
Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020
158
LÝ THUYẾT PHÁT TRIỂN THƯƠNG MAI CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP 4.0 - ĐỊNH HƯỚNG VẬN DỤNG NHẰM PHÁT TRIỂN THƯƠNG
MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
THEORETICAL TRADE DEVELOPMENT OF PRESIDENT HO CHI MINH AND THE
INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 - ORIENTATION OF APPLICATION THE TRADE
DEVELOPMENT OF VIETNAM TODAY
TS. Lê Trung Kiên
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Email: hochiminh195@yahoo.com
Tóm tắt
Lịch sử nhân loại đã trải qua bốn cuộc cách mạng công nghiệp. Trong thời điểm cuộc cách mạng công
nghiệp 2.0 và 3.0 đang diễn ra trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cách mạng đấu tranh giải phóng
dân tộc thoát nạn “bần cùng”, đưa đất nước đến thống nhất, từng bước xác lập hoạt động thương mại và phân
phối trong nền kinh tế đi lên chủ nghĩa xã hội. Đến nay, đất nước đang đổi mới toàn diện, đặc biệt là nền kinh
tế phát triển theo hướng hiện đại là minh chứng cho việc kế thừa những giá trị đúng đắn về lý thuyết phát triển
thương mại của Hồ Chí Minh và tận dụng những thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp trên thế giới. Điều
đó, đòi hỏi Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt vận dụng sáng tạo di sản Hồ Chí Minh và ứng dụng
những thành tựu thương mại của nhân loại nhằm phát triển thương mại hiệu quả ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Lý thuyết phát triển, Hồ Chí Minh, thương mại
Abstract
Human history has undergone four industrial revolutions. When the industrial revolution 2.0 and 3.0
took place, President Ho Chi Minh led the revolution in the struggle to liberate the country from “poverty”,
bringing the country to unity, and gradually establishing trade and distribution activities in the economy to go
up to socialism. Up to present, the country is comprehensively renovating, especially the economy towards
modernization, which is the proof for inheriting the right values of Ho Chi Minh's trade development theory and
taking advantage of the the fruits of the industrial revolution in the world. That, the State needs to continue
researching, thoroughly applying Ho Chi Minh heritage and applying the commercial achievements of mankind
to develop effective trade in Vietnam.
Keywords: Development theory, Ho Chi Minh, trade
1. Lý thuyết phát triển thương mại của Hồ Chí Minh
Lý thuyết phát triển thương mại của Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm nhằm định
hướng và giải quyết những trao đổi hàng hóa trực tiếp hay gián tiếp giữa các bên trong nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu tiến dần lên chế độ xã hội chủ nghĩa nhằm mở rộng khả năng tiêu dùng, không
ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Tư tưởng của Người về phát
triển kinh tế thương mại thể hiện rõ trong những chặng đường lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành sự nghiệp
cách mạng từ chế độ dân chủ mới quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, chứa đựng những tư tưởng mới mẻ, hiện đại, rất khoa học và cách mạng, bao
gồm việc mua bán hàng hóa, cung ứng các dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại
nhằm mục đích lợi nhuận, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, nâng cao đời sống nhân dân, về xây
dựng và phát triển sản xuất, về đặc điểm, mục đích và cơ cấu kinh tế; về hiệu quả và nguyên tắc quản
lý kinh tế,… có ý nghĩa thời sự và giá trị định hướng sâu sắc trong quá trình xây dựng chiến lược phát
triển thương mại của Nhà nước Việt Nam hiện nay.
Thứ nhất, về mục tiêu phát triển thương mại nhằm không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống
nhân dân. Trong lý luận và thực tiễn, Người khẳng định vai trò của việc phát triển kinh tế thương mại

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020
159
của đất nước có sự kết hợp chặt chẽ, mật thiết, hài hòa và tác động lẫn nhau của các mặt chính trị, văn
hóa, xã hội. Khi vạch ra nhiệm vụ xây dựng và phát triển từng mặt của đời sống xã hội, theo Người,
xây dựng từng mặt của đời sống không thể tách rời, riêng lẻ, đơn thuần, mà gắn chặt với xây dựng các
mặt khác và là tổng hòa của các mặt khác. Trong đó, kinh tế luôn là lĩnh vực nền tảng, có vai trò quyết
định chi phối sâu sắc các lĩnh vực: tâm lý, luân lý, xã hội, chính trị. Xuất phát từ thực tiễn đất nước,
Người chỉ đạo cụ thể: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông
nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng
ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu
dài”1. Toàn bộ những quan tâm của Người về thương mại đảm bảo lợi ích thiết thân cho người dân,
làm sao cho nhân dân đủ ăn, mặc, ở, học hành, đi lại, chữa bệnh,… Người yêu cầu thực hiện ngay: “1.
Làm cho dân có ăn; 2. Làm cho dân có mặc; 3. Làm cho dân có chỗ ở; 4. Làm cho dân có học hành”2.
Đây là mục tiêu, là thước đo có ý giá trị trong mỗi chính sách và biện pháp phát triển thương mại nước
ta. Người cho rằng: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của
nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân
dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi… Nếu dân đói, rét, dốt,
bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được”3.
Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu của việc phát triển thương mại xã hội chủ nghĩa là cải thiện và
nâng cao đời sống nhân dân. Người khẳng định: “Điều quan trọng bậc nhất trong kế hoạch kinh tế của
chúng ta hiện nay là nhằm cải thiện dần đời sống của nhân dân”4. Năm 1961, Người đặt câu hỏi và tự
trả lời: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là: Không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”5. Mục đích nâng cao
đời sống của nhân dân chi phối các quan hệ làm chủ, độc lập, tự do và là cơ sở để xây dựng đường lối,
kế hoạch và cách thức tổ chức sản xuất, phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, tận dụng mọi nguồn lực để điều tiết sản xuất hàng hóa và thực hành tiết kiệm: Động
lực thúc đẩy phát triển sản xuất bền vững. Vấn đề cơ bản của phát triển kinh tế thương mại là làm sao
tăng năng suất lao động, điều mà lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin coi là thước đo cho sự thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội so với xã hội tư bản chủ nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, chỉ có thể thực hiện mục tiêu phát
triển công nghiệp hóa mới phát triển bền vững xã hội xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hóa là xu hướng
tất yếu để phát triển kinh tế bền vững, góp phần thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển, giải phóng sức lao
động, huy động nguồn vốn lớn và công nghệ hiện đại, tạo ra năng suất cao. Ngay từ sau khi lập quốc,
Người đã chủ trương hội nhập sâu rộng để phát triển thương mại: “Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận
thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của
mình…Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của
Liên hiệp quốc”6. Mở cửa hợp tác tạo ra cơ hội lớn để có thể thúc đẩy thương mại quốc tế, kiến thiết
quốc gia. Người cho rằng: “Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để
sản xuất một cách thật rộng rãi: dùng máy móc cả trong công nghiệp và trong nông nghiệp. Máy sẽ
chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm những
việc phi thường. Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang,
thép, than, dầu… Đó là con đường phải đi của chúng ta: Con đường công nghiệp hóa nước nhà”7.
Công nghiệp hóa đặt ra những yêu cầu mới về việc tổ chức quản lý kinh tế thương mại cần chú trọng
1 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t. 12, tr. 412.
2 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 175.
3 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 518.
4 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 314.
5 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 30.
6 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 523.
7 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 445.

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020
160
khâu then chốt “phải đẩy mạnh quản lý xí nghiệp, và cán bộ, công nhân phải thạo kỹ thuật; các cơ
quan lãnh đạo thì phải đi sâu đi sát, phục vụ sản xuất”1.
Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm mang tính chiến lược: Tăng gia sản xuất đi đôi với thực
hành tiết kiệm. Tiết kiệm là sử dụng hợp lý và hiệu quả các nguồn lực để gia tăng sức mạnh toàn diện
của đất nước. Nếu không tiết kiệm thì của cải được sản xuất ra như gió vào nhà trống, nên phải “tiết
kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”2. Tiết kiệm trong sản xuất là yêu cầu bắt buộc
trong hoạch định và thực thi chiến lược phát triển kinh tế. Người khuyên nhân dân tích cực sản xuất,
cần cù lao động nhưng phải thực hành tiết kiệm; không chỉ tiết kiệm về của cải, tiền bạc, thời gian, sức
lực (sức dân), mà tiết kiệm cả trong tiêu dùng của cải. “Tiết kiệm nghĩa là: 1 giờ làm xong công việc
của 2, 3 giờ; 1 người làm bằng 2, 3 người; 1 đồng dùng bằng giá trị 2, 3 đồng”3. Người không coi tiết
kiệm đồng nghĩa với bủn xỉn, manh mún, hà tiện, coi đồng tiền to như cái nống (cái nong); Người nói:
“Tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có
việc đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng
vui lòng”4. Người chỉ ra mục đích của việc tiết kiệm: “Phải chặt chẽ hơn nữa trong việc dùng tiền dành
dụm của chúng ta, để tiến nhanh tới cuộc sống no ấm đầy đủ cho mọi người”5. Thậm chí, Người đề ra
phương châm “kiệm lời” để phát triển thương mại là “nói thì phải làm”, “nói ít, bắt đầu bằng hành
động”6. Với các cơ quan đoàn thể, Người khuyên không nên họp nhiều, phải hết sức tránh “tình trạng
là hội mà không nghị, nghị mà không quyết, quyết rồi mà không làm”7.
Người đặt vấn đề ai ai cũng phải tiết kiệm thời gian, sức lực và tiền bạc của riêng mình. Sự cần
thiết phải tiết kiệm không chỉ xuất phát từ yêu cầu đạo đức cá nhân, mà còn xuất phát từ yêu cầu của
bộ máy và dây chuyền sản xuất. Trong hoạt động thương mại, chỉ cần một kẽ hở tồn tại thì tiền bạc sẽ
theo đó lọt ra ngoài và công phá mạnh mẽ vào toàn bộ hệ thống, làm kẽ hở ngày càng bung ra. Vì thế,
muốn “vít kín các lỗ thủng, các kẽ hở, không để của cải dành dụm của chúng ta bị hao hụt, phân tán”8,
tất cả mọi người đều phải chung sức, đồng lòng thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Người khẳng
định: “Lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song kết quả cũng tai hại cho nhân dân, cho Chính
phủ. Có khi tai hại hơn nạn tham ô”9. Nó tai hại hơn bởi chỉ những cán bộ có chức có quyền mới có
thể tham ô nhưng bất kể con người nào, ở vị trí nào cũng dễ dàng lãng phí tiền bạc, thời gian, sức lực
của mình, của cơ quan và của xã hội.
Thứ ba, xúc tiến thương mại theo đúng nguyên tắc, đảm bảo hiệu quả chế độ phân phối. Hồ
Chí Minh ý thức được rõ ràng giá trị của sự phát triển thương mại nhằm đạt được mục tiêu cách mạng,
và Người đã đề ra các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể của việc phát triển thương mại trong mỗi giai
đoạn cách mạng khác nhau, nhưng đều thể hiện nguyên tắc quản lý xúc tiến thương mại: phù hợp -
công bằng - có lợi - tiết kiệm - hiệu quả.
Trong quản lý thương mại, Người chú trọng vai trò của chính phủ với tư cách là công cụ điều
tiết toàn bộ nền kinh tế và với tư cách là một chủ thể của một thành phần kinh tế. Chính phủ xây dựng
cơ chế, chính sách quản lý thương mại, xúc tiến thương mại, điều tiết cán cân thương mại và tạo ra các
đòn bẩy kích thích sự phát triển thương mại tập trung trong những lĩnh vực chủ yếu; đảm bảo sự quản
lý tập trung của nhà nước và vừa đảm bảo quyền tự chủ của cơ quan, đơn vị kinh tế chủ quản. Người
chủ trương: “Quản lý một nước cũng như quản lý một doanh nghiệp: phải có lãi. Cái gì ra, cái gì vào,
việc gì phải làm ngay, việc gì chờ, hoãn, hay bỏ, món nào đáng tiêu, người nào đáng dùng, tất cả mọi
1 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 376.
2 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 122.
3 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 124.
4 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 123.
5 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 467.
6 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 457.
7 Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1996), Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, t.10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
tr.139.
8 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 467.
9 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 357.

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020
161
thứ đều phải tính toán cẩn thận”1. Trong nguyên tắc hạch toán thương mại thì phải lấy hiệu quả kinh tế
làm thước đo, do vậy, người quản lý thương mại phải biết sử dụng các đòn bẩy kinh tế để đạt hiệu quả
cao. Người nêu lên các vấn đề giá, lương, tiền, thuế, khoán, thưởng và phạt với tư cách là những đòn
bẩy trong các lĩnh vực khác nhau sẽ kích thích lao động, sản xuất nhiều - nhanh - tốt - rẻ, tạo ra sản
phẩm ích nước, lợi nhà.
Người nhấn mạnh không được cào bằng trong thương mại, trong phân phối theo số lượng và
chất lượng lao động, để không triệt tiêu động lực của sự phát triển. “Trong công tác lưu thông phân
phối có hai điểm quan trọng phải luôn luôn nhắc nhở: Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng. Không
sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”2. Người khẳng định: “Phân phối phải theo mức lao động. Lao
động nhiều thì được phân phối nhiều, lao động ít thì được phân phối ít… Không nên có tình trạng
người giỏi, người kém, việc khó, việc dễ cũng công điểm như nhau. Đó là chủ nghĩa bình quân. Phải
tránh chủ nghĩa bình quân”3. Trong quản lý cần chú ý thực hiện: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn.
Người đủ ăn thì khá giàu. Người khá giàu thì giàu thêm… Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho
dân”4. Liên quan đến nguyên tắc phân phối theo lao động, Người cũng đề cập đến cách thức và hiệu
quả việc làm khoán trong sản xuất. “Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó
khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung và lại
lợi riêng…; làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay… làm khoán phải nâng cao
số lượng, nhưng luôn luôn giữ vững chất lượng”5.
Trong tổ chức và cán bộ quản lý phát triển thương mại, đòi hỏi “phải tìm cách tổ chức sắp đặt
cho hợp lý, để một người có thể làm việc như hai người, 1 ngày có thể làm việc của 2 ngày, 1 đồng chí
có thể dùng bằng 2 đồng chí”6. Người đòi hỏi người quản lý thương mại cần giữ vững nguyên tắc dần
dần, từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, tự nguyện, cùng có lợi, tránh chủ quan, gò ép, phô trương hình
thức. Người khuyên “chớ ham làm mau, ham rầm rộ”7, mà bám sát vào đặc điểm, tình hình cũng như
kinh nghiệm trong quản lý kinh tế. “Kế hoạch sản xuất không định theo cách quan liêu, mà phải liên
hệ chặt chẽ với tình hình kinh tế, với nguồn của cải, với sự tính toán rõ rệt sức hậu bị của ta. Kế hoạch
không nên sụt lại sau, nhưng cũng không nên chạy quá trước sự phát triển của công nghệ, không nên
xa rời nông nghiệp, không nên quên lãng sức tiết kiệm của ta”8. Đặc điểm lớn nhất của cán bộ quản lý
thương mại có liên quan đến nhiều vật tư, tiền của, rất dễ bị cám dỗ, tha hóa, biến chất, nếu không
khéo sẽ gây thất thoát, hậu quả xấu cho cơ sở kinh tế. Vì vậy, Người đòi hỏi trong thương mại thì
“quản trị phải dân chủ, công bằng, minh bạch”9, quản lý phải có những phẩm chất, tư cách và tiêu
chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Thứ tư, mở rộng mô hình và cách thức phát triển thương mại. Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Người chủ trương nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Ở
thời kỳ quá độ, nền kinh tế nước ta còn tồn tại bốn hình thức sở hữu chính: “Sở hữu của Nhà nước tức
là của toàn dân. Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Sở hữu của người
lao động riêng lẻ. Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”10. Về thành phần kinh tế, theo
Hồ Chí Minh, trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau: “A- Kinh tế quốc doanh
(thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân). B- Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã
hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội). C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến
1 Hồ Chí Minh (1990), Về kinh tế và quản lý kinh tế, Nxb. TTLL, H, tr. 82-83.
2 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 224.
3 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 216.
4 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 81.
5 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 537-538.
6 Hồ Chí Minh (1990), Về kinh tế và quản lý kinh tế, Nxb. TTLL, H, tr. 82.
7 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 466.
8 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 365-366.
9 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 200.
10 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 372.

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020
162
dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội). D- Tư bản của tư nhân. E- Tư bản của Nhà nước (như
Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh)”1.
Xét về cơ cấu kinh tế thông thường trên ba góc độ đó là cơ cấu theo ngành, cơ cấu theo thành
phần, cơ cấu theo vùng lãnh thổ, trong đó cơ cấu ngành là quan trọng nhất. Theo Người, vì nước ta là
một nước nông nghiệp nên trong cơ cấu ngành kinh tế phải coi trọng nông nghiệp mà trước hết là sản
xuất lương thực. Người chỉ ra ba ngành kinh tế có mối liên hệ hữu cơ với nhau là: nông nghiệp, công
nghiệp, thương nghiệp (Trong lịch sử thì: phi nông bất ổn, phi công bất phú, phi thương bất hoạt, phi
trí bất hưng). Trong đó, thương nghiệp là khâu nối giữa nông nghiệp và công nghiệp. Nếu khâu thương
nghiệp bị đứt thì không liên kết được nông nghiệp với công nghiệp, không củng cố được liên minh
công nông. Nói về vai trò của nông nghiệp, Người chỉ rõ nông nghiệp không chỉ giải quyết vấn đề
lương thực mà còn cung cấp nguyên liệu để khôi phục tiểu công nghiệp, công nghiệp, đồng thời cung
cấp lâm thổ sản để mở rộng buôn bán với nước ngoài. Phải phát triển nông nghiệp toàn diện, đồng thời
coi trọng nghề rừng, nghề cá, nghề muối…
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt vấn đề người quản lý thương mại cần phải định hướng xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với mở rộng hợp tác đa dạng các loại hình thương mại trong nước và
quốc tế nhằm phát huy nội lực, tiềm năng, thế mạnh của đất nước và tranh thủ thời cơ, điều kiện thuận
lợi của quốc tế để phát triển kinh tế. Phát triển thương mại phải gắn liền với thực hiện nhiệm vụ chính
trị, với tiến bộ xã hội và đạo đức con người, qua đó mà củng cố hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Vì
vậy, Người đặc biệt quan tâm việc nâng cao tinh thần xã hội chủ nghĩa và tinh thần tập thể, chống chủ
nghĩa cá nhân, tạo động lực cần thiết cho sự phát triển.
Khi Hồ Chí Minh sống trong thời đại mà sự phát triển kinh tế - xã hội chưa đặt ra những yêu
cầu cấp bách về bảo vệ môi trường, nhưng với tầm nhìn chiến lược, Người đã có những tư tưởng giá
trị sâu sắc về vấn đề này. Trong cách diễn đạt của Người, tuy không trực tiếp đề cập đến thuật ngữ
“phát triển bền vững” như hiện nay nhưng những nội dung, mục tiêu, nguyên tắc, mối quan hệ giữa
các nhân tố trong phát triển bền vững đều đã được Người đề cập đến từ rất sớm, thậm chí có những dự
báo hết sức chính xác, toàn diện, hệ thống về những nội dung liên quan đến phát triển bền vững, trong
đó: phúc lợi xã hội phải quan tâm đến gia đình thương binh, liệt sĩ, có công với cách mạng; đồng bào
dân tộc thiểu số,…
2. Cách mạng công nghiệp 4.0
Chủ trương xây dựng Việt Nam trở thành nước công nghiệp “giàu mạnh” đã được nhất quán từ
trong tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trong đường lối chiến lược của Đảng, Nhà nước trong giai
đoạn hiện nay. Quá trình phát triển nền kinh tế đất nước đã và đang chịu sự tác động mạnh mẽ của các
cuộc cách mạng công nghiệp từ trước đến nay. Mỗi sự thay đổi của các yếu tố kinh tế, khoa học công
nghệ trên thế giới đều tạo ra những thách thức và cơ hội mới cho sự phát triển kinh tế, đòi hỏi các nhà
hoạch định chính sách cần nhạy bén, định hướng mục tiêu và cách thức phát triển kinh tế cho phù hợp
với xu thế chung của thời đại, nhưng vẫn đảm bảo giữ vững giá trị cốt lõi và bền vững như lý thuyết
phát triển kinh tế của Hồ Chí Minh đã bàn đến: mục tiêu mang lại lợi ích cho nhân dân; đẩy mạnh sản
xuất và thực hành tiết kiệm; phát triển theo nguyên tắc và hiệu quả kinh tế; tận dụng mọi nguồn lực để
phát triển; hợp tác, ứng dụng mạnh mẽ và rộng rãi khoa học công nghệ,… Ngày nay, cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 ra đời trên nền tảng cách mạng công nghiệp 3.0, đã và đang diễn ra với tốc độ nhanh,
nhiều diễn biến khó lường, tác động đến kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam.
Thứ nhất, đặc trưng của cách mạng công nghiệp 4.0. Theo GS. Klaus Schwab, người Đức,
Chủ tịch và người sáng lập Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF): Cách mạng công nghiệp 4.0 là “một
cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị” đi cùng với các hệ
thống vật lý trong không gian ảo, internet kết nối vạn vật (IoT) và internet của các dịch vụ (IoS). Cách
mạng công nghiệp 4.0 là nền tảng để kinh tế chuyển đổi mạnh mẽ từ mô hình dựa vào tài nguyên, lao
1 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 293-294.