1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ CHANH TRUYỀN THUYẾT GẮN VỚI

TÍN NGƯỠNG THỜ CÁ ÔNG

VÙNG DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG

VÀ MIỀN NAM VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012

2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ CHANH

TRUYỀN THUYẾT GẮN VỚI TÍN NGƯỠNG

THỜ CÁ ÔNG VÙNG DUYÊN HẢI

MIỀN TRUNG VÀ MIỀN NAM VIỆT NAM

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. HỒ QUỐC HÙNG

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012

3

Lời cảm ơn

Luận văn này trước hết xin được là nén nhang thành kính, con dâng đến vị

thần cá Ông đã chở che cuộc sống ngư dân và cho con một linh hồn để hoàn thành

được luận văn này.

Để có được bước đi của ngày hôm nay, con xin gửi lòng biết ơn sâu sắc tới

gia đình – những người thân yêu đã bảo trợ cho con trên con đường học tập.

Tôi xin cảm ơn với lòng biết ơn và trân trọng đến TS. Hồ Quốc Hùng, người

Thầy không chỉ giúp đỡ tận tình để tôi có thể hoàn thành luận văn, mà còn là người

đã định hướng cho tôi rất nhiều về con đường học tập nghiên cứu.

Tôi xin cảm ơn quý thầy cô trường Đại học Sư Phạm đã trực tiếp giảng dạy

lớp Văn Học Việt Nam khóa 21 và cho tôi tri thức, phương pháp cần thiết để tôi

hoàn thành khóa luận này.

Tôi xin cảm ơn quý cô bác tại các lăng vạn tỉnh Bình Thuận, Vũng Tàu, Bến

Tre, Thái Bình đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập tài liệu viết bài.

Tôi xin cảm ơn Quý thầy cô trong hội đồng đã dành thời gian đọc bài luận

và sẽ cho tôi những đóng góp quý báu, để không chỉ hoàn thiện bài viết mà còn là

những kinh nghiệm cho tôi trên con đường học tập.

Tôi xin cảm ơn những người bạn đã bên tôi trong suốt những năm qua, đồng

hành, động viên tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.

Xin chân thành cảm ơn!

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 09 năm 2012

Học viên

Nguyễn Thị Chanh

4

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ Văn học “Truyền thuyết gắn với tín

ngưỡng thờ cá Ông vùng duyên hải miền Trung và miền Nam Việt Nam” là

công trình nghiên cứu của tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS.

Hồ Quốc Hùng. Những kết quả nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa

được công bố trong công trình nào khác.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 09 năm 2012

Học viên

Nguyễn Thị Chanh

5

MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 7

1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................................... 7

2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................................. 8

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 12

4. Đóng góp của đề tài .................................................................................................... 12

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................ 12

6. Bố cục luận văn .......................................................................................................... 13

B. PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................... 14

Chương 1 - TỤC THỜ CÁ ÔNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VIỆT NAM ........ 14

1.1. Đôi nét về mỹ tự “cá Ông” ...................................................................................... 14

1.2. Khái quát tín ngưỡng thờ linh thần ......................................................................... 15

1.2.1. Tục thờ cá Ông trong tín ngưỡng thờ loài vật của nhân dân ............................ 16

1.2.2. Tục thờ cá Ông trong hệ thống các vị thần linh biển ....................................... 20

1.3. Vai trò thực tiễn và tính thiêng của cá Ông trong tâm thức người Việt ................. 23

1.4. Tục thờ cá Ông trong thực tiễn Việt Nam và các nước .......................................... 29

Chương 2 - HỆ THỐNG TRUYỀN THUYẾT CÁ ÔNG .............................................. 32

2.1. Truyền thuyết cá Ông qua các tư liệu sưu tầm và điền dã ...................................... 32

2.1.1. Truyền thuyết của người Chăm ........................................................................ 32

2.1.2. Truyền thuyết của người Việt ........................................................................... 36

2.1.2.1. Các truyền thuyết và cổ tích về cá Ông .................................................... 36

2.1.2.2. Truyền thuyết lịch sử hóa cá Ông thời kì bôn tẩu của vua Gia Long ....... 39 2.1.2.3. Một số truyện cá Ông cứu người gần đây ................................................. 42

2.2. Đặc điểm chung truyền thuyết cá Ông .................................................................... 45

Chương 3 - CỐT TRUYỆN, MOTIP TRUYỀN THUYẾT CÁ ÔNG ......................... 48

3.1. Đối tượng thần biển của hai dân tộc từ các tư liệu truyền thuyết ........................... 48

3.2. Cấu tạo cốt truyện của truyền thuyết cá Ông .......................................................... 58

3.3. Các motip tiêu biểu ................................................................................................. 66

3.3.1. Motip xuất thân thần kì và motip phạt – thưởng .............................................. 66

3.3.2. Motip cái chết thần kì ....................................................................................... 68

3.3.3. Motip cá cứu nạn .............................................................................................. 71

Chương 4 - MỐI QUAN HỆ GIỮA TRUYỀN THUYẾT VÀ TỤC THỜ CÁ ÔNG .. 76

6

4.1. Mối quan hệ trong sự tương tác giữa truyền thuyết với phần lễ và phần hội ......... 76

4.2. Mối quan hệ trong tâm thức kể và thờ cá Ông ........................................................ 83

TỔNG KẾT .................................................................................................................... 89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 91

PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ CÁ ÔNG ........................................................... 96

7

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài Việt Nam là một quốc gia có bờ biển dài từ Bắc chí Nam đất nước. Với vị trí

địa lý thuận lợi ấy, đi biển và khai thác biển đã trở thành một ngành nghề truyền

thống của nhân dân. Tại nhiều nơi, những ngành nghề kinh tế gắn liền với biển như

đánh bắt cá, đóng tàu, du lịch… đã trở thành nghề chủ lực của vùng. Từ quá trình

chung sống với biển qua hàng trăm năm ấy, biển đã tạo riêng cho cư dân sinh sống

dọc theo dải đất này một nét văn hóa đặc thù. Đó là văn hóa biển với những nét

riêng biệt so với văn hóa nông nghiệp lúa nước tại các vùng đồng bằng, trung du.

Trong tâm thức người Việt, biển hiền hòa nhưng cũng rất bao la và dữ dội. Biển đưa

lại nhiều nguồn lợi nhưng cũng chứa đựng nhiều hiểm nguy rình rập, đe dọa sinh

mạng và cuộc sống của cư dân làm nghề ra khơi vào lộng. Vì thế, để mong tránh

khỏi những tai ương, cư dân nơi đây luôn kiêng dè, cầu khấn để xin các bậc thần

linh phù trợ, cứu giúp những con người nhỏ bé thoát khỏi hoạn nạn. Tâm lý e dè

kéo dài từ xa xưa cho đến tận ngày nay đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa ứng xử

của người Việt và các dân tộc khác cùng chung sống ở vùng ven biển đất nước.

Nếu tại đồng bằng, trung du, các làng thường có những mái đình thờ thần Hoàng và

các lễ hội gắn liền với hoạt động nông nghiệp, thì ở ven biển có những lăng đền thờ

thần biển, và lễ hội làng biển cũng trở thành một sinh hoạt nổi trội nhất trong tất cả

những sinh hoạt văn hóa truyền thống nơi đây. Hơn thế nữa, hội làng biển còn

phong phú về mặt nội dung. Ngoài hội làng thờ thần Hoàng và các vị thần biển

khác, nơi đây còn diễn ra lễ hội dành riêng cho cá Ông – một lễ hội chỉ có cư dân

miền biển mới có.

Lễ hội nghinh Ông chứa đựng nhiều nét văn hóa đặc sắc, có nhiều ảnh

hưởng, chi phối đến đời sống tâm linh của người dân ven biển. Đứng trên góc độ

văn hóa, tín ngưỡng thờ cá Ông không chỉ có ý nghĩa to lớn trong cộng đồng ngư

dân mà còn có ý nghĩa bảo tồn nhiều giá trị văn hóa dân gian. Những ngày lễ hội

luôn gắn với sinh hoạt tín ngưỡng, nghệ thuật như tế lễ, rước Ông, hát lễ, hát hội,

đua tài… là các sinh hoạt dân gian mà ở nhiều nơi đã bị mất đi vai trò cùng vị trí

của nó trong đời sống. Tham gia vào sinh hoạt này, các thành viên trong cộng đồng

làng biển được dịp giao lưu, tiếp xúc với nhau, thắt chặt thêm tình đoàn kết tương

8

trợ sau những ngày lênh đênh trên biển cả. Không chỉ thế, tục thờ cá Ông còn có ý

nghĩa về mặt sử học và văn học. Nó đánh dấu một bước tiến, mở rộng phạm vi sinh

sống và làm nghề của nhân dân từ đồng bằng, trung du hướng ra biển khơi, đẩy

mạnh nghề đánh bắt và khai thác biển. Xoay quanh tục thờ cá Ông là những truyền

thuyết được nhân dân sáng tác, bồi đắp tính thiêng của cá Ông. Các truyền thuyết

này ít nhiều đã phản ánh tâm thức của người dân về vị thần biển uy linh của họ.

Đồng thời, nó cũng chứa đựng trong đó những giá trị nhân văn tiềm ẩn như một quy

luật chung mà các tác phẩm dân gian thường thấy.

Xét dưới góc độ văn học, truyền thuyết về cá Ông đã trở thành một bộ phận

vừa song hành, vừa gắn bó khăng khít với lễ hội cá Ông. Khảo sát truyền thuyết

trong mối quan hệ tương tác với lễ hội là một nhiệm vụ khoa học của văn học dân

gian. Vì vậy, chúng tôi tiến hành chọn đề tài này để nghiên cứu, hy vọng có thể góp

thêm tiếng nói vào việc bảo tồn và khẳng định giá trị tốt đẹp của tín ngưỡng thờ

cúng thần biển đặc trưng ở vùng biển Việt Nam.

2. Lịch sử vấn đề

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiếp xúc với nhiều tư liệu, bài viết về

cá Ông. Song hầu hết các bài viết này chưa chạm đến vấn đề truyền thuyết cá Ông

dưới góc độ văn học, mà chỉ đứng từ góc độ văn hóa để bàn luận đến tín ngưỡng và

giá trị của tục thờ cá Ông đối với đời sống nhân dân. Vì vậy, chúng tôi hy vọng dựa

vào những tư liệu này để sàng lọc những thông tin cần thiết cho đề tài. Sau đây là

một số tư liệu nói về tín ngưỡng này:

Trong các thư tịch cổ: Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, Đại

Nam Nhất Thống Chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, Thối thực ký văn của Trương

Quốc Dụng và một số ghi chép ký sự của người Trung Quốc, như lời dẫn lại sách

Chính tự thông của Trí Nguyên, An Nam trí dự lục ký của Cao Hùng Trưng, những

tài liệu này ghi chép ngắn gọn về cá Ông ở đặc điểm hình dáng và nhấn mạnh đến

tính thiện cứu người. Song nó như một dữ liệu thông tin có tính chất văn hóa và lịch

sử liên quan đến tín ngưỡng thờ Ông chứ không đề cập gì đến những câu chuyện

mang tính dân gian về tính thiêng của Ông.

Khoảng vài chục năm trở lại đây, tục thờ cá Ông ngày càng được nhiều nhà

nghiên cứu quan tâm. Cùng đề tài về tín ngưỡng thờ cá Ông, rất nhiều các bài viết

đăng trên các tạp chí, đặc biệt là tạp chí Văn hóa dân gian và các trang web đã trình

9

bày và mô tả khá nhiều các lễ hội ở khắp các tỉnh ven biển miền Trung và miền

Nam với các đặc thái riêng của từng vùng.

Trong tạp chí Văn hóa dân gian (số 3/1999) có bài viết “Tục thờ cá Voi ở các

làng biển từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân” của tác giả Trần Hoàng. Đây là một bài

viết sơ lược về tín ngưỡng thờ cá Ông trong một phạm vi hẹp ở khu vực biển Bình

Trị Thiên. Trong bài viết, tác giả nhấn mạnh đến sự phong phú của tục thờ diễn ra ở

rất nhiều làng biển. Nhiều lăng Ông không chỉ ngư dân làm biển thờ mà còn sâu vào

tận trong đất liền vùng sông nước và làm ruộng cũng có. Đồng thời, tác giả cũng

đánh giá rằng “Lễ hội cầu ngư vừa nhằm vào việc tưởng nhớ công đức của người

xưa, vừa thể hiện lòng mong ước, sự cầu chúc cho một mùa làm ăn phát đạt… tạo

cho đời sống văn hóa - tinh thần của ngư dân vùng biển từ đèo Ngang đến đèo Hải

Vân một nét riêng, đậm đà bản sắc dân tộc và địa phương”.

Bài “Lễ hội cầu ngư ở Thuận An” (tạp chí Văn hóa dân gian, số 3/2000) của tác

giả Lê Văn Kỳ. Đây là bài viết khá chi tiết và đào sâu vào tục thờ cá Ông từ góc độ

văn hóa học. Tác giả đã đi thực tế để mô tả kĩ một lễ hội rất long trọng và thiêng

liêng đối với ngư dân vùng biển. Ở đây, chúng ta có thể thấy từng bước trong nghi

lễ thờ Ông từ việc chôn cất, thờ cúng Ông đến lễ cầu ngư đầu mùa, từ lễ tế Thai

Dương phu nhân đến lễ bủa lưới cầu ngư được nhân dân tham gia tổ chức chu đáo.

Qua đó, chúng ta có thể cảm nhận được không khí vừa trang nghiêm, vừa thành

kính lại vừa đậm đà bản sắc văn hóa vùng biển. Lễ hội nghinh Ông là một tục thờ

quan trọng của ngư dân bởi vì “Biển cả mênh mông, sức con người có hạn, phương

tiện làm ăn đương thời còn quá thô sơ nên những người “vào lộng”, “ra khơi” đều

phải cầu mong thần linh phù hộ cho mình tai qua nạn khỏi, mẻ lưới đầy thêm. Đấy

là một nguyên nhân ra đời của tín ngưỡng cầu ngư và lý do tồn tại của những lễ hội

phản ánh về nó…”.

Đáng chú ý hơn, cũng trên tạp chí Văn hóa dân gian (số 2/2003) có bài viết

“Giao lưu văn hóa Việt – Chăm nhìn từ tục thờ cá Ông” của tác giả Nguyễn Thanh

Lợi. Đây có thể xem là bài viết mở đầu cho cuộc tranh luận tục thờ cá Ông của

người Việt hiện nay có nguồn gốc từ đâu? Trong bài viết này, tác giả đã chỉ ra rất

nhiều dẫn chứng trên các mặt lịch sử, văn hóa, địa lý… và có rút ra khẳng định tục

thờ cá Ông ngày nay vốn xuất phát từ tục thờ của người Chăm. Trước đó hai tác giả

Lê Quang Nghiêm (Tục thờ cúng của ngư phủ Khánh Hoà, Trung tâm Văn bút

10

Việt Nam, 1970, tr. 35-36) và Thái Văn Kiểm (“Le culte de la baleine”, 1971, tr.

12) cũng có nói nhưng lúc đó chưa có nhiều người quan tâm nên vấn đề này không

được bàn sâu. Đồng ý với tác giả Thanh Lợi còn một số tác giả khác như Đinh Văn

Hạnh, Nguyễn Thăng Long… Nhưng vấn đề này đã có những ý kiến trái chiều.

Trên tạp chí Văn hóa dân gian (số 4/2007), tác giả Nguyễn Xuân Đức có một bài

viết tranh luận lại vấn đề trên qua bài “Từ đền thờ Đức Ông, Đức Bà ở Cảnh Dương

nghĩ về tục thờ cá Voi của người Việt” và phản bác ý kiến của ông Thanh Lợi. Tác

giả Xuân Đức phủ nhận và cho rằng tục thờ cá Ông đã vốn có trong tâm thức người

Việt, không phải đến khi thấy người Chăm thờ mới học theo… Sau đó, có những

bài viết với các ý kiến trái chiều bàn luận song hiện nay thì vẫn chưa có một sự

thống nhất cho vấn đề này.

Bài “Tục thờ cá Ông ở ven biển Nam Trung Bộ” (Tạp chí Văn hóa dân gian,

4/2006) của tác giả Nguyễn Thanh Lợi, khác với các bài viết trước chỉ nói về tục

thờ cá Ông trong một địa bàn hẹp, bài viết này là một khảo sát trên diện rộng của cả

khu vực Nam Trung Bộ. Trong bài viết, tác giả đã chuyên sâu vào nhiều vấn đề liên

quan đến tín ngưỡng như nguồn gốc tục thờ, đối tượng thờ, kiến trúc lăng Ông, đặc

điểm nghi lễ thờ cúng, các sinh hoạt văn hóa dân gian liên quan đến tục thờ… Theo

tác giả, tục thờ cá Ông trong đời sống người Việt hiện nay là một quá trình tiếp thu

tín ngưỡng thờ của dân tộc Chăm và đã được người Việt biến cải đi rất nhiều.

Nhưng dù thế nào thì đây cũng là một tín ngưỡng tốt đẹp, nó không chỉ bảo lưu

nhiều giá trị văn hóa truyền thống mà nó còn thể hiện nét đẹp ứng xử của nhân dân

trước biển khơi.

Tác giả Nguyễn Xuân Hương với bài viết “Lễ hội cầu Ngư của cư dân ven biển

Quảng Nam và Đà Nẵng” (tạp chí Văn hóa dân gian, số 5/2002) nhấn mạnh “Lễ hội

cầu ngư là lễ hội cầu mùa, mà đường dây tạo ra nó chính là niềm tin của ngư dân về

sự phù trợ của ngư thần, đó là cá Ông – cá Voi… Ngư dân vùng biển Quảng Nam –

Đà Nẵng quan niệm cá Ông không chỉ là một vị thần biển - ân nhân của người đi

biển, mà thiêng liêng hơn, đó là một vị thần liên quan đến sự hưng thịnh của vạn

làng – một thành hoàng của vạn làng”. Như thế, với mỗi vùng khác nhau, niềm tin

và quan niệm về sự phù trợ của cá Ông đối với đời sống con người cũng có những

sự khác biệt.

11

Trên trang web www.nuiansongtra.com (14/7/2011) của Lê Hồng Khánh, có bài

viết “Tục thờ cúng cá Ông và hát múa bả trạo của cư dân ven biển – hải đảo Quảng

Ngãi”. Đây là bài viết mà chúng tôi cho rằng có đề cập đến truyền thuyết liên quan

đến cá Ông. Tuy nhiên, số lượng về tư liệu không nhiều và cũng không nhằm mục

đích cho công việc nghiên cứu văn học dân gian, mà đó chỉ là phác họa cho vấn đề

văn hóa tục thờ cá Ông.

Và rất nhiều bài viết, phóng sự của các tác giả khác về tín ngưỡng thờ này được

đăng tải trên tạp chí, các trang web địa phương…

Sự góp mặt của cá Ông đã làm phong phú thêm rất nhiều cho đối tượng thần linh

biển của người Việt. Qua những bài viết trên, chúng tôi thấy rằng: hầu hết các bài

viết đều có cái nhìn dưới góc độ văn hóa học, dân tộc học, tập trung mô tả lại các

hình thức nghi lễ thờ cá Ông tại mỗi vùng, nhưng chưa có bài viết nào bàn luận về

các truyền thuyết được hình thành từ tục thờ này. Song nhìn chung dù không đề cập

đến những truyền thuyết như là đối tượng khảo sát, nhưng để rút ra những nhận

định của mình, các tác giả phải sử dụng đến tư liệu truyền thuyết. Và do vậy, một

cách gián tiếp ta vẫn thấy được từ truyền thuyết những niềm tin thiêng liêng vào vật

linh.

Với sự tham khảo các tài liệu cùng quá trình đi điền dã, chúng tôi xác định tín

ngưỡng thờ cá Ông là một tục thờ cúng thuộc vào hàng quan trọng bậc nhất của cư

dân ven biển. Nó không chỉ có ý nghĩa trong đời sống tâm linh của ngư dân, mà còn

có ý nghĩa quan trọng đối với truyền thống văn hóa chung của dân tộc trong chiều

dài lịch sử, đặc biệt hiện nay nó còn có ý nghĩa cả trên lĩnh vực phát triển kinh tế

đất nước. Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu của những người đi trước về

phương diện văn hóa, chúng tôi muốn đào sâu tìm hiểu về tín ngưỡng này nhưng

trên phương diện của văn học, thông qua các truyền thuyết về cá Ông lưu truyền

trong dân gian. Tựu chung lại, chúng tôi muốn tìm hiểu một số vấn đề sau:

- Tâm thức của nhân dân vào cá Ông từ góc độ văn bản truyền thuyết được thể hiện

ra sao?

- Nguồn gốc tục thờ cá Ông, có hay không sự tiếp biến tục thờ và các yếu tố trong

truyền thuyết giữa hai dân tộc Việt và Chăm?

- Quá trình diễn tiến của truyền thuyết cá Ông trong quá khứ và hiện tại đi theo

chiều hướng nào?

12

- Mối quan hệ giữa truyền thuyết và tục thờ cá Ông?

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

- Các truyền thuyết về cá Ông của người Việt ở khu vực miền Trung và Nam bộ.

Ngoài ra, để có tầm nhìn bao quát, chúng tôi có đề cập cả một bộ phận truyền

thuyết của ngư dân miền Bắc.

- Lễ hội nghinh Ông và các trò diễn xướng trong mối quan hệ với truyền thuyết.

4. Đóng góp của đề tài

- Tìm hiểu dấu ấn của truyền thuyết trong các nghi lễ thờ cúng cá Ông của người

Việt.

- Tìm hiểu các truyền thuyết về cá Ông đang vận động trong đời sống tín ngưỡng

của các cư dân ven biển hiện nay.

- Thực hiện được một công trình nghiên cứu có tính tổng quát và chuyên sâu về tín

ngưỡng thờ cá Ông của hai miền Trung và Nam Việt Nam từ góc độ văn học.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp thống kê: chúng tôi dùng phương pháp này cho việc khảo sát và

thống kê truyền thuyết dựa theo một tiêu chí nhất định. Sự thống kê này nhằm để cố

gắng bao quát nhất những truyền thuyết có liên quan đến cá Ông được lưu truyền

trong dân gian từ xưa tới nay, từ đó làm cơ sở dữ liệu cho các nghiên cứu vấn đề về

sau.

- Phương pháp lịch sử: vấn đề của văn học dân gian luôn gắn với một quá trình của

lịch sử mà chúng tôi cần dựa vào để lý giải một số vấn đề chứa đựng trong đó.

Truyền thuyết thì không phải là lịch sử nhưng có những vấn đề của lịch sử lại được

đưa vào trong truyền thuyết. Thế nên, để tìm hiểu vấn đề sâu nhất, chúng tôi sử

dụng phương pháp này để có thể làm sáng tỏ những điều chứa đựng xếp chồng

trong truyền thuyết về cá Ông.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Từ cơ sở dữ liệu và các vấn đề đặt ra, chúng tôi

cần đến phương pháp này để đi vào từng khía cạnh chi tiết. Cụ thể, trong bài chúng

tôi sẽ phân tích những yếu tố đã nhào nặn nên các truyền thuyết khác nhau về cá

Ông, và các vấn đề khác để tìm hiểu về ý nghĩa nhân sinh trong mối quan hệ giữa vị

thần cá Ông với con người.

- Phương pháp so sánh: Truyền thuyết cá Ông có những đặc điểm chung với nhiều

truyện khác trong tâm thức sáng tác dân gian. Song song đó, nó cũng có những đặc

13

điểm riêng khác biệt… Chúng tôi dùng phương pháp này để đối chiếu, so sánh các

vấn đề đặt ra với các tư liệu khác cùng chủ đề để tìm ra được điểm đặc trưng của

truyền thuyết và tín ngưỡng cá Ông trong đời sống nhân dân.

- Phương pháp liên ngành: Văn học dân gian vốn có đặc trưng là tính nguyên hợp

của nhiều ngành trong đó. Nên trong đề tài, chúng tôi sử dụng đến các lĩnh vực khác

nhau: lịch sử, tôn giáo, địa lý, văn hóa… để làm sáng tỏ một số vấn đề trong bài.

- Phương pháp điền dã: Để có được tài liệu, thông tin cho đề tài, chúng tôi đã tiến

hành đi tới các lăng vạn thờ cá Ông thuộc ba tỉnh: Bình Thuận, Vũng Tàu, Bến Tre.

Ngoài ra, chúng tôi cũng liên hệ với một số nơi khác bằng điện thoại, thư tín để có

thêm thông tin cho bài viết. Nhưng quan trọng hơn cả, chúng tôi đi tìm về chính nơi

thờ cá Ông để cảm nhận được niềm tin và tín ngưỡng như cách ngư dân cảm nhận

để có được linh hồn xương sống cho đề tài.

6. Bố cục luận văn

Luận văn của chúng tôi gồm có 4 chương chính:

Chương 1 - TỤC THỜ CÁ ÔNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VIỆT NAM

Chương 2 - HỆ THỐNG TRUYỀN THUYẾT CÁ ÔNG

Chương 3 - CỐT TRUYỆN, MOTIP TRUYỀN THUYẾT CÁ ÔNG

Chương 4 - MỐI QUAN HỆ GIỮA TRUYỀN THUYẾT VÀ TỤC THỜ CÁ ÔNG

14

B. PHẦN NỘI DUNG

Chương 1 - TỤC THỜ CÁ ÔNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN

HÓA VIỆT NAM

Xét trong dòng chảy văn hóa, bất kì một yếu tố nào góp phần tạo nên bộ mặt

văn hóa cũng luôn luôn nằm trong một hệ thống nhất định. Theo thời gian nó trở

thành một mắt xích trong tiến trình hình thành và phát triển văn hóa một dân tộc.

Nên khi xem xét một vấn đề về văn hóa cần phải nhìn nhận trong một hệ thống để

thấy được tính bao quát của nó. Tục thờ cá Ông cũng tương tự như thế. Để thấy

được vị trí của tục thờ cá Ông, trong chương này chúng tôi sẽ khái quát một số vấn

đề tín ngưỡng có bao quát cả nội dung tục thờ cá Ông trong đó. Từ vị trí đó, chúng

tôi sẽ đi sâu vào vai trò và những vấn đề liên quan đến truyền thuyết, tục thờ nhằm

đưa lại một cái nhìn vào bề sâu của tín ngưỡng từ góc nhìn văn học.

1.1. Đôi nét về mỹ tự “cá Ông”

Ông là một tiếng được sử dụng rất đa dạng trong đời sống. Đó là từ chỉ người

đàn ông hoặc người ở bậc sinh ra cha, mẹ mình: ông nội, ông ngoại. Người đàn ông

đứng tuổi, hoặc được kính trọng: ông giáo, ông sư. Người đàn ông cùng bậc hoặc

bậc dưới trong cách gọi thân mật: ông bạn. Đó cũng là từ chỉ bản thân mình trong

cách gọi trịch thượng.

Ngoài các nghĩa đó, ông còn là từ dùng để chỉ những loài, vật được con người tôn

sùng, kiêng nể: ông trăng, ông sao... Trong dân gian, để tỏ lòng kính cẩn trước đấng

thần thánh vô hình, người ta gọi đó là “ông”: ông trời, ông phật, ông bụt, ông thần,

ông Táo… Để gọi một người có chức tước, được coi là phụ mẫu của dân người ta

vẫn kính cẩn gọi người đó là ông, đức ông. Dân gian vẫn gọi hổ là Ông cọp, Ông ba

mươi để tỏ lòng kính - sợ trước vị chúa tể đầy sức mạnh (hổ đực hay cái đều gọi là

Ông)… Cũng như thế, với loài cá Voi, cá Heo và một số loài có thiên tính cứu

giúp người hoạn nạn hoặc giúp ngư dân đánh bắt được nhiều tôm cá, cư dân

miền biển thành kính gọi là Ông để bày tỏ lòng biết ơn. Như thế, Ông trong cá

Ông là một mỹ tự mà ngư dân gọi để bày tỏ sự kính – ơn đối với loài cá mà họ tôn

là phúc thần.

15

Danh từ Ông ở đây là tên gọi chung cho nhiều loài chứ không riêng gì chỉ

gọi cá Voi, nhưng trọng tâm của tên gọi này dành cho loài cá Voi. Khi nói đến Ông,

người ta đều nghĩ đến cá Voi đầu tiên trong tất cả các loài. Thường thì người ta gọi

chung là Ông, không phân biệt cá đực hay cái, to hay nhỏ. Nhưng người Việt vốn

có tư duy lưỡng phân lưỡng hợp – cặp đôi (Tư duy lưỡng hợp này có nguồn gốc từ

tư duy thần thoại Việt cổ như Ông Đùng, Bà Đà…) nên đi vào chi tiết, người ta

phân rõ ràng cá đực gọi là Ông, cá cái gọi là Bà. Cá đực mà còn nhỏ thì gọi là Cậu,

tương tự như thế, cá cái còn nhỏ người ta gọi là Cô, tính cặp đôi ở đây: cá Ông – cá

Bà; cá Cô – cá Cậu.

1.2. Khái quát tín ngưỡng thờ linh thần

Sùng bái tự nhiên là một đặc điểm cơ bản của các cư dân vùng nông nghiệp

lúa nước, bên cạnh hệ thống các nhân thần đầy quyền uy là một hệ thống các nhiên

thần có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống con người. Trong đó, thờ cúng loài vật là

một tín ngưỡng dân gian lâu đời và có vị trí quan trọng trong niềm tin của nhân dân.

Trong dân gian có câu “Nhất điểu, nhì xà, tam ngư, tứ tượng” cho thấy niềm kính

cẩn, điểm tựa tâm linh vào các loài vật rất mạnh trong niềm tin của nhân dân. Dấu

ấn của niềm tin ấy ngày nay vẫn tồn tại qua các đền thờ, lăng miếu trải khắp trong

các làng mạc từ Bắc chí Nam. Trong các đền miếu ấy, có nơi chỉ hương khói thờ tự

nhưng có nơi lại gắn với các lễ tục, diễn xướng, lễ hội, tạo nên một nét văn hóa đặc

sắc trong đời sống văn hóa các vùng miền. Và đặc biệt, xoay quanh các đền miếu ấy

gắn với một hoặc nhiều truyền thuyết có liên quan tạo nên phức hợp tổng thể cho

tính linh thiêng trên nhiều phương diện thực tiễn và huyền thoại.

So với tục thờ các thần thú ở khắp các vùng miền đất nước, tục thờ cá Ông

của ngư dân miền biển có thể xem là tục thờ lớn nhất, có phạm vi thờ cúng rộng lớn

và có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tâm linh của ngư dân miền biển.

Không chỉ thế, tục thờ này còn có những giá trị to lớn trên các phương diện đời

sống.

Xét về giá trị văn hóa, tục thờ cá Ông không chỉ tạo cho miền biển một vị thần hùng

vĩ, uy linh mà còn tạo ra một tín ngưỡng đẹp, gắn kết con người và con người gần

lại với nhau, thắt chặt tình đoàn kết tương hỗ của các ngư dân trong cuộc mưu sinh

nơi đầu sóng ngọn gió.

16

Xét về giá trị lịch sử, tục thờ cá Ông được nhiều người xem như một chứng nhân

quan trọng cho sự tiếp biến văn hóa của nhân dân Đại Việt trong quá trình Nam tiến

với người Chăm bản địa. Đó là một vấn đề vẫn còn chưa đi đến được kết luận cuối

cùng song nó cũng chứng tỏ được tầm ảnh hưởng đến nhiều phương diện của tục

thờ. Sau này, cá Ông được trọng vọng nhiều hơn khi góp mặt trong thời gian bôn

tẩu của vua Gia Long, thực hư ra sao vẫn là điều bí ẩn, nhưng dẫu sao khi tìm về

lịch sử triều Nguyễn cũng không thể quên được chi tiết này trong huyền thoại vì ở

nhiều lăng Ông vẫn còn các sắc phong của vua ban – một chứng tích hùng hồn cho

tính thần thiêng của cá Ông.

Xét về phương diện văn học, xoay quanh tục thờ cá Ông là những câu truyện,

truyền thuyết, sự tích được nhân dân sáng tác, thêu dệt để bồi đắp thêm tính thiêng

liêng của cá Ông. Từ các tích ấy, thông qua cách nhìn, cách cảm nhận đa chiều của

nhân dân dành cho Ông, chúng ta sẽ thấy được những ý nghĩa nhân văn, những giá

trị về văn hóa, lịch sử của cha ông ta xây đắp và lưu truyền cho con cháu đời sau.

Trong tín ngưỡng chung, tục thờ cá Ông cũng có những giá trị tích cực như các vị

phúc thần khác. Song trong những cái chung, tục thờ này có những nét riêng biệt để

tạo cho nó một giá trị không hòa lẫn. Điều đó chúng tôi sẽ chỉ ra ở các phần sau của

đề tài. Nhưng để thấy được cái riêng ấy, chúng ta cần thấy cái chung của tục thờ các

loài vật để có cái nhìn khái quát, rộng mở cho vấn đề về sau.

1.2.1. Tục thờ cá Ông trong tín ngưỡng thờ loài vật của nhân dân

Mỗi bản làng, mỗi vùng trên đất nước ta đều có một hoặc nhiều vị phúc thần

được nhân dân trong vùng tín ngưỡng, thờ tự để cầu mong sự chở che của thần cho

một cuộc sống no đủ, thuận hòa. Vị phúc thần ở đây có khi là nhân thần, có khi là

nhiên thần, loài vật mà ở nơi đó nhân dân gửi gắm niềm tin thiêng liêng về sức

mạnh phù trợ mang phúc lành đến cho muôn dân. Song khác với các nhân thần

thường được thờ sau khi các vị đó đã “hóa”, là người có công đức hoặc có hiển linh

cứu giúp, phù trợ cho dân làng thì các loài vật lại được nhân dân thờ ngay khi còn

sống. Nếu nhân thần được thờ theo cá nhân đơn lẻ thì loài vật được thờ theo loài.

Trong phạm vi đề tài về tục thờ loài vật, nên ở đây chúng tôi chỉ xin trình bày một

số tục thờ các loài vật trong tín ngưỡng của nhân dân để tham khảo thêm.

17

Tục thờ rắn là một trong những tín ngưỡng nguyên thủy của người Việt cổ.

Xuất phát từ môi trường tự nhiên gắn với điều kiện sông nước, đầm lầy, hình tượng

rắn đã được đồng hóa với nước, trở thành thủy thần và đi vào tâm thức dân gian từ

rất sớm và thường gắn với tục thờ các vị thần tự nhiên. Rắn là một hình tượng phổ

biến và có sức ám ảnh mạnh mẽ, phổ biến nhất của người Việt ở đồng bằng sông

Hồng. Tục thờ rắn với tư cách là thủy thần không chỉ phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ

mà còn có ở miền Trung, Tây Nguyên và cả miền Tây Nam Bộ. Rắn cũng là đối

tượng phải dè chừng, đối phó và chinh phục. Có lẽ vì thế mà ngày nay vẫn lưu

truyền nhiều câu chuyện, giai thoại về rắn quấn mình người phụ nữ sinh ra đứa con,

rắn trả thù người, rắn cứu người, rắn đền ơn con người… Nhất là các tích về sự xuất

hiện của rắn trong các đền miếu một cách kì lạ và bí ẩn là nền cho những huyền

thoại về rắn tiếp tục được hình thành. Trong dân gian, nhân dân tin rắn là hiện thân

của thần thánh. Các cụ già vẫn kể cho con cháu nghe về sự xuất hiện của rắn có

mào trong đền thờ thần làng vào những ngày lễ, hay người dân lưu truyền với nhau

về rắn trắng trong đền thờ đức thánh Trần (Nam Định) là rắn thần. Bên cạnh đó,

nhân dân còn thờ rắn trong hình tượng của vị thần người nhưng hoài thai từ rắn, ví

như đền Quan Lớn Đệ Tam ở Duy Tiên (Nam Định). Đó là đền thờ một trong ba vị

đại vương vốn là ba con rắn được sinh ra từ một cái bọc. Tương truyền, vị đại

vương này rất có công trong việc chống Thục nên được vua Hùng phong là Nhạc

Phủ Ngư thượng đẳng thần, sau được gia phong là Trấn Tây An Tam Kỳ Linh ứng

thái thượng đẳng thần. Đối với tín ngưỡng nhiều nước, rắn cũng là một đối tượng

rất được coi trọng và đề cao. Điều đó cho thấy các nước trên thế giới dù cách biệt,

chênh lệch nhưng vẫn có những yếu tố văn hóa giao nhau trong nhận thức từ thuở

hồng hoang của lịch sử loài người.

Không chỉ thờ rắn, người ta còn thờ cả cá sấu. Trong sử cũ ghi chép, thì với

tục thờ rắn và cá sấu, người xưa lấy các loài thủy tộc này làm vật tổ. Huyền thoại họ

Hồng Bàng (giải thích nguồn gốc các tộc người Việt cổ) kể rằng, ông Lạc Long

Quân (vị tổ của người Việt đồng bằng) là một loài rắn hoá thân mà thành. Hình cá

sấu được trang trí trên nhiều mặt trống đồng Đông Sơn. Tục thờ cá sấu sau này trở

nên phổ biến ở miền Nam, là vùng đất mới với nhiều hiểm nguy đe dọa tới tính

mạng con người, trong đó cá sấu cũng là một nỗi ám ảnh của vùng sông nước nên

được người dân lập đền thờ: “Cà Mau khỉ khọt trên lưng/ Dưới sông sấu lội trên

18

rừng cọp um” [43]. Cá sấu không chỉ có trong tục thờ của người Việt, mà còn trong

cả cộng đồng người Khơ-me Nam Bộ. Hình cá sấu được người dân nơi đây vẽ trên

những lá cờ trắng treo trên chùa, hoặc thầy cúng cầm trong đám đưa tang.

Từ rắn, cá sấu, một loài vật huyền thoại được hình thành - rồng được nhân

dân xem là loài mang đến phúc lành cho nghề nông. Cao hơn nữa, rồng là biểu

tượng của nguồn gốc tộc người (Truyền thuyết Con rồng cháu tiên của người Việt).

Về sau này, rồng còn được nhất thể hóa với hình tượng đế vương. Những thuyết về

việc sinh ra các bậc quân vương cao quý thường gắn với tích bà mẹ nằm ngủ mơ

thấy sao rơi, thấy rồng… Rồng là biểu tượng quyền uy của vua chúa. Rồng cũng là

hình tượng thường được trạm trổ ở trên các cột đình, chùa, cung điện, ngọc tẩm để

tăng thêm tính oai nghiêm, thần thánh. Thực ra, ban đầu nằm trong tín ngưỡng dân

gian rồng được đồng nhất với nước, mang lại điềm tốt lành. Do ảnh hưởng từ văn

hóa Trung Quốc mà rồng có thêm biểu tượng của vương quyền.

Một tục thờ khác rất phổ biến ở nhiều nơi đó là tục thờ hổ. Tục thờ này bắt

nguồn từ cuộc sống thời nguyên thủy xa xưa, khi con người còn sống trong điều

kiện săn bắt, hái lượm hoặc giai đoạn đầu của cuộc sống nông nghiệp, hổ chính là

sức mạnh thiên nhiên gần gũi và là tai họa đối với con người. Đặc biệt trong quá

trình di dân vào Đàng Trong, mối đe dọa từ hổ đến cuộc sống con người trở thành

nỗi ám ảnh. Điều đó còn ghi dấu ấn qua những đúc kết dân gian như: “Cọp Khánh

Hòa, ma Bình Thuận” [27] ở miền trung hoặc “U Minh, Rạch Giá thị quá sơn

trường; Dưới sông cá lội, trên rừng cọp đua” [43] ở miền Nam. Chính điều này các

đình miếu thờ hổ từ đó mà nhiều hơn nữa. Ngày xưa, người dân rất sợ hổ, giết được

hổ là lập được công lớn giúp dân làng, nhưng sau khi giết được thì người dân lại lập

miếu thờ. Đây là một tâm lý rất phức tạp vừa sợ nhưng lại vừa kiêng nể cọp của

nhân dân. Trong dân gian lưu truyền rất nhiều các giai thoại về hổ trả ơn người đã

cứu mình, hổ hàng phục vị sư chùa, hổ trung thành với chủ… Người dân cũng tin

tranh họa hình hổ có khả năng trấn yểm, đuổi trừ tà ma, thế nên trong nhiều nhà

thường treo tranh hổ, để tranh hổ dưới gối giúp trẻ con không quấy khóc ban đêm…

Không chỉ người Việt, một số đồng bào dân tộc thiểu số cũng có tục thờ hổ, trong

đó có người Khơ mú sống ở Tây Bắc và miền Tây Nghệ An. Một tập quán ăn sâu

vào tình cảm và tiềm thức của người Khơ mú thuộc họ Rvai (hổ) đó là nghi lễ cúng

ma nhà (Hrôigang). Vào dịp Tết Nguyên đán, người Khơ mú thuộc họ hổ đã diễn lại

19

các động tác của hổ, vật tổ của dòng họ. Với quan niệm hổ là tổ tiên của mình,

người Khơ mú thuộc họ Rvai kiêng không động tay vào hổ, không săn bắt hổ,

không giết hổ và không ăn thịt hổ.

Không chỉ thờ những loài có sức mạnh, người Việt còn thờ cả loài vật rất đỗi

bình thường. Đó là chó. Người ta coi chó là con vật có thể đem đến những điều may

mắn, thuận lợi và nhiều niềm vui. Chẳng những trước đây mà cả hiện nay vẫn có tín

ngưỡng dân gian về chó. Tục thờ chó của người Việt được thể hiện dưới hai hình

thức: Một là chôn chó đá trước cổng nhà như một linh vật để canh cổng với ý nghĩ

trừ tà, cầu sự bình an; Hai là đặt chó đá trên bệ thờ như một thần linh để thờ cầu

phúc lành. Một số nơi gọi chó đá một cách kính cẩn là quan lớn Hoàng Thạch. Ở Hà

Nội, có hai làng Địch Vĩ và Hát Môn là những nơi thờ vị quan lớn này.

Như vậy, trong tín ngưỡng thờ loài vật, nhân dân luôn tìm thấy một mặt lợi ích tích

cực cụ thể từ các loài để tôn thờ và ngợi ca. Và cá Ông cũng nằm trong mạch chung

ấy.

Xét theo trục Tây – Đông để chia thì lãnh thổ Việt Nam chia thành hai phần

đất liền và biển đảo. Những loài kể trên là các linh thần tiêu biểu cho phần đất liền,

còn ở biển, linh thần tiêu biểu nhất là cá Ông. Trong niềm tin của ngư dân, người ta

rất tin tưởng vào sự cứu giúp của Ông trên biển khơi. Nước ta có một chiều dài bờ

biển kéo dài từ Bắc chí Nam, cho nên không có vị linh thần nào lại có số lượng lăng

miếu thờ nhiều như cá Ông và có sức ảnh hưởng đến tâm linh tuyệt đối như vị phúc

thần này. Với các loài trên, một số nơi người ta thờ trong sự bái vọng, đời ông cha

truyền lại cho đời con cháu tiếp nối nhưng niềm tin tín ngưỡng có thể đã không còn

như nguyên gốc. Ví như trước đây, vì sợ mà người ta lập ra đền thờ hổ, thì nay

người dân chỉ thờ hổ trong sự cầu mong phước lành chứ không còn vì sợ như trước

kia. Nhưng niềm tin với cá Voi từ xưa tới nay thì vẫn còn nguyên vẹn. Ngư dân rất

tin và thành kính vào sự cứu giúp tính mạng con người trước sóng gió biển khơi của

Ông.

Qua một số các loài vật được thờ mà chúng tôi nêu trên, có thể thấy hai vấn

đề cần lưu ý sau:

Thứ nhất, người Việt có truyền thống thờ trực tiếp loài vật mà người dân tin tưởng

sự thờ đó sẽ mang lại sự an lành cho cuộc sống. Tục thờ loài vật có từ trong tâm

20

thức xa xưa của cha ông chúng ta từ thời nguyên thủy, không phải học từ lối thờ của

ai mới có.

Thứ hai, về nguyên nhân, gốc tích các loài được thờ. Sự thờ thần thú trong tâm linh

của nhân dân xuất phát từ nhiều điều, nhưng tựu trung lại nhân dân thờ một loài vật

thành thần trên hai điều sau:

+ Người ta thờ một loài bởi người ta sợ mà thờ, như các loài hổ, cá sấu… Người

dân lập miếu thờ các loài họ sợ vừa để lưu ý với những người xứ khác tới biết ở nơi

đây có nguy hiểm mà tránh, vừa để cầu sự an lành cho cuộc sống tại nơi có thú dữ

quấy phá.

+ Người ta thờ vì lòng kính trọng, biết ơn mà thờ. Đại diện nổi bật cho điều này

chính là cá Ông được nhân dân tôn thờ vì đức tính cứu người giữa biển khơi. So với

các loài vật linh khác, cá Ông chỉ mang đến điều tốt đẹp đến cho ngư dân. Người ta

thờ Ông vì lòng kính – biết ơn chứ không phải vì sợ như một số loài khác trong tín

ngưỡng.

1.2.2. Tục thờ cá Ông trong hệ thống các vị thần linh biển

Tục thờ cá Ông đã âm thầm đi vào đời sống tâm linh của cư dân ven biển từ

khi nào thì không ai rõ. Nhưng trước khi vị thần này đi vào đời sống ngư dân, trong

dân gian đã xuất hiện nhiều vị thần được nhân dân tôn thờ để phù trợ cho người đi

biển. Tất cả sự tôn kính đó thường được thể hiện trong nghi lễ và những huyền thoại

bao quanh. Chúng tôi nêu ra một số truyền thuyết về các vị thần đó như sau:

Ở phường Vạn Hương, quận Đồ Sơn, Hải Phòng có miếu trên đảo Hòn Dáu.

Miếu thờ Lão đảo thần vương, còn gọi là Nam Hải đại vương. Chuyện xưa kể vào

thời Trần sau cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên, trên đảo có dạt vào xác một

võ tướng cụt đầu. Sau đất đùn thành mộ, thần thường hiển linh trong trang phục võ

tướng không đầu ngồi câu cá. Dân cư lập miếu thờ và thường được thần giúp trong

lúc ra khơi. Đến đời chúa Trịnh Doanh (1754) khi đi du ngoạn Đồ Sơn thấy thần

linh ứng, liền phong là Lão đảo thần vương. Hơn 100 năm sau, vua Tự Đức đến

thăm đảo lại phong thần là Nam Hải đại vương. Hằng năm mở hội vào ngày 9-10

tháng Giêng âm lịch.

Đền thờ nữ thần ở cửa Cần Hải, Nghệ An. Không rõ ở cửa biển nào vị nữ

thần này đã hiển linh giúp vua, nhưng sau đó đã được vua sắc cho 12 cửa biển phải

21

lập đền thờ bà. Có nơi gọi đây là đền thờ Thánh Mẫu, và tùy vào mỗi nơi mà tích

truyện này có được kể khác đi. Theo truyền thuyết kể lại: Phu nhân họ Triệu, là

công chúa nhà Nam Tống, mẹ con ba người, phu nhân là con gái út. Trong cơn lửa

binh, mẹ con ba người vịn mạn thuyền trôi đến chùa Hải Giai, nhà sư thương đem

về nuôi nấng; sau vài tháng, phu nhân da thịt hoàng nguyên, diện mạo đẹp đẽ, nhà

sư muốn tư thông, phu nhân nhất thiết cự tuyệt. Nhà sư xấu hổ, nhảy xuống biển tự

tử. Ba mẹ con cùng khóc bảo rằng: “mẹ con ta nhờ sư mà sống, sư vì mẹ con ta mà

chết, lòng ta sao an”, rồi cũng nhảy xuống biển chết cả. Thi thể phu nhân trôi đến

cửa biển Kiền Hải (tục danh là Cửa Cờn) phủ Diễn Châu (Nghệ An) nước ta, tuy

chết lâu mà ngọc diện vẫn như sống, người bản xứ thấy làm lạ, vớt lên chôn cất hẳn

hoi, sau thấy có nhiều linh dị, mới lập đền thờ phụng. Hễ thuyền biển gặp cơn gió to

sóng lớn, nguy cấp, van vái với phu nhân thì đều được bình an vô sự. Vị thần này

sau được triều đình sắc phong là Đại Càn thánh nương. Cũng tương tự như tích này,

nhưng ở đền Đỏ, xã Thái Thượng (Thái Thụy, Thái Bình), nhân dân kể lại có khác

và đối tượng thờ cũng có khác. Theo tích này thì đối tượng được thờ chính là hoàng

hậu chứ không phải công chúa. Đền Đỏ vốn là ngôi đền linh thiêng nơi cửa biển,

nhân dân trong vùng thường gọi là đền Bà, đền thờ Thánh Mẫu. Theo thần tích tại

đây, Thánh Mẫu còn có tục danh là Đạm Đồng Lương, là Hoàng hậu của vua Đế

Bính (thời nhà Tống). Khi nhà Tống bị đế quốc Nguyên Mông xâm lăng, Vua Đế

Bính thất trận, bà đã đem hai người con gái và một người con nuôi chạy sang Việt

Nam lánh nạn, nương nhờ ở chùa Kính Thiên. Sau một thời gian, bà lại mắc oan

nên phẫn chí, cả bốn mẹ con gieo mình xuống biển ở cửa Lân tự tử. Thi hài trôi vào

cửa chùa Long Khánh, phủ Viễn Châu, xã Tân Hương, huyện Quỳnh Lâm (nay là

Quỳnh Lưu, Nghệ An). Nhân dân nơi đây đã lập miếu thờ và trở thành nơi linh

thiêng được nhân dân sùng bái. Song theo tích nào thì đây cũng là đền thờ vị thần

bảo hộ giúp người đi biển được bình an.

Ở huyện Kì Anh, Hà Tĩnh có đền thờ Chế Thắng phu nhân. Đây cũng là một

vị thần biển. Chế Thắng phu nhân là cung nữ của Trần Duệ tông, tên thật là Nguyễn

Thị Bích Châu, từng theo vua đi đánh Chiêm thành. Khi qua cửa biển, sóng gió nổi

lên, vua muốn bày lễ tế thần biển, bà phải đứng trên cái mâm đồng to để vua ném bà

xuống, nhờ vậy mà trời bớt sóng gió. Biết chuyện ấy, nhân dân trong vùng lập đền

thờ bà, cầu mong bà phù hộ dân làng mưa thuận gió hòa, ra khơi vào lộng an toàn.

22

Đền thờ Đông Hải đại vương Nguyễn Phục. Ông người xã Đoàn Tùng,

huyện Gia Lộc, xứ Hải Dương. Ông là người văn võ song toàn lại có tài ăn nói nên

đã nhiều lần được cử đi sứ ở Trung Quốc. Cuối đời vì không may cho số phận nên

đã bị vua Lê Thánh Tông xử tội chết vì trễ hẹn quân cơ. Sau khi được phong là phúc

thần, thần đã hiển linh giúp vua và nhân dân rất nhiều. Trong sách “thần tích Việt

Nam” có chép: Sau khi vua chiến thắng Chiêm Thành trở về, trên đường gặp sóng

to gió lớn nên không đi được. Một đêm Vua thao thức tai nghe gió gào, sóng dậy

trằn trọc không sao ngủ được. Vua sực nhớ lại thuyền lương trễ kỳ hạn là do sóng

lớn gây ra, trong lòng hối hận, thương tiếc đốc lương quan bị thác oan. Trong lúc

mơ màng Vua nhìn thấy ông đứng trước giường ngự tâu rằng: “Kẻ hạ thần cảm ơn

tri ngộ của bệ hạ nên dẫu thác, linh hồn vẫn theo ra chiến trận. Nay nhờ hồng phúc

quốc gia, bệ hạ dẹp xong Chiêm hầu, hạ thần lại xin theo hộ giá khải hoàn. Vua Lê

chợt tỉnh trông ra vầng Đông đã hửng sáng. Biển lặng sóng yên, đại quân vượt biển

trở về yên ổn” [48]. sau đó, vua Lê Thánh Tông truy phong Đốc lương quan

Nguyễn Phục tước Đại vương biển Đông Hải.

Đền thờ Đông Hải Đại Vương Nguyễn Phục ở làng Phú Xá được nhân dân quanh

năm hương khói phụng thờ với niềm tin và ước vọng thánh Đông Hải sẽ chở che,

bảo vệ và phù trợ cho nhân dân về cuộc sống bình an, no đủ của cả làng biển.

Và còn nhiều các vị thần biển khác, song tựu chung lại chúng ta có thể thấy

rằng các vị thần trên đều là các nhân thần. Đa số các vị thần đó đều có xuất thân từ

tầng lớp trên (tướng quân, công chúa, hoàng hậu), sau khi chết lại hiển linh giúp vua

thuận buồm xuôi gió ra chiến trận nên càng được nhân dân tôn kính. Sự giúp vua có

hay không là một điều bí ẩn, nhưng truyền thuyết về thần mà đến vua cũng phải

trông cậy vào sự giúp đỡ và tin tưởng thì hẳn đó là các vị thần rất thiêng, có ảnh

hưởng to lớn đến đời sống tín ngưỡng của nhân dân (có lẽ muốn bồi đắp thêm tính

thiêng của thần mà nhân dân gắn sự hiển linh của thần với những việc của nhà

nước, nâng tầm ảnh hưởng phù độ của thần lên mức tuyệt đối). Các tích truyện trên

chỉ phổ biến từ tỉnh Hà Tĩnh trở ra bắc, còn mạn trong này không thấy có. Điều

đáng lưu ý là các vị linh thần trong các truyền thuyết trên đều mang tâm thức biển.

Dường như mọi sức mạnh của thần được hun đúc từ biển hoặc có yếu tố biển. Sau

này ngư dân ven biển thờ vị thần cá Ông, là một thần thú chứ không phải nhân thần.

Nhưng kì lạ, sức ảnh hưởng và niềm tin vào Ông còn sâu sắc và lan rộng hơn tất cả

23

các vị thần trước đó. Có thể tìm thấy các đình, lăng, vạn thờ Ông kéo dài từ biển của

Quảng Ninh vào đến tận Cà Mau, Kiên Giang. Nếu tính tất cả thì phải trên 24 tỉnh

ven biển nước ta với hàng trăm lăng miếu thờ vị thần này. Từ cá Ông Voi, cư dân

ven biển còn thờ nhiều loài thủy tộc tạo thành một hệ thần linh biển phong phú gồm

cả nhân thần, thú thần và thủy thần. Các nhân thần ban đầu hiển linh giúp vua trong

chiến trận thì về sau trở thành thần bảo trợ người làm nghề đánh cá biển. Điều này

chứng tỏ rằng, người Việt sau một thời gian dài trọng nông, thuần nông đã bắt đầu

có sự chuyển hướng ra biển khơi, mở rộng ngành nghề. Đây là một sự đánh thức tố

chất của chủng tộc hơn là một sự manh nha học hỏi nghề đi biển từ người Chăm

trong quá trình Nam tiến của người Việt như nhiều người đã nói. Người Chăm và

Việt vốn là chủng tộc từ các đảo Nam Thái Bình Dương vượt biển để thiên di sang

Đông Dương. Họ hẳn là những người cừ khôi trong nghề đi biển, nhưng người Việt

cư trú trong vùng địa lý thuận lợi, nhân dân trồng trọt chăn nuôi cũng đủ cung cấp

lương thực nên họ không hướng biển. Sau này, trong quá trình di cư về miền Trung

đất ít lại khô cằn, một nghề nông không đủ nên nhân dân đã hướng ra biển khơi duy

trì cuộc sống lâu dài. Sự đối mặt với hiểm nguy trên biển đã thúc đẩy con người tìm

đến những vị thần giúp họ an lòng khi ra khơi. Hệ thống các vị thần phong phú

trong cộng đồng cư dân miền biển là minh chứng cho quá trình biển tiến lâu đời, từ

đó hình thành hệ văn hóa và ứng xử với biển của cư dân nơi đây. Đó cũng là lý do

vì sao tục thờ này dày đặc ở miền duyên hải miền Trung trở vào Nam.

1.3. Vai trò thực tiễn và tính thiêng của cá Ông trong tâm thức người Việt

Cá Voi cũng như những loài vật khác sinh ra có linh tính riêng của nó, nhưng

từ một loài cá bình thường trở thành thần linh thiêng thì ắt hẳn bên trong sâu xa

phải có một lý do nào đó. Bởi chỉ ở Việt Nam, loài cá Voi được tôn thành thần và

con người hết sức có ý thức bảo vệ loài này. Họ không ăn thịt, không săn bắt cá

Voi. Khi cá Voi bị mắc cạn, ngư dân huy động mọi người tìm cách đưa Ông ra biển.

Khi cá Voi mắc vào lưới, ngư dân vội cùng nhau mở lưới cho Ông đi ra. Khi Ông

lụy, ngư dân không tiếc công tiếc của mai táng cho Ông cẩn thận. Hằng năm, đến

ngày giỗ Ông, bà con ngư dân lại góp tiền bạc làm lễ cho Ông long trọng. Ông còn

sống hay Ông đã lụy cũng đều được ngư dân tôn kính. Vậy đặc tính nào, lý do nào,

vai trò nào đã góp phần linh thiêng hóa loài cá bình thường thành cá Ông?

24

Trong đời sống, cư dân ven biển rất tin tưởng vào sự phù trợ của cá Ông. Với

họ, cá Voi là một thần thú tính nết hiền lành, hay giải cứu con người khi lâm nạn

giữa biển khơi. Chúng tôi được nghe nhiều ngư dân kể lại chuyện này trong lúc đi

điền dã. Họ kể rằng khi Ông cứu người, Ông thường không cho ai biết đến sự có

mặt của mình. Với người bị nạn đang lênh đênh một mình trên sóng thì bỗng cảm

thấy như được nằm trên một tấm phản lớn, rồi từ từ họ lịm đi. Khi tỉnh dậy, người

đó đã thấy đang được nằm trên bờ cát. Họ tin rằng ở Ông có một phép thiêng khiến

họ không nhận ra sự có mặt của Ông bằng cách luôn làm cho người đó bị bất tỉnh

rồi đưa người vào. Khi gần đến bờ, chính Ông quẫy mình tạo ra cơn sóng lớn để hất

người vào bờ. Còn với những ghe thuyền gặp nạn, họ hô to lên lời cầu khấn Ông

giúp đỡ, nhiều thuyền bè đã được Ông tới áp mình đưa thuyền vào bờ an toàn. Ở

Bến Tre, chúng tôi lại nghe ngư dân nói về việc được cá Ông cứu, song họ lại tin

hơi khác với ngư dân miền Trung. Đó là không phải cá Ông đã cứu họ, mà một

phần hồn nào đó đã nhập vào cá Ông để giúp đưa họ vào bờ. Về hiện tượng cá Ông

cứu người, theo khoa học giải thích thì do Ông thở bằng phổi, Ông chỉ có thể lặn

sâu khoảng một giờ rưỡi nên bão biển khiến Ông bị ngạt, chính vì thế Ông thường

tìm đến các ghe thuyền để dựa lưng vào cho dễ thở và có hành động giống như đang

cứu các thuyền của ngư dân. Nhưng với các ngư dân, họ tin tưởng vào sự cứu giúp

của Ông. Nhờ có Ông họ mới thoát qua cơn hiểm nguy một cách thần kì. Ắt hẳn

trong thế giới này, vạn vật hữu linh và có nhiều điều tâm linh bí ẩn trong đó mà

khoa học sẽ khó lòng thâm nhập bằng con mắt thực chứng của mình. Khi đã vượt

qua cảnh ngàn cân treo sợi tóc bởi một điều vô cùng kì diệu, con người cảm thấy

Ông trở nên thiêng liêng và mang ơn nghĩa Ông. Từ đó, họ nảy sinh vấn đề tâm

linh, sùng bái Ông. Đây cũng là cách trả ơn đậm đà tính nhân văn của con người với

loài cá thiêng.

Không chỉ cứu người, cá Ông còn giúp cho ghe thuyền tôm cá đầy khoang. Ngư

dân truyền với nhau rằng, hễ thấy Ông ở đâu thì ngư dân sẽ đánh bắt được nhiều

tôm cá. Theo kinh nghiệm, khi nhìn thấy một vùng biển hóa đỏ là Ông xuất hiện,

đồng thời hàng đàn cá mòi, cá cơm, tôm… nổi đỏ dày đặc. Khi đó, các thuyền hối

hả đổ tới vùng có Ông xuất hiện và đánh bắt được rất nhiều tôm cá. Tính Ông vốn

hiền lành nên thấy người tới Ông lại đi chỗ khác nhường chỗ cho ngư dân. Thực ra

đây là đặc tính săn mồi của cá Ông. Thông thường Ông thường dồn đàn cá vào một

25

đám rồi mới ăn. Dấu hiệu quần tụ đó giúp ngư dân đánh cá thuận lợi hơn. Dù chỉ là

đặc tính của Ông, nhưng với ngư dân, điều đó mang lại cho họ sự may mắn. Vì ra

khơi đánh bắt được nhanh chóng trở về, nên họ thành kính tin rằng đó là Ông giúp

họ. Do vậy, ngư dân luôn mang trong lòng sự biết ơn Ông.

Ông sống là thế, Ông lụy cũng có nhiều điều kì lạ. Với ngư dân, cá Ông là phúc

thần nên khi Ông mất, người ta kiêng không gọi là chết mà phải gọi lụy hay đi tu.

Khi Ông sắp lụy, Ông luôn biết trước và sẽ tìm lối vào bờ trước khi bị lụy ngoài

khơi. Nếu có lỡ bị lụy khi chưa kịp vào bờ, Ông luôn nằm ngửa bụng tránh các loài

khác xâm phạm, đồng thời đi bên Ông luôn có một số loài thủy tộc khác canh giữ,

giúp đưa Ông vào bờ để ngư dân mai táng. Xác Ông khi phân hủy không có ruồi

nhặng hay bất cứ chó mèo gì dám đến gần, thịt không bao giờ thối rữa mà sinh dòi

bọ.

Lúc Ông lụy, người nào phát hiện đầu tiên sẽ làm con cả của Ông nhưng phải

là đàn ông. Nếu người đó là phụ nữ thì bãi miễn và trưởng tang phải là một người

nam trong gia đình. Trong bài khảo cứu Tín ngưỡng và ngạn ngữ dân gian vùng

thung lũng Nguồn Sơn, tỉnh Quảng Bình (1901), Cadière – một giáo sư phương Tây,

ở khá lâu vùng này đã mô tả về vai trò người con trưởng của Ông như sau: “Khi

chôn cất, cá phải được phủ liệm trọn vẹn bằng vải hoặc lụa. Người đầu tiên thấy cá

được mang tước là trưởng nam và thi hành phận sự ấy… Trưởng nam cá Voi cũng

thi hành phận sự y như trưởng nam trong gia đình có người quá cố. Ông ta bận áo

chế đại tang, đội mũ rơm, áo rộng, xổ lai, gấu áo bẻ ra ngòai, một tấm vải nhỏ kết

đằng sau, nghĩa là anh ta được xem như là người thân thuộc gần nhất của bậc thiêng

liêng vừa tạ thế. Chính anh ta là người sẽ cử hành mọi tang lễ và nhận nhiều ân lành

nhất của cá Voi”. Li kì hơn nữa, người này không chỉ để tang Ông như với cha mẹ

mình, mà lúc đưa Ông vào bờ chôn cất, nếu không có người con này thì dù có bao

nhiêu người đi nữa cũng không sao xê dịch nổi Ông, còn khi có người phát giác

Ông lụy đầu tiên cùng một số người nữa thì việc đưa Ông vào bờ rất dễ dàng. Điều

này nói ra có vẻ mê tín nhưng đây là một sự thật hoàn toàn, tất cả ngư dân trong các

vạn chài đều công nhận điều này. Và ngư dân rất mong được làm con cả Ông, bởi

tuy lúc tang chế họ rất vất vả, nhưng sau thời gian đó thì họ đều làm ăn rất khấm

khá và gặp nhiều may mắn.

26

Theo kinh nghiệm thực tế của ngư dân, hễ năm nào có Ông lụy vào bờ thì ba

năm sau đó ngư dân làm ăn được mùa. Ông vào càng lớn thì trúng mùa càng to.

Ngư dân tin rằng lấy huyết của Ông vẩy lên lưới sẽ đánh bắt được nhiều cá. Đặc

biệt, rượu rửa ngọc cốt của Ông được mọi người hứng lấy và rắc lên giàn lưới thì

khi đánh bắt sẽ được nhiều mẻ cá lớn. Với nhà có con nhỏ, người ta thường xin

xương của cá Cô hoặc cá Cậu về làm vòng đeo tay, hoặc khuyên tai sẽ trấn giúp trẻ

không bị giật mình, quấy khóc lúc đêm…

Cá Ông chưa bao giờ gây ra bất cứ điều hại nào cho ngư dân. Thậm chí Ông còn rất

đáng thương. Ngư dân ven biển tin rằng, khi Ông cứu được người thì Ông tích được

đức để đi tu sẽ hóa rồng. Còn nếu Ông cứu người không thành thì hoặc bị Long

Vương cho quân xử tội chém làm ba khúc (Đây là một hiện tượng kì lạ từng xảy ra

ở thế kỉ XIX, khi một Ông rất lớn bị phân làm ba khúc, dạt vào bờ), hoặc Ông sẽ tự

hại mình vì đã cứu người không thành. Đó là những điều mà ngư dân kể và khẳng

định tất cả điều trên đều có thực, khó lý giải bằng khoa học thực chứng, nhưng nó

vẫn ngày ngày hiện diện, khẳng định giá trị linh thiêng trong lòng các ngư dân. Cá

Ông chỉ mang đến điều lành, không gây điều ác cho ngư dân khi nào cả. Đó là một

phần lý giải vì sao đối với ngư dân, cá Ông lại có được một tình yêu mến, biết ơn,

quý trọng vô bờ.

Đó là những điều cơ bản về cá Ông trong tín ngưỡng của các ngư dân. Trong

các tài liệu thành văn và sử liệu ở nước ta cũng có ghi chép một vài điều sơ lược về

Ông. Những tài liệu này đều có nói đến tính thiện cứu giúp người của Ông. Và điều

quan trọng là tất cả tư liệu này dường như đều có dựa trên hiện thực, huyền thoại và

truyền thuyết dân gian.

Trương Quốc Dụng trong “Thối thực ký văn chép”: “Hải thu, tục gọi là cá Ông Voi,

mình dày không vây, đuôi giống đuôi tôm, kỳ nó rất sắc, mũi ở trên trán. Khi phong

ba nổi dậy, thuyền bị đắm giữa biển, cá voi xuất hiện thường đội lên lưng đưa

thuyền vào gần bờ” [38].

Trịnh Hoài Đức đã ghi lại trong “Gia Định thành thông chí” về cá Voi những

dòng như sau: “Tượng ngư (cá Voi): Đầu tròn, nơi trán có lỗ phun nước ra, miệng

mũi giống như con voi, trơn láng không có vảy, đuôi có hai chi giống như đuôi tôm,

tính từ thiện, biết cứu trợ người, nên các nhà ngư nghệ thường gọi là nhân ngư”

[38].

27

Quốc sử quán triều Nguyễn trong Đại Nam nhất thống chí chép: “Cá Voi có tục

danh là cá Ông Voi, đầu tròn, nơi trán có lỗ phun nước ra, sắc đen trơn láng, không

có vảy, đuôi có hai chĩa như đuôi tôm, có tánh từ thiện, hay giải cứu cho người khi

qua biển mắc nạn. Ðầu niên hiệu Minh Mạng, vua đặt tên là Nhân Ngư, đến đầu

niên hiệu Tự Ðức đổi lại Ðức Ngư. Loại cá này ở trong Nam Hải thì linh, còn ở

biển khác thì không linh” [38].

Một số ghi chép về cá Ông ở vùng biển Việt Nam cũng được tìm thấy trong các tài

liệu, ký sự của người Trung Hoa, như những lời dẫn lại sách Chính tự thông của Trí

nguyên, hoặc An Nam trí dự lục ký của Cao Hùng Trưng như sau: “Cá này là loại

cá rất lớn trong loại cá Hải Thu có tên gọi Hải Tù, nó phun ra hơi nước rồi tản lên

không trung gặp gió nước tản đi như mưa” [13]. Nội dung những hiểu biết về cá

Ông trong các tài liệu này khá sơ lược và cũng không khác mấy ghi chép của các

tác giả Việt Nam và thường được xếp vào mục “dị lục” (ghi lại, tìm lại những điều

lạ, những chuyện khác thường).

Sách Đại Nam Nhất Thống chí có ghi: “Cá Đao: Đao ngư, trên đầu có xương dài,

nanh sắc như dao cưa, sắc xanh không vảy, có loài đẻ con. Tục truyền khi cá Ông

Voi bơi đi, tất có đôi cá Đao đi trước để hộ vệ. Đấy cũng là việc lạ” [39].

Từ những ghi chép trên, có thể thấy một điều rằng tục thờ cá Ông trước thời vua

Gia Long chưa phải là một tục thờ lớn. Song cũng như dân gian, các ghi chép này

đều công nhận tính thiện cứu người của cá Ông trên biển và cũng dựa trên truyền

thuyết dân gian để rút ra những kết luận chung.

Xét về một góc độ khác, vai trò to lớn và tính linh thiêng của Ông được nâng

tầm từ một vị phúc thần bình thường lên hàng tôn thần cũng nhờ có sự bảo trợ từ

triều đình nhà Nguyễn. Ở đây, phải nói đến các truyền thuyết về cá Ông đã cứu giúp

vua Gia Long trong thời kì bôn tẩu. Mọi người vẫn nói rằng các truyền thuyết này

được vua Gia Long tạo ra nhằm khẳng định cho chân mạng đế vương của nhà vua –

một vị vua mà nếu không có chân mạng đó thì làm sao có thể làm vua khi các đời

chúa đều đã bị quân Tây Sơn đào phá hết mộ phần tổ tông. Song, đó là việc của lịch

sử. Còn việc cá Ông được nhận sắc phong từ các triều vua Nguyễn là có thực,

truyền thuyết đã được lưu truyền và chính những điều đó đã là một chứng cứ quan

trọng, một bức tường vững chắc để bảo trợ cho tín ngưỡng thờ cá Ông nâng lên tầm

cao linh thiêng. Vì vua là con trời, là bậc đế vương, là cha mẹ của muôn dân. Vua

28

mang trong mình những quyền năng tối thượng. Điều gì vua nói, vua ban và vua tin

thì trăm con dân cũng nghe theo. Huống hồ chi, tín ngưỡng thờ cá Ông vốn đã được

nhân dân tôn thờ, nay lại được vua tin, vua ban sắc phong thần đã khiến sự đức độ,

thần thánh của cá Ông càng thêm uy linh.

Các vua triều Nguyễn phong sắc thần cho cá Ông (Chúng tôi dựa trên bài viết của

sư thầy Thích Huệ Tánh – chủ trì chùa Phật Quang, thành phố Phan Thiết):

1. Năm Nhâm Tuất – 1802, Vua Gia Long lên ngôi phong: ĐẠI CÀN HOÀNG

TRIỀU, DỰC BẢO TRUNG HƯNG TÔN THẦN

2. Năm 1820, Vua Minh Mạng lên ngôi phong tiếp: ĐẠI CÀN HOÀNG TRIỀU

QUỐC GIA NAM HẢI DỰC BẢO TRUNG HƯNG TÔN THẦN

3. Năm Tân Sửu – 1844, Vua Thiệu Trị lên ngôi phong tiếp: ĐẠI CÀN HOÀNG

TRIỀU QUỐC GIA NAM HẢI CỰ TỘC DỰC BẢO TRUNG HƯNG TÔN

THẦN

4. Năm Đinh Mùi – 1847, Vua Tự Đức lên ngôi phong tiếp: ĐẠI CÀN HOÀNG

TRIỀU QUỐC GIA NAM HẢI CỰ TỘC NGỌC LÂN DỰC BẢO TRUNG

HƯNG TÔN THẦN

5. Năm Ất Dậu – 1885, Vua Đồng Khánh lên ngôi phong tiếp: ĐẠI CÀN HOÀNG

TRIỀU QUỐC GIA NAM HẢI CỰ TỘC NGỌC LÂN TỪ TẾ DỰC BẢO

TRUNG HƯNG TÔN THẦN

6. Năm Kỷ Sửu – 1889, Vua Thành Thái lên ngôi phong tiếp: ĐẠI CÀN HOÀNG

TRIỀU QUỐC GIA NAM HẢI CỰ TỘC NGỌC LÂN TỪ TẾ TRỢ TÍN DỰC

BẢO TRUNG HƯNG TÔN THẦN

7. Năm Đinh Mùi – 1907, Vua Duy Tân lên ngôi phong tiếp: ĐẠI CÀN HOÀNG

TRIỀU QUỐC GIA NAM HẢI CỰ TỘC NGỌC LÂN TỪ TẾ TRỢ TÍN TRỪNG

TRẠM DỰC BẢO TRUNG HƯNG TÔN THẦN

8. Năm Bính Thìn – 1916, Vua Khải Định lên ngôi phong tiếp: ĐẠI CÀN HOÀNG

TRIỀU QUỐC GIA NAM HẢI CỰ TỘC NGỌC LÂN TỪ TẾ TRỢ TÍN TRỪNG

TRẠM CHƯƠNG LINH DỰC BẢO TRUNG HƯNG TÔN THẦN

9. Năm Ất Sửu – 1925, Vua Bảo Đại lên ngôi phong tiếp: ĐẠI CÀN HOÀNG

TRIỀU QUỐC GIA NAM HẢI CỰ TỘC NGỌC LÂN TỪ TẾ TRỢ TÍN TRỪNG

TRẠM CHƯƠNG LINH THỦY TƯỚNG DỰC BẢO TRUNG HƯNG TÔN

THẦN

29

Đây là các sắc phong được các triều vua khi lên ngôi đều làm công việc ban sắc

phong thần trong cả nước. Ngoài ra, trong một triều vua còn nhiều sắc phong khác

ban cho thần cá Ông. Ví dụ, triều vua Thiệu Trị thứ 3 đã phong hàng trung đẳng

thần cho Ông Nam Hải, triều vua Tự Đức 33 cũng phong cá Ông lên hàng trung

đẳng thần.

Ở đây, không thể phủ nhận được vai trò của các truyền thuyết lịch sử hóa thời vua

Gia Long bôn tẩu gắn với cá Ông đã tạo ra trong dân gian một niềm tin xác tín trong

tín ngưỡng này. Trong lịch sử, chưa có một loài thần thú nào lại được nhận nhiều

sắc phong của triều đình như cá Ông.

Qua những điều kể trên, có thể thấy vai trò và tính thiêng của Ông chiếm lĩnh

vị trí quan trọng trong đời sống ngư dân. Chính vì những điều đó mà ngư dân đội ơn

và kính trọng tôn thờ, thành kính gọi là Ông chứ không bao giờ dám gọi tên cá

Voi… Trong dân gian, cá Ông còn được gọi là Ông Nam Hải, Ông Chuông, Ông

Sứa, Ông Lộng, Ông Khơi, Ông Sanh, Đức Ngư, Ngài… Như thế, tín ngưỡng thờ

cá Ông hoàn toàn dựa trên một cơ sở có thực trong đời sống. Sự gắn bó giữa cá Ông

với ngư dân có vẻ như rất ngẫu nhiên nhưng trong thực tế đây là một mối quan hệ

tương hỗ tích cực, nhiều lợi ích thiết thực. Từ việc giúp ngư dân đánh bắt tôm cá

đầy khoang cho đến những lúc gặp nạn ngoài khơi đều có sự che chở của loài cá

này. Sự chuyển hóa từ lợi ích sang tín ngưỡng là một logic phổ biến trong tư duy

chung của nhân loại. Nó cũng chính là cơ sở để hình thành nên hệ thống truyền

thuyết nhằm tôn vinh, ngợi ca và bày tỏ thái độ biết ơn, thành kính của nhân dân đối

với cá Ông.

1.4. Cá Ông trong thực tiễn Việt Nam và các nước

Những gì ở trên, chúng tôi đã trình bày về cơ sở tín ngưỡng thờ cá Ông của

người Việt Nam, một đất nước nhỏ nhưng có may mắn được chung sống với loài

vật to lớn và thông minh nhất thế giới. Cá Voi cứu giúp con người ở mọi nơi,

nhưng gần như chỉ riêng ở xứ sở nước ta, lòng tốt của cá Voi đã trở thành

niềm tin tâm linh trong tục thờ trang trọng và có ý nghĩa sâu sắc đến tâm thức

biển của nhân dân. Trên thế giới, rất nhiều nơi người dân không thờ cá Voi, song

họ cũng rất kính trọng và xem cá Voi như người bạn đồng hành tốt bụng trên biển.

Ở bộ tộc Haida (Mỹ) cũng có những truyền thuyết về tổ tiên của họ được cá Voi

30

đưa trên lưng vượt sóng biển trở về nhà. Nên với họ, cá Voi rất được tôn trọng. Ở

Pháp, năm 1993, một chiếc tàu đánh cá nhỏ của gia đình Colombier gồm ba người

đã may mắn sống sót qua cơn bão biển nhờ một đàn cá Heo bao quanh chiếc tàu.

Mõm của chúng đều quay về hướng Tây như hàm ý cho những người trên tàu biết

rằng đưa tàu về hướng đó thì mới có cơ may sống sót. Họ đã đi theo hướng đàn cá

chỉ và bắt gặp hòn đảo nhỏ Sainte Barte rồi neo tàu nấp cho đến khi bão tan. Để biết

ơn đàn cá Heo cứu mạng ngư dân, chính quyền thành phố Conquet đã cho xây dựng

một tượng đài hình cá Heo đặt ngay tại cảng. Người Eskimo ở vùng Alaska (Mỹ),

người dân tộc trên đảo Lembata (Indonesia), vì cuộc sống, họ đã săn bắt loài này

nhưng với một số lượng rất ít. Trước khi săn cá Voi, họ thường tổ chức lễ nghiêm

trang cầu xin cá Voi tha tội và xin sự chở che của Chúa. Và hầu như nhiều nước có

cá Voi sinh sống, con người rất có ý thức bảo vệ cho loài này nhưng không có tục

thờ như ở nước ta.

Cá Voi cứu giúp con người đã không chỉ đi vào niềm tin và lòng kính trọng của

nhân dân nhiều nơi trên thế giới, mà nó còn trở thành cảm hứng cho nhiều bộ phim

kinh điển. Có những bộ phim chỉ đưa cá Voi vào trong một phân cảnh, nhưng có

những bộ phim lấy cuộc sống của cá Voi làm nội dung chính, đưa đến người xem

nhiều sắc thái tình cảm xúc động về lối sống kì diệu của loài vật này. Điều quan

trọng là thông qua nội dung những bộ phim, chúng ta biết thêm về cái nhìn của mọi

người trên thế giới đối với cá Voi. Nhiều nơi, cách nhìn nhận của họ về cá Voi

không khác với người Việt chúng ta. Một số bộ phim tiêu biểu như: Phim Cá Voi

nổi giận của hãng Dino De Laurentiis sản xuất năm 1977. Bộ phim này lấy cảm

hứng từ một thực tế: cá Voi là người bạn thân thiện, cứu giúp con người nhưng

ngược lại, con người lại tổ chức săn bắt và giết hại chúng. Phim Giải cứu Willy do

hãng Warner Bros sản xuất năm 1993, được xây dựng từ cảm hứng thiện tính tốt

bụng của loài cá Voi: chúng rất thân thiện và tốt với con người nếu như được con

người đối tốt với chúng. Phim Phép màu do Mỹ sản xuất năm 2012, là bộ phim nói

về vấn đề mọi người hãy chung tay bảo vệ loài cá khổng lồ này… Qua những bộ

phim điện ảnh kể trên, chúng ta có thể thấy ở khắp mọi nơi trên thế giới, mọi người

đều có tâm thức nhìn nhận cá Voi là loài vật sống có tình nghĩa như con người. Các

bộ phim đã gây xúc động mạnh cho khán giả khi loài cá Voi cũng biết và hiểu tình

cảm của con người dành cho nó. Trên thế giới hiện nay, vấn đề bảo vệ cá Voi đang

31

trở nên hết sức quan trọng. Và trong công cuộc ấy, cá Voi đã làm nên những điều kì

diệu đối với cuộc sống con người. Nó là niềm tin tâm linh, là tín ngưỡng, là bài học

về lòng yêu thương và che chở cho không riêng đồng loại mà cả loài khác. Nó là

nhịp cầu để nối con người giữa các lục địa gần nhau hơn, đồng lòng hơn trong mục

tiêu bảo vệ loài thú hiền lành này. Bởi chính thiện tính rất tình cảm của cá Voi, nó

đã khiến cho trẻ em, người lớn, các tổ chức và cả chính phủ các nước đồng lòng

tham gia vào chương trình hỗ trợ và bảo vệ loài cá, người bạn đồng hành tốt nhất

của con người trên biển. Từ những điều đó, chúng ta mới thấy được tầm ý nghĩa vô

cùng quan trọng của tục thờ cúng cá Ông mà ông bà tổ tiên đã truyền cho con cháu

chúng ta ngày nay. Xét ở mức vi mô nội trong đất nước, cá Ông đã đưa đến cho

nhân dân một tập tục tốt đẹp, một ý thức sống tốt đẹp và những giá trị nhân văn tốt

đẹp. Còn trên tầm vĩ mô, tục thờ cá Voi của nhân dân ta là một hành động tích cực

cho vấn đề bảo vệ sự sống các loài trên trái đất. Không quy mô như một số nước,

nhưng ý thức, niềm tin và tục thờ cá Ông ở nước ta đã là việc làm đầy ý nghĩa nhân

văn trong sự chung sống hòa bình, thân thiện với loài cá “thần linh” này.

32

Chương 2 - HỆ THỐNG TRUYỀN THUYẾT CÁ ÔNG

Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều truyền thuyết xoay quanh vị

thần cá Ông nằm trong truyện dân gian của người Việt. Bên cạnh đó có một số ít

của người Chăm như nhiều người vẫn nói. Trong chương này, chúng tôi sẽ tập trung

hệ thống lại các truyện làm cơ sở dữ liệu cho các mô tả về sau. Tuy nhiên, ở phần

này chưa phải là toàn bộ các truyền thuyết, các truyện mà chúng tôi sưu tầm được

trong ngư dân Việt. Vì để tránh trường hợp bị lặp khi dẫn chứng nên có một số

truyện nằm trong phạm vi hẹp của từng địa phương chúng tôi sẽ nêu ra trong quá

trình phân tích vấn đề. Hơn nữa, chúng tôi không giới hạn số truyện nhất định mà

chúng tôi khảo sát, nhằm để mọi người không bị đóng khung lại trong số truyện

chúng tôi giới thuyết bởi truyện về cá Ông còn rất nhiều. Dưới đây là những truyền

thuyết chúng tôi cho là phổ biến trên phạm vi rộng.

2.1. Truyền thuyết cá Ông qua các tư liệu sưu tầm và điền dã

Như trong phần đầu chúng tôi đã nói, hiện nay chúng tôi chưa tiếp xúc được

với một bài nghiên cứu nào đề cập riêng đến truyền thuyết cá Ông. Thế nên, ở đây

chúng tôi đã tham khảo từ nhiều bài viết dưới góc độ dân tộc học, văn hóa học cùng

các bài phóng sự của báo tỉnh trên trang mạng. Rải rác trong các bài viết này có một

vài truyền thuyết cá Ông được nêu ra, hoặc được ghi chép qua lời kể của người dân.

Từ những thu nhặt đó cộng với quá trình đi điền dã thực tế, chúng tôi tổng hợp lại

các truyền thuyết mà chúng tôi cho là ít nhiều đã có chạm đến khía cạnh của văn

học nghệ thuật và đưa vào thành hệ truyền thuyết cá Ông. Còn rất nhiều truyện

ngoài dân gian nhưng vẫn còn nằm ở tính sự kiện chúng tôi cũng nêu ra vì tuy mới

chỉ lưu truyền trong địa bàn hẹp song ở nhiều nơi lại có cách kể và nội dung khá

giống nhau (các truyện sau cùng của mục này nằm ở dạng đó). Ở đây, chúng tôi liệt

kê truyện theo tiêu chí phân nhóm dựa vào không gian, xuất xứ truyền thuyết được

lưu truyền.

2.1.1. Truyền thuyết của người Chăm

1. Truyền thuyết sau đây được khá nhiều bài viết nói tới. Mọi người cho rằng

đây là truyền thuyết về thần cá Ông của người Chăm, được lưu truyền dưới tên thần

Po Riyak. Đây là một truyền thuyết về thần được ghi chép trong bài viết “Tục thờ

33

cúng cá Ông và hát múa bả trạo của cư dân ven biển – hải đảo Quảng Ngãi” của

tác giả Lê Hồng Khánh (www.nuiansongtra.com), truyền thuyết kể lại rằng:

Cá Voi vốn là hóa thân của một vị thần tên là Ja Aih Wa. Thời trẻ, Ja Aih Wa được

cha mẹ cho theo thầy học phép thuật. Sau hơn mười năm tu luyện có phép thuật cao

cường, Ja Aih Wa khát khao được trở về xứ sở. Nhưng người thầy không đồng ý vì

cho rằng học trò của mình cần thêm thời gian để tu luyện và lĩnh hội đầy đủ tinh

hoa huyền thuật. Nhớ cha mẹ, quê hương, Ja Aih Wa đã cãi lời thầy, tự ý biến thành

cá voi, theo sông lớn đi ra biển và sau đó bị thầy trừng phạt. Sau lời nguyền của

thầy, Ja Aih Wa bị các loài thủy tộc ở biển Đông hành hình phải trải qua nhiều kiếp

nạn. Sự trừng phạt đồng thời cũng là thử thách. Xác Ja Aih Wa trôi dạt vào đất liền

rồi hóa thành thiên nga bay về cố xứ. Chốn quê nhà, Ja Aih Wa đau lòng khi biết

cha mẹ đã mất nên buồn bã đi tìm một đảo hoang để sống. Từ hình hài thiên nga, Ja

Aih Wa lại hóa thành người và tiếp tục tu luyện rồi qua đời trên đảo vắng. Cảm khái

tấm lòng hiếu thảo, sẵn sàng chịu xả thân vượt qua nguy nan tìm về gia đình,

thượng đế đã hóa phép để ông thành vị thần cứu nạn trên biển. Khi thành thần, Ja

Aih Wa đổi tên và tự xưng là Pô Riyak tức thần sóng biển. Từ đó, Ja Aih Wa trở

thành ân nhân của những người bị đắm thuyền giữa biển khơi. Mỗi khi nghe tiếng

nạn nhân kêu cứu thì Ja Aih Wa liền hóa thành cá Voi, rẽ sóng đến nâng thuyền và

người vào bờ.

2. Cũng có nội dung về thần Po Riyak, nhưng đây là một truyền thuyết thần

Po Riyak được ghi trong sách cổ Chăm do P.Mus ghi lại, được đăng trong bài “Giới

thiệu tác phẩm Ariya Po Riyak” do tác giả Báo Thị Hoa đăng lại nguyên bài phân

tích của PGS. Po Dharma trong chương trình thế giới Mã Lai – Đông Dương (Tập

san Vijaya, Hội bảo tồn văn hóa Champa, USA, số 5, tháng 10, 2005, tr.131-132).

Nội dung truyền thuyết thần Po Riyak như sau:

Po Riyak tên thật là Ja Aih Wa, sinh vào ngày thứ ba, mồng 4, tháng 4, năm Tý.

Theo tác phẩm Ariya Po Riyak, ngài là người Chăm Awal (Bani), gốc làng Pacem,

Phan Rí, sang du học ngành pháp thuật ở Makah mà người Mã Lai thường gọi là

Serambi Makah, tức là tiểu vương quốc Kelantan của liên bang Mã Lai. Khi nghe

tin quê hương ngài lâm vào cảnh loạn lạc vì bị người Jek (Người Việt) chiếm đóng,

ngài quyết định từ bỏ nhà trường để quay về cứu dân cứu nước. Sư phụ của ngài

khuyên là chưa nên quay về, vì thiên thần chưa cho phép. Nếu không, ngài sẽ gặp

34

nhiều điều không lành, có thể nguy hại đến tánh mạng. Ngài nhất quyết không nghe.

Nửa đêm, ngài quay xuống thuyền làm lễ tạ tội, rồi nhổ neo trở về Panduranga

(Ninh Thuận). Khi thuyền ngài đến gần Hải phận Champa, trời nổi mây mưa bão tố

và cá thần mang tên là Inâ Patrang hay Inâ Katrang đánh vỡ thuyền ngài. Bị chìm

đắm vào lòng đại dương, ngài được cá “Ông” (ikan limân) đưa về bờ đất liền ở

Gram Pari, Phan Rí. Người Chăm và cả người Việt thấy vậy liền lập đền thờ phụng

ngài ở đây.

3. Một truyền thuyết khác cũng giống như truyền thuyết số 2, nhưng phần

sau có sự khác biệt. Truyền thuyết này cũng được giới thiệu chung với truyền thuyết

trên trong tác phẩm “Giới thiệu tác phẩm Ariya Po Riyak” của tác giả Báo Thị Hoa.

Nội dung phần khác biệt đó như sau : Các bài phúng điếu Po Riyak do Ong Kadhar

xướng ca trong các lễ tục (Katé, Puis, Payak v.v.) và Ong Maduen hát trong lễ múa

Rija thì cho rằng khi thuyền ngài bị đắm, ngài ngồi trên lưng cá “Ông” trở về bờ đất

liền. Nhưng ngài từ chối ghé vào Pajai, Phan Rí ngay cả bờ Cà Ná nơi mà người

Chăm tìm cách đâm chém và liệng đá vào cá Ông chở ngài lên bờ: “Po mai di brok

dayep, dak gep ra klep, lac Po Ikan, Po mai di krâh melam, dak gep ra glam, lac

Po Ikan” (CAM 248a, tr. 247). Chính vì thế, ngài phải dừng chân ở Craok Dil, tức

là Sơn Hải, phía bắc Cà Ná (huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận), nơi mà người

Chăm và Việt lập đền thờ ngài và phúng điếu hàng năm. Trong phần sau truyền

thuyết Ariya Po Riyak còn có đoạn, Po Riyak hóa thân để cưới thêm bà vợ Kaho

gốc dân tộc miền núi, sinh ra hai đứa con gái. Po Riyak cũng hóa thân bay tận thế

giới thần linh để viếng thăm Po Klaong Garai và hóa thân vào trái lựu của thân mẫu

Po Klaong Garai để được sang viếng thăm nước Siam (Thái Lan).

4. Cũng nằm trong bài “Giới thiệu tác phẩm Ariya Po Riyak” như trên,

nhưng phần phụ lục có dẫn một bản xướng ca ghi trong sách cổ Chăm của Viện

Viễn Đông Pháp mang ký hiệu CAM 244, truyền thuyết về thần Sóng Cả của người

Chăm được giới thiệu chung ghi lại rằng : “Po Riyak người làng Pacem, là một

người thông minh và đức độ (câu 1-2), lại rất ham học. Khi ở trong nước, ông đã

gác bỏ chuyện gia đình (o patih gruk sang, câu 3) để theo thầy tìm học. Ông học rất

nhiều thầy, và nghe ở đâu có thầy hay, thầy giỏi là ông tìm đến đó để học. Sau cùng

thì ông quyết định sang Makah (Kelantan, Malai) để du học. Mục tiêu của ông là để

sau này cứu dân giúp nước (câu 4). Thầy thấy ông là một người thông minh, học

35

giỏi, nên truyền đạt cho ông tất cả các môn học (khoa học tự nhiên, triết lý, thuật trị

nước...), cũng như các pháp thuật (câu 8). Khi nghe tin trong nước loạn lạc,

quân Jek (Ðại Việt) tấn công Champa, lòng ông như sôi sục, ông muốn quay về để

cứu dân cứu nước. Thầy ông khuyên ông là chưa nên quay về. Ông không nghe,

nửa đêm quay xuống thuyền làm lễ tạ lỗi rồi nhổ neo về nước. Sáng dậy, thầy

không thấy ông, biết là ông đã trốn đi và nghĩ rằng ông vô lễ vì đã không nghe theo

lời mình nên có lời nguyền: “Nếu đi trên nước cá đớp, nếu đi trên rừng rắn cắn, cọp

vồ” (câu 27).

Không ngờ, lời nguyền của thầy ông trở thành linh ứng. Khi thuyền ông gần tới Hải

phận Champa, trời đang sáng bỗng tối sầm lại, trời nổi mây mưa rồi làm bão tố, rồi

loài thủy quái ina patrang và iya katrang bao vây và tấn công đánh vỡ thuyền ông

ra làm hai. Ông ngụp lặn trên biển cả mấy ngày đêm, một con cá “Ông” bơi lại đưa

ông về bờ Phan Rí. Người Chăm và cả người Việt thấy vậy đều thuần phục, tôn

vinh ngài là Po Riyak “Thần Sóng”, rồi lập đền thờ. Cũng kể từ đấy, dân vùng biển,

cả Chăm lẫn Việt (nhất là những ngư dân) có lễ tục thờ Po Riyak tức là thờ “Thần

Cá Ông”. Vì họ cho ông là hiện thân của loài cá này và chúa tể của biển cả.

Trong bài “Giao lưu văn hóa Việt – Chăm nhìn từ tục thờ cá Ông” của tác

giả Nguyễn Thanh Lợi (tạp chí Văn hóa dân gian số 2, 2003) tác giả đã dẫn ra hai

truyền thuyết về cá voi của người Chăm từ hai nguồn tư liệu viết bằng tiếng Pháp:

5. Một truyền thuyết do tác giả Thái Văn Kiểm ghi chép (Le culte de

baleaine, BSEI, N.S, Tome XLVII, N2,2e Trimestre, 1972, p.316, bản dịch Đỗ Lai

Thúy). Nội dung truyền thuyết kể rằng: “Từ thuở xa xưa người Chăm tôn xưng cá

Voi là vua sóng cả… Từ thuở xa xưa, người Chăm tôn thờ tất cả những gì có vẻ kì

lạ trong mắt họ. Chính khúc gỗ có hình dáng con đại bàng mà những người Bồ Đào

Nha đầu tiên tới trả bằng giá vàng là đối tượng của một truyền thuyết giải thích

nguồn gốc nhà trời của dân Chăm, nghĩa là người Chăm là con cháu của một cuộc

kết duyên của chim Ưng gỗ (tiếng Chăm là Patangahlau) và vua Sóng cả tức là cá

Voi. Bởi vậy, cá Voi luôn luôn bảo hộ những người đi biển bị đắm tàu và cứu giúp

họ”.

6. Một truyền thuyết do Antone Cabaton (Nouvelles recherches sur le Cham,

BEFEO, 1901, p.117 – 118) dẫn lại trong các bài tụng ca của dân tộc Chăm có

truyền lại một truyền thuyết sau: Ba người con trai của vua Đại Bàng Rừng Xanh

36

(có nơi ghi là con vua Kì Nam) và vua Cá Voi đã liên minh với nhau để cùng cai

quản lãnh thổ của họ. Khi vua cá Voi di chuyển, tất cả các loài cá theo hộ vệ.

Không may cho những ai ném đá hoặc đánh bắt. Vua cá Voi nổi lên mặt nước như

một cái phao… Khi các cơn bão hoành hành, vua cá Voi tìm đến những cửa sông…

Đó là những truyền thuyết của người Chăm mà chúng tôi sưu tầm được. Nói

chung, vì người Chăm đã không còn hoạt động về nghề đánh bắt cá như tổ tiên của

họ nên hệ truyền thuyết liên quan đến cá Ông cũng mai một, không còn nhiều người

nhớ. Hầu như các truyền thuyết này được lưu truyền trên văn bản, và trong một

phần nghi lễ thờ thần Po Riyak của lễ hội nông nghiệp, còn trong đời sống dân gian

thì cũng ít người biết tới.

2.1.2. Truyền thuyết của người Việt

2.1.2.1. Các truyền thuyết và cổ tích về cá Ông

7. Một truyền thuyết cá Ông (cá Heo) được bác Giang Văn Thuyên (60 tuổi,

Trưởng ban quản lý di tích đền Đỏ) và bác Phạm Khắc Ngự (70 tuổi, Thủ từ đền

Đỏ) ở thôn Sơn Thọ 2, xã Thái Thượng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình kể cho

chúng tôi nghe như sau: Ngư thần vốn là con của vua Thủy tề được lệnh canh giữ

kho có chứa một vật báu. Nhưng vì sơ xuất mà con trai vua Thủy tề làm vật báu bị

thất lạc nên bị phạt phải hóa thành cá Heo và phải đi tìm cho được vật báu ấy.

Trong thời gian đi tìm thì Ngài phải có nhiệm vụ cứu nạn, giúp đỡ con người để tích

đức, đồng thời phải tìm cho ra vật báu đó thì mới được hóa thành rồng. Thế nên

ngày nay, mỗi khi cá Heo nhảy và bơi lội ngoài biển, mọi người truyền rằng đó là

con vua Thủy tề đang đi tìm vật báu để được hóa rồng.

8. Truyền thuyết phổ biến nhất về cá Ông là truyền thuyết gắn cá Ông với

Đức Phật. Truyền thuyết này khá phổ biến ở khu vực miền Trung và được tác giả

Toan Ánh giới thiệu trong tác phẩm Hội hè đình đám (Nxb Trẻ, 2005). Ở đây,

chúng tôi giới thiệu truyền thuyết này qua lời kể của sư thầy Huệ Tánh, chủ trì chùa

Phật Quang, thành phố Phan Thiết, Bình Thuận vào lần đi điền dã tháng 4/2012.

Nội dung truyền thuyết kể rằng : Cá Voi vốn là tiền thân của Phật bà Quan Âm.

Phật bà trong một lần hóa thân thành cá Ông đi tuần du biển Nam Hải, nhìn lướt

trong sóng gió đại dương, Phật bà đã không khỏi đau lòng khi thấy các sinh linh

phải bỏ mình vì gặp phải phong ba bão táp, mà những nạn nhân này chỉ là những

ngư dân hiền lành, nhỏ bé trong cơn mưu sinh lấy nghề đánh cá nuôi thân.

37

Trước cảnh tượng đau lòng đó, Phật bà đã cởi chiếc áo pháp y, xé thành nhiều mảnh

nhỏ ném vung xuống biển mênh mông. Mỗi mảnh vụn theo ý nguyện của Phật biến

thành một con cá Voi với trách nhiệm cứu nguy những ngư dân lâm nạn trước bão

tố của Nam Hải đại dương. Kể từ đó, cá Voi trở thành ân ngư của những người dân

chài trên biển.

Nhưng lúc đó hình vóc cá Voi nhỏ bé không đủ sức chống chọi với sóng ba đào nơi

biển khơi để cứu giúp thuyền bè nặng nề. Phật bà lặn lội lên núi Linh Thứu, rừng

Thiên Trúc mượn những bộ xương ông Tượng đem về cho cá Voi. Nhờ thế cá Voi

mới trở nên to lớn và đủ sức vẫy vùng giúp người gặp nạn trên biển. Danh xưng cá

Voi cũng có từ ngày đó. Người ta cũng nói rằng bộ xương cá Voi và bộ xương của

loài voi trên rừng rất giống nhau.

Với thân hình to lớn và khỏe mạnh, cá Voi mặc sức vẫy vùng và chống chọi với

sóng gió to gió lớn, kèm giữ cho thuyền bè được thăng bằng, không bị chìm đắm

hay bị sóng đánh vỡ trong bão tố, lại dìu được ghe thuyền vào đến tận bờ. Nhưng

cũng vì to lớn quá nên cá Voi rất chậm chạp, nhiều khi biết có người gặp nạn nhưng

không kịp bơi tới hoàn thành nhiệm vụ. Phật bà liền ban cho cá Voi phép thâu

đường, có thể đến với người bị nạn nhanh chóng, dù ở bất cứ nơi đâu cũng có thể

đến kịp thời. Phật bà còn ban cho cá Voi ống thông đạo trên đỉnh đầu, ống này có

hai nhiệm vụ: một là phun vòi nước tịnh thủy báo cho ngư dân biết có bão bùng mà

nấp, hai là phun ống khói bạch vân để báo hiệu sự oai vang linh ứng của mình. Phật

bà còn dạy cho ngư dân 12 câu nguyện gọi là thập nhị đại nguyện (có chi tiết khác

kể rằng Phật bà dạy 108 câu nguyện, tương ứng với 108 hạt trên tràng hạt của các

sư thầy ; số 12 trong 12 câu nguyện có lẽ để tương đương với 12 cái tên của áo cà sa

đã hóa thành cá Voi) để mỗi khi có nạn thì khấn cá Voi đến cứu.

9. Một truyền thuyết khác được tác giả Nguyễn Thanh Lợi giới thiệu trong

bài Tục thờ cá Ông ở ven biển Nam Trung Bộ (Tạp chí văn hóa dân gian, số 4/2006)

kể về cá Ông ở thôn Quảng Hội (xã Vạn Thắng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa),

truyền thuyết liên quan đến Ông Nam Hải và một vị nhân thần là Quan Công: Một

con phượng hoàng đẻ ra hai trứng, một trứng rớt xuống biển Đông hoá thành ông

Nam Hải (cá Voi) và trứng kia rơi trên đất liền, được một vị hoà thượng ấp trong

đại hồng chung, sau 100 ngày nở ra Quan Thánh, vị này sau đó bị dẹp sau ót do

chui ra từ trong chuông.

38

10. Một truyền thuyết về cá Ông chúng tôi ghi chép được qua lời kể của ngư

dân Nguyễn Văn Lụm (xã Lạc Tân 2, huyện Cà Ná, tỉnh Ninh Thuận ). Truyện kể

rằng: cá Ông thuở xa xưa vốn là một vị tướng có chức tước lớn trong thiên đình, với

chức vị đó Ông được ban cho chiếc áo rất đẹp. Một ngày, Ông đi hút con ruốc để ăn

thì hút phải đứa bé đang tắm biển gần đó. Vì tội làm chết con người nên Ông bị

thiên đình trị tội, tước bỏ chiếc áo và chức tướng, rồi lệnh cho Ông phải có nhiệm

vụ cứu người chuộc tội. Thế nên, từ khi mất chiếc áo cá Ông chỉ còn bộ đồ màu đen

và phải túc trực ngoài biển cứu người chuộc tội khi xưa.

11. Một truyền thuyết mà chúng tôi thấy trong nhiều bài phóng sự có đề cập.

Ở đây, chúng tôi ghi chép lại theo lời kể của bác Lê Văn Hời, trưởng ban nghi lễ

dinh Ông Nam Hải, xã Phước Hải, huyện Long Điền, tỉnh Vũng Tàu trong lần đi

điền dã vào tháng 4/2012. Truyền thuyết kể rằng: cá Ông vốn là vị tướng quân được

Long Vương ra lệnh phải bảo vệ và giúp đỡ thuyền bè qua lại. Những vị tướng này

nếu không hoàn thành nhiệm vụ, khiến cho tàu đắm hoặc người chết sẽ bị trừng

phạt chém thành ba khúc, hoặc sẽ phải chết theo người mà cá Ông cứu không thành.

12. Trong bài “Tín ngưỡng thờ cá Ông ở Bến Tre” của Dương Hoàng Lộc

(www.bentre.gov.vn), trong bài viết tác giả đã ghi chép lại một truyền thuyết được

người dân tại xã An Thủy, huyện Ba Tri, Bến Tre kể lại nội dung như sau: Cá Voi

vốn là một vị thần trên thiên đình được Ngọc Hoàng sai xuống hạ giới, hóa thành cá

Voi ở từng cửa biển làm nhiệm vụ cứu giúp các thuyền ngư dân gặp nạn trên. Nếu

cá cứu được càng nhiều người sẽ tích được nhiều công đức cho đến khi thiên đình

mở hội khoa thi, công đức nhiều thì cá Ông sẽ vượt được vũ môn hóa thành rồng

bay về trời. Ngược lại, nếu cá còn ít công đức sẽ quay trở lại chốn cũ tiếp tục sứ

mệnh cho đầy đủ. Khi người dân gặp nạn mà cá Ông không cứu sẽ bị cá Đao phanh

thây, trừng phạt. Truyện này được nhân dân sáng tác có lẽ dựa trên một thực tế rằng

mỗi khi cá Ông đi đâu thường có cặp cá Đao, cặp Tôm càng và cặp Mực đi cùng.

13. Trong “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đổng Chi

(Nxb Giáo Dục Hà Nội, năm 2000, truyện số 178), có kể về “Sự tích bãi Ông Nam”,

cốt truyện như sau: Cá Voi là hóa thân từ chiếc áo cà sa của Phật bà. Để cho cá Voi

có thể làm nhiệm vụ cứu người được tốt, Phật bà đã ban cho cá Voi thân hình đồ sộ,

khả năng nhanh chóng đến với người cứu nạn và đặc biệt là một số quân đi theo hầu

hạ và nhắc nhở cá Voi không được lơ là với phận sự của mình. Quân hầu đó gồm có

39

cá Mực để chỉ đường vạch lối cho cá Voi đi được nhanh, cá Đao luôn cầm ngọn đao

bảo vệ tả hữu cá Voi. Vì cá Voi sống ở biển Nam nên từ đó họ gọi cá Voi là Ông

Nam hoặc cá Ông. Cá Ông trấn thủ ở vàm Ông Đốc và rất tận tụy với nhiệm vụ của

mình. Một ngày, cá Ông bỗng muốn đi ngao du một chuyến để ngắm nhìn phong

cảnh. Được sự chấp thuận của cá Mực và cá Đao, thế là bộ ba cùng nhau lên đường.

Nhưng một đêm nọ, khi cả ba đang đi thì sóng gió bất thường nổi lên, cả ba vội

vàng kéo nhau về. Vì có phép thần, cá Ông biết tin ở vàm sông Ông Đốc có một

thuyền đang gặp nạn. Nếu đi theo đường biển thì sẽ không kịp về cứu nạn, cá Ông

cùng quân hầu liền đi tắt theo vàm sông Bồ Đề để về cho kịp. Cá Ông hồi này đang

có mang, vì lối sông này cạn, thân hình Ông lại lớn, gió bão nổi lên mỗi lúc một

mạnh nên cái thai bị sảo ra và chết. Tuy đau lòng nhưng cá Ông vẫn cố bơi về cứu

được chiếc thuyền sắp chìm trong lòng biển và thêm năm chiếc khác. Từ đó, dân

chài vàm sông Bồ Đề lập miếu thờ đứa con bị sảo ra của Ông khi đi làm nhiệm vụ.

Miếu ấy người ta gọi là miếu Ông Nam, còn bãi nơi Ông vượt qua cũng có tên gọi

bãi Ông Nam từ đó.

14. Một truyền thuyết khác không nằm trong hệ thống truyền thuyết trên,

nhưng được ngư dân vùng Bình Thuận lưu truyền với nhau rằng: “Một người con

trai của vua ở tận bên Úc đi chơi tắm biển gặp nạn. Khi tình thế hết sức nguy hiểm

thì từ đâu có một con cá Voi đến đưa người con đó vào bờ. Từ đó, vị vua hết sức

cảm tạ cá Voi và tôn loài cá này thần thánh, ban bố lệnh cho khắp nơi không được

săn bắt hay giết thịt. Từ đó, nhân dân các nơi tôn thờ Ông thành thần bảo trợ cho

người đi biển” [62].

2.1.2.2. Truyền thuyết lịch sử hóa cá Ông thời kì bôn tẩu của vua Gia

Long

Các truyền thuyết về cá Ông ngoài những truyện gắn với đời sống dân gian,

còn có một bộ phận truyền thuyết cá Ông gắn với thời kì bôn tẩu mà dân gian cho là

có thật vào thời vua Gia Long phải thoát thân khỏi sự truy đuổi của quân Tây Sơn.

Các truyền thuyết này đều nói đến việc nhà vua và quan quân được cá Ông cứu giúp

khi đoàn binh trong tình trạng nguy cấp. Trong bài viết Tín ngưỡng thờ cá Voi ở Cà

Mau của tác giả Phạm Văn Tú, đăng tải trên tạp chí Văn hóa dân gian (số

3/2007,tr.48) có ghi chép hai truyền thuyết về cá Ông cứu vua như sau:

40

15. Vùng biển Kì Hòa và Cửa Sót (Hà Tĩnh): “Khi Nguyễn Ánh bị Nguyễn

Huệ đánh chiếm Gia Định lần thứ ba, phải bỏ chạy ra biển để sang Xiêm. Thuyền ra

đến ngoài khơi thì hết nước ngọt. Trước tình trạng nguy khốn đó, bỗng xuất hiện

một con cá Voi dâng đến cho dòng nước ngọt, cứu quan quân khỏi chết khát. Sau đó

trên đường đi, đoàn thuyền lại gặp bão lớn. Một lần nữa cá Voi lại hiện lên cứu, đưa

thuyền lánh vào đảo Côn Sơn (nay thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Vì vậy sau khi

lên ngôi, nhớ ơn cứu mạng, vua Gia Long phong sắc cho cá voi là Nam Hải Ngọc

Lân.

16. Vùng biển Quảng Nam- Đà Nẵng: vua Gia Long trên đường chạy trốn

quân Tây Sơn, khi đến cù lao Chàm thì bị quân Tây Sơn đuổi sát nút. Trong lúc

nguy cấp, vua cầu trời khấn phật, bỗng đâu một con cá Voi khổng lồ hiện ra nổi lên

từ mặt nước xông đến phía quan quân Tây Sơn quẫy mình gây sóng gió làm đắm

một số thuyền của quân Tây Sơn. Khi lên ngôi, Gia Long phong tặng cá Voi danh

hiệu “Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân”.

17. Trong bài Vàm Láng - Lễ hội Nghinh Ông, đăng tải trên trang

www.gocong.com (10/2007) có ghi chép tích cá Ông cứu vua ở Gò Công như sau:

Chúa Nguyễn Ánh trong cuộc chiến với quân Tây Sơn nhiều phen thất bại phải bôn

tẩu ra đảo Côn Lôn, Phú Quốc, mấy phen cầu viện Xiêm La. Đến một ngày vào

khoảng tháng giêng, sau khi tụ tập được các chiến thuyền và quân lính, bèn kéo

quân tới vây hãm thành Bình Thuận. Lúc đầu chúa Nguyễn thắng thế, nhưng sau đó

quân Tây Sơn được binh cứu viện nên chúa Nguyễn phải mở đường máu để tránh

họa diệt vong. Sau trận tử chiến, Nguyễn Ánh kéo tàn quân chạy về phương Nam,

quân Tây Sơn đuổi theo sau rất gấp. Khi thuyền vua và quân sĩ nhà Nguyễn đến cửa

sông Soài Rạp (con sông lớn phân ranh giữa tỉnh Gò Công với Gia Định, nay là

huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang), bão tố bỗng nổi lên dữ dội. Chúa Nguyễn

nhìn trời khấn nguyện “Nếu trời còn tựa nhà Nguyễn thì xin phù hộ Nguyễn Ánh

này qua cơn thập tử nhất sinh”. Thuyền của chúa Nguyễn đang trong thế nguy cấp

bỗng được cặp cá Ông nổi lên, kẹp vào hai bên mạn thuyền dìu đỡ thuyền vào bờ

bình an. Thuyền của quân Tây Sơn bị bão tố chặn đường nên không đuổi theo được

nữa. Nơi thuyền chúa Nguyễn được cá Ông đưa vào bờ thuộc địa phận làng Vàm

Láng, huyện Kiểng Phước của tỉnh Gò Công cũ. Do vậy, sau khi vừa lên ngôi vua

Gia Long đã sắc phong cho loài thủy tộc này tước Nam Hải Đại tướng quân và chỉ

41

thị cho ba làng gần nơi ông được giải cứu trước kia là xã Kiểng Phước, Gò Công,

Tiền Giang; xã Cần Giờ tỉnh Gia Định và Vũng Luông tỉnh Vĩnh Long phải lập lăng

thờ Nam Hải Đại tướng quân để cúng bái.

18. Ở Cầu Ngang, Trà Vinh: Tương truyền trong một lần bị tướng Tây Sơn

truy đuổi ráo riết, chúa Nguyễn Ánh lâm vào thế đường cùng, phía trước là cửa biển

mênh mông, phía sau là vó ngựa gần thêm. Tính mạng chỉ còn như chỉ mành treo

chuông. Gia Long khấn trời thì bỗng đâu Cá Ông nổi lên, vọi ba vòi nước lên trời tỏ

lòng qui phục. Chúa mừng rỡ cùng đám tàn quân vừa yên vị trên lưng thì Cá ông đã

rẽ sóng vượt cửa biển sang cù lao Cổ Chiên trước khi quân Tây Sơn đuổi kịp. Đặt

chân lên đất cù lao, khi chúa vừa thu quân rúc vào rừng rậm thì không biết từ đâu

hàng đàn rái cá rùng rùng xuất hiện, lăn mình xóa dấu quân đi. Tại dãy đất cù lao,

chúa Nguyễn Ánh lập đàn tế và phong cho cá Voi là Nam Hải Tướng quân và tộc

loài Rái cá là Lang Lại Tướng quân”.

19. Đây là truyền thuyết chúng tôi ghi chép được theo lời kể của sư thầy Huệ

Tánh ở chùa Phật Quang, trong chuyến đi công tác ở Cà Mau thầy đã ghi chép lại từ

lời kể của người dân sống gần Hòn Đá Chúa (Tỉnh Cà Mau). Truyện này cũng có

nội dung gần với truyện kể trên: Khi chúa Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đuổi theo

ráo riết, cùng đường, chúa Nguyễn Ánh và quan quân xuống thuyền vượt biển ra

đảo Phú Quốc. Chừng được mười hải lý thì trời nổi sóng gió bão bùng gây nguy cấp

đến tính mạng. Chúa Nguyễn Ánh liền thắp hương vái trời nếu đã cho Ngài có

mệnh đế vương thì xin hãy giúp Ngài vượt qua cơn nguy này. Sau lời khấn, bỗng từ

đâu hiện ra đàn cá Voi ào tới, cặp vào mạn từng chiếc thuyền mà đưa vua và quan

quân vào tới bờ vô sự. Lúc quan quân lên bờ bình an thì một đàn rái cá hiện ra xóa

dấu chân để quân Tây Sơn không phát hiện ra được. Thoát khỏi nạn Tây Sơn, vua

quan hội tề và dựng trong vùng một hòn đá để kỷ niệm. Hòn đá cao chừng 5m và có

khắc 3 chữ Nôm: Hòn Đá Chúa. Nay hòn đá ấy vẫn còn ở Minh Hải, Cà Mau.

20. Trong bài Những điều kì thú về cá Voi ở Bình Thuận của tác giả Trần

Thương (tạp chí Du lịch Việt Nam, năm 2000) có ghi chép một truyện tương tự:

Một truyền thuyết khác ở Bình Thuận kể rằng, vua Gia Long trong một lần ngự

thuyền rồng ở Huế, chẳng may thuyền gặp phong ba, trôi dạt vào đến tận Bình

Thuận. Vua được cá Ông cứu, đưa thuyền vào bờ, nhưng cá thì kiệt sức mà chết.

21. Một truyền thuyết cũng liên quan đến quãng đời bôn tẩu của vua Gia

42

Long được bác Tư – thủ từ dinh Ông Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, Bà Rịa Vũng

Tàu kể lại với chúng tôi như sau: Khi vua Nguyễn Ánh bôn tẩu tránh sự truy đuổi

của quân Tây Sơn thì trên thuyền bị hết nước ngọt. Vua quan dừng lại ở biển Hưng

Lương, Nhơn Lý (Bình Định). Vua Nguyễn Ánh đã khấn xin sự phù trợ của trời đất

giúp cho vua quan và quân sĩ qua cơn hoạn nạn. Vua khấn xong, khi mọi người đào

xuống cát ngay sát biển, đợi nước lắng trong thì đó lại là nước ngọt. Hiện nay biển

đó vẫn còn với tên gọi là giếng Be hoặc giếng Bẹn. Sau đó, quan quân lênh đênh

trên biển khơi và bị hết lương thực. Vua Nguyễn Ánh lại khấn xin sự trợ giúp thì

bỗng từ đâu xuất hiện đàn cá Voi. Đàn cá xua lại không biết bao nhiêu là cá cơm

cho quân sĩ chỉ việc xúc lên đầy khoang thuyền. Sau đó, đàn cá Voi cứ theo thuyền

vua xua cá cơm theo giúp quan quân đến tận đảo Phú Quốc mới thôi. Cho nên hiện

nay Phú Quốc được xem là rốn cá cơm của cả nước. Không có nơi đâu nhiều cá

cơm và nước mắm cá cơm ngon bằng ở nơi đó.

Trong dòng chảy của tín ngưỡng này, cùng tồn tại ở vùng Nam Đảo (châu Á), Nhật

Bản cũng có huyền thoại về các thần dạt vào từ biển. Đã có một truyền thuyết về

con cá Voi thần kì, chở đến cho người miền núi phía Nam Việt Nam một hài nhi

cứu thế, giải phóng loài người khỏi bị đau khổ. Trong khi đó ở Campuchia lại

không tìm thấy dấu vết gì về sự thờ cúng này.

2.1.2.3. Một số truyện cá Ông cứu người gần đây

Ngoài những truyền thuyết được lưu truyền có văn bản, chúng tôi cũng tiếp

cận với khá nhiều câu chuyện mang ý nghĩa thực tiễn và được phổ biến theo hình

thức truyền miệng. Đó là những câu chuyện do các ngư dân kể lại sau khi họ được

cá ông cứu sống khi gặp nạn ở giữa trùng khơi. Một số truyện kể về công đức Cá

Voi tiêu biểu như sau:

22. Đây là một truyện có thật được tác giả Phạm Văn Tú, đăng tải trên tạp

chí Văn hóa dân gian (số 3/2007,tr.48). Nội dung như sau:

Năm 1966, ông Nguyễn Văn Ngàn (tự Tư Ngàn) ở khu vực II thị trấn sông Ông

Đốc có con là ngư phủ đi làm thuê cho tàu ông Út Bí. Khi con ông Tư Ngàn ra khơi,

hôm đó biển động dữ dội, giông tố rất lớn trong lúc đang phụ lưới thì bị gió giật té

xuống biển mất dạng. Tàu vào bờ báo cho ông Tư Ngàn và gia đình tổ chức tang sự.

Trong khi đó con ông (anh Nguyễn Văn Hùng) trôi tới Đá Bạc (cách đó khoảng

20km) thì được ghe lưới Kiên Giang với lên. Thời gian từ khi rớt xuống biển cho

43

đến khi được vớt lên là một ngày một đêm. Khi kể về thời gian này, anh cho biết lúc

đã gần kiệt sức, anh khấn vái xin cá Ông cứu mạng và sẽ cạo đầu, ăn chay trường

thờ cá Ông. Sau đó anh cảm thấy phía dưới lưng được đỡ lên và có cảm giác như

nằm trên tấm phản gỗ, trôi nổi một ngày một đêm cho đến khi được vớt lên.

Hiện nay, ở khu di tích thờ cá Ông ở Đá Bạc, trên tấm vách bên ngoài tường

của điện thờ , người ta thấy còn lời tường thuật được ghi bằng chữ sơn màu đỏ của

ngư dân Nguyễn Văn Hùng thoát nạn nhờ sự cứu giúp của cá voi như sau:

Vào ngày 29 tháng 04 năm 1966 âm lịch, tôi đang đi trên ghe cào ngoài khơi Hòn

Chuối, ghe bị phá nước lại gặp trận giông to phủ vào ghe chỉ còn lá be nữa là chìm.

Tôi định năm anh em phải chết, tôi đã vái Ông: Sống được về nhà tôi xin cạo đầu.

Lúc đang tát nước, thấy ghe thật nhẹ nhàng còn sóng thì êm, đúng bốn tiếng đồng

hồ vào tới làn nước đục vùng nước cạn gần bờ. Ngang mũi Hòn Đá Bạc, tôi nghe

ghe chuyển một cái, nhìn thấy một khối da đen láng cách ghe 10m. Tôi tránh qua thì

ghe chìm xuống, sóng đưa tôi vào mũi Hòn. Lúc này tôi mới biết Ông độ. Tới hòn

tôi thấy khối đó là đầu Ông ngang khoảng 3m, không thấy chiều dài, sóng dập tàu

vào đá giật tới bảy lần, năm anh em lên được bờ đá, lúc đó ghe chìm.

23. Trên báo Dân Trí ngày 15/05/2010 có đăng một bài viết đáng chú ý của

phóng viên Công Bính ghi chép lại chuyện cá Ông cứu người. Nội dung bài viết kể

lại rằng: Một câu chuyện cho tới nay vẫn không ai dám khẳng định đúng sai, song

luôn được người dân xã Tam Tiến, huyện Núi Thành (Quảng Nam) truyền tai nhau

như một truyền thuyết. Đó là câu chuyện của ông Đặng Châu, người suốt 50 năm

nay vẫn thờ phụng bộ xương cá Ông tại nhà riêng và tin rằng nhờ đó mà ông đã hai

lần được cá Ông cứu sống khi gặp nạn giữa trùng khơi. Ông Châu kể, 50 năm trước,

vào một ngày biển lặng trời xanh, thuyền ông dừng lại ở khu vực biển Kỳ Hà (Núi

Thành) để câu và bất ngờ câu được con cá nhám trên 200 kg. Sau hơn 2 tiếng đồng

hồ vật lộn, mọi người mới đưa được con cá lên thuyền. Khi bỏ cá xuống khoang thì

bất ngờ nó quẫy mạnh và ói ra một bộ xương còn nguyên vẹn. Thấy lạ mọi người

định ném bộ xương về biển nhưng ông Châu nhất quyết không cho và cho rằng đó

là xương cá Ông, nên đem về nhà riêng thờ cúng và bảo quản từ đó cho đến bây

giờ.

Ông Châu kể tiếp: “Từ hồi đó, thuyền tôi làm ăn khấm khá hẳn lên, đời sống gia

đình cũng ổn định. Đặc biệt, nhờ cá Ông mà tôi đã thoát nạn hai lần”.

44

Lần thứ nhất là cách đây khoảng 20 năm. Khi đó, thuyền ông đánh cá ở bờ

biển Chu Lai (Núi Thành), lúc đó trời tối chưa câu được gì, ông cho bạn thả neo ở

độ sâu khoảng 27 sải tay, đêm về khuya trời đột nhiên trở gió chướng, con thuyền

chòng chành trên mặt biển. Bỗng nhiên có hai con cá Ông lớn lặng lẽ tựa hai bên

mạn thuyền dìu thuyền ông vào bờ để tránh gió. Lúc thuyền vào bờ an toàn, trời

cũng vừa hửng sáng. Lần thứ 2 là sau đó 5 năm, khi thuyền ông đánh cá đến 10 giờ

đêm thì đầy khoang nên quyết định quay vào bờ sớm hơn thường lệ. Con thuyền

đang nhằm bờ thẳng tiến thì bất ngờ xuất hiện gió Tây Bắc thổi ngược lại, thuyền có

nguy cơ bị lật úp do chở nặng. Lúc đó có con cá Ông cứ bơi trước thuyền khoảng

hơn 10 mét để che chắn hướng gió cho thuyền vào bờ an toàn.

Câu chuyện lạ kỳ của ông Châu là điển hình cho lòng tin của những ngư dân

vạn chài nhỏ bé trước biển khơi bao la “lành ít dữ nhiều”. Không rõ thực hư song từ

lâu đời, tín ngưỡng thờ cá Ông đã trở thành một nét đẹp truyền thống của những

ngư dân đi biển. Hiện tại, riêng xã Tam Tiến đã chôn cất được 7 con cá Ông và xây

riêng một đình thờ cá Ông ngay đầu thôn. Hàng năm vào ngày 10/9 âm lịch, người

dân lại linh đình tổ chức lễ giỗ cá Ông tại đình làng.

24. Trên báo Người Lao Động đưa tin ngày 20/5/2008, được ghi chép bởi hai

nhà báo Nguyễn Thạnh và Trần Hoàng Nhân về một truyện ly kì cá Ông cứu người

như sau: Ông Nguyễn Phê, 73 tuổi, ngụ làng Phú Câu, phường 6, TP Tuy Hòa, Phú

Yên được cả vùng biết đến nhờ từng được “ông” - cách gọi thành kính của ngư dân

đối với cá Voi- cứu vớt. Nhiều ngư dân Tuy Hòa bảo: “Ông Phê là nhân chứng sống

cho huyền thoại “ông Nam Hải”, làm cho chúng tôi càng có niềm tin mãnh liệt vào

ông, nhất là mỗi khi ra biển”.

Dù tuổi cao sức yếu nhưng ông Phê vẫn nhớ như in ngày được cá voi cứu cách nay

hơn 20 năm. Ông kể: “Tháng 3/1984, trong một chuyến đi câu ngoài khơi, khi vừa

bủa câu xong, một cơn lốc đi qua nhấn chìm tàu chúng tôi. Toàn bộ thợ thuyền đều

là thanh niên trai tráng nhưng không ai thoát chết. Năm đó tôi xấp xỉ 50 tuổi, tuy là

dân đi biển nhưng bơi rất yếu, tưởng đâu cũng xong đời rồi. Vật lộn với sóng biển

một lát, tôi đuối sức, miệng không ngớt khấn vái ông đến giúp.

Đến lúc gần như bất tỉnh, chỉ chực chìm lỉm xuống đáy biển, tôi chợt thấy mình

được nâng lên mặt nước, người nhẹ tênh. Dù mơ mơ màng màng nhưng tôi vẫn có

cảm giác rất rõ như mình đang được nằm trên một tấm ván trơn nhớt, rất êm ái, từ

45

từ trôi đi. Cứ như vậy vài ngày đêm, đói quá tôi ngất lịm lúc nào không biết. Khi

tỉnh dậy, tôi mới biết mình được một tàu đánh cá vớt lên. Những ngư dân tàu này

khẳng định tôi được “ông” cứu, bởi họ thấy dáng “ông” ở xa xa đang đưa tôi đến

gần tàu”. Dừng lại một lát như tưởng nhớ đến ơn cứu mạng của “ông Nam Hải”,

ông Phê tâm sự: “Nhiều người bảo rằng nhờ tôi luôn luôn tôn kính và có duyên với

“ông” nên khi lâm nguy mới được “ông” cứu, có lẽ vậy”. Ở làng Phú Câu có hơn 20

người từng được cá voi cứu về từ cõi chết như các ông Lê Mau, Lê Dậu, bà Chài...

Còn ở làng Đông Tác, phường Phú Đông - TP Tuy Hòa cách đó không xa, cũng có

hơn 50 người được cá voi “hộ”.

Trên đây chỉ là một vài câu chuyện điển hình trong hàng trăm những câu

chuyện cá Ông cứu người phổ biến trong đời sống ngư dân ven biển. Những truyện

này có nơi chỉ còn lại truyện, có nơi vẫn còn nhân chứng sống. Đó luôn là những

câu chuyện được mọi người thuộc nằm lòng vì niềm kính tín vào công đức của Ông.

Nhờ những câu chuyện hiện thực này mà tính thiêng của Ông có sức lan tỏa sâu

rộng và tăng thêm lòng tin của ngư dân đối với cá Ông vì được mắt thấy tai nghe

chứ không chỉ là truyền thuyết.

2.2. Đặc điểm chung truyền thuyết cá Ông

Trên đây, chúng tôi đã liệt kê những truyền thuyết và truyện về cá Ông từ các

tư liệu và thu thập trong quá trình đi thực tế. Qua toàn bộ truyền thuyết về cá Ông

hoặc ít nhiều có liên quan đến cá Ông kể trên, chúng tôi thấy truyền thuyết cá Ông

có một số đặc điểm sau:

Thứ nhất, các truyền thuyết về cá Ông có đời sống rất phong phú. Nếu có điều

kiện để đi điền dã thực tế ở nhiều tỉnh thành ven biển, chúng tôi tin rằng số lượng

truyền thuyết về cá Ông vẫn còn. Các truyền thuyết này mang những đặc điểm

chung của văn học dân gian: chúng tồn tại dưới những mẩu truyện kể ngắn, chỉ tập

trung kể các chi tiết chính nên các truyện rất súc tích, dễ nhớ, dễ lưu truyền qua các

thế hệ. Và hầu như, truyện kể về cá Ông không được định danh tên gọi cho truyện.

Đây là hiện tượng lạ đáng lưu ý. Các tích khác thường luôn có ít hoặc nhiều truyện

được định danh nhưng truyền thuyết về cá Ông lại không thấy. Và nếu chỉ sưu tầm

theo nguyên tác của dân gian thì cũng rất khó để định danh cho truyện vì nó chỉ là

những mẩu truyện ngắn. Điều này có mặt lợi là cùng trên một cấu trúc, tích về Ông

không gắn với một nhan đề nên dân gian thỏa sức thêu dệt truyện về Ông theo thẩm

46

mĩ của họ. Nhưng ngược lại, điều bất lợi là nếu các tích này không được ghi chép

thì nó sẽ bị lãng quên theo thời gian. Hơn nữa, các truyện này khi qua truyền khẩu

của dân gian nó luôn bị nhào nặn lại phù hợp theo cảm xúc thẩm mĩ của từng nơi và

từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Đó là một xu hướng hiện đại hóa tác phẩm theo

như quy luật vốn có của văn học dân gian. Vì thế nếu không có công tác sưu tầm lại

thì những truyền thuyết xa xưa sẽ bị lãng quên đi. Thực tế hiện nay những truyền

thuyết có tính chất cổ xưa đã và đang dần mai một, trong dân gian chỉ lưu truyền

truyền thuyết cá Ông cứu vua và cá Ông cứu người gần đây là nhiều.

Thứ hai, truyền thuyết về thần biển của người Chăm được lưu truyền thường

ở thể loại xướng ca lễ tục. Các truyền thuyết này không phải ai cũng nhớ và biết tới

vì nó chỉ được diễn xướng trong mùa lễ hội có nghi thức lễ cúng thần Po Riyak,

không được kể phổ biến bất cứ lúc nào như các truyền thuyết của người Việt. Đó là

bởi vì người Chăm đã không còn theo nghề biển nhiều nên tín ngưỡng về thần biển

cũng không còn đậm đặc. Thế nên, bộ phận truyền thuyết này cũng có xu hướng thu

hẹp lại trong đời sống nhân dân và có nguy cơ bị đóng băng trên văn bản.

Thứ ba, truyền thuyết cá Ông gắn với thuở hàn vi của vua Gia Long rất phong

phú về số lượng và có sức sống lan tỏa mạnh trong đời sống cư dân ven biển. Trong

quá trình đi khảo sát, truyện đầu tiên mà chúng tôi được ngư dân kể về cá Ông luôn

là truyện cá Ông cứu vua. Truyền thuyết đó ai và ở đâu mọi người cũng biết. Thậm

chí, người dân kể về tích này gắn với bất cứ một cửa biển hoặc một địa danh nào mà

họ biết và cho là sự kiện ấy có thể xảy ra ở đó. Trong tất cả các truyền thuyết về cá

Ông, riêng truyền thuyết về Ông gắn với thời kì bôn tẩu của vua Gia Long là có gắn

với các địa danh. Đây là một kiểu truyền thuyết chúng tôi cho rằng nó mang tính

tổng hợp cả về nhân vật, phong vật và địa danh. GS. Kiều Thu Hoạch đã có định

nghĩa về truyền thuyết rằng: “Truyền thuyết là một thể tài truyện kể truyền miệng,

nằm trong loại hình tự sự dân gian; nội dung cốt truyện của nó là kể lại truyện tích

các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa phương theo quan

điểm của nhân dân” [57, tr.141]. Trong truyện về cá Ông, nằm trong tích truyện vua

Gia Long xây dựng cơ đồ thì nhân vật chính trong truyền thuyết hẳn là vua Gia

Long, nhưng nằm trong hệ thống truyền thuyết về cá Ông thì nhân vật chính đã bị

đảo ngược. Các tích này đều gắn với một địa danh có thực dọc theo các vùng ven

biển. Đồng thời nó là sự giải thích vì sao ở vùng đó nhân dân lại lập lăng thờ Ông.

47

Đây là một cứ liệu dân gian cho quá trình bôn tẩu gian khổ của vua Gia Long, đồng

thời nó cũng nói lên được phạm vi có mặt của cá Ông suốt dọc dài đất nước. Sự dày

đặc này cũng tương ứng với thời kì Nam tiến của dân tộc, đồng thời với việc mở

rộng nghề đi biển của cư dân Việt trên vùng đất mới.

Thứ tư, tùy mỗi giai đoạn lịch sử mà tác phẩm tự sự dân gian có vị trí nổi bật.

Nhưng thể loại dân gian không bao giờ có sự phân định rõ ràng mà có sự đan xen,

chuyển hóa hình thức nghệ thuật vào nhau, khiến cho tác phẩm vừa giống thể loại

này lại vừa thuộc thể loại khác. Ở đây, các truyện cá Ông gọi chung là truyền thuyết

nhưng nhiều truyện lại chứa đựng những yếu tố của cổ tích. Nó mang nhiều yếu tố

hoang đường như nguồn gốc xuất thân, hay khi tích đủ đức thì cá Ông sẽ được hóa

rồng…Đó đều là những motip khá quen thuộc trong truyện cổ tích về loài vật mà

chúng ta vẫn thấy. Ở trên chúng tôi có trích dẫn một truyện cổ tích về cá Ông do

Nguyễn Đổng Chi ghi chép. Thực ra thì đó là một truyện đã được tác giả nhào nặn

lại từ nhiều truyện nhỏ để thành một truyện cổ tích hoàn chỉnh. Còn trong dân gian

thì truyện như thế hầu như không có. Những mẩu truyện này có mang những yếu tố

của cổ tích nên nó dễ dàng để kết cấu thành một truyện dài. Thực tế đời sống cư dân

các truyện kể rất ngắn gọn và dễ nhớ để có thể lưu truyền được rộng rãi và bền bỉ.

Bên cạnh đó, bộ phận truyền thuyết về cá Ông không bị phong kín lại như các

truyền thuyết khác. Nó chưa dừng lại mà vẫn có sự âm thầm chuyển hóa, hình thành

nên bộ phận truyền thuyết mới, góp vào nguồn truyền thuyết cá Ông thêm phong

phú theo thời gian và không gian.

Tóm lại, xuất phát từ lòng biết ơn Ông, nhân dân bằng trí tưởng tượng phong

phú đã thêu dệt nên rất nhiều các tích truyện. Các tích này không nằm ngoài sự hàm

ơn, tôn kính cá Ông. Ngoài ra, nó cũng thể hiện đời sống tinh thần phong phú và

mối quan hệ tôn trọng của nhân dân với muôn loài.

48

Chương 3 - CỐT TRUYỆN, MOTIP TRUYỀN THUYẾT

CÁ ÔNG

Ở đây, dưới góc độ của người nghiên cứu văn học, chúng tôi muốn đi vào

tìm hiểu cấu trúc chung của các truyền thuyết được hình thành xoay quanh trục cá

Ông. Song chúng tôi không chỉ thuần túy tìm hiểu vào kết cấu, đặc điểm thi pháp

của các truyền thuyết, mà còn hướng tới lý giải các yếu tố dân gian đã góp phần

nhào nặn vào tác phẩm, góp thêm cái nhìn tổng thể về tục thờ cá Ông trên nhiều

phương diện đời sống.

Song, trước khi đi vào bàn luận vấn đề chính, chúng tôi nhận thấy cần phải làm

sáng tỏ một vài vấn đề khác liên quan đến truyền thuyết của người Chăm và người

Việt. Hiện nay, trên văn đàn đang diễn ra sự tranh luận về nguồn gốc tục thờ cá Ông

là của người Chăm bản địa, được người Việt trong bước đường Nam tiến tiếp thu

hay bản nguyên tục thờ cá Ông đã có sẵn trong tâm thức người Việt? Vấn đề này

đến nay vẫn chưa có hồi kết. Trong quá trình nghiên cứu tư liệu về cá Ông, chúng

tôi thấy có những tình tiết liên quan đến vấn đề trên. Bởi vấn đề tiếp biến tục thờ

hay chỉ là sự cộng hưởng tín ngưỡng thờ thần biển của hai dân tộc có mối quan hệ

mật thiết đến sự hình thành truyền thuyết cá Ông. Lý giải được điều này sẽ giúp

chúng ta thấy được truyền thuyết của hai dân tộc có sự chuyển hóa vào nhau hay

cùng độc lập tồn tại song song. Điều này có ý nghĩa lớn trong nhận định việc có hay

không sự giao thoa văn hóa biển của hai dân tộc từ góc độ tín ngưỡng. Vì vậy, đứng

trên phương diện của người nghiên cứu văn học dân gian, chúng tôi xin diễn giải

một vài khía cạnh về vấn đề trên từ các tư liệu truyền thuyết.

3.1. Đối tượng thần biển của hai dân tộc từ các tư liệu truyền thuyết

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi thấy một vấn đề cần phải làm sáng tỏ

trước khi bàn luận về tục thờ này là của ai như các nhà nghiên cứu vẫn đang tranh

luận. Và theo chúng tôi, đây là một vấn đề rất quan trọng song mọi người hầu như ít

người quan tâm. Đó chính là đối tượng thờ thần biển của hai dân tộc Chăm và

Việt. Bàn về điều này, chúng tôi thấy có nhà nghiên cứu Sử Văn Ngọc, Phan Đăng

49

Nhật và Nguyễn Xuân Đức có nói tới nhưng rất sơ lược. Sử Văn Ngọc trong bài

“Văn hóa sông nước miền Trung với cái nhìn địa văn hóa người Chăm” có viết về

lễ Palao Rija Sah tại cửa biển trong hai ngày một đêm của người Chăm, có đoạn

“Lễ này cũng giống như lễ cầu ngư của cư dân người Kinh, nhưng bóng dáng thần

Nam Hải (cá Ông) rất mờ nhạt. Người Chăm chỉ thờ thần Po Riyak (thần Sóng),

không thờ cá Ông” [1, tr.28]. Nguyễn Xuân Đức trong một bài viết cũng đồng ý với

ý kiến của ông Phan Đăng Nhật và Sử Văn Ngọc, cho rằng người Chăm thờ thần Po

Riyak, còn người Việt thờ thần cá Ông.

Qua khảo cứu tài liệu, chúng tôi cũng cho rằng nhận định trên có cơ sở xác thực.

Trong tục thờ thần biển của hai dân tộc, đối tượng thờ không trùng khít với nhau,

tức không cùng một đối tượng. Theo như sử liệu thì năm 1832, vua Minh Mạng

cấm người Chăm không được đi biển vì sợ họ có sự liên lạc với nước ngoài gây bất

ổn cho vùng đất mới xác lập, kể từ đó người Chăm không còn đi biển nên tục thờ

này cũng mai một dần, từ đó khiến cho truyền thuyết về thần Sóng Biển không phổ

biến trong đời sống dân gian.

Chúng tôi cho rằng đôi khi chúng ta đứng ngoài nhìn vào tục thờ thần Po Riyak của

người Chăm và cho rằng đó là gốc tích tục thờ thần cá Ông của người Việt, và sách

vở cũng ghi chép như thế nhưng có khi lại không hề chính xác như cách nhân dân

nhìn nhận, thể hiện. Tục thờ về một vị thần biển của người Chăm thì không phải

chuyện mới xảy ra của ngày hôm qua, mà đã của mấy thế kỉ. Yếu tố thần cá Ông

trong lễ thờ của người Chăm hiện nay đã không rõ ràng và đậm nét. Tuy nhiên,

chúng ta vẫn còn những truyền thuyết về thần Po Riyak của người Chăm và những

truyền thuyết về thần cá Voi của người Việt để tìm thấy quan điểm, đối tượng được

thờ của nhân dân chứa đựng trong đó; bởi hầu như mỗi vị thần được tôn thờ luôn

được gắn với một hoặc nhiều truyền thuyết của dân gian nhằm bồi đắp, tô dưỡng

tính thần linh cho vị thần ấy. Nhân dân muốn tôn thờ, coi trọng điều gì thì trong

truyền thuyết họ sẽ xây dựng những yếu tố, chi tiết để nhấn mạnh cho điều đó. Thế

nên, để biết đích xác được đối tượng thờ chúng tôi sẽ bắt đầu đi từ những truyền

thuyết còn được lưu truyền lại đến ngày nay. Đối tượng thờ của người Việt đến hôm

nay vẫn còn và rõ ràng đích xác là cá Ông, nên chúng tôi sẽ đi sâu vào tìm hiểu đối

tượng thờ của người Chăm. Từ đó, chúng ta mới có thể thấy được: có hay không

mối quan hệ sâu xa trong tục thờ cá Ông của hai dân tộc?

50

Truyền thuyết về thần Po Riyak thì các truyền thuyết 1 đến 4 mà chúng tôi đã

dẫn ra là về vị thần này, nên chúng tôi sẽ bám sát vào các tích này để làm sáng tỏ

vấn đề.

Trong truyền thuyết 1 có nói rằng “Cá Voi vốn là hóa thân của một vị thần tên là Ja

Aih Wa”, lưu ý chi tiết này, bởi theo niềm tin của người Chăm, thần Po Riyak là

người có nhiều quyền năng khác nữa. Ở đây, cá Voi là một hóa thân - tức hóa thân

thành cá Voi cứu người là một trong những quyền năng của thần. Điều này hoàn

toàn khác với “Po Riyak là một hóa thân của cá Ông” [42] như tác giả Nguyễn

Thanh Lợi đã nhấn mạnh.

Truyền thuyết 2 của người Chăm có một chi tiết đáng chú ý như sau:

“…Khi thuyền ngài đến gần hải phận Champa, trời nổi mây mưa bão tố và

cá thần mang tên là Inâ Patrang hay Inâ Katrang đánh vỡ thuyền ngài. Bị chìm đắm

vào lòng đại dương, ngài được cá “Ông” (ikan limân) đưa về bờ đất liền ở Gram

Pari, Phan Rí. Người Chăm và cả người Việt thấy vậy liền lập đền thờ phụng ngài

ở đây”.

Trong truyền thuyết 3 có nói:

“… Khi thuyền ngài bị đắm, ngài ngồi trên lưng cá “Ông” trở về bờ đất liền.

Nhưng ngài từ chối ghé vào Pajai, Phan Rí ngay cả bờ Cà Ná nơi mà người Chăm

tìm cách đâm chém và liệng đá vào cá Ông chở ngài lên bờ… Chính vì thế, ngài

phải dừng chân ở Craok Dil, tức là Sơn Hải phía bắc Cà Ná nơi mà người Chăm và

Việt lập đền thờ ngài và phúng điếu hàng năm..”.

Trong bài nghiên cứu của Nguyễn Thanh Lợi, tác giả cũng có cho biết một chi tiết

rằng ở làng Mỹ Nghiệp, Ninh Thuận có đền thờ thần Po Riyak của người Chăm.

Trước đây, trên tường của đền thờ có vẽ người cưỡi cá Voi đi giữa biển khơi

[42].

Trong bài “Trả lời cho Đắc Văn Kiết: Katê phát xuất từ thời Sa Huỳnh hay Po

Rome?” của hội Champaka có đoạn như sau:

“Trong bài viết, Đắc Văn Kiết cho rằng: Khi biển động, nổi cơn dông thì người

Chăm cúng Thần biển (Pô Riyak). Đây chỉ là câu chuyện do Đắc Văn Kiết tự suy

đoán mà thôi. Po Riyak không phải là Thần Biển mà là nhân vật Champa Awal sang

Mã Lai du học. Khi nghe tin vương quốc Champa bị biến loạn, Ngài xin sư phụ trở

về quê hương cứu nước, nhưng bị từ chối. Chính vì thế, Ngài tìm cách trốn về

51

Champa. Trên đường về, sư phụ dùng bùa phép gây bão tố để đánh chìm tàu của

Ngài ở ngoài khơi. Chính cá Voi là con vật đưa Ngài đến tận bờ bể Sơn Hải (Phan

Rang) nơi mà ngư dân người Việt lập nên đền miếu để thờ cá Voi này chứ

không phải thờ thần biển.

Người Chăm cũng có đền thờ Po Riyak tại thôn Mỹ Nghiệp và Phước Đồng (Phan

Rang). Mỗi đầu năm, bà con Chăm thường làm lễ cho Po Riyak để tưởng niệm

thần Awal cưỡi con cá Voi về Champa hầu xin thần linh này phù hộ cho họ mà

thôi, chứ không phải vì biển động hay cơn dông mà người Chăm làm lễ thờ cúng Po

Riyak như Đắc Văn Kiết nêu ra. Đắc Văn Kiết đừng quên rằng dân tộc Chăm hôm

này không còn ai sống về nghề biển” [54].

Trong bài diễn xướng mở đầu cho nghi lễ thờ thần Po Riyak có đoạn sau:

“Ngài Po Riyak quê ở Tánh Linh

Người mẹ vĩ đại đã sinh ra Ngài

Ngài thông minh từ thuở bé,

Đạo đức tuyệt vời tỏa sáng khắp nơi.

Lớn lên quên cả việc nhà,

Đi khắp dân gian tìm học bùa phép” [35].

Còn đây là một đoạn trong chèo bả trạo được diễn xướng khi đưa cốt cá Ông nhập

vào lăng của người Việt:

“…Đưa Ông về tới lăng đàn

Rước vào nhập điện hộ an dân tình

Hộ cho lớn nhỏ thái bình

Hộ cho bổn vạn dân tình an khương

Làm ăn ai nấy phú cường

Cùng năm mãn tháng miên trường chấn hưng

Nội vạn lớn nhỏ đều mừng

Ngàn năm chín kiếp xin đừng vong ân…” [60]

Như chúng tôi đã nói, tôn thờ điều gì nhân dân sẽ xây dựng hình tượng cho điều đó.

Trong các dẫn chứng chúng tôi vừa nêu, vị thần mà dân tộc Chăm kính trọng chính

là vị thần người Ja Aih Wa chứ không phải cá Ông. Toàn bộ câu truyện được xây

dựng nhằm tô điểm cho vẻ đẹp tài đức của Ja Aih Wa trước khi trở thành thần Po

52

Riyak. Cá Ông chỉ đóng vai trò phụ trong truyền thuyết, khi nào cần cứu người bị

nạn thì thần Po Riyak mới hóa thân thành cá Ông.

Một điều đáng lưu ý khác, qua các chi tiết của các truyền thuyết, chúng ta thấy có

điểm chung trong cách nhìn nhận giữa hai dân tộc về cá Ông: đó chính là bản tính

thiện cứu giúp con người của loài cá này (cá Ông  sự đức độ). Nhưng: truyền

thuyết của người Chăm lấy hình ảnh của cá Ông nhằm để nâng cao, hoàn thiện cho

vẻ đẹp tài năng, đức độ của vị thần Po Riyak. Còn truyền thuyết người Việt xây

dựng các yếu tố thần thánh, kể cả lấy hình ảnh của Phật Bà từ tâm ra nhằm để xây

dựng hình ảnh nhân tính, thần linh của cá Ông. Đây là hai việc làm hoàn toàn khác

nhau.

Tóm lại, từ truyền thuyết cho đến tục thờ của người Chăm và truyền thuyết đến tục

thờ của người Việt, chúng tôi nhận thấy rằng đối tượng thờ thần biển của hai dân

tộc không hề đồng nhất như mọi người vẫn nhận định:

+ Đối tượng thờ của người Việt là cá Ông. Người Việt thờ đích danh loài cá này

với một tấm lòng biết ơn, thành kính. Cá Ông trong tín ngưỡng thờ của người Việt

là một vị thần.

+ Đối tượng thờ của người Chăm là một vị thần người, tên Ja Aih Wa sau thành

thần đổi tên là Po Riyak. Cá Ông chỉ là một hóa thân hay thậm chí chỉ là một thú

tùy dụng chứ không phải đối tượng tâm linh chính của người Chăm. Điều này giống

như người Việt ngày 23 tháng chạp vẫn thường cúng cá chép để đưa Ông Táo về

trời, nhưng đối tượng thờ chính là Ông Táo chứ không phải cá chép. Hay người

Việt cũng tin thờ các loài chim hạc để các vị thần tiên cưỡi bay về trời. Chim hạc ở

đây là một linh điểu, nhưng cũng chỉ là một loài thú tùy dụng (cô tiên cưỡi chim

hạc), và cá Voi trong tín ngưỡng của người Chăm cũng tương tự như thế. Điều này

có thể thấy trong các đoạn truyền thuyết trích dẫn trên.

Như thế, truyền thuyết của người Chăm vẫn được mọi người xem là lời giải

thích của dân gian về nguồn gốc ra đời vị thần cá Ông nhưng đúng hơn là thần Po

Riyak. Để triệt để vấn đề đối tượng thần biển của hai dân tộc mà hầu như tất cả mọi

người đều đồng nhất là một, chúng tôi sẽ tiến hành tìm hiểu sâu vào các yếu tố nhào

nặn nên tác phẩm thần biển của dân tộc Chăm. Ở đây chúng tôi sẽ tiến hành mô tả

về cấu trúc và tìm hiểu về ý nghĩa của vị thần biển người Chăm trong truyền thuyết.

53

Từ đó, chúng ta sẽ thấy rõ ràng hơn sự khác biệt trong tâm thức về vị thần biển của

hai dân tộc.

Bốn truyền thuyết đầu có motip gần tương đồng với cấu trúc về truyền thuyết người

anh hùng trong lịch sử được Kiều Thu Hoạch khái quát như sau:

LAI LỊCH (bao gồm SINH ĐẺ THẦN KÌ và HÌNH DÁNG DỊ THƯỜNG)  TÀI

ĐỨC  SỰ NGHIỆP  CHẾT THẦN KÌ  HIỂN LINH; ÂM PHÙ  SẮC

PHONG, GIA PHONG [57, tr.145]

Trong truyền thuyết về thần Po Riyak không theo như trật tự trên, nhưng cũng có

những sự kiện về một con người được mọi người tôn vinh về tài năng: học được

phép thuật cao cường, thiên biến vạn hóa, trải qua được nhiều kiếp nạn vẫn sống sót

trở về. Một con người của đạo đức: có hiếu khi dám vượt vạn dặm đường xa về

thăm cha mẹ/ Khi nghe tin quê nhà có nạn thì ngay lập tức trở về cứu dân giúp

nước. Ở đây không có sự kiện nhân vật chết thần kì nhưng có sự hiển linh, sau khi

chết được thượng đế cho làm thần Sóng Biển, hóa thành cá Voi cứu giúp con người

nơi sóng gió biển khơi. Ngoài ra, trong tín ngưỡng người Chăm, vị thần này còn có

quyền lực tạo mây mưa, gió bão. Vị thần này cũng được nhận sắc phong của triều

đình nhà Nguyễn. Đọc kĩ từng chi tiết, truyền thuyết thần Po Riyak được nhân dân

kể hay ghi chép đều trọng phần tài đức, quá trình vượt qua thử thách để minh

chứng cho tài đức, sau khi chết với tài năng, đức độ ấy ông đã được nhân dân tôn

lên thành thần.

Bốn truyền thuyết đầu tiên mà chúng tôi liệt kê, truyền thuyết đầu tiên là bản kể của

dân gian. Hai truyền thuyết tiếp theo là bản ghi chép trong sách cổ Chăm. Bản thứ

tư là bản rút ra từ bài diễn xướng lễ tục, nghi thức đầu tiên để mời thần Po Riyak về

chứng lễ với dân làng. Từ các truyền thuyết này, chúng ta có thể thấy chúng có nội

dung tương tự nhau, chỉ khác về một số tình tiết truyện và chúng đều có mô hình

chung như sau:

Người tài đức  học phép  vượt qua nhiều nạn thử thách hóa thần có

nhiều quyền năng (tạo mây mưa, hóa cá Voi giúp người, ban ơn hoặc giá

họa…). Cá Voi trong truyền thuyết này đóng vai trò phụ, một yếu tố để tạo thêm

tính toàn năng cho thần Po Riyak.

Truyền thuyết về thần Po Riyak dù sách hay dân gian đều có nói đến việc Ja Aih

Wa đi du học phép thuật ở Mã Lai.

54

Ở đây, truyền thuyết về thần Po Riyak là hiện thân của dấu ấn về một dân tộc

đi biển cừ khôi. Hơn thế nữa, nó đọng lại dấu ấn về mối quan hệ thân thiết của

hai quốc gia Champa và Mã Lai trong lịch sử. Địa danh Makah mà truyền thuyết

ghi chép, trong truyền thống của người Mã Lai đó là một thánh địa ở thế giới siêu

hình. PGS. Po Dharma chỉ ra rằng Makah chính là để chỉ Kelantan, một tiểu bang

của Mã Lai có mối quan hệ khăng khít với Champa. Nó đóng vai trò quan trọng

trong việc truyền bá Hồi giáo từ Mã Lai sang Champa. Khi đến Kelantan, ta sẽ bắt

gặp những tên gọi, những địa danh mang dấu ấn rất rõ ràng của Champa, như

“Pengkalan Chepa” (nơi đỗ/ điểm dừng chân của Champa), Kampung Chepa (ngôi

làng Champa), Gong Chepa (con chim công Champa)… Ngôi thánh đường ở

Kampung Laut, vốn là ngôi thánh đường Islam vào bậc cổ xưa nhất của Malaysia ,

nhưng nó lại được xây dựng bởi các kĩ sư Champa, để thuận tiện cho việc dừng

chân nghỉ ngơi và hành lễ của họ trong những chuyến hành trình đi buôn với xứ

Demak ở quần đảo Jawa (Indonesia ngày nay) vào khoảng đầu thế kỉ 16. Ngoài

truyền thuyết về thần Po Riyak có liên quan đến vùng đất Kelantan, văn học Chăm

vẫn còn ghi truyền thuyết về vị hoàng tử Mã Lai đến từ vùng đất Kelantan, sang

Champa để giúp nhân dân chống ngoại bang. Sau đó ông kết duyên với công chúa

Champa và truyền dạy cho dân chúng một số yếu tố của văn hóa Mã Lai: dụng cụ

âm nhạc, tín ngưỡng Hồi giáo… Cuối cùng nhà vua phải trở về Mã Lai nối nghiệp

cha, công chúa xứ Chiêm đã quyên sinh với các con tỏ lòng chung thủy… (lễ múa

Rija ở Chăm là một dấu ấn cho truyền thuyết này). Một truyền thuyết khác về nàng

công chúa đến từ Mã Lai với ý đồ biến Champa thành một quốc gia Hồi giáo. Để

đạt được ý đồ, nàng phải chinh phục trái tim của vị hoàng tử. Sau cùng, hai người

yêu nhau nhưng vì trái đạo nên họ không thể đến được với nhau.

Nói như thế để thấy sự mật thiết, gần gũi văn hóa giữa hai quốc gia Champa và Mã

Lai trong lịch sử. Truyền thuyết về thần Po Riyak của người Chăm mang nhiều yếu

tố văn hóa đa dạng và nó cũng nằm trong dòng chảy giao thoa văn hóa biển. Nó vừa

mang màu sắc huyền thoại, vừa mang dấu ấn lịch sử bang giao giữa Champa và Hồi

giáo Mã Lai. Dường như đó là một lịch sử trong truyền thuyết chứ không chỉ là câu

chuyện về một vị thần biển linh thiêng.

Mặc dù thần Po Riyak vẫn còn được tôn sùng trong một số lễ hội như Kate, Puis,

Payak… của dân tộc Chăm, nhưng đó là một vị thần Sóng Biển mang màu sắc văn

55

hóa Chăm pha Mã Lai chứ không phải thuần của dân tộc Chăm, và đó không phải là

vị thần cá Ông như của dân tộc Việt vẫn thờ cúng hàng năm.

Ở phần sau của truyền thuyết về thần Po Riyak, có đoạn thần Po Riyak đã

hóa thân để cưới bà vợ Kaho gốc dân tộc miền núi, sinh được hai người con gái.

Đoạn này trong dân gian không thấy nhắc đến. Theo chúng tôi, phần truyền thuyết

này cùng với hai truyền thuyết 5, 6 mà chúng tôi đã liệt kê dường như có một mối

quan hệ nào đó ẩn tàng. Một là cá Voi và chim Ưng gỗ đã có cuộc kết duyên và sinh

ra dân tộc Chăm. Hai là cá Voi và ba người con trai vua Kì Nam đã liên kết cùng

nhau cai quản lãnh thổ Champa. Ba là thần Po Riyak kết duyên với người vợ gốc

dân tộc miền núi sinh ra hai người con gái. Xâu chuỗi các chi tiết trên, ta sẽ thấy

một mắt xích quan trọng trong cấu trúc các truyền thuyết đó liên quan đến cá Voi

của dân tộc Chăm như sau:

Po Riyak/ Cá Voi (đại diện biển) + đại diện trên đất liền (núi)

 Sinh con cái

 Sinh ra dân tộc Chăm

 Cai quản lãnh thổ

Từ cấu trúc trên, chúng tôi nhận thấy đây là nét tâm thức dân gian có trong nhiều

dân tộc. Đó là sự kết hợp Núi - Biển trong thế lưỡng hợp để cho ra những con người

đầu tiên của giống loài và cả ý thức về mặt lãnh thổ. Trong tâm thức người Việt, sự

kết hợp của mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân chính là sự kết hợp của Núi – Biển.

An Dương Vương xây thành ở vùng trung du, nhưng đến khi thất trận thì trở về với

biển. Truyền thuyết về trận đánh nhau triền miên giữa Sơn Tinh – Thủy Tinh cũng

chính là trận chiến giữa Núi – Biển. Một lần nữa, tâm thức này lại xuất hiện trong

tâm thức của dân tộc Chăm nhưng trong một hình ảnh tượng trưng khác, có lẽ để

phù hợp với phong vật địa phương. Phải nói rằng, sự kết hợp Núi – Biển, Tây –

Đông là một kết nối có tầm quan trọng bậc nhất đối với các vùng lãnh thổ Chăm.

Đây có thể là một quá trình tiếp biến giữa văn hóa biển truyền thống với văn hóa

núi rừng khi lập quốc trên vùng đất hẹp miền Trung. Điều này đã được thể hiện rất

rõ trong cách xây dựng các công trình kiến trúc và kinh tế liên quan mật thiết giữa

núi và biển của dân tộc Chăm.

Hoàn toàn khác với mô hình phát triển của cư dân Đại Việt thường theo

hướng Bắc – Nam, mô hình xây dựng trong mọi lĩnh vực của người Chăm luôn theo

56

hướng Tây – Đông, kết hợp hài hòa cấu trúc Núi- Biển bên cạnh các con sông.

Trong mỗi vùng văn hóa Champa có 3 trục quay quanh nhau gồm trục kinh tế (cảng

thị), trục quản lý xã hội (thành) và trục tinh thần (tôn giáo) tạo nên sức sống và bản

sắc văn hóa. Ngoài ra, vị trí xây tháp của người Chăm đều được xây dựng trên đồi

cao, thoáng đãng, không bị che khuất tầm nhìn và hướng của các tháp đều quay mặt

ra hướng Đông, đó là hướng của biển.

Sự kết nối Tây – Đông ấy có lẽ đã có tác động đến tâm thức lãnh thổ của

người dân. Lịch sử đã đưa lại cho mọi người đúc kết rằng, đất đai và lãnh thổ với

người dân là xương máu. Nhận thức về giá trị lãnh thổ của quốc gia đã cho người

Chăm tâm thức họ là con cháu của sự kết nối Núi - Biển, hoặc không thì cũng là con

dân chịu sự cai quản của hai đấng quyền năng Núi – Biển kết hợp lại. Ngày nay,

vương quốc Champa đã không còn nhưng sự hiện tồn của những giá trị vật chất thể

hiện ý thức ấy vẫn còn có thể thấy dọc theo vương quốc Champa xưa.

Nói tóm lại, cá Ông trong dân gian Chăm gợi lại một tiềm thức xưa của nhân dân về

thần Sóng Biển trong mối quan hệ và gốc gác với địa phận lãnh thổ dân tộc nơi mà

từ đó họ ra đi. Hình ảnh cá Ông xuất hiện trong truyền thuyết Chăm ít có liên quan

đến tục thờ như cá Ông trong truyền thuyết người Việt.

Đối chiếu giữa phong tục, tập quán và niềm tin của nhân dân Chăm - Việt vào vị

thần biển linh thiêng của mình, chúng tôi nhận thấy có một số điều đáng lưu tâm.

Theo truyền thuyết về sự ra đời của vị thần cá Ông người Việt, từ trong truyền

thuyết cho đến niềm tin trong thực tế đời sống nhân dân ngày nay đều đầy lòng

thành kính và biết ơn. Cá Ông trong tín ngưỡng ngư dân Việt rất hiền lành, chỉ có

cứu giúp người. Có rất nhiều loài thần thú được thờ trong tín ngưỡng Việt, và nhân

dân cho rằng đó là quân của nhà trời được phái xuống giúp nhân dân hoặc vì mắc

tội mà bị đày xuống trần gian. Cá Ông là loài duy nhất được nhân dân khoác cho

truyền thuyết ra đời từ chiếc áo cà sa của Đức Phật nhân từ. Thậm chí, ngư dân còn

tin rằng nếu cá Ông không làm trọn vẹn bổn phận cứu người thì sẽ bị Long Vương

trừng phạt phải bị chém làm ba khúc hoặc phải chết theo người mà cá Ông cứu

không thành. Sử sách có chép rằng “Ðầu niên hiệu Minh Mạng, vua đặt tên là

Nhân Ngư , đầu niên hiệu Tự Ðức đổi lại Ðức Ngư” - đây đều là những mỹ tự

tôn vinh vị phúc thần chỉ làm điều lành cho các ngư dân nơi sóng bể bao la.

57

Khác hẳn với người Việt, trong quan niệm của người Chăm đối với vị thần Sóng

Biển của họ có khác. Theo P.Mus:

“Nam Hải Vương có uy quyền trên mọi người làm nghề chài lưới hay thương

thuyền dùng đại dương này làm kế sinh nhai. Mọi thái độ ương ngạnh không tôn

trọng uy quyền Po Riyak sẽ trở thành món mồi ngon trong các trận mưa bão mà chủ

nhân chính là Thần Po Riyak. Vì quá khiếp sợ trước uy quyền này, cư dân Việt

Nam ở miền trung làm nghề chài lưới hay thương thuyền gốc người Trung Hoa

thường tin vào Po Riyak là Nam Thần của người đi biển” [35].

Trong truyền thuyết cũng như niềm tin của người Việt, chúng tôi chưa khi nào nghe

tới uy quyền của cá Ông khiến ngư dân khiếp sợ. Nhưng trong tín ngưỡng người

Chăm, thần Po Riyak hiện lên không chỉ là một vị thần cứu giúp người mà còn là

một vị có quyền uy mang lại cả phúc lành và sự giá họa đến cho ngư dân. Nỗi sợ

ấy hẳn nằm trong lòng tín ngưỡng người Chăm, và họ cũng tin rằng người Việt

cũng mang trong lòng nỗi sợ ấy. Điều này có vẻ hơi mang tính quy chụp, thiếu

thuyết phục, bởi với người Việt, thần cá Ông rất hiền lành, đức độ không bao giờ

mang điềm họa đến cho dân làng.

Xét cho cùng, Po Riyak là thần linh đã hiện thân trong quá khứ, và thần Po

Riyak là thần Po Riyak, cá Voi là cá Voi. Thần Po Riyak của người Chăm không

phải là thần cá Voi như của người Việt. Nhưng với cư dân Việt ven biển, đối tượng

thờ là thần cá Ông, một loại thú linh thiêng, cứ lúc nào có xác của cá Ông bị chết

trôi dạt vào bờ, cư dân ở đó đều tiến hành tang lễ mai táng rất trang trọng (người ta

nói là Ông lụy, kiêng không dùng từ chết), xây lăng đắp mộ, thờ cúng, vì lòng biết

ơn, chứ không phải nỗi khiếp sợ như trong bài phân tích của PGS. Po Dharma. Theo

niềm tin của người Việt, thần cá Ông chỉ cứu vớt những người tốt, còn những con

người sống không có đức, dù có cầu nguyện cũng sẽ không được thần đến cứu.

Từ đánh giá về nguồn tư liệu trên, có thể nói rằng tục thờ cá Ông có nguồn gốc thực

tiễn của ngư dân Việt ven biển và có thể có xen lẫn với tục thờ thần biển của người

Chăm. Đó là một sự cộng hưởng nhưng có phần mờ nhạt. Trong truyền thuyết cá

Ông, nó vừa mang yếu tố mơ hồ của người Chăm khi truyền thuyết đang mai một,

vừa mang yếu tố sống động trong cuộc sống hiện tại của ngư dân Việt. So với các

truyền thuyết loài vật khác, truyền thuyết về cá Ông là một truyền thuyết “sống”.

Truyền thuyết ấy không chỉ có ở trong quá khứ mà kéo dài tới tận ngày nay vẫn

58

đang âm ỉ tiếp tục hình thành. Trong đời sống cư dân biển đang có một lớp truyền

thuyết mới được hình thành trên cơ sở tín ngưỡng cổ xưa pha trộn với nhận thức

thời hiện đại. Bởi qua hàng thế kỉ, cá Ông vẫn còn đó, và sự cứu giúp người giữa

biển khơi của cá Ông vẫn hiện diện như dân gian truyền tụng. Càng đi qua nhiều

lớp thời gian, giá trị linh thiêng của cá Ông càng được bồi tụ. Nhiều người biết đến

và thêm lòng tôn kính Ông hơn.

3.2. Cấu tạo cốt truyện của truyền thuyết cá Ông

Ở trên, chúng tôi đã minh chứng sự khác nhau về đối tượng thờ thần biển của

hai dân tộc Chăm và Việt. Nên ở phần này chúng tôi loại trừ truyền thuyết của

người Chăm ra và đi sâu tìm hiểu vào truyền thuyết, truyện của người Việt. Xét

truyền thuyết cá Ông của người Việt, những truyện chúng tôi sưu tầm và tổng hợp

mới chỉ ở dạng những mẩu truyện nhỏ, chưa thành một tác phẩm hoàn chỉnh.

Những truyện này có đặc điểm khác biệt hẳn với các truyện về loài vật ở chỗ: nó

không ra đời trong phạm vi một vùng nhất định, cũng không nằm trong thời gian

của cổ tích hay thần thoại - mà, truyện cá Ông ra đời theo sự kiện xảy ra ở một thời

gian nào đó bất kì, kể cả hiện tại ngày nay và được xây dựng trên mô hình cấu trúc

của truyền thuyết hoặc cổ tích. Từ một sự kiện ngẫu nhiên nhưng có nét thần kì lại

trở thành một chi tiết đắt cấu thành nên tích truyện mới về ngư Ông. Cũng không

giống như kiểu truyện về các loài khác như hổ, rắn được gắn với nhiều chủ đề

phong phú: báo oán, trả ơn, hay hình tượng của vật gắn với cuộc chiến đấu, kết hôn,

thuần phục trước cái thiện… Truyện về cá Ông chỉ có duy nhất một chủ đề: cá Ông

cứu giúp con người qua hoạn nạn. Khắp các nơi từ Bắc vào Nam, các truyện có

khác về tình tiết, kiểu dạng nhưng tựu chung lại duy nhất chủ đề ấy. Tựa như một

cái cây có rất nhiều cành, nhánh, chủ đề cá cứu người xuyên suốt mọi truyền thuyết

trong các tình tiết khác nhau. Ở mỗi nơi, tùy vào một điểm nhấn nào đó về cá Ông

mà dân gian sẽ huyền thoại lên thành một câu truyện, tạo ra sự đa dạng cho các tích,

nhưng đó là một sự đa dạng trong cái thống nhất chung.

Trong sự thống nhất nhưng đa dạng ấy, chúng tôi nhận thấy truyền thuyết cá Ông

được chia làm ba kiểu truyện chính:

+ Kiểu truyện về nguồn gốc ra đời của cá Ông (truyện 7 → 13)

+ Kiểu truyện cá Ông cứu vua Gia Long (truyện 15 → 21)

59

+ Kiểu truyện cá Ông cứu người (truyện 14, 22 → 24 và những truyện tương tự

trong đời sống ngư dân ngày nay)

Sau đây, chúng tôi sẽ lần lượt đi vào từng kiểu truyện để làm sáng tỏ một số đặc

điểm của thể loại. Trong kiểu truyện thứ nhất, có dạng thức:

Dạng thức 1:

Thần hoặc vật của thần → cá Ông → cứu người gặp nạn trên biển

chuộc lỗi ←

nhân dân tôn thờ ←

tích đức hóa rồng ←

cứu không thành bị xử tội ←

Những truyện này có cách xây dựng hình ảnh cá Ông đúng như đặc điểm và cấu

trúc thường thấy về sự tích loài vật. Đó là lý giải đặc điểm nổi bật nhất của loài đó

qua cái nhìn hư cấu tưởng tượng của dân gian: Để giải thích vì sao con ngỗng

không ăn tép, dân gian đã giải thích bằng việc con tép từng làm vật thay mạng cho

con ngỗng trong bữa cơm mời bạn của ông chủ con ngỗng, nhớ ơn con tép nên từ

đó con ngỗng không bao giờ ăn tép; Về sự tích con dã tràng, nhận thấy đặc điểm nổi

bật của loài này suốt đời se những viên cát nhỏ rồi lăn ra sóng, dân gian đã liên

tưởng thành một câu truyện về người nông dân tiếc hai viên ngọc quý đã bị bà vợ

đánh cắp mang xuống thủy cung nên quyết chí chở cát lấp biển đòi ngọc rồi chết

hóa thành con dã tràng; Đặc điểm nổi trội của loài hổ là sức mạnh phi phàm, nên

trong sự tích con hổ, dân gian đã tập trung miêu tả một vị thần nhà trời có sức mạnh

và tính tình hống hách. Ngọc Hoàng không thể trị được mà phải nhờ tới Phật Quan

Âm giúp, sau vị thần bị đày xuống trần gian nhưng cho làm chúa tể muôn loài để an

ủi thân phận trước đây… Đó là một cách lý giải sự vật theo cái nhìn vừa thơ ngây,

vừa phong phú lại thể hiện óc quan sát tinh tế về các loài trong tự nhiên của dân

gian. Ở cá Ông, đặc điểm nổi bật nhất là bản tính thiện cứu giúp con người nên

được nhân dân tôn lên trong màu áo từ bi của Phật Bà Quan Âm cứu khổ cho chúng

sinh. Trong sự tích khác lại cho đây là nhân vật nhà trời được lệnh phải xuống dưới

trần gian cứu giúp con người bị nạn trên biển, giúp nhiều sẽ tích được nhiều công

đức để có cơ hội hóa rồng. Sự tích về cá Ông khác với các sự tích khác ở chỗ, nó

không nêu lên vấn đề xã hội mà chỉ tập trung đề cao bản tính thiện của cá Ông. Nếu

các sự tích về loài hổ, rắn… thường gắn với một vấn đề về lẽ sống thiện ác của con

60

người, thì các tích về cá Ông cho đến hiện tại chúng tôi chưa bao giờ nghe về một

tích nào có hàm chứa nội dung xã hội trong đó. Hầu như các truyện chỉ nhằm giải

thích tại sao cá Ông lại cứu người với các yếu tố nhằm nâng tính thiêng của Ông lên

mức độ tuyệt đối. Các truyền thuyết này có dáng dấp của truyện cổ tích nhiều hơn,

nhưng nó lại sát thực với đặc điểm của cá Ông và gần với hiện thực hơn.

Như ở trên chúng tôi đã nói, phạm vi và thời gian ra đời của truyện cá Ông không

nằm trong một không gian hay thời gian cố định. Nó ra đời dựa trên đặc điểm hoặc

sự kiện có thực về cá Ông mà nhân dân nhận thấy qua quan sát, đúc kết. Chính điều

này đã tạo cho truyện cá Ông một cấu trúc không đóng khung trong một dạng nhất

định. Nó là một cấu trúc mở. Ở kiểu truyện về nguồn gốc ra đời của cá Ông cũng

tương tự. Các truyện thường kể tới đoạn vì sao cá Ông cứu người thì đã có thể dừng

lại và kết thúc câu chuyện, nhưng tùy vào mỗi nơi người nghệ sĩ dân gian có thể

thêm hoặc bớt, hoặc nhấn mạnh các tình tiết ở bất cứ phần đầu hoặc phần sau cho

câu chuyện thêm phần sinh động theo vốn kiến thức dân gian cùng cái nhìn của họ

về cá Ông. Điều này tạo cho truyện cá Ông một đời sống rất phong phú về số lượng

bởi nhãn quan của nhân dân trên nhiều vùng miền phối tạo. Trong kiểu truyện này,

ngoài phần truyện chính dẫn dắt để lý giải vì sao cá Ông cứu người, chúng tôi còn

nhận thấy ở dạng truyện này ẩn chứa những giá trị đời sống, văn hóa thực tiễn được

hòa trộn vào tùy theo nếp sống mỗi nơi. Xét về phương diện tìm hiểu tiến trình văn

hóa của nhân dân trong quá khứ thì nó là một chi tiết có giá trị:

Truyền thuyết cá Ông ra đời từ chiếc áo cà sa của Phật bà phổ biến ở khu vực miền

Trung. Đây có thể là một tích được các nhà sư sáng tác hơn là của tầng lớp bình

dân. Chúng ta biết rằng ảnh hưởng của Phật giáo vào văn học trong giai đoạn thế kỉ

XIII – XIV đã được lịch sử công nhận (truyện Quan Âm Thị Kính, Tấm Cám…).

Truyền thuyết cá Ông trong tín ngưỡng của Phật giáo cho thấy dấu ấn về niềm tin

đạo Phật phổ rộng và rất sâu sắc trong đời sống nhân dân khi họ bạo dạn xa nơi

chôn rau cắt rốn, xa mồ mả tổ tiên để đi vào Nam tìm lẽ sống. Ở miền đất mới

hoang vu, đầy hiểm nguy rình rập khiến họ cần một nơi nương tựa trong tâm linh để

an cư lạc nghiệp. Đạo Phật vốn là đạo tâm. Phật tức tâm tựa như một bức tường vô

hình luôn kề cận với con người nên được mọi người sẵn sàng đón nhận. Cá Ông tựa

Phật ở chỗ Ông cứu người trong cơn hiểm nguy và hoàn toàn vô tư lự nên được

61

nhân dân kính yêu, xây dựng cho Ông một nguồn gốc huyền thoại tô điểm cho tính

linh thần và đức độ của Ông.

Truyền thuyết cá Ông là thần nhà trời đứng canh ở các cửa sông cứu người bị nạn,

truyện này phổ biến ở khu vực Tây Nam bộ. Đây là dấu ấn về sự phát triển, mở

rộng nghề ngư nghiệp của nhân dân miền Nam trên vùng đất mới. Tín ngưỡng thờ

cá Ông ở đây ban đầu là tín ngưỡng thờ thần của nghề chài lưới và đóng đáy ở các

cửa sông, ven bờ (đáy rạo, xiệp, lưới…) mà họ gọi chung là nghề “hạ bạc”. Do đó,

họ mới có quan niệm cá Ông trấn giữ ở các cửa sông để cứu người không cho bị lạc

ra khơi. Về sau, khi việc đánh bắt xa bờ mở rộng thì vai trò của cá Ông theo đó

cũng được mở rộng ra, phù hộ cho ngư dân những ngày dài đánh bắt nơi biển cả. Ở

tỉnh Bến Tre còn có các lăng nằm tận sâu trong đất liền, cách biển đến 20, 30 cây

số. Ở Vang Quới Đông vẫn còn một lăng Ông của dân làm chài lưới ven sông. Đây

là Ông khi lụy theo dòng nước trôi sâu vào bên trong, được một người đốn củi tình

cờ bắt gặp ở làng bên cạnh. Sau đó, người này nói lại và các cụ cao tuổi ở Vang

Quới Đông sắm lễ đi qua làng có Ông lụy xin thọ tang Ông và mang hài cốt về thờ

[39]. Hẳn ở đây, tâm thức và niềm tin vào Ông vẫn còn rất sâu đậm trong tâm thức

của những người dân có gốc gác từ miền Trung đi vào. Tín ngưỡng thờ Ông vẫn có

ảnh hưởng mạnh mẽ đến cả người làm lưới ven sông chứ không chỉ ngoài khơi sóng

gió.

Truyền thuyết cá Ông là chiếc áo cà sa của Phật, tướng quân của Long Vương, thần

tướng nhà trời, con trai vua Thủy Tề có phần nghiêng về đặc điểm truyện cổ tích.

Đó là dựa trên đặc điểm của cá Ông và tưởng tượng ra một thần tích liên quan đến

để lý giải. Những đặc điểm này phản ánh đúng với quy luật của văn học dân gian có

tính phổ biến rất rộng rãi. Những hình ảnh, motip ấy cứ lặp đi lặp lại trong tư duy

dân gian ở nhiều thể loại và nhiều truyện. Ở đây, các truyện đều xây dựng cá Ông

có một xuất thân cao quý, linh thiêng. Trong xuất phát điểm của nguồn gốc cá Ông

cho thấy tính chất khuôn mẫu của cổ tích khá sâu sắc trong tâm thức nhân dân. Tuy

vai trò và mục đích của các yếu tố đó có khác nhau trong mỗi truyện nhưng đó đều

là những hình ảnh mà hầu như ai cũng biết tới. Và nó được cải biến một cách có ý

thức để đi đến một định hình mới đúng theo nguyện vọng của nhân dân xây dựng

hình tượng cá Ông. Ở kiểu dạng thứ nhất này, nguồn gốc xuất thân và vì sao cá Ông

lại cứu người là trọng tâm trong tưởng tượng, hư cấu của dân gian nhằm lý giải điều

62

đó. Nó vừa có nét chất phác, thơ ngây như đặc điểm chung của văn học dân gian

vốn có, nhưng nó cũng hàm chứa những giá trị hiện thực được hòa trộn và nén chặt

vào trong đó.

Sang tới kiểu truyện thứ hai: cá Ông cứu vua Gia Long, kiểu này có dạng

thức:

Dạng thức 2:

Vua gặp nạn trên biển → Ông cứu → Ông được phong thần → Ông được thờ →

Ông trở thành phúc thần bảo trợ cho dân làng.

Đây là kiểu truyện phổ biến rộng rãi nhất trong đời sống nhân dân. Trong bài

diễn văn để mở đầu lễ hội nghinh Ông hàng năm, thường tích cá Ông cứu vua Gia

Long luôn được dẫn ra để ngầm khẳng định vai trò thiêng liêng, cao quý của Ngài.

Đây là một sự chọn lựa rất thông minh của nhân dân. Việc làm này mang đến ba

điều lợi ích thiết thực cho tất cả mọi người và cá Ông: Thứ nhất, vua Gia Long

khẳng định được chân mạng đế vương với muôn dân; Thứ hai, cá Ông nghiễm

nhiên được một sự bảo trợ từ phía triều đình cho tính thần thiêng của mình; Thứ ba,

cư dân ven biển có một vị thần quyền uy với rất nhiều sắc phong từ triều đình

phong tặng cho Ông. Phải thừa nhận một điều rằng, truyền thuyết cá Ông cứu vua,

sự linh thiêng gắn với quyền năng bảo trợ đã trở thành một hệ truyền thuyết mang

sức sống mãnh liệt trong tâm thức ngư dân. Trong khi các truyền thuyết khác

(không kể các truyện mới gần đây), theo chúng tôi thấy thì nó đang có nguy cơ bị

đóng băng trên văn bản, ít truyền thuyết tồn tại dưới dạng truyền khẩu, ngoài những

người lớn tuổi còn biết tới và kể lại thì hầu như mọi người chỉ nhớ được tích cá Ông

cứu vua Gia Long.

Xét mặt cấu trúc trên diện rộng thì truyền thuyết cá Ông là cấu trúc mở,

nhưng nếu xét cấu trúc truyền thuyết chỉ ở kiểu truyện này thì đây là một cấu trúc

riêng biệt có dạng thức như chúng tôi đã khái quát. Kiểu truyện này có hai yếu tố

nòng cốt mà bất cứ một truyện nào cũng phải đảm bảo và tuân thủ theo: Cá Ông cứu

vua và truyện bao giờ cũng gắn với một địa danh có thực. Địa danh này không nhất

thiết phải đúng với truyện đã vốn có mà người kể có thể lựa chọn một địa danh nào

đó để nhằm làm tăng tính chất hiện thực của câu chuyện. Trong bài “Tín ngưỡng

thờ cá Ông ở Ba Tri Bến Tre” của Dương Hoàng Lộc có cho biết một chi tiết rằng:

theo Nguyễn Duy Oanh ghi chép “Dân chài vùng Bãi Ngao (Ba Tri) cũng thuật rằng

63

cũng có lần thuyền của vua Gia Long đến đây gặp sóng to gió lớn và cũng được cá

Ông hộ tống đến Bãi Ngao” [39], nhưng đến khi đi điền dã đúng địa điểm trên thì

chúng tôi cũng giống như Dương Hoàng Lộc đều không nghe thấy ai kể cũng như

biết rằng có tồn tại truyền thuyết đó tại Bãi Ngao. Có thể truyện đó theo thời gian đã

bị lãng quên, hoặc nó nằm vào trường hợp như chúng tôi vẫn thấy là người kể chỉ

gán truyện cho một địa danh để câu chuyện cá cứu vua thêm phần sinh động, đáng

tin. Nên truyện kể tùy thuộc vào mỗi người, mỗi nơi mà có phần khác nhau, không

nhất định phải nằm trong một khuôn mẫu cố định.

Truyền thuyết lịch sử gắn với thời kì gian khổ của các bậc đế vương không khó tìm

thấy trong tác phẩm văn học dân gian. Các truyền thuyết ấy thường gắn với một tích

kì lạ nhằm để nhân dân tin rằng đây là bậc đế vương đã được trời ban định, nên

trong những lúc nguy cấp tưởng như mất mạng nhưng vẫn vượt qua một cách thần

kì. Trong nhiều tích truyện loài vật giúp vua, hầu như các loài luôn là thần thú xuất

hiện để tô điểm, khẳng định cho mệnh bá vương của vua (Rùa vàng giúp An Dương

Vương, rùa vàng cho Lê Lợi mượn kiếm…). Đây là cách “dùng thần quyền để củng

cố vương quyền” [57, tr.144]. Có thể lúc mới đầu, tích cá Ông cứu vua chỉ là một

truyện được thêu dệt nhằm khẳng định cho chân mạng đế vương của vua Gia Long

như trước đó các triều đại vẫn làm. Nhưng khi đi vào trong nhân dân, mục đích ban

đầu ấy đã bị biến đổi: những truyền thuyết này trở thành các tích đề cao tính thiêng

liêng, đức độ của cá Ông trong tâm thức cư dân biển. Ý đồ của triều đình dùng tín

ngưỡng cá Ông để huyền thoại hóa cho chân mệnh của nhà vua. Ngược lại, dân gian

lại lấy quyền uy và sự bảo trợ của triều đình để huyền thoại hóa cho sự thiêng liêng

của cá Ngài. Điều này cho thấy, tín ngưỡng cá Ông chiếm một vai trò lớn trong đời

sống nhân dân nên thay vì đóng một vai trò phụ, hình ảnh cá Ông lại trở thành yếu

tố chính với mức độ bao phủ rộng khắp các vùng biển.

Qua tới kiểu truyện cá Ông cứu nạn, kiểu truyện này có dạng thức:

Dạng thức 3:

Ngư dân gặp nạn → Ông cứu → Thờ (lăng, đền thờ, cúng giỗ) → Ông mang phúc

lành cho dân làng (dạng này phổ biến ở các truyện ngày nay)

Như ban đầu chúng tôi đã nói, chủ đề xuyên suốt các tích truyện về cá Ông

đó là cá Ông cứu nạn. Nhưng ở kiểu truyện thể hiện tập trung rõ ràng nhất cho chủ

đề này thì phải tới các tích truyện gần đây. Các truyện kiểu này có số lượng nhiều

64

hơn tất cả. Kể cả ở kiểu truyện cá Ông cứu vua Gia Long cũng nằm trong kiểu

truyện này. Song vì các tích trên đã có một kiểu truyện riêng, đời sống riêng nên

chúng tôi tách ra để có thể đi sâu hơn. Các truyện nằm trong kiểu này thì nơi đâu

ngư dân cũng có truyện để kể. Nhưng, hầu hết các truyện đang nằm trong tính sự

kiện chứ chưa thành một truyền thuyết được phổ biến trên diện rộng. Nhân vật

trong truyện kể chưa ở mức độ khái quát chung cho cả cộng đồng.

Các truyện dạng này có hai đặc điểm chính: thứ nhất, tình tiết truyện xuất phát từ

một sự kiện cá cứu người có thực trong đời sống; Thứ hai, các tích kể nhằm nhấn

mạnh nhân duyên, phước đức của người được cá Ông cứu và tính linh thiêng của cá

Ông. Ví như các truyện chúng tôi đã trích dẫn ở phần đầu chương II. Ở đây có thể

thấy, các truyện này đang có xu hướng gắn với phạm vi một địa phương, một con

người nhất định chứ không phiếm chỉ hóa. Chúng tôi nhận thấy trong dạng thức cá

Ông hiển linh cứu người được thể hiện trong nhiều cách khác nhau rất thú vị. Đây là

điều chúng tôi để ngỏ cho ai có quan tâm sẽ đào sâu vào hơn nữa. Lấy ví dụ một

truyện về sự linh thiêng của Ông đã giúp dân làng được người dân ở đảo Lý Sơn,

tỉnh Quảng Ngãi kể lại như sau: “Có một năm khi trời đang yên, biển đang lặng ngư

dân đồng loạt ra khơi đánh cá nhưng thần Nam Hải hiển linh (hình thức lên đồng)

gọi tất cả ghe thuyền phải vào bờ, nếu không sẽ gặp bão tố. Khi tất cả ghe thuyền đã

vào tới bờ thì bão tố nổi lên theo đúng lời ứng của Ngài. Ngoài ra, nhiều lần Ngài

đã cứu các ngư dân bị xiêu lạc và đưa dẫn về tới đảo một cách an toàn” [31]. Đó chỉ

là một trong nhiều cách hiển linh của cá Ngài mà chúng tôi được biết (báo mộng,

lên đồng, xin keo…) để cứu nạn ngư dân. Điều này cho thấy các motip dân gian có

sự ảnh hưởng khá sâu sắc đến các tích truyện về cá Ông, dù trong thời hiện đại khoa

học đang lấn sân và “khoanh vùng” ý thức dân gian trong những lý giải vốn được

gán với thời kì con người chưa phát triển về nhận thức.

Như chúng tôi đã nói ở trên, cấu trúc truyện cá Ông là một cấu trúc mở. Người nghệ

sĩ dân gian có thể miêu tả tỉ mỉ nhằm nhấn mạnh ở phần nào của câu chuyện một

cách tùy ý, miễn rằng truyện hấp dẫn, sinh động với cả người kể và người nghe. Ở

dạng truyện này cũng thế. Có hơi khác với hai kiểu truyện, một kiểu nhấn mạnh về

nguồn gốc, một kiểu nhấn mạnh về cá Ông và uy quyền của nhà vua, kiểu truyện

này thường tập trung mô tả cảnh Ông cứu người với những chi tiết rất li kì. Đây là

những truyện chưa thành truyền thuyết, nghĩa là nó chưa trở thành truyện mang tính

65

khái quát và có sức nén thông tin trong đó nhưng theo chúng tôi thì nó đang trên

con đường vận động để thành truyền thuyết khi đã đủ độ lắng thông tin và độ chín

về thời gian.

Tổng hợp lại từ ba dạng thức trên, chúng ta thấy được một cấu trúc cốt lõi trong các

truyền thuyết và các truyện trên:

Người gặp nạn → Cá Ông cứu → Cá Ông được thờ

Cấu trúc cốt lõi chung của các truyện được xây dựng dựa trên đặc điểm tính thiện

cứu giúp con người của cá Ông. Còn chi tiết cụ thể từng truyện thì rất phong phú, ít

trùng lặp. Mỗi truyện về cá Ông luôn dựa trên một điều có thật mà ngư dân mắt

thấy tai nghe rồi được nhào nặn lại, mỗi nơi mỗi khác kéo theo tình tiết truyện cũng

không giống nhau. Với những điều kể trên, và qua các dạng thức được mô hình hóa,

chúng ta có thể thấy cốt truyền thuyết về cá Ông không đổi nhưng tình tiết đã có

nhiều biến đổi đáng lưu ý:

+ Thứ nhất, các truyền thuyết về cá Ông không hoàn toàn chỉ là huyền thoại hay

một sản phẩm của trí tưởng tượng huyễn hoặc, mà luôn luôn được xây dựng trên

một cơ sở thực tiễn nào đó theo quan sát lâu dài của ngư dân đúc kết thành.

+ Thứ hai, phần gốc tích của cá Ông có xu hướng mờ nhạt dần đi, thay thế vào đó là

các chi tiết tập trung cho sự cứu mạng người của cá Ông.

+ Thứ ba, các chi tiết huyền thoại hóa đã lược bớt dần, thay vào đó là các yếu tố

hiện thực được đề cao, làm sao để câu truyện kể ra càng đáng tin, càng gần với thực

tế thì càng hấp dẫn.

Qua hiện trạng ấy, có thể thấy: nếu trước đây, truyền thuyết về cá Ông nằm trong

phạm vi văn học dân gian rộng lớn, là một thể loại dựa trên trí tưởng tượng của

nhân dân, thì nay truyền thuyết cá Ông có xu hướng gắn với một phạm vi hẹp hơn,

với một con người thực, việc thực trong một địa danh có thực, không còn phiếm chỉ

hóa như trước đây nữa. Sự tương đồng giữa các tình tiết và thực tế khiến cho truyện

nằm giữa lằn ranh của lịch sử và nghệ thuật. Nhưng có thể từ chính những truyện cá

thể, mang tính địa phương này, lâu dần khi đủ điều kiện nền tảng, cơ sở sẽ được

khái quát lên thành hệ truyền thuyết cá Ông mang tính phổ quát mới và nằm trong

phạm vi của văn học nghệ thuật hơn là tính sự kiện.

66

Qua quá trình vận động trên, chúng tôi nhận thấy, tâm thức của người Việt luôn gắn

liền với niềm tin vào sức mạnh thần linh, dù cho thời đại đổi thay và có tác động

đến nhiều mặt nhận thức của con người. Có lẽ nhờ điều đó mà nét đẹp trong văn

hóa biển mới được lưu giữ và bảo toàn.

3.3. Các motip tiêu biểu

Ở phần trước, chúng tôi đã đi vào tìm hiểu cấu trúc cốt truyện chung của

truyền thuyết cá Ông. Hầu hết các truyện dân gian có xu hướng xây dựng theo cấu

trúc cốt lõi ấy, chỉ thay đổi các chi tiết mà dân gian đã nhào nặn từ một hoàn cảnh

thực tiễn và đưa vào trong tác phẩm.

Trong phần này, chúng tôi sẽ nghiên cứu về các motip tiêu biểu dựa trên các truyền

thuyết đã được nêu ở trên và một số các truyền thuyết khác. Motip là yếu tố để tạo

thành tác phẩm. Nó thường xuất hiện lặp đi lặp lại ở nhiều truyện dân gian. Với tần

số xuất hiện ấy, motip truyện dần dần đóng một vai trò quan trọng. Nó không chỉ là

một đơn vị nghệ thuật của tác phẩm mà còn có ý nghĩa trong việc tìm hiểu quan

niệm thẩm mĩ về cuộc sống được nhân dân gửi gắm vào đó.

3.3.1. Motip xuất thân thần kì và motip phạt – thưởng

Trong dân gian, đối với những nhân vật và loài vật có đặc điểm khác thường,

phi phàm thường được nhân dân khoác cho một nguồn gốc xuất thân kì lạ, hoặc

cũng mang một tính cách khác thường. Trong truyền thuyết về cá Ông, chúng ta lại

thấy motip ấy. Cá Ông là tướng quân của Long Vương, con vua Thủy Tề, thần

tướng nhà trời. Tư duy thần thoại, truyền thuyết, cổ tích vốn được xem là tư duy của

loài người thuở còn mông muội, chưa lý giải được điều gì bằng khoa học mà chỉ

bằng óc tưởng tượng để giải thích. Nhưng óc tưởng tượng ấy không phải chỉ chung

chung, giản đơn mà đi với một sự khôn khéo trong lựa chọn. Chúng ta có thể thấy,

không phải ngẫu nhiên cá Ông lại được gắn với một nguồn gốc thần linh. Motip

xuất thân thần kì này có chức năng dự báo những việc làm cao cả về sau mà trong

tư duy của nhân dân, chỉ có thần thánh hoặc bậc tài năng hơn người mới tạo ra

được. Ở đây, cá Ông đã khiến dân gian ngưỡng mộ, kính nể vì hành động cứu người

trong cơn bão tố biển khơi mà không ai nghĩ có thể sống sót qua được. Vậy mà cá

Ông đã làm được điều thần tích ấy, nên dân gian đã lựa chọn một nguồn gốc cao

quý để tô điểm cho Ông một sự thần thánh khác thường. Điều đó cho thấy một tư

duy về óc tưởng tượng có lựa chọn xác đáng của nhân dân. Sự việc tới đó tưởng

67

như đã đủ. Nhưng dân gian chưa dừng óc tưởng tượng của mình ở đó mà còn tiếp

tục đẩy xa hơn. Trong xuất thân thần kì còn có motip về vị thần nhà trời phạm tội

nên bị đày xuống trần chịu phạt. Đây có thể xem là một motip cổ xưa và chung cho

nhiều nền văn học cả phương Đông lẫn phương Tây. Quỷ Satan trong Kinh Thánh

cũng chính là một vị thiên thần nhiều quyền lực. Bởi chính sự sa ngã, kiêu ngạo và

phạm tội với Chúa trời mà bị đày xuống trần làm quỷ Satan. Cá Chép Vàng cũng có

nguồn gốc thiên đình, vì mắc lỗi mà phải xuống trần chịu lỗi, phải tu hành cho đủ.

Khi đã tu thành chính quả thì cá chép hóa rồng bay về trời. Trong sự tích con hổ, hổ

vốn là một vị thần nhà trời tên Phạm Nhĩ. Phạm Nhĩ cậy sức khỏe và tài phép hơn

người nên thường gây sự, làm loạn trên thiên đình. Sau đó, Ngọc Hoàng phải nhờ

đến Phật bà bắt và đày Phạm Nhĩ xuống trần gian. Nể tình Phạm Nhĩ vốn là vị thần

oai linh nên trời cho xuống trần làm chúa tể sơn lâm, là loài hổ hay còn gọi Ông Ba

Mươi. Và đến cá Ông, chúng ta lại gặp lại motip thần nhà trời bị phạt xuống trần

tích công chuộc lỗi. Dường như dân gian không hài lòng với vị thần tốt bụng cứ

ngụp lặn ngoài khơi cứu người nên phải tạo ra một cái cớ hợp lý cho hành động ấy,

bằng cách cho vị thần phạm tội và bị đày xuống trần làm công việc gian khó ấy. Tới

đây, tư duy dân gian lại một lần nữa thể hiện sự triệt để của mình trong lý giải và

mơ ước. Tới truyền thuyết 7 và 12, chúng ta thấy có một motip khác, mà chúng tôi

gọi là motip thưởng, đó là cá Ông khi cứu người tích đức đủ sẽ có cơ hội hóa rồng.

Motip cá hóa rồng cũng là motip rất phổ biến. Trong dân gian vẫn kể về tích cá

chép vượt Vũ môn tam cấp để được hóa rồng hay thuồng luồng nhả ngọc hóa rồng.

Ở đây, có một hoặc nhiều sự thử thách được đặt ra để được nhận thưởng. Cá chép

muốn hóa rồng phải vượt qua cổng vũ môn rất cao được tạo ra từ linh khí của trời

đất. Thuồng luồng muốn hóa rồng đã phải đưa người qua sông trong nhiều năm và

còn phải nhả viên ngọc đã ngậm trong miệng để được hóa rồng. Trong truyền thuyết

7, cá Ông muốn hóa rồng phải tích đức đủ và còn phải tìm cho ra được vật báu mà

ngày trước Ông chểnh mảng trông coi nên đã làm mất. Trong truyền thuyết 12, cá

Ông phải làm công việc cứu người làm sao cho đủ để vượt được vũ môn mà triều

đình mở ra để hóa rồng. Có thể thấy một triết lý nhân sinh quan và mơ ước của nhân

dân được chuyển tải vào trong truyện: sau tất cả những nỗ lực vượt qua khó khăn

thì luôn có phần thưởng xứng đáng được trao tặng. Vì công sức bỏ ra của cá Ông rất

nhiều nên nhân dân đã tưởng tượng ra một món quà xứng tầm cho công đức ấy.

68

Chính là cá hóa rồng. Khi cá thành rồng sẽ được tung hoành bay trên mây hoặc vẫy

vùng nơi biển cả, tự do không gì sánh bằng. Rồng còn hô mưa gọi gió mang đến

mùa màng tươi tốt. Hơn thế nữa, rồng còn là biểu tượng của sức mạnh, quyền uy và

sự cao quý. Hóa rồng – một sự lý tưởng là món quà ý nghĩa nhất mà nhân dân dành

tặng cá Ông. Nhưng cái ẩn đằng sau điều này chính là óc công bằng và ước mơ tới

cuộc sống tốt đẹp lý tưởng của nhân dân. Chúng ta vẫn nghe về chàng cóc lấy vợ

tiên, Sọ Dừa lấy được người vợ đẹp người đẹp nết, cô Tấm sau bao gian khổ cũng

được trở về cung có cuộc sống hạnh phúc…và cá Ông làm việc thiện tới một lúc

nào đó sẽ được hóa rồng. Điều này bộc lộ sinh động quan điểm thẩm mĩ của nhân

dân về cái đẹp trong cuộc sống, về sự công bằng với số phận không chỉ con người

mới có mà cả muôn loài cũng thế.

3.3.2. Motip cái chết thần kì

Motip cái chết thần kì xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm văn học dân gian.

Đặc biệt là trong truyền thuyết về các anh hùng lịch sử, motip về cái chết thần kì rất

phổ biến. Trong bài viết “Về sự tái sinh của nhóm truyền thuyết anh hùng bộ lạc ở

vùng Thuận Hóa” của Hồ Quốc Hùng, tác giả có nói về motip này, trong đó nổi lên

một dạng motip người anh hùng chết không toàn thây theo công thức tách nhập để

hòa vào núi sông. Không rõ có mối tương quan hay chuyển hóa gì ở công thức này

giữa người anh hùng vào cá Ông hay không, nhưng ở đây, chúng tôi gặp lại motip

về sự chết thần kì này ở khá nhiều truyện tại các vùng biển liên quan đến cá Ông.

Ví dụ 1: Truyện này được ghi chép ở Lăng cá Ông trên đường Hoàng Hoa Thám,

thành phố Vũng Tàu. Truyện kể rằng vào thế kỉ XIX có một đầu cá Ông rất lớn đã

dạt vào Bãi Sau. Đầu cá to đến nỗi không thể kéo vào bờ. Ngư dân phải lấy tre rào

lại cho thịt tan hết mới lấy được cốt đưa về miếu Bãi Trước để thờ. Cùng thời gian

đó, có một thân cá Voi rất lớn đã dạt vào biển Cần Giờ (Gia Định), một phần đuôi

cá dạt vào biển Long Hải (Vũng Tàu). Ngư dân truyền rằng đây là vị tướng quân

của Long vương ra lệnh phải bảo vệ thuyền bè qua lại trong vùng biển. Nhưng vị

tướng này đã không hoàn thành nhiệm vụ khiến cho chiếc tàu bị đắm trong cơn bão

tố nên Long vương nổi giận hạ lệnh chém làm ba khúc [53].

Ví dụ 2: Tương tự như truyện trên, ở Kiểng Phước (Gò Công) cũng có một đền thờ

cá Ông như thế. Tương truyền rằng một lần trời đổ mưa ròng rã ba ngày đêm, ngoài

bờ sông Soài Rạp có một cá Ông lụy vào nhưng chỉ có phần giữa, khúc đuôi và

69

khúc đầu đâu mất. Nhân dân trong vùng lấy cốt Ông đưa vào thờ ở đình làng Vàm

Láng (thuộc Kiểng Phước). Không bao lâu, một ngư phủ ở Phước Hải qua Vàm

Láng xin thỉnh cốt Ông về Bà Rịa và đền bù lại cho dân làng 100 quan tiền. Người

đó cho biết rằng, cá Ông lụy về báo mộng cho hay vì Ông phạm tội với thiên đình

nên bị phạt thân xác ở ba nơi. Đầu Bà Rịa, thân ở Kiểng Phước, đuôi ở Vũng Tàu.

Nếu dân làng Phước Hải tìm đủ ba khúc lại trong một lăng thờ thì Ông sẽ phù hộ

cho làng Phước Hải thịnh vượng. Nhưng lời đề nghị ấy đã không được chấp nhận,

vì dân làng Vàm Láng cũng tin tưởng tôn kính khúc xương dù chỉ là khúc giữa của

Ông cũng đem đến nhiều phúc lợi [52].

Ví dụ 3: Ở dinh Vạn Phước Lộc, ngụ phường 9, thị xã Lagi, tỉnh Bình Thuận cũng

lưu truyền một truyền thuyết mà chúng tôi có dịp nghe qua lời kể của bác Nguyễn

Sáng (thủ từ dinh Vạn Phước Lộc). Truyện kể rằng: tại dinh hiện nay thờ rất nhiều

Ông, trong đó có một Ông khi lụy vào chỉ có phần đầu. Một phần dạt về Mũi Điện ở

Hàm Thuận Nam, một phần dạt về Phước Hải Vũng Tàu. Ngư dân truyền rằng Ông

mắc tội lỗi gì đó nên bị xử chia làm ba khúc. Sau đó, Ông ở không yên và báo mộng

về báo mọi người tìm đầy đủ thân xác cho Ông thì Ông phù hộ cho dân làng, nhưng

điều đó đã không thể thực hiện vì nơi khác họ cũng có quan niệm “dù chỉ là một

khúc của Ông cũng đem lại phúc ấm cho dân làng” nên họ không cho đưa đi.

Với dạng truyện này, chúng tôi được ngư dân khẳng định là đã từng có nhưng lâu

lắm rồi, từ đời ông cố ông sơ tới giờ, con cháu chỉ biết và thờ như thế chứ thực sự ra

sao thì cũng không rõ lắm.

Cái chết không toàn thây được dân gian lưu truyền thường xảy ra trong hai trường

hợp: một là chết không toàn thây nhằm để chê trách, lên án đối tượng sống thất

nhân nên phải chịu tội. Hai là cái chết không toàn thây nhằm để tô điểm cho cá tính,

đức tính hơn người của nhân vật đó. Trong motip người anh hùng chết không toàn

thây thuộc vào trường hợp thứ hai, có dạng: Người anh hùng thất trận -> thân chia

ba khúc hòa vào núi sông. Còn ở truyền thuyết cá Ông có dạng: Ông không hoàn

thành nhiệm vụ -> thân chia làm ba khúc chịu tội. Ở đây, cá Ông bị xử phạt nhưng

không phải là đối tượng của sự lên án, mà theo cách kể của nhân dân, sự chết của

Ông là đối tượng của lòng tôn kính, thương cảm. Dường như lờ mờ có một sự tương

quan trong cái chết thần kì của người anh hùng được chuyển hóa vào trong dạng

truyện này. Đây là một ý thức đề cao đối tượng thờ của nhân dân. Về cái chết của

70

người anh hùng, đó là “cái chết hòa thành sự sống bất tử. Anh linh các vị anh hùng

hòa vào hồn thiêng sông núi sống mãi muôn đời với con cháu” [4, tr.51]. Ở đây, cái

chết kì lạ của Ông được nhân dân khoác cho màu sắc tâm thức của nhân thần. Hơn

nữa, ở đây cũng có một motip nhỏ khác, đó là báo mộng. Báo mộng là một motip

rất phổ biến ở nhiều truyện trong dân gian. Nhưng hầu hết motip báo mộng chỉ xuất

hiện trong hành động của con người, rất hiếm có tích về sự báo mộng trong hành

động của loài vật. Trường hợp cá Ông như thế này là hiếm thấy. Như thế, motip về

cái chết kì lạ của Ông được tôn trong sự thần kì và motip báo mộng, cho thấy trong

tâm thức của nhân dân, người ta đã đồng nhất cá Ông với nhân thần. Ông là một vị

tướng quân chứ không đơn giản chỉ là loài cá có thiện tính sinh sống ngoài biển

khơi.

Trong motip về cái chết thần kì của cá Ông còn xuất hiện một hình thức khác, đó là

cá về chầu Ông Bà. Nói cách khác là cá trở về với tổ tiên.

Ngư dân ở dinh Ông Phước Hải, xã Long Hải, huyện Long Điền, Vũng Tàu còn kể

cho chúng tôi nghe một câu chuyện khá li kì về việc mai táng Ông như sau:

Nhiều trường hợp, cá Ông mắc cạn vào bờ được ngư dân giúp sức đưa ra

nhưng hôm sau đã thấy cá Ông đó lụy vào trong bãi. Người dân tin rằng đó là cá về

chầu Đức Ông, Đức Bà. Có lần cá Ông lụy gần đảo Côn Sơn, các thuyền ngư liền

hợp sức đưa xác Ông vào đảo để an táng vì từ đó vào đảo gần hơn vào đất liền.

Nhưng kì lạ thay, khi thuyền quay hướng về phía đảo để đi thì một đàn cá Voi ở đâu

tới cản mũi thuyền không cho đi. Ngư dân hiểu rằng Ông không chịu mai táng ở

đảo nên quay thuyền vào đất liền thì đàn cá Voi không cản lối mà còn hộ tống đoàn

thuyền đưa Ông đã lụy vào bờ. Khi gần tới nơi, đoàn cá Voi phun nước ở lỗ đạo

hàm ý cảm ơn rồi quay ra biển. Thế nên ở đảo Côn Sơn không có mộ cá Voi. Ngư

dân cho rằng đó là vì cá Voi lụy luôn về với ông bà. Ông bà trước được mai táng ở

đâu thì lớp sau sẽ theo về lụy cùng nơi đó.

Ngư dân sống gần ngôi miếu thờ cá Ông “Ngư Linh Miếu” ở vùng biển xã

Cảnh Dương (Quảng Trạch, Quảng Bình) cũng lưu truyền một tích, được ông Phạm

Quốc Hồng, thường trực hội ngư dân kể lại như sau: trước đây, có một cá Cô bị mắc

cạn vào bãi biển xã Cảnh Dương. Ngư dân thấy vậy liền hợp sức đưa Cô trở lại

biển. Cô ra ngoài thì bơi vài vòng rồi biến mất. Nhưng đến sáng hôm sau, lúc mực

nước ở mức cao nhất thì cũng cá Cô đó lại vào ngay chỗ cũ và đã lụy. Mọi người tin

71

rằng đây là một cá Cô vào chầu Đức Ông, Đức Bà và mọi người đưa về mai táng

chu đáo cho Cô. Người dân cũng tin rằng vì Cảnh Dương là một vùng đất lành nên

các Đức Ông, Đức Bà đã chọn nơi đây làm nơi nương tựa để lụy. Đây là một điều

tốt lành cho một năm làm ăn may mắn [32].

Ở thôn An Đông, An Vĩnh, Quảng Ngãi cũng lưu truyền một câu chuyện về

Ông lụy rất kì lạ. Truyện được kể bởi anh Nguyễn Đạt, người trực tiếp dìu xác Ông

vào bờ như sau: một hôm, anh cùng đứa con trai đầu đi ra khơi lặn ốc thì thấy Ông

lụy. Hai cha con liền cho thuyền quay hướng rồi dìu xác Ngài vào bờ để an táng.

Ban đầu anh định đưa Ông vào lăng Dạn (thôn An Đông) để mai táng nhưng khi

cho thuyền chạy thì thế nào cũng không được. Thấy Ông ngỏ ý về hướng Tây, anh

cho thuyền chạy theo hướng này thì thuyền đi nhanh và nhẹ hơn nhiều. Sau khi

chôn cất xong, nghe các vị cao niên truyền lại mọi người mới biết sở dĩ Ông không

vào lăng Dạn do ở đó chỉ những vị có chức tước lớn mới được vào tu [55].

Những truyện như trên chúng tôi thấy có ở rất nhiều nơi. Ngư dân biển truyền và tin

rằng cá Ông rất linh thiêng, sống có nơi mà lụy cũng có nơi chứ không phải chỗ nào

Ông cũng vào. Về sự lụy của cá Ông như thế này có thể xem là một motip con trong

motip về cái chết thần kì: motip cá về chầu ông bà. Motip này là một sự chuyển hóa

uyển chuyển từ tâm thức cội nguồn “Cáo chết ba năm vẫn quay đầu về núi”. Rất

nhiều truyền thuyết về các vị anh hùng lịch sử khi chết và có motip dạng này: người

anh hùng phải trở về được quê nhà mới chịu tắt thở hoặc để đầu rơi xuống đất rồi

chết. Còn nếu chết mà chưa trở về tới quê nhà được thì luôn có một điềm báo mộng

về để bà con dân làng tìm đưa xác về quê hương bản quán chôn cất. Ở đây tình tiết

cá Ông lụy cũng được nhân dân tin và huyền thoại gần như thế. Khi lụy cá luôn tìm

về đúng nơi của Ông bà. Thực tế là có những nơi cá thường lụy nhưng có những nơi

không bao giờ thấy cá dạt vào. Có thể hình dung ra một diễn tiến như sau về tâm

thức của nhân dân với cá Ông: càng về sau này, hình tượng cá Ông càng có một sự

chuyển hóa đan xen giữa hình tượng của thần thú sang hình tượng nhân thần.

Những giá trị về đạo lý nhân dân nhẹ nhàng đưa vào trong các tích truyện cá Ông.

Đây không chỉ là một sự để tỏ lòng tôn kính mà còn là cách để nhân dân lưu truyền

những giá trị đạo đức tốt đẹp thông qua hình tượng cá Ông.

3.3.3. Motip cá cứu nạn

72

Truyền thuyết từ 7 đến 13 thuộc vào kiểu truyện về nguồn gốc ra đời của cá

Ông. Nhân dân lấy một nhân vật, một vị thần, một vật thần…để giải thích nguồn

gốc ra đời của cá Ông. Cụ thể như sau:

a. Thần mắc tội → cá Ông → cứu người

b. Áo cà sa → cá Ông → cứu người

c. Thần nhà trời → cá Ông → cứu người → hóa rồng

d. Quân Long Vương → cá Ông → cứu người → xử phạt

e. Con trai vua Thủy tề → cá Ông → cứu người tích đức +tìm vật báu →hóa rồng

Từ những dạng thức thức trên, có thể thấy motip cá Ông cứu người (*) là yếu tố

quan trọng nhất, nhưng ở mỗi truyện thì vị trí của yếu tố này không giống nhau. Ở

ba dạng đầu, motip cá Ông cứu người rất đơn giản. Đây là điều quan trọng khi xem

xét về một sáng tác của dân gian. Vấn đề này được tác giả Nguyễn Tấn Đắc đánh

giá như sau: “Trong khi xem xét những dạng khác nhau của huyền thoại, cần đặc

biệt chú ý những dạng đơn giản này. Càng ít yếu tố và liên hệ, nó càng dễ gần với

những ý nghĩ xa xưa, nguyên thủy hơn. Huyền thoại, ban đầu thường mới chỉ là

những ý tưởng đơn giản về những liên hệ thần kì mà người nguyên thủy đã tưởng

tượng ra theo cách suy nghĩ đặc biệt của họ. Từ những ý nghĩ thần kì ban đầu đó

dần dần đã xây dựng nên những câu chuyện thần thoại có đầu có đuôi, gồm cả một

chuỗi nhiều yếu tố và liên hệ” [57, tr.52]. Ở dạng thức a, b, motip cá cứu người

không có mối liên hệ về sau, nhưng qua đến dạng c, d, e thì khác, motip cá cứu

người đã có sự liên hệ ràng buộc: thưởng – phạt. Từ chi tiết đơn giản cá thấy người

gặp nạn thì cứu, bây giờ đã sang một liên hệ phức tạp hơn: cứu được nhiều người

thì tích được nhiều công đức hóa rồng/ cứu người không thành bị xử chém/ cứu

người tích đức + tìm vật báu thì được hóa rồng. Điều đó có nghĩa rằng, cứu người là

nghĩa vụ và trách nhiệm của cá Ông. Có thể thấy sự phát triển của motip: cá cứu

người -> cứu người là trách nhiệm, có thưởng phạt. Điều này cho thấy, trong tâm

thức cộng đồng ngư dân nhìn nhận về cá Ông có sự biến chuyển. Cá Ông được tôn

là phúc thần, nhưng ngầm trong đó, nhân dân cũng đánh giá về mối quan hệ tương

hỗ công bằng giữa cá Ông và ngư dân. Ngư dân bảo vệ Ông, giúp Ông khi Ông gặp

nạn (mắc cạn, ăn phải con sam, mắc vào lưới…), khi Ông lụy được chôn cất cẩn

thận, được lập lăng thờ cúng hằng năm đầy đủ. Ngược lại, cá Ông có trách nhiệm

phải cứu giúp con dân gặp nạn. Cứu thành thì có thưởng, không thành phải chịu tội.

73

Đây là một sự phát triển trong tư duy nhận thức, đánh giá mối quan hệ của con

người với vạn vật không phải hoàn toàn lệ thuộc tự nhiên, vào thần thánh mà đã có

sự khẳng định, độc lập nhưng vẫn nằm trong mối tương trợ lẫn nhau. Và dù thế nào,

con người vẫn luôn là trung tâm của mọi sự vật, sự việc trong vũ trụ này.

Qua đến kiểu truyện thứ hai, mà chúng tôi cho là rất tiêu biểu vì kiểu truyện

này đã và đang ngầm diễn tiến trong các truyện có xu hướng huyền thoại hóa hiện

nay. Đó là kiểu truyện cá Ông cứu nạn. Đặc biệt là kiểu truyện cá Ông cứu vua Gia

Long rất phổ biến trong đời sống ngư dân. Kiểu truyện cá cứu vua có dạng: vua gặp

nạn → cá Ông cứu → khẳng định chân mạng đế vương (i)

Nói cách khác, vua được cứu vì có chân mạng đế vương. Dạng thức này sau đó đã

chuyển qua các truyện cá cứu người của ngư dân biển ngày nay. Qua những truyện

được liệt kê ở phần trước, cùng với việc đi điền dã, chúng tôi nhận thấy tất cả các

câu chuyện kể về cá Ông cứu người dân gặp nạn luôn có một chi tiết mà chúng tôi

cho là rất quan trọng: cá Ông chỉ cứu những người sống có đức độ. Người sống

không tốt, không tu chí làm ăn, nhất là với nghề đi biển thì dù có kêu xin cũng

không được Ông cứu. Kể về điều này, bác Lâm Văn Giỏi (70 tuổi, Vạn trưởng vạn

ngư nghiệp Tân Long, thị xã Lagi, Bình Thuận) nhấn mạnh với chúng tôi rằng:

“Cũng có nhiều trường hợp khi đi hành nghề trên biển, ngư dân bị sóng to gió lớn,

hoặc tai nạn chìm thuyền, trôi nổi lênh đênh trên biển, nếu người nào có phước đức

nhân duyên thì được Thần Ân Nam Hải dựa vào người làm cho mê man rồi để trên

lưng đưa vào bờ cứu sống. Người có nhân duyên với Ông cũng khó lắm, mười

người có khi chỉ có một người được Ông cứu thôi. Còn như tích vua Gia Long là vì

vua có chân mạng đế vương nên khi Ông cứu, Ông cứu hết cả vua và quan quân vì

phải có quân thì vua mới thành nghiệp. Việc cá Ông cứu người là có thật, vì lẽ đó

mà dân rất tin tưởng và thường cầu nguyện mỗi khi gặp tai nạn trên biển”. Yếu tố

người phải có đức độ nhân duyên mới được Ông cứu chỉ đang trong quá trình nhào

nặn, chúng tôi cho rằng đến một lúc đủ độ chín thì nó sẽ trở thành một chi tiết trong

hầu hết các truyền thuyết cá Ông cứu người của giai đoạn sau. Có thể khái quát

dạng thức đó như sau: người gặp nạn → cá Ông cứu → khẳng định người sống có

đức độ (i’). Nói một cách khác thì người được cứu vì người đó sống có đức độ.

Kết hợp giữa hai dạng thức (i) và (i’), chúng ta thấy xuất hiện một motip mới:

motip cá cứu người có điều kiện (**).

74

Ở đây, giữa hai motip (*) và (**) có một mối quan hệ khăng khít với nhau. Motip

sau là bước chuyển và phát triển lên từ motip trước. Nói rõ hơn thì đây là một bước

chuyển biến trong tâm thức và ý thức nhân dân trong sự yêu chuộng tính công bằng

và đi lên trong ý thức con người. Từ motip cá cứu người → cá cứu người có điều

kiện, rõ hơn là từ tâm thức cho rằng cá cứu tất cả mọi người bị nạn và việc làm này

thuộc về trách nhiệm của cá, thì sau đó đã thành cá cứu người với điều kiện con

người phải có lối sống đức độ. Trọng tâm trách nhiệm từ loài vật đã được chuyển

sang cho con người: muốn được cá cứu, nhất định phải là người sống có phước đức.

Nếu motip ở các thần thoại khác đòi hỏi phải có sự tham gia của một yếu tố ngẫu

nhiên thiên định, thì ở đây, motip này lại cần có sự tham gia của yếu tố nhân định.

Nhân định ở đây, chính là bản tính lương thiện của con người hoặc một tố chất tốt

đẹp nào đó để cảm động được cá Ông thì mới được cứu (sống tốt đẹp, khấn nguyện

sẽ ăn chay trường, làm việc phước đức…). Hẳn ở đây, lòng yêu chuộng sự công

bằng, yêu chuộng cái đẹp, nhân nghĩa và tinh thần khuyến khích con người cần phải

sống bác ái với nhau đã trở thành hạt nhân cho sự cân chỉnh lại nhận thức về hành

động cứu người của cá Ông. Ngầm trong đó, dân gian cũng chuyển hóa yếu tố chính

thúc đẩy cá Ông cứu người vì sự thưởng phạt sang cho con người cần sống tốt để

nhận được sự cứu giúp của Ông. Điều này cho thấy tính chủ động của con người

trước biển khơi bao la và dữ dội. Thay vì đợi chờ nhận được sự cứu giúp của Ông

một cách ngẫu nhiên (thực tế thì có lẽ có cả sự ngẫu nhiên), thì con người chuẩn bị

cho mình một khả năng sẽ được Ông cứu giúp nhờ vào niềm tin và lối sống tốt đẹp

của mình. Đấy là một nguồn sức mạnh trong tâm linh để con người bớt nỗi lo sợ,

thêm sự bình tĩnh để đi vào nơi khó khăn trong cuộc mưu sinh.

Qua các motip đã phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy truyền thuyết về cá

Ông không phải hoàn toàn độc lập trong cấu trúc. Nó có sự chuyển hóa từ các motip

dân gian vốn có trước đây để hình thành một cấu trúc cho riêng. Trong sâu xa, nó

chính là một phần sự chuyển hóa ý thức của nhân dân vùng nông nghiệp lúa nước

khi mở rộng địa bàn nghề nghiệp hướng ra biển khơi. Đằng sau lớp vỏ văn bản chứa

đựng những ý nghĩa phong phú về mặt tinh thần của nhân dân. Chính điều đó đã tạo

cho truyền thuyết cá Ông những tình tiết li kỳ, hấp dẫn và nổi bật lên được tính

thiêng liêng của Ông đối với đời sống ngư dân.

75

Qua toàn bộ những gì chúng tôi đã trình bày, có thể thấy tựu chung lại một

số điểm sau:

- Thứ nhất, truyền thuyết cá Ông mang một dấu ấn về sự khai thác biển mạnh mẽ

của nhân dân trên vùng đất mới. Ông luôn nằm trong niềm tin kính ngưỡng tôn thờ,

biết ơn của nhân dân, cho nên trong các tích về Ông thường nằm trong khuynh

hướng được thần thánh hóa nhằm tăng thêm vẻ đẹp và tính thiêng liêng của Ông

trong tín ngưỡng dân gian.

- Thứ hai, như nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng đã nói “Bao giờ còn Dân thì bấy

giờ cũng còn Folklore, Dân vạn đại thì Folklore cũng vạn đại” [57, tr.14]. Truyền

thuyết về cá Ông cũng thế, khi nào còn người đi biển thì khi đó tín ngưỡng và

truyền thuyết về cá Ông sẽ còn mãi với thời gian. Truyền thuyết về cá Ông ắt hẳn sẽ

còn tiếp tục được nhào nặn, hình thành trong những yếu tố tâm lý và quan niệm ở

thời đại mới. Đó là một hệ truyền thuyết “sống” theo cả hai nghĩa: sống mãi với thời

gian và vẫn sẽ còn những truyền thuyết mới ra đời. Nhưng điều đó cần độ lắng của

thời gian để những truyện mang tính sự kiện đủ điều kiện trở thành tác phẩm nghệ

thuật.

- Thứ ba, các yếu tố nghệ thuật trong truyền thuyết cá Ông cho thấy đó là sự chắt

lọc, nhào nặn rất uyển chuyển của nhân dân từ cơ sở của thực tiễn cuộc sống, với

các chi tiết có thực, việc thực. Hơn thế nữa, dưới góc nhìn của nhân dân, hình tượng

cá Ông không chỉ nằm hẹp trong một phạm vi vị thần biển, mà còn tích hợp trong

đó những giá trị đạo đức, khuyến khích con người sống hướng thiện, ước mơ và lý

tưởng về cái đẹp. Chúng tôi cho đây là một sự thông minh và cực kì khéo léo của

nhân dân trong sự chuyển hóa lý thuyết đạo đức vào các truyền thuyết cá Ông để trở

thành một động lực hành động, hướng tới cuộc sống cao đẹp hơn.

76

Chương 4 - MỐI QUAN HỆ GIỮA TRUYỀN THUYẾT

VÀ TỤC THỜ CÁ ÔNG

Trong phần này, chúng tôi sẽ tiến hành tìm hiểu vào sự tương tác giữa truyền

thuyết và tục thờ cá Ông. Đi vào vấn đề này, chúng tôi sẽ nghiên cứu trên hai bình

diện sau: thứ nhất là mối quan hệ trên các nghi lễ và phần hội với truyền thuyết;

Thứ hai là mối quan hệ trong tâm thức khi kể và khi thờ cá Ông của ngư dân.

4.1. Mối quan hệ trong sự tương tác giữa truyền thuyết với phần lễ và phần hội

Con đường thiêng hóa của một nhân vật, một loài luôn bắt đầu từ một sự

ngưỡng mộ công đức bởi nhân dân. Sau đó, dân gian sẽ lấy một chi tiết nào đó về

nhân vật, về loài đó rồi huyền thoại hóa lên trong tưởng tượng để mang lại tầm vóc,

hình ảnh lớn lao khác thường. Chính những yếu tố huyễn hoặc này tạo cho truyền

thuyết một màu sắc thần linh, kết hợp với tín ngưỡng thờ làm cho nhân vật chính

trong truyền thuyết trở nên sống động, thiêng liêng trong tâm thức của nhân dân.

Trong nhiều tín ngưỡng dân gian, truyền thuyết và tín ngưỡng, lễ hội thường có mối

quan hệ mật thiết với nhau. Nếu lễ hội là nơi lưu giữ để truyền thuyết sống mãi

cùng thời gian thì nhiều hình thức diễn xướng, nghi lễ trong lễ hội có nguồn gốc

xuất phát từ truyền thuyết. Nói về vấn đề diễn xướng và truyền thuyết, tác giả

Nguyễn Khắc Xương đã viết rằng:

“Diễn xướng không phải chỉ để góp vui trong hội làng mà còn mang một mục

đích quan trọng hơn, một ý nghĩa thiêng liêng đối với cả dân làng. Thông qua diễn

xướng với các tính chất tín ngưỡng, người dân lao động nông thôn dưới chế độ

phong kiến – lạc hậu về tri thức khoa học tự nhiên, cũng như không hiểu biết mọi

quy luật của vận động xã hội, đã đặt biết bao hi vọng tốt đẹp vào quyền phép thiêng

liêng, mong mỏi và tin tưởng rằng thần thánh sẽ hiển ứng và phù hộ cho dân làng,

cho dân được một đời sống tươi vui, mùa màng tốt đẹp, sinh nở “con đàn cháu

đống”… Diễn xướng ấy không chỉ có giá trị thẩm mĩ mà còn có giá trị thực hành;

không chỉ đem lại hứng khởi mĩ cảm cho người tham dự mà còn đem lại cho họ

niềm tin sẽ đạt tới cuộc sống no ấm, an vui… Nhưng không nên quên một yếu tố

quan trọng khác, đó là cơ sở của thần thoại, truyền thuyết của các diễn xướng. Nếu

những diễn xướng hội làng được tổ chức chỉ để mua vui, giải trí, không cần được

77

giải thích bởi lí do nào khác, thì diễn xướng lễ tục lại được giải thích bằng thần

thoại, truyền thuyết” [57, tr.153].

Như thế, trong sâu xa truyền thuyết và tục thờ chứa đựng một mối quan hệ khăng

khít “Tín ngưỡng là vú nuôi của truyền thuyết và cổ tích. Ngược lại truyền thuyết và

cổ tích là kẻ tuyên truyền đắc lực cho tín ngưỡng” [57, tr.64]. Ở cấp độ phổ biến

nhất truyền thuyết là sự lý giải cho tục thờ. Ở một cấp độ cao hơn, truyền thuyết còn

chi phối cả vào lễ nghi và diễn xướng lễ hội của tục thờ để tái hiện lại một sự tích

thần linh, mang một ý nghĩa thiêng liêng nào đó.

Hàng năm, tại các lăng thường tổ thức các ngày lễ cúng Ông theo lệ xuân

thu nhị kì. Cũng như các lễ hội khác, tập tục thờ cá Ông bao hàm nhiều nghi thức lễ

lạc, hội hè. Nhưng ngoài lễ hội cầu ngư được xem là nghi thức chính trong năm, lễ

thờ cá Ông còn có các nghi lễ khác cũng không kém phần trang trọng và độc đáo: lễ

mai táng xác Ông, lễ thượng ngọc cốt, lễ tế xuân, lễ hạ nghệ xuống vụ cá, lễ mãn

mùa. Chính những lễ này đã tạo tục thờ cá Ông một sắc thái riêng, bởi không như lễ

tế các vị thần khác phải có kì có hạn mới được tổ chức, vào những mùa “biển đói”,

người dân vẫn mở lễ cúng Ông để cầu xin sự phù hộ cho mùa cá được no đủ.

Đối với ngư dân, ai phát hiện xác cá Ông lụy vào đầu tiên thì phải chịu tang Ông

như người con trai trưởng, phải để tang Ông trong 24 hoặc 36 tháng tùy vào Ông to

hay Ông nhỏ. Sau các nghi lễ nghiêm trang, mọi người đưa Ông đi chôn cất. Sau

khi mãn tang, người ta tổ chức lễ rước ngọc cốt hay còn gọi là lễ nghinh thần nhập

điện. Người ta quật cốt cá ông lên, dùng rượu rửa sạch và dùng nhang, trầm để xông

cốt. Rồi đem cốt bỏ vào quan được đóng bằng gỗ hoặc xây bằng xi măng trong điện

để bảo quản. Trong lễ hội cầu ngư, tùy mỗi nơi người ta sẽ chọn ngày Ông lụy hoặc

ngày được nhận sắc vua ban để làm ngày lễ cầu ngư. Chính điều này khiến cho lễ

cầu ngư diễn ra liên tục ở nhiều nơi. Lễ này có đặc điểm nếu vạn này tổ chức thì

ban chánh lễ ở các vạn khác gần đó sẽ được mời tới dự và ngược lại. Điều này đã

tạo nên tính cố kết cộng đồng của cư dân biển để cùng giúp đỡ nhau trong làm ăn,

tăng thêm tình đoàn kết giữa cư dân trên phạm vi rộng lớn. Lễ cầu ngư là lễ chính

nên được tổ chức rất long trọng. Trước khi lễ diễn ra, nhiều ngày trước đó mọi

người đã tấp nập cho việc chuẩn bị từ phương tiện, người, của cải để ngày lễ diễn ra

được êm đẹp. Lễ thường diễn ra trong ba ngày ba đêm với các nghi lễ rước xách và

phần hội. Tùy mỗi nơi mà người dân tổ chức lễ này với nhiều nghi thức lễ hoặc rút

78

gọn, song thông thường thì ở đâu người ta cũng có các phần lễ: lễ nghệ sắc, lễ cung

nghinh Ông Nam Hải, lễ cúng các chư vị Tiền Hậu hiền, lễ phóng sanh, lễ cầu quốc

thái dân an… Sau các nghi lễ cúng Ông và các vị thần, người ta tổ chức hát bả trạo

hoặc hát bội. Đây vừa là phần hội cho bà con xem và đồng thời cũng là nghi lễ để

phục vụ Ông về cùng hưởng lễ vui chơi với con cháu. Phần hát thường được tổ

chức vào ban đêm, còn ban ngày thì diễn ra các cuộc thi với các trò chơi dân gian

độc đáo.

Đối với nhiều trò diễn xướng lễ tục ở các tín ngưỡng thờ thần trong đình

làng, truyền thuyết hoặc thần thoại thường đóng một vai trò cơ sở cho các trò diễn

xướng. Trong hội Thánh Gióng thường có tục cúng ông bát cơm với đĩa cà, dựa trên

truyền thuyết cậu bé Gióng ăn cơm với cà mà lớn nhanh như thổi. Ngoài ra, dân

làng còn trồng cả một sào cà để dành riêng về cho Ngài về hái vào ngày lễ hội diễn

ra [45]. Trong truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh có chi tiết hai người cùng tranh

một nàng làm vợ. Khi đám rước dâu của Sơn Tinh vừa ra khỏi thành Phong Châu

một quãng thì nghe tin Thủy Tinh đang kéo quân tới đòi cướp dâu; Sơn Tinh vội

giục quân đi cho mau để tránh Thủy Tinh, vì thế trong ngày lễ hội có diễn ra tục:

buộc gà vịt lên kiệu Sơn Tinh và Ngọc Hoa, ý muốn thể hiện sự vội vàng [57,

tr.157]… Những diễn xướng lễ tục không tái hiện lại toàn bộ mà chỉ ở một khía

cạnh nào đó của truyền thuyết. Cũng nhờ vào điều đó, mà truyền thuyết được bảo

tồn một cách đầy đủ qua thời gian.

Trong tục thờ cá Ông, cũng có những nghi thức lễ mà chúng tôi thấy nó có xuất

phát điểm từ truyền thuyết dân gian. Cần nói thêm một điều rằng, phạm vi thờ cá

Ông rất rộng, trải dài trên nhiều tỉnh từ Bắc chí Nam, nên tùy vào mỗi nơi mà người

dân có cách thờ cúng hơi khác biệt nhưng cũng trên một cấu trúc nghi lễ chung cho

các miền.

Ở hầu hết các dinh vạn, tới ngày làm lễ cúng Ông, người ta kiêng không bao

giờ dâng món ăn hải sản như: tôm, mực, cá đao… Vì theo truyền thuyết, đây là

những ngư tướng được Phật bà cử đi theo phò tá cá Ông. Khi Ông sống thì giúp

Ông hoàn thành nhiệm vụ, khi Ông lụy thì bảo vệ thân xác Ông tránh các loài khác

xâm phạm vào. Lễ vật dâng lên thường là heo, bò, xôi, bánh, trái cây… Ở cửa biển

Thuận An (Huế), lễ phẩm cúng giỗ Ông bao gồm các thứ: một con cá sống, một con

cá nướng; một bộ cung tên, câu, ống, cờ ngũ hành, vàng bạc, áo binh (đồ mã làm

79

bằng giấy); một nải chuối, một lư trầm và hương đèn [9, tr.57]. Ở dinh Vạn Thủy

Tú, cứ hai năm cúng mặn thì một năm người ta lại cúng chay. Phẩm vật dâng cúng

Ông thường có: thịt heo, thịt bò, hoa quả, trầu cau, tô trầm, gạo muối, bánh ngọt...

Nói chung, tùy vào phẩm vật địa phương và đặc trưng ẩm thực từng vùng mà người

ta dâng lên Ông những món ăn tương ứng. Nhưng hầu khắp thì mọi người kiêng

không dâng những món được xem là các tùy tướng của cá Ông.

Cũng theo truyền thuyết, cá Đao là một vị tướng được Phật bà cử đi theo để

bảo vệ và xử tội cá Ông nếu thấy người bị nạn mà không cứu giúp. Thế nên ở rất

nhiều lăng nhân dân vừa thờ cá Ông, vừa thờ cá Đao ngay bên cạnh: miếu ngư Ông

(cửa biển Thuận An, Huế), dinh Bình Châu (Xuyên Mộc, Vũng Tàu), dinh An Thủy

(Ba Tri, Bến Tre), dinh Ông Nam Hải (Bình Đại, Bến Tre), lăng Ông Nam Hải

(sông Đốc, Cà Mau)… Xuất phát từ truyền thuyết, nhân dân khi thờ cá Ông cũng

đặt hai thanh đao của cá Đao ở hai bên bàn thờ cá Ông, tượng trưng rằng cá Đao

luôn đi bên cạnh túc trực hầu hạ Ông. Tương tự, Ông Rái Cá trong truyền thuyết

lịch sử hóa thời vua Gia Long đã có công giúp vua trong cuộc bôn tẩu cùng với cá

Ông nên cũng được thờ, nhưng Ông Rái Cá không có bàn thờ riêng mà chỉ có tên

trong danh sách các vị thần được nêu tên trong bài cúng.

Rất nhiều lăng Ông có bàn thờ Ông ở chính điện, và bên tả hoặc bên hữu của

Ông còn thờ vị Quan Công, một tướng thời nhà Hán bên Trung Quốc. Lý giải điều

này, có nơi không gắn với tích truyện nào, nhưng có nơi giải thích điều này bằng

tích cá Ông và Quan Công vốn được sinh ra từ một con phượng hoàng. Thế nên,

nhân dân lập lăng thờ Ông và thờ cả Quan Công (tích truyện ở lăng Ông ở thôn Vạn

Hội, tỉnh Khánh Hòa). Cũng tương tự như vậy, nhưng ở dinh Ông Phước Hải, Vũng

Tàu và nhiều nơi thờ cả ba anh em Lưu Bị, Quan Công và Trương Phi bên cạnh bàn

thờ Ông. Tích này thì không liên quan gì đến cá Ông. Truyền thuyết rằng vào một

năm dân làng bị dịch rất nặng, ba anh em ông đã hiển linh cứu giúp dân làng nên

được cả làng nhớ ơn và lập bàn thờ.

Như lúc đầu chúng tôi đã nói về một số yếu tố xoay quanh truyền thuyết lịch

sử hóa cá Ông cứu vua Gia Long. Ở đây, chúng tôi nhận thấy vai trò quan trọng của

truyền thuyết này đối với tín ngưỡng thờ cá Ông thông qua các sắc phong của các

triều vua Nguyễn ban tặng cho Ông Nam Hải. Có thể nói, nếu như các dinh miếu là

gốc rễ cho tục thờ đứng vững thì truyền thuyết cá Ông cứu vua là thân cành cho tín

80

ngưỡng này tỏa rộng. Các tích cá Ông cứu vua đã góp phần đưa tục thờ này vào một

khuôn phép mới trang trọng, bề thế. Hơn nữa, với sức mạnh của tính chất nghệ

thuật ngôn từ, hệ truyền thuyết cá Ông cứu vua đã mang đến sự lan tỏa sâu rộng và

khiến lễ hội cầu ngư không chỉ có ý nghĩa với cư dân làm nghề biển, mà còn có ý

nghĩa cả với cư dân của các ngành nghề khác lân cận. Bằng chứng vào những lúc

xây lăng Ông và tổ chức lễ hội cúng Ông, khi nào cũng có sự ủng hộ đóng góp của

rất nhiều người trong cả nghề ngư lẫn nông nghiệp, buôn bán… Số lượng khách

thập phương tham gia vào lễ hội cầu may và làm công đức cũng rất nhiều. Từ

những yếu tố đó đã tạo cho tín ngưỡng thờ cá Ông một sức sống trường tồn bền bỉ

với thời gian.

Một mối quan hệ tương tác gắn bó khác giữa truyền thuyết và tục thờ, đó

chính là ảnh hưởng của sự kiện đã tác động đến niềm tin của nhân dân. Nếu như

Ông lụy vào và có những đặc điểm khác thường (Ông rất to lớn, có chữ nổi trên

mình, lụy vào ngày đặc biệt, trong quá trình đưa tang Ông xảy ra những điều kì

lạ…), nhân dân sẽ bằng niềm tin tâm linh của mình để xây dựng cho riêng Ông một

tích truyện trong sự kính ngưỡng Ông. Chính tích truyện này sẽ chi phối tục thờ cá

Ông được nâng lên tầm long trọng hơn bình thường hay không. Lễ thờ Ông ở đền

Đỏ (Thái Bình) và đền Cuông (Nghệ An) điển hình cho mối quan hệ chi phối này.

Đây là đặc điểm riêng biệt chỉ có ở tục thờ cá Ông mà các lễ hội khác không có.

Chúng tôi xin dẫn chứng:

Ví dụ 1: Truyện này chúng tôi ghi theo lời kể của bác Giang Văn Thuyên, trưởng

ban di tích đền Đỏ (Thái Bình) như sau: Đối với nhân dân nơi đây, cứ đến ngày 10

tháng 3 âm lịch hàng năm thì đều tổ chức khai hội giỗ Thánh Mẫu. Điều kì lạ là

năm nào, đúng vào ngày này cũng có đàn cá Heo bơi về “chầu” ở khu vực đền cũ

một ngày rồi mới đi (đền cũ bây giờ đã bị biển lấn). Năm 2011, kì lạ thay đúng vào

ngày đó có một Ngư thần đã lụy vào. Mọi người truyền với nhau rằng, vị này là

thần nhà trời. Vì khi lụy bên miệng tuôn ra dòng máu, lại có dòng chữ “Hồng

Tam Chúa” bằng chữ Hán nổi lên trên mình nên mọi người tin rằng vị thần

này bị thác oan. Mọi người đã rất lo lắng, sợ nếu làm điều gì bất cẩn khiến Ngài

quở phạt. Nhưng sau khi nghe ba thầy phong thủy nói đây là điềm tốt thì dân làng

mới nhẹ lòng và đưa Ông đi mai táng rất long trọng theo nghi thức lễ thần. Nghi

thức lễ tổ chức rất lớn, người đến dự rất đông đến mức những người trong ban tổ

81

chức đã không thể đưa xác Ông đi mai táng đúng giờ. Trong lúc mọi người đang lo

lắng thì bỗng nhiên lá cờ đại treo trên cột cao bị đổ ụp xuống, lúc đó mọi người tự

động tản ra cho đoàn rước ngư thần đi qua. Mọi người tin rằng chính nhờ có Ông về

phù hộ mà dân trong làng mới ăn nên làm ra, chính vì thế mà lễ cúng Ông luôn luôn

được tổ chức rất long trọng.

Ví dụ 2: Tại đền Cuông (Nghệ An) vào ngày 15 tháng 2 âm lịch đều tổ chức lễ hội

để nhớ ơn ân đức của Thục phán An Dương Vương. Đền Cuông theo truyền thuyết

được lập ra để thờ An Dương Vương và cả nàng Mị Châu. Vào năm 1995, khi lễ hội

diễn ra thì có một con hạc trắng bay về đậu vào tay một người đang cưỡi ngựa diễu

hành trong nghi lễ. Trong sâu thẳm niềm tin về bóng cố nhân xưa, nhân dân tin rằng

hạc trắng đó chính là nàng Mị Châu hóa thân về cùng tham dự lễ hội với mọi người.

Sự kiện hạc trắng chưa lắng xuống thì đúng một năm sau, tại bờ biển Cửa Hiền có

một cá Ông nặng chừng 10 tấn lụy vào. Cửa Hiền là nơi được nhân dân truyền rằng

An Dương Vương đã theo thần Kim Quy xuống biển. Nơi đó biển rất cạn nên cá

Ông lụy vào như thế là sự kiện lạ ngàn năm có một. Chính vì thế mà người dân đinh

ninh rằng, cá Ông này chính là hiện thân và là minh chứng cho cái chết đầy bi

thảm của An Dương Vương. Vì vậy, lễ an táng xác chết của cá Ông năm ấy có sự

tham gia của hàng ngàn người với những nghi thức trang trọng nhất [33]. Cũng kể

từ đó mà lễ hội tại đền con Cuông được nâng lên tầm cao mới với các nghi lễ trọng

thể hơn trước rất nhiều.

Ở một số nơi, người dân ngoài việc lý giải cho việc đi tu của Ông bằng một

tích truyện thì còn có cả việc xưng danh cho Ông. Việc làm này đã thành thông lệ

không thể bỏ qua ở nhiều nơi trong việc an táng và xây lăng cho Ông. Việc xưng

tước này – theo các ngư dân cho biết không phải tự nhiên mà có được. Để có được

tước phong cho Ông, họ phải tiến hành việc kính xin qua nghi lễ mới biết được

trước khi vào tu Ông đã từng giữ chức gì. Ở địa bàn xã An Vĩnh (Quảng Ngãi) có

hàng chục lăng Ông lớn nhỏ, thờ các Ông Nam Hải Đại Dương, Thượng đẳng Ngọc

Linh, Thượng thượng đẳng thần, Trung đẳng thần, Thần cận vệ và hàng loạt chức

tước khác. Trong đó Đại Dương là vị lớn nhất và chức cao nhất trong các vị đã vào

tu. Chức tước đóng một vai trò rất quan trọng trong việc xây lăng Ông. Chức

của Ông càng lớn thì lăng xây càng to, tiếp đó nếu chức thấp hơn thì lăng cũng

theo đó mà xây nhỏ hơn. Ông Lê Tà – thủ từ lăng Vĩnh Hòa (Thôn Đông, An

82

Vĩnh) cho biết: “Không phải người dân nhiều hay ít tiền mà xây lăng lớn nhỏ. Điều

quan trọng phụ thuộc vào chức tước của Ông để có khuôn viên cho phù hợp. Ở đây

khuôn viên của chánh điện nhỏ hơn so với lăng Tân vì nơi đây thờ bà Thượng đẳng

Ngọc Linh, là cấp dưới của Ông Đại Dương. Chúng tôi quan niệm nếu đã là cấp

dưới thì không thể có lăng thờ lớn hơn so với cấp trên” [55].

Chúng tôi cho đây là một hiện tượng rất kì thú không chỉ về ảnh hưởng của

tích truyện đến tục thờ mà còn về vấn đề truyện cá Ông. Và theo ý kiến cá nhân,

chúng tôi cho rằng nếu như chúng ta có thể dõi theo và sưu tầm ghi chép lại được

các tích truyện này thì nó sẽ có ý nghĩa rất lớn về mặt nghiên cứu văn học dân gian

theo quá trình lịch sử lâu dài về sau. Đó là hiện tượng tích truyện được ra đời gắn

với từng Ông. Hầu như năm nào cũng đều có Ông lụy vào bờ. Nếu như Ông lụy vào

một dịp đặc biệt hoặc khi lụy có một đặc điểm lạ thường nào đó thì trong dân gian

ngay lập tức sẽ giải thích bằng một tích truyện hết sức li kì và thần thánh hóa cho vị

cá Ông đó. Các tích truyện như trên rải rác rất nhiều trong cư dân sống dọc theo bờ

biển. Ban đầu chúng chỉ lưu hành trong phạm vi nhỏ hẹp. Nhưng theo thời gian, các

sự kiện sẽ nén lại thành một chi tiết cô đọng nhất và đi vào đời sống truyền khẩu

dân gian ở phạm vi rộng lớn hơn. Theo thời gian, chi tiết ấy sẽ trở thành một nhân

tố cho một truyền thuyết mới hoàn chỉnh, có nhiều chi tiết và diễn biến. Nhưng

quan trọng là mỗi một truyền thuyết nhỏ kia đều phản ánh lại tư duy của nhân dân

qua các thời kì. Tư duy ấy phản chiếu nhận thức đời sống người dân rất giản dị

nhưng đậm chất dân gian. Về lâu về dài, chúng tôi cho rằng các ghi chép ấy sẽ trở

thành tư liệu nghiên cứu có giá trị trong các mặt văn học và văn hóa.

Đó là một số những mối quan hệ mang tính chi phối và cộng hưởng giữa

truyền thuyết với phần lễ thờ. Nhìn vào truyền thuyết và phần hội nghinh Ông,

chúng tôi nhận thấy rằng phần hội và truyền thuyết khá độc lập với nhau. Có rất

nhiều trò trong phần hội nhưng không có sự giải thích bằng truyền thuyết và không

có mối tương tác nào với các tích thần cá Ông. Các hình thức diễn xướng như hát bả

trạo (miền Trung), hát bội (miền Nam), các trò bủa lưới, đua thuyền, đấu vật, kéo

co, đập niêu đất… đều bắt nguồn từ những hình thức nghệ thuật diễn xướng tổng

hợp có từ thời xa xưa trong các làng nông nghiệp được chuyển thể qua, hoặc được

sáng tạo mới cho phù hợp với văn hóa biển. Song, có thể nhờ vào chính điều này lại

là nền tảng cho truyền thuyết mới ra đời trên cơ sở nghi thức lễ và các trò diễn dân

83

gian, nhằm để giải thích, mô tả lại các trò diễn ấy. Các lễ, các trò diễn xướng khi đã

hội tụ đủ những yếu tố cần thiết thì nó sẽ có thể manh nha đi vào một bộ phận

truyền thuyết mới.

4.2. Mối quan hệ trong tâm thức kể và thờ cá Ông

Các vị thần của người Việt thường là các vị thần địa phương, nghĩa là các vị

thần ấy dù được ngợi ca đến đâu thì cũng chỉ được thờ trong một phạm vi nhất định,

theo lối “Chuông làng nào làng ấy đánh/ Thánh làng nào làng ấy thờ”. Ví như Tứ

bất tử của người Việt được tất cả nhân dân biết đến nhưng không phải ở đâu cũng

có đền thờ. Chỉ có nơi được xem là phát tích của thần và những nơi có ảnh hưởng

của thần mang đến thì nhân dân nơi đó mới lập đền thờ cúng. Các vị phúc thần của

làng lại càng nằm trong phạm vi nhỏ hẹp hơn. Trước vị thần cá Ông, dân gian cũng

đã thờ nhiều vị thần biển cả. Các vị thần ấy nằm trong trí tưởng tượng của dân gian

ở một cõi siêu linh vô hình. Với vị phúc thần cá Ông thì lại khác, Ông có cốt trong

lăng- đình, có cả Ông còn sống, sự trợ giúp của Ông ai cũng từng mắt thấy tai nghe.

Phạm vi thờ của Ông rộng lớn bao trùm khắp dải đất ven biển từ Kiên Giang vào

đến đất Quảng Ninh. Việc thờ Ông, không phải có Ông lụy người ta mới thờ, một

số nơi trong miền Nam khi dân cư làm nghề biển họ đều lập lăng thờ trước khi có

Ông lụy vào. Một số nơi, không làm nghề biển nhưng có Ông theo dòng nước lụy

vào sâu bên trong người ta cũng thành kính lập đền thờ cúng. Ông được nhân dân

kính là phúc thần, được vua sắc phong vào bậc tôn thần. Lễ nghinh Ông là lễ tế

thần, đầy trang nghiêm và thiêng liêng. Mối quan hệ của Ông với ngư dân là mối

quan hệ tương hỗ, nằm trong đạo lý uống nước nhớ nguồn. Niềm tin ấy ăn sâu vào

tâm thức của những người làm ngư nghiệp, nên có những lăng thờ Ông mà sau này

người ta không còn làm nghề biển nữa nhưng vẫn nhang khói đều đặn.

Ông trong điện thờ là vị thần rất uy linh, thiêng liêng với nhân dân.

Chính vì thế, lễ cũng Ông lúc nào cũng trang trọng và hội tụ rất nhiều cư dân tới dự,

cả người làm nghề ngư, người làm nghề nông, buôn bán để xin Ông phù trợ cho họ

làm ăn được thuận buồm xuôi gió. Để thấy được tính chất long trọng, nghiêm cẩn

của lễ thờ cá Ông, chúng tôi mô tả lại sau đây một nghi thức lễ quan trọng (tổ chức

ở lăng Vạn Thủy Tú, Phan Thiết, Bình Thuận) nằm trong lễ cúng Ông để chúng ta

phần nào cảm nhận được không khí long trọng ấy:

84

Lễ cung nghinh lệnh Ông sanh: Lễ cung nghinh lệnh Ông Sanh trong lễ

hội cầu ngư là một nghi thức độc đáo chỉ có ở miền biển. Đây là lễ rước cá Ông về

chứng giám, và rước hồn Ông từ ngoài khơi về nhập vạn trước khi tế lễ. Lễ cung

nghinh Ông sanh là lễ quy mô nhất trong lễ hội cầu ngư, nên nghi lễ này được

chuẩn bị rất chu đáo và long trọng. Có đình vạn trước kia xây cất vốn nằm gần biển,

nhưng qua hàng trăm năm nước biển rút ra xa nên bây giờ đình vạn ấy cách biển

hàng cây số. Hoặc có lăng thờ Ông được lập nên vì Ông lụy sâu vào bên trong các

cửa sông lớn, qua thời gian dài các lăng ấy cũng trở nên cách biển rất xa. Với những

lăng Ông như thế, người ta sẽ tiến hành nghinh Ông trên đất liền một cách tượng

trưng, hoặc chỉ làm ở cửa biển rồi xin keo và quay về. Còn với các lăng gần biển,

người ta sẽ đi ra xa biển xin nghinh Ông.

Ở Vạn Thủy Tú, từ ngày 18 người ta đã điều động 10 chiếc thuyền, 6 cái của ngư

dân Vạn Thủy Tú, 4 cái của ngư dân các vạn khác. Đây là một tập tục truyền thống

của ngư dân. Khi nghinh Ông thì không chỉ có nơi đang tổ chức mới nghinh mà cả

những vạn lân cận cũng cùng tham gia, để tỏ lòng cung kính Ông và sự đoàn kết

của những ngư dân cùng làm nghề biển. Trong 10 thuyền sẽ có một thuyền lễ chính.

Thuyền này được trang hoàng lộng lẫy để đưa đoàn của ban tế lễ ra khơi hành lễ

nghinh Ông, rồi sau đó chính thuyền này sẽ nghinh Ông vào nhập vạn. Ban tế lễ và

đồ tế gồm có: ban lâm tế, ban phụng sự, các nhà sư, đội nhạc lễ, đội hát múa bả

trạo, hương án, chiêng trống và lễ vật.

Vào đúng 6 giờ sáng ngày 19 tháng 6 âm lịch, đoàn sẽ khởi hành ra khơi cách bờ

khoảng 4km. Lễ này khá dài và nhiều nghi thức, song tựu chung thì lễ như sau: khi

thuyền ra tới nơi sóng yên, một nhà sư và hai ông chánh bái và bồi bái sẽ phụ để

làm lễ nghinh Ông. Vị sư chủ lễ dâng lễ vật lên hương án và đọc một bài kinh thỉnh

cầu Ông Nam Hải từ ngoài khơi về chứng giám, hưởng lễ. Tiếp đó thì một người

trong ban lâm tế đọc bài tế cung nghinh Ông và các vị thủy thần:

“… Lệnh Ông Nam Hải

Tướng dương đô phủ

Đông hải động đình

Bắc hải nguy tấn

Tiên sư, thánh sư, tổ sư

Thủy tề công chúa

85

Thủy long thánh phi nương nương…”

Đây là bài tế rất dài để mời các vị thần, các ông dưới thủy thần về dự lễ. Trong đó

có cả những vị thần rất quen thuộc với con người như tôm, mực, cá… Kết thúc bài

tế, nhạc lễ nổi lên như đón mừng Ông đã về chứng giám. Sau đó, bài sớ và văn tế

được đốt đi, rồi rải xuống biển cùng với phẩm vật trên hương án để gửi các bậc thủy

thần và các linh hồn thác oan trên biển. Ở nhiều nơi, người chủ tế sẽ đứng ra xin

keo để chắc chắn lời thỉnh nguyện của ngư dân đã được Ông chấp nhận, nếu hai

đồng tiền âm dương là Ông đã cho và đoàn sẽ trở về. Nếu keo chưa xin được thì

người chủ tế lại làm lễ xin lại lần nữa cho đến khi nào được mới thôi. Theo nhiều

nơi cho biết, trong lúc ban làm lễ xin thỉnh thì có rất nhiều Ngài (cá Ông) xuất hiện

đọi lên vòi nước, thường khi đó người chủ tế xin một lần là được. Khi thuyền trở về,

đội chèo bả trạo vừa hát vừa diễn xướng tạo nên không khí nhộn nhịp để chào đón

và thỉnh Ông về.

Về đến vạn, khám nghinh được đưa vào vạn, Ông chánh bái cùng bồi bái niệm

hương, bát hương vừa mang ra khơi nghinh Ông được đặt lên bàn thờ, sau đó thêm

vài thủ tục khấn vái khác thì lễ này mới kết thúc. Trong khi đó, đội chèo bả trạo

thường hát và diễn xướng cảnh ngư dân lao động trên biển từ lúc nghinh Ông ở

ngoài biển cho đến khi Ông yên vị trong khám thờ. Đội chèo vừa hát vừa diễn

xướng những làn điệu phong phú để mừng Ông:

“…Nay nghinh Ông đã tới lăng trào

Cây bá trạo chèo hầu lấy thảo…

Lấy thảo hai hành nước mắt

Phải chi Ông còn biển bắt lộng khơi

Lưng bai tẻ bạt sáng ngời

Làm tôi thủy phủ cứu người dương gian…”

Đó là về lễ tế Ông. Còn về các nghi thức khác, ở nhiều nơi, làm bất cứ điều gì người

ta cũng phải xin keo hoặc khấn vái để xin phép Ông được làm điều đó. Ví như nhiều

lăng ở đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), muốn vào chụp ảnh Ông thì phải xin xăm xem

Ông có cho phép hay không. Còn ở các lăng huyện An Vĩnh, Quảng Ngãi, mỗi năm

có lễ mở lăng thăm cốt Ngài một lần vào ngày 20 tháng chạp. Muốn phá lệ thì phải

làm lễ trình báo, khai tên tuổi, mục đích đến và xin keo Ngài bằng hai đồng tiền.

Nếu sấp ngửa nghĩa là âm dương hòa hợp thì mới được diện kiến [55]. Kể ra những

86

điều trên để chúng ta thấy rằng nghi thức lễ cúng Ông luôn luôn mang màu sắc tâm

linh linh thiêng và trang trọng. Muốn làm điều gì nhân dân cũng phải chờ có lệnh

Ông cho phép mới được tiến hành, còn không thì phải đợi dịp khác.

Lòng thành kính của ngư dân thể hiện trong các lễ cúng Ông là như thế. Còn trong

các tích kể về Ông qua lời của các bác trưởng vạn, thủ từ, và của các cô bác ngư dân

mà chúng tôi được nghe, không khí và sắc thái tâm linh trong câu chuyện lại hơi

khác. Nếu trong sự thờ hình ảnh Ông đầy thiêng liêng thì trong sự kể, Ông hiện

lên đầy gần gũi và thân thiết.

Bác Nguyễn Sáng (thủ từ Vạn Phước Lộc, Lagi, Bình Thuận) kể cho chúng tôi nghe

một câu chuyện cá Ông đưa một Ông đã lụy vào bờ một cách tình nghĩa như sau:

“Các Ông đối với nhau rất có tình có nghĩa chứ không phải chỉ có con người mình

đâu. Ngày trước, lâu lắm rồi có Ông bị lụy ngoài khơi chưa kịp vào bờ. Thế nên có

một Ông khác đưa Ông vào. Bởi biển khơi rộng quá nên Ông còn sống đưa Ông kia

tới gần một ghe cá của ngư dân như nhờ sự giúp đỡ. Khi đưa tới ghe, Ông còn sống

cứ bơi quần quanh cái ghe ý không cho ra khơi. Ngư dân phải quàng lưới lên Ông

lụy và quay ghe đưa Ông vào bờ. Lúc ghe đi, Ông còn sống cũng áp vào ghe đi theo

cho tới khi Ông kia đã được đưa vào tới bờ an toàn Ông mới đi ra. Trước khi đi Ông

đọi vòi nước lên cao như để cảm ơn người dân rồi mới đi. Rồi năm đó dân làng làm

ăn được mùa cá lắm. Mọi người ai cũng tin rằng đó là Ông độ cho dân làng nên mới

được như thế. Còn có khi đưa một Ông vào bờ có nhiều Ông đi theo hộ tống lắm,

mà đưa tới nơi tới chốn rồi các Ông mới đi ra”.

Vào một trưa tháng 5/ 2012, chúng tôi được vợ chồng chú Ba Vạn ở ấp 8, Cồn

Bửng, xã Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre kể cho nghe câu chuyện về cá

Ông rất linh thiêng. Cô chú kể rằng: “Ngày cô còn trẻ, cô đi buồm cùng mọi người

ra xa cửa biển để đánh cá ở trên Bình Đại. Hôm đó trời nổi giông gió bất thường,

sóng đánh rất mạnh làm thuyền không kịp để vào bờ. Nước tràn vào ghe nên mọi

người lo sợ vội vàng tát nước ra. Người chủ ghe đứng ra tay rắc muối hột, chân dậm

mạnh xuống sàn ghe, miệng khấn vái xin Ông đến độ giúp mọi người tai qua nạn

khỏi. Một lát sau bỗng tất cả mọi người trên ghe đều như ngủ cả, không còn biết gì

nữa. Đến khi tỉnh thì mỗi người mỗi chỗ nhưng đều dạt vào trên bờ cát xuống mãi

dưới mạn Thạnh Phú dưới này. Lúc đó sông lớn lắm, cô phải nhờ ghe trở về nhà.

Nhưng lạy trời là có Ông độ mạng chứ lúc đó tình thế nguy hiểm cấp kì lắm. Ai

87

cũng nghĩ đã bỏ mạng rồi. Rồi từ đó cho tới giờ, gia đình cô chú cũng ráng ăn ở cho

có phước đức để đi khơi có chuyện gì thì mong được Ông độ mạng, vì Ông chỉ độ

người sống có tâm đức thôi. Rồi năm 2004, có Ông to lắm lụy vào bờ đây. Chính

quyền và dân làng tổ chức lấy cốt và dựng miếu thờ Ông. Sau đó cũng vào ngày đó

mà năm sau có Ông khác vào tiếp. Lễ cũng tổ chức to lắm. Nhiều người về đây làm

công đức cúng Ông và xin Ông phù hộ cho dân làng. Nói ra nghe dị đoan nhưng cái

này cô thấy có thật, từ ngày có hai Ông về mà dân ở đây làm ăn khá lên hẳn”.

Và còn rất nhiều những câu chuyện ngư dân được cá Ông cứu mạng và phù trợ cho

làm ăn may mắn, thuận lợi. Có đi vào trong đời sống và nghe trực tiếp người dân kể

mới thấy được chiều sâu tâm thức tín ngưỡng về Ông ẩn chứa trong đó. Nếu như

trong lễ thờ hoàn toàn phải trang nghiêm, kính cẩn như với các vị thần khác thì

trong các câu chuyện kể về Ông lại có gì đó gần gũi với đời sống hơn. Cách người

dân kể với giọng điệu trầm bổng đưa lại cho câu chuyện một không khí của thế tục,

mộc mạc đời thường. Họ rất chú trọng miêu tả về hoàn cảnh gặp nạn hết sức ngặt

nghèo của ngư dân để làm sao hình ảnh cá Ông xuất hiện được hoành tráng nhất

nhưng lại thân thiết nhất, tựa như một người cha dám xông pha vào hiểm nguy cứu

nạn cho các con mình. Hình ảnh Ông hiện ra qua lời kể dường như đã không

còn mang tính chất uy nghiêm của một vị thần trong điện thờ với cờ phướn và

nhang khói, mà trở nên rất thân thiết, có tấm lòng đức độ từ bi, tình nghĩa chứ

không đầy quyền năng và phép thuật cao xa.

Có thể thấy, trong lăng thờ, lễ cúng Ông có kỳ có hạn mới được tổ chức thì chuyện

kể về Ông diễn ra bất cứ lúc nào. Trong nghi lễ, bài cúng, Ông luôn ở vị trí trang

trọng và được cung kính thì trong các tích về Ông lại vừa mang yếu tố của huyền

thoại lại vừa mang yếu tố của thế sự. Yếu tố thần linh và yếu tố đời thường hòa

quyện vào nhau tạo cho câu chuyện về Ông vừa thiêng lại vừa trần tục. Nghe ngư

dân kể chuyện cá Ông cứu người, chúng tôi thấy thú vị ở chỗ các truyện này hầu

như được người dân đặt vào một thời điểm quá khứ mơ hồ xa xôi, người được cá

Ông cứu là một nhân vật có phúc đức, nhân duyên mới được Ông cứu nhưng cảm

nhận không khí câu chuyện, ta cứ ngỡ như nó mới xảy ra trong ngày hôm qua, sự

việc đó nó diễn ra ngay ở biển này, trước mắt chúng ta chứ không phải chỉ là huyền

thoại.

88

Nói chung, có thể thấy một tương quan song hành trong tâm thức kể và thờ

cá Ông của ngư dân: Ông trong điện thờ là vị rất linh thiêng, thần thánh, nhưng Ông

trong các tích truyện được kể lại đan xen vào đó nhiều yếu tố của thế tục đời

thường. Đây là điều khác biệt trong tục thờ Ông với các tục thờ khác. Bởi hầu như

với các vị thần khác, người dân luôn luôn làm sao phủ lên cho vị thần những quyền

năng linh thiêng hơn hẳn, cả trong lễ thờ và tích kể để đẩy vị thần lên sự thiêng

liêng tuyệt đối. Trong tích kể về thần, dường như lúc nào người dân cũng có sự kính

sợ, e dè trước một thần quyền vô hình nào đó. Còn với cá Ông, chúng tôi tuyệt

nhiên không bao giờ cảm thấy sắc thái của điều đó mà chỉ thấy bao trùm lên hàm ý

biết ơn của ngư dân đối với Ông. Sự thờ Ông mang không khí trang nghiêm nhưng

trong sự kể về Ông lại trở nên mộc mạc, nhân hậu và nghĩa tình.

Có thể nhận định rằng, giữa truyền thuyết và tục thờ cá Ông có mối quan hệ

vừa tương hỗ lại vừa song hành với nhau. Truyền thuyết chi phối vào một số lễ thờ

nhưng ngược lại, tục thờ cũng là cái nôi để tạo ra các tình tiết cho truyền thuyết.

Mối quan hệ này trong một só khía cạnh có sự tương tác khăng khít. Song trên tổng

thể chung, giữa chúng vẫn có sự độc lập, song hành tồn tại với nhau. Cái thiêng

trong sự thờ và thế sự trong lời kể vẫn đan xen, cộng hưởng chứ không loại trừ

nhau. Cái thiêng giữ cho Ông một đuờng nét tâm linh về chiều sâu, còn tính thế sự

mang lại cho hình ảnh cá Ông cái nhìn trên bề rộng, ai cũng có thể kể về Ông như

chuyện bản thân mình mắt thấy tai nghe. Chính những điều đó đã góp phần tạo cho

tín ngưỡng thờ Ông lan truyền và ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống nhân dân.

89

TỔNG KẾT

Truyền thuyết cá Ông của người Việt là một mạch ngầm của dòng chảy văn

hóa dân tộc trong quá trình mở mang bờ cõi và nghề nghiệp. Trong truyền thuyết có

sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn hóa nông nghiệp với văn hóa địa phương trên

vùng đất mới để tạo thành một hệ truyền thuyết không chỉ phong phú về nội dung

mà cả số lượng. Ở đây, người Việt hoàn toàn đóng vai trò chủ đạo trong tín ngưỡng

và sáng tác dân gian để tô điểm, bồi đắp tính thiêng cho vị thần “cá Ông” uy linh,

dù chỉ khi di cư người Việt mới thực sự có cuộc sống hướng biển sâu rộng.

Có thể thấy tiến trình vận động của kết cấu truyền thuyết trên diễn ra theo

hướng: cốt truyện được giữ nhưng tình tiết có nhiều biến đổi. Các tình tiết có đặc

điểm nó là sự kết hợp giữa mô hình, yếu tố truyền thống của thể loại truyền thuyết,

cổ tích với các yếu tố mang tính thời sự trong hiện tại. Các yếu tố nhào nặn đan xen

vào nhau tạo cho tích truyện vừa có tính dân gian lại vừa có tính thời đại. Điều này

tạo cho truyền thuyết cá Ông một sự phức hợp trong tầng ý nghĩa. Ngoài ra, điểm

nhấn trong nhãn quan của tác giả dân gian cũng có sự thay đổi từ lý giải nguồn gốc

chuyển sang nhấn mạnh vào bản tính thiện cứu người của Ông. Nhưng, nói như thế

không có nghĩa hai kiểu truyện nguồn gốc cá Ông và cá Ông cứu vua có thời điểm

ra đời tương ứng với thời kì của truyền thuyết hay cổ tích, nghĩa là đã xa xưa. Mà

các kiểu truyện này nó có thời gian ra đời pha trộn vào nhau. Ngay cả ở thời gian

hiện tại thì truyện về nguồn gốc cá Ông vẫn được hình thành dựa trên tư duy của

người dân ngày nay. Hoặc như một truyện mà ở trên chúng tôi có trích dẫn về cá

Ông cứu vua lại được lồng với nguồn gốc của cá cơm tại sao lại có nhiều ở Phú

Quốc. Đó hẳn là truyện ra đời ở thời gian sau này. Điều đó chứng tỏ rằng tư duy cổ

tích, truyền thuyết vẫn âm ỉ mạch ngầm của nó trong đời sống dân gian. Thiên

hướng bám trụ vào thần linh siêu hình của nhân dân cầu mong sự chở che chắc hẳn

không phải chỉ là hành động của thời gian quá khứ mà vẫn còn sức sống lâu bền

trong hiện tại và mai sau.

Truyền thuyết cá Ông đã thể hiện được óc dân gian sáng tạo và tinh tế trong

phát hiện, chọn lựa những yếu tố nghệ thuật để tôn lên vị thần biển đáng kính, đức

độ. Ẩn tàng trong truyền thuyết không chỉ là niềm kính trọng, biết ơn của cư dân

biển đối với cá Ông, mà còn là ước mơ, khát vọng hướng tới một cuộc sống công

90

bằng, tốt đẹp của con người. Đây cũng là mạch chung của hầu hết các truyện dân

gian trên thế giới

Truyền thuyết và tục thờ cá Ông có một mối quan hệ gắn bó cộng hưởng với

nhau, để không chỉ đưa tín ngưỡng này đi sâu vào lòng nhân dân, mà còn đưa lại

những giá trị nhân văn tốt đẹp đối với cuộc sống con người. Nó đã tạo ra được một

nét độc đáo riêng cho văn hóa miền biển Việt Nam nói riêng và văn hóa biển trên

khắp mọi nơi nói chung. Truyền thuyết cá Ông vẫn còn đang hình thành nên những

huyền thoại mới, từ đó nó sẽ tiếp tục dòng chảy lan tỏa của mình về lòng tôn kính

sinh vật biển to lớn và nghĩa tình này, tạo nên một mạch ngầm về những điều tốt

đẹp trong lòng nhân dân, gắn kết mọi người gần lại với nhau hơn và sống tốt đẹp

hơn.

Lòng kính tín vào cá Ông là một sự tôn trọng biển của nhân dân ta nói riêng

và các nước nói chung. Ngư dân ven biển đã nâng vấn đề tôn kính Ông lên như một

khuôn phép mà tất cả những ai làm nghề chài lưới đều phải tuân theo. Tín ngưỡng

thờ Ông, xem Ông như ân nhân đã thúc đẩy ý thức các ngư dân bảo vệ Ông tuyệt

đối, trong khi với nhiều nước cá Voi là nguồn lợi kinh tế rất lớn mà họ bất chấp cả

luật cấm săn bắt để có được. Tục thờ Ông đưa lại nhiều ý nghĩa thiết thực không chỉ

với đời sống nhân dân mà với cả vấn đề bảo vệ sự sống trong tự nhiên – một vấn đề

của nhân loại ngày nay. Nói chung, “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, tục thờ cá

Ông đã đưa lại nhiều điềm lành, hoặc ít nhất nó cũng là bờ thành vững chắc cho tâm

linh con người khi đối mặt với biển khơi dữ dội. Đây là một tín ngưỡng tốt đẹp

trong đời sống nhân dân cần được giữ gìn và phát huy.

Mang tiếng cá lòng đâu phải là cá

Tài sóng êm gió lặng cũng tày trời

Chẳng phải người mà lòng tốt hơn người

Đức rộng ơn dày không kém Phật [5, tr.48].

91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tạp chí

1. Nguyễn Xuân Đức (2007), “Từ đền thờ Đức Ông, Đức Bà ở Cảnh Dương

nghĩ về tục thờ cá voi của người Việt”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (4), Tr. 21 –

34

Trần Hoàng (1999), “Tục thờ cá Voi ở các làng biển từ đèo Ngang đến đèo 2.

Hải Vân”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (3), Tr. 38 – 39.

3. Lư Hội (2005), “Lễ hội Nghinh Ông ở Bến Tre”, Tạp chí Văn Học Dân Gian

(3), Tr. 48 – 51.

4. Hồ Quốc Hùng (2000), “Về sự tái sinh của nhóm truyền thuyết anh hùng bộ

lạc ở vùng Thuận Hóa”, Tập nghiên cứu Văn Hóa Dân Gian Thừa Thiên Huế,

Tr.46 – 55.

5. Nguyễn Xuân Hương (2002), “Lễ hội Cầu Ngư của cư dân ven biển Quảng

Nam và Đà Nẵng”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (5), Tr. 44 – 50.

Nguyễn Xuân Hương (2004), “ Một số nghi lễ cổ truyền liên quan đến nghề 6.

biển của cư dân ven biển xứ Quảng”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (3), Tr.50 –

54

Nguyễn Xuân Hương (2005), “ Về tục thờ Mẫu của cư dân ven biển xứ 7.

Quảng Nam và Đà Nẵng”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (2), Tr. 39 – 45.

8. Nguyễn Thị Việt Hương (2005), “Tục thờ nước của người Việt ven sông

Hồng”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (6), Tr. 21 – 27.

9. Lê Văn Kỳ (2000), “Lễ hội Cầu Ngư ở Thuận An”, Tạp chí Văn Học Dân

Gian (3), Tr. 55 – 65.

10. Nguyễn Thanh Lợi (2003), “Giao lưu văn hóa Việt – Chăm nhìn từ tục thờ cá

Ông”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (2), Tr. 24 – 27.

11. Nguyễn Thanh Lợi (2006), “Tục thờ cá ông ở ven biển Nam Trung Bộ”, Tạp

chí Văn Học Dân Gian (4), Tr. 52 – 60.

12. Nguyễn Thăng Long (2006), “Nhật trình đi biển của cư dân Lí Hòa và dấu ấn

văn hóa biển của người Việt”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (6), Tr. 64 – 72.

13. Nguyễn Thăng Long (2009), “Nhìn lại tục thờ cá Ông của người Việt ở miền

Trung Việt Nam”, Hội thảo Khoa học nhận thức về miền Trung Việt Nam –

92

Hành trình 10 năm tiếp cận, Viện văn hóa nghệ thuật Việt Nam – Phân viện

văn hóa Việt Nam ở Huế”.

14. Lê Hồng Lý (2002), “Đôi nét văn hóa dân gian ven biển trong nền kinh tế thị

trường”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (3), Tr. 38 – 49.

15. Phan Đăng Nhật (2006), “So sánh tục thờ thần làng của người Chăm với tục

thờ thành hoàng của người Việt”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (5), Tr. 3 – 7.

16. Trịnh Đình Niên (2000), “Một số nghề đánh bắt hải sản cổ truyền ở Thuận

An”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (3), Tr. 65 – 71.

17. Trần Thanh Phượng (1997), “Hội lễ dân gian ở một vùng quê biển”, Tạp chí

Văn Học Dân Gian (4), Tr. 27 – 30.

18. Mai Nguyễn Sơn Trà (2000), “Văn hóa của người Việt ở quần đảo Lý Sơn

(Quảng Ngãi), Tạp chí Văn Học Dân Gian (3), Tr. 77 – 81.

19. Võ Quang Trọng (1998), “Một số phong tục cổ truyền ở làng Nhượng Bạn”,

Tạp chí Văn Học Dân Gian (4), Tr. 34 – 39.

20. Võ Quang Trọng (2000), “Văn hóa truyền thống làng biển Nhượng Bạn”,

Tạp chí Văn Học Dân Gian (3), Tr. 47 – 54.

21. Nguyễn Viết Trung (2000), “Nghề lưới đăng”, Tạp chí Văn Học Dân Gian

(3),

Tr. 82 – 84.

22. Phạm Văn Tú (2007), “Tín ngưỡng thờ cá voi ở Cà Mau”, Tạp chí Văn Học

Dân Gian (3), Tr. 46 – 50.

23. Lê Thị Nhâm Tuyết (1986), “Hội lễ đua thuyền ở Việt Nam và Đông Nam

Á”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (4), Tr. 51 – 53.

24. Quỳnh Phương – Diệu Trang (1999), “Tìm hiểu văn hóa dân gian vùng biển

Đồ Sơn”, Tạp chí Văn Học Dân Gian (4), Tr. 54 – 62.

25. Chu Xuân Giao – Lê Thế Vinh (2000), Một bản ghi lời hát Bả Trạo bằng chữ

Nôm “Trường Đông Thôn Sự Thần Trạo Ca”, Tạp chí Văn Học Dân Gian

(3),

Tr.95–104.

26. Sư Thầy Huệ Tánh (2009), Cá Voi (ngư Ông – cá Ông), tr. 69 – 74,

bản đánh máy.

93

B. Trang web:

27. Ngô Văn Ban, Cọp Khánh Hòa, http://ninhhoatoday.net/

28. Công Bính (2010), “Tục thờ cá Ông và câu chuyện của ngư dân 2 lần được

cá Ông cứu”, http://dantri.com.vn

29. Trương Chi (2010), “Tục thờ cúng cá Ông (cá voi) ở Lý Sơn”,

http://thesaigontimes.vn

30. Trần Phỏng Diều (2008), “Tục thờ cá Ông của ngư dân Nam Bộ”,

http://diaoc.tuoitre.vn

31. Phan Đình Độ (2011), Tín ngưỡng thờ cá Ông của cư dân Lý Sơn,

http://vhnt.org

32. Văn Được (2009), “Cá Ông, cá Bà – Sự thật của một huyền thoại”,

http://dantri.com.vn

33. Lê Giáp (2011), Bí ẩn Hạc trắng ở đền An Dương Vương,

http://nguoiduatin.vn

34. Đinh Văn Hạnh (2010), “Hệ thống tín ngưỡng của người Việt trong quá trình

di cư về Phương Nam nhìn từ tục thờ cúng cá Ông”, http://e-cadao.com

35. Báo Thị Hoa (2005), Giới thiệu tác phẩm Ariya Po Riyak, Chương trình thế

giới Mã Lai – Đông Dương, http://ilimochampa.org

36. Nguyễn Huy (2010), Cá Ông cứu người, http://tienphong.vn

37. Phương Huy (2009), Di tích Lăng Ông –Ô Môn Cần Thơ,

http://canthopho.vn

38. Lê Hồng Khánh (2011), “Tục thờ cúng cá Ông và hát múa bả trạo của cư dân

ven biển - hải đảo Quảng Ngãi”, http://www.nuiansongtra.com

39. Dương Hoàng Lộc (2011), Tín ngưỡng thờ cá Ông ở Bến Tre,

http://bentre.gov.vn

40. Dương Hoàng Lộc (2011), “Tín ngưỡng thờ cá Ông Nam Hải Ba Tri – Bến

Tre”, http://bentre.gov.vn

41. Bình Nguyên Lộc, Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam,

http://binhnguyenloc.com

42. Nguyễn Thanh Lợi (2008), Nói thêm về nguồn gốc tục thờ cá Ông,

http://vanhoahoa.edu.vn

43. Trần Văn Nam, Ca dao Nam Bộ - Ca dao của vùng đất mới,

94

http://namkyluctinh.org/

44. Nguyễn Tri Nguyên (2011), Lễ hội Thánh Gióng – Một kí ức văn hóa,

http://www.vicas.org.vn

45. Thi Vân (2011), “Lễ hội nghinh Ông Bà Rịa – Vũng Tàu”,

http://www.tcdulichtphcm.vn

46. Thanh Tâm (2010), Tìm hiểu tín ngưỡng thờ cọp ở Nam Bộ,

http://baocantho.com.vn

47. Nguyễn Thạnh – Trần Hoàng Nhân (2008), Cứu người giữa biển khơi,

http://nld.com.vn

48. Nguyễn Văn Thuận (2012), Tục thờ Đức thánh Đông Hải Đại Vương

Nguyễn Phục làng Phú Xá, Quảng Xương, Thanh Hóa, http://svntu.net

49. Theo CATP Đà Nẵng (2010), Hiếu kì chuyện cá Ông cứu lão ngư hai lần,

http://vietnamnet.vn

50. Theo Người đưa tin (2011), Ly kỳ cá Ông cứu người Việt ở Biển Đông,

http://vietnamnet.vn

51. Theo CATP Hồ Chí Minh (2011), Kỳ thú chuyện cá cứu người ở Vũng Tàu,

http://giaoduc.net

52. Theo hội thân hữu Gò Công (2011), Vàm Láng – Lễ hội nghinh Ông,

http://gocong.com

53. Theo chuyên trang du lịch thành phố Vũng Tàu, Lăng cá Ông,

http://baria-vungtau.gov.vn

54. Theo Hội Champaka (2012), Trả lời cho Đắc Văn Kiết: “Katê xuất phát từ

thời Sa Huỳnh hay Porome?, http://champaka.info

55. Theo Báo mới (2009), Cá Ông cứu người, http://baomoi.com

C. Tư Liệu Sách

56. Tạ Chí Đại Tường (2006), Thần Người và Đất Việt, NXB Văn Hóa Thông

Tin.

57. Bùi Mạnh Nhị (chủ biên), Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2003),

Văn học dân gian những công trình nghiên cứu, NXB Giáo Dục.

58. Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, NXB Giáo

Dục Hà Nội.

95

59. Đào Tấn Hỗ, (2003), Cá Voi (cá Ông) & Bộ xương cá Ông ở Vạn Thủy Tú –

Tp. Phan Thiết, Phòng Văn hóa Thông tin thành phố Phan Thiết.

60. Ban tế tự nghi lễ Dinh Vạn Thủy Tú, (2002), Lễ hội cầu Ngư ở Dinh Vạn

Thủy Tú, Phòng Văn hóa Thông tin thành phố Phan Thiết.

61. Nhóm nghiên cứu Bảo tàng Bình Thuận (2006), Lễ hội cầu Ngư của ngư dân

Bình Thuận (trường hợp ở Vạn Thủy Tú) phường Đức Thắng, Tp. Phan

Thiết, tỉnh Bình Thuận, Bộ Văn hóa Thông tin thành phố Phan Thiết.

D. Tài liệu phim ảnh

62. Báo Biên phòng và Ban văn nghệ Đài truyền hình Việt Nam phối hợp thực

hiện (2012), Cá Ông – Vị thần của biển khơi (tập 8), Ký sự biển đảo, Đài truyền

hình Việt Nam.

63. Đạo diễn Michael Anderson (1977), Cá Voi nổi giận, Hãng Dino De

Laurentiis

sản xuất.

64. Đạo diễn Ken Kwapis (2012), Big Miracle (Phép màu), Hãng Universal

Pictures sản xuất.

65. Đạo diễn Simon Wincer (1993), Free Willy (Giải cứu Willy), Hãng Waner

Bros sản xuất.

96

PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ CÁ ÔNG

Ảnh 1: Vạn Thủy Tú, Bình Thuận – Nơi lưu giữ hàng trăm bộ cốt cá Ông

(Ảnh do tác giả chụp)

97

Ảnh 2: Bộ xương cá Ông lớn nhất Việt Nam trưng bày trong Vạn Thủy Tú

tác giả (Ảnh do chụp)

Ảnh 3: Bàn thờ Ông trong lăng Vạn Thủy Tú (Ảnh do tác giả chụp)

Ảnh 4: Sắc phong thần cá Ông của đời vua Thiệu Trị trong

Vạn Thủy Tú (Ảnh tác giả chụp)

98

Ảnh 5: Vạn Phước Lộc, thị xã Lagi, Bình Thuận (Ảnh do tác giả chụp)

Ảnh 6: Bác Nguyễn Sáng – Thủ từ Vạn Phước Lộc bên bộ cốt Ông

(Ảnh do tác giả chụp)

99

Ảnh 7: Lăng Ông Nam Hải ở xã An Thủy, Bến Tre (Ảnh do tác giả chụp)

Ảnh 8: Bàn thờ Ông trong lăng ở xã An Thủy, Bến Tre (Ảnh do tác giả chụp)

100

Ảnh 9: Xương cá Đao (trong hộp có răng cưa) đặt cạnh bàn thờ cá Ông

(Ảnh tác giả chụp ở lăng An Thủy, Bến Tre)

Ảnh 10: Một bộ cốt Ông trong Đình Thắng Tam, Tp. Vũng Tàu

(Ảnh do tác giả chụp)

101

Ảnh 11: Dinh Ông Nam Hải, Xã Bình Châu, Xuyên Mộc, Vũng Tàu

(Ảnh do tác giả chụp)

Ảnh 12: Xương cá Cô, cá Cậu trong dinh Ông ở Bình Châu, Vũng Tàu

(Ảnh do tác giả chụp)

102

Ảnh 13: Trang phục của Ban lễ tiết mặc vào ngày cúng Ông

(Ảnh do tác giả chụp ở lăng Ông Long Hải, Vũng Tàu)

Ảnh 14: Kiệu dùng để nghinh Ông nhập lăng (Ảnh do tác giả chụp ở lăng Ông Long

Hải, Vũng Tàu)