thế, trong sâu xa truyền thuyết và tục thờ chứa đựng một mối quan hệ khăng
khít “Tín ngưỡng là vú nuôi của truyền thuyết và cổ tích. Ngược lại truyền thuyết và
cổ tích là kẻ tuyên truyền đắc lực cho tín ngưỡng” [57, tr.64]. Ở cấp độ phổ biến
nhất truyền thuyết là sự lý giải cho tục thờ. Ở một cấp độ cao hơn, truyền thuyết còn
chi phối cả vào lễ nghi và diễn xướng lễ hội của tục thờ để tái hiện lại một sự tích
thần linh, mang một ý nghĩa thiêng liêng nào đó.
Hàng năm, tại các lăng thường tổ thức các ngày lễ cúng Ông theo lệ xuân
thu nhị kì. Cũng như các lễ hội khác, tập tục thờ cá Ông bao hàm nhiều nghi thức lễ
lạc, hội hè. Nhưng ngoài lễ hội cầu ngư được xem là nghi thức chính trong năm, lễ
thờ cá Ông còn có các nghi lễ khác cũng không kém phần trang trọng và độc đáo: lễ
mai táng xác Ông, lễ thượng ngọc cốt, lễ tế xuân, lễ hạ nghệ xuống vụ cá, lễ mãn
mùa. Chính những lễ này đã tạo tục thờ cá Ông một sắc thái riêng, bởi không như lễ
tế các vị thần khác phải có kì có hạn mới được tổ chức, vào những mùa “biển đói”,
người dân vẫn mở lễ cúng Ông để cầu xin sự phù hộ cho mùa cá được no đủ.
Đối với ngư dân, ai phát hiện xác cá Ông lụy vào đầu tiên thì phải chịu tang Ông
như người con trai trưởng, phải để tang Ông trong 24 hoặc 36 tháng tùy vào Ông to
hay Ông nhỏ. Sau các nghi lễ nghiêm trang, mọi người đưa Ông đi chôn cất. Sau
khi mãn tang, người ta tổ chức lễ rước ngọc cốt hay còn gọi là lễ nghinh thần nhập
điện. Người ta quật cốt cá ông lên, dùng rượu rửa sạch và dùng nhang, trầm để xông
cốt. Rồi đem cốt bỏ vào quan được đóng bằng gỗ hoặc xây bằng xi măng trong điện
để bảo quản. Trong lễ hội cầu ngư, tùy mỗi nơi người ta sẽ chọn ngày Ông lụy hoặc
ngày được nhận sắc vua ban để làm ngày lễ cầu ngư. Chính điều này khiến cho lễ
cầu ngư diễn ra liên tục ở nhiều nơi. Lễ này có đặc điểm nếu vạn này tổ chức thì
ban chánh lễ ở các vạn khác gần đó sẽ được mời tới dự và ngược lại. Điều này đã
tạo nên tính cố kết cộng đồng của cư dân biển để cùng giúp đỡ nhau trong làm ăn,
tăng thêm tình đoàn kết giữa cư dân trên phạm vi rộng lớn. Lễ cầu ngư là lễ chính
nên được tổ chức rất long trọng. Trước khi lễ diễn ra, nhiều ngày trước đó mọi
người đã tấp nập cho việc chuẩn bị từ phương tiện, người, của cải để ngày lễ diễn ra
được êm đẹp. Lễ thường diễn ra trong ba ngày ba đêm với các nghi lễ rước xách và
phần hội. Tùy mỗi nơi mà người dân tổ chức lễ này với nhiều nghi thức lễ hoặc rút
78
gọn, song thông thường thì ở đâu người ta cũng có các phần lễ: lễ nghệ sắc, lễ cung
nghinh Ông Nam Hải, lễ cúng các chư vị Tiền Hậu hiền, lễ phóng sanh, lễ cầu quốc
thái dân an… Sau các nghi lễ cúng Ông và các vị thần, người ta tổ chức hát bả trạo
hoặc hát bội. Đây vừa là phần hội cho bà con xem và đồng thời cũng là nghi lễ để
phục vụ Ông về cùng hưởng lễ vui chơi với con cháu. Phần hát thường được tổ
chức vào ban đêm, còn ban ngày thì diễn ra các cuộc thi với các trò chơi dân gian
độc đáo.
Đối với nhiều trò diễn xướng lễ tục ở các tín ngưỡng thờ thần trong đình
làng, truyền thuyết hoặc thần thoại thường đóng một vai trò cơ sở cho các trò diễn
xướng. Trong hội Thánh Gióng thường có tục cúng ông bát cơm với đĩa cà, dựa trên
truyền thuyết cậu bé Gióng ăn cơm với cà mà lớn nhanh như thổi. Ngoài ra, dân
làng còn trồng cả một sào cà để dành riêng về cho Ngài về hái vào ngày lễ hội diễn
ra [45]. Trong truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh có chi tiết hai người cùng tranh
một nàng làm vợ. Khi đám rước dâu của Sơn Tinh vừa ra khỏi thành Phong Châu
một quãng thì nghe tin Thủy Tinh đang kéo quân tới đòi cướp dâu; Sơn Tinh vội
giục quân đi cho mau để tránh Thủy Tinh, vì thế trong ngày lễ hội có diễn ra tục:
buộc gà vịt lên kiệu Sơn Tinh và Ngọc Hoa, ý muốn thể hiện sự vội vàng [57,
tr.157]… Những diễn xướng lễ tục không tái hiện lại toàn bộ mà chỉ ở một khía
cạnh nào đó của truyền thuyết. Cũng nhờ vào điều đó, mà truyền thuyết được bảo
tồn một cách đầy đủ qua thời gian.
Trong tục thờ cá Ông, cũng có những nghi thức lễ mà chúng tôi thấy nó có xuất
phát điểm từ truyền thuyết dân gian. Cần nói thêm một điều rằng, phạm vi thờ cá
Ông rất rộng, trải dài trên nhiều tỉnh từ Bắc chí Nam, nên tùy vào mỗi nơi mà người
dân có cách thờ cúng hơi khác biệt nhưng cũng trên một cấu trúc nghi lễ chung cho
các miền.
Ở hầu hết các dinh vạn, tới ngày làm lễ cúng Ông, người ta kiêng không bao
giờ dâng món ăn hải sản như: tôm, mực, cá đao… Vì theo truyền thuyết, đây là
những ngư tướng được Phật bà cử đi theo phò tá cá Ông. Khi Ông sống thì giúp
Ông hoàn thành nhiệm vụ, khi Ông lụy thì bảo vệ thân xác Ông tránh các loài khác
xâm phạm vào. Lễ vật dâng lên thường là heo, bò, xôi, bánh, trái cây… Ở cửa biển
Thuận An (Huế), lễ phẩm cúng giỗ Ông bao gồm các thứ: một con cá sống, một con
cá nướng; một bộ cung tên, câu, ống, cờ ngũ hành, vàng bạc, áo binh (đồ mã làm
79
bằng giấy); một nải chuối, một lư trầm và hương đèn [9, tr.57]. Ở dinh Vạn Thủy
Tú, cứ hai năm cúng mặn thì một năm người ta lại cúng chay. Phẩm vật dâng cúng
Ông thường có: thịt heo, thịt bò, hoa quả, trầu cau, tô trầm, gạo muối, bánh ngọt...
Nói chung, tùy vào phẩm vật địa phương và đặc trưng ẩm thực từng vùng mà người
ta dâng lên Ông những món ăn tương ứng. Nhưng hầu khắp thì mọi người kiêng
không dâng những món được xem là các tùy tướng của cá Ông.
Cũng theo truyền thuyết, cá Đao là một vị tướng được Phật bà cử đi theo để
bảo vệ và xử tội cá Ông nếu thấy người bị nạn mà không cứu giúp. Thế nên ở rất
nhiều lăng nhân dân vừa thờ cá Ông, vừa thờ cá Đao ngay bên cạnh: miếu ngư Ông
(cửa biển Thuận An, Huế), dinh Bình Châu (Xuyên Mộc, Vũng Tàu), dinh An Thủy
(Ba Tri, Bến Tre), dinh Ông Nam Hải (Bình Đại, Bến Tre), lăng Ông Nam Hải
(sông Đốc, Cà Mau)… Xuất phát từ truyền thuyết, nhân dân khi thờ cá Ông cũng
đặt hai thanh đao của cá Đao ở hai bên bàn thờ cá Ông, tượng trưng rằng cá Đao
luôn đi bên cạnh túc trực hầu hạ Ông. Tương tự, Ông Rái Cá trong truyền thuyết
lịch sử hóa thời vua Gia Long đã có công giúp vua trong cuộc bôn tẩu cùng với cá
Ông nên cũng được thờ, nhưng Ông Rái Cá không có bàn thờ riêng mà chỉ có tên
trong danh sách các vị thần được nêu tên trong bài cúng.
Rất nhiều lăng Ông có bàn thờ Ông ở chính điện, và bên tả hoặc bên hữu của
Ông còn thờ vị Quan Công, một tướng thời nhà Hán bên Trung Quốc. Lý giải điều
này, có nơi không gắn với tích truyện nào, nhưng có nơi giải thích điều này bằng
tích cá Ông và Quan Công vốn được sinh ra từ một con phượng hoàng. Thế nên,
nhân dân lập lăng thờ Ông và thờ cả Quan Công (tích truyện ở lăng Ông ở thôn Vạn
Hội, tỉnh Khánh Hòa). Cũng tương tự như vậy, nhưng ở dinh Ông Phước Hải, Vũng
Tàu và nhiều nơi thờ cả ba anh em Lưu Bị, Quan Công và Trương Phi bên cạnh bàn
thờ Ông. Tích này thì không liên quan gì đến cá Ông. Truyền thuyết rằng vào một
năm dân làng bị dịch rất nặng, ba anh em ông đã hiển linh cứu giúp dân làng nên
được cả làng nhớ ơn và lập bàn thờ.
Như lúc đầu chúng tôi đã nói về một số yếu tố xoay quanh truyền thuyết lịch
sử hóa cá Ông cứu vua Gia Long. Ở đây, chúng tôi nhận thấy vai trò quan trọng của
truyền thuyết này đối với tín ngưỡng thờ cá Ông thông qua các sắc phong của các
triều vua Nguyễn ban tặng cho Ông Nam Hải. Có thể nói, nếu như các dinh miếu là
gốc rễ cho tục thờ đứng vững thì truyền thuyết cá Ông cứu vua là thân cành cho tín
80
ngưỡng này tỏa rộng. Các tích cá Ông cứu vua đã góp phần đưa tục thờ này vào một
khuôn phép mới trang trọng, bề thế. Hơn nữa, với sức mạnh của tính chất nghệ
thuật ngôn từ, hệ truyền thuyết cá Ông cứu vua đã mang đến sự lan tỏa sâu rộng và
khiến lễ hội cầu ngư không chỉ có ý nghĩa với cư dân làm nghề biển, mà còn có ý
nghĩa cả với cư dân của các ngành nghề khác lân cận. Bằng chứng vào những lúc
xây lăng Ông và tổ chức lễ hội cúng Ông, khi nào cũng có sự ủng hộ đóng góp của
rất nhiều người trong cả nghề ngư lẫn nông nghiệp, buôn bán… Số lượng khách
thập phương tham gia vào lễ hội cầu may và làm công đức cũng rất nhiều. Từ
những yếu tố đó đã tạo cho tín ngưỡng thờ cá Ông một sức sống trường tồn bền bỉ
với thời gian.
Một mối quan hệ tương tác gắn bó khác giữa truyền thuyết và tục thờ, đó
chính là ảnh hưởng của sự kiện đã tác động đến niềm tin của nhân dân. Nếu như
Ông lụy vào và có những đặc điểm khác thường (Ông rất to lớn, có chữ nổi trên
mình, lụy vào ngày đặc biệt, trong quá trình đưa tang Ông xảy ra những điều kì
lạ…), nhân dân sẽ bằng niềm tin tâm linh của mình để xây dựng cho riêng Ông một
tích truyện trong sự kính ngưỡng Ông. Chính tích truyện này sẽ chi phối tục thờ cá
Ông được nâng lên tầm long trọng hơn bình thường hay không. Lễ thờ Ông ở đền
Đỏ (Thái Bình) và đền Cuông (Nghệ An) điển hình cho mối quan hệ chi phối này.
Đây là đặc điểm riêng biệt chỉ có ở tục thờ cá Ông mà các lễ hội khác không có.
Chúng tôi xin dẫn chứng:
Ví dụ 1: Truyện này chúng tôi ghi theo lời kể của bác Giang Văn Thuyên, trưởng
ban di tích đền Đỏ (Thái Bình) như sau: Đối với nhân dân nơi đây, cứ đến ngày 10
tháng 3 âm lịch hàng năm thì đều tổ chức khai hội giỗ Thánh Mẫu. Điều kì lạ là
năm nào, đúng vào ngày này cũng có đàn cá Heo bơi về “chầu” ở khu vực đền cũ
một ngày rồi mới đi (đền cũ bây giờ đã bị biển lấn). Năm 2011, kì lạ thay đúng vào
ngày đó có một Ngư thần đã lụy vào. Mọi người truyền với nhau rằng, vị này là
thần nhà trời. Vì khi lụy bên miệng tuôn ra dòng máu, lại có dòng chữ “Hồng
Tam Chúa” bằng chữ Hán nổi lên trên mình nên mọi người tin rằng vị thần
này bị thác oan. Mọi người đã rất lo lắng, sợ nếu làm điều gì bất cẩn khiến Ngài
quở phạt. Nhưng sau khi nghe ba thầy phong thủy nói đây là điềm tốt thì dân làng
mới nhẹ lòng và đưa Ông đi mai táng rất long trọng theo nghi thức lễ thần. Nghi
thức lễ tổ chức rất lớn, người đến dự rất đông đến mức những người trong ban tổ
81
chức đã không thể đưa xác Ông đi mai táng đúng giờ. Trong lúc mọi người đang lo
lắng thì bỗng nhiên lá cờ đại treo trên cột cao bị đổ ụp xuống, lúc đó mọi người tự
động tản ra cho đoàn rước ngư thần đi qua. Mọi người tin rằng chính nhờ có Ông về
phù hộ mà dân trong làng mới ăn nên làm ra, chính vì thế mà lễ cúng Ông luôn luôn
được tổ chức rất long trọng.
Ví dụ 2: Tại đền Cuông (Nghệ An) vào ngày 15 tháng 2 âm lịch đều tổ chức lễ hội
để nhớ ơn ân đức của Thục phán An Dương Vương. Đền Cuông theo truyền thuyết
được lập ra để thờ An Dương Vương và cả nàng Mị Châu. Vào năm 1995, khi lễ hội
diễn ra thì có một con hạc trắng bay về đậu vào tay một người đang cưỡi ngựa diễu
hành trong nghi lễ. Trong sâu thẳm niềm tin về bóng cố nhân xưa, nhân dân tin rằng
hạc trắng đó chính là nàng Mị Châu hóa thân về cùng tham dự lễ hội với mọi người.
Sự kiện hạc trắng chưa lắng xuống thì đúng một năm sau, tại bờ biển Cửa Hiền có
một cá Ông nặng chừng 10 tấn lụy vào. Cửa Hiền là nơi được nhân dân truyền rằng
An Dương Vương đã theo thần Kim Quy xuống biển. Nơi đó biển rất cạn nên cá
Ông lụy vào như thế là sự kiện lạ ngàn năm có một. Chính vì thế mà người dân đinh
ninh rằng, cá Ông này chính là hiện thân và là minh chứng cho cái chết đầy bi
thảm của An Dương Vương. Vì vậy, lễ an táng xác chết của cá Ông năm ấy có sự
tham gia của hàng ngàn người với những nghi thức trang trọng nhất [33]. Cũng kể
từ đó mà lễ hội tại đền con Cuông được nâng lên tầm cao mới với các nghi lễ trọng
thể hơn trước rất nhiều.
Ở một số nơi, người dân ngoài việc lý giải cho việc đi tu của Ông bằng một
tích truyện thì còn có cả việc xưng danh cho Ông. Việc làm này đã thành thông lệ
không thể bỏ qua ở nhiều nơi trong việc an táng và xây lăng cho Ông. Việc xưng
tước này – theo các ngư dân cho biết không phải tự nhiên mà có được. Để có được
tước phong cho Ông, họ phải tiến hành việc kính xin qua nghi lễ mới biết được
trước khi vào tu Ông đã từng giữ chức gì. Ở địa bàn xã An Vĩnh (Quảng Ngãi) có
hàng chục lăng Ông lớn nhỏ, thờ các Ông Nam Hải Đại Dương, Thượng đẳng Ngọc
Linh, Thượng thượng đẳng thần, Trung đẳng thần, Thần cận vệ và hàng loạt chức
tước khác. Trong đó Đại Dương là vị lớn nhất và chức cao nhất trong các vị đã vào
tu. Chức tước đóng một vai trò rất quan trọng trong việc xây lăng Ông. Chức
của Ông càng lớn thì lăng xây càng to, tiếp đó nếu chức thấp hơn thì lăng cũng
theo đó mà xây nhỏ hơn. Ông Lê Tà – thủ từ lăng Vĩnh Hòa (Thôn Đông, An
82
Vĩnh) cho biết: “Không phải người dân nhiều hay ít tiền mà xây lăng lớn nhỏ. Điều
quan trọng phụ thuộc vào chức tước của Ông để có khuôn viên cho phù hợp. Ở đây
khuôn viên của chánh điện nhỏ hơn so với lăng Tân vì nơi đây thờ bà Thượng đẳng
Ngọc Linh, là cấp dưới của Ông Đại Dương. Chúng tôi quan niệm nếu đã là cấp
dưới thì không thể có lăng thờ lớn hơn so với cấp trên” [55].
Chúng tôi cho đây là một hiện tượng rất kì thú không chỉ về ảnh hưởng của
tích truyện đến tục thờ mà còn về vấn đề truyện cá Ông. Và theo ý kiến cá nhân,
chúng tôi cho rằng nếu như chúng ta có thể dõi theo và sưu tầm ghi chép lại được
các tích truyện này thì nó sẽ có ý nghĩa rất lớn về mặt nghiên cứu văn học dân gian
theo quá trình lịch sử lâu dài về sau. Đó là hiện tượng tích truyện được ra đời gắn
với từng Ông. Hầu như năm nào cũng đều có Ông lụy vào bờ. Nếu như Ông lụy vào
một dịp đặc biệt hoặc khi lụy có một đặc điểm lạ thường nào đó thì trong dân gian
ngay lập tức sẽ giải thích bằng một tích truyện hết sức li kì và thần thánh hóa cho vị
cá Ông đó. Các tích truyện như trên rải rác rất nhiều trong cư dân sống dọc theo bờ
biển. Ban đầu chúng chỉ lưu hành trong phạm vi nhỏ hẹp. Nhưng theo thời gian, các
sự kiện sẽ nén lại thành một chi tiết cô đọng nhất và đi vào đời sống truyền khẩu
dân gian ở phạm vi rộng lớn hơn. Theo thời gian, chi tiết ấy sẽ trở thành một nhân
tố cho một truyền thuyết mới hoàn chỉnh, có nhiều chi tiết và diễn biến. Nhưng
quan trọng là mỗi một truyền thuyết nhỏ kia đều phản ánh lại tư duy của nhân dân
qua các thời kì. Tư duy ấy phản chiếu nhận thức đời sống người dân rất giản dị
nhưng đậm chất dân gian. Về lâu về dài, chúng tôi cho rằng các ghi chép ấy sẽ trở
thành tư liệu nghiên cứu có giá trị trong các mặt văn học và văn hóa.
Đó là một số những mối quan hệ mang tính chi phối và cộng hưởng giữa
truyền thuyết với phần lễ thờ. Nhìn vào truyền thuyết và phần hội nghinh Ông,
chúng tôi nhận thấy rằng phần hội và truyền thuyết khá độc lập với nhau. Có rất
nhiều trò trong phần hội nhưng không có sự giải thích bằng truyền thuyết và không
có mối tương tác nào với các tích thần cá Ông. Các hình thức diễn xướng như hát bả
trạo (miền Trung), hát bội (miền Nam), các trò bủa lưới, đua thuyền, đấu vật, kéo
co, đập niêu đất… đều bắt nguồn từ những hình thức nghệ thuật diễn xướng tổng
hợp có từ thời xa xưa trong các làng nông nghiệp được chuyển thể qua, hoặc được
sáng tạo mới cho phù hợp với văn hóa biển. Song, có thể nhờ vào chính điều này lại
là nền tảng cho truyền thuyết mới ra đời trên cơ sở nghi thức lễ và các trò diễn dân
83
gian, nhằm để giải thích, mô tả lại các trò diễn ấy. Các lễ, các trò diễn xướng khi đã
hội tụ đủ những yếu tố cần thiết thì nó sẽ có thể manh nha đi vào một bộ phận
truyền thuyết mới.
4.2. Mối quan hệ trong tâm thức kể và thờ cá Ông
Các vị thần của người Việt thường là các vị thần địa phương, nghĩa là các vị
thần ấy dù được ngợi ca đến đâu thì cũng chỉ được thờ trong một phạm vi nhất định,
theo lối “Chuông làng nào làng ấy đánh/ Thánh làng nào làng ấy thờ”. Ví như Tứ
bất tử của người Việt được tất cả nhân dân biết đến nhưng không phải ở đâu cũng
có đền thờ. Chỉ có nơi được xem là phát tích của thần và những nơi có ảnh hưởng
của thần mang đến thì nhân dân nơi đó mới lập đền thờ cúng. Các vị phúc thần của
làng lại càng nằm trong phạm vi nhỏ hẹp hơn. Trước vị thần cá Ông, dân gian cũng
đã thờ nhiều vị thần biển cả. Các vị thần ấy nằm trong trí tưởng tượng của dân gian
ở một cõi siêu linh vô hình. Với vị phúc thần cá Ông thì lại khác, Ông có cốt trong
lăng- đình, có cả Ông còn sống, sự trợ giúp của Ông ai cũng từng mắt thấy tai nghe.
Phạm vi thờ của Ông rộng lớn bao trùm khắp dải đất ven biển từ Kiên Giang vào
đến đất Quảng Ninh. Việc thờ Ông, không phải có Ông lụy người ta mới thờ, một
số nơi trong miền Nam khi dân cư làm nghề biển họ đều lập lăng thờ trước khi có
Ông lụy vào. Một số nơi, không làm nghề biển nhưng có Ông theo dòng nước lụy
vào sâu bên trong người ta cũng thành kính lập đền thờ cúng. Ông được nhân dân
kính là phúc thần, được vua sắc phong vào bậc tôn thần. Lễ nghinh Ông là lễ tế
thần, đầy trang nghiêm và thiêng liêng. Mối quan hệ của Ông với ngư dân là mối
quan hệ tương hỗ, nằm trong đạo lý uống nước nhớ nguồn. Niềm tin ấy ăn sâu vào
tâm thức của những người làm ngư nghiệp, nên có những lăng thờ Ông mà sau này
người ta không còn làm nghề biển nữa nhưng vẫn nhang khói đều đặn.
Ông trong điện thờ là vị thần rất uy linh, thiêng liêng với nhân dân.
Chính vì thế, lễ cũng Ông lúc nào cũng trang trọng và hội tụ rất nhiều cư dân tới dự,
cả người làm nghề ngư, người làm nghề nông, buôn bán để xin Ông phù trợ cho họ
làm ăn được thuận buồm xuôi gió. Để thấy được tính chất long trọng, nghiêm cẩn
của lễ thờ cá Ông, chúng tôi mô tả lại sau đây một nghi thức lễ quan trọng (tổ chức
ở lăng Vạn Thủy Tú, Phan Thiết, Bình Thuận) nằm trong lễ cúng Ông để chúng ta
phần nào cảm nhận được không khí long trọng ấy:
84
Lễ cung nghinh lệnh Ông sanh: Lễ cung nghinh lệnh Ông Sanh trong lễ
hội cầu ngư là một nghi thức độc đáo chỉ có ở miền biển. Đây là lễ rước cá Ông về
chứng giám, và rước hồn Ông từ ngoài khơi về nhập vạn trước khi tế lễ. Lễ cung
nghinh Ông sanh là lễ quy mô nhất trong lễ hội cầu ngư, nên nghi lễ này được
chuẩn bị rất chu đáo và long trọng. Có đình vạn trước kia xây cất vốn nằm gần biển,
nhưng qua hàng trăm năm nước biển rút ra xa nên bây giờ đình vạn ấy cách biển
hàng cây số. Hoặc có lăng thờ Ông được lập nên vì Ông lụy sâu vào bên trong các
cửa sông lớn, qua thời gian dài các lăng ấy cũng trở nên cách biển rất xa. Với những
lăng Ông như thế, người ta sẽ tiến hành nghinh Ông trên đất liền một cách tượng
trưng, hoặc chỉ làm ở cửa biển rồi xin keo và quay về. Còn với các lăng gần biển,
người ta sẽ đi ra xa biển xin nghinh Ông.
Ở Vạn Thủy Tú, từ ngày 18 người ta đã điều động 10 chiếc thuyền, 6 cái của ngư
dân Vạn Thủy Tú, 4 cái của ngư dân các vạn khác. Đây là một tập tục truyền thống
của ngư dân. Khi nghinh Ông thì không chỉ có nơi đang tổ chức mới nghinh mà cả
những vạn lân cận cũng cùng tham gia, để tỏ lòng cung kính Ông và sự đoàn kết
của những ngư dân cùng làm nghề biển. Trong 10 thuyền sẽ có một thuyền lễ chính.
Thuyền này được trang hoàng lộng lẫy để đưa đoàn của ban tế lễ ra khơi hành lễ
nghinh Ông, rồi sau đó chính thuyền này sẽ nghinh Ông vào nhập vạn. Ban tế lễ và
đồ tế gồm có: ban lâm tế, ban phụng sự, các nhà sư, đội nhạc lễ, đội hát múa bả
trạo, hương án, chiêng trống và lễ vật.
Vào đúng 6 giờ sáng ngày 19 tháng 6 âm lịch, đoàn sẽ khởi hành ra khơi cách bờ
khoảng 4km. Lễ này khá dài và nhiều nghi thức, song tựu chung thì lễ như sau: khi
thuyền ra tới nơi sóng yên, một nhà sư và hai ông chánh bái và bồi bái sẽ phụ để
làm lễ nghinh Ông. Vị sư chủ lễ dâng lễ vật lên hương án và đọc một bài kinh thỉnh
cầu Ông Nam Hải từ ngoài khơi về chứng giám, hưởng lễ. Tiếp đó thì một người
trong ban lâm tế đọc bài tế cung nghinh Ông và các vị thủy thần:
“… Lệnh Ông Nam Hải
Tướng dương đô phủ
Đông hải động đình
Bắc hải nguy tấn
Tiên sư, thánh sư, tổ sư
Thủy tề công chúa
85
Thủy long thánh phi nương nương…”
Đây là bài tế rất dài để mời các vị thần, các ông dưới thủy thần về dự lễ. Trong đó
có cả những vị thần rất quen thuộc với con người như tôm, mực, cá… Kết thúc bài
tế, nhạc lễ nổi lên như đón mừng Ông đã về chứng giám. Sau đó, bài sớ và văn tế
được đốt đi, rồi rải xuống biển cùng với phẩm vật trên hương án để gửi các bậc thủy
thần và các linh hồn thác oan trên biển. Ở nhiều nơi, người chủ tế sẽ đứng ra xin
keo để chắc chắn lời thỉnh nguyện của ngư dân đã được Ông chấp nhận, nếu hai
đồng tiền âm dương là Ông đã cho và đoàn sẽ trở về. Nếu keo chưa xin được thì
người chủ tế lại làm lễ xin lại lần nữa cho đến khi nào được mới thôi. Theo nhiều
nơi cho biết, trong lúc ban làm lễ xin thỉnh thì có rất nhiều Ngài (cá Ông) xuất hiện
đọi lên vòi nước, thường khi đó người chủ tế xin một lần là được. Khi thuyền trở về,
đội chèo bả trạo vừa hát vừa diễn xướng tạo nên không khí nhộn nhịp để chào đón
và thỉnh Ông về.
Về đến vạn, khám nghinh được đưa vào vạn, Ông chánh bái cùng bồi bái niệm
hương, bát hương vừa mang ra khơi nghinh Ông được đặt lên bàn thờ, sau đó thêm
vài thủ tục khấn vái khác thì lễ này mới kết thúc. Trong khi đó, đội chèo bả trạo
thường hát và diễn xướng cảnh ngư dân lao động trên biển từ lúc nghinh Ông ở
ngoài biển cho đến khi Ông yên vị trong khám thờ. Đội chèo vừa hát vừa diễn
xướng những làn điệu phong phú để mừng Ông:
“…Nay nghinh Ông đã tới lăng trào
Cây bá trạo chèo hầu lấy thảo…
Lấy thảo hai hành nước mắt
Phải chi Ông còn biển bắt lộng khơi
Lưng bai tẻ bạt sáng ngời
Làm tôi thủy phủ cứu người dương gian…”
Đó là về lễ tế Ông. Còn về các nghi thức khác, ở nhiều nơi, làm bất cứ điều gì người
ta cũng phải xin keo hoặc khấn vái để xin phép Ông được làm điều đó. Ví như nhiều
lăng ở đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), muốn vào chụp ảnh Ông thì phải xin xăm xem
Ông có cho phép hay không. Còn ở các lăng huyện An Vĩnh, Quảng Ngãi, mỗi năm
có lễ mở lăng thăm cốt Ngài một lần vào ngày 20 tháng chạp. Muốn phá lệ thì phải
làm lễ trình báo, khai tên tuổi, mục đích đến và xin keo Ngài bằng hai đồng tiền.
Nếu sấp ngửa nghĩa là âm dương hòa hợp thì mới được diện kiến [55]. Kể ra những
86
điều trên để chúng ta thấy rằng nghi thức lễ cúng Ông luôn luôn mang màu sắc tâm
linh linh thiêng và trang trọng. Muốn làm điều gì nhân dân cũng phải chờ có lệnh
Ông cho phép mới được tiến hành, còn không thì phải đợi dịp khác.
Lòng thành kính của ngư dân thể hiện trong các lễ cúng Ông là như thế. Còn trong
các tích kể về Ông qua lời của các bác trưởng vạn, thủ từ, và của các cô bác ngư dân
mà chúng tôi được nghe, không khí và sắc thái tâm linh trong câu chuyện lại hơi
khác. Nếu trong sự thờ hình ảnh Ông đầy thiêng liêng thì trong sự kể, Ông hiện
lên đầy gần gũi và thân thiết.
Bác Nguyễn Sáng (thủ từ Vạn Phước Lộc, Lagi, Bình Thuận) kể cho chúng tôi nghe
một câu chuyện cá Ông đưa một Ông đã lụy vào bờ một cách tình nghĩa như sau:
“Các Ông đối với nhau rất có tình có nghĩa chứ không phải chỉ có con người mình
đâu. Ngày trước, lâu lắm rồi có Ông bị lụy ngoài khơi chưa kịp vào bờ. Thế nên có
một Ông khác đưa Ông vào. Bởi biển khơi rộng quá nên Ông còn sống đưa Ông kia
tới gần một ghe cá của ngư dân như nhờ sự giúp đỡ. Khi đưa tới ghe, Ông còn sống
cứ bơi quần quanh cái ghe ý không cho ra khơi. Ngư dân phải quàng lưới lên Ông
lụy và quay ghe đưa Ông vào bờ. Lúc ghe đi, Ông còn sống cũng áp vào ghe đi theo
cho tới khi Ông kia đã được đưa vào tới bờ an toàn Ông mới đi ra. Trước khi đi Ông
đọi vòi nước lên cao như để cảm ơn người dân rồi mới đi. Rồi năm đó dân làng làm
ăn được mùa cá lắm. Mọi người ai cũng tin rằng đó là Ông độ cho dân làng nên mới
được như thế. Còn có khi đưa một Ông vào bờ có nhiều Ông đi theo hộ tống lắm,
mà đưa tới nơi tới chốn rồi các Ông mới đi ra”.
Vào một trưa tháng 5/ 2012, chúng tôi được vợ chồng chú Ba Vạn ở ấp 8, Cồn
Bửng, xã Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre kể cho nghe câu chuyện về cá
Ông rất linh thiêng. Cô chú kể rằng: “Ngày cô còn trẻ, cô đi buồm cùng mọi người
ra xa cửa biển để đánh cá ở trên Bình Đại. Hôm đó trời nổi giông gió bất thường,
sóng đánh rất mạnh làm thuyền không kịp để vào bờ. Nước tràn vào ghe nên mọi
người lo sợ vội vàng tát nước ra. Người chủ ghe đứng ra tay rắc muối hột, chân dậm
mạnh xuống sàn ghe, miệng khấn vái xin Ông đến độ giúp mọi người tai qua nạn
khỏi. Một lát sau bỗng tất cả mọi người trên ghe đều như ngủ cả, không còn biết gì
nữa. Đến khi tỉnh thì mỗi người mỗi chỗ nhưng đều dạt vào trên bờ cát xuống mãi
dưới mạn Thạnh Phú dưới này. Lúc đó sông lớn lắm, cô phải nhờ ghe trở về nhà.
Nhưng lạy trời là có Ông độ mạng chứ lúc đó tình thế nguy hiểm cấp kì lắm. Ai
87
cũng nghĩ đã bỏ mạng rồi. Rồi từ đó cho tới giờ, gia đình cô chú cũng ráng ăn ở cho
có phước đức để đi khơi có chuyện gì thì mong được Ông độ mạng, vì Ông chỉ độ
người sống có tâm đức thôi. Rồi năm 2004, có Ông to lắm lụy vào bờ đây. Chính
quyền và dân làng tổ chức lấy cốt và dựng miếu thờ Ông. Sau đó cũng vào ngày đó
mà năm sau có Ông khác vào tiếp. Lễ cũng tổ chức to lắm. Nhiều người về đây làm
công đức cúng Ông và xin Ông phù hộ cho dân làng. Nói ra nghe dị đoan nhưng cái
này cô thấy có thật, từ ngày có hai Ông về mà dân ở đây làm ăn khá lên hẳn”.
Và còn rất nhiều những câu chuyện ngư dân được cá Ông cứu mạng và phù trợ cho
làm ăn may mắn, thuận lợi. Có đi vào trong đời sống và nghe trực tiếp người dân kể
mới thấy được chiều sâu tâm thức tín ngưỡng về Ông ẩn chứa trong đó. Nếu như
trong lễ thờ hoàn toàn phải trang nghiêm, kính cẩn như với các vị thần khác thì
trong các câu chuyện kể về Ông lại có gì đó gần gũi với đời sống hơn. Cách người
dân kể với giọng điệu trầm bổng đưa lại cho câu chuyện một không khí của thế tục,
mộc mạc đời thường. Họ rất chú trọng miêu tả về hoàn cảnh gặp nạn hết sức ngặt
nghèo của ngư dân để làm sao hình ảnh cá Ông xuất hiện được hoành tráng nhất
nhưng lại thân thiết nhất, tựa như một người cha dám xông pha vào hiểm nguy cứu
nạn cho các con mình. Hình ảnh Ông hiện ra qua lời kể dường như đã không
còn mang tính chất uy nghiêm của một vị thần trong điện thờ với cờ phướn và
nhang khói, mà trở nên rất thân thiết, có tấm lòng đức độ từ bi, tình nghĩa chứ
không đầy quyền năng và phép thuật cao xa.
Có thể thấy, trong lăng thờ, lễ cúng Ông có kỳ có hạn mới được tổ chức thì chuyện
kể về Ông diễn ra bất cứ lúc nào. Trong nghi lễ, bài cúng, Ông luôn ở vị trí trang
trọng và được cung kính thì trong các tích về Ông lại vừa mang yếu tố của huyền
thoại lại vừa mang yếu tố của thế sự. Yếu tố thần linh và yếu tố đời thường hòa
quyện vào nhau tạo cho câu chuyện về Ông vừa thiêng lại vừa trần tục. Nghe ngư
dân kể chuyện cá Ông cứu người, chúng tôi thấy thú vị ở chỗ các truyện này hầu
như được người dân đặt vào một thời điểm quá khứ mơ hồ xa xôi, người được cá
Ông cứu là một nhân vật có phúc đức, nhân duyên mới được Ông cứu nhưng cảm
nhận không khí câu chuyện, ta cứ ngỡ như nó mới xảy ra trong ngày hôm qua, sự
việc đó nó diễn ra ngay ở biển này, trước mắt chúng ta chứ không phải chỉ là huyền
thoại.
88
Nói chung, có thể thấy một tương quan song hành trong tâm thức kể và thờ
cá Ông của ngư dân: Ông trong điện thờ là vị rất linh thiêng, thần thánh, nhưng Ông
trong các tích truyện được kể lại đan xen vào đó nhiều yếu tố của thế tục đời
thường. Đây là điều khác biệt trong tục thờ Ông với các tục thờ khác. Bởi hầu như
với các vị thần khác, người dân luôn luôn làm sao phủ lên cho vị thần những quyền
năng linh thiêng hơn hẳn, cả trong lễ thờ và tích kể để đẩy vị thần lên sự thiêng
liêng tuyệt đối. Trong tích kể về thần, dường như lúc nào người dân cũng có sự kính
sợ, e dè trước một thần quyền vô hình nào đó. Còn với cá Ông, chúng tôi tuyệt
nhiên không bao giờ cảm thấy sắc thái của điều đó mà chỉ thấy bao trùm lên hàm ý
biết ơn của ngư dân đối với Ông. Sự thờ Ông mang không khí trang nghiêm nhưng
trong sự kể về Ông lại trở nên mộc mạc, nhân hậu và nghĩa tình.
Có thể nhận định rằng, giữa truyền thuyết và tục thờ cá Ông có mối quan hệ
vừa tương hỗ lại vừa song hành với nhau. Truyền thuyết chi phối vào một số lễ thờ
nhưng ngược lại, tục thờ cũng là cái nôi để tạo ra các tình tiết cho truyền thuyết.
Mối quan hệ này trong một só khía cạnh có sự tương tác khăng khít. Song trên tổng
thể chung, giữa chúng vẫn có sự độc lập, song hành tồn tại với nhau. Cái thiêng
trong sự thờ và thế sự trong lời kể vẫn đan xen, cộng hưởng chứ không loại trừ
nhau. Cái thiêng giữ cho Ông một đuờng nét tâm linh về chiều sâu, còn tính thế sự
mang lại cho hình ảnh cá Ông cái nhìn trên bề rộng, ai cũng có thể kể về Ông như
chuyện bản thân mình mắt thấy tai nghe. Chính những điều đó đã góp phần tạo cho
tín ngưỡng thờ Ông lan truyền và ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống nhân dân.
89
TỔNG KẾT
Truyền thuyết cá Ông của người Việt là một mạch ngầm của dòng chảy văn
hóa dân tộc trong quá trình mở mang bờ cõi và nghề nghiệp. Trong truyền thuyết có
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn hóa nông nghiệp với văn hóa địa phương trên
vùng đất mới để tạo thành một hệ truyền thuyết không chỉ phong phú về nội dung
mà cả số lượng. Ở đây, người Việt hoàn toàn đóng vai trò chủ đạo trong tín ngưỡng
và sáng tác dân gian để tô điểm, bồi đắp tính thiêng cho vị thần “cá Ông” uy linh,
dù chỉ khi di cư người Việt mới thực sự có cuộc sống hướng biển sâu rộng.
Có thể thấy tiến trình vận động của kết cấu truyền thuyết trên diễn ra theo
hướng: cốt truyện được giữ nhưng tình tiết có nhiều biến đổi. Các tình tiết có đặc
điểm nó là sự kết hợp giữa mô hình, yếu tố truyền thống của thể loại truyền thuyết,
cổ tích với các yếu tố mang tính thời sự trong hiện tại. Các yếu tố nhào nặn đan xen
vào nhau tạo cho tích truyện vừa có tính dân gian lại vừa có tính thời đại. Điều này
tạo cho truyền thuyết cá Ông một sự phức hợp trong tầng ý nghĩa. Ngoài ra, điểm
nhấn trong nhãn quan của tác giả dân gian cũng có sự thay đổi từ lý giải nguồn gốc
chuyển sang nhấn mạnh vào bản tính thiện cứu người của Ông. Nhưng, nói như thế
không có nghĩa hai kiểu truyện nguồn gốc cá Ông và cá Ông cứu vua có thời điểm
ra đời tương ứng với thời kì của truyền thuyết hay cổ tích, nghĩa là đã xa xưa. Mà
các kiểu truyện này nó có thời gian ra đời pha trộn vào nhau. Ngay cả ở thời gian
hiện tại thì truyện về nguồn gốc cá Ông vẫn được hình thành dựa trên tư duy của
người dân ngày nay. Hoặc như một truyện mà ở trên chúng tôi có trích dẫn về cá
Ông cứu vua lại được lồng với nguồn gốc của cá cơm tại sao lại có nhiều ở Phú
Quốc. Đó hẳn là truyện ra đời ở thời gian sau này. Điều đó chứng tỏ rằng tư duy cổ
tích, truyền thuyết vẫn âm ỉ mạch ngầm của nó trong đời sống dân gian. Thiên
hướng bám trụ vào thần linh siêu hình của nhân dân cầu mong sự chở che chắc hẳn
không phải chỉ là hành động của thời gian quá khứ mà vẫn còn sức sống lâu bền
trong hiện tại và mai sau.
Truyền thuyết cá Ông đã thể hiện được óc dân gian sáng tạo và tinh tế trong
phát hiện, chọn lựa những yếu tố nghệ thuật để tôn lên vị thần biển đáng kính, đức
độ. Ẩn tàng trong truyền thuyết không chỉ là niềm kính trọng, biết ơn của cư dân
biển đối với cá Ông, mà còn là ước mơ, khát vọng hướng tới một cuộc sống công
90
bằng, tốt đẹp của con người. Đây cũng là mạch chung của hầu hết các truyện dân
gian trên thế giới
Truyền thuyết và tục thờ cá Ông có một mối quan hệ gắn bó cộng hưởng với
nhau, để không chỉ đưa tín ngưỡng này đi sâu vào lòng nhân dân, mà còn đưa lại
những giá trị nhân văn tốt đẹp đối với cuộc sống con người. Nó đã tạo ra được một
nét độc đáo riêng cho văn hóa miền biển Việt Nam nói riêng và văn hóa biển trên
khắp mọi nơi nói chung. Truyền thuyết cá Ông vẫn còn đang hình thành nên những
huyền thoại mới, từ đó nó sẽ tiếp tục dòng chảy lan tỏa của mình về lòng tôn kính
sinh vật biển to lớn và nghĩa tình này, tạo nên một mạch ngầm về những điều tốt
đẹp trong lòng nhân dân, gắn kết mọi người gần lại với nhau hơn và sống tốt đẹp
hơn.
Lòng kính tín vào cá Ông là một sự tôn trọng biển của nhân dân ta nói riêng
và các nước nói chung. Ngư dân ven biển đã nâng vấn đề tôn kính Ông lên như một
khuôn phép mà tất cả những ai làm nghề chài lưới đều phải tuân theo. Tín ngưỡng
thờ Ông, xem Ông như ân nhân đã thúc đẩy ý thức các ngư dân bảo vệ Ông tuyệt
đối, trong khi với nhiều nước cá Voi là nguồn lợi kinh tế rất lớn mà họ bất chấp cả
luật cấm săn bắt để có được. Tục thờ Ông đưa lại nhiều ý nghĩa thiết thực không chỉ
với đời sống nhân dân mà với cả vấn đề bảo vệ sự sống trong tự nhiên – một vấn đề
của nhân loại ngày nay. Nói chung, “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, tục thờ cá
Ông đã đưa lại nhiều điềm lành, hoặc ít nhất nó cũng là bờ thành vững chắc cho tâm
linh con người khi đối mặt với biển khơi dữ dội. Đây là một tín ngưỡng tốt đẹp
trong đời sống nhân dân cần được giữ gìn và phát huy.
Mang tiếng cá lòng đâu phải là cá
Tài sóng êm gió lặng cũng tày trời
Chẳng phải người mà lòng tốt hơn người
Đức rộng ơn dày không kém Phật [5, tr.48].
91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tạp chí
1. Nguyễn Xuân Đức (2007), “Từ đền thờ Đức Ông, Đức Bà ở Cảnh Dương
nghĩ về tục thờ cá voi của người Việt”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (4), Tr. 21 –
34
Trần Hoàng (1999), “Tục thờ cá Voi ở các làng biển từ đèo Ngang đến đèo 2.
Hải Vân”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (3), Tr. 38 – 39.
3. Lư Hội (2005), “Lễ hội Nghinh Ông ở Bến Tre”, Tạp chí Văn Học Dân Gian
(3), Tr. 48 – 51.
4. Hồ Quốc Hùng (2000), “Về sự tái sinh của nhóm truyền thuyết anh hùng bộ
lạc ở vùng Thuận Hóa”, Tập nghiên cứu Văn Hóa Dân Gian Thừa Thiên Huế,
Tr.46 – 55.
5. Nguyễn Xuân Hương (2002), “Lễ hội Cầu Ngư của cư dân ven biển Quảng
Nam và Đà Nẵng”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (5), Tr. 44 – 50.
Nguyễn Xuân Hương (2004), “ Một số nghi lễ cổ truyền liên quan đến nghề 6.
biển của cư dân ven biển xứ Quảng”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (3), Tr.50 –
54
Nguyễn Xuân Hương (2005), “ Về tục thờ Mẫu của cư dân ven biển xứ 7.
Quảng Nam và Đà Nẵng”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (2), Tr. 39 – 45.
8. Nguyễn Thị Việt Hương (2005), “Tục thờ nước của người Việt ven sông
Hồng”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (6), Tr. 21 – 27.
9. Lê Văn Kỳ (2000), “Lễ hội Cầu Ngư ở Thuận An”, Tạp chí Văn Học Dân
Gian (3), Tr. 55 – 65.
10. Nguyễn Thanh Lợi (2003), “Giao lưu văn hóa Việt – Chăm nhìn từ tục thờ cá
Ông”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (2), Tr. 24 – 27.
11. Nguyễn Thanh Lợi (2006), “Tục thờ cá ông ở ven biển Nam Trung Bộ”, Tạp
chí Văn Học Dân Gian (4), Tr. 52 – 60.
12. Nguyễn Thăng Long (2006), “Nhật trình đi biển của cư dân Lí Hòa và dấu ấn
văn hóa biển của người Việt”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (6), Tr. 64 – 72.
13. Nguyễn Thăng Long (2009), “Nhìn lại tục thờ cá Ông của người Việt ở miền
Trung Việt Nam”, Hội thảo Khoa học nhận thức về miền Trung Việt Nam –
92
Hành trình 10 năm tiếp cận, Viện văn hóa nghệ thuật Việt Nam – Phân viện
văn hóa Việt Nam ở Huế”.
14. Lê Hồng Lý (2002), “Đôi nét văn hóa dân gian ven biển trong nền kinh tế thị
trường”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (3), Tr. 38 – 49.
15. Phan Đăng Nhật (2006), “So sánh tục thờ thần làng của người Chăm với tục
thờ thành hoàng của người Việt”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (5), Tr. 3 – 7.
16. Trịnh Đình Niên (2000), “Một số nghề đánh bắt hải sản cổ truyền ở Thuận
An”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (3), Tr. 65 – 71.
17. Trần Thanh Phượng (1997), “Hội lễ dân gian ở một vùng quê biển”, Tạp chí
Văn Học Dân Gian (4), Tr. 27 – 30.
18. Mai Nguyễn Sơn Trà (2000), “Văn hóa của người Việt ở quần đảo Lý Sơn
(Quảng Ngãi), Tạp chí Văn Học Dân Gian (3), Tr. 77 – 81.
19. Võ Quang Trọng (1998), “Một số phong tục cổ truyền ở làng Nhượng Bạn”,
Tạp chí Văn Học Dân Gian (4), Tr. 34 – 39.
20. Võ Quang Trọng (2000), “Văn hóa truyền thống làng biển Nhượng Bạn”,
Tạp chí Văn Học Dân Gian (3), Tr. 47 – 54.
21. Nguyễn Viết Trung (2000), “Nghề lưới đăng”, Tạp chí Văn Học Dân Gian
(3),
Tr. 82 – 84.
22. Phạm Văn Tú (2007), “Tín ngưỡng thờ cá voi ở Cà Mau”, Tạp chí Văn Học
Dân Gian (3), Tr. 46 – 50.
23. Lê Thị Nhâm Tuyết (1986), “Hội lễ đua thuyền ở Việt Nam và Đông Nam
Á”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (4), Tr. 51 – 53.
24. Quỳnh Phương – Diệu Trang (1999), “Tìm hiểu văn hóa dân gian vùng biển
Đồ Sơn”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (4), Tr. 54 – 62.
25. Chu Xuân Giao – Lê Thế Vinh (2000), Một bản ghi lời hát Bả Trạo bằng chữ
Nôm “Trường Đông Thôn Sự Thần Trạo Ca”, Tạp chí Văn Học Dân Gian
(3),
Tr.95–104.
26. Sư Thầy Huệ Tánh (2009), Cá Voi (ngư Ông – cá Ông), tr. 69 – 74,
bản đánh máy.
93
B. Trang web:
27. Ngô Văn Ban, Cọp Khánh Hòa, http://ninhhoatoday.net/
28. Công Bính (2010), “Tục thờ cá Ông và câu chuyện của ngư dân 2 lần được
cá Ông cứu”, http://dantri.com.vn
29. Trương Chi (2010), “Tục thờ cúng cá Ông (cá voi) ở Lý Sơn”,
http://thesaigontimes.vn
30. Trần Phỏng Diều (2008), “Tục thờ cá Ông của ngư dân Nam Bộ”,
http://diaoc.tuoitre.vn
31. Phan Đình Độ (2011), Tín ngưỡng thờ cá Ông của cư dân Lý Sơn,
http://vhnt.org
32. Văn Được (2009), “Cá Ông, cá Bà – Sự thật của một huyền thoại”,
http://dantri.com.vn
33. Lê Giáp (2011), Bí ẩn Hạc trắng ở đền An Dương Vương,
http://nguoiduatin.vn
34. Đinh Văn Hạnh (2010), “Hệ thống tín ngưỡng của người Việt trong quá trình
di cư về Phương Nam nhìn từ tục thờ cúng cá Ông”, http://e-cadao.com
35. Báo Thị Hoa (2005), Giới thiệu tác phẩm Ariya Po Riyak, Chương trình thế
giới Mã Lai – Đông Dương, http://ilimochampa.org
36. Nguyễn Huy (2010), Cá Ông cứu người, http://tienphong.vn
37. Phương Huy (2009), Di tích Lăng Ông –Ô Môn Cần Thơ,
http://canthopho.vn
38. Lê Hồng Khánh (2011), “Tục thờ cúng cá Ông và hát múa bả trạo của cư dân
ven biển - hải đảo Quảng Ngãi”, http://www.nuiansongtra.com
39. Dương Hoàng Lộc (2011), Tín ngưỡng thờ cá Ông ở Bến Tre,
http://bentre.gov.vn
40. Dương Hoàng Lộc (2011), “Tín ngưỡng thờ cá Ông Nam Hải Ba Tri – Bến
Tre”, http://bentre.gov.vn
41. Bình Nguyên Lộc, Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam,
http://binhnguyenloc.com
42. Nguyễn Thanh Lợi (2008), Nói thêm về nguồn gốc tục thờ cá Ông,
http://vanhoahoa.edu.vn
43. Trần Văn Nam, Ca dao Nam Bộ - Ca dao của vùng đất mới,
94
http://namkyluctinh.org/
44. Nguyễn Tri Nguyên (2011), Lễ hội Thánh Gióng – Một kí ức văn hóa,
http://www.vicas.org.vn
45. Thi Vân (2011), “Lễ hội nghinh Ông Bà Rịa – Vũng Tàu”,
http://www.tcdulichtphcm.vn
46. Thanh Tâm (2010), Tìm hiểu tín ngưỡng thờ cọp ở Nam Bộ,
http://baocantho.com.vn
47. Nguyễn Thạnh – Trần Hoàng Nhân (2008), Cứu người giữa biển khơi,
http://nld.com.vn
48. Nguyễn Văn Thuận (2012), Tục thờ Đức thánh Đông Hải Đại Vương
Nguyễn Phục làng Phú Xá, Quảng Xương, Thanh Hóa, http://svntu.net
49. Theo CATP Đà Nẵng (2010), Hiếu kì chuyện cá Ông cứu lão ngư hai lần,
http://vietnamnet.vn
50. Theo Người đưa tin (2011), Ly kỳ cá Ông cứu người Việt ở Biển Đông,
http://vietnamnet.vn
51. Theo CATP Hồ Chí Minh (2011), Kỳ thú chuyện cá cứu người ở Vũng Tàu,
http://giaoduc.net
52. Theo hội thân hữu Gò Công (2011), Vàm Láng – Lễ hội nghinh Ông,
http://gocong.com
53. Theo chuyên trang du lịch thành phố Vũng Tàu, Lăng cá Ông,
http://baria-vungtau.gov.vn
54. Theo Hội Champaka (2012), Trả lời cho Đắc Văn Kiết: “Katê xuất phát từ
thời Sa Huỳnh hay Porome?, http://champaka.info
55. Theo Báo mới (2009), Cá Ông cứu người, http://baomoi.com
C. Tư Liệu Sách
56. Tạ Chí Đại Tường (2006), Thần Người và Đất Việt, NXB Văn Hóa Thông
Tin.
57. Bùi Mạnh Nhị (chủ biên), Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2003),
Văn học dân gian những công trình nghiên cứu, NXB Giáo Dục.
58. Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, NXB Giáo
Dục Hà Nội.
95
59. Đào Tấn Hỗ, (2003), Cá Voi (cá Ông) & Bộ xương cá Ông ở Vạn Thủy Tú –
Tp. Phan Thiết, Phòng Văn hóa Thông tin thành phố Phan Thiết.
60. Ban tế tự nghi lễ Dinh Vạn Thủy Tú, (2002), Lễ hội cầu Ngư ở Dinh Vạn
Thủy Tú, Phòng Văn hóa Thông tin thành phố Phan Thiết.
61. Nhóm nghiên cứu Bảo tàng Bình Thuận (2006), Lễ hội cầu Ngư của ngư dân
Bình Thuận (trường hợp ở Vạn Thủy Tú) phường Đức Thắng, Tp. Phan
Thiết, tỉnh Bình Thuận, Bộ Văn hóa Thông tin thành phố Phan Thiết.
D. Tài liệu phim ảnh
62. Báo Biên phòng và Ban văn nghệ Đài truyền hình Việt Nam phối hợp thực
hiện (2012), Cá Ông – Vị thần của biển khơi (tập 8), Ký sự biển đảo, Đài truyền
hình Việt Nam.
63. Đạo diễn Michael Anderson (1977), Cá Voi nổi giận, Hãng Dino De
Laurentiis
sản xuất.
64. Đạo diễn Ken Kwapis (2012), Big Miracle (Phép màu), Hãng Universal
Pictures sản xuất.
65. Đạo diễn Simon Wincer (1993), Free Willy (Giải cứu Willy), Hãng Waner
Bros sản xuất.
96
PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ CÁ ÔNG
Ảnh 1: Vạn Thủy Tú, Bình Thuận – Nơi lưu giữ hàng trăm bộ cốt cá Ông
(Ảnh do tác giả chụp)
97
Ảnh 2: Bộ xương cá Ông lớn nhất Việt Nam trưng bày trong Vạn Thủy Tú
tác giả (Ảnh do chụp)
Ảnh 3: Bàn thờ Ông trong lăng Vạn Thủy Tú (Ảnh do tác giả chụp)
Ảnh 4: Sắc phong thần cá Ông của đời vua Thiệu Trị trong
Vạn Thủy Tú (Ảnh tác giả chụp)
98
Ảnh 5: Vạn Phước Lộc, thị xã Lagi, Bình Thuận (Ảnh do tác giả chụp)
Ảnh 6: Bác Nguyễn Sáng – Thủ từ Vạn Phước Lộc bên bộ cốt Ông
(Ảnh do tác giả chụp)
99
Ảnh 7: Lăng Ông Nam Hải ở xã An Thủy, Bến Tre (Ảnh do tác giả chụp)
Ảnh 8: Bàn thờ Ông trong lăng ở xã An Thủy, Bến Tre (Ảnh do tác giả chụp)
100
Ảnh 9: Xương cá Đao (trong hộp có răng cưa) đặt cạnh bàn thờ cá Ông
(Ảnh tác giả chụp ở lăng An Thủy, Bến Tre)
Ảnh 10: Một bộ cốt Ông trong Đình Thắng Tam, Tp. Vũng Tàu
(Ảnh do tác giả chụp)
101
Ảnh 11: Dinh Ông Nam Hải, Xã Bình Châu, Xuyên Mộc, Vũng Tàu
(Ảnh do tác giả chụp)
Ảnh 12: Xương cá Cô, cá Cậu trong dinh Ông ở Bình Châu, Vũng Tàu
(Ảnh do tác giả chụp)
102
Ảnh 13: Trang phục của Ban lễ tiết mặc vào ngày cúng Ông
(Ảnh do tác giả chụp ở lăng Ông Long Hải, Vũng Tàu)
Ảnh 14: Kiệu dùng để nghinh Ông nhập lăng (Ảnh do tác giả chụp ở lăng Ông Long
Hải, Vũng Tàu)