MÔI TRƯỜNG CA MARKETING
Các vấn đề dễ thấy nhất trong marketing quốc tế xuất phát từ
ngôn ngữ, luật và các hạn định, kiểm tra hải quan, giao thông, và
các tập quán kinh doanh thông thường. Chẳng hạn như người
Đức thì không bao gi mặc cả, người Braxin thì thường, còn
người Trung Quốc thì luôn luôn. Nhng biến động về tài chính
tiền tcũng thể gây trở ngại. Bởi vì xuất khẩu đưa đến
tăng chi phí một cách bất thường, nhiều ngân hàng nhân
không muốn cấp vốn cho những người mới bắt đầu xuất khẩu.
skhông ổn định của dồng tiền cũng ảnh ởng lớn đến lợi
nhuận. Khi đồng đô-la tăng giá mạnh vào đầu thập niên 1980;
nhiều công ty bthiệt hại vtài chính; đến cuối thp niên 1980,
nhiều công ty đã đáp được tổn thất khi sức mạnh của đồng
đô-la thay đổi.
Để phát triển một chiến lược marketing quốc tế, một công ty cần
phải đánh giá m loại môi trường: kinh tế, văn a, kỹ thuật,
chính trị/pháp luật, và địa lý.
Môi trường kinh tế
Manila, thuốc Marlboro được bán rời, chứ không được
đóng trong gói hoặc cây. “Mua cả gói thì quá đắt, nên một lúc
tôi chmua vài điếu thôi,” tài xế taxi Filipino giải thích.14 Điểm
chính của dnày nếu nngười tiêu dùng không kh
năng mua sản phẩm của một công ty, thì cũng không nghĩa là
công ty y cần phải phớt lờ thị trường đó. Thay vì vậy, công ty
thtổ chức lại hệ thống marketing hỗn hợp xét đến các
nguồn lực kinh tế giới hạn. Việc điều chỉnh giá và sản phẩm
cũng thể hữu ích cho marketing đến nguời tiêu dùng các
nước giàu. Chẳng hạn nxe Mercedes-Benz được định giá
M cao hơn so với Đức, i chúng được sản xuất. Mỹ xe
hơi mang một hình ảnh cao cấp được định giá cao một cách
tương ứng.
Các d này nhấn mạnh đến tầm quan trọng của mức độ phát
triển kinh tế của một nước. Các nước thường được phân loại dựa
trên ch tiêu tổng sản phẩm quốc nội (GDP) theo đầu nguời
thành ba loại hình kinh tế: kém phát triển, đang phát triển, và
phát triển cao. Ba loại hình kinh tế này skhác biệt đáng kể.
Chẳng hạn như các ớc kém phát triển nhất GNP bình quân
đầu người dưới 400 đô-la, trong khi các ớc phát triển nhất
thể có GNP bình quân đầu người trên 110 ngàn đô-la.
Khoảng cách kinh tế giữa các quốc gia nghèo nhất và giàu nhất
đang rộng ra do sự tăng trưởng kinh tế phải bù lại với s gia
tăng nhanh của dân số. Ngoại trừ châu Á với các nước vừa công
nghiệp a, các quốc gia m phát triển rất ít triển vọng hơn
so với cácớc công nghiệp hóa.
Các quốc gia được ghi nhận là stăng trưởng kinh tế dài hạn
được phân vào nhóm “đang phát triển.” Các dụ thể kể bao
gồm Braxin, Ấn Độ và Đài Loan. Ấn Độ, nơi đã một thời
lương thực chiếm 25% tổng kim ngạch nhp khẩu, hiện tại đã
thể tự sản xuất và thậm chí còn xuất khẩu ngũ cốc sang Nga.
Ngoài ra, các nước khác được xếp vào loại phát triển cao. Nhiều
nước trong số này thành viên của Tổ chức hợp tác và phát
triển kinh tế (Organization for Economic Co-Operation and
Development OECD), được thành lp sau Chiến tranh thế giới
th hai dùng làm diễn đàn để thảo luận c mối quan hkinh tế
giữa các quốc gia thành viên. Các quốc gia OECD (bao gồm hầu
hết các nước Tây Âu, New Zealand, Australia, Canada, Vương
quốc Anh, Thổ Nhĩ Kỳ và M) chiếm tới hơn 70% thương mại
thế giới và stăng trưởng kinh tế vững chắc qua các năm.
Tăng trưởng xuất khẩu của họ cao hơn mức trung bình ca thế
giới, ngược lại với các ớc kém phát triển với tăng trưởng xuất
khẩu chỉ chiếm 10% mức trung bình ca thế giới.15
Tuy nhiên đối với các nhà xuất khẩu Mỹ thì các nước đang phát
triển đem đến các hội tốt nhất. Các nền kinh tế đang phát
triển cùng với dân số tăng nhanh tạo ra các thị trường mới, tăng
trưởng cho các sản phẩm chẳng hạn như các thiết bị gia dụng
của Whirlpool, đã đến giai đoạn bão hòa các thị trường tăng
trưởng chậm của các nước phát triển. Đó là do tại sao hơn
40% hàng a xuất khẩu của Mỹ là sang các ớc đang phát
triển. Nhưng trớ tu thay, người ta biết đến nhu cầu và hành vi
tiêu dùng các nước đang phát triển ít hơn các nuớc phát
triển. Vì thế đối với hầu hết các nhà marketing, các thtrường