M&A trong khủng hoảng: sáp nhập
và mua lại khôn ngoan
Đối với nhiều nhà điều hành, tiến hành bất kì một thương vụ nào
trong thời buổi suy thoái này đều trở nên quá mạo hiểm và phi
thực tế. Thị trường tín dụng vận hành không bình thường, do đó,
tài chính là một trở ngại không dễ vượt qua. Dự trữ tiền mặt cần
được cân nhắc như một phương án phòng vệ hữu hiệu trong
trường hợp nền kinh tế cứ tiếp tục diễn biến theo chiều hướng
xấu. Thị trường cổ phiếu cũng đình trệ, vì vậy, c người mua lẫn
người người bán đều tỏ ra e ngại với những giao dịch bằng
chứng khoán. Một thương vụ quan trọng có thể làm ảnh hưởng
rất lớn tới cấp quản lý trong củng cố công việc kinh doanh cốt lõi
mang lại những rủi ro không lường trước.
Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp tương đối mạnh về cả tài
chính và chiến lược, thì suy thoái tương đương với sự xuất hiện
của những cơ hội hiếm có để nâng cao vị thế cạnh tranh thông
qua các vụ mua lại hay cùng nhau hợp tác.
Theo phân tích của Bain & Company (mt công ty tư vấn chiến
lược và kinh doanh toàn cầu tại Mỹ) qua hơn 24.000 hợp đồng
giao dịch trong khoảng thời gian 1996 - 2006, những vụ mua lại
kết thúc trong và ngay sau cuc suy thoái nhữngm 2001
2002 đã thu được một khoản lợi nhuận siêu ngch (excess
returns)[1] gấp ba lần so với các vụ tương tự diễn ra trong thời kì
bùng nổ tăng trưởng trước đó.
Kết quả khảo sát này cũng đúng với bất kì một ngành công
nghiệp nào và bất kể quy mô của thương vụ ra sao. Hơn nữa, xét
về dài hạn, thực tế cho thấy các công ty tiến hành mua lại trong
cả thời điểm thị trường bùng nổ tăng trưởng lẫn khi xuống dốc
hoạt động tốt hơn những công ty chỉ mua lại vào thời gian tăng
trưởng.
Dù trong bất kì một môi trường kinh tế nào, mục tiêu quan trọng
nhất của sáp nhập và mua lại (M&A) là để triển khai chiến lược
của công ty. Giữa bối cảnh khủng hoảng, chiếnợc đó gần như
chắn chắn sẽ hướng sự tập trung vào việc củng cố công việc gia
tăng cốt yếu. Không một công ty nào có thể hi vọng vượt qua
được suy thoái mà không có một nền tảng cốt lõi vững mạnh, và
M&A chính là mt công cụ hữu hiệu để gia tăng sức mạnh cho
nền tảng đó.
Trong thời buổi suy thoái, hoạt động M&A cũng tạo ra thêm
những lựa chọn chiến lược. Chẳng hạn, khi Pfizer hết hạn độc
quyền bằng sáng chế một số loại dược phẩm hàng đầu, hãng này
đã quyết định kí hợp đồng mua lại đối thủ cạnh tranh Wyeth.
Các ngành công nghip khác cũngxu hướng củng cố thêm
sức mạnh khi những tập đoàn dẫn đầu thị trường nỗ lực để gia
tăng các lựa chọn chiến lược bằng cách mở rộng quy mô hoặc
phạm vi. Ví dụ như công ty điện thoại không dây có thể tạo thêm
giá trị gia tăng với những tích hợp phần mm hoặc nội dung mới.
Thị trường cổ phiếu không hẳn đã là một rào cản đối với các giao
dịch bằng chứng khoán, bởi cổ phần của cả người mua lẫn người
bán đều chẳng sáng sủa hơn nhau là bao.
Nguyên tắc tối quan trọng của hoạt động M&A là quy hoạch đầu
tư, một bản cáo bạch chỉ rõ được tại sao bạn lại mua lại tài sản
hoặc công việc kinh doanh nào đó chắn chắn sẽ khiến cho vụ
giao dịch của bạn có giá trị hơn nhiều. Khi phỏng vấn một vài ch
nhân của những vụ mua lại thành công có, thất bại cũng có,
chúng tôi phát hiện ra rằng khoảng 80% các giao dịch thành công
được dựa trên mt bản quy hoạch đầu tư rõ ràng, minh bạch. Đối
với những phi vụ không thành, tỷ lệ này chỉ là 40%.
Từ khi chi ra hàng triệu đôla để củng cố thương hiệu đến nay,
Verizon Wireless[2] vẫn kiên trì vi mt bản quy hoạch hết sức rõ