VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
-----------------------------
NGUYỄN VĂN CHI
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO VÀ KHẢO SÁT ĐẶC TRƯNG
TÍNH CHẤT MÀNG ZIRCONI OXIT KẾT HỢP VỚI SILAN
TIỀN XỬ LÝ CHO SƠN PHỦ TRÊN THÉP
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KHOA HỌC VẬT LIỆU
HÀ NỘI – 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
……..….***…………
NGUYỄN VĂN CHI
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO VÀ KHẢO SÁT ĐẶC TRƯNG TÍNH CHẤT MÀNG ZIRCONI OXIT KẾT HỢP VỚI SILAN TIỀN XỬ LÝ CHO SƠN PHỦ TRÊN THÉP
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KHOA HỌC VẬT LIỆU
Chuyên ngành: Kim loại học
Mã số: 9440129
Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. Phạm Trung Sản
2. PGS.TS. Tô Thị Xuân Hằng
Hà Nội – 2020
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của TS. Phạm Trung Sản và PGS. TS. Tô Thị Xuân Hằng. Các số liệu, kết quả
nêu trong Luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác, các dữ liệu tham khảo được trích dẫn đầy đủ.
ii
LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, NCS xin gửi lời cảm ơn TS. Phạm Trung Sản và
PGS.TS. Tô Thị Xuân Hằng đã định hướng đề tài và tận tình hướng dẫn trong suốt
thời gian thực hiện luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi của Học viện
Khoa học và công nghệ, Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Công nghệ Nha Trang,
Viện Khoa học vật liệu/ Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam trong suốt
quá trình thực hiện luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Đảng ủy, Thủ trưởng Trung tâm Nhiệt đới Việt-
Nga, Thủ trưởng Chi nhánh Ven biển đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để tôi thực
hiện luận án.
Tôi xin cảm ơn các đồng nghiệp trong và ngoài Trung tâm Nhiệt đới Việt-
Nga đã nhiệt tình giúp đỡ thực hiện các phép đo và phân tích mẫu thí nghiệm trong
nội dung luận án.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình và bạn bè đã động viên,
khuyến khích tôi trong quá trình làm luận án.
Tác giả luận án
Nguyễn Văn Chi
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................ii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ..................................................................................... vi
DANH MỤC CÁC BẢNG ...................................................................................... viii
DANH MỤC HÌNH ẢNH, ĐỒ THỊ, SƠ ĐỒ ............................................................. x
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
Tính cấp thiết của đề tài luận án .............................................................................. 1
Mục tiêu của luận án ................................................................................................ 3
Nội dung nghiên cứu ................................................................................................ 3
Mục tiêu cụ thể của luận án ..................................................................................... 3
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án .............................................................. 3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN ....................................................................................... 4
1.1. Các phương pháp truyền thống xử lý bề mặt thép cho sơn phủ ....................... 4
1.1.1. Phương pháp cơ học................................................................................... 4
1.1.2. Phương pháp hóa học ................................................................................ 7
1.2. Phương pháp xử lý bề mặt thép bằng zirconia ............................................... 12
1.2.1. Cơ chế hình thành lớp màng zirconia trên bề mặt thép ........................... 12
1.2.2. Hiệu quả tiền xử lý và đặc trưng tính chất của lớp màng zirconia .......... 14
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến đặc trưng tính chất lớp màng zirconia.......... 16
1.3. Phương pháp xử lý bề mặt thép bằng silan ..................................................... 23
1.3.1. Cơ chế hình thành lớp màng silan trên bề mặt thép ................................ 23
1.3.2. Hiệu quả tiền xử lý và đặc trưng tính chất lớp màng silan ...................... 25
1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến đặc trưng tính chất lớp màng silan ............... 27
1.4. Phương pháp kết hợp zirconia và silan ........................................................... 35
iv
1.4.1. Phương pháp hai dung dịch ..................................................................... 35
1.4.2. Phương pháp một dung dịch .................................................................... 36
1.5. Tình hình nghiên cứu trong nước về phương pháp xử lý bề mặt kết hợp
zirconia và silan ..................................................................................................... 41
CHƯƠNG 2. THỰC NGHIỆM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................. 43
2.1. Sơ đồ nghiên cứu ............................................................................................ 43
2.2. Nguyên vật liệu, hóa chất ............................................................................... 44
2.2.1. Nguyên vật liệu ......................................................................................... 44
2.2.2. Hóa chất ................................................................................................... 44
2.3. Chuẩn bị mẫu nền, điều chế dung dịch và chuẩn bị mẫu sơn ......................... 44
2.3.1. Chuẩn bị mẫu nền..................................................................................... 44
2.3.2. Điều chế các dung dịch xử lý bề mặt ....................................................... 45
2.3.3. Chuẩn bị mẫu sơn ..................................................................................... 45
2.4. Các phương pháp xử lý bề mặt mẫu thép nền ................................................ 45
2.4.1. Xử lý bề mặt mẫu nền trong dung dịch H2ZrF6 ........................................ 45
2.4.2. Xử lý bề mặt mẫu nền trong dung dịch H2ZrF6/silan (một dung dịch) .... 46
2.4.3. Xử lý bề mặt mẫu nền bằng phương pháp hai dung dịch ........................ 46
2.4.4. Xử lý bề mặt mẫu nền bằng phốt phát kẽm .............................................. 47
2.5. Các phương pháp, thiết bị nghiên cứu và kỹ thuật sử dụng ........................... 47
2.5.1. Phương pháp điện hóa ............................................................................. 47
2.5.2. Kính hiển vi điện tử quét phát xạ trường ................................................. 49
2.5.3. Phổ hồng ngoại biến đổi Fourier ............................................................. 49
2.5.4. Phổ tán xạ năng lượng tia X .................................................................... 50
2.5.5. Giản đồ nhiễu xạ tia X .............................................................................. 50
2.5.6. Xác định độ bám dính của màng sơn ....................................................... 51
v
2.5.7. Thử nghiệm gia tốc ................................................................................... 53
2.5.8. Thử nghiệm tự nhiên ................................................................................. 53
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ............................................................ 54
3.1. Nghiên cứu chế tạo màng đơn zirconia .......................................................... 54
3.1.1. Ảnh hưởng của pH của dung dịch axit hexaflorozirconic ....................... 54
3.1.2. Ảnh hưởng của thời gian xử lý trong dung dịch axit hexaflorozirconic .. 60
3.2. Chế tạo và đặc trưng tính chất lớp màng kép zirconia/silan ........................... 65
3.2.1. Động học quá trình và thành phần lớp màng kép zirconia/silan. ............ 65
3.2.2. Hình thái bề mặt lớp màng kép zirconia/silan. ........................................ 71
3.2.3. Liên kết trong lớp màng zirconia/silan .................................................... 74
3.2.4. Ảnh hưởng của nồng độ silan đến hình thái, thành phần và độ bền ăn
mòn lớp màng kép zirconia/silan ....................................................................... 76
3.2.5. Ảnh hưởng của thời gian xử lý bề mặt đến hình thái, thành phần và độ
bền ăn mòn lớp màng kép zirconia/silan............................................................ 81
3.3. Ảnh hưởng của lớp xử lý bề mặt đến khả năng bảo vệ của hệ sơn tĩnh điện . 85
3.3.1. Độ bám dính của màng sơn ...................................................................... 85
3.3.2. Khả năng bảo vệ chống ăn mòn của màng sơn ........................................ 90
CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN ....................................................................................... 103
4.1. Những kết luận chính của luận án ................................................................ 103
4.2. Đề xuất hướng phát triển của luận án ........................................................... 103
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN ....................................................... 104
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ............................................... 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 107
vi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nghĩa đầy đủ
AFM Kính hiển vi lực nguyên tử
SEM (FE-SEM) Kính hiển vi điện tử quét (phát xạ trường)
TEM Kính hiển vi điện tử truyền qua
XPS Phổ quang điện tử tia X
EDS (EDX) Phổ tán xạ năng lượng tia X
XRD Giản đồ nhiễu xạ tia X
AES (FE-AES) Phổ điện tử Auger (phát xạ trường)
Phổ hồng ngoại biến đổi Fourier FT-IR
Phổ điện tử cho phân tích hóa học ESCA
ToF-SIMS Phổ khối ion thứ cấp
Cân phân tích tinh thể Quartz QCM
OCP Điện thế mạch hở
DC Đường cong phân cực
EIS Phổ tổng trở điện hóa
Điện trở phân cực Rp
Điện trở dung dịch bình điện hóa Rs
CPE Thành phần pha không đổi
Thông số về độ dẫn nạp của thành phần CPE Y0
n Chỉ số mũ của SPE đặc trưng cho tính chất bề mặt
C Điện dung của tụ điện
E (- mV/SCE) Thế ăn mòn so với điện cực so sánh calomen bão hòa
Mật độ dòng ăn mòn Jcorr (µA/cm2)
ISO Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế
ASTM Hiệp hội thí nghiệm vật liệu Mỹ
vii
JIS Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản
SSPC Hiệp hội lớp phủ bảo vệ
SIS Viện tiêu chuẩn Thụy Sĩ
RE Điện cực so sánh
CE Điện cực đối
WE Điện cực làm việc
Potentiostat Chế độ thế tĩnh
Galvanostat Chế độ dòng tĩnh
3-APS (γ-APS) 3-aminopropyltriethoxysilane
MTMO γ-mercaptopropyltrimethoxysilane
MPS methacriloxypropyltrimethoxysilane
GPS (γ-GPS) 3-glycidoxypropyltrimethoxysilane
Bis-anime bis(3-triethoxysilylpropyl)amine
BTESPT bis-[triethoxysilylpropyl] tetrasulfidesilane
GPTMS glycidoxypropyltrimethoxysilane
MTMS methyltrimethoxysilane
VTMS vinyltrimethoxysilane
TEOS tetraethylorthosilicate
TMOMS trimethoxymethylsilane
viii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng Trang
Bảng 1.1. Chất lượng xử lý bề mặt theo một số chuẩn phổ biến 4
Bảng 1.2. Lịch sử phát triển chủ yếu của phương pháp phốt phát hóa 8
Bảng 1.3. Sự phát triển của công nghệ tạo màng cromat hóa Cr(III) 10
Bảng 1.4. Số liệu phân tích thành phần màng tạo thành 20
Bảng 1.5. Module tổng trở tại tần số thấp của mẫu sơn được xử lý ở 22 các chế độ khác nhau
Bảng 1.6. Nhóm chức hoạt hóa của một số silane thương mại 23
Bảng 1.7. Độ bám dính của hệ sơn khi xử lý bề mặt khác nhau 25
Bảng 2.1. Bảng tiêu chuẩn đánh giá độ bám dính theo ASTM D3359 51
Bảng 3.1. Thông số điện hóa các lớp màng tạo thành theo pH của dung 56 dịch
58
Bảng 3.2. Kết quả ngoại suy Tafel các đường cong phân cực của mẫu nền được xử lý trong các dung dịch H2ZrF6 có pH khác nhau (trong dung dịch NaCl 3,5 %).
Bảng 3.3. Các thông số của bình điện hóa từ phổ tổng trở theo thời 61 gian xử lý
63
Bảng 3.4. Kết quả ngoại suy Tafel các đường cong phân cực của mẫu nền được xử lý trong các dung dịch H2ZrF6 với thời gian khác nhau (dung dịch NaCl 3,5 %)
69 Bảng 3.5. Tỷ lệ phần trăm các nguyên tử trên bề mặt màng zirconia/silanxác định từ phổ EDS.
Bảng 3.6. Thông số điện hóa lớp màng kép theo nồng độ silan 80
ix
Bảng 3.7. Thông số điện hóa của mẫu nền được xử lý trong dung dịch 84 axit hexaflorozirconic/silane sau các khoảng thời gian khác nhau
Bảng 3.8. Kết quả xác định độ bám dính của sơn tĩnh điện với bề mặt 85 được xử lý ở những chế độ khác nhau
94 Bảng 3.9. Mức độ phá hủy màng sơn tại vết rạch sau 1 tháng thử nghiệm trong dung dịch NaCl 3,5 %.
97 Bảng 3.10. Mức độ phá hủy màng sơn tại vết rạch của các mẫu được xử lý bề mặt khác nhau sau 400 giờ thử nghiệm mù muối.
Bảng 3.11. Một số thông số điều kiện môi trường nơi thử nghiệm tự 98 nhiên.
x
DANH MỤC HÌNH ẢNH, ĐỒ THỊ, SƠ ĐỒ
Tên hình, đồ thị, biểu đồ Trang
Hình 1.1. Sơ đồ phốt phát hóa trong quy trình sơn tĩnh điện thép 9
Hình 1.2. Sơ đồ cromat hóa trong quy trình sơn tĩnh điện thép 11
Hình 1.3. Phổ tổng trở của mẫu không được xử lý và được xử lý bằng 15 zirconia sau các khoảng thời gian thử nghiệm trong NaCl 0,1 M
Hình 1.4. Suy giảm độ bám dính của sơn epoxy trên thép không được
xử lý (mẫu đối chứng) và được xử lý bằng zirconia khi thử nghiệm 15
trong NaCl 0,1 M
Hình 1.5. Độ dày lớp màng chuyển tiếp trên các bề mặt khác nhau 16
Hình 1.6. Tỷ lệ các nguyên tố được tìm thấy trên lớp bề mặt 16
Hình 1.7. Đường cong phân cực của các mẫu thép được nhúng trong 18 dung dịch H2ZrF6 với thời gian khác nhau (dung dịch NaCl 3,5 %)
Hình 1.8. Phổ tổng trở mẫu thép được xử lý trong dung dịch có pH 18 khác nhau (trong dung dịch NaCl 3,5 %)
Hình 1.9. Sơ đồ lớp màng tạo thành trên các bề mặt khác nhau 21
Hình 1.10. Đồ thị Nyquist của các mẫu thép được xử lý bằng zirconi 22 có hoặc không có MnSO4
Hình 1.11. Hấp phụ silan thủy phân một phần trên bề mặt kim loại: 24 Ngay sau khi hấp phụ và sau khi xử lý ở nhiệt độ phòng hoặc cao hơn .
Hình 1.12. Biến thiên điện trở chuyển dịch điện tích khi so sánh giữa 26 silane, zirconi florua và mẫu nền theo thời gian ngâm trong dung dịch
xi
Na2SO4 0,3%
Hình 1.13. Phổ Bode của mẫu thép cacbon có và không có xử lý bề 26 mặt bằng silan khi thử nghiệm 8 giờ trong dung dịch NaCl 0,1 M
Hình 1.14. Độ bám dính của silan theo kiểu bề mặt 27
Hình 1.15. Ảnh chụp bề mặt Cu được xử lý bằng dung dịch silane với 27 pH lần lượt từ trái qua phải là 6, 5 và 4
Hình 1.16. Độ bám dính từ trái qua: phốt phát, silane γ-APS (1%, 28 2%), Bis-anime (1%, 2%), γ-GPS (1%, 2%).
Hình 1.17. Mức độ phá hủy màng sơn từ vết rạch sau 3 năm thử 29 nghiệm tự nhiên
Hình 1.18. Phổ tổng trở của silan có thêm phụ gia nano oxit nhôm 30
Hình 1.19. Phổ Bode của mẫu nền được xử lý bằng silan có phụ ra 31 CeO2 hoặc SiO2 với những nồng độ khác nhau trong NaCl 0,1 M
Hình 1.20. Phổ tổng trở của silane với nồng độ cloisite khác nhau: A: 32 0ppm, B: 500 ppm, B2: 1000, B3: 2000
Hình 1.21. Độ lớn |Z|10 mHz và góc pha của mẫu được xử lý bằng silan 33 có và không có phụ gia theo thời gian ngâm trong NaCl 3,5 %.
Hình 1.22. Kết quả thử nghiệm mù muối giữa silane có và không có 33 phụ gia
Hình 1.23. Kết quả thử nghiệm mù muối: a. γ-APS, b. γ-GPS và c. 34 Màng kết hợp
Hình 1.24. Tỷ lệ Si/Zr đạt được từ phổ XPS ứng với 3 loại silan A, B 5 và C
xii
Hình 1.25. Phổ tổng trở của các mẫu sơn được xử lý bằng lớp màng
hai lớp sau 14 ngày ngâm trong NaCl 0,15 % khi so sánh với cromat 36
hóa: Silan A (A), silan B (B), silan C (C), cromat (0)
Hình 1.26. Phổ tổng trở của mẫu thép mạ với các trường hợp phụ gia 37 khác nhau sau một ngày ngâm trong nước muối NaCl 0,005 M
Hình 1.27. Ảnh bề mặt màng silan BTESPT và silan BTESPT + Zr 37
Hình 1.28. Ảnh SEM của lớp màng kép (molipden + silane) được tạo 38 từ 1 dung dịch (a) và 2 dung dịch (b)
Hình 1.29. Sơ đồ lớp phủ vô cơ lai hữu cơ 39
Hình 1.30. Ảnh SEM của màng chuyển tiếp Ce (a,b) 40 và của màng Ce-silan-ZrO2 (cd)
Hình 1.31. Phổ Nyquist của lớp màng chuyển tiếp Ce có và không có 40 silane + ZrO2 sau 1 giờ trong dung dịch NaCl 0,6 mol/L
Hình 2.1. Công thức cấu tạo của Silane APS 44
Hình 2.2. Biểu diễn tổng trở trên mặt phẳng phức 47
Hình 2.3. Cấu tạo thiết bị đo độ bám dính màng sơn 52
Hình 3.1. Phổ Nyquist của mẫu nền và các mẫu được xử lý bề mặt
55 trong các dung dịch H2ZrF6 có pH thay đổi từ 2 đến 6 (trong dung dịch
NaCl 3,5 %)
Hình 3.2. Sơ đồ mạch điện tương đương Randles điển hình 55
Hình 3.3. Đường cong phân cực của mẫu nền được xử lý 57
trong các dung dịch H2ZrF6 có pH khác nhau (trong dung dịch NaCl 3,5 %).
Hình 3.4. Độ bám dính của hệ sơn trên mẫu nền được xử lý bề mặt 59
xiii
bằng dung dịch H2ZrF6 theo thời gian khác nhau
Hình 3.5. Phổ tổng trở Nyquist của mẫu nền và các mẫu được xử lý
61 trong dung dịch H2ZrF6 theo các khoảng thời gian khác nhau (trong
dung dịch NaCl 3,5 %)
Hình 3.6. Đường cong phân cực của mẫu nền được xử lý trong các 62 dung dịch có pH khác nhau
Hình 3.7. Độ bám dính của hệ sơn trên mẫu nền được xử lý bề mặt 64 bằng dung dịch H2ZrF6 ở các độ pH khác nhau
Hình 3.8. Biến thiên thế mạch hở theo thời gian xử lý mẫu 65 trong dung dịch H2ZrF6/silan
Hình 3.9. Phổ EDS của các mẫu nền không được xử lý (a) và sau 4 68-69 phút xử lý trong dung dịch H2ZrF6 (b) và H2ZrF6/silane (c)
Hình 3.10. Biến thiên tỷ lệ Zr và Si trong lớp màng tạo thành 70
Hình 3.11. Ảnh FE-SEM của mẫu nền khi chưa được xử lý bề mặt (a) 72 và khi xử lý bề mặt trong dung dịch H2ZrF6 (b) và H2ZrF6 /silane (c).
Hình 3.12. Phổ hồng ngoại FT-IR của mẫu 74
Hình 3.13. Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu (a-mẫu nền, b-mẫu 76 ZrO2/silane).
Hình 3.14. Ảnh FE-SEM bề mặt mẫu nền được xử lý theo nồng độ
silane khác nhau: 0 % (a), 0,0125 % (b), 0,025 % (c), 0,05 % (d) và 2 77
dung dịch (e) và chỉ silane (f)
Hình 3.15. Tỷ lệ Si/Zr theo nồng độ silane 78
Hình 3.16. Phổ tổng trở Nyquist của lớp màng kép theo nồng độ silan 79 trong dung dịch NaCl 3,5 %.
xiv
Hình 3.17. Ảnh FE-SEM bề mặt thép xử lý theo thời gian: 2 phút (a), 81 3 phút (b), 4 phút (c), 5 phút (d), 6 phút (e), chỉ silan (f).
Hình 3.18. Tỷ lệ nguyên tử Si/Zr theo thời gian 82
Hình 3.19. Phổ tổng trở Nyquist của mẫu nền được xử lý trong dung 83 dịch axit hexaflorozirconic/silane sau các khoảng thời gian khác nhau
Hình 3.20. Mức độ suy giảm độ bám dính ướt của hệ sơn được xử lý 89 bề mặt khác nhau
Hình 3.21. Phổ tổng trở Nyquist của mẫu sơn được xử lý bề mặt ở các 90 chế độ khác nhau sau 1 ngày thử nghiệm trong NaCl 3,5 %.
Hình 3.22. Phổ tổng trở Nyquist của mẫu sơn được xử lý bề mặt 91 ở các chế độ khác nhau sau 60 ngày thử nghiệm trong NaCl 3,5 %.
Hình 3.23. Xu hướng của |Z|10mHz của các mẫu sơn được xử lý bề 92 mặt ở các chế độ khác nhau sau 90 ngày thử nghiệm trong NaCl 3,5 %.
Hình 3.24. Ảnh chụp các mẫu sơn tĩnh điện trên mẫu nền 93 được xử lý bề mặt ở các chế độ khác nhau.
Hình 3.25. Ảnh chụp các mẫu sơn tĩnh điện trên mẫu nền được xử lý 96 bề mặt ở các chế độ khác nhau sau 400h thử nghiệm mù muối.
Hình 3.26. Mức phá hủy từ vết rạch của các mẫu sơn tĩnh điện trên
mẫu nền được xử lý bề mặt ở các chế độ khác nhau sau 400 giờ thử 97
nghiệm mù muối.
Hình 3.27. Ảnh chụp các mẫu sơn tĩnh điện trên mẫu nền được xử lý 100-101 bề mặt ở các chế độ khác nhau sau 18 tháng thử nghiệm tự nhiên
Hình 3.28. Mức độ phá hủy màng sơn từ vết rạch sau 24 tháng thử 101 nghiệm tự nhiên trong môi trường khí hậu ven biển
1
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài luận án
Ăn mòn kim loại nói chung và thép nói riêng gây ra những thiệt hại to lớn về
kinh tế và ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn của các công trình, máy móc, thiết bị.
Nghiên cứu chế tạo vật liệu mới nhằm bảo vệ kim loại là một trong những nhiệm vụ
hết sức quan trọng của khoa học vật liệu. Bảo vệ kim loại có nhiều phương pháp
như: Cải thiện môi trường (khử các tác nhân gây ăn mòn), sử dụng chất ức chế ăn
mòn, phương pháp bảo vệ điện hóa, lớp phủ chuyển tiếp hay sơn phủ [1–7]. Theo
đó, phương pháp sơn phủ được ứng dụng rộng rãi nhất cả trong dân sinh và công
nghiệp để bảo vệ thép khỏi bị ăn mòn trong môi trường xâm thực [2,4,8,9]. Để đảm
bảo hiệu quả bảo vệ của sơn phủ, phương pháp xử lý bề mặt trước khi sơn (tiền xử
lý) có vai trò quyết định. Tiền xử lý không những gia tăng độ bám dính giữa hệ sơn
và bề mặt nền mà còn cải thiện hiệu quả bảo vệ ăn mòn lâu dài [10,11]. Phương
pháp xử lý bề mặt bằng phốt phát hóa hoặc cromat hóa đã và đang được ứng dụng
rộng rãi cho mục đích này. Tuy nhiên các phương pháp này thường gây ra các tác
động tiêu cực đến môi trường và con người, đồng thời yêu cầu cao về năng lượng
và chi phí nên ngày càng bị hạn chế bởi các công ước quốc tế [11–17]. Vì vậy, xu
hướng tìm kiếm phương pháp thay thế phốt phát hóa và cromat hóa đã được quan
tâm nghiên cứu và ứng dụng gần đây. Các loại màng thay thế này thường là oxit
kim loại chuyển tiếp như zirconi, titan, vanadi, molipden [18,19]. Trong đó, triển
vọng và được ứng dụng ngày càng rộng rãi đó là phương pháp tiền xử lý bằng
zirconi oxit (zirconia) hoặc silan. Ưu điểm nổi trội của công nghệ dựa trên zirconia
ở chỗ, màng tạo thành có tính chất của vật liệu nano, thân thiện môi trường, tiết
kiệm chi phí, công nghệ đơn giản, áp dụng được trên nhiều kim loại nền (multi-
metal) [18,20–28]. Tuy nhiên, nhược điểm của công nghệ này là phải sử dụng nước
rửa là nước khử ion hay nước qua siêu lọc vì màng mới hình thành khá nhạy với ion
có trong nước rửa và dễ hình thành gỉ trong thời gian chuyển tiếp giữa các công
đoạn. Bên cạnh đó, silan cũng được coi như là phương pháp tiền xử lý bề mặt rất
triển vọng vì tăng khả năng liên kết giữa sơn và bề mặt kim loại đồng thời bảo vệ ăn
mòn hiệu quả [29,30–39]. Tuy nhiên, nhược điểm cơ bản của phương pháp sử dụng
silan là phụ thuộc rất nhiều vào cách xử lý bề mặt, độ sạch của bề mặt và mật độ tạo
2
nhóm hydroxyl trên bề mặt [34]. Vì vậy, cần phải làm sạch bề mặt thật tốt trước khi
phủ silan mới phát huy được hiệu quả.
Một số nghiên cứu đã kết hợp hai phương pháp này ở những góc độ khác nhau
như: Tạo lớp màng zirconia trên thép mạ nhúng nóng từ muối zirconi nitrat rồi sau
đó tạo màng silan [40]; tạo màng silan trên nền thép mạ sử dụng phụ gia muối
zirconi nitrat [41,42]; tạo màng xeri trên nền hợp kim nhôm bổ sung zirconia và
silan [43]. Các kết quả đã khẳng định, độ bền của lớp màng kết hợp cao hơn lớp
màng đơn, sự kết hợp của chúng tạo ra lớp màng ít rỗ xốp, giảm vết nứt tế vi đồng
thời cũng hỗ trợ hiệu quả bảo vệ của màng sơn hơn từng lớp riêng phần.
Để tạo lớp màng kết hợp giữa zirconia và silan, nhiều phương pháp có thể
được áp dụng. Sol-gel để tạo màng zirconia là phương pháp ở qui mô nguyên tử,
tính đồng nhất của sản phẩm cao, các giai đoạn của phản ứng có thể điều khiển
được để tạo ra sản phẩm mong muốn. Tuy vậy, so với phương pháp nhúng hóa học,
phương pháp sol-gel cần nhiều công đoạn hơn, yêu cầu cao về nhiệt độ, đễ tạo sản
phẩm phụ nên hạn chế trong việc công nghiệp hóa. Lớp màng kết hợp zirconia và
silan cũng có thể được tạo bằng hai bước trong hai dung dịch tuy vậy, phương pháp
một dung dịch sẽ cho phép đơn giản hơn về công đoạn đồng thời tạo cơ chế cho
zirconia và silan cùng tạo màng trên bề mặt.
Các yếu tố liên quan trực tiếp đến màng zirconia tạo thành theo phương pháp
nhúng trong dung dịch axit hexaflorozirconic có thể kể đến là: nhiệt độ, pH, nồng
độ của dung dịch và thời gian nhúng. Một số công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng,
khi tăng nhiệt độ dung dịch thì độ bền và các tính chất của lớp màng zirconia đều
giảm [19,44–46]. Cũng trong dung dịch axit, độ pH và nồng độ là hai thông số
tương quan trực tiếp với nhau. Tuy vậy dung dịch axit hexaflorozirconic có nồng độ
thấp (với pH nằm trong khoảng từ 3 đến 4) thường tạo ra lớp màng zirconia có hiệu
quả tiền xử lý tốt hơn đồng thời khi pH thay đổi thì sẽ ảnh hưởng quyết định đến
màng tạo thành [10,47–49].
Dựa trên cách đặt vấn đề trên, với mong muốn tạo ra lớp màng tiền xử lý bề
mặt thép có hiệu quả tương đương phốt phát hóa và cromat hóa, đề tài của luận án
lựa chọn là: “Nghiên cứu chế tạo và khảo sát đặc trưng tính chất màng zirconi
oxit kết hợp với silan tiền xử lý cho sơn phủ trên thép”.
3
Mục tiêu của luận án
- Chế tạo lớp màng kép zirconia/silan trên bề mặt thép tiền xử lý cho sơn phủ
thay thế phốt phát hóa và cromat hóa;
- Đề xuất cơ chế quá trình hình thành màng và đánh giá đặc trưng về hình thái,
thành phần, điện hóa và liên kết của lớp màng kép zirconia/silan trên nền thép.
Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu chế tạo màng đơn zirconia trên thép và lựa chọn điều kiện ban
đầu về pH của dung dịch và thời gian tạo màng làm cơ sở cho việc chế tạo lớp
màng kép zirconia/silan;
- Nghiên cứu chế tạo màng kép zirconia/silan trên nền thép; luận giải cơ chế
quá trình hình thành và mô tả đặc trưng về hình thái, thành phần, điện hóa và liên
kết của lớp màng kép;
- Nghiên cứu vai trò của màng kép zirconia/silan tiền xử lý cho sơn tĩnh điện.
Mục tiêu cụ thể của luận án
- Chế tạo được lớp đơn zirconi oxit và lớp màng kép zirconi oxit/silan trên bề
mặt thép bằng phương pháp hóa học (nhúng trong dung dịch).
- Luận giải cơ chế hình thành lớp màng kép ZrO2/silan và mô tả đặc trưng về
hình thái, thành phần, điện hóa và liên kết của chúng trên nền thép.
- Xác định được một số yếu tố cơ bản ảnh hưởng chính đến quá trình tạo
màng; lựa chọn được điều kiện tạo màng thích hợp.
- Tạo ra lớp màng zirconi oxit/silan có độ bền ăn mòn cao, cải thiện độ bám
dính và tăng khả năng bảo vệ chống ăn mòn của hệ sơn tĩnh điện tương đương phốt
pháp kẽm.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về mặt khoa học, luận án đã đóng góp những điểm mới vào hướng nghiên cứu
chế tạo lớp màng xử lý bề mặt thép cho sơn phủ thay thế phốt phát và cromat hóa.
Về mặt thực tiễn, kết quả của luận án làm cơ sở cho việc phát tiển công nghệ
chế tạo màng xử lý bề mặt thép cho sơn phủ thân thiện môi trường tại Việt Nam.
4
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Các phương pháp truyền thống xử lý bề mặt thép cho sơn phủ
1.1.1. Phương pháp cơ học
Đây là phương pháp sử dụng các dụng cụ, vật liệu cơ khí, thiết bị hoặc máy
móc tác động lên bề mặt vật liệu để làm bong tróc, mài mòn các tạp chất và sản
phẩm ăn mòn. Có rất nhiều phương pháp để xử lý bề mặt bằng phương pháp cơ học
tương ứng với các tiêu chuẩn, yêu cầu khác nhau.
1.1.1.1. Một số tiêu chuẩn xử lý cơ học bề mặt
Các tiêu chuẩn phổ biến
Xử lý bề mặt bằng bất kỳ phương pháp cơ học nào đều phải đạt đến mức chất
lượng nhất định theo từng yêu cầu khác nhau của tiêu chuẩn. Một số tiêu chuẩn áp
dụng phổ biến có thể được kể đến là: ISO 8501, ASTM D 2200 và SSPC VIS. 1&2
(Mỹ), SIS 05 5900 (Thụy sĩ), BS 4232 (Anh), JSRA SPSS, (Nhật)…Theo đó, chất
lượng xử lý bề mặt được mô tả thành các mức độ cụ thể như bảng 1.1.
Bảng 1.1. Chất lượng xử lý bề mặt theo một số chuẩn phổ biến.
Mô tả phương pháp Tiêu chuẩn ISO 8501 và SIS 05 5900 Tiêu chuẩn Mỹ SSPC-SP
Phương pháp bằng tay St 2 SSPC – SP 2
Phương pháp bằng máy St 3 SSPC – SP 3
Phương pháp phun áp lực Sa 1 SSPC – SP 7
Xử lý bề mặt thương mại Sa 2 SSPC – SP 6
Xử lý bề mặt rất sâu – Near white metal Sa 2 ½ SSPC – SP 10
Xử lý bề mặt tới nền – white metal Sa 3 SSPC – SP 5
- Cấp độ St 2: Ở cấp độ này, khi nhìn vào bề mặt mà không có các thiết bị
phóng đại thì không thấy bẩn, dầu, mỡ. Bề mặt đã được làm sạch các sản phẩm ăn
mòn, gỉ, lớp sơn cũ và các tạp chất bám nhẹ.
- Cấp độ St 3: Tương tự như cấp độ St 2 đồng thời bề mặt hoàn toàn sạch,
khi nhìn vào bề mặt thấy có ánh kim loại nền.
5
- Cấp độ Sa 1 (Làm sạch sơ bộ): Ở cấp độ này, khi nhìn mà không có các
thiết bị phóng đại thì không thấy bẩn, dầu, mỡ. Bề mặt hầu hết đã được làm sạch
các sản phẩm ăn mòn, gỉ, lớp sơn bong tróc, phồng rộp và các tạp chất bám nhẹ.
- Cấp độ Sa 2 (Làm sạch sâu): Ở cấp độ này, khi nhìn mà không có các thiết
bị phóng đại thì không thấy bẩn, dầu, mỡ. Hầu hết bề mặt đã được làm sạch toàn bộ
các sản phẩm ăn mòn, gỉ, lớp sơn cũ và các tạp chất khác. Bề mặt hoàn toàn sạch.
- Cấp độ Sa 2.5 (Làm sạch rất sâu – Near white metal): Ở cấp độ này, khi
nhìn mà không có các thiết bị phóng đại thì không thấy bẩn, dầu, mỡ. Toàn bộ bề
mặt đã được làm sạch các sản phẩm ăn mòn, gỉ, lớp sơn cũ và các tạp chất khác. Bề
mặt xuất hiện ánh kim loại nền
- Cấp độ Sa 3 (Làm sạch tới nền – white metal): Ở cấp độ này, khi nhìn mà
không có các thiết bị phóng đại thì không thấy bẩn, dầu, mỡ. Bề mặt đã được làm
sạch toàn bộ các sản phẩm ăn mòn, gỉ, lớp sơn cũ và các tạp chất khác. Bề mặt đạt
tới kim loại nền.
1.1.1.2. Phương pháp xử lý bề mặt cơ học thủ công
Phương pháp này được áp dụng trong các trường hợp xử lý thô, ban đầu. Mục
đích là loại bỏ các loại vảy bám dính yếu, mảng gỉ sét và lớp sơn cũ đã bị phồng
rộp, bong tróc bằng các công cụ như bàn chải sắt, búa gõ, nạo sắt, giấy nhám,... Bề
mặt sau khi xử lý sẽ đạt chuẩn St 2, St 3 phụ thuộc vào dụng cụ sử dụng.
Ưu điểm chủ yếu của phương pháp này là có thể rất hữu ích với các vị trí nhỏ,
khe, kẽ, chi tiết phức tạp và khi phương pháp làm sạch bằng máy không thể thực
hiện được. Tuy nhiên đây không phải là phương pháp hoàn toàn (triệt để) và hiệu
suất không cao. Sau khi làm sạch thủ công, cần dùng khí áp lực cao để thổi sạch bề
mặt trước khi sơn hoặc áp dụng công đoạn xử lý bề mặt tiếp theo. Các bước cuối
cùng của phương pháp này thường sử dụng giấy nhám và độ nhám bề mặt đạt được
tùy thuộc vào cấp giấy nhám sử dụng.
1.1.1.3. Phương pháp xử lý bề mặt bằng thiết bị, máy móc
Phương pháp này sử dụng các thiết bị, máy móc với các kỹ thuật khác nhau để
mài mòn bề mặt cần xử lý. Các trường hợp cụ thể của phương pháp này có thể trình
bày như sau.
6
Sử dụng các công cụ cơ khí
Các ví dụ về xử lý bề mặt bằng công cụ cơ khí như: bàn chải sắt quay, đĩa cát
(sanding disc), máy mài cầm tay, máy mài bằng,... Xử lý bề mặt bằng dụng cụ cơ
khí nói chung hiệu quả hơn và ít tốn công hơn xử lý thủ công, đặc biệt khi làm sạch
các bề mặt phẳng, lớn, các mảng bám chắc, vết sơn cũ và gỉ sét. Tuy nhiên làm sạch
bằng công cụ cơ khí sẽ khó làm sạch được các vết ăn mòn lỗ, rãnh sâu trên bề mặt.
Xử lý bề mặt bằng dụng cụ cơ khí phải cẩn thận để không làm bề mặt quá bóng ảnh
hưởng đến độ bám dính màng sơn trong trường hợp đây là công đoạn cuối. Phương
pháp sử lý bề mặt này thường đạt đến chất lượng chuẩn St 3.
Xử lý bề mặt bằng dòng hạt mài
Đây là phương pháp làm sạch bề mặt triệt để và hiệu suất nhất thường áp dụng
trong công nghiệp đóng tàu, gia công và sửa chữa cơ khí lớn. Kích thước hạt mài
(cát, sỏi) khoảng từ 0,3 đến 1,5 mm là kích thước được kiểm nghiệm hiệu quả nhất
đạt được các tiêu chuẩn chuẩn bị bề mặt theo quy định, đặc biệt có hiệu quả khi làm
sạch bề mặt bị lõm sâu. Tốc độ làm sạch, độ nhám bề mặt bị ảnh hưởng bởi kích
thước và khoảng cách của vòi phun, thành phần, độ bền, kích thước và hình dáng
của dòng hạt mài áp suất và tốc độ của khí.
Việc sử dụng hạt sỏi trong quá trình chuẩn bị bề mặt thường sử dụng nhiều
hơn và hiệu quả hơn dùng bằng cát. Phương pháp làm sạch này đặc biệt hiệu quả về
độ sạch, tạo độ nhám bề mặt và tiết kiệm thời gian thi công. Khi thực hiện phương
pháp này thì phải lưu ý khí nén sử dụng phải sạch khô, được tách dầu và nước để
tránh tình trạng dầu và nước của khí nén lưu trên bề mặt. Sau khi xử lý dùng khí
khô thổi sạch các tạp chất khi phun cát còn đọng trong các hốc và trên bề mặt. Do
ứng dụng phổ biến trong công nghiệp tàu thủy, nên mỗi khi tàu đóng mới hoặc lên
Dock, phương pháp này thường được áp dụng như là kỹ thuật xử lý bề mặt cuối
cùng trước khi sơn.
Xử lý bề mặt bằng phun ướt: Làm sạch bằng hỗn hợp nước và cát hoặc sỏi
dưới áp suất cao để xử lý các mảng gỉ lớn. Sau khi làm sạch do bề mặt thép bị ướt
nên phải được làm khô trước khi quét sơn. Phương pháp này có ưu điểm là ít gây ô
nhiễm môi trường vì ít có bụi.
7
Xử lý bề mặt bằng phun khô: Đây là phương pháp được dùng phổ biến, chất
lượng bề mặt được chuẩn bị rất cao. Các vết gỉ, chất bẩn bị loại bỏ hoàn toàn đồng
thời bề mặt được tạo nhám tốt, độ bám dính của lớp sơn được cải thiện rõ rệt.
Nhược điểm của phương pháp này rất bụi nên gây ô nhiễm môi trường.
Xử lý bề mặt bằng nước áp lực cao
Hiện nay, trên thế giới nhiều nước đã nghiên cứu và áp dụng thành công
phương pháp làm sạch bề mặt kim loại bằng phương pháp phun nước áp lực cao
(UHP). Làm sạch bằng nước ngọt là cần thiết để loại bỏ muối, các loại bám bẩn, lớp
sơn cũ và bất kỳ tạp chất nào khác. Thông thường làm sạch bằng nước ngọt ngay
sau khi bề mặt chưa được khô hoàn toàn để dễ làm sạch bám bẩn.
Ưu điểm của việc sử dụng nước áp lực cao là: Sẵn có, thân thiện môi trường, ít
phá vỡ cấu trúc bề mặt, triệt để. Tuy nhiên công nghệ này cũng có một số nhược
điểm cần khắc phục như: Chi phí đầu tư cao, phản lực có thể gây mất an toàn, vẫn
phải xử lý nước thải.
1.1.2. Phương pháp hóa học
1.1.2.1. Phương pháp phốt phát hóa
Phốt phát hóa là quá trình tạo trên bề mặt vật liệu kim loại một lớp màng
mỏng, đồng đều, liên tục, không hòa tan và có độ cứng vừa phải dựa trên các muối
phốt phát của Fe, Mn, Zn hay hỗn hợp của chúng [50,51]. Lớp màng này vừa có tác
dụng bảo vệ bề mặt kim loại khỏi bị ăn mòn tạm thời vừa có vai trò tiền xử lý bề
mặt nhằm tăng cường độ bám dính và hiệu quả bảo vệ lâu dài của hệ thống sơn phủ
[13,52–54]. Thông thường người ta sử dụng phương pháp phốt phát hóa ở dải nhiệt
độ từ 30-90 oC. Đây là phương pháp xử lý bề mặt được ứng dụng rộng rãi trong
nhiều thập kỷ qua.
Lịch sử phát triển của phương pháp phốt phát hóa
Việc tạo lớp phủ phốt phát chống ăn mòn sắt thép đã được áp dụng từ giữa
thế kỉ 19 và trải qua một số mốc cơ bản như bảng 1.2. Từ những năm 1970 trở lại
đây công nghiệp phốt phát hóa cũng có những phát triển vượt bậc với mục đích
nâng cao chất lượng lớp phủ. Các xu hướng chính là thực hiện phốt phát hóa ở nhiệt
độ thấp để giảm chi phí năng lượng, sử dụng dung dịch có hàm lượng kẽm thấp và
8
thêm các ion kim loại nặng nhằm tạo lớp phủ có thành phần pha mới ít tan trong
môi trường kiềm. Ngoài ra có thể kết hợp thêm các phụ gia hữu cơ, thực hiện quy
trình phốt phát hóa không sử dụng crom…
Bảng 1.2. Lịch sử phát triển chủ yếu của phương pháp phốt phát hóa [50].
Các cải tiến Tác giả Thời gian
1906 T.W. Coslett Bắt đầu quy trình công nghiệp, cải thiện sự hòa tan kim loại, giảm thời gian -1909
1911 Tạo lớp phủ mangan phốt phát, thời gian từ 2-2.5 giờ R.G. Richard
1928 D.B. Freeman Lớp phủ phốt phát được dùng để làm nền cho sơn, giảm thời gian xuống còn dưới 60 phút
1933 Sử dụng phương pháp phun thực hiện quá trình phốt phát hóa trong 60 – 90 giây. R.R. Tanner H.J. Lodeesen
1937 Phát triển phương pháp phốt phát hóa lạnh, xử lý bề mặt nhôm bằng dung dịch kẽm phốt phát The Pyrene Co. Ltd -1940
1941 Tiền xử lý bằng dung dịch titan phốt phát J.S. Thompson
1950s Điều khiển khối lượng lớp phủ bằng phụ gia M.B. Roosa
1960s Phốt phát hóa bằng phun ở nhiệt độ 25-30oC A.H.Jenkins D.B. Freeman
Thập kỉ Nâng cao chất lượng lớp phủ dựa trên kỹ thuật hoạt hóa bề mặt D.B Freeman W.Rausch 1970
Cơ chế hình thành lớp phủ phốt phát hóa
Phốt phát hóa là một quá trình điện hóa trong đó bề mặt kim loại có thể tạm
chia thành vùng anot và catot [50,55].
Khi kim loại nền tiếp xúc với dung dịch phốt phát hóa, đầu tiên sẽ xảy ra
nhanh quá trình hòa tan kim loại tại anot:
M → Mn+ + ne (1.1)
Trong khi đó tại catot, cation H+ sẽ nhận electron:
(1.2) 2H+ + 2e → H2↑
9
Hai quá trình trên xảy ra trên bề mặt kim loại trong đó phần lớn bề mặt đóng
vai trò là anot, còn catot được giới hạn bởi các vùng biên của các hạt tinh thể như
các hạt oxit còn sót lại trên bề mặt kim loại… Do quá trình hòa tan kim loại xảy ra
nhanh nên một lượng lớn ion kim loại sẽ được tạo thành tại vùng dung dịch gần
anot. Đồng thời một lượng tương đương ion H+ sẽ bị khử thành khí H2 tại catot làm
giảm nhanh nồng độ ion H+ tại vùng dung dịch sát catot. Tuy nhiên tốc độ khuếch
tán ion H+ từ dung dịch tới bề mặt catot cũng như tốc độ khuếch tán ion kim loại
vào trong dung dịch không theo kịp tốc độ hòa tan kim loại và tốc độ khử ion H+.
Do đó sẽ hình thành các kết tủa phốt phát kim loại trên bề mặt vùng catot. Các cân
3-
bằng trong dung dịch phốt phát hóa:
- ↔ 2H+ + HPO4
2- ↔ 3H+ + PO4
(1.3) H3PO4 ↔ H+ + H2PO4
3- → Me3(PO4)2↓
(1.4) 3Me2+ + 2PO4
(Me2+ có thể là Zn2+, Ni2+, Mn2+…) kết tủa trên bề mặt.
Đặc trưng tính chất lớp phủ phốt phát
- Lớp phủ cấu trúc tinh thể, xốp với kích thước từ vài chục đến vài trăm µm.
Quy trình chung phốt phát hóa
Các bước cơ bản của phương pháp phốt phát hóa có thể được sơ đồ hóa trong
một quy trình sơn tĩnh điện như hình 1.1.
Tẩy gỉ Sản phẩm cơ khí Tẩy dầu nguội Rửa nước
Định hình, sấy khô Bể phốt phát Tích điện (-) cho bề mặt kim loại Rửa nước
Hoàn tất sản phẩm Phun bột sơn tĩnh điện Sấy định hình
Hình 1.1. Sơ đồ phốt phát hóa (khung chữ nhật) trong quy trình sơn tĩnh điện.
(Nguồn: Công ty TNHH dịch vụ Phong Châu, TP. Nha Trang, Khánh Hòa).
10
1.1.2.2. Phương pháp cromat hóa
Phương pháp cromat hóa là tạo ra một lớp màng oxit có khả năng bám dính
tốt trên bề mặt kim loại. Lớp màng này vừa có tác dụng bảo vệ kim loại tạm thời,
vừa có tác dụng tạo lớp nền bám dính cho sơn phủ [56]. Cromat hóa phổ biến với
hai loại dựa trên hóa trị của crom.
Lịch sử phát triển của phương pháp cromat hóa
Dung dịch cromat hóa được công bố lần đầu tiên trong một sáng chế của Mỹ
năm 1951 [57]. Dung dịch này chứa Cr2(SO4)3.18H2O và chất oxy hoá được sử
dụng là HNO3. Lớp màng được tạo thành trong khoảng 5 ÷ 20 giây ở nhiệt độ 10 ÷
65 oC. Năm 1982, C. Barnes đã tạo được màng cromat có chiều dày mong muốn
(khoảng 200 nm) từ dung dịch chỉ chứa các muối vô cơ [58]. Việc sử dụng các phụ
gia như coban, axit cacboxylic và các nguyên tố đất hiếm trong dung dịch cromat
được bắt đầu vào năm 1983 [59,60]. Có thể mô tả các bước đột phá phát triển lớp
phủ cromat hóa qua 4 thế hệ sau (bảng 1.3):
Bảng 1.3. Sự phát triển của công nghệ tạo màng cromat hóa [61].
Thế Chiều Độ bền Mô tả hệ dày phun muối
Lớp phủ cromat hóa với thành phần chủ yếu là muối
1 60 nm 3-4 giờ Cr(IV) hoặc Cr(III) gồm các peoxit hoặc nitrat. Lớp phủ
tạo ra trắng xanh trên lớp mạ Zn kiềm không xyanua.
Nhiệt đô, nồng độ, axit hữu cơ và chất ức chế ăn mòn 100 - 24-48 giờ được sử dụng. Được áp dụng trên một số dây chuyền sản 2 150 nm xuất ô tô nhờ bổ sung thêm silicat, polymer…
Bổ sung kim loại chuyển tiếp, nâng cao nhiệt độ. Lớp
3 400 nm 300 giờ phủ ít bị hydrat hóa và ít ảnh hưởng bởi sốc nhiệt nên
duy trì độ bền ăn mòn cao
Phụ gia kích thước nano được áp dụng, lớp phủ có khả
4 400 nm 300 giờ năng tự sửa chữa nhờ các pigment nano và các hạt trơ
hóa học linh động lấp đầy khuyết tật
11
Cơ chế hình thành lớp phủ cromat
Cơ chế hình thành lớp phủ cromat liên quan đến quá trình oxy hóa của bề
mặt kim loại trong các dung dịch thụ động đồng thời với quá trình chuyển các ion
kim loại nền vào dung dịch, khử Cr hóa trị 6 xuống hóa trị 3. Các phản ứng catot
tiêu thụ proton dẫn đến sự tăng pH cục bộ tại giao diện kim loại – dung dịch đến giá
trị mà tại đó tạo nên trên bề mặt kim loại màng cromat bao gồm các hợp chất ít tan
của crom như: oxit, kẽm, bazơ... hydroxit theo các phản ứng ví dụ sau:
(1.6) Zn + H2SO4 → ZnSO4 + H2↑
(1.7) 3H2 + 2Na2Cr2O7 → 2Cr(OH)3↓ + 2Na2CrO4
2Cr(OH)3 + 2Na2CrO4 → 2Cr(OH)3.Cr(OH)CrO4↓+4NaOH (1.8)
Hai phản ứng sau đây giải thích sự có mặt của Zn và Cr trong màng phủ:
(1.9) ZnSO4 + Na2CrO4 → ZnCrO4 + Na2SO4
(1.10) 2Cr(OH)3 + 3H2SO4 → Cr2(SO4)3 + 3H2O
Quy trình chung cromat hóa
Các bước cơ bản của phương pháp cromat hóa có thể được sơ đồ hóa trong
một quy trình sơn tĩnh điện như hình 1.2.
Tẩy gỉ Rửa nước Sản phẩm cơ khí Tẩy dầu nguội
Hoạt hóa Tích điện (-) cho bề mặt kim loại Hoàn thiện sản phẩm Cromat hóa
Phun bột sơn Hoàn tất Sấy định hình
tĩnh điện sản phẩm
Hình 1.2. Sơ đồ cromat hóa (khung chữ nhật) trong quy trình sơn tĩnh điện.
(Nguồn: Công ty TNHH dịch vụ Phong Châu, TP. Nha Trang, Khánh Hòa)
12
1.2. Phương pháp xử lý bề mặt thép bằng zirconia
1.2.1. Cơ chế hình thành lớp màng zirconia trên bề mặt thép
Nghiên cứu ứng dụng phương pháp tiền xử lý bề mặt bằng lớp màng chuyển
tiếp dựa trên zirconia đang phổ biến và được hiện thực hóa trong thời gian qua để
thay thế phốt phát hóa và cromat hóa. Lớp màng zirconia được tạo thành bằng
phương pháp sol-gel [62–65] hoặc nhúng trong dung dịch chứa thành phần chủ yếu
là axit hexaflorozirconic (H2ZrF6) [10,18–21,44,47,66–68].
Phương pháp tạo màng zirconia bằng phương pháp sol-gel có thể mô tả qua
các giai đoạn cơ bản sau.
1 – Giai đoạn sol: Tạo dung dịch thủy phân chứa precursor của zirconi, ví dụ
như: Zr(O(CH2)3CH3)4.
2 – Giai đoạn gel: Tạo gel ướt (phun, nhúng, quay) rồi gel khô (để khô tự
nhiên, buồng khô hoặc ủ nhiệt).
3 – Giai đoạn hoàn thiện màng: Xử lý nhiệt để tạo màng sau cùng, ổn định
(nung, thiêu kết... thường từ 200 oC đến 600 oC).
Phương pháp tạo màng zirconia bằng phương pháp nhúng có thể được mô tả
qua các phương trình hóa học cơ bản sau.
-2
Trong dung dịch, axit hexaflorozirconic được phân ly thành dạng ion theo
(1.11) phương trình: H2ZrF6 → 2H+ + ZrF6
Khi kim loại tiếp xúc với dung dịch H2ZrF6, trên bề mặt sẽ xảy ra các phản
ứng điện hóa. Kim loại bị oxy hóa và tan vào dung dịch bởi phản ứng anot:
(1.12) Me → Me2+ + 2e
Ion kim loại sẽ kết hợp với hợp chất florit để giải phóng Zr4+ vào trong dung
-4
dịch theo phản ứng 1.13:
-2 → Zr4+ + MeF6
(1.13) Me2+ + ZrF6
Đồng thời, ion H+ bị khử bởi phản ứng catot cục bộ trên bề mặt kim loại và
giải phóng H2 theo phương trình 1.14:
(1.14) 2H+ + 2e → H2↑
13
Kết quả dẫn tới pH cục bộ trên bề mặt catot tăng làm kết tủa zirconi oxit ngậm
nước bắt đầu tại các vị trí nảy mầm tinh thể rồi sau đó lan tỏa ra toàn bộ bề mặt để
hình thành lớp màng zirconi oxit theo phương trình 1.15:
(1.15) Zr4+ + 3H2O → ZrO2· H2O + 4H+
Lớp màng zirconi oxit tạo thành có độ dày rất khác nhau được cấu tạo bởi các
đỉnh zirconi oxit sắp xếp liên tục với nhau. Độ dày cũng như độ đồng nhất của lớp
màng tạo thành phụ thuộc trực tiếp vào các pha kim loại trong thép [69].
Cơ chế và động học quá trình hình thành màng zirconi oxit trên các bề mặt
khác nhau (hợp kim nhôm AA6014, thép cán nguội và thép mạ nhúng nóng) đã
được nghiên cứu bởi J. Cerezo và cộng sự (2013) [20]. Kết quả chứng tỏ rằng, biến
thiên thế mạch hở liên quan trực tiếp đến quá trình tạo thành lớp màng zirconia. Cơ
chế hoạt hóa thể hiện ở chỗ lớp ngoài của kim loại nền dễ dàng bị hòa tan để hình
thành florit kim loại. Cùng với quá trình này, lớp màng dựa trên zirconi cũng được
hình thành kèm theo sự tăng pH cục bộ tại giao diện kim loại - dung dịch do phản
ứng giải phóng hydro và phản ứng khử oxy. Điều này còn có thể đưa ra giả thuyết
rằng oxit kim loại không hoàn toàn hòa tan do tương tác của nó với florit tự do.
Động học quá trình này xảy ra phụ thuộc vào hóa học bề mặt của oxit kim loại.
Taheri và cộng sự (2015) đã nghiên cứu (in situ) động học của quá trình hình
thành màng zirconi oxit trên kẽm thông qua khảo sát thế mạch hở và pH cục bộ trên
bề mặt [70]. Kết quả cho thấy, lớp màng zirconia hình thành trên cơ sở loại bỏ các
nhóm hydroxyl bởi lượng florit tự do và dẫn tới việc tăng pH cục bộ tại bề mặt.
Tiếp đó là quá trình gia tăng tốc độ kết tủa để tạo lớp màng chuyển tiếp. Sự hình
thành màng zirconia phụ thuộc chủ yếu vào gốc hydroxyl tự do ban đầu bởi vì nếu
lượng hydroxyl tự do nhỏ hơn trạng thái cân bằng, quá trình hydroxyl hóa sẽ cao
hơn quá trình loại bỏ hydroxyl nên không đủ điều kiện hình thành màng.
E. Ramanathan và cộng sự (2016) đã nghiên cứu quá trình tạo thành lớp màng
nano dựa trên zirconi từ sản phẩm thương mại tiền xử lý bề mặt cho sơn dung môi
và sơn nước [71]. Kết quả nghiên cứu đã chứng tỏ lớp màng là zirconi oxit và oxit
này có thể ngậm nước. Trong quá trình tạo màng, có sự cạnh tranh trong việc hình
thành ZrO2 và ZrF4, tuy nhiên, lớp màng cuối cùng chỉ có ZrO2 vì ZrF4 sẽ dễ bị loại
bỏ bởi quá trình rửa với nước.
14
1.2.2. Hiệu quả tiền xử lý và đặc trưng tính chất của lớp màng zirconia
Y. Zhai và cộng sự (2007) nghiên cứu tạo màng zirconi oxit từ dung dịch
H2ZrF6 trên bề mặt thép cán nguội nhằm đánh giá hình thái bề mặt, thành phần và
các đặc trưng tính chất điện hóa [44]. Kết quả nghiên cứu trên kính hiển vi lực
nguyên tử (AFM) chỉ ra sự xuất hiện của các cấu trúc hạt cỡ chục nm và các tổ hợp
của nó. Hình ảnh kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM) cho biết màng zirconi oxit
tạo ra chỉ khoảng 20nm, liên tục và bám dính trên bề mặt thép. Thành phần chủ yếu
của màng là Zr, Fe và O. Ngoài ra, một số nguyên tố đã được tìm thấy: Al, Si, C và
Mn. Kết quả nghiên cứu này còn dự đoán khả năng tồn tại F trong thành phần
màng, tuy nhiên do tỷ lệ tương đối so với Fe quá nhỏ nên chưa phát hiện được.
S. Adhidari và cộng sự (2011) đã nghiên cứu độ bền ăn mòn lớp màng zirconi
oxit tiền xử lý thép cán nguội có thêm phụ gia Cu, Si vào trong dung dịch H2ZrF6
[18]. Kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị điện trở phân cực của các mẫu được xử lý
trong dung dịch H2ZrF6 đều cao hơn so với mẫu đối chứng (mẫu không được tiền
xử lý) chứng tỏ khả năng bảo vệ chống ăn mòn cao hơn của zirconi oxit cả khi có
và không có phụ gia.
E. Mohammadloo và cộng sự (2012) đã nghiên cứu khả năng bảo vệ ăn mòn
và cấu trúc của màng zirconi oxit hình thành trên bề mặt thép cán nguội bằng cách
nhúng trong dung dịch H2ZrF6 (Sản phẩm Bonderite NT-1 của tập đoàn Henkel)
[45]. Hình ảnh từ FE-SEM và AFM chỉ ra rằng, lớp màng tạo thành có các cấu trúc
hạt kích thước khoảng 50 nm và tổ hợp của nó khoảng 100 500 nm. Lớp màng
đồng nhất với sự phân bố đều Zr dọc theo bề mặt.
S. S. Golru và cộng sự (2015) đã nghiên cứu đặc tính bảo vệ ăn mòn màng
zirconi oxit trên nền hợp kim nhôm 1050 [48]. Kết quả chỉ ra rằng, mật độ dòng ăn
mòn của hợp kim nhôm giảm khi được xử lý bằng Zr. Lớp zirconi oxit hạn chế sự
hình thành ăn mòn điểm bằng các bao phủ các hạt liên kết kim loại và giảm phản
ứng catot. Kết quả nghiên cứu cũng khẳng định, bề mặt hợp kim nhôm 1050 được
xử lý bởi màng zirconi oxit cải thiện khả năng bám dính với sơn epoxy.
M. Sababi và cộng sự (2017) đã nghiên cứu hiệu quả của lớp phủ chuyển tiếp
tiền xử lý dựa trên zirconi đến thuộc tính liên kết giữa lớp phủ epoxy và bề mặt thép
[72]. Phổ tổng trở điện hóa cho thấy, không có sự khác biệt ban đầu về hiệu quả bảo
15
vệ của lớp phủ, nhưng theo thời gian ngâm trong nước muối NaCl 0,1 M, mẫu thép
không được xử lý suy giảm tổng trở rõ rệt, trong khi mẫu được xử lý suy giảm
không nhiều (hình 1.3). Sự suy giảm về độ lớn tổng trở nhưng không có sự xuất
hiện của hằng số pha không đổi thứ hai trong phổ sau 250 giờ thử nghiệm còn
chứng tỏ độ ổn định của liên kết tại giao diện lớp phủ và thép.
Hình 1.3. Phổ tổng trở của mẫu không được xử lý (a) và được xử lý bằng zirconia
Trước thử nghiệm Sau 250 giờ Sau 35 ngày Sau 70 ngày
) a P M
( h n í d m á b ộ Đ
(b) sau các khoảng thời gian thử nghiệm trong NaCl 0,1 M [72].
Mẫu đối chứng Mẫu được xử lý bẳng Zr
Hình 1.4. Suy giảm độ bám dính của sơn epoxy trên thép không được xử lý (mẫu
đối chứng) và được xử lý bằng zirconia khi thử nghiệm trong NaCl 0,1 M [72].
Kết quả nghiên cứu còn chứng tỏ rằng xử lý bề mặt bằng zirconi oxit đã cải
thiện rõ rệt cả độ bám dính khô và độ bám dính ướt của thép cacbon với lớp phủ
epoxy ngay cả khi không có hoặc có khuyết tật nhân tạo trong môi trường xâm thực
(hình 1.4) [72].
16
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến đặc trưng tính chất lớp màng zirconia
1.2.3.1. Ảnh hưởng của vật liệu nền
Nghiên cứu của J. Cerezo và cộng sự (2013) thực hiện tạo lớp màng zirconi
oxit trên 3 bề mặt khác nhau (hợp kim nhôm AA6014, thép cán nguội và thép mạ
nhúng nóng) [20]. Sự biến thiên khác nhau về thế mạch hở đã chứng minh cho quá
trình hình thành lớp màng khác nhau trên mỗi bề mặt. Kết quả này là do mức độ
hoạt hóa của bề mặt khác nhau trong dung dịch chuyển tiếp axit hexaflorozirconic.
Ngoài ra, kết quả từ phổ AES cũng chứng tỏ, lớp màng tạo thành trên bề mặt thép
Độ dày lớp màng Zr Độ dày lớp màng Zr + pha trung gian
) t ú h p ( ạ x n ú h p n a i g i ờ h T
mạ nhúng nóng dày nhất và trên hợp kim nhôm mỏng nhất (hình 1.5).
HK nhôm 6014 Thép cán nguội Thép mạ nhúng nóng
Hình 1.5. Độ dày lớp màng chuyển tiếp trên các bề mặt khác nhau [20].
L.I. Fockaert và cộng sự (2017) nghiên cứu quá trình hình thành màng zirconi
oxit trên các kim loại kẽm, magie và nhôm [73]. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy,
tốc độ hình thành màng và các pha trong màng cũng khác biệt giữa các bề mặt nền
)
%
( t ặ m ề b n ê r t ử t n ê y u g n ệ l ỷ T
(hình 1.6).
Hình 1.6. Tỷ lệ các nguyên tố được tìm thấy trên lớp bề mặt [73].
17
Lớp màng được hình thành nhanh chóng trên bề mặt magie nhưng xảy ra trên
bề mặt nhôm rất chậm. Lớp màng tạo thành trên magie cũng dày hơn gấp 10 lần so
với kẽm. Sự khác nhau về tốc độ hình thành màng cũng xảy ra đồng thời với sự
khác nhau về thành phần trong màng (hình 1.6). Mặc dù vậy, tỷ lệ Zr được tìm thấy
vẫn độc lập tương đối với tốc độ tạo màng.
1.2.3.2. Ảnh hưởng của thời gian nhúng, nhiệt độ, nồng độ và pH của dung dịch
Verdier và cộng sự (2005, 2006) đã nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ axit
hexaflorozirconic (0,001 M; 0,05 M; 0,01 M và 0,1 M) đến thành phần của màng
zirconi tạo thành trên bề mặt hợp kim nhôm-magie [10,47]. Kết quả nghiên cứu chỉ
ra rằng, khi tăng nồng độ axit, hàm lượng Zr tạo thành trong lớp màng giảm và tỷ lệ
nghịch với thành phần F trong màng. Tác giả nhận định rằng, có sự cạnh tranh nhất
định giữa hai thành phần F và Zr trong việc tạo màng. Rõ ràng là, với nồng độ axit
thấp, ưu thế tạo màng thuộc về Zr. Điều này có thể được giải thích là do, khi tăng
nồng độ axit thì độ pH của dung dịch bị giảm nên mẫu nền dễ bị hòa tan, và nếu
màng zirconi oxit được tạo thành cũng dễ bị hòa tan. Phổ XPS cũng cho thấy khi
nồng độ axit trong dung dịch tăng thì phần trăm Zr tìm thấy trên bề mặt cũng giảm.
Nồng độ axit càng thấp (tương ứng với pH có giá trị lớn hơn) thì quá trình hình
thành màng oxit trên bề mặt hợp kim Al-Mg được thúc đẩy nhanh hơn. Khi tăng pH
từ 3 đến 6, tỷ lệ Zr đạt được cũng tăng theo, tuy nhiên khi giảm pH từ 3 xuống 2, tỷ
lệ Zr đạt được gần như không thay đổi. Kết quả này cho thấy việc lựa chọn độ pH
có ý nghĩa trực tiếp đến màng zirconi oxit tạo thành.
Y. Zhai và cộng sự (2007) đã nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ (giữa 30 và
35 oC) đến một số đặc trưng tính chất của màng zirconi oxit [44]. Kết quả nghiên
cứu trên kính hiển vi lực nguyên tử (AFM) cho thấy không những kích thước của
các hạt trong màng tạo thành lớn hơn mà số lượng tổ hợp hạt cũng nhiều hơn với
kích thước lớn hơn khi tăng nhiệt độ dung dịch từ 30 đến 35 oC.
H. E. Mohammadloo và cộng sự (2012, 2014) nghiên cứu lớp phủ zirconi oxit
trên thép cán nguội [19,45,74]. Khảo sát được thực hiện với pH dung dịch thay đổi
từ 2 đến 6, nhiệt độ thay đổi từ 20 đến 40 oC, thời gian thay đổi từ 60 đến 180 giây.
Kết quả nghiên cứu khẳng định rằng, thời gian nhúng ảnh hưởng rõ rệt đến tổ chức
tế vi và khả năng bảo vệ ăn mòn của lớp màng tạo thành. Điện trở phân cực đạt giá
18
trị cao nhất ứng với pH, nhiệt độ dung dịch và thời gian nhúng tương ứng là 4 hoặc
) 2
m c / A μ ( n ò m n ă g n ò d ộ đ t ậ
M
E (V so với Ag/AgCl)
4,5; 25 oC và 90 giây (hình 1.7, 1.8).
Hình 1.7. Đường cong phân cực của các mẫu thép được nhúng trong dung dịch
H2ZrF6 với thời gian khác nhau (trong dung dịch NaCl 3,5 %) [45].
Hình 1.8. Phổ tổng trở mẫu thép được xử lý trong dung dịch có pH khác nhau
(trong dung dịch NaCl 3,5 %) [74].
Khi thời gian nhúng là 90 giây, bề mặt màng tạo thành cũng mịn và liên tục.
Thay đổi thời gian nhúng, kết quả khẳng định, từ 60 120 giây khả năng bảo vệ ăn
mòn của lớp màng là tốt nhất; nếu tăng thời gian nhúng hơn 120 giây, nhiều vết nứt
được tạo ra và độ đồng đều lại giảm dần. Kết quả nghiên cứu còn cho thấy, tăng
nhiệt độ từ 20 lên 40 oC chỉ làm giảm độ bền ăn mòn của lớp màng tạo thành.
Nghiên cứu thay đổi nồng độ dung dịch axit hexaflorozirconic (3, 4 và 5 %)
cũng được nhóm tác giả này nghiên cứu [46]. Điện trở phân cực đạt giá trị cao hơn
19
cả tương ứng với dung dịch có nồng độ 4 %. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa mật độ
dòng ăn mòn không nhiều (chỉ khoảng 1 μA) nên, nồng độ dung dịch có ảnh hưởng
không đáng kể đến độ bền ăn mòn của màng tạo thành.
T. Lostak và cộng sự (2013) nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian nhúng trong
dung dịch H2ZrF6 đến thành phần màng tạo thành [21]. Kết quả phân tích cho thấy,
Tỷ lệ Zr tìm thấy trong màng không có sự thay đổi nhiều khi tăng thời gian nhúng
từ 1 phút lên 5 phút nhưng hàm lượng F lại tăng đáng kể. Điều này cho thấy, ở
phạm vi chế tạo lớp màng zirconia, thời gian nhúng quá nhiều sẽ dẫn tới nhiều tạp
chất (hợp chất của flo) không mong muốn.
S. S. Golru và cộng sự (2015) đã nghiên cứu khảo sát các đặc trưng của màng
zirconi oxit trên nền hợp kim nhôm 1050 bằng dung dịch axit hexaflorozirconic
[48]. Khảo sát được thực hiện với pH dung dịch lần lượt là 3,5; 4; 4,5; 5; nhiệt độ
thay đổi từ 20 đến 35 oC; thời gian thay đổi từ 2 đến 6 phút và nồng độ thay đổi từ
50 đến 200 mg/L. Kết quả chỉ ra rằng, hiệu quả bảo vệ đạt được tốt nhất tương ứng
với lớp màng được tạo trong dung dịch có pH, nhiệt độ, nồng độ và thời gian nhúng
lần lượt là: 4,5; 25 oC; 100 mg/L và 3 phút.
H. R. Asemani và cộng sự (2016) đã nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ axit
hexaflorozirconic (0,001 M; 0,01 M; 0,1 M) và pH của dung dịch (1,5; 2,5; 3,5; 4,5
5,5) đến độ bền của lớp màng zirconi oxit trên bề mặt thép cacbon trung bình [49].
Kết quả khảo sát cho thấy, độ bền ăn mòn đạt được tốt nhất ở nồng độ axit là 0,01
M ứng với pH = 4,5. Ở nồng độ axit cao (0,1 M) hay độ pH thấp, lớp màng có thể
được tạo thành nhưng cũng dễ bị hòa tan trong dung dịch chuyển tiếp nên độ bền
không cao. Ngược lại, ở nồng độ axit quá thấp hay độ pH cao, hydroxit của kim loại
dễ dàng được tạo thành trên bề mặt dẫn tới việc ưu tiên hình thành hydroxyl của
zirconi hơn là oxit nên độ bền lớp màng không cao.
1.2.3.3. Ảnh hưởng của phụ gia
Y. Zhai và cộng sự (2007) có một số kết luận cơ bản về vai trò của phụ gia
đến chất lượng màng zirconi oxit được tạo bởi dung dịch H2ZrF6 trên bề mặt thép
cán nguội [44]. Kết quả nghiên cứu cho thấy kích thước các hạt và tổ hợp hạt trong
màng tạo thành đều lớn hơn khi có phụ. Ngoài ra, sự có mặt của phụ gia cũng dẫn
tới tăng điện trở phân cực, tăng độ gồ ghề của mẫu nhưng tỷ lệ Zr lại giảm xuống.
20
S. Adhidari và cộng sự (2011) đã nghiên cứu thành phần, hình thái và cấu trúc
của lớp màng zirconi oxit tiền xử lý trên thép cán nguội có thêm phụ gia Cu, Si vào
trong dung dịch H2ZrF6 [18]. Dựa trên số liệu thay đổi khối lượng mẫu từ cân phân
tích tinh thể Quartz, kết quả chỉ ra rằng mặc dù sự hòa tan khối lượng kim loại nền
vào trong dung dịch là tương đương nhau nhưng khối lượng lớp màng hình thành
trên bề mặt nền của mẫu có phụ gia cao hơn. Điều này cho thấy sự có mặt của Cu
làm tăng động học quá trình hình thành màng đồng thời làm cho độ dày của màng
tăng lên (từ 20 đến 30nm). Mật độ Cu phân bố cũng không đều trong màng tạo
thành và có chỗ tập trung đến 50-60 % về khối lượng.
T. Lostak và cộng sự (2013) đã nghiên cứu sự hình thành và đặc trưng tính
chất của lớp màng zirconi oxit trên nền thép mạ nhúng nóng có thêm phụ gia
Fe(NO3)3.9H2O và Cu(NO3)2.3H2O [21]. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, trong lớp
màng tạo thành không những chứa Zn của bề mặt nền mà còn chứa cả Fe và Cu
xuất phát từ phụ gia (bảng 1.4). Kết quả phân tích cho thấy, trong khi nồng độ của
các phụ gia tăng lên theo thời gian thì nồng độ của kim loại nền và kim loại trong
dung dịch xử lý lại giảm đi. Đặc biệt với phụ gia Fe(NO3)3.9H2O, thời gian tăng làm
cho nồng độ Zr giảm đi nhiều hơn hẳn so với các trường hợp còn lại.
Bảng 1.4. Số liệu phân tích thành phần màng tạo thành [21].
Tỷ lệ các nguyên tố trong lớp màng (%) Điều kiện tạo màng zirconia O Zn Al Zr F Fe Cu
Chưa xử lý 60 29 11
60 8 19 13 H2ZrF6 trong 60 giây
57 7 19 17 H2ZrF6 trong 300 giây
69 6 13 9 3 H2ZrF6 trong 60 giây, phụ gia Fe
68 7 9 9 7 H2ZrF6 trong 300 giây, phụ gia Fe
66 8 18 6 2 H2ZrF6 trong 60 giây, phụ gia Cu
63 4 19 11 3 H2ZrF6 trong 300 giây, phụ gia Cu
J. Cerezo và cộng sự (2013) đã nghiên cứu về cấu trúc và thành phần của
màng zirconi oxit tạo thành khi có thêm phụ gia đồng trên 3 bề mặt khác nhau (hợp
21
kim nhôm AA6014, thép cán nguội và thép mạ nhúng nóng) [20]. Kết quả đo Phổ
điện tử Auger đã chứng tỏ có sự tham gia của đồng vào quá trình hình thành màng
nhưng không đồng đều (hình 1.9). Kết quả nghiên cứu đặc trưng bề mặt đã chỉ ra
rằng, mặc dù có mặt cả Cu, F, Zr, O và kim loại nền nhưng hàm lượng Cu và F lại
rất thấp so với các thành phần còn lại. Tuy vậy, sự có mặt của Cu và Fe ở bên dưới
lớp màng chứng tỏ rằng các nguyên tố này hoạt động như là xúc tác thúc đẩy cho
quá trình hình thành màng [20]. Kết quả nghiên cứu phổ quang điện tử tia X
(XPS) chỉ ra sự có mặt của ZrO2. Vì không có các pic (đỉnh) phụ nên có thể khẳng
định rằng không có ZrF4; nếu có thì cũng rất nhỏ.
HK nhôm AA 6014 Thép cán nguôi Thép mạ nhúng nóng
Hình 1.9. Sơ đồ lớp màng tạo thành trên các bề mặt khác nhau [20].
R. Mohammad Hosseini và cộng sự (2014) đã nghiên cứu ảnh hưởng của phụ
gia MnSO4 (nồng độ: 0,01; 0,1 và 1 g/L) đến khả năng chống ăn mòn, hình thái và
thành phần của lớp zirconi oxit tạo thành [19]. Kết quả phân tích AFM và SEM đã
chỉ ra rằng, khi có phụ gia, màng zirconi oxit tạo thành đồng nhất hơn. Nghiên cứu
cũng cho thấy, sự có mặt của Mn2+ với nồng độ 0,01 g/L cho điện trở phân cực của
màng zirconi oxit tạo thành cao nhất. Tuy nhiên khi tăng nồng độ Mn2+ lên tương
ứng là 0,1 và 1 g/L thì điện trở phân cực lại giảm xuống (Hình 1.10). Như
vậy, sự có mặt của Mn cho lớp màng zirconia đồng nhất hơn, khả năng chống ăn
mòn cao hơn khi không có phụ gia này, nhưng với vai trò là lớp tiền xử lý, sự có
mặt của Mn trong trong dung dịch tạo màng lại dẫn tới suy giảm độ bám dính của
hệ sơn sử dụng, đồng thời cũng dẫn tới suy giảm độ bền của hệ sơn sau 6 tuần thử
nghiệm mặc dù độ bền ban đầu được xác định là tương đương nhau (bảng 1.6).
1- Mẫu không được xử lý
2- Mẫu được xử lý không phụ gia
3- Phụ gia 0,01 g/L MnSO4
4- Phụ gia 0,1 g/L MnSO4
5- Phụ gia 1 g/L MnSO4
3
5
4
2
1
22
Hình 1.10. Đồ thị Nyquist của các mẫu thép được xử lý bằng zirconi
có hoặc không có MnSO4 [19].
Bảng 1.5. Module tổng trở tại tần số thấp của mẫu sơn được xử lý
ở các chế độ khác nhau (trong dung dịch NaCl 3,5 %) [19].
Mô đul tổng trở Z0,01Hz
Thông số xử lý bề mặt
Sau 1 tuần Sau 6 tuấn
6,26 108 Mẫu không được xử lý 2.81 107
Mẫu được xử lý không có phụ gia
2,47 1010 1,34 1010
Mẫu được xử lý chứa phụ gia 0,01 g/L MnSO4 2,15 1010 2,44 108
Mẫu được xử lý chứa phụ gia 0,1 g/L MnSO4 2,23 1010 9,24 108
Mẫu được xử lý chứa phụ gia 1 g/L MnSO4 2,05 1010 1,37 109
G. Yoganandan và cộng sự (2015) đã nghiên cứu đánh giá khả năng bảo vệ ăn
mòn và trạng thái tự hàn gắn (self-healing) của màng zirconi–xeri trên nền hợp kim
nhôm [75]. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, sự có mặt của xeri làm cho thành
phần của lớp màng có sự thay đổi rõ rệt, cả Zr và Ce đều tồn tại ở nhiều dạng oxit
khác nhau. Mặc dù kết quả phân tích hình thái bề mặt chứng tỏ lớp màng không có
23
Ce cho kết quả mịn hơn nhưng lớp màng có Ce lại có dòng ăn mòn thấp hơn và cho
khả năng bảo vệ ăn mòn tốt hơn trong môi trường xâm thực. Ngoài ra, sự có mặt
của Ce còn cho thấy khả năng tự hàn gắn (self-healing) của màng tạo thành.
1.3. Phương pháp xử lý bề mặt thép bằng silan
1.3.1. Cơ chế hình thành lớp màng silan trên bề mặt thép
Trong hơn hai thập kỷ gần đây, silan được ứng dụng rộng rãi như là phương
pháp tiền xử lý để thay cho cromat hóa trên các bề mặt nhôm, đồng, kẽm và thép
mạ kẽm vì silan cải thiện đáng kể khả năng bám dính của lớp sơn lên các bề mặt
này [15,30–34].
Silan là hợp chất có cấu trúc phân tử tương tự như hợp chất hữu cơ khi thay
thế C bằng Si. Sự thay thế này hoàn toàn thích hợp vì trong bảng tuần hoàn C và Si
cùng thuộc một nhóm và ở trạng thái ổn định nhất, chúng đều có 4 electron tự do.
Tuy nhiên, sự thay thế đơn giản này lại dẫn tới sự thay đổi rõ rệt về tính hoạt hóa
của các nhóm chức trong silan tương ứng nhờ Si có tính dương điện cao hơn C [76].
Kết quả là, trong cấu trúc phân tử của silan, nhóm chức như methoxy (-OCH3) hay
ethoxy (-OC2H5) dễ dàng tạo liên kết với kim loại, trong khi đó, các nhóm chức
khác như clorua (-Cl), amino (-NH2(CH2)n) hay vinyl (-CH=CH2)...dễ dàng tạo liên
kết với bề mặt hữu cơ [77]. Vì vậy, silan có tính chất như là tác nhân kép liên kết
giữa bề mặt vô cơ và hữu cơ, đặc biệt là làm cầu nối giữa bề mặt kim loại và sơn.
Một số dạng silan thương mại phổ biến được trình bày ở bảng 1.7.
Bảng 1.6. Nhóm chức hoạt hóa của một số silan thương mại phổ biến [77].
Tên silane Công thức hóa học Nhóm chức tạo liên kết Với polymer Với bề mặt
Clorua Methoxy Cl(CH2)3Si(OCH3)3
Vinyl Ethoxy
Methacryloxy Methoxy
Methoxy Aliphatic epoxide CH2=CHSiO(C2H5)3 CH2=C-CH3-OC- O(CH2)3Si(OCH3)3 CH2OCHCH2O- (CH2)3Si(OCH3)3
Amino Ethoxy NH2(CH2)3Si(C2H5)3
Methoxy Amino diamino NH2 (CH2)2NH (CH2)3Si(CH3)3 3- Chloropropyl- trimethyloxysilane Vinyltriethoxy-silane γ-Methylacryloxypropyl- trimethoxysilane γ-Glycidoxypropyl- trimethoxysilane γ-Aminopropyl- triethoxysilane N--(aminoethyl)- aminopropyl- trimethoxysilane
24
Sự hình thành lớp màng silan trên bề mặt thép thường trải qua các giai đoạn cơ
bản sau [29,34,78,79].
Khi pha loãng dung dịch, các nhóm alkoxy (ví dụ OCH3) của silan chuyển
sang nhóm silanol (Si-OH) theo phương trình 1.17.
(1.17) CH3Si(OCH3)3 + 3H2O → CH3Si(OH)3+3CH3OH
(1.17) -NH-(CH2)3Si(OC2H5)3 → -NH-(CH2)3Si(OH)3 + C2H5OH
Nhóm silanol bị hấp phụ bởi hydroxyl của ion kim loại (ví dụ Fe-OH) thông
qua liên kết hydro vào chuyển thành liên kết siloxan – kim loại (Si-O-Fe) theo
phương trình 1.18.
(1.18) SiOH+ Fe-OH → SiOFe+H2O
(1.18) -NH-(CH2)3Si(OH)3 + Fe-OH → -NH-(CH2)3Si(OH)2 –O-Fe
Các nhóm Si-OH tự do cũng được hình thành để tạo thành mạng lưới siloxan
(Si-O-Si) ổn định về mặt hóa học theo phương trình 1.19.
(1.19) SiOH+ SiOH → SiOSi+H2O
Sự hình thành mối liên kết hydro và mạng lưới siloxan-kim loại có thể được
sơ đồ hóa trong hình 1.11 [34,80].
Ngay sau khi hấp phụ (a) Sau khi xử lý (b)
Hình 1.11. Hấp phụ silan thủy phân một phần trên bề mặt kim loại: Ngay sau khi
hấp phụ (a) và sau khi xử lý ở nhiệt độ phòng hoặc cao hơn (b).
25
1.3.2. Hiệu quả tiền xử lý và đặc trưng tính chất lớp màng silan
Mối liên kết giữa màng silan và bề mặt thép được hình thành trên cơ sở cộng
hóa trị [81]. Đây là mối liên kết khá bền đối với hiện tượng thủy phân và vì vậy, độ
bám dính rất ổn định ngay cả trong môi trường ẩm [81]. Khả năng bảo vệ chống ăn
mòn và bám dính với màng sơn phụ thuộc vào cơ chế thấm ẩm của màng silan, mật
độ liên kết hóa học với bề mặt và độ dày của màng [34]. Lớp màng này đã chứng tỏ
khả năng bảo vệ ăn mòn, tăng cường độ bám dính và hạn chế bong tróc cho màng
sơn do bền với hiện tượng thủy phân. Lớp màng silan không những làm cầu nối
tăng cường độ bám dính giữa bề mặt kim loại và sơn mà còn tạo ra lớp màng mỏng
hiệu quả chống lại sự khuếch tán oxy lên bề mặt kim loại [15,82].
F. Deflorian và cộng sự (2006) đã nghiên cứu vai trò tiền xử lý bề mặt nhôm
và đồng bằng silan [15]. Kết quả nghiên cứu cho thấy, lớp màng silan sau khi xử lý
ở nhiệt độ cao có tính chất bảo vệ rất tốt. Với vai trò tiền xử lý bề mặt, silan không
những tăng cường độ bám dính khô mà cả độ bám dính ướt của hệ sơn tĩnh điện
theo thời gian ngâm mẫu trong dung dịch Na2SO4 0,3% (bảng 1.8).
Bảng 1.7. Độ bám dính của hệ sơn tĩnh điện khi xử lý bề mặt khác nhau [15].
Mẫu Độ bám dính khô (Mpa) Độ bám dính, sau 1000 giờ thử nghiệm ở môi trường độ ẩm 100%, (Mpa)
Mẫu nền 4,1 2,6
Tiền xử lý bằng silan 9,0 8,1
6,2 4,6 Tiền xử lý bằng zirconi florua
Số liệu từ phổ tổng trở cũng cho thấy, cả silan và zirconi florua không cải
thiện điện trở của màng sơn nhưng lại duy trì thông số này và do đó duy trì độ bền
của màng sơn cũng được lâu hơn so với mẫu không được xử lý (hình 1.12).
N. Asadi và cộng sự (2014) đã nghiên cứu độ bền ăn mòn của lớp màng silan
tạo bằng phương pháp sol-gel trên bề mặt thép cacbon [83]. Phổ tổng trở điện hóa
và đường cong phân cực đều chứng tỏ rằng, độ bền ăn mòn của mẫu được xử lý
bằng silan cao hơn nhiều lần so với mẫu không được xử lý sau 8 giờ ngâm trong
NaCl 0,1 M (hình 1.13).
26
) 2
m c .
( ở r t n ệ i Đ
Thời gian thử nghiệm (giờ)
Zirconi florua Silan Không xử lý
Hình 1.12. Biến thiên điện trở chuyển dịch điện tích khi so sánh giữa silane,
Silan
Thép cacbon
zirconi florua và mẫu nền theo thời gian ngâm trong dung dịch Na2SO4 0,3% [15].
Hình 1.13. Phổ Bode của mẫu thép cacbon có và không có xử lý bề mặt bằng silan
khi thử nghiệm 8 giờ trong dung dịch NaCl 0,1 M [83].
P.R.Seré và cộng sự (2016) nghiên cứu hiệu quả bảo vệ tạm thời của lớp màng
silan γ-mercaptopropyltrimethoxysilane (MTMO) trên thép [84]. Kết quả cho thấy,
-, Cl-.
lớp màng có khả năng bảo vệ tạm thời trong môi trường có độ ẩm cao nhưng chưa
có hiệu quả trong môi trường ăn mòn như SO4
M. Pantoja và cộng sự (2016) nghiên cứu sử dụng silan γ-methacriloxy-
propyltrimethoxysilane (MPS) tiền xử lý để gia tăng lực liên kết giữa bề mặt thép
mạ và khớp ren [85]. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng sử dụng silan cải thiện sự phân
tán bề mặt dẫn tới gia tăng lực liện kết tại các giao diện.
27
1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến đặc trưng tính chất lớp màng silan
1.3.3.1. Ảnh hưởng của vật liệu nền
Độ bám dính của silan với một số loại bề mặt khác nhau đã được nghiên cứu.
D. M. Segura và cộng sự (2005) đã chỉ ra độ bám dính của silan phụ thuộc vào
nhiều kiểu bề mặt. Độ bám dính với một số bề mặt phổ biến tăng dần được thể hiện
theo sơ đồ sau [86].
Đồng Alu Mica Quartz Thủy tinh Nhôm
Graphit Kẽm Niken Thép Talc
Hình 1.14. Độ bám dính của silan theo kiểu bề mặt [86].
1.3.3.2. Ảnh hưởng của thời gian, nhiệt độ xử lý, nồng độ và pH của dung dịch
W.J. van Ooij và cộng sự (2005) nghiên cứu tổng hợp các thuộc tính bảo vệ ăn
mòn của silan hữu cơ đã khẳng định rằng, lớp màng silan được tạo thành rất nhanh
trên bề mặt và độ dày hầu như không thay đổi dù thời gian xử lý có kéo dài từ 30
giây cho đến 30 phút [34].
F. Deflorian và cộng sự (2006) đã nghiên cứu việc thay đổi độ pH trong dung
dịch silan cũng dẫn tới thay đổi đặc trưng tính chất màng tạo thành trên bề mặt đồng
và nhôm [15]. Khi pH giảm (từ 6 đến 4) diện tích bề mặt được bao phủ bởi silan
tăng do sức căng bề mặt của dung dịch đã thay đổi (hình 1.15). Lớp màng tạo thành
không liên tục, khu vực không được bao phủ bởi silan sẽ cho khả năng bảo vệ ăn
mòn yếu nhất. Mặc dù vậy, cấu trúc lớp silan đạt được trong trường hợp này lại cho
độ bám dính tốt hơn.
Hình 1.15. Ảnh chụp bề mặt đồng được xử lý bằng dung dịch silan
với pH lần lượt từ trái qua phải là 6, 5 và 4 [15].
28
M. Fedel và cộng sự (2009) nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ xử lý sau khi
tạo màng silan trên thép mạ khẳng định rằng, ở nhiệt độ 180 oC, khả năng tương tác
với bề mặt thép mạ là tốt hơn và tăng cường sự liên kết giữa bề mặt thép và sơn gốc
epoxy so với trường hợp xử lý ở nhiệt độ 120 oC [87].
B. Chico và cộng sự (2010) đã nghiên cứu độ bám dính, độ bền thử nghiệm tự
nhiên của thép cacbon được xử lý bề mặt và bảo vệ bằng 3 loại silan với 2 nồng độ
khác nhau [88]. Kết quả nghiên cứu chỉ ra, có sự khác biệt rõ rệt giữa mức độ suy
giảm bám dính sau 2 năm thử nghiệm. Loại γ-GPS có độ bám dính ban đầu cao nhất
) 2
.
m N k ( h n í d m á b ộ Đ
nhưng lại suy giảm nhanh nhất (hình 1.16).
Hình 1.16. Độ bám dính từ trái qua: phốt phát, silane (1%, 2%), Bis-anime (1%,
2%), γ-GPS (1%, 2%); : Trước thử nghiệm; : Sau 2 năm thử nghiệm [88].
Với loại silan này, nồng độ tăng (từ 1 % lên 2 %) cũng dẫn tới độ bám dính
tăng theo. Tuy nhiên kết quả lại ngược lại với silan Bis-anime. Đặc biệt là, mặc dù
với silan γ-APS, nồng độ tăng tạo ra lớp màng có độ bám dính ban đầu tăng nhưng
mức độ suy giảm sau 2 năm thử nghiệm lại giảm đi quá nửa (hình 1.16).
Ngoài ra, mức độ phá hủy mẫu sơn xung quanh vết rạch sau 3 năm thử nghiệm
cũng chứng tỏ, nồng độ silan cao hơn tùy từng loại silan sẽ hỗ trợ độ bền của hệ sơn
ở các mức khác nhau. Kết quả đạt được tốt nhất với silan γ – APS, tốt hơn cả phốt
phát hóa (hình 1.17).
)
m m
( h c ạ r t ế v ừ t n ơ s g n à m y ủ h á h P
Thời gian thử nghiệm (năm)
29
Hình 1.17. Mức độ phá hủy màng sơn từ vết rạch của các mẫu được xử lý bằng 3 loại silan khác nhau sau 3 năm thử nghiệm tự nhiên [88].
M.R. Tchoquessi Doidjo và cộng sự (2013) [89] nghiên cứu về độ bền chịu ẩm
của lớp liên kết giữa amino-silan với bề mặt thép ống được sơn epoxy lại chỉ ra
rằng, amino-silan đạt được độ bền bám dính tốt ngay cả ở nhiệt độ phòng mà không
cần thiết phải xử lý ở nhiệt độ cao (khoảng 200 oC) như đã nêu ở các công trình [15]
và [87]. Lớp màng silan tạo thành khi dung dịch ở pH = 10,6 có độ bền của lớp liên
kết tạo thành tốt hơn ở pH = 4,6, bởi vì ở pH = 10,6 có sự hình thành cầu nối giữa
silan và resin của sơn epoxy.
P.R.Seré và cộng sự (2016) nghiên cứu hiệu quả bảo vệ tạm thời của lớp màng
silan γ-mercaptopropyltrimethoxysilane (MTMO) trên thép mạ khi thay đổi nhiệt độ
và thời gian xử lý [84]. Kết quả cho thấy, xử lý nhiệt có tác dụng thúc đẩy hoàn
thiện quá trình tạo màng. Lớp màng được xử lý 10 phút ở nhiệt độ 80 oC và 100 oC
tương đương với lớp màng được xử lý 2 ngày ở nhiệt độ 20 oC.
M. Pantoja và cộng sự (2016) nghiên cứu thay đổ pH của dung dịch silan γ-
methacriloxypropyltrimethoxysilane (MPS) đến đặc trưng tính chất thép mạ [85].
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng dung dịch tiền xử lý có pH = 4 tạo ra lớp màng
mỏng hơn và phân bố đồng đều hơn so với dung dịch có pH = 6.
Sultan Akhtar và cộng sự (2018) nghiên cứu cải thiện thuộc tính bền ăn mòn
của thép không gỉ sử dụng 2 loại silan glycidoxypropyltrimethoxysilane
/methyltrimethoxysilane (GPTMS/MTMS) theo phương pháp sol-gel rồi theo
30
phương pháp nhúng trong 1, 3 và 5 chu kỳ, mỗi chu kỳ 10 phút [90]. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, số chu kỳ nhúng ảnh hưởng trực tiếp đến thành phần màng tạo
thành (bảng 1.9). Thời gian nhúng với 1 chù kỳ, bề mặt chưa được bao phủ tốt, tỷ lệ
Fe và hợp kim cao. Đến 3 chu kỳ lớp phủ mới chứng tỏ các thành phần Si, O, C ở
nồng độ đủ lớn. Ngược lại, với 5 chu kỳ, lớp màng lại bị loại bỏ đến một mức độ
lớn có thể nhìn thấy các dòng biến dạng nhỏ, nồng độ sắt và hợp kim lại tăng cao.
Bảng 1.9. Tỷ lệ khối lượng các nguyên tử trong màng silan
theo số chu kỳ nhúng trong hỗn hợp silan [90].
Tỷ lệ phần trăm về khối lượng
C O Si Cl Cr Mn Fe Ni Au Số chu kỳ
19,79 13,4 6,38 - 11,9 41,71 4,3 2,53 - 1
25,54 26,55 14,7 0,54 6,43 21,17 2,03 3,03 - 3
21,4 18,55 9,35 0,36 9,83 0,77 32,41 3,51 3,81 5
1.3.3.3. Ảnh hưởng của phụ gia
F.J. Shan và cộng sự (2006) nghiên cứu độ bền ăn mòn của lớp tiền xử lý bis-
silan với phụ gia là bột nano nhôm oxit [91]. Nghiên cứu cho thấy, khi có phụ gia
tổng trở điện hóa tăng, cả mật độ dòng anot và catot đều giảm rõ rệt so với trường
1- Silan 2- Cromat hóa 3- Silan + nhôm
hợp không có phụ gia (hình 1.19).
Hình 1.19. Phổ tổng trở của silan có thêm phụ gia nano nhôm oxit [91].
31
Ngoài ra, lớp màng silan với phụ gia bột nano nhôm oxit cũng chứng tỏ vai trò
tiền xử lý hiệu quả và cải thiện độ bền ăn mòn nhờ tăng vai trò bảo vệ barrier do
phụ gia này có khả năng điền vào những vết nứt trong màng tạo thành (hình 1.19).
M.F. Montemor và cộng sự (2008, 2009) khảo sát ảnh hưởng của một số phụ
gia nano SiO2 hoặc CeO2 đến chất lượng màng silan trên thép mạ [92,93]. Kết quả
nghiên cứu chứng tỏ màng silan có thêm bột nano SiO2 hoặc CeO2, không những
tăng cường khả năng bảo vệ và mà còn ức chế quá trình ăn mòn (hình 1.20). Ngoài
ra, nồng độ sử dụng cũng phải phù hợp. Nồng độ phụ gia quá cao cũng giảm thuộc
tính bảo vệ ăn mòn của lớp màng tạo thành.
Hình 1.20. Phổ Bode của mẫu nền được xử lý bằng silan có phụ ra CeO2 hoặc SiO2
với những nồng độ khác nhau trong NaCl 0,1 M [93].
Zuxin She và cộng sự (2013) [94] đã nghiên cứu vai trò của thuốc tím
(KMnO4) đến chất lượng của màng silan. Kết quả nghiên cứu điện hóa, SEM kết
hợp với AFM đã chứng tỏ rằng sự có mặt của thuốc tím trong dung dịch có thể hạn
chế quá trình ăn mòn. Hơn nữa, kết quả còn khẳng định tuổi thọ màng được kéo dài
thêm và phạm vi ứng dụng của silan được mở rộng hơn.
N. Asadi và cộng sự (2014) đã nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ nano
khoáng sét đến độ bền ăn mòn của lớp màng silan tạo bằng phương pháp sol-gel
32
trên bề mặt thép cacbon [83]. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, sự có mặt của khoáng
sét ban đầu tăng cường độ bền ăn mòn của silan. Tuy nhiên với nồng độ quá cao,
kết quả lại ngược lại ( hình 1.21)
2
0
1 3
Hình 1.21. Phổ tổng trở của silan với nồng độ khoáng sét khác nhau trên bề mặt
thép cacbon, (0: 0 ppm; 1: 500 ppm; 2: 1000; 3: 2000) [83].
S. Chen và cộng sự (2015) nghiên cứu trạng thái điện hóa và khả năng bảo vệ
ăn mòn của màng silan trên bề mặt thép không gỉ bằng dung dịch bis-
[triethoxysilylpropyl] tetrasulfide (BTESPT) bổ sung muối titan ở dạng sol [95].
Kết quả đo điện hóa chỉ ra rằng, màng silan BTESPT/TiO2 tạo thành cho khả năng
bảo ăn mòn cao hơn hẳn so với trường hợp chỉ có silan BTESPT. Các kết quả phân
tích SEM, XPS đã chứng tỏ TiO2 tham gia vào cấu trúc phân tử mạng của lớp màng
silan. Bên cạnh đó, lớp màng tạo thành không những bền, mật độ cao mà còn tăng
lực liên kết với bề mặt nền do tạo ra được mối liên kết Si-O-Ti.
M. Mahdavian và cộng sự (2017) nghiên cứu cải thiện thuộc tính ăn mòn của
màng silan trên thép cacbon sử dụng phụ gia dầu silicon (polydimethylsiloxane)
[96]. Thông qua giá trị tổng trở ở tần số thấp đã chứng tỏ rằng, sự có mặt của phụ
gia không những tăng cường hiệu quả bảo vệ ăn mòn mà còn duy trì hiệu quả theo
thời gian tốt hơn (hình 1.22). Độ bền của lớp màng silan chứa phụ gia tốt hơn màng
không chứa phụ gia còn được khẳng định thông qua thử nghiệm mù muối.
33
Thời gian thử nghiệm (giờ)
Hình 1.22. Độ lớn |Z|10 mHz và góc pha của mẫu được xử lý bằng silan có và không
có phụ gia theo thời gian ngâm trong NaCl 3,5 %.
Sultan Akhtar và cộng sự (2018) đã nghiên cứu cải thiện thuộc tính bền ăn
mòn của thép không gỉ sử dụng 2 loại silane glycidoxypropyltrimethoxysilane
/methyltrimethoxysilane (GPTMS/MTMS) và phụ gia nano SiO2 theo phương pháp
sol-gel rồi theo phương pháp nhúng [90]. Kết quả nghiên cứu cho thấy, lớp màng
chứa đa dạng kiểu silan, hạt silic và phụ gia có vai trò tăng cường độ bền ăn mòn
của mẫu (hình 1.23).
n a l i s ỉ h C
2
O i S + n a l i S
1 ngày 3 ngày
Hình 1.23. Kết quả thử nghiệm mù muối giữa hỗn hợp silan GPTMS/MTMS có
và không có phụ gia SiO2.
34
1.3.3.4. Ảnh hưởng của kiểu silan và sự kết hợp nhiều loại silan
W. J. van Ooij và cộng sự (2005) trong một công trình nghiên cứu tổng quan
về thuộc tính chống ăn mòn của silan đã khẳng định rằng, silan kép (bis-silan) có
hiệu quả bảo vệ ăn mòn tốt hơn silan đơn (mono-silan) [23]. Đồng thời có thể đạt
được hiệu quả bảo vệ lâu dài hơn nếu lựa chọn được hỗn hợp silan thích hợp.
L. Wang và cộng sự (2012) nghiên cứu chế tạo lớp phủ composit từ 2 loại
silan γ-APS và γ-GPS trên thép mạ [78]. Kết quả nghiên cứu khẳng định, quá trình
hình thành màng silan vẫn diễn ra theo 3 bước nhưng nhờ sự kết hợp của 2 loại
silan mà mật độ liên kết cao hơn dẫn tới khả năng ức chế ăn mòn cũng cao hơn so
với từng loại silan riêng lẻ. Kết quả được chứng minh sau 72 giờ thử nghiệm mù
muối (hình 1.24).
Hình 1.24. Kết quả thử nghiệm mù muối: a. γ-APS, b. γ-GPS và c. Màng kết hợp.
V. Dalmoro và cộng sự (2015) đã đánh giá hiệu quả kết hợp giữa hai loại silan
(vinyltrimethoxysilane-VTMS / 3-glycidyloxypropyl trimethoxysilane - GPTMS)
tiền xử lý cho bề mặt hợp kim nhôm T3 [97]. Kết quả đã chứng tỏ rằng, mặt dù tỷ lệ
VTMS/GPTMS không liên quan đến quy luật hình thành lớp màng trên bề mặt,
nhưng sự kết hợp nào dẫn tới tỷ lệ Al/Si thấp nhất sẽ cho lớp màng có độ bền ăn
mòn tốt nhất.
B. Ramezanzadeh và cộng sự (2015) đã nghiên cứu khả năng bảo vệ ăn mòn
và độ bám dính của màng hỗn hợp silan [tetraethylorthosilicate (TEOS) và 3-
aminopropyltriethoxysilane (APS)] tiền xử lý cho thép cacbon [98]. Kết quả chỉ ra
rằng, sự kết hợp của 2 silan cho khả năng bảo vệ ăn mòn tốt hơn từng loại riêng
phần. Tỷ lệ TEOS/APS = 70/30 hoặc 50/50 tạo ra lớp màng có mật độ cao hơn và
35
liên tục hơn cùng với đó là khả năng bảo vệ ăn mòn cũng cao hơn. Kiểm tra độ bám
dính với sơn epoxy lại chứng tỏ rằng, sự kết hợp của 2 loại silan này cho kết quả
bám dính (theo phương pháp kéo tách) phụ thuộc vào độ bám dính của từng loại
silan. Kết quả nghiên cứu với sơn epoxy sử dụng phương pháp mù muối trong 300
giờ cũng chứng tỏ rằng xử lý bề mặt bằng sự kết hợp giữa 2 loại silan với tỷ lệ thích
hợp không những hạn chế vết phồng rộp mà còn hạn chế sự bóc tách màng sơn
xung quanh vết rạch
E. Alibakhshi và cộng sự (2018) nghiên cứu chế tạo lớp màng lai bằng phương
pháp sol-gel từ 2 loại silan tetraethylorthosilicate (TEOS) và trimethoxymethyl-
silane (TMOMS) trên thép cacbon [36]. Với tỷ lệ 50/50 về thể tích, lớp màng tạo
thành có độ bền ăn mòn cao nhất nhờ tạo ra phản ứng kết tủa tốt hơn, mật độ mạng
lưới siloxan dày đặc hơn và giảm tính kỵ nước.
1.4. Phương pháp kết hợp zirconia và silan
1.4.1. Phương pháp hai dung dịch
M. F. Montemor và cộng sự (2000) đã tạo lớp màng cấu trúc hai lớp dựa trên
sự kết hợp giữa zirconi và silan [40]. Ban đầu, lớp màng ZrO2 được tạo bằng cách
nhúng mẫu thép mạ trong dung dịch Zr(NO3)4, sau đó sấy khô ở 150 oC trong 30
giây và tiếp tục nhúng trong các dung dịch chứa 5 % silan (silan A: Polyester
trimethoxysilane - CH2OCHO(CH2)3Si(OCH3)3, silan B: CH2=CHC6H4CH2NH -
silan C: 1-(2-aminoethyl) 3-aminopropyl (CH2)2NH(CH2)3Si(OCH3)3,
trimethoxysilane - NH2(CH2)2NH(CH2)3Si(OCH3)3).
Hình 1.25. Tỷ lệ Si/Zr đạt được từ phổ XPS ứng với 3 loại silan A, B và C [40].
36
Kết quả chỉ ra rằng, thông qua sự tồn tại của Zr, Si và các pha của chúng đã
chứng tỏ cho sự hình thành lớp màng kết hợp của hai phương pháp này. Bên cạnh
đó, sự kết hợp này còn tùy thuộc vào loại silan sử dụng. Khi thay đổi các loại silan
khác nhau sẽ dẫn tới tỷ lệ nguyên tử Si/Zr, Si/Zn khác nhau và loại silan nào dẫn tới
tỷ lệ Si/Zr thấp hơn sẽ cho độ bền ăn mòn cao hơn. Điều này được giải thích là do
mức độ phân bố như thế nào của Si xung quanh các vị trí giàu zirconi oxit. Tỷ lệ
nguyên tử Si/Zr phụ thuộc vào loại silan được thể hiện trên hình 1.25.
Ngoài ra, hệ sơn được xử lý bề mặt bằng màng hai lớp (ZrO2 + silan A hoặc
C) có độ bền ăn mòn không thua kém so với hệ sơn được xử lý bề mặt bằng cromat
hóa (hình 1.26). Ở đây, độ bền ăn mòn của lớp màng với silan B thấp hơn có thể do
tỷ lệ giữa muối zirconi và dung dịch silan chưa phù hợp hoặc tính chất kết hợp của
loại silan này với zirconia chưa tốt.
8,0 C A
0
Log ǀZǀ B
2,0
- 2,0 6,0
Log ω (rad/s)
Hình 1.26. Phổ tổng trở của các mẫu sơn được xử lý bằng lớp màng hai lớp sau 14
ngày ngâm trong NaCl 0,15 % khi so sánh với cromat hóa: Silan A (A), silan B (B),
silan C (C), cromat (0) [40].
1.4.2. Phương pháp một dung dịch
V. Trabelsi và cộng sự (2006) đã nghiên cứu đặc tính chống ăn mòn của màng
silan BTESPT trên nền thép mạ khi thêm các phụ gia là muối nitrat của Ce và Zr
trong dung dịch xử lý [41]. Kết quả nghiên cứu khẳng định rằng màng silan có thêm
phụ gia có tính chất bảo vệ tốt hơn hẳn so với màng silan không có phụ gia. Khi có
37
mặt của zirconi nitrat, lớp màng tạo thành có điện dung giảm và điện trở phân cực
tăng do giảm rỗ xốp, giảm độ dẫn điện và tăng độ dày của lớp màng (hình 1.27).
Kết quả nghiên cứu còn cho thấy, lớp màng này còn có độ bền cao hơn cả lớp màng
dựa trên Cr(VI) [41].
Hình 1.27. Phổ tổng trở của mẫu thép mạ với các trường hợp phụ gia
khác nhau sau một ngày ngâm trong nước muối NaCl 0,005 M [41].
Hình thái bề mặt của màng silan BTESPT được bổ sung thêm hợp chất của
zirconi cũng được V. Trabelsi và cộng sự (2007) nghiên cứu [42].
a)
b)
Hình 1.28. Ảnh bề mặt màng silan BTESPT (a) và silan BTESPT + Zr (b) [42].
38
Kết quả chứng tỏ sự có mặt của Zr làm cho màng silan tạo thành có cấu trúc
nano, đồng đều hơn và giảm các vết nứt tế vi. Ngoài ra, sự có mặt của phụ gia còn
hạn chế sự hình thành sản phẩm ăn mòn (oxit/hydroxit của kẽm) trên bề mặt mẫu
khi ngâm trong dung dịch NaCl 0,001 M (Hình 1.28).
Trong một công trình tương tự như nội dung luận án nghiên cứu, G. Kong và
cộng sự (2010) đã chế tạo lớp màng kép moliden/silan trên thép mạ trong một dung
dịch và hai dung dịch [99]. Kết quả chứng tỏ rằng rằng cấu trúc lớp màng kép trong
hai phương án tạo thành tương tự nhau (Hình 1.29).
Hình 1.29. Ảnh SEM của lớp màng kép (molipden + silan)
được tạo từ 1 dung dịch (a) và 2 dung dịch (b).
Phổ XPS/AES cho thấy, lớp trong cùng chủ yếu là O, Mo, Zn, P tương tự như
lớp màng molipden đơn còn lớp ngoài gồm chủ yếu là C, O và Si tương tự như lớp
màng silan đơn. Lớp màng kép được tạo thành từ hai dung dịch có độ dày được
đánh giá bằng tổng của hai lớp thành phần trong khi đó, độ dày của lớp màng kép
được tạo thành từ một dung dịch được đánh giá lớn hơn độ dày của từng lớp thành
phần nhưng nhỏ hơn tổng của hai lớp thành phần. Đồng thời sự kết hợp của
molipden và silan còn tạo ra lớp màng kép có dòng ăn mòn giảm đến 20 %.
39
Suresh Patel đại diện cho công ty Chemetall tại The Powder Coating Show
(2014) đã công bố sản phẩm thương mại OXSILAN dựa trên lớp phủ hai thành
phần hay lớp phủ “kép” [100]. Lớp phủ này gồm lớp hữu cơ là silan và lớp vô cơ là
các oxit của các kim loại chuyển tiếp Zr, Mn, Ti hoặc Cu dựa trên silan có bổ sung
các phụ gia Zr, Ti, Mn. Màng tạo thành có cấu trúc “hai lớp”. Lớp đầu tiên được
hình thành do các oxit vô cơ phản ứng điện hóa và kết tủa trên bề mặt nên có độ
bám dính cao. Lớp silan với mạng lưới siloxan sẽ tạo tác nhân kép liên kết giữa bề
mặt đã kết tủa lớp oxit kim loại chuyển tiếp và lớp sơn phủ. Sơ đồ liên kết màng tạo
thành trên bề mặt kim loại của sản phẩm OXSILAN được thể hiện trên hình 1.30
mô tả sự hình thành cầu nối của lớp oxit của kim loại chuyển tiếp.
Hình 1.30. Sơ đồ lớp phủ vô cơ lai hữu cơ [100].
K. Zuo và cộng sự (2014) đã chế tạo và nghiên cứu lớp màng composit giữa
ZrO2, silan và Ce trên bề mặt nhôm 1060 [101]. Dung dịch tạo màng kết hợp được
chuẩn bị từ dung dịch CeCl3.7H2O và dung dịch silan BTESPT chứa bột nano ZrO2
với tỷ lệ 1:1 về thể tích. Thời gian nhúng đến 20 phút và sau đó được sấy trong khí
nóng. Kết quả chứng tỏ rằng sự có mặt của ZrO2 và silan, lớp màng Ce tạo thành
kín khít, đồng đều, giảm rỗ xốp và ít vết nứt tế vi hơn (hình 1.31). Phổ EDX và XPS
chứa các nguyên tử Zr, Si, O, Ce chứng tỏ cho sự hình thành lớp màng composit.
Lớp màng này có cấu trúc kép, lớp bên trong chủ yếu là Ce2O3 và Ce(OH)3 và lớp
bên ngoài là sự kết hợp của silan và Ce(OH)4. Chính sự tạo thành lớp màng kết hợp
và cải thiện thuộc tính bề mặt dẫn tới lớp màng composit có độ bền ăn mòn cao hơn
hẳn so với lớp màng đơn xeri (hình 1.32).
40
Hình 1.31. Ảnh SEM của màng chuyển tiếp Ce (a,b)
và của màng Ce-silan-ZrO2 (cd) [101].
Hình 1.32. Phổ Nyquist của lớp màng chuyển tiếp Ce
có và không có silan + ZrO2 sau 1 giờ trong dung dịch NaCl 0,6 mol/L [101].
41
1.5. Tình hình nghiên cứu trong nước về phương pháp xử lý bề mặt kết hợp
zirconia và silan
Ở trong nước, cho đến thời điểm hiện tại, nghiên cứu sinh đã tiếp cận được
một số sản phẩm, công bố liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Hãng Mercedes-Benz là đơn vị đầu tiên đầu tư xây dựng dây chuyền sơn điện
ly (nhúng tĩnh điện) vào năm 2011 và khánh thành vào năm 2013 sử dụng chế phẩm
Zircobond của Đức (gồm 9 công đoạn dựa trên zirconi) thay thế phốt phát hóa. Đây
là sản phẩm có tính độc quyền về công nghệ của hãng.
Viện Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ Nha Trang (2015) đã đặt vấn đề
nghiên cứu công nghệ chế tạo lớp phủ ZrO2/silan trên thép làm lớp nền cho sơn tĩnh
điện. Kết quả sơ bộ của đề tài đã khẳng định có thể chế tạo được lớp màng kết hợp
zircoina/silan trên nền thép tiền xử lý cho sơn tĩnh điện tương đương với phốt phát
kẽm. Đề tài đã đưa ra quy trình công nghệ cho việc chế tạo lớp màng kép ZrO2/silan
trên thép nhưng chưa có những kết luận đầy đủ về cơ chế quá trình hình thành màng
kép và mô tả tổng hợp các đặc trưng tính chất về hình thái, thành phần, điện hóa và
liên kết của lớp màng kép chế tạo được.
2-, pH = 4
Lê Minh Đức (2017) đã nghiên cứu tạo lớp phủ biến tính chứa Ti, Zr trên nền
2- và 0,02 M ZrF6
thép bằng cách nhúng trong dung dịch chứa 0,01 M TiF6
[102]. Đường công phân cực và phổ tổng trở điện hóa đã chứng tỏ lớp phủ tạo thành
giảm dòng ăn mòn, tăng độ bền ăn mòn trong môi trường KCl 3 %. Ngoài ra, sự có
mặt của lớp màng cũng cải thiện độ bám dính, tăng tính chống ăn mòn và duy trì độ
bền ăn mòn lâu hơn với sơn epoxy [102]. Công trình đã chứng tỏ công nghệ tạo lớp
phủ tiền xử lý thép dựa trên hợp chất của Ti và Zr.
Dương Thị Hồng Phấn và cộng sự (2017) đã nghiên cứu thành công lớp thụ
động đa kim loại Mo/Zr/Ti trên nền thép bằng cách nhúng trong dung dịch chứa
17g/L Na2MoO4, 8g/L K2ZrF6, 1g/L H2TiF6 và pH= 5 [103]. Phổ EDX đã chứng tỏ
có sự hiện hiện của các nguyên tử Mo, Zr, Ti trên bề mặt thép nền. Kết quả đo
đường cong phân cực và thử nghiệm mù muối đã chứng tỏ lớp thụ động hóa đã
giảm dòng ăn mòn, tăng cường hiệu quả chống ăn mòn cho nền thép.
42
Cả hai công trình trên đã chứng tỏ rõ ưu thế của lớp màng xử lý dựa trên
zirconia kết hợp với kim loại chuyển tiếp khác. Mặc dù vậy, các công trình này chỉ
tập trung vào độ bền ăn mòn của lớp thụ động và vai trò tiền xử lý của chúng chứ
chưa đi sâu nghiên cứu về cơ chế quá trình trình thành, chưa khảo sát nhiều về các
đặc trưng tính chất. Ngoài ra, dù kết hợp đa kim loại nhưng lớp phủ tạo thành vẫn
có tính chất của lớp đơn.
43
CHƯƠNG 2. THỰC NGHIỆM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Sơ đồ nghiên cứu
Chuẩn bị hóa chất, chuẩn bị mẫu, điều chế và lựa chọn nồng độ dung dịch H2ZrF6
Chế tạo lớp màng đơn zirconi oxit
Chuẩn bị hóa chất, mẫu và điều chế dung dịch kết hợp H2ZrF6/ silan Lựa chọn điều kiện thích hợp về độ pH và thời gian xử lý theo chỉ tiêu độ bền ăn mòn và độ bám dính
Chế tạo lớp màng kết hợp zirconi oxit/silan
Cơ chế quá trình hình thành
Đặc trưng thành phần, liên kết, hình thái, độ bền ăn mòn
Ảnh hưởng của thời gian xử lý và nồng độ silan đến các đặc trưng tính chất Độ bám dính màng sơn
Độ bền ăn mòn dưới lớp sơn
Hiệu quả bảo vệ của hệ sơn
Biện luận,
kết luận
44
2.2. Nguyên vật liệu, hóa chất
2.2.1. Nguyên vật liệu
Trong toàn bộ luận án, thép cacbon (Công ty thép Quốc Việt) được sử dụng để
làm mẫu nền áp dụng các phương pháp tiền xử lý và sơn phủ. Thành phần cơ bản
của thép gồm: C – 0,56 %; Al – 0,85 %; Cu – 0,36 % và Fe còn lại.
2.2.2. Hóa chất
- ZrF4 dạng tinh thể, độ tinh khiết 99,99 %, màu trắng (Sigma, Mỹ), khối
lượng phân tử M = 167.21 g/mol.
- Silan A-1100 (Trung Quốc): gamma-aminopropyltriethoxysilane (γ-APS,
độ tinh khiết 99 %). Công thức cấu tạo thể hiện trên hình 2.1.
Hình 2.1. Công thức cấu tạo của silan APS
- HF (Trung Quốc, khối lượng phân tử M = 20,01, 48%, d = 1,15 g/ml).
- Na2CO3 (Trung Quốc, dạng bột, độ tinh khiết 99,8 %; H2SO4 (Hàn Quốc, 0,1
N); NaOH (Trung Quốc, dạng bột).
- Chế phẩm phốt phát hóa ZCR-588 (Công ty hóa chất Việt Quang) dạng lỏng,
màu xanh nhạt, tính axit; ZCR-588 được dùng trong quy trình tiền xử lý sơn tĩnh
điện, tạo lớp muối kép ZnmFe(PO4)n.nH2O/Zn3(PO4).4H2O.
- Sơn tĩnh điện polyester của hãng Akzonobel.
2.3. Chuẩn bị mẫu nền, điều chế dung dịch và chuẩn bị mẫu sơn
2.3.1. Chuẩn bị mẫu nền
Bề mặt mẫu thép được xử lý cơ học bằng giấy nhám (đạt đến 1200 grid) rồi
rửa bằng nước cất. Các mẫu sau đó được tẩy sạch dầu mỡ bằng dung dịch Na2CO3
10 %, tẩy gỉ bằng dung dịch H2SO4 15 % rồi rửa lại bằng nước cất. Các mẫu này
(sau đây gọi là mẫu nền) được bảo quản trong tủ hút ẩm (độ ẩm được duy trì ở 40 ±
4 %) để tiến hành các nghiên cứu tiếp theo.
45
2.3.2. Điều chế các dung dịch xử lý bề mặt
2.3.2.1. Điều chế dung dịch H2ZrF6
Bột ZrF4 (18,33 g, đã được sấy khô, để nguội) được hòa tan hoàn toàn trong
dung dịch HF (100 mL) rồi dùng nước cất định mức thành 1 lít để tạo ra dung dịch
axit hexaflorozirconic chứa Zr4+ =10.000 ppm (Dung dịch gốc). Khi sử dụng, dung
dịch gốc tiếp tục được pha loãng trong nước cất để đạt nồng độ Zr4+ = 50 ppm trong
các nghiên cứu sau này. Việc lựa chọn nồng độ thấp xuất phát từ định hướng nghiên
cứu, dựa trên các khảo sát ban đầu và thuận lợi cho việc khảo sát quá trình hình
thành màng. Nồng độ này được lựa chọn sử dụng trong tất cả các nghiên cứu của
luận án. pH của dung dịch được điều chỉnh bằng dung dịch HF và NaOH trong quá
trình nghiên cứu (sử dụng thiết bị đo cầm tay HI 8314). Tất cả các dung dịch được
khuấy trộn bằng máy khuấy từ trong 30 phút trước khi nghiên cứu.
2.3.2.2. Điều chế dung dịch H2ZrF6 kết hợp silan
Dung dịch gốc được được thêm silan A-1100 với các nồng độ khác nhau để
tạo thành dung dịch kết hợp axit hexaflorozirconic/silan. Khi nghiên cứu, dung dịch
kết hợp cũng được pha loãng bằng nước cất để đạt Zr4+ = 50 ppm với các nồng độ
silan giảm tương ứng. pH của dung dịch được điều chỉnh bằng dung dịch HF và
NaOH trong quá trình nghiên cứu (sử dụng thiết bị đo cầm tay HI 8314). Tất cả các
dung dịch được khuấy trộn bằng máy khuấy từ trong 30 phút trước khi nghiên cứu.
2.3.3. Chuẩn bị mẫu sơn
Các mẫu nền và các mẫu sau khi xử lý bề mặt với các điều kiện khác nhau
được sơn tĩnh điện polyester để đạt độ dày 60 ± 5 µm. Các mẫu sơn được áp dụng
tại Công ty TNHH Dịch vụ Phong Châu, TP. Nha Trang, Khánh Hòa.
2.4. Các phương pháp xử lý bề mặt mẫu thép nền
2.4.1. Xử lý bề mặt mẫu nền trong dung dịch H2ZrF6
Lớp màng đơn zirconi oxit được tạo bằng cách nhúng mẫu nền trong dung
dịch axit hexaflorozirconic (mục 2.3.2.1). Để lựa chọn điều kiện nghiên cứu độ bền
ăn mòn và độ bám dính của hệ sơn tĩnh điện, các mẫu nền được nhúng trong dung
dịch theo tổ hợp pH thay đổi từ 1 đến 7, khoảng chia là 0,5 đơn vị và thời gian từ 1
phút đến 8 phút, khoảng chia là 0,5 phút.
46
Trên cơ sở các khảo sát ban đầu và dựa vào quan trắc bề mặt mẫu, hai phương
án sau được thực nghiệm để nghiên cứu:
- Mẫu nền được xử lý trong dung dịch axit hexafluorozirconic với pH = 2, 3,
4, 5, 6 (thời gian nhúng là 4 phút) và;
- Mẫu nền được xử lý trong dung dịch axit hexafluorozirconic với các thời
gian khác nhau: 2, 3, 4, 5, 6 phút (dung dịch có pH = 4).
Các mẫu sau khi xử lý bề mặt được sấy bằng dòng khí khô (70 ± 3 oC) khoảng
15 phút trong phòng thí nghiệm.
2.4.2. Xử lý bề mặt mẫu nền trong dung dịch H2ZrF6/silan (một dung dịch)
Lớp màng kép zirconi oxit/silan được tạo bằng cách nhúng mẫu nền trong
dung dịch kết hợp axit hexaflorozirconic/silan (mục 2.3.2.2). Tương tự như cách tạo
màng đơn, màng kép cũng được khảo sát dựa trên tổ hợp của hai thông số: nồng độ
silan trong dung dịch thay đổi từ 0 % đến 1 %, khoảng chia 0,0125 % và thời gian
xử lý từ 1 phút đến 7 phút, khoảng chia 0,5 phút.
Trên cơ sở các khảo sát ban đầu và dựa vào quan trắc bề mặt mẫu, lớp màng
kép được tạo bằng cách nhúng mẫu nền trong dung dịch axit hexafluorozirconic/
silan theo các phương án sau để nghiên cứu:
- Thay đổi nồng độ silan (% về thể tích – v/v) ở các mức khác nhau: 0,0125;
0,025 và 0,05 (thời gian nhúng 4 phút) và;
- Thay đổi thời gian nhúng: 2, 3, 4, 5, 6 phút (nồng độ silan = 0,025 %).
Các mẫu nền sau khi xử lý bề mặt được sấy bằng dòng khí khô (70 ± 3 oC)
khoảng 15 phút trong phòng thí nghiệm.
2.4.3. Xử lý bề mặt mẫu nền bằng phương pháp hai dung dịch
Mẫu nền được xử lý trong dung dịch axit hexafluorozirconic (thời gian nhúng
4 phút, pH dung dịch bằng 4) để tạo lớp màng đơn zirconia như mục 2.4.1. Sau đó,
mẫu tiếp tục được nhúng dung dung dịch silan A-1100 (nồng độ thể tích 0,025 %)
trong 4 phút để tạo lớp màng silan trên nền zirconia. Trong cả hai bước, mẫu được
sấy bằng dòng khí khô (70 ± 3 oC) khoảng 15 phút trong phòng thí nghiệm.
47
2.4.4. Xử lý bề mặt mẫu nền bằng phốt phát kẽm
Dung dịch phốt phát kẽm ZCK 588 được chuẩn bị ở mức 5 %, sau đó thêm
vào 0,02 % chất tăng tốc. Mẫu nền được nhúng trong 20 phút để phốt phát hóa. Các
mẫu nền sau khi xử lý bề mặt bằng phốt phát được để khô tự nhiên và được bảo
quản trong tủ hút ẩm (duy trì ở 40 ± 4 oC) trước khi đem đi sơn thử nghiệm.
2.5. Các phương pháp, thiết bị nghiên cứu và kỹ thuật sử dụng
2.5.1. Phương pháp điện hóa
2.5.1.1. Phương pháp tổng trở điện hóa
Nguyên lý: Hệ điện hóa được mô phỏng như quá trình vật lý. Khi ta cho một
điện thế xoay chiều u, tần số góc và biên độ nhỏ từ 5 50 mV có tần số
thay đổi trong phạm vi rộng khoảng 0,001 100,000 Hz đi qua một hệ điện hóa.
Trong mạch sẽ xuất hiện một dòng điện đáp ứng hình sin có biên độ I0 cùng tần số
góc nhưng lệch pha một góc so với điện thế đưa vào.
(2.1) u = Uosinωt
(2.2) i = Iosin (ωt+ φ)
Theo định luật Ohm, có thể định nghĩa tổng trở Z như sau: Z = u/i = f()
Tính chất của tổng trở Z() là:
- Z ( ) là một vectơ có modun và góc lệch pha
- Z ( ) là một hàm phức: Z ( ) = Z’ + jZ’’
) trên mặt phẳng phức (hình 2.2).
Ta có thể biểu diễn hình học của Z (
”
Z
, o ả n ầ h P -
Phần thực, Z’
Tổng trở Z
Hình 2.2. Biểu diễn tổng trở trên mặt phẳng phức
48
Khảo sát đặc tính tần số Z = f ( ) cho phép xác định các đại lượng , Z’, Z’’
và góc lệch pha = arctg (Z’’/Z’). Tổng trở Z của bình điện hóa bao gồm các
thành phần như: tổng trở của quá trình Faraday Rp, điện dung của lớp kép coi như
một tụ điện Cd và điện trở dung dịch nghiên cứu Rdd. Bằng các kỹ thuật xử lý toán
học, ta tính được các giá trị Cd, Rdd, Rp… và các thông số động học cuối cùng của
hệ điện hóa (io, ko, D…). Kết quả được biểu diễn dưới dạng đồ thị gọi là phổ
(Nyquits, Bode). Căn cứ vào mạch tương đương sẽ tính toán giá trị các phần tử của
mạch tương đương từ đó cho ta đánh giá, ước lượng tính chất của hệ đo.
Trong luận án, phổ tổng trở điện hóa được thực hiện trên máy AutoLAB
PGSTAT 204N. Hệ đo gồm 3 điện cực: điện cực so sánh là Ag/AgCl trong dung
dịch KCl 3M; điện cực đối là Pt (8×8 mm) và điện cực làm việc là các mẫu nền
hoặc các mẫu được xử lý bề mặt diện tích đo là 3,46 cm2 trong dung dịch NaCl 3,5
%. Phổ tổng trở được đo ở chế độ quét tự động trong dải tần số từ 100 kHz đến 10
mHz. Sơ đồ tương đương của hệ điện hóa và các số liệu về các thông số đặc trưng
của bình điện hóa được xác định tự động từ phần mềm Nova 2.0 đồng bộ với thiết
bị. Tất cả các mẫu được ổn định 10 phút trong dung dịch nước muối trước khi thực
hiện phép đo.
2.5.1.2. Đường cong phân cực
Nguyên lý đo đường cong phân cực là áp vào điện cực nghiên cứu một tín
hiệu điện thế biến thiên tuyến tính theo thời gian với tốc độ đủ nhỏ (cỡ vài mV/s) và
đo dòng đáp ứng tương ứng ta sẽ nhận được đồ thị biểu diễn mối quan hệ E-I.
Trong luận án, đường cong phân cực được thực hiện trên máy AutoLAB
PGSTAT 204N. Bình định hóa như đo phổ tổng trở. Đường cong phân cực được
quét ở ± 100 mV so với thế mạch hở với tốc độ quét 1mV/s, bước quét 1 mV. Tất cả
các mẫu được ổn định 10 phút trong dung dịch nước muối trước khi thực hiện phép
đo. Phần mềm Nova 2.0 được dùng để xác định thông số đặc trưng ăn mòn theo
phương pháp ngoại suy Tafel tại ± 100 mV quanh thế mạch hở.
2.5.1.3. Xác định thế mạch hở
Thế mạch hở (OCP) của mẫu nền trong dung dịch kết hợp axit
hexaflorozirconic/silan được xác định trực tiếp trong quá trình tạo màng. Ngay khi
49
mẫu tiếp xúc với dung dịch xử lý bề mặt, thiết bị sẽ chạy để quét thế và lặp lại sau
mỗi 30 giây cho đến 6 phút.
2.5.2. Kính hiển vi điện tử quét phát xạ trường
Kính hiển vi điện tử quét (Scanning electron microscope - SEM) là phương
pháp được sử dụng để nghiên cứu cấu trúc bề mặt lớp mỏng vật liệu. SEM là một
trong các phương pháp phân tích vật lý hiện đại sử dụng các chùm tia electron năng
lượng cao tương tác với các electron trên bề mặt mẫu vật từ đó tạo ra các electron
thứ cấp, electron tán xạ phản hồi, có tia X đặc trưng. Các electron phản hồi này
được ghi nhận lại cho biết các thông tin về bề mặt và thành phần mẫu. Tia electron
thường được quét trên mặt mẫu và thiết bị thường được tích hợp detector để tạo ra
hình ảnh quét.
Từ ảnh SEM của bề mặt mẫu cho phép đánh giá được:
- Cấu trúc lớp mỏng vật liệu: Hình dạng đặc thù (hạt, thanh, vô định hình…),
cách sắp xếp, phân bố, ước lượng kích thước;
- Đặc tính bề mặt: mức độ gồ ghề, độ mịn, độ đồng đều.
Kính hiển vi điện tử quét phát xạ trường (FE-SEM) là một thiết bị như SEM
nhưng ở cấp độ cao hơn về độ phân giải và chất lượng của ảnh chụp.
Trong luận án, hình thái, cấu trúc bề mặt của các mẫu được chụp bằng kính
hiển vi điện tử quét phát xạ trường Jeol 7401F (Nhật) với độ phóng đại 30.000 lần.
2.5.3. Phổ hồng ngoại biến đổi Fourier
Phổ hồng ngoại là một trong những kỹ thuật phân tích phổ biến trong hóa học
để xác định đặc trưng về thành phần và liên kết trong hóa vật liệu. Kỹ thuật này dựa
vào sự dao động và quay của các nguyên tử trong phân tử. Nói chung, phổ hồng
ngoại nhận được bằng cách cho tia bức xạ IR đi qua mẫu và xác định thành phân tia
tới bị hấp thụ với năng lượng nhất định. Năng lượng các đỉnh (pic) bất kỳ trong phổ
xuất hiện tương ứng với tần số dao động của một phần của phân tử mẫu. Ưu thế của
phổ hồng ngoại là hầu như bất kỳ mẫu nào và trạng thái nào cũng có thể nghiên cứu
được. Phổ hồng ngoại biến đổi Fourier có ưu điểm hơn phổ hồng ngoại thường ở
chỗ kết nối với máy tính, cải thiện chất lượng phổ và cho kết quả nhanh chóng.
50
Trong luận án, đặc trưng thành phần và liên kết trong lớp màng kép
zirconia/silan được nghiên cứu bằng phổ hồng ngoại biến đổi Fourier trên máy
Bruker Alpha (Đức) ở dải số sóng 3000 ÷ 500 cm-1.
2.5.4. Phổ tán xạ năng lượng tia X
Phổ tán xạ năng lượng tia X (Energy dispersive X-ray spectroscopy - EDS) là
kỹ thuật phân tích thành phần hóa học của vật rắn dựa vào việc ghi lại phổ tia X
phát ra từ vật rắn do tương tác với các bức xạ (mà chủ yếu là chùm điện tử có năng
lượng cao trong các kính hiển vi điện tử).
Kỹ thuật EDS chủ yếu được thực hiện trong các kính hiển vi điện tử ở đó, ảnh
vi cấu trúc vật rắn được ghi lại thông qua việc sử dụng chùm điện tử có năng lượng
cao tương tác với vật rắn. Khi chùm điện tử có năng lượng lớn được chiếu vào vật
rắn, nó sẽ đâm xuyên sâu vào nguyên tử vật rắn và tương tác với các lớp điện tử bên
trong của nguyên tử. Tương tác này dẫn đến việc tạo ra các tia X có bước sóng đặc
trưng tỷ lệ với nguyên tử số (Z) của nguyên tử theo định luật Mosley. Kết quả ta có,
tần số tia X phát ra là đặc trưng với nguyên tử của mỗi chất có mặt trong chất rắn.
Việc ghi nhận phổ tia X phát ra từ vật rắn sẽ cho thông tin về các nguyên tố hóa học
có mặt trong mẫu đồng thời cho các thông tin về tỷ phần các nguyên tố này.
Trong luận án này, phổ EDS cũng được xác định bằng thiết bị Jeol 7401F
(Nhật) thông qua đầu đo kết hợp.
2.5.5. Giản đồ nhiễu xạ tia X
Nhiễu xạ tia X là phương pháp nhận diện nhanh và chính xác các pha tinh thể,
định lượng pha tinh thể, kích thước hạt trung bình .... Dựa vào giản đồ nhiều xạ
chuẩn của Ủy ban hợp tác về tiêu chuẩn nhiễu xạ theo phương pháp bột (JCPDS) ta
có thể xác định một loại vật liệu chưa biết nào đó bằng cách so sánh với mẫu chuẩn.
Trong luận án này, giản đồ nhiễu xạ tia X (XRD) được sử dụng để bổ sung
cho kết quả của phổ hồng ngoại trong việc xác định pha zirconi oxit trong lớp màng
kép tạo thành. Ngoài ra, dựa trên cơ sở của phương trình Scherer (phương trình
2.3), kích thước hạt trong lớp màng cũng được ước lượng gần đúng [104,105].
(2.3)
51
Trong đó: D là kích thước trung bình của hạt;
K là hằng số Scherer, lấy gần đúng là 0,89;
là bước sóng tia X, Å;
là độ rộng của pic tại một nửa chiều cao, rad;
góc phản xạ Bragg, độ;
Phương pháp nhiễu xạ tia X được thực hiện ở chế độ như sau:
- Góc quay 2: 20 80o;
- Tốc độ 0,05o/giây;
- Anot đồng Cu (Kα) = 1,5406 Å.
2.5.6. Xác định độ bám dính của màng sơn
2.5.6.1. Xác định độ bám dính theo ASTM D3359
Để đánh giá định tính độ bền bám dính của lớp phủ, tiến hành thử nghiệm
bằng phương pháp băng keo (theo ASTM D3359). Mẫu sơn thử nghiệm được rạch 2
đường chéo cắt nhau hình chữ X, mỗi đường dài khoảng 4cm, góc nhọn giao giữa 2
đường khoảng 30 ÷ 45o. Các đường cắt đều đặn và vào đến vật liệu nền (bề mặt
thép). Độ bám dính được phân cấp sau khi xem xét mức độ bóc tách màng sơn xung
quanh vết rạch (bảng 2.1). Cấp độ bám dính càng cao, mẫu có độ bám dính giữa hệ
sơn và bề mặt nền càng tốt.
Bảng 2.1. Bảng tiêu chuẩn đánh giá độ bám dính theo ASTM D3359
Diễn giải Hình minh họa Cấp độ bám dính
5 Không có vết bong tróc
4 Vết bong tróc nhỏ rải rác dọc theo chữ X hoặc ở điểm giao
3 Vết bong tróc lởm chởm như răng cưa dọc theo chữ X, tổng 2 bên lên đến 1,6mm
52
Diễn giải Hình minh họa Cấp độ bám dính
2 Vết bong tróc lởm chởm như răng cưa dọc theo chữ X, tổng 2 bên lên đến 3,2mm
1 Lớp sơn bị bong tróc trong hầu hết khu vực chữ X
0 Lớp sơn bị bong tróc cả ra ngoài khu vực chữ X
2.5.6.2. Xác định độ bám dính theo ASTM D 4541
Để đánh giá định lượng khả năng bám dính của lớp phủ, tiến hành đo độ bám
dính của lớp phủ bằng phương pháp kéo tách theo ASTM D4541 sử dụng thiết bị
PosiTest AT-M. Thiết bị đo có cấu tạo như trong hình 2.3.
Hình 2.3. Cấu tạo thiết bị đo độ bám dính màng sơn theo ASTM D4541:
1. Bơm tạo áp lực 2. Màn hình hiển thị 3. Thiết bị kéo tách 4. Dolly 5. Dụng cụ cắt
Bề mặt vật liệu sau khi tiền xử lý được sơn tĩnh điện với lớp sơn có độ dày
khoảng 60 ± 5 µm. Khi lớp sơn đã khô hẳn, lau sạch bề mặt và gắn phần đế của
dolly vào vị trí cần đo bằng keo epoxy 2 thành phần. Đợi cho lớp keo khô hẳn.
Dùng dụng cụ cắt (5) để cắt bỏ lớp sơn xung quanh đế dolly. Lắp thiết bị kéo tách
(3) vào dolly, bơm tạo áp lực (1) sẽ tạo ra một lực tăng dần trong thiết bị kéo tách,
đến khi dolly bị bật ra khỏi bề mặt vật liệu, kéo theo cả màng sơn. Lực ghi nhận
ngay thời điểm lớp sơn bị bong ra chính là lực bám dính của màng sơn, tính bằng
MPa được hiển thị trên màn hình (2). Mẫu nào có chỉ số lực bám dính càng cao thì
khả năng bám dính giữa lớp sơn phủ với nền vật liệu của mẫu đó càng tốt.
53
2.5.7. Thử nghiệm gia tốc
2.5.7.1. Thử nghiệm ngâm trong nước muối
Ngâm trong dung dịch ăn mòn là một trong những phương pháp gia tốc quá
trình xâm thực, phá hủy và gây ăn mòn mẫu để nhanh chóng đánh giá, so sánh kết
quả. Các mẫu sơn được ngâm liên tục trong nước muối NaCl 3,5 % với các chu kỳ
khác nhau theo tiêu chuẩn ASTM D 1654 – 05. Ngâm trong nước muối được thực
hiện để đo suy giảm bám dính màng sơn, mức độ ăn mòn dưới vết rạch.
2.5.7.2. Thử nghiệm mù muối
Phương pháp gia tốc phun muối, (JIS 8502:1999) trên thiết Q – FOG CCT 600
(Mỹ), với các điều kiện cụ thể sau:
- pH dung dịch: 6,5 ÷ 7,2
- Nồng độ NaCl: 5 %
- Áp suất phun: 1,0 Atm
- Nhiệt độ kiểm tra: 35 ÷ 37 oC
- Nhiệt độ bồn bão hòa: 47 ÷ 49 oC
- Tốc độ phun: 2 mL/giờ
2.5.8. Thử nghiệm tự nhiên
Đánh giá hiệu quả bảo vệ thực tế của hệ sơn bằng phương pháp thử nghiệm tự
nhiên theo ISO 4628:2016 (Phần 8: Đánh giá độ tách lớp và ăn mòn xung quanh vết
rạch nhân tạo).Thử nghiệm tự nhiên được thực hiện tại Trạm Nghiên cứu thử
nghiệm biển – Chi nhánh Ven biển – Trung tâm Nhiệt đới Việt-Nga (5/2017 ÷
5/2019). Trạm nằm trên địa phận Đảo Hòn Tre, Phường Vĩnh Nguyên, Nha Trang,
Khánh Hòa. Các mẫu sơn tĩnh điện thử nghiệm được bố trí trên giá thử nghiệm tại
sân cỏ, cách mặt sân 1,5 m, mặt mẫu nghiêng 45o và quay về hướng Đông Nam.
Các số liệu khí tượng được đo ghi tự động bằng Trạm Campell. Xác định hàm
lượng clorua sa lắng bằng phương pháp “nến ẩm” theo tiêu chuẩn ISO 9225:2012.
54
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Nghiên cứu chế tạo màng đơn zirconia
Như đặt vấn đề, việc tạo thành lớp màng zirconia trên bề mặt thép có vai trò
quan trọng trong việc tạo lớp màng kết hợp zirconia/silan. Nhiều thông số quyết
định đến kết quả của việc hình thành màng trong đó quan trọng hơn cả là thời gian
xử lý và pH của dung dịch. Lớp màng đơn zirconia được chế tạo bằng cách nhúng
mẫu nền trong dung dịch axit hexaflorozirconic (mục 2.4.1). Các điều kiện chế tạo
như pH của dung dịch axit và thời gian nhúng được khảo sát. Độ bền ăn mòn và độ
bám dính là hai chỉ tiêu kỹ thuật để lựa chọn điều kiện chế tạo màng.
3.1.1. Ảnh hưởng của pH của dung dịch axit hexaflorozirconic
3.1.1.1. Ảnh hưởng của pH của dung dịch xử lý đến độ bền ăn mòn của mẫu
Để nghiên cứu ảnh hưởng của pH đến độ bền ăn mòn của mẫu, phương pháp
phổ tổng trở điện hóa và đường cong phân cực được áp dụng. Phổ tổng trở điện hóa
là phương pháp không phá hủy mẫu được ứng dụng rộng rãi trong việc nghiên cứu
độ bền ăn mòn trên cơ sở tương tác điện hóa giữa bề mặt mẫu và dung dịch điện ly.
Từ phổ tổng trở điện hóa cho phép đưa ra các thông tin về điện trở phân cực (đại
diện cho độ bền của mẫu) và điện dung lớp kép (đại diện cho tính chất của lớp bề
mặt mẫu). Còn đường cong phân cực cho phép xác định được mức độ biến đổi thế
ăn mòn, mật độ dòng ăn mòn,...từ đó đánh giá được độ bền ăn mòn của mẫu. Tất cả
các mẫu sử dụng để xác định phổ tổng trở điện hóa và đường cong phân cực được
ổn định 10 phút trong dung dịch NaCl 3,5 % trước khi thực hiện đo.
Phổ tổng trở Nyquist của mẫu nền và các các mẫu được xử lý trong dung dịch
axit hexaflorozirconic có pH khác nhau được thể hiện trên hình 3.1. Có thể thấy
rằng, phổ tổng trở của các mẫu có dạng những đường cong khá tương đồng nhau.
Kết quả này chứng tỏ có cùng một hiện tượng điện hóa cơ bản xảy ra trên bề mặt
các mẫu nhưng với những mức độ phản ứng điện hóa khác nhau giữa điện cực (bề
mặt mẫu) với dung dịch điện ly (NaCl 3,5 %) [19,45]. Sự xuất hiện của các đường
cong trong phổ tổng trở Nyquist của tất cả các mẫu cũng phản ánh quá trình trao đổi
điện tích tại giao diện bề mặt. Quá trình này liên quan trực tiếp đến điện trở phân
cực và điện dung lớp kép tại giao diện. Từ đó, có thể xây dựng được sơ đồ mạch
55
điện tương đương của tất cả các mẫu. Sử dụng phần mềm Nova 2.0 đồng bộ với
thiết bị AutoLAB PGSTAT 204 N, ta xây dựng được sơ đồ mạch điện tương đương
của bình điện hóa của các trường hợp này như trên hình 3.2.
Hình 3.1. Phổ Nyquist của mẫu nền và các mẫu được xử lý bề mặt trong các
dung dịch H2ZrF6 có pH thay đổi từ 2 đến 6 (trong dung dịch NaCl 3,5 %).
Hình 3.2. Sơ đồ mạch điện tương đương Randles điển hình.
Thông số cơ bản của hệ điện hóa gồm có:
- Rs là điện trở của dung dịch trong bình điện hóa;
- Rp là điện trở phân cực của mẫu đã được xử lý bề mặt;
- Rct là điện trở trao đổi điện tích của mẫu nền;
- CPE (constant phase element) là thành phần pha không đổi;
56
CPE trong bình điện hóa này đóng vai trò như là một tụ điện. Điện dung của tụ
điện (tính theo đơn vị F) được xác định gián tiếp thông qua các thông số đặc trưng
riêng theo công thức [106]:
Trong đó:
- Yo là thông số về độ lớn dẫn nạp của thành phần CPE, được xác định từ
phần mềm Nova 2.0;
- n là chỉ số mũ của thành phần CPE. Trị số n được xác định từ phần mềm
Nova 2.0 đặc trưng cho thuộc tính bề mặt của lớp màng tạo thành như: độ đồng đều,
độ nhám, phân bố hạt, thành phần màng, mức độ hòa tan của nền,... [45,107,108].
Các thông số đặc trưng của bình điện hóa ứng với các mẫu được xử lý trong
dung dịch axit hexaflorozirconic có pH khác nhau được trình bày trong bảng 3.1.
Bảng 3.1. Các thông số điện hóa của các lớp màng theo pH của dung dịch.
pH của dung dịch H2ZrF6 Mẫu Thông số nền 2 3 4 5 6
72,63 72,86 72,38 74,63 73,40 73,59 Rs (Ω.cm2) ± 0,34 ± 0,31 ± 0,64 ± 0,26 ± 0,49 ± 0,38
664,29 947,04 2177,68 3198,74 2438,82 1372,37 Rp (Ω.cm2) ± 14,88 ± 16,65 ± 37,23 ± 46,38 ± 41,46 ± 30,31
C (µF.cm-2) 970 660 310 280 306 536
0,003643 0,002487 0,000875 0,000993 0,001122 0,001959 Y0 (±%) ± 1,903 ± 1,546 ± 1,650 ± 0,952 ± 1,249 ± 1,700
0,8145 0,8202 0,7855 0,7886 0,8016 0,8250 n (±%) ± 0,881 ± 0,663 ± 0,596 ± 0,356 ± 0,486 ± 0,708
χ² 0,02798 0,02239 0,02854 0,01311 0,03318 0,03287
Đường cong từ thực nghiệm và đường cong lý tưởng để xác định các thông số
trong bảng 3.1 luôn có sự sai khác nhất định, chỉ số χ² phản ánh mức độ khớp số
liệu giữa kết quả thực nghiệm và số liệu lý tưởng trong tất cả các tính toán đều nhỏ
57
hơn 0,05 cho phép các giá trị đạt được đều có ý nghĩa về mặt số liệu. Sự khác nhau
về các chỉ số n và Yo phản ánh mức độ khác nhau về đặc trưng lớp màng tạo thành
như: độ kín khít, độ gồ ghề, độ đồng nhất cũng như mức độ thâm nhập của ion,
nước vào lớp màng, [45,107,108]. Số liệu từ bảng 3.1 cho thấy, điện trở phân cực
của mẫu nền được xử lý trong dung dịch axit hexaflorozirconic đã tăng lên đáng kể.
Như chúng ta đã biết, điện trở phân cực là thông số đại diện cho độ bền ăn mòn của
mỗi bề mặt vật liệu trong môi trường xâm thực [45]. Kết quả này chứng tỏ, xử lý bề
mặt bằng dung dịch axit hexaflorozirconic dẫn tới tăng độ bền ăn mòn của mẫu. Các
mẫu có điện trở phân cực Rp đạt giá trị lớn hơn khi được xử lý trong dung dịch có
pH từ 3 đến 5 và đạt kết quả lớn nhất tại pH = 4 (3198,74 Ω.cm2).
Đường cong phân cực của mẫu nền và các mẫu được xử lý trong dung dịch
axit hexaflorozirconic ở những điều kiện pH khác nhau được thể hiện trên hình 3.3.
Hình 3.3. Đường cong phân cực của mẫu nền được xử lý
trong các dung dịch H2ZrF6 có pH khác nhau (trong dung dịch NaCl 3,5 %).
Có thể thấy rằng, với tất cả các mẫu nền được xử lý, điện thế mạch hở trong
NaCl 3,5 % đều dịch chuyển dần về phía âm hơn nhưng với các mức độ khác nhau.
Các mẫu được xử lý trong dung dịch có pH từ 3 đến 5 dịch chuyển nhiều hơn hẳn
so với các mẫu được xử lý trong dung dịch có pH bằng 2 hoặc 6. Số liệu từ ngoại
suy Tafel của các đường cong phân cực tương ứng với các mẫu được xử lý bề mặt
trong các dung dịch có pH khác nhau trình bày trong bảng 3.2.
58
Bảng 3.2. Kết quả ngoại suy Tafel các đường cong phân cực của mẫu nền được
xử lý trong các dung dịch H2ZrF6 có pH khác nhau (trong dung dịch NaCl 3,5 %).
pH của dung dịch H2ZrF6 Thông số Mẫu nền 2 3 4 5 6
E (- mV/SCE) 560,8 633,2 676,4 690,2 683,9 637,6
137 38,8 7,7 7,2 8,0 74 Jcorr (µA/cm2)
Số liệu cho thấy, mật độ dòng ăn mòn của các mẫu được xử lý bề mặt giảm đi
rất nhiều so với mẫu không được xử lý. Các mẫu có mật độ dòng ăn mòn thấp hơn
hẳn tương ứng với dung dịch axit hexaflorozirconic có pH từ 3 đến 5. Mật độ dòng
ăn mòn là thông số phản ánh trực tiếp tốc độ ăn mòn của mẫu trong môi trường xâm
thực. Thông số về mật độ dòng ăn mòn từ đường cong phân cực cũng phù hợp với
thông số về điện trở phân cực từ phổ tổng trở của các mẫu.
Điện trở phân cực tăng, mật độ dòng ăn mòn giảm và đạt giá trị ưu thế hơn với
dung dịch có pH từ 3 đến 5 có thể được giải thích do sự hình thành của màng
zirconi oxit trên bề mặt mẫu. Kết quả này cũng phù hợp với nhiều công bố trước
đây khi khẳng định lớp màng chuyển tiếp dựa trên Zr có điện trở phân cực cao nhất
hoặc/và mật độ dòng ăn mòn thấp nhất với dung dịch có pH = 4 hoặc 4,5
[19,45,49,74]. Với dung dịch có giá trị pH ≤ 3, tính axit mạnh làm cho Fe bị hòa tan
nhanh vào dung dịch xử lý đồng thời lớp màng chuyển tiếp nếu được tạo thành cũng
dễ bị hòa tan, nên kết tủa khó khăn hơn trên nền thép. Kết quả là hiệu quả bảo vệ ăn
mòn của lớp màng tạo thành không cao [19]. Tuy nhiên khi tiếp tục tăng pH ≥ 5 thì
tổng trở của mẫu nền sau khi xử lý lại giảm xuống cùng với việc tăng mật độ dòng
ăn mòn lên rõ rệt. Trong điều kiện pH cao, phản ứng anot chậm lại dẫn đến phản
ứng catot cũng chậm theo nên pH tại giao diện bề mặt và dung dịch chuyển tiếp
tăng không đủ để hình thành oxit của zirconi [19]. Li và cộng sự nghiên cứu pH cục
bộ tại giao diện bề mặt hợp kim nhôm với các dung dịch chuyển tiếp dựa trên
zirconi khác nhau đã chứng tỏ, giá trị pH cục bộ này có thể tăng từ 2 đến 6 đơn vị
[49]. Giá trị pH cục bộ tăng chính là điều kiện cần và phù hợp cho phản ứng kết tủa
oxit hoặc hydroxit của zirconi trên bề mặt nền theo phản ứng [49]:
(3.1)
59
3.1.1.2. Ảnh hưởng của pH đến độ bám dính của hệ sơn tĩnh điện
Độ bám dính giữa lớp sơn và bề mặt nền là thông số quan trọng quyết định
đến hiệu quả bảo vệ lâu dài của hệ sơn. Độ bám dính của màng sơn trên nền thép
được xử lý bề mặt trong dung dịch axit hexaflorozirconic có độ pH khác nhau đã
rạch chữ X (ASTM D3359) sau 3 ngày ngâm trong dung dịch nước muối NaCl 3,5
% và sử dụng băng keo thể hiện ở hình 3.4.
pH = 2 Mẫu nền pH = 3
pH = 5 pH = 6 pH = 4
Hình 3.4. Độ bám dính của hệ sơn trên mẫu nền được xử lý bề mặt
bằng dung dịch H2ZrF6 ở các độ pH khác nhau.
Kết quả cho thấy, mẫu sơn được xử lý ở chế độ dung dịch có pH = 3 hoặc 4
đạt kết quả tốt nhất, xung quanh vết rạch gần như không thay đổi (mức 5). Các mẫu
còn lại đều xuất hiện các vết bong tróc nhất định thể hiện độ bám dính giữa sơn và
bề mặt nền ở mức thấp hơn. Kết quả này có thể được giải thích do điều kiện tạo
màng chuyển tiếp. Như trên đã thảo luận, điều kiện thuận lợi nhất để lớp màng
zirconi oxit hình thành trên bề mặt thép là dung dịch có pH xung quanh giá trị 4.
Sự tạo thành màng zirconi trên bề mặt thép có thể giải thích cho độ bền bám
dính của các mẫu được xử lý bề mặt cao hơn so với mẫu nền (không được xử lý bề
mặt). Lớp màng tạo thành này chứa các oxit của zirconi (mang bản chất của oxit
kim loại) sẽ tạo lực liên kết tĩnh điện mạnh giữa các nhóm phân cực trong sơn
(polar groups) và bề mặt được sơn [19]. Điều này giải thích tại sao sự có mặt của
lớp phủ chuyển tiếp tại tăng độ bám dính của sơn trên nền thép. Bên cạnh đó,
60
Taheri và cộng sự đã chứng tỏ rằng, sự hình thành lớp màng zirconi oxit trên bề mặt
kim loại làm tăng mật độ oxy trên bề mặt, đồng thời sau xử lý nhiệt dẫn tới bay hơi
nước nên oxit của zirconi trở nên trạng thái thuần khiết nhất. Các yếu tố này dẫn tới
thuộc tính hoạt hóa của bề mặt (surface donor properties) tăng lên cũng làm tăng lực
bám dính [109]. Ngoài ra, như chúng ta đã biết rằng thuộc tính bám dính của một
vật chất (ví dụ như sơn) trên một bề mặt vật chất khác (ví dụ kim loại), phụ thuộc
vào sức căng bề mặt của chúng hay phụ thuộc vào tính ưa nước (hydrophilicity) hay
thấm ẩm (wettability) bề mặt. Đặc tính này được biểu diễn thông qua góc tiếp xúc.
A. Ghanbari và cộng sự đã chứng minh rằng, góc tiếp xúc của 3 chất lỏng (nước,
mormamide và diiodomethane) trên màng zirconi oxit giảm từ 1,5 đến 2 lần so với
trên bề mặt thép nhẹ [22]. Độ lớn góc tiếp xúc còn giảm thêm khi bề mặt zirconi
oxit được xử lý nhiệt. Từ đây, tác giả đã kết luận rằng, thuộc tính này cũng dẫn tới
tăng độ bám dính giữa sơn hữu cơ và bề mặt thép nền được xử lý bằng zircona.
Điều này một lần nữa giải thích tại sao lực bám dính của hệ sơn được xử lý trong
dung dịch axit hexaflorozirconic lại cao hơn so với mẫu nền.
Với kết quả này, có thể nhận định, dung dịch xử lý có pH phù hợp tạo ra lớp
màng chuyển tiếp tốt hơn sẽ tạo ra bề mặt có độ bám dính với sơn tĩnh điện tốt hơn
so với các mẫu khác.
3.1.2. Ảnh hưởng của thời gian xử lý trong dung dịch axit hexaflorozirconic
3.1.2.1. Ảnh hưởng của thời gian xử lý đến độ bền ăn mòn của mẫu
Để nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian xử lý đến độ bền ăn mòn của mẫu,
phương pháp phổ tổng trở điện hóa và đường cong phân cực tiếp tục được áp dụng.
Phổ tổng trở Nyquist của mẫu nền và các các mẫu được xử lý bề mặt trong dung
dịch axit hexaflorozirconic sau những khoảng thời gian khác nhau được thể hiện
trên hình 3.5. Với những nhận xét tương tự như trường hợp khảo sát phổ tổng trở
theo pH của dung dịch, các thông số đặc trưng của bình điện hóa ứng với các mẫu
được xử lý trong dung dịch axit hexaflorozirconic theo các khoảng thời gian khác
nhau được trình bày trong bảng 3.3. Kết quả từ bảng 3.3 cho thấy, lớp màng zirconi
oxit được hình thành đã làm tăng đáng kể điện trở phân cực của mẫu nền nhiều lần.
Kết quả này chứng tỏ độ bền ăn mòn của mẫu nền đã được tăng lên sau khi được xử
lý trong dung dịch axit hexaflorozirconic với những khoảng thời gian khác nhau.
61
Hình 3.5. Phổ tổng trở Nyquist của mẫu nền và các mẫu được xử lý trong dung dịch
H2ZrF6 theo các khoảng thời gian khác nhau (trong dung dịch NaCl 3,5 %)
Bảng 3.3. Các thông số của bình điện hóa từ phổ tổng trở theo thời gian xử lý.
Thời gian xử lý mẫu trong dung dịch H2ZrF6 Mẫu Thông số nền 2 phút 3 phút 4 phút 5 phút 6 phút
72,63 73,59 73,87 74,63 73,66 75,74 Rs (Ω.cm2) ± 0,34 ± 0,35 ± 0,38 ± 0,26 ± 0,35 ± 0,41
664,29 1151,83 2381,55 3198,74 1953,97 1000,94 Rp (Ω.cm2) ± 14,88 ± 25,23 ± 40,25 ± 46,38 ± 49,44 ± 28,83
C (µF.cm-2) 970 711 679 280 731 1160
0,003643 0,002549 0,002139 0,000993 0,002350 0,003797 Y0 (±%) ± 1,903 ± 1,576 ± 1,6326 ± 0,952 ± 1,2641 ± 1,744
0,8145 0,8268 0,8027 0,7886 0,7915 0,7528 n (±%) ± 0,881 ± 0,699 ± 0,754 ± 0,356 ± 0,667 ± 0,861
χ² 0,02798 0,02740 0,02564 0,01311 0,03512 0,02704
Ban đầu, điện trở phân cực tăng dần theo thời gian xử lý và lớn nhất trong 4
phút (3198,74 Ω.cm2) chứng tỏ quá trình màng zirconi oxit đang được tạo thành và
hoàn thiện sau 4 phút. Tuy nhiên, thời gian xử lý tiếp tục tăng thì độ bền của mẫu
62
lại giảm. H. E. Mohammadloo và cộng sự đã khẳng định rằng cùng với quá trình
hình thành, lớp màng dần ổn định và khít chặt với thời gian nhất định. Các tác giả
đã chứng minh rằng nếu thời gian xử lý tiếp tục tăng, trên bề mặt lớp màng sẽ hình
thành các vết nứt tế vi, đồng thời dẫn tới sự suy giảm điện trở phân cực tương ứng
[45][46]. Chính các vết nứt tế vi này cho phép các ion, nước trong dung dịch điện ly
xâm thực vào trong lớp màng. Kết quả làm gia tăng độ dẫn điện của chính lớp màng
hay giảm điện trở phân cực. Kết quả xử lý số liệu từ phổ tổng trở cũng cho thấy,
quá trình thay đổi điện dung của lớp màng tỷ lệ nghịch với điện trở phân cực. Điện
dung giảm trong 4 phút đầu phản ánh mức độ dần hoàn thiện và kín khít của lớp
màng tạo thành trên bề mặt mẫu. Sau đó, độ lớn điện dung tăng là do ảnh hưởng của
thuộc tính bề mặt như đã nêu trên.
Đường cong phân cực của mẫu nền được xử lý trong dung dịch axit
hexaflorozirconic sau khoảng thời gian khác nhau được thể hiện trên hình 3.6.
Hình 3.6. Đường cong phân cực của mẫu nền được xử lý theo thời gian khác nhau.
Có thể thấy rằng, với tất cả các mẫu nền được xử lý, điện thế mạch hở dịch
chuyển dần về phía âm hơn nhưng với các mức độ khác nhau. Ban đầu khi thời gian
xử lý tăng lên, điện thế dịch chuyển về phía âm hơn và đạt giá trị thấp nhất ở 4 phút,
sau đó điện thế trở nên ít âm hơn khi thời gian xử lý tăng. Sự biến thiên điện thế
một lần nữa chứng tỏ sự hình thành các lớp màng với mức độ bền ăn mòn khác
63
nhau trong môi trường xâm thực và độ bền này phụ thuộc rất nhiều vào thời gian
tạo màng. Để xác định các thông số đặc trưng ăn mòn của các lớp màng được tạo ở
các khoảng thời gian xử lý khác nhau, ngoại suy Tafel đường cong phân cực cho
các kết quả đạt được tương ứng trình bày ở bảng 3.4.
Bảng 3.4. Kết quả ngoại suy Tafel các đường cong phân cực của mẫu nền được
xử lý trong các dung dịch H2ZrF6 với thời gian khác nhau (dung dịch NaCl 3,5 %).
Thời gian xử lý mẫu trong dung dịch H2ZrF6 Mẫu Thông số nền 2 phút 3 phút 4 phút 5 phút 6 phút
E (- mV/SCE) 560,8 630,5 649,3 690,2 650,7 634,7
137 16,1 12,5 7,2 16,1 18,1 Jcorr (µA/cm2)
Kết quả từ bảng 3.4 cho thấy mật độ dòng ăn mòn của các mẫu thép được xử
lý giảm đi rất nhiều so với mẫu nền. Điều này có nghĩa là mật độ dòng ăn mòn của
mẫu được xử lý bề mặt đã giảm từ 7,5 đến 19 lần. Ban đầu, khi thời gian xử lý tăng
dần, mật độ dòng ăn mòn giảm theo. Kết quả đạt được tốt nhất khi mẫu được xử lý
trong thời gian 4 phút, sau đó mật độ dòng ăn mòn lại tăng lên. Kết quả này có thể
được giải thích từ kết quả của quá trình hình thành lớp màng zirconi oxit trên bề
mặt mẫu nền. Bên cạnh đó, thế ăn mòn của các mẫu được xử lý dịch chuyển về phía
âm hơn cho thấy dòng khử oxy cũng giảm đi cùng với việc giảm mật độ dòng. Đây
cũng chính là kết quả của việc hình thành một lớp rào cản hạn chế các tác nhân oxy
hóa tiếp xúc với mẫu nền [110]. Sự biến thiên về mật độ dòng ăn mòn, thế ăn mòn
xác định từ ngoại suy Tafel hoàn toàn tương đồng với kết quả xác định điện trở
phân cực được xử lý từ phổ tổng trở ở trên.
3.1.2.2. Ảnh hưởng của thời gian xử lý đến độ bám dính của hệ sơn tĩnh điện
Ảnh chụp các mẫu xác định mức độ bong tróc xung quang nét rạch chữ X của
các mẫu sơn được xử lý bề mặt trong dung dịch axit hexaflorozirconic có độ pH
khác nhau được thể hiện trên hình 3.7. Kết quả đánh giá định tính mức độ bong tróc
xung quanh nét rạch chữ X cho thấy, mẫu sơn được xử lý trong khoảng thời gian từ
3 đến 5 phút đạt kết quả khá tốt, xung quanh vết rạch gần như không thay đổi (mức
5). Các mẫu được xử lý trong 6 phút hoặc 2 phút với các mức độ thấp nhất nhưng
vẫn cao hơn so với mẫu không được xử lý.
64
3 phút Mẫu nền 2 phút
5 phút 6 phút 4 phút
Hình 3.7. Độ bám dính của hệ sơn trên mẫu nền được xử lý bề mặt bằng dung dịch
H2ZrF6 theo thời gian khác nhau.
Các mẫu được xử lý trong 3 hoặc 5 phút đạt kết quả gần tương tự như mẫu
được xử lý trong 4 phút. Chỉ có điểm bong tróc nhỏ ở gần vị trí tâm của chữ X. Kết
quả này chứng tỏ tất cả các mẫu được xử lý bề mặt bằng axit hexaflorozirconic đều
hỗ trợ độ bám dính giữa lớp sơn và nền tốt hơn. Với mẫu được xử lý bề mặt trong 2
phút, do lớp màng chuyển tiếp đang trong quá trình hình thành, chưa hoàn thiện nên
chưa hỗ trợ được nhiều cho độ bám dính của hệ sơn. Kết quả khảo sát cho thấy mẫu
được xử lý trong 2 phút cũng chỉ tương đương với mẫu không được xử lý về độ
bám dính. Mẫu được xử lý ở thời gian 6 phút có kết quả bám dính kém hơn có lẽ do
đặc trưng bề mặt của lớp màng chuyển tiếp. Thời gian xử lý bề mặt nhiều hơn dễ
dẫn đến lớp màng không đồng đều, rỗ xốp và có nhiều vết nứt tế vi trên bề mặt.
Nhận xét và kết luận nội dung 3.1
Kết quả khảo sát cho thấy xử lý bề mặt bằng lớp màng zirconi oxit đã cải
thiện rõ rệt độ bền ăn mòn của bề mặt thép. Độ bền ăn mòn của màng zirconia và độ
bám dính của hệ sơn tĩnh điện phụ thuộc vào pH của dung dịch và thời gian xử lý.
Kết quả khảo sát cho thấy, lớp màng tạo thành có độ bền cao nhất đạt được với thời
gian xử lý 4 phút trong dung dịch axit hexaflorozirconic có pH = 4. Có thể kết luận
sơ bộ, thời gian tạo màng từ 3 đến 5 phút trong dung dịch có pH từ 3 đến 5, độ bền
65
ăn mòn của mẫu và độ bám dính của hệ sơn trên nền thép là tốt hơn cả. pH của
dung dịch được lựa chọn bằng 4 cho tất cả các nghiên cứu tiếp theo.
3.2. Chế tạo và đặc trưng tính chất lớp màng kép zirconia/silan
Dung dịch kết hợp axit hexaflorozirconic/silan được điều chế như mục 2.3.2.2.
Lớp màng kép zirconia/silan được chế tạo bằng cách nhúng mẫu nền trong dung
dịch kết hợp theo các khoảng thời gian xử lý bề mặt với nồng độ silan (v/v) khác
nhau (mục 2.4.2). Động học quá trình tạo màng được nghiên cứu trong dung dịch
tạo màng; thành phần, hình thái, liên kết và độ bền ăn mòn của các màng kép tạo
thành được nghiên cứu theo ảnh hưởng của thời gian xử lý bề mặt với nồng độ silan
(v/v) khác nhau.
3.2.1. Động học quá trình và thành phần lớp màng kép zirconia/silan.
Biến thiên thế mạch hở của mẫu được coi là một chỉ tiêu đánh giá cho cơ chế
hình thành màng [20,48]. Bởi vì quá trình thay đổi thế mạch hở là do tương tác điện
hóa giữa bề mặt và dung dịch tạo màng. Cơ chế của quá trình này bao gồm hòa tan
và thay thế lớp ngoài của kim loại bởi florit kim loại dễ tan hơn [20]. Quá trình hòa
tan kim loại cũng làm gia tăng pH cục bộ tại giao diện kim loại - dung dịch do phản
ứng giải phóng hydro và phản ứng khử oxy cho phép kết tủa song song oxit của
zirconi trên bề mặt [20,48].
Hình 3.8. Biến thiên thế mạch hở theo thời gian xử lý mẫu
trong dung dịch H2ZrF6/silan.
66
Để nghiên cứu động học hình thành màng, biến thiên thế mạch hở của mẫu
trong quá trình tạo lớp màng zirconi oxit/silane được nghiên cứu. Thế mạch hở
(OCP) của mẫu được đo trực tiếp ngay khi mẫu tiếp xúc với dung dịch xử lý và đo
lặp lại sau mỗi 30 giây. Sự biến đổi thế mạch hở của mẫu nền trong dung dịch
H2ZrF6/silan được thể hiện trong hình 3.8. Có thể thấy rằng giá trị OCP của điện
cực thép dịch chuyển dần về phía dương hơn trong quá trình tạo màng trong khoảng
3 phút đầu tiên sau đó tương đối ổn định cho đến 6 phút. Kết quả này có thể được
giải thích do lớp màng chuyển tiếp ZrO2/silan được hình thành trên bề mặt mẫu nền.
Cơ chế thay đổi ban đầu xuất phát từ việc kim loại nền được hòa tan vào dung dịch
chuyển tiếp cùng với đó là sự hình thành zirconi oxit trên bề mặt như J. Cerezo và
cộng sự đã công bố [20]. J.W.Schultz và cộng sự đã diễn giải rằng, trong quá trình
này cả dòng dẫn của ion kim loại và dòng electron đều gia tăng, và sự gia tăng này
sẽ làm tăng phản ứng điện hóa, ví dụ như phản ứng anot hòa tan kim loại nền [111].
Mặc dù quá trình hòa tan kim loại và biến thiên của dòng dẫn ion và electron diễn ra
nhưng lớp màng zirconi oxit vẫn được hình thành trên bề mặt kim loại nền [45].
Từ những nhận định đó, các phản ứng hóa học xảy ra trên bề mặt mẫu để hình
thành màng kép có thể được mô tả thành hai quá trình như sau.
Quá trình 1, Trong dung dịch, axit hexaflorozirconic được phân ly thành dạng
-2
ion theo phương trình 3.2.
(3.2) H2ZrF6 → 2H+ + ZrF6
Khi mẫu nền được nhúng trong dung dịch kết hợp, axit hexaflorozirconic sẽ
hòa tan kim loại (mà chủ yếu là Fe). Lúc này Fe sẽ bị oxy hóa và bị hòa tan vào
dung dịch bởi phản ứng anot:
Fe - 2e → Fe2+ (3.3)
-2) để giải phóng Zr4+ vào trong dung dịch theo phản ứng 3.4.
Ion Fe2+ sẽ kết hợp với hợp chất zirconi florit trong dung dịch axit (2H+ và
-4
ZrF6
-2 → Zr4+ + FeF6
(3.4) Fe2+ + ZrF6
Ion H+ trong dung dịch bị khử bởi phản ứng catot cục bộ trên bề mặt kim loại
đồng thời giải phóng H2 theo phương trình 3.5.
67
(3.5) 2H+ + 2e → H2↑
Kết quả pH cục bộ trên bề mặt catot tăng dẫn tới kết tủa zirconi oxit ngậm
nước. Tại các vị trí này, tinh thể được nảy mầm rồi sau đó lan tỏa ra toàn bộ bề mặt
để hình thành lớp màng zirconi oxit theo phương trình 3.6.
(3.6) Zr4+ + 3H2O → ZrO2· H2O + 4H+
Mặc dù quá trình 1 này được mô tả thành 5 phương trình từ 3.2 đến 3.6,
nhưng các phản ứng này được xảy ra đồng thời. Phương trình tổng hợp được thể
hiện trong phương trình 3.7.
(3.7) Fe + H2ZrF6 + H2O → ZrO2 + 4H+ + 6F- + H2↑
Quá trình 2, khi mẫu nền được nhúng trong dung dịch axit hexaflorozirconic/
silan, phản ứng cộng hóa trị để hình thành mạng siloxan trên bề mặt mẫu cũng có
thể xảy ra và theo 3 bước cơ bản sau [29,34,78,79].
1- Khi pha loãng dung dịch, các nhóm ethoxy trong silan A-1100 chuyển sang
nhóm silanol (Si-OH) theo phương trình 3.8.
(3.8) H2N(CH2)3Si(OC2H5)3 + 3H2O→ H2N(CH2)3Si(OH)3 + 3C2H5OH
2 – Nhóm silanol bị hấp phụ bởi hydroxyl của ion kim loại (ví dụ Fe-OH)
thông qua liên kết hydro vào chuyển thành liên kết siloxan – kim loại (Si-O-Fe)
theo phương trình 3.9.
(3.9) H2N(CH2)3Si(OH)3 + Fe-OH → H2N(CH2)3Si(OH)2 -O-Fe
3 – Các nhóm Si-OH tự do cũng được hình thành để tạo thành mạng lướt
siloxan (Si-O-Si) ổn định về mặt hóa học theo phương trình 3.10.
(3.10) SiOH+ SiOH → Si-O-Si+H2O
Sự biến thiên thế mạch hở cũng được khẳng định liên quan trực tiếp đến việc
hình thành màng [21]. Thế ăn mòn dịch về phía dương hơn trong quá trình tạo màng
có thể được giải thích do sự hấp phụ của màng zirconia tại nơi tạo thành các ion
Fe2+ (vùng anot). Như vậy, đồng thời với việc tạo màng, phản ứng hòa tan sắt cũng
làm tăng quá trình anot dẫn tới thế mạch hở của mẫu (điện cực làm việc) dịch
chuyển về phía dương hơn. Sự có mặt của ion Fe2+ được hòa tan vào dung dịch
cũng đóng vai trò như là phụ gia làm cho thế mạch hở của lớp màng nâng lên giá trị
68
dương hơn trong dung dịch chuyển tiếp theo thời gian tạo màng [21]. Dựa trên tốc
độ biến thiên giá trị OCP trong hình 3.8 có thể khẳng định rằng lớp màng được hình
thành nhanh chóng trong 2 phút đầu tiên, chậm lại dần cho đến 4 phút và ổn định
đến 6 phút. Độ lớn thế mạch hở ít biến thiên ở các phút sau này chứng tỏ đã có sự
cân bằng động giữa phản ứng anot và catot [20]. Kết quả này cho phép giả định
rằng, lớp màng chuyển tiếp lúc này đã bao phủ toàn bộ bề mặt mẫu nền nên thế điện
hóa không thay đổi rõ rệt. Mặc dù vậy, trong khoảng thời gian sau này, quá trình
tăng độ dày lớp màng có thể vẫn diễn ra theo hướng hình thành mạng lưới siloxan.
Phổ tán xạ năng lượng tia X (EDS) là phương pháp được áp dụng rộng rãi
trong phân tích định tính và định lượng sự có mặt cũng như nồng độ các nguyên tố
trong mẫu với độ chính xác cao. Đây là phương pháp cũng rất hữu hiệu trong việc
nghiên cứu thành phần của lớp mỏng vật liệu. Phổ EDS của các mẫu nền khi chưa
được xử lý bề mặt (a), được xử lý trong dung dịch H2ZrF6 (b) và dung dịch
H2ZrF6/silan (c) thể hiện trên hình 3.9.
a)
Hình 3.9a. Phổ EDS của các mẫu nền chưa được xử lý.
Sự xuất hiện của các pic cho thấy sự có mặt của Zr (hình 3.9b) và Zr, Si (hình
3.9c) trong phổ (so với hình 3.9a) chứng tỏ rằng có các pha hợp chất của Zr và Si
trong lớp màng chuyển tiếp và một lần nữa khẳng định cho việc hình thành lớp
màng ZrO2/silan trên bề mặt thép. Sự có mặt của các pic đặc trưng cho nguyên tử
trong mẫu (Fe) cùng với một số pic rất yếu của đồng (Cu), nhôm (Al) có thể đến từ
bề mặt nền do lớp màng tạo thành rất mỏng [44]. Sự có mặt của oxy (O) trong hình
69
3.9 cũng chứng tỏ cho việc các pha oxit hoặc hydroxit của zirconi và mạng lưới
siloxan đã được hình thành.
b)
c)
Hình 3.9bc. Phổ EDS của các mẫu nền được xử lý sau 4 phút
trong dung dịch H2ZrF6 (b) và H2ZrF6/silan (c).
Tỷ lệ các nguyên tố trong lớp màng kép zirconia/silan xác định từ EDS trình
bày trong bảng 3.5.
Bảng 3.5. Tỷ lệ phần trăm các nguyên tử trên bề mặt màng zirconia/silan
xác định từ phổ EDS
Tỷ lệ phần trăm Fe O C Zr Si Al Cu
Theo nguyên tử 77,34 12,65 6,99 2,05 0,76 0,12 0,09
Theo khối lượng 90,09 3,95 1,59 3,85 0,35 0,06 0,11
70
J. Cerezo và cộng sự sử dụng phổ FE-AES và XPS đã chứng tỏ rằng sự gia
tăng nồng Zr và O diễn ra song song với nhau trong quá trình tạo màng và sản phẩm
tạo thành chủ yếu là ZrO2 [20]. Thomas Lostak và cộng sự sử dụng phổ XPS và
ToF-SIMS (Phổ khối ion thứ cấp) cũng đã khẳng định thêm về nhận định này [110].
Trong thực tế, hợp chất của Zr chủ yếu là ZrO2 cũng đã được khẳng định bởi P.
Taheri và cộng sự [109]. Tác giả đã chứng minh rằng sau xử lý nhiệt, lớp màng
chuyển tiếp được hình thành sẽ có xu hướng loại nước do bay hơi. Kết quả là
hydroxit của zirconi sẽ chuyển sang trạng thái hợp chất thuần khiết nhất (purely).
Tỷ lệ nguyên tử Zr và Si có trong thành phần của lớp màng chuyển tiếp có thể
đại diện cho việc hình thành các pha zirconi oxit và silan trong quá trình tạo màng
kép. Kết quả biến thiên tỷ lệ nguyên tử Zr, Si theo thời gian xử lý được thể hiện trên
hình 3.10.
Hình 3.10. Biến thiên tỷ lệ Zr (♦) và Si (●) trong lớp màng tạo thành.
Có thể thấy rằng, trong phút đầu tiên khi mẫu tiếp xúc với dung dịch axit
hexaflorozirconic/silan, tốc độ hình thành màng ZrO2 trên bề mặt mẫu rất nhanh,
trong khi tốc độ hình thành màng silan rất chậm. Hiện tượng này có thể được giải
thích như sau.
Khi mẫu nền được nhúng trong dung dịch H2ZrF6/silan, sẽ xảy ra các phản
ứng điện hóa 3.2 ÷ 3.5 và các phản ứng cộng hóa trị 3.6 ÷ 3.8. Tuy vậy, phản ứng
điện hóa xảy ra mạnh hơn và nhanh chóng để hình thành ZrO2 ở thời điểm ban đầu
sẽ ức chế sự hình thành màng silan trên bề mặt mẫu. Theo thời gian xử lý, lớp màng
71
zirconia dần hoàn thiện và bao phủ bề mặt mẫu nền, phản ứng điện hóa sẽ chậm lại
và phản ứng tạo liên kết cộng hóa trị giữa silan và kim loại trở nên dễ dàng hơn theo
các phản ứng 3.6 ÷ 3.8. Một nguyên nhân nữa giải thích cho việc hình thành pha
ZrO2 trên bề mặt mẫu nền sớm hơn so với màng silan là do quá trình hòa tan Fe vào
dung dịch axit theo phản ứng điện hóa diễn ra mạnh hơn so với phản ứng cộng hóa
trị để hình thành mạng siloxan – kim loại (Si-O-Fe). Khi thời gian xử lý tăng lên từ
1 tới 4 phút, thành phần Zr và Si cũng tăng lên phản ánh lớp màng cũng trở nên
hoàn thiện dần như đã phản ánh từ việc biến đổi thế mạch hở. Sau 4 phút tỷ lệ Zr
gần như không tăng trong khi đó tỷ lệ Si vẫn tăng cho đến 6 phút. Điều này chứng
tỏ khoảng thời gian này lớp màng ZrO2 không được hình thành thêm mà chỉ có
màng silan tiếp tục được tạo thành trên nền của màng ZrO2. Kết quả này tương tự
như khẳng định của M.F. Montemor và cộng sự khi tiền xử lý bề mặt thép bằng hai
dung dịch (2 pha) là Zr(NO3)4 và silan hữu cơ trên bề mặt thép mạ [40]. Quá trình
tạo màng từ 1 phút đến 4 phút, cả Zr và Si đều tăng cũng chứng tỏ hai lớp màng
được hình thành song song với nhau. Điều này có nghĩa là silan vừa cạnh tranh với
Zr trong việc hình thành liên kết với bề mặt thép vừa tạo liên kết trên chính lớp
màng ZrO2 mới được hình thành.
Với những kết quả trên đây, có thể nhận định rằng, lớp màng kép tạo thành
có cấu trúc của lớp kép với màng zirconi oxit chiếm ưu thế ở phía bên trong, màng
silan chiếm ưu thế ở lớp bên ngoài và ở giữa là sự đan xen nhau giữa hai lớp này.
Kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu của G. Kong và cộng sự khi chế tạo lớp
màng kép moliden/silan trên thép mạ trong một dung dịch và hai dung dịch [112].
3.2.2. Hình thái bề mặt lớp màng kép zirconia/silan.
Kính hiển vi điện tử quét (FE-SEM) là phương pháp được sử dụng để nghiên
cứu cấu trúc lớp mỏng. Từ ảnh FE-SEM của bề mặt mẫu cho phép phân tích được:
+ Cấu trúc lớp mỏng vật liệu: Hình dạng đặc thù (hạt, thanh, vô định
hình…), cách sắp xếp, phân bố, kích thước;
+ Đặc tính bề mặt: mức độ gồ ghề, độ đồng đều.
Ảnh FE-SEM của mẫu nền chưa được xử lý bề mặt (a) và được xử lý bề mặt
trong dung dịch H2ZrF6 (b) và H2ZrF6/silan (c) thể hiện trong hình 3.11.
72
a)
500 nm
b)
500 nm
c)
500 nm
Hình 3.11. Ảnh FE-SEM của mẫu nền khi chưa được xử lý bề mặt (a)
và khi xử lý bề mặt trong dung dịch H2ZrF6 (b) và H2ZrF6 /silane (c).
73
Từ hình 3.11a có thể thấy rằng, bề mặt mẫu nền với cấu trúc mấp mô xen kẽ
với hình dạng bất kỳ. Điều này có thể đến từ quá trình xử lý cơ học bề mặt. Từ hình
3.11b có thể quan sát thấy sự sắp xếp hình thái có cấu trúc hạt cỡ trên bề mặt lớp
màng đơn zirconi oxit. Điều này cho thấy rằng sau khi xử lý bề mặt, một lớp mỏng
và nguyên khối của các hợp chất zirconi được hình thành trên bề mặt thép [22].
Nhiều tác giả đã chứng minh rằng hầu hết hợp chất của zirconi ở dạng ZrO2
[18,20,109,110]. Như đã trình bày, lớp màng này được hình thành ban đầu ở các
mầm tinh thể tại những vị trí tăng pH cục bộ sau đó lan phủ ra toàn bộ bề mặt. Hình
thái bề mặt như hình 3.11b có thể chứng tỏ lớp màng đã được kết tủa hoàn toàn. Sự
hình thành của lớp màng này trên bề mặt thép có thể ảnh hưởng đáng kể đến các
đặc tính năng lượng tự do trên bề mặt mẫu do việc hình thành các hợp chất của
zirconi trên chúng [22]. Từ hình 3.11b cũng cho thấy, có các cấu trúc hạt giống hình
cầu hoặc elip hoặc các nhóm hạt phân bố khá đồng đều trên toàn bộ bề mặt. Kích
thước của các hạt này dao động trong vài chục nano mét và các nhóm hạt đó phân
bố ngẫu nhiên không hình thù rõ nét với kích thước khoảng vài trăm nano mét. Đặc
trưng hình thái bề mặt trong hình 3.11b cũng tương tự như mô tả trong các công bố
của Y. Zhai, H. E. Mohammadloo, Saikat Adhidari và các cộng sự [18,44,45].
Từ hình 3.11c cho thấy, cấu trúc bề mặt mẫu nền xử lý trong dung dịch
H2ZrF6/silan có đặc điểm mịn hơn so với bề mặt mẫu nền xử lý trong dung dịch
H2ZrF6. Tức là lớp màng kép tạo thành mịn hơn lớp màng đơn. Kết quả này có thể
được giải thích trên cơ sở của việc tạo màng kép. Như trên đã thảo luận, ưu thế ban
đầu là sự hình thành lớp màng ZrO2 tiếp sau là quá trình xảy ra song song vừa tạo
màng ZrO2 vừa tạo mạng siloxan trên bề mặt mẫu. Quá trình này một mặt Si và Zr
sẽ cạnh tranh với nhau trong việc hình thành màng trên bề mặt mẫu, mặt khác silan
sẽ bao phủ và nằm xen kẽ vào những khoảng trống của lớp màng ZrO2. M.F.
Montemor và cộng sự chế tạo lớp màng zirconia trên thép mạ rồi sau đó phủ silan
lên trên đã kết luận rằng, trong lớp màng hai lớp (zirconia + silan), silic phân bố tập
trung xung quang các vị trí giàu ZrO2 [40]. W. Trabelsi và cộng sự nghiên cứu tạo
lớp màng silan bổ sung muối nitrat của zirconi trên bề mặt thép mạ cũng đã chứng
tỏ rằng, sự có mặt của phụ gia làm cho hình thái bề mặt của lớp màng tạo thành trở
nên đồng đều hơn và đạt cấu trúc nano [42]. Như vậy, sự kết hợp giữa zirconia và
74
silan đã dẫn tới lớp màng kép mịn hơn, kín khít hơn đồng thời, hình thái bề mặt của
lớp màng kép vẫn giữ được cấu trúc hạt của lớp màng đơn.
3.2.3. Liên kết trong lớp màng zirconia/silan
Phổ hồng ngoại biến đổi Fourier (FT-IR) cho phép xác định các liên kết đặc
trưng trong hợp chất. Dựa trên nguyên lý giao thoa cộng hưởng, mỗi liên kết trong
hợp chất sẽ được đặc trưng bởi các dao động riêng nên sẽ ứng với các số sóng dao
động khác nhau với những cường độ khác nhau tương ứng. Phổ hồng ngoại của
màng ZrO2/silan hình thành trên mẫu nền được xử lý trong dung dịch axit
hexaflorozirconic/silan được trình bày trên hình 3.12. Phổ hồng ngoại có rất nhiều
các pic ở những số sóng khác nhau cho thấy độ phức tạp của các liên kết trong lớp
màng. Sự có mặt của các pic ở số sóng trong khoảng 500 cm-1 và 600 cm-1 chứng tỏ
có liên kết của nhóm O-Zr-O (dao động biến dạng của pha tinh thể ZrO2) trong lớp
màng [113–115]. Theo báo cáo, các liên kết Si-O-Zr thường ở số sóng 964 cm-1
[114]. Tuy nhiên do chịu ảnh hưởng bởi tính dương điện cao của ZrO2 nên liên kết
Si-O-Zr có thể được nâng lên tại số sóng 1050 cm-1 như một minh chứng cho sự
)
%
hình thành mạng lưới Si-O-Zr trong lớp màng [116].
O-Zr-O alkyl
( a u q n ề y u r t ộ Đ
Si-O-Zr hoặc
Si-O-Si N-H
alkyl
Số sóng (cm-1)
Hình 3.12. Phổ hồng ngoại FT-IR của mẫu.
75
Bên cạnh đó, sự có mặt của các pic trong khoảng 1000-1130 cm-1 được tạo ra
bởi liên kết Si-O-Si rung kéo dài bất đối xứng chứng tỏ sự có mặt của mạng lưới Si
trong lớp màng và sự phân tách của pic này cho thấy cấu trúc nhiều lớp trong màng
[90,114,117]. Với pic rõ nét và kéo dài trong dải này cũng xác nhận vai trò cầu nối
của oxy giữa Zr, Si với nhau [116]. Ngoài ra, kết quả này cũng phản ánh việc mạng
lưới siloxan đã được hình thành từ quá trình chức năng hóa các nhóm silanol [90].
Vị trí của pic ở xung quanh số sóng 1400 cm-1 có thể đại diện cho dao động biến
dạng của nhóm –CH (-CH2, CH3) [118]. Phổ hồng ngoại có các pic ở khoảng 1600
cm-1 là đặc trưng cho dao động hóa trị của nhóm N-H trong amin có trong silan
[114]. Pic ở số sóng xung quanh 2900 cm-1 là đặc trưng cho dao động hóa trị của
nhóm alkyl ( –CH, –CH2 và –CH3) đối xứng và bất đối xứng trong silan A-1100
[114,118,119]. Như trên đã thảo luận pha zirconi oxit được hình thành với ưu thế
hơn ở giai đoạn ban đầu so với silan. Với những liên kết được hình thành, một lần
nữa có thể khẳng định rằng, trên bề mặt của các tinh thể zirconi oxit được hình
thành, hydroxyl của chúng (Zr-OH) đã liên kết với nhóm alkoxy của silan. Liên kết
giữa Si với Zr thông qua cầu nối O trong lớp màng kép cũng đồng thuận với nghiên
cứu của M. F. Montemer và cộng sự khi nghiên cứu tạo lớp phủ hai pha zirconia và
silan trên thép mạ theo phương pháp hai dung dịch [40]. Tác giả đã khẳng định
rằng, lớp màng silan có khuynh hướng hình thành xung quanh các vị trí giàu zirconi
oxit trên bề mặt. Nói cách khác, lớp màng silan được hình thành ngay chính trên các
mầm tinh thể zirconi oxit mới được tạo thành. Từ những liên kết được chỉ ra trong
kết quả phân tích phổ hồng ngoại một lần nữa đã khẳng định sự có mặt của zirconi
oxit và silan trong màng tạo thành [113,114,118,120–122].
Để khẳng định thêm việc hình thành màng zirconia trên bề mặt thép khi được
xử lý trong dung dịch axit hexaflorozirconic/silan, giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu
được nghiên cứu (hình 3.13). Từ giản đồ ta thấy, một pic chính ở góc 2 = 44,38 và
một pic phụ ở góc 2 = 64,70 trên cả mẫu nền và mẫu được xử lý bề mặt bằng
ZrO2/silan đặc trưng cho Fe trong thép [123,124]. Pic ở góc 2 = 35,26 trong hình
3.13b đặc trưng cho liên kết của ZrO2 trong lớp màng [105]. Chỉ có một pic của
ZrO2 đạt được có lẽ do lớp màng quá mỏng, ưu thế của phép đo vẫn thuộc về pha Fe
hoặc do mẫu được xử lý nhiệt chưa cao [125]. Cũng từ giản đồ, cấu trúc mạng
Bravais tứ giác đã đạt được tương ứng với mặt phẳng (200) [126].
76
Fe
Fe
Fe Fe ZrO2
Hình 3.13. Giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu (a: mẫu nền, b: mẫu ZrO2/silan).
Từ phương trình Scherrer, có thể xác định được gần đúng kích thước hạt trung
bình của ZrO2 đạt được là 81,27 nm. Kết quả này khá tương đồng với thông số hạt
đạt được tử ảnh FE-SEM.
3.2.4. Ảnh hưởng của nồng độ silan đến hình thái, thành phần và độ bền ăn mòn
lớp màng kép zirconia/silan
3.2.4.1. Ảnh hưởng của nồng độ silan đến hình thái bề mặt lớp màng kép
Kính hiển vi điện tử quét tiếp tục được sử dụng để nghiên cứu sự thay đổi đặc
trưng hình thái bề mặt lớp màng kép tạo thành khi thay đổi nồng độ silan trong
dung dịch kết hợp axit hexaflorozirconic/silan. Ảnh FE-SEM của các mẫu nền được
xử lý bề mặt trong dung dịch H2ZrF6 không chứa silan và chứa silan ở các nồng độ
khác nhau (về thể tích) được trình bày ở hình 3.14a-d. Ảnh FE-SEM của mẫu nền
được xử lý bề mặt bằng phương pháp hai dung dịch được thể hình hình 3.14e. Ảnh
FE-SEM của mẫu nền được xử lý bề mặt trong dung dịch silan 0,025 % được thể
hình hình 3.14f. Từ hình 3.14 cho thấy, sự có mặt của silan đã cải thiện đáng kể độ
mịn bề mặt (hình 3.14b-d) so với trường hợp không có silan (hình 3.14a). Khi nồng
độ silan tăng lên bề mặt cũng được hoàn thiện và kín khít hơn (hình 3.14c,d).
77
a b
c d
e f
Hình 3.14. Ảnh FE-SEM bề mặt mẫu nền được xử lý theo nồng độ silan (v/v)
khác nhau: 0 % (a), 0,0125 % (b), 0,025 % (c), 0,05 % (d),
2 dung dịch (e) và chỉ silan (f)
M.F. Montemor và cộng sự [40] kết luận trong màng hai lớp (ZrO2 + Si), silic
phân bố tập trung xung quanh các vị trí giàu ZrO2. Điều này có thể giải thích cho sự
xuất hiện vết nứt khi nồng độ silan chưa đủ để tạo lượng tương quan giữa Si và Zr
(hình 3.14b). Độ mịn và độ đồng đều bề mặt trong trình 3.14c,d cho thấy trong
trường hợp này, tương quan giữa Zr và Si là phù hợp trong việc tạo màng. Từ hình
3.14b-e cũng thấy rằng, có sự tương đồng về bề mặt theo hai cách tạo màng kép
78
khác nhau (một dung dịch và hai dung dịch). Sự tương đồng đặc trưng hình thái bề
mặt này đưa ra giả thiết có thể tạo ra lớp màng kép ZrO2/silan trong cùng một dung
dịch hay trong hai dung dịch. Kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu của G.
Kong và cộng sự khi chế tạo lớp màng kép moliden/silan trên thép mạ trong một
dung dịch và hai dung dịch [112]. Hơn thế nữa, sự kết hợp này cũng cải thiện độ rỗ
xốp và nứt tế vi như một số tác giả đã công bố về sự kết hợp giữa zirconia và silan
khi xử lý bề mặt thép mạ và nhôm [41]–[43]. Sự kết hợp này không làm thay đổi
kích thước hạt mà vẫn duy trì ở khoảng vài chục nano mét.
3.2.4.2. Ảnh hưởng của nồng độ silan đến thành phần lớp màng kép
Tỷ lệ tương đối giữa nguyên tử Si và Zr xác định trong lớp màng kép có thể
đại diện cho tương quan giữa hai lớp màng đơn. Tỷ lệ nguyên tử Si/Zr được thể
hiện trên hình 3.15.
Hình 3.15. Tỷ lệ Si/Zr theo nồng độ silan.
Hình 3.15 cho thấy tỷ lệ Si/Zr ứng với màng kép tạo bằng 2 dung dịch (ở nồng
độ 0,025%) và 1 dung dịch ở nồng độ silane = 0,0125 % có giá trị tương đương
nhau. Tỷ lệ Si/Zr trong trường hợp 2 dung dịch (silan: 0,025 %) xấp xỉ bằng 1 dung
dịch (silan: 0,0125 %) và thấp hơn so với 1 dung dịch (silan: 0,025 %) chứng tỏ, sự
hình thành lớp màng kép trên bề mặt thép diễn ra đồng thời trong quá trình tạo
màng. Tỷ lệ này tăng lên khi nồng độ silan trong dung dịch tăng cho thấy xu thế
thành phần các nguyên tố của màng tạo thành, đồng thời phản ánh sự cạnh tranh
trực tiếp trong việc tạo mối liên kết giữa Zr, Si với bề mặt thép.
79
3.2.4.3. Ảnh hưởng của nồng độ silan đến độ bền ăn mòn lớp màng kép
Phổ tổng trở của các màng kép tạo thành khi bề mặt mẫu nền được xử lý trong
dung dịch axit hexaflorozirconic/silan ở các nồng độ silan (v/v) khác nhau được
trình bày ở hình 3.16.
Hình 3.16. Phổ tổng trở Nyquist của lớp màng kép theo nồng độ silan (v/v)
trong dung dịch NaCl 3,5 %.
Có thể thấy rằng, các đường cong của phổ tổng trở Nyquist của các mẫu nền
được xử lý trong dung dịch axit hexaflorozirconic/silan ở những nồng độ khác nhau
đều có bán kính cong cao hơn so với mẫu nền được xử lý trong dung dịch axit
hexaflorozirconic (không có silan). Sự khác nhau về phổ tổng trở khi thay đổi nồng
độ silan cũng cho thấy mức độ tham gia của silan vào trong quá trình tạo màng. Số
liệu về các thông số điện hóa từ phổ tổng trở của các lớp màng được tạo thành khi
thay đổi nồng độ silan thể hiện trong bảng 3.6. Số liệu từ bảng 3.6 khẳng định, dung
dịch axit hexafluorozirconic được bổ sung thêm silan ở các nồng độ khác nhau đều
dẫn đến tăng cả điện trở phân cực và điện dung của lớp màng kép, trong đó điện
dung tăng lên từ 1,14 đến 1,51 lần còn điện trở tăng từ 2 đến 3 lần. Kết quả này
chứng tỏ sự có mặt của silan trong dung dịch axit hexaflorozirconic tạo thành lớp
màng bảo vệ tốt hơn. Bên cạnh đó, mẫu được xử lý bằng phương pháp hai dung
80
dịch cũng cho lớp màng có độ bền ăn mòn tốt hơn khi chỉ có zirconia. Kết quả này
phù hợp với nghiên cứu của M. F. Montemor và cộng sự khi nghiên cứu tạo lớp
màng kép (zirconi + silan hữu cơ) trên bề mặt thép mạ [40].
Bảng 3.6. Thông số điện hóa lớp màng kép theo nồng độ silan.
Nồng độ silan (v/v) Hai Thông số dung dịch 0 (%) 0,0125 (%) 0,025 (%) 0,05 (%)
3198,74 5279,68 9116,37 7830,15 7152,84 Rp (Ω.cm2) ± 46,38 ± 111,40 ± 279,57 ± 219,24 ± 305,43
C (µF.cm-2) 280 422 327 413 321
Kết quả này cũng tương tự với nghiên cứu của G. Kong và cộng sự khi tạo lớp
màng kép moliden/silan theo cả phương pháp một dung dịch và hai dung dịch. Các
tác giả đã khẳng định rằng, lớp màng kép molipden/silan có độ bền cao hơn đến
20% so với từng lớp thành phần.
Độ bền ăn mòn được cải thiện khi có silan (trong cả trường hợp một dung dịch
và hai dung dịch) là do sự kết hợp giữa zirconia và silan làm cho màng khít hơn và
mịn hơn [41–43]. Ở nồng độ thấp (0,0125 %), vai trò kết hợp của silan đã phát huy
tác dụng nhưng chưa cao do chưa tạo được lớp màng kép hoàn chỉnh, còn vết nứt bề
mặt (hình 3.12b). Đến nồng độ 0,025 %, lớp màng tạo thành cho kết quả bền ăn
mòn cao nhất so với các nồng độ còn lại. Kết quả này cho thấy mức độ phù hợp
trong việc lựa chọn nồng độ tương đối giữa silan và zirconi trong dung dịch, đồng
thời lớp màng lúc này có độ đồng nhất, kín khít như đã thấy ở kết quả chụp FE-
SEM (hình 3.12c). Sự có mặt của silan trong dung dịch quá nhiều (0,05 %) dẫn đến
sự cạnh tranh trong việc hình thành màng nên có lẽ hạn chế sự tạo thành ZrO2 trên
bề mặt nền. M.F. Montemor và cộng sự khẳng định khi silan phân bố không đồng
nhất xung quanh zirconi oxit sẽ dẫn đến độ bền ăn mòn giảm và loại silan dẫn tới tỷ
lệ Si/Zr cao sẽ có độ bền ăn mòn giảm [40]. Ngoài ra, với nồng độ silan cao, trong
dung dịch dễ tạo ra các hợp chất thấp phân tử (oligomer) trong màng hình thành
[78]. Các hợp chất này thường hoạt hóa hơn, tỷ trọng thấp hơn nên dẫn tới giảm
tổng trở màng khi nồng độ silan quá cao.
81
3.2.5. Ảnh hưởng của thời gian xử lý bề mặt đến hình thái, thành phần và độ bền
ăn mòn lớp màng kép zirconia/silan
3.2.5.1. Ảnh hưởng của thời gian xử lý đến hình thái bề mặt lớp màng kép
Ảnh FE-SEM của các mẫu nền được xử lý bề mặt trong dung dịch
H2ZrF6/silan theo thời gian khác nhau được trình bày ở hình 3.17.
a b
c d
e f
Hình 3.17. Ảnh FE-SEM bề mặt thép xử lý theo thời gian: 2 phút (a), 3 phút (b),
4 phút (c), 5 phút (d), 6 phút (e), chỉ silane (f).
82
Từ ảnh FE-SEM, có thể thấy rằng có các cấu trúc bề mặt khác nhau đạt được.
Bề mặt mẫu đồng đều, mịn và kín khít đạt được với thời gian xử lý trong 4 phút như
đã thảo luận ở mục 3.2.2, trên hình 3.11. Trong khoảng thời gian từ 2 đến 3 phút,
đây là quá trình lớp màng kép đang được hình thành như đã thảo luận trong mục
3.2.1 (hình 3.17 ab). Sản phẩm của màng chủ yếu là sự kết tủa của zirconi oxit trên
bề mặt mẫu, nên cấu trúc của màng vẫn còn nhiều rỗ xốp và mang đặc trưng hạt của
ZrO2. Sau 4 phút lớp màng ZrO2/silan hầu như đã hoàn thiện, tuy vậy, màng silan
vẫn có thể được hình thành thêm. Điều này dẫn tới lớp màng có đặc trưng của silan
nhiều hơn (hình 3.17 de). Từ hình 3.17 cũng có thể nhận thấy rằng, sau 5 phút xử
lý, bề mặt lớp màng tạo thành cũng xuất hiện một số vết nứt tế vi nhất định. Như đã
được khẳng định, silan có xu hướng tập trung hình thành màng tại những vị trí giàu
ZrO2 nhất [40]. Kết quả là lớp màng kép càng dày lên thì dẫn tới độ dày cũng không
đồng đều hơn. Sự không đồng đều về độ dày của màng cùng với quá trình loại nước
sau khi mẫu được xử lý nhiệt là nguyên nhân chính xuất hiện những vết nứt tế vi
trên [45,127].
3.2.5.2. Ảnh hưởng của thời gian xử lý đền thành phần lớp màng kép
Hình 3.18 thể hiện tỷ lệ nguyên tử Si/Zr theo thời gian tạo màng kép.
Hình 3.18. Tỷ lệ nguyên tử Si/Zr theo thời gian tạo màng.
Hình 3.18 cho thấy tỷ lệ Si/Zr trong lớp màng kép tạo thành tăng dần khi thời
gian xử lý tăng dần. Ở thời điểm 2 phút, tỷ lệ này rất thấp (khoảng 23/100), tăng
nhanh lên theo thời gian và đạt được khoảng 36/100 và 38/100 tương ứng với 3 và 4
83
phút. Như trên đã thảo luận, trong giai đoạn ban đầu (phút đầu tiên) lớp màng được
hình thành ưu thế chủ yếu là ZrO2. Vì vậy mà tỷ lệ Si/Zr vẫn thấp khi xử lý được 2
phút. Tỷ lệ này tăng lên theo thời gian phản ánh tốc độ hình thành màng silan đang
diễn ra nhanh hơn so với trước đó và ngược lại, tốc độ hình thành màng ZrO2 chậm
lại so với trước đó. Tuy vậy, tỷ lệ của hai nguyên tử này vẫn tăng lên theo thời gian
xử lý từ 2 đến 4 phút, đồng thời tỷ lệ của chúng tăng không đáng kể một lần nữa
khẳng định sự tạo thành lớp màng kép và sự cạnh tranh lẫn nhau trong quá trình
hình thành màng. Sau 5 phút, có thể thấy rằng do tỷ lệ Zr hầu như không thay đổi,
trong khi lớp màng silan vẫn được hình thành cho nên tỷ lệ Si/Zr vẫn tăng như hình
3.18. Kết quả này diễn giải thêm về việc màng silan được hình thành sau màng
zirconi oxit.
3.2.5.2. Ảnh hưởng của thời gian xử lý đến độ bền ăn mòn của lớp màng kép
Phổ tổng trở Nyquist của mẫu nền và các các mẫu được xử lý trong dung dịch
axit hexaflorozirconic/silan sau những khoảng thời gian khác nhau được thể hiện
trên hình 3.19.
Hình 3.19. Phổ tổng trở Nyquist của mẫu nền được xử lý trong dung dịch
axit hexaflorozirconic/silane sau các khoảng thời gian khác nhau.
Kết quả xử lý số liệu từ phổ tổng trở được trình bày ở bảng 3.7. Kết quả từ tử
phổ tổng trở Nyquist hình 3.19 và bảng 3.10 cho thấy rằng độ lớn của cung tròn
84
tương ứng với điện trở phân cực của lớp màng tạo thành tăng dần khi thời gian tăng
từ 2 đến 4 phút. Kết quả này có được là do lớp màng kép dần được hình thành trên
bề mặt mẫu. Sau 4 phút, có sự khác biệt không nhiều về đặc trưng tổng trở của lớp
màng kép. Sự tương đồng này có thể là do lúc này lớp màng đã được hoàn thiện và
không thay đổi nhiều theo thời gian xử lý mẫu. Tuy vậy, vẫn có sự suy giảm ở mức
không nhiều với các mẫu xử lý trong 5, 6 phút so với mẫu xử lý trong 4 phút.
Bảng 3.7. Thông số điện hóa của mẫu nền được xử lý trong dung dịch
axit hexaflorozirconic/silane sau các khoảng thời gian khác nhau.
Thời gian xử lý trong dung dịch H2ZrF6/silan Thông số 2 phút 3 phút 4 phút 5 phút 6 phút
3198,74 6851,81 9116,37 9080,63 9078,74 Rp (Ω.cm2) ± 46,38 ± 144,57 ± 279,57 ± 277,43 ± 286,89
C (µF.cm-2) 312 374 327 413 486
Từ ảnh FE-SEM đã cho thấy có những vết nứt tế vi trên bề mặt mẫu khi thời
gian xử lý quá dài. Chính các vết nứt tế vi này có thể gây ra những tác động tiêu cực
ảnh hưởng đến độ bền ăn mòn của màng. Khi ngâm mẫu trong dung dịch NaCl 3,5
%, các vết nứt này là nơi cho ion, nước muối…xâm nhập tạo ra đường dẫn điện phụ
trong lớp màng. Đây là nguyên nhân khiến tổng trở (điện trở phân cực) của màng
giảm đi như đã nêu. Từ bảng cũng cho thấy, cùng với việc tăng điện trở phân cực,
giá trị điện dung của màng cũng tăng lên từ 2 đến 3 phút. Giá trị điện dung tăng lên
trong khoảng thời gian này có thể là do silan hữu cơ đã tham gia vào quá trình hình
thành màng dẫn đến làm tăng tính điện dung của thành phần CPE trong sơ đồ mạch
điện tương đương. Độ lớn của điện dung tăng cao hơn khi thời gian xử lý sau 5
phút, một lần nữa cho thấy độ không đồng nhất bề mặt (gồ ghề, nứt...) như đã đạt
được từ ảnh FE-SEM.
Nhận xét và kết luận nội dung 3.2
- Lớp màng kép ZrO2/silan được tạo thành trên bề mặt thép bởi phản ứng điện
hóa và phản ứng cộng hóa trị giữa dung dịch và mẫu nền. Trong giai đoạn đầu, pha
ZrO2 (màng zirconi oxit) được hình thành nhanh chóng và chiếm ưu thế, sau đó quá
trình tạo màng silan chiếm ưu thế. Cả hai lớp màng đều có xu hướng tạo liên kết với
bề mặt thép đồng thời kết hợp với nhau trong quá trình tạo màng. Kết quả này khiến
85
cho lớp màng trở nên kín khít hơn. Lớp màng kép tạo thành có cấu trúc của lớp kép
với zirconi oxit chiếm ưu thế ở phía bên trong, màng silan chiếm ưu thế ở lớp bên
ngoài và ở giữa là sự đan xen nhau giữa hai lớp này.
- Thành phần của lớp màng kép là sự kết hợp giữa Zr và Si đến từ dung dịch
xử lý và kim loại nền bị hòa tan vào trong việc hình thành màng. Liên kết trong
màng chủ yếu dựa trên oxit kim loại, liên kết kim loại - siloxan và mạng siloxan
cùng với sự tham gia của nhóm amino.
- Lớp màng ZrO2 tạo thành có cấu trúc hạt giống cầu hoặc elip, phân bố đều
trên toàn bộ bề mặt mẫu. Các hạt có kích thước cỡ vài chục nano mét và các nhóm
hạt không có hình thù nhất định với kích thước vài trăm nano mét. Hình thái bề mặt
của lớp màng dựa trên cấu trúc hạt nên có sự mấp mô, phân bố ngẫu nhiên trên toàn
bộ bề mặt. Lớp màng kép ZrO2/silan có cấu trúc tương tự như màng ZrO2 nhưng
đồng đều, mịn và kín khít hơn.
- Độ bền ăn mòn của lớp màng phụ thuộc nhiều vào thời gian tạo màng kép và
nồng độ silan trong dung dịch. Kết quả đạt được tốt nhất với mẫu được xử lý trong
dung dịch axit hexaflorozirconic/silan có nồng độ Zr4+= 50 ppm, nồng độ silan =
0,025 % (về thể tích) trong khoảng thởi gian 4 phút.
3.3. Ảnh hưởng của lớp xử lý bề mặt đến khả năng bảo vệ của hệ sơn tĩnh điện
3.3.1. Độ bám dính của màng sơn
3.3.1.1. Độ bám dính khô
Kết quả độ bám dính của màng sơn theo nồng độ silan và thời gian xử lý khác
nhau được trình bày trong bảng 3.18.
Bảng 3.8. Kết quả xác định độ bám dính của sơn tĩnh điện với bề mặt
được xử lý ở những chế độ khác nhau.
Thông số xử lý cuả mẫu nền Độ bám dính (MPa)
Mẫu nền 3,04 ± 0,23
4,20 ± 0,50 H2ZrF6 trong 4 phút
4,85 ± 0,63 H2ZrF6/silan 0,0125 % trong 4 phút
6,04 ± 0,59 H2ZrF6/silan 0,025 % trong 4 phút
86
Thông số xử lý cuả mẫu nền Độ bám dính (MPa)
5,68 ± 0,51 H2ZrF6/silan 0,05 % trong 4 phút
Hai dung dịch 5,83 ± 0,47
3,66 ± 0,34 H2ZrF6/silan 0,025 % trong 2 phút
4,72 ± 0,48 H2ZrF6/silan 0,025 % trong 3 phút
5,92 ± 0,53 H2ZrF6/silan 0,025 % trong 5 phút
5,85 ± 0,49 H2ZrF6/silan 0,025 % trong 6 phút
Silan APS 0,025 % trong 4 phút 4,35 ± 0,23
Phốt phát kẽm 5,87 ± 0,57
Số liệu từ bảng 3.8 chứng tỏ tất cả các mẫu được xử lý trong dung dịch axit
hexaflorozirconic và silan theo các cách khác nhau đều tăng cường độ bám dính
giữa bề mặt nền và lớp sơn tĩnh điện. Trường hợp mẫu chỉ được xử lý trong dung
dịch axit hexaflorozirconic, độ bám dính được cải thiện hơn 1 Mpa (từ 3,04 lên
4,20). Kết quả này chứng tỏ lớp màng zirconi oxit đã kết tủa và liên kết chặt chẽ với
bề mặt kim loại nền. Như đã được thảo luận trước đó, lớp màng tạo thành này chứa
các oxit của Zr (mang bản chất của oxit kim loại) sẽ tạo lực lực liên kết tĩnh điện
mạnh giữa các nhóm phân cực trong sơn (polar groups) và bề mặt nền [19]. Điều
này giải thích tại sao sự có mặt của lớp phủ chuyển tiếp tại tăng độ bám dính của
sơn trên nền thép. Bên cạnh đó, Taheri và cộng sự đã chứng tỏ rằng, sự hình thành
lớp màng zirconi oxit trên bề mặt kim loại làm tăng mật độ oxy trên bề mặt dẫn tới
tăng thuộc tính hoạt hóa (surface donor properties) của bề mặt hơn [109]. Hơn thế
nữa, lớp phủ chuyển tiếp này, sau khi được xử lý nhiệt dẫn tới bay hơi nước và
zirconi oxit trở thành trạng thái thuần khiết nhất. Kết quả là thuộc tính trao đổi
electron (electron donor properties) bề mặt tăng lên cũng làm tăng lực bám dính
[109]. Ngoài ra, như chúng ta đã biết rằng thuộc tính bám dính của một vật chất (ví
dụ như sơn) trên một bề mặt vật chất khác (ví dụ kim loại), phụ thuộc vào sức căng
bề mặt của chúng hay phụ thuộc vào tính ưa nước (hydrophilicity) hay thấm ẩm
(wettability) bề mặt. Đặc tính này được biểu diễn thông qua góc tiếp xúc. A.
Ghanbari và cộng sự đã chứng minh rằng, góc tiếp xúc của 3 chất lỏng (nước,
mormamide và diiodomethane) trên màng zirconi oxit giảm từ 1.5 đến 2 lần so với
87
trên bề mặt thép nhẹ [22]. Độ lớn góc tiếp xúc còn giảm thêm khi bề mặt zirconi
oxit được xử lý nhiệt. Từ đây, tác giả đã kết luận rằng, thuộc tính hoạt động bề mặt
tăng (surface donor properties) dẫn tới tăng độ bám dính giữa sơn hữu cơ và bề mặt
thép nền. Điều này một lần nữa giải thích tại sao lực bám dính của hệ sơn được xử
lý trong dung dịch axit hexaflorozirconic lại cao hơn so với mẫu nền.
Kết quả độ bám dính của mẫu nền được xử lý chỉ trong dung dịch silan cũng
có độ lớn tương tự như bằng zirconi oxit. Độ bám dính tăng lên hơn 1 Mpa so với
mẫu nền cũng chứng tỏ nhờ có silan, liên kết giữa sơn và mẫu nền đã tăng lên. Kết
quả này có thể được giải thích nhờ tính chất tác nhân kép của silan. Một mặt silan
tạo mạng lưới Me-O-Si và Si-O-Si (mạng siloxan) liên kết chặt chẽ với kim loại
nền, mặt khác chính mạng lưới này sẽ liên kết chặt với các resin có trong sơn [77].
Từ bảng 3.8 cũng cho thấy rằng hầu hết các mẫu nền được xử lý trong dung
dịch axit hexaflorozirconic/silan đều cải thiện độ bám dính hơn so với trường hợp
chỉ xử lý trong dung dịch axit hexaflorozirconic. Chỉ có mẫu nền xử lý trong dung
dịch H2ZrF6/silan 0,025 % (v/v) trong 2 phút có độ lớn lực bám dính nhỏ hơn. Kết
quả này là do thời gian xử lý ngắn, lớp màng kép chưa được hoàn thiện, tính chất
của màng chưa phát huy tốt vai trò liên kết của mình. Độ bám dính của hệ sơn trên
bề mặt mẫu nền được xử lý trong dung dịch axit hexaflorozirconic/silan cao hơn so
với trường hợp chỉ xử lý trong dung dịch axit hexaflorozirconic có thể được giải
thích dựa trên đặc tính của lớp màng kép và tác nhân kép của của silan. Như đã thảo
luận ở trên về quá trình hình thành màng chuyển tiếp zirconi oxit/silan, ban đầu là
sự hình thành zirconi oxit lên bề mặt thép chiếm ưu thế và sau cùng là sự bịt kín của
silan. Nhờ đặc điểm này mà lớp màng kép đã phát huy tốt vai trò bám dính của cả 2
lớp màng đơn. Vai trò phát huy độ bám dính của lớp màng kép còn được giải thích
như là lớp màng zirconi oxit (zirconia) được silan hóa. Điều này đã được C. Y. K.
Lung và cộng sự giải thích trong một công trình gần đây [128]. Tác giả khẳng định
rằng, bề mặt zirconia được silan hóa bề mặt tăng độ bám dính đến hơn 2 lần (từ 4
Mpa đến 9,8 hoặc 10,3 hoặc 11,8 tùy thuộc vào loại silan sử dụng).
Trong số liệu từ bảng 3.8 cũng cho thấy, khi nồng độ silan quá cao (0,05% về
thể tích) hoặc thời gian xử lý quá lâu (hơn 5 phút) dẫn tới độ bám dính có suy giảm.
Mức độ suy giảm này tuy không nhiều nhưng có thể là do xuất phát từ chính điều
88
kiện thuận lợi nhất cho quá trình tạo thành màng kép. A. K. Ghosh và cộng sự
nghiên cứu tối ưu hóa nồng độ của silan đến độ bền bám dính đã khẳng định rằng
với nồng độ silan cao dễ dẫn đến việc tạo thành các loại oligomer (hợp chất thấp
phân tử) trong dung dịch [78]. Sự có mặt của các hợp chất thấp phân tử này nằm lẫn
trong màng có thể tạo thành các đỉnh trên bề mặt. Chính các đỉnh này không những
làm cho lớp màng dày hơn mà còn tạo ra sự không đồng đều, giòn và giảm lực
tương tác. Khi thời gian xử lý quá lâu, sự tích tụ nhiều hơn nhóm silanol trong lớp
màng có thể cản trở sự phân bố hiệu quả của lớp màng trên bề mặt đồng thời khiến
lớp màng trở nên dày hơn và giòn hơn cũng làm suy giảm lực liên kết [78]. Sự kết
hợp này ở điều kiện thích hợp (nồng độ silan và thời gian xử lý) còn phát huy vai
trò tạo sự bám dính tương tự như phốt phát kẽm.
Từ kết quả khảo sát độ bám dính tổng hợp trên, trong các nghiên cứu tiếp theo,
NCS lựa chọn mẫu được xử lý trong dung dịch axit hexaflorozirconic với 0,025%
silan về thể tích trong thời gian 4 phút để khảo sát.
3.3.1.2. Độ bám dính ướt
Để đánh giá độ bền bám dính của các hệ sơn được xử lý bề mặt với những chế
độ khác nhau, các mẫu này được ngâm trong dung dịch nước muối 3,5 %. Mỗi 15
ngày, các mẫu được lấy khỏi dung dịch, sấy khô bề mặt, đo 3 điểm lấy giá trị trung
bình rồi lại tiếp tục ngâm để đo ở chu kỳ tiếp theo. Số liệu về mức độ suy giảm độ
bám dính ướt của các hệ sơn được trình bày trong hình 3.20. Có thể thấy rằng, tất cả
các mẫu đều có mức độ suy giảm độ bám dính theo thời gian ngâm trong nước
muối. Sự suy giảm này chứng tỏ đã có sự xâm thực của dung dịch điện ly (ion,
nước...) vào trong hệ sơn. Sự xâm thực khi đến lớp màng chuyển tiếp sẽ phá vỡ liên
kết giữa màng sơn với lớp chuyển tiếp, gây ăn mòn lớp chuyển tiếp đồng thời gây
suy giảm liên kết giữa sơn và bề mặt thép nền [66,114]. Về cơ bản các mẫu có độ
bám dính khô cao hơn sẽ duy trì độ bám dính ướt tốt hơn. Mẫu nền được xử lý trong
dung dịch axit hexaflorozirconic hoặc silan tuy có ưu thế bám dính khô cao hơn so
với mẫu nền nhưng chỉ duy trì cho đến hơn 60 ngày. Sau 75 ngày kết quả tương
đương với mẫu không xử lý. Mức độ suy giảm độ bám dính của màng sơn phản ánh
độ bền liên kết giữa lớp sơn phủ và bề mặt nền, nghĩa là phụ thuộc vào cách xử lý
bề mặt [129,130].
89
Hình 3.20. Mức độ suy giảm độ bám dính ướt của hệ sơn
được xử lý bề mặt khác nhau.
Mức độ suy giảm tương đương của các mẫu nền được xử lý trong axit
hexaflorozirconic/silan trong cả hai dung dịch, một dung dịch và phốt phát kẽm
chứng tỏ hiệu quả duy trì độ bám dính ướt của chúng là tương đương nhau. Mặc dù
vậy, sau 60 ngày ngâm trong nước muối, mẫu sơn được xử lý bề mặt bằng phốt phát
kẽm có sự suy giảm nhanh hơn so với 2 mẫu còn lại. Kết quả này có thể do đặc
trưng bề mặt. Xuất phát từ lực liên kết mạnh giữa nhóm chức có trong silan và resin
trong sơn dẫn tới hiệu quả duy trì bám dính tốt hơn trong điều kiện bị xâm thực.
Hơn nữa, từ tính chất nano của vật chất có thể khẳng định rằng, lớp phủ chuyển tiếp
dựa trên Zr và silan đã đạt tới kích thước tới hạn khiến diện tích tiếp xúc với sơn
tăng lên rất nhiều. Kết quả là, không những độ bền khô được tăng lên mà còn được
duy trì trong môi trường xâm thực lâu hơn. Kết quả này cũng đã được M.R.
Tchoquessi Doidjoa và cộng sự khẳng định tương tự. Các tác giả đã chứng minh
rằng amino silan cải thiện mạnh mẽ độ bền ướt liên kết giữa sơn và bề mặt nền.
90
3.3.2. Khả năng bảo vệ chống ăn mòn của màng sơn
3.3.2.1. Kết quả đánh giá bằng phương pháp phổ tổng trở điện hóa
Để nghiên cứu hiệu quả bảo hệ ăn mòn của hệ sơn, phương pháp tổng trở
điện hóa được sử dụng để xác định thông tin số hóa của các mẫu thử trong dung
dịch điện ly [49]. Phổ tổng trở Nyquist của các mẫu sơn tĩnh điện được xử lý bề mặt
ở các chế độ khác nhau được thể hiện trong hình 3.21.
Hình 3.21. Phổ tổng trở Nyquist của mẫu sơn được xử lý bề mặt
ở các chế độ khác nhau sau 1 ngày thử nghiệm trong NaCl 3,5 %.
Phổ tổng trở được dùng để so sánh hiệu quả bảo vệ ăn mòn của các hệ sơn
được xử lý bề mặt ở các chế độ khác nhau. Các mẫu được ngâm liên tục trong dung
dịch NaCl 3,5 % trong 90 ngày và được đo theo chu kỳ 15 ngày một lần. Từ phổ
tổng trở ta thấy, mỗi một mẫu được đặc trưng bởi một bán cung chứng tỏ tương ứng
với cùng một phản ứng điện hóa giữa các điện cực. Độ lớn của tổng trở cũng chứng
tỏ các hệ sơn có hiệu quả bảo vệ rất cao. Như ta biết rằng, đường kính của mỗi phổ
Nyquist thể hiện tổng trở của mỗi hệ sơn. Từ đó có thể thấy rằng, tất cả các mẫu
được xử lý bề mặt đều có độ bền cao hơn mẫu không được xử lý. Kết quả tốt nhất
đạt được với các mẫu xử lý trong dung dịch axit hexaflorozirconic/silan và phốt
phát hóa. Giảm hơn một chút là mẫu được xử lý bằng 2 dung dịch rồi đến các mẫu
91
được xử lý bằng 2 phương pháp riêng lẻ. Kết quả này có được là do độ bền ăn mòn
của mỗi bề mặt đã được xử lý tương ứng. Bên cạnh đó, độ bám dính khô của mỗi
mẫu sơn cũng có thể giải thích cho kết quả này.
Phổ Nyquist của các mẫu sau 60 ngày ngâm liên tục trong nước muối được thể
hiện trên hình 3.22.
Hình 3.22. Phổ tổng trở Nyquist của mẫu sơn được xử lý bề mặt
ở các chế độ khác nhau sau 60 ngày thử nghiệm trong NaCl 3,5 %.
Kết quả cho thấy, các mẫu được xử lý bề mặt vẫn được bảo vệ tốt. Giá trị tổng
trở ở tần số thấp của tất cả các mẫu đều suy giảm nhưng ở các mức độ khác nhau.
Mẫu được xử lý bề mặt bởi ZrO2/silan có mức độ suy giảm ít nhất (khoảng 1,75
lần). Tiếp theo là mẫu phốt phát kẽm và 2 dung dịch với mức độ suy giảm cao hơn
(khoảng 2 lần). Các mẫu xử lý bề mặt bằng các phương pháp riêng lẻ suy giảm
nhiều nhất trong số các mẫu được xử lý (đến 3 lần). Kết quả này đã chứng tỏ cho độ
bền của các mẫu được xử lý tương ứng. Rõ ràng mẫu bị suy giảm ít hơn sẽ có độ
bền cao hơn. Ngược lại, Phổ tổng trở Nyquist của mẫu nền chứng tỏ đã xuất hiện ăn
mòn trên bề mặt thép.
92
Mô đun tổng trở của hệ sơn tại tần số thấp (|Z|10mHz) được coi là chỉ số tương
ứng cho tổng trở của hệ sơn [19]. Nói cách khác, |Z|10mHz đặc trưng cho độ bền của
hệ sơn trong môi trường điện ly. Xu hướng biến thiên giá trị này của các hệ sơn
được thể hiện trên hình 3.23.
Hình 3.23. Xu hướng của |Z|10mHz của các mẫu sơn được xử lý bề mặt
ở các chế độ khác nhau sau 90 ngày thử nghiệm trong NaCl 3,5 %.
Từ hình 3.23 có thể thấy rằng, tất cả các mẫu đều có xu hướng suy giảm giá trị
tổng trở theo thời gian ngâm trong dung dịch nước muối. Mức độ suy giảm nhiều
nhất đạt được với mẫu không được xử lý và ít nhất với nhóm mẫu được xử lý bằng
ZrO2/silan và phốt phát kẽm. Sau 90 ngày thử nghiệm, mẫu không được xử lý suy
giảm đến khoảng 100 lần trong khi mẫu mẫu được xử lý bằng ZrO2/silan, 2 dung
dịch và phốt phát kẽm suy giảm lần lượt là 7,5, 12 và 9,8 lần. Hai mẫu được xử lý
bằng ZrO2 và silan suy giảm lần lượt là 50,6 và 47,8 lần. Sự suy giảm tổng trở của
tất cả các mẫu sơn là do sự xâm thực của ion, nước... vào trong lớp màng. Thời gian
ngâm càng lâu, sự xâm thực càng nhiều và càng sâu tới bề mặt nền. Từ kết quả này
có thể khẳng định rằng, các mẫu được xử lý bề mặt tốt hơn sẽ hỗ trợ duy trì độ bền
của hệ sơn cao hơn. Các kết quả xác định tổng trở của tất cả các mẫu đã chứng tỏ
rằng, xử lý bề mặt bằng ZrO2 không những tăng cường hiệu quả bảo hệ của hệ sơn
mà còn hỗ trợ duy trì độ bền lâu hơn.
93
3.3.2.2. Kết quả thử nghiệm trong dung dịch NaCl 3,5 %
Thông thường, khi bề mặt mẫu sơn tiếp xúc với dung dịch điện ly, các ion,
nước sẽ dần thẩm thấu vào trong màng. Vì sơn trong thực tế thường không hoàn
toàn lý tưởng, nên quá trình thẩm thấu sẽ dễ xảy ra ở những vị trí khuyết tật, rỗ, nứt.
Khi dung dịch điện ly tới nền không những gây ăn mòn với nền và còn khơi mào
cho việc mất liên kết màng sơn với nền từ những vị trí này (như bong tróc, phồng
rộp, đứt gãy…). Đây là quá trình rất lâu, vì vậy phương pháp rạch chữ X trên màng
sơn để gia tốc quá trình này thường được áp dụng.
1 cm
1 cm
1 cm
Mẫu nền ZrO2 ZrO2/silan
1 cm
1 cm
1 cm
Silane 0.025 % Hai dung dịch Zn-Phốt phát
Hình 3.24. Ảnh chụp các mẫu sơn tĩnh điện trên mẫu nền
được xử lý bề mặt ở các chế độ khác nhau.
94
J. I. Skar đã đưa ra mô hình 3 con đường xảy ra sự xâm nhập vào bề mặt dưới
lớp sơn và khẳng định, xử lý bề mặt ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ lan truyền phá
hủy màng sơn từ vết rạch [131]. Ảnh chụp các mẫu rạch chữ X ngâm liên tục 1
tháng trong dung dịch NaCl 3,5% sau khi chà dưới vòi nước dọc theo vết cắt chữ X
được thể hiện trên hình 3.24. Kết quả quan sát có thể thấy rằng, mẫu không được xử
lý bị bong tróc nhiều nhất và mẫu được xử lý bởi ZrO2/silan bị bong tróc ít nhất.
Các mẫu còn lại cũng bị bong tróc ở các mức độ khác nhau nhưng đều ít hơn mẫu
không được xử lý bề mặt. Kết quả này đã khẳng định thêm rằng, xử lý bề mặt
không những tăng cường độ bám dính, duy trì độ bám dính tốt hơn và còn hạn chế
sự suy giảm độ bám dính ở mức tốt hơn. Kết quả định lượng các mức độ phá hủy
màng sơn tại vết rạch được trình bày trong bảng 3.9.
Bảng 3.9. Mức độ phá hủy màng sơn tại vết rạch
sau 1 tháng thử nghiệm trong dung dịch NaCl 3,5 %.
Thông số mẫu thử Vết phá hủy ngang từ vết rạch Chỉ số đánh giá
Mẫu sơn không được xử lý bề mặt 3,2 mm 5
2,3 mm 6 Mẫu sơn được xử lý bằng ZrO2
1,7 mm 7 Mẫu sơn được xử lý bằng ZrO2/silan
Mẫu sơn được xử lý bằng hai dung dịch 2,1 mm 6
Mẫu sơn chỉ được xử lý bằng silan 2,2 mm 6
6 Mẫu sơn được xử lý bề mặt bằng Zn-phốt phát 2,5 mm
Sau 1 tháng thử nghiệm, mẫu sơn được xử lý bề mặt bàng ZrO2/silan chỉ bị
bong tróc ở mức 7 (1,7 mm), mức cao hơn các mẫu còn lại và cao hơn hẳn so với
mẫu không được xử lý ở mức 5 (3,2 mm). Kết quả này chứng tỏ hệ sơn được xử lý
bề mặt trong dung dịch axit hexaflorozirconic/silan duy trì độ bền dưới lớp sơn cao
hơn hẳn so với các mẫu được xử lý riêng biệt. A. Ghanbari và cộng sự cũng khẳng
định rằng, cải thiện liên kết bám dính giữa bề mặt nền và lớp phủ sẽ làm giảm sự
lan truyền sản phẩm ăn mòn dưới lớp sơn [66]. Do vậy mà các mẫu có độ bám dính
ban đầu cao hơn cũng duy trì độ bền dưới lớp sơn tốt hơn. Tuy vậy, riêng mẫu được
xử lý bằng phốt phát kẽm mặc dù có độ bám dính cao nhưng có chỉ số thấp hơn có
95
lẽ xuất phát từ thuộc tính bề mặt của phương pháp xử lý. Bề mặt phốt phát kẽm có
mức độ gồ ghề cao hơn, nhiều rỗ xốp sẽ dễ dàng cho ion, nước thẩm thấu vào dưới
lớp sơn hơn nên cũng dễ gây mất liên kết bám dính hơn. Mặt khác nhờ cải thiện độ
bám dính đồng thời lớp màng mỏng là nguyên nhân giúp cho mẫu sơn được xử lý
bằng ZrO2/silan bền hơn cả xử lý bằng phốt phát trong môi trường điện ly.
3.3.2.3. Kết quả thử nghiệm mù muối.
Thử nghiệm mù muối là phương pháp mô phỏng môi trường ăn mòn để định
lượng hiệu quả bảo vệ ăn mòn của hệ sơn bằng hình ảnh [49]. Hình 3.25 thể hiện
ảnh chụp các mẫu thử nghiệm trong môi trường ăn mòn được gia tốc với những chu
kỳ khác nhau sau 400 giờ. Mức độ phá hủy màng sơn từ vết rạch theo mỗi 100 giờ
thử nghiệm được thể hiện trên hình 3.26, số liệu phá hủy sau 400 giờ được trình bày
trong bảng 3.10. Có thể thấy rằng, sản phẩm ăn mòn và mức độ phá hủy màng sơn
xung quang vết rạch đã xuất hiện trên tất cả các mẫu nhưng với các mức độ khác
nhau. Từ hình 3.26 có thể thấy rằng, sau 100 giờ thử nghiệm không có sự khác biệt
nhiều giữa các mẫu. Kết quả này phản ánh môi trường ăn mòn đã tác động đến
màng sơn xung quang vết ăn mòn nhưng với mức độ không nhiều đồng thời chưa
phản ánh rõ nét mức độ khác nhau giữa các chế độ xử lý bề mặt với độ bền của hệ
sơn. Sự khác biệt do mức độ phá hủy màng sơn từ vết rạch trở nên rõ ràng hơn sau
hơn 200 giờ thử nghiệm. Có thể thấy rằng, mức độ phá hủy nhiều nhất xảy ra với
mẫu không được xử lý bề mặt và kết quả tốt nhất đạt được với mẫu được xử lý bằng
zirconi và silan trong cả một dung dịch và hai dung dịch. Kết quả cũng đạt được
tương tự như mẫu được xử lý bề mặt bằng phốt phát kẽm. Các mẫu chỉ được xử lý
bề mặt bằng zirconi oxit hoặc silan có kết quả nằm ở giữa. Mẫu được xử lý bằng
zirconi oxit trong 200 giờ đầu thể hiện kết quả tốt hơn nhưng sau đó lại trở nên kém
hơn so với silan. Điều này cho thấy, xử lý bằng zirconi oxit đã chứng tỏ hiệu quả
khá cao nhưng không bền so với silan. Từ hình ảnh và số liệu cũng cho thấy, tất cả
các mẫu được xử lý bề mặt đều ít bị ăn mòn hơn, với độ rộng vết rạch nhỏ hơn cho
thấy độ bền của hệ sơn cao hơn so với mẫu không được xử lý. Mẫu được xử lý bằng
ZrO2/silan và mẫu được xử lý theo 2 dung dịch đều có hiệu quả tương đương với
phốt phát kẽm (cấp 8). Trong khi các mẫu còn lại có các mức độ ở cấp 7 và kém
nhất với mẫu không được xư lý bề mặt (cấp 6).
96
1 cm
1 cm
1 cm
Mẫu nền ZrO2/silan ZrO2
1 cm
1 cm
1 cm
Hai dung dịch Silan 0,025 % Zn-Phốt phát
Hình 3.25. Ảnh chụp các mẫu sơn tĩnh điện trên mẫu nền được xử lý bề mặt
ở các chế độ khác nhau sau 400h thử nghiệm mù muối.
Kết quả này có thể là do độ bám dính của các mẫu được xử lý bề mặt tốt hơn,
mẫu có độ bám dính cao hơn có mức độ phá hủy màng sơn xung quanh vết rạch chữ
X ít hơn. Bên cạnh đó, xử lý bề mặt cũng làm thay đổi thuộc tính bề mặt (vật lý và
hóa học) nên phản ứng catot để tạo sản phẩm ăn mòn sẽ khó khăn hơn. Vì vậy, các
mẫu được xử lý bề mặt có khả năng chống lại phản ứng catot khi các tác nhân ăn
mòn xâm thực vào khu vực vết rạch [46]. Y. Shao và cộng sự đã khẳng định rằng,
kiểu hoạt động điện hóa của thành tố trong lớp màng kết tủa và bảo vệ bề mặt thép
có thể là chỉ số cho hiệu quả ức chế ăn mòn [132]. Điều này đã chứng tỏ cho hiệu
quả hỗ trợ của xử lý bề mặt đối với độ bền của hệ sơn [49].
97
Hình 3.26. Mức phá hủy từ vết rạch của các mẫu sơn tĩnh điện trên mẫu nền được
xử lý bề mặt ở các chế độ khác nhau sau 400 giờ thử nghiệm mù muối.
Bảng 3.10. Mức độ phá hủy màng sơn tại vết rạch của các mẫu được xử lý bề mặt
khác nhau sau 400 giờ thử nghiệm mù muối.
Chế độ xứ lý Mức phá hủy ngang từ vết rạch Chỉ số đánh giá
Mẫu sơn không được xử lý bề mặt 2,04 mm 6
1,47 mm 7 Mẫu sơn được xử lý bằng ZrO2
0,89 mm 8 Mẫu sơn được xử lý bằng ZrO2/silan
Mẫu sơn được xử lý bằng hai dung dịch 0,93 mm 8
Mẫu sơn chỉ được xử lý bằng silan 1,25 mm 7
Mẫu sơn được xử lý bề mặt bằng phốt phát kẽm 0,94 mm 8
3.3.2.4. Kết quả thử nghiệm tự nhiên
Thử nghiệm tự nhiên là phương pháp đánh giá hiệu quả bảo vệ ăn mòn của hệ
sơn trong điều kiện gần thực tế nhất. Các mẫu thử nghiệm tự nhiên được triển khai
tại Trạm nghiên cứu thử nghiệm biển (Trung tâm Nhiệt đới Việt Nga) ở Đảo Hòn
Tre, Khánh Hòa từ tháng 5/2017 đến tháng 5/2019. Một số thông số khí tượng cơ
bản về điều kiện môi trường nơi thử nghiệm được trình bày trong bảng 3.11.
98
Bảng 3.11. Một số thông số điều kiện môi trường nơi thử nghiệm tự nhiên
Tổng lượng mưa (mm) Tổng bức xạ (MJ/m2) Tháng/ năm Nhiệt độ không khí (oC) Độ ẩm không khí (%) Clo sa lắng (mg/m2/ ngày)
154,25 400,00 5/2017 28,26 82,83 49,9
38,50 618,71 6/2017 28,37 81,63 42,1
79,25 529,68 7/2017 28,18 80,34 40,3
138,75 604,83 8/2017 28,45 79,33 42,0
136,00 652,52 9/2017 28,34 81,68 37,5
258,8 406,15 10/2017 27,24 81,274 33,3
442,0 394,1 11/2017 26,82 84,04 29,2
149,0 390,63 12/2017 25,15 74,87 49,9
32,35 162,35 1/2018 25,54 78,58 41,7
2,50 538,60 2/2018 24,10 72,70 37,5
16,50 625,34 3/2018 26,08 75,81 40,3
23,25 655,00 4/2018 27,44 77,64 40,2
39,50 620,00 5/2018 29,08 77,95 39,8
145,50 530,14 6/2018 28,15 78,81 38,5
20,50 572,57 7/2018 28,72 77,17 40,2
13,25 530,00 8/2018 29,06 73,01 39,8
9/2018 27,95 80,08 132,00 613,87 38,4
10/2018 27,46 77,69 590,00 571,08 37,6
11/2018 26,76 81,70 815,30 419,45 39,2
74,88 12/2018 25,15 149,0 390,63 40,1
73,34 1/2019 25,00 31,75 313,76 40,3
77,34 2/2019 25,83 0,75 572,41 42,0
77,67 3/2019 27,41 9,5 705,28 42,1
99
Tháng/ năm Tổng lượng mưa (mm) Tổng bức xạ (MJ/m2) Nhiệt độ không khí (oC) Độ ẩm không khí (%) Clo sa lắng (mg/m2/ ngày)
4/2019 29,09 75,17 0,25 767,69 41,7
5/2019 29,67 74,60 16,75 729,35 40,8
Từ bảng 3.11 có thể thấy rằng, khu vực thử nghiệm khá ổn định về mặt nhiệt
độ, không có sự thay đổi nhiều trong năm. Từ tháng 3 đến tháng 9 (mùa khô)
thường có nhiệt độ trung bình cao hơn các tháng khác (mùa mưa) từ 1 đến 2 oC.
Khu vực thử nghiệm nằm ở Nam Trung bộ, thiên hướng thời tiết chia hai mùa, vì
vậy vào mùa mưa lượng mưa cao hơn hẳn so với mùa khô. Mặc dù vậy, do điều
kiện ven biển cùng với khí hậu nhiệt đới, nhiều nắng đã dẫn tới độ ẩm không khí
thường xuyên cao và tổng bức xạ mặt trời cũng khá cao. Độ ẩm không khí cao, bức
xạ mặt trời nhiều cùng với hàm lượng clorua sa lắng cao phản ánh điều kiện thử
nghiệm khá khắc nghiệt, hội tụ đầy đủ các yếu tố nhiệt đới ẩm mặn. Mặc dù vậy,
những thông tin cơ bản về khí tượng nêu trên nhằm phản ánh điều kiện thử nghiệm.
Các thông số này chỉ được sử dụng trong phạm vi tổng quan, luận án không tập
trung đánh giá ảnh hưởng của tác động môi trường đến các đối tượng thử nghiệm
mà giải quyết bài toán theo khía cạnh: trong điều kiện như vậy, các lớp sơn tĩnh
điện được xử lý bề mặt với các chế độ khác nhau sẽ có độ bền như thế nào khi so
sánh với nhau. Ảnh chụp các mẫu sơn thử nghiệm tự nhiên sau 24 tháng thử nghiệm
thể hiện trong hình 3.27. Mức độ phá hủy màng sơn từ vết rạch đã loại phần sơn bị
hư hỏng, bong tróc được thể hiện trên hình 3.28. Theo thời gian thử nghiệm cả
màng sơn đặc biệt khu vực xung quanh vết rạch sẽ chịu tác động mạnh mẽ nhất bởi
các thông số khí tượng. Sự thay đổi môi trường liên tục, ví dụ như: màng sơn có thể
thường xuyên chịu ẩm (vào mùa mưa) hoặc có thể thường xuyên trong trạng thái
sấy nhiệt (mùa khô) cùng với hơi nước muối liên tục lắng đọng trên mẫu sẽ gây ra
những tác động có hại đến độ bền hệ sơn. Trong điều kiện như vậy, màng sơn có
thể bị thấm ẩm tới nền, có thể bị sấy khô cũng dễ gây ra sự phá hủy màng sơn. Mức
độ phá hủy theo cách này cùng với cơ chế phá hủy theo 3 con đường như đã nêu
cũng gây ra mức độ phá hủy màng sơn theo đa chiều khác nhau.
100
Ban đầu 12 tháng 24 tháng Chế độ xử lý
Mẫu nền
ZrO2
ZrO2/silan
Hai
dung
dịch
101
Ban đầu 12 tháng 24 tháng Chế độ xử lý
Silan 0,025 %
Phốt phát kẽm
Hình 3.27. Ảnh chụp các mẫu sơn tĩnh điện trên mẫu nền được xử lý bề mặt
ở các chế độ khác nhau sau 24 tháng thử nghiệm tự nhiên.
Hình 3.28. Mức độ phá hủy màng sơn từ vết rạch sau 24 tháng thử nghiệm tự nhiên
trong môi trường khí hậu ven biển.
102
Số liệu phá hủy từ vết rạch đã chứng tỏ cho nhận định trên. Cũng tương đồng
với các thử nghiệm gia tốc, tất cả các mẫu sơn được xử lý bề mặt đều chứng tỏ độ
bền tốt hơn so với mẫu không được xử lý sau 1 năm thử nghiệm. Kết quả này càng
thể hiện rõ hơn sau 2 năm thử nghiệm tự nhiên. Nhóm các mẫu sơn được xử lý bề
mặt bằng zirconi oxit và silan cùng với phốt phát hóa có kết quả tương đương nhau,
trong đó xử lý bằng phốt phát hóa đạt kết quả tốt hơn trong giai đoạn đầu nhưng lại
bị phá hủy nhanh hơn sau đó. Kết quả tốt hơn với mẫu được xử lý bề mặt bằng phốt
phát hóa có thể xuất phát từ chính độ bền ăn mòn của mẫu này trong môi trường tự
nhiên. Nhưng theo thời gian thử nghiệm, cấu trúc bề mặt gồ ghề và xốp của lớp phủ
phốt phát có lẽ tạo ra điện kiện thuận lợi cho ion, nước…thấm sâu dọc theo bề mặt
gây mất vai trò liên kết.
Kết luận nội dung 3
- Xử lý bề mặt bằng ZrO2/silan theo 2 phương pháp khác nhau (một dung
dịch và 2 dung dịch) đều có tác dụng cải thiện độ bám dính khô và ướt so với xử lý
bề mặt đơn lớp (hoặc ZrO2 hoặc silan). Mặc dù vậy xử lý bề mặt bằng ZrO2/silan
theo phương pháp một dung dịch vẫn có ưu thế hơn so với hai dung.
- Xử lý bề mặt bằng ZrO2/silan có độ bám dính khô tương đương với phốt
phát kẽm nhưng lại duy trì độ bám dính ướt ở mức tốt hơn.
- Khả năng bảo vệ của hệ sơn trên nền thép được xử lý bằng ZrO2 hoặc/và
silan cao hơn so với mẫu không được xử lý. Hơn thế, mức độ duy trì độ bền hệ sơn
trong môi trường xâm thực còn cao hơn nhiều so với mẫu không được xử lý.
- Khả năng bảo vệ của hệ sơn trên nền thép được xử lý bề mặt bằng
ZrO2/silan tương đương hệ sơn xử lý bằng phốt phát kẽm.
103
CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN
4.1. Những kết luận chính của luận án
Lớp màng kép ZrO2/silan tiền xử lý bề mặt thép cho sơn phủ đã được chế tạo
bằng phương pháp hóa học (nhúng trong dung dịch).
Cơ chế của việc hình thành lớp màng dựa trên phản ứng điện hóa và liên kết
cộng hóa trị giữa dung dịch và bề mặt thép. Ban đầu màng zirconi oxit được hình
thành nhanh chóng và chiếm ưu thế, sau chậm dần lại và nhường chỗ cho quá trình
hình thành màng silan. Xu hướng cạnh tranh dẫn tới lớp màng ZrO2/silan có cấu
trúc kép với zirconi oxit chiếm ưu thế phía bên trong, màng silan chiếm ưu thế bên
ngoài và ở giữa là sự đan xen của hai lớp màng này;
Hình thái của lớp màng kép dựa trên cấu trúc hạt hình cầu hoặc elip với kích
thước vài chục nano và các nhóm hạt bất định của màng ZrO2 nhưng mịn hơn và
kín khít hơn màng đơn. Thành phần và liên kết oxit kim loại, mạng lưới O-Zr-O,
Zr-O-Si, Si-O-Si và nhóm amino đã được tìm thấy trong lớp màng. Trong các điều
kiện thực nghiệm, lớp màng kép ZrO2/silan trên bề mặt thép được xử lý trong dung
dịch axit hexaflorozirconic/silan có nồng độ Zr4+= 50 ppm, nồng độ silan = 0,025 %
(về thể tích) sau 4 phút có độ bền ăn mòn cao nhất và tiền xử lý tốt nhất cho hệ sơn
tĩnh điện.
Khả năng bảo vệ của hệ sơn trên nền thép được xử lý bằng ZrO2/silan cao hơn
so với hệ sơn trên nền xử lý đơn lớp (chỉ bằng ZrO2 hoặc silan) và tương đương với
hệ sơn trên nền phốt phát kẽm.
4.2. Đề xuất hướng phát triển của luận án
Đã có nhiều công trình nghiên cứu với mức độ khác nhau về vai trò tiền xử lý
của zirconi oxit và silane nhưng phương pháp kết hợp vẫn còn được bỏ ngỏ. Hiệu
quả tiền xử lý đã được minh chứng nhưng để trở thành công nghệ và áp dụng rộng
rãi cần phải có những nghiên cứu mang tính quy mô lớn hơn và có tính công nghiệp
mới có thể áp dụng thực tế.
104
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Lần đầu tiên ở Việt Nam, đã chế tạo được lớp màng đơn zirconi oxit và lớp
màng kép zirconi oxit/silan tiền xử lý bề mặt thép cho sơn phủ bằng phương pháp
hóa học (nhúng trong dung dịch). Lớp màng kép có hiệu quả tiền xử lý tương đương
với phốt phát kẽm.
Đề xuất cơ chế của quá trình và tốc độ hình thành các pha trong lớp màng
zirconi oxit /silan.
Xác định được đặc trưng hình thái, thành phần, tính chất điện hóa và liên kết
của lớp màng zirconi oxit/silan trên nền thép.
105
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
Các công trình công bố trên các tạp chí
1. Lê Thị Nhung, Nguyễn Văn Chi, Phạm Trung Sản, Trương Anh Khoa,
Nguyễn Hoàng, Nguyễn Thu Hiền, Tô Thị Xuân Hằng, Nghiên cứu tiền xử lý bề
mặt thép bằng màng chuyển chuyển hóa ZrO2/silane cho sơn tĩnh điện, Tạp chí Hóa
học, 54(5e1,2), 2016, 217-220.
2. Nguyễn Văn Chi, Phạm Trung Sản, Lê Thị Nhung, Trương Anh Khoa,
Nguyễn Hoàng, Nguyễn Thu Hiền, Tô Thị Xuân Hằng, Khảo sát ảnh hưởng thời
gian nhúng và pH đến đặc trưng tính chất của lớp tiền xử lý kích thước nanomet
zirconi oxit trên thép CT3, Tạp chí Hóa học, 55(3e12), 2017, 8-11.
3. Nguyễn Văn Chi, Phạm Trung Sản, Lê Thị Nhung, Trương Anh Khoa,
Nguyễn Hoàng, Nguyễn Thu Hiền, Tô Thị Xuân Hằng, Chế tạo lớp màng kép
zirconi oxit/silan tiền xử lý bề mặt thép cho lớp phủ hữu cơ, Tạp chí Hóa học,
55(3e12), 2017, 12-16.
4. Nguyen Van Chi, Pham Trung San, Le Thi Nhung, Truong Anh Khoa,
Nguyen Hoang and Nguyen Thu Hien, The influence of ZrO2//silane pretreatment
on corrosion resistance of powder coating, Vietnam Journal of Science and
Technology 56(3B), 2018, 35-41
5. Nguyen Van Chi, Pham Trung San, Le Thi Nhung, Truong Anh Khoa,
Nguyen Hoang, Nguyen Thu Hien, To Thi Xuan Hang, Corrosion protection of
carbon steel using zirconium oxide/silane pretreatment and power coating, Vietnam
Journal of Science and Technology 57(1), 2019, 38-47.
Các công trình báo cáo tại hội nghị quốc tế và quốc gia
1. Nguyen Van Chi, Pham Trung San, Le Thi Nhung, Truong Anh Khoa,
Nguyen Hoang and Nguyen Thu Hien, The influence of ZrO2//silane pretreatment
on corrosion resistance of powder coating, The 3rd International Workshop on
Corrosion and Protection of Material.
2. Lê Thị Nhung, Nguyễn Văn Chi, Phạm Trung Sản, Trương Anh Khoa,
Nguyễn Hoàng, Nguyễn Thu Hiền, Tô Thị Xuân Hằng, Nghiên cứu tiền xử lý bề
mặt thép bằng màng chuyển chuyển hóa ZrO2/silane cho sơn tĩnh điện, Hội thảo
Khoa học và Công nghệ hóa vô cơ lần thứ III, Hà Nội, 2016.
106
3. Nguyễn Văn Chi, Phạm Trung Sản, Lê Thị Nhung, Trương Anh Khoa,
Nguyễn Hoàng, Nguyễn Thu Hiền, Tô Thị Xuân Hằng, Chế tạo lớp màng kép
zirconi oxit/silan tiền xử lý bề mặt thép cho lớp phủ hữu cơ, Hội nghị Khoa học toàn
quốc lần thứ VII Hóa vô cơ – Phân bón – Đất hiếm, Đà Lạt, 2017
107
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. M. Fedel, F. Deflorian, S. Rossi, and P. Kamarchik, Progress in Organic Coatings Study of the effect of mechanically treated CeO2 and SiO2 pigments on the corrosion protection of painted galvanized steel, Progress in Organic Coatings, 2012, 74(1), 36–42.
2.
E. A. E. G. M. Mahdavian, The influence of surface modification of lithium zinc phosphate pigment on corrosion inhibition of mild steel and adhesion strength of epoxy coating, Journal of Sol-Gel Science and Technology, 2014, 72(2), 359–368.
3. M. Plawecka, D. Snihirova, B. Martins, K. Szczepanowicz, P. Warszynski, and M. F. Montemor, Self healing ability of inhibitor-containing nanocapsules loaded in epoxy coatings applied on aluminium 5083 and galvanneal substrates, Electrochimica Acta, 2014, 140, 282–293.
4.
E. Alibakhshi, E. Ghasemi, M. Mahdavian, and B. Ramezanzadeh, A comparative study on corrosion inhibitive effect of nitrate and phosphate intercalated Zn-Al- layered double hydroxides (LDHs) nanocontainers incorporated into a hybrid silane layer and their effect on cathodic delamination of epoxy topcoat , Corrosion Science, 2017, 115, 159–174.
5.
E. M.J. Palimi, Alibakhshi, G. Bahlakeh, B. Ramezanzadeh, and M. Mahdavian, Electrochemical investigations of the corrosion protection properties of an epoxyester coating filled with cerium acetyl acetonate anticorrosive pigment, Electrochemical Society, 2017, 164, 709–716.
6.
A. M. Mahdavian, R. Tehrani-Bagha, E. Alibakhshi, S. Ashhari, M. J. Palimi, S. Farashi, S. Javadian, and F. Ektefa, Corrosion of mild steel in hydrochloric acid solution in the presence of two cationic gemini surfactants with and without hydroxyl substituted spacers, Corrosion Science, 2018, 137, 62–75.
7. M. B. Ramezanzadeh, Akbarian, M. Ramezanzadeh, M. Mahdavian, E. Alibakhshi, Kardar, and P., Corrosion protection of steel with zinc phosphate conversion coating and post-treatment by hybrid organic-inorganic sol-gel based silane film, Electrochemical Society, 2017, 164, 224–230.
8. M. Plawecka, D. Snihirova, B. Martins, K. Szczepanowicz, P. Warszynski, inhibitor-containing and M. F. Montemor, Self healing ability of nanocapsules loaded in epoxy coatings applied on aluminium 5083 and galvanneal substrates, Electrochimica Acta, 2014, 140, 282–293.
9.
A. Ghanbari, M. M. Attar, and M. Mahdavian, Corrosion inhibition performance of three imidazole derivatives on mild steel in 1 M phosphoric acid, Materials Chemistry and Physics, 2010, 124(2–3), 1205–1209.
10. S. Verdier, S. Delalande, N. Van Der Laak, J. Metson, and F. Dalard, Monochromatized x-ray photoelectron spectroscopy of the AM60 magnesium alloy surface after treatments in fluoride-based Ti and Zr solutions, Surface and Interface Analysis, 2005, 37(5), 509–516.
11. M. Fedel, M. E. Druart, M. Olivier, M. Poelman, F. Deflorian, and S. Rossi, Compatibility between cataphoretic electro-coating and silane surface layer
108
for the corrosion protection of galvanized steel, Progress in Organic Coatings, 2010, 69(2), 118–125.
12. T. Hanawa and M. Ota, Characterization of surface film formed on titanium in electrolyte using XPS, Applied Surface Science, 1992, 55(4), 269–276.
13. S. Jegannathan, T. S. N. Sankara Narayanan, K. Ravichandran, and S. Rajeswari, Formation of zinc-zinc phosphate composite coatings by cathodic electrochemical treatment, Surface and Coatings Technology, 2006, 200(12– 13), 4117–4126.
14. C. R. Tomachuk, C. I. Elsner, A. R. Di Sarli, and O. B. Ferraz, Corrosion resistance of Cr(III) conversion treatments applied on electrogalvanised steel and subjected to chloride containing media, Materials Chemistry and Physics, 2010, 119(1–2), 19–29.
15. F. Deflorian, S. Rossi, and L. Fedrizzi, Silane pre-treatments on copper and aluminium, Electrochimica Acta, 2006, 51(27), 6097–6103.
16. USEPA, Toxicological review of hexavalent chromium, Toxicological review of hexavalent chromium\n(CAS No. 18540-29-9)\nIn Support of Summary Information on the Integrated Risk Information System (IRIS), 1998, 77pp.
17. A. Shin and M. Shon, Effects of coating thickness and surface treatment on the corrosion protection of diglycidyl ether bisphenol-A based epoxy coated carbon steel, Journal of Industrial and Engineering Chemistry, 2010, 16(6), 884–890.
surface based
18. S. Adhikari, K. A. Unocic, Y. Zhai, G. S. Frankel, J. Zimmerman, and W. Fristad, Hexafluorozirconic pretreatments: acid Characterization and performance assessment, Electrochimica Acta, 2011, 56(4), 1912–1924.
19. R. Mohammad Hosseini, A. A. Sarabi, H. Eivaz Mohammadloo, and M. Sarayloo, The performance improvement of Zr conversion coating through Mn incorporation: With and without organic coating, Surface and Coatings Technology, 2014, 258, 437–446.
20.
J. Cerezo, I. Vandendael, R. Posner, K. Lill, J. H. W. de Wit, J. M. C. Mol, and H. Terryn, Initiation and growth of modified Zr-based conversion coatings on multi-metal surfaces, Surface and Coatings Technology, 2013, 236(2004), 284–289.
21. T. Lostak, S. Krebs, A. Maljusch, T. Gothe, M. Giza, M. Kimpel, J. Flock, and S. Schulz, Formation and characterization of Fe3+/Cu2+ - modified zirconium oxide converrsion layers on zinc alloy coated steel sheets, Electrochimica Acta, 2013, 112, 14–23.
22. A. Ghanbari and M. M. Attar, Surface free energy characterization and adhesion performance of mild steel theated based on zirconium conversion coationg: A comparative study, Surface & Coatings Technology, 2014, 246, 26–33.
23. Lutz and Jürg, Method of producing a chromium-free conversion coating on a surface of an aluminium or aluminium alloy strip, European Patent Office, EP
109
2 532 769 A1, 2012.
24. T. Inbe, H. Kameda, and T. Kloberg, Surface pretreatment fluid for the metal to be coated by cationic electrodeposition, European Patent Office, EP 2 110 461 A1, 2009.
25. M. W. McMillen and E. F. Rakiewicz, Pretreatment Compositions and Methods For Coating a Metal Substrate, United State Patent, US8673091 B2, 2014.
26. N. J. Silvernail, FINAL REPORT: Environmentally Friendly Zirconium Oxide
Pretreatment, in SERDP Project WP-1676, 2013. 27. R. Moore and B. Dunham, ZirconizationTM: The future of coating
pretreatment processes, Metal Finishing, 2008, 106(7–8), 46–55.
28.
I. Milošev and G. S. Frankel, Review—Conversion Coatings Based on Zirconium and/or Titanium, Journal of The Electrochemical Society, 2018, 165(3), 127–144.
29.
J. Karlsson, Corrosion Mechanisms under Organic Coatings A study in relation to Next Generation´s Pretreatments Master’s Thesis Corrosion Mechanisms under Organic Coatings A study in relation to Next Generation ’ s Pretreatments, Corrosion, 2011.
30. M. L. Abel, R. D. Allington, R. P. Digby, N. Porritt, S. J. Shaw, and J. F. Watts, Understanding the relationship between silane application conditions, bond durability and locus of failure, International Journal of Adhesion and Adhesives, 2006, 26(1–2), 2–15.
31. F. Zucchi, V. Grassi, A. Frignani, and G. Trabanelli, Inhibition of copper corrosion by silane coatings, Corrosion Science, 2004, 46(11), 2853–2865.
32. C. M. Bertelsen and F. J. Boerio, Linking mechanical properties of silanes to their chemical structure: An analytical study of γ-GPS solutions and films, Progress in Organic Coatings, 2001, 41(4), 239–246.
33. W. Trabelsi, L. Dhouibi, E. Triki, M. G. S. Ferreira, and M. F. Montemor, An electrochemical and analytical assessment on the early corrosion behaviour of galvanised steel pretreated with aminosilanes, Surface and Coatings Technology, 2005, 192(2–3), 284–290.
34. W. J. van Ooij, D. Zhu, M. Stacy, A. Seth, T. Mugada, J. Gandhi, and P. Puomi, Corrosion protection properties of organofunctional silanes - An overview, Tsinghua Science and Technology, 2005, 10(6), 639–664.
35. A. P. Romano, M. Fedel, F. Deflorian, and M. G. Olivier, Silane sol-gel film as pretreatment for improvement of barrier properties and filiform corrosion resistance of 6016 aluminium alloy covered by cataphoretic coating, Progress in Organic Coatings, 2011, 72, 695–702.
36. E. Alibakhshi, M. Akbarian, M. Ramezanzadeh, B. Ramezanzadeh, and M. Mahdavian, Evaluation of the corrosion protection performance of mild steel coated with hybrid sol-gel silane coating in 3.5 wt.% NaCl solution, Progress in Organic Coatings, 2018, 123(June), 190–200.
110
37. F. D. N. Asadi, R. Naderi, M. Saremi, S.Y. Arman, M. Fedel, Study of corrosion protection of mild steel by eco-friendly silane sol-gel coating, Journal of Sol-Gel Science and Technology, 2014, 70, 329–338.
38. M. M. M. Taheri, R. Naderi, M. Saremi, Development of an ecofriendly silane sol-gel coating with zinc acetylacetonate corrosion inhibitor for active protection of mild steel in sodium chloride solution, Journal of Sol-Gel Science and Technology, 2017, 81, 154–166.
39. N. Asadi, R. Naderi, and M. Saremi, Determination of optimum concentration of cloisite in an eco-friendly silane sol-gel film to improve corrosion resistance of mild steel, Applied Clay Science, 2014, 95, 243–251.
40. M. F. Montemor, A. M. Simões, M. G. S. Ferreira, B. Williams, and H. Edwards, The Corrosion performance of organosilane based pre-treatments for coatings on galvanized steel, Progress in Organic Coatings, 2000, 38(1), 17–26.
41. W. Trabelsi, E. Triki, L. Dhouibi, M. G. S. Ferreira, M. L. Zheludkevich, and M. F. Montemor, The use of pre-treatments based on doped silane solutions for improved corrosion resistance of galvanised steel substrates, Surface and Coatings Technology, 2006, 200(14–15), 4240–4250.
42. W. Trabelsi, P. Cecilio, M. G. S. Ferreira, K. Yasakau, M. L. Zheludkevich, and M. F. Montemor, Surface evaluation and electrochemical behavior of doped silane pretreatments on galvanized steel substrates, Progress in Organic Coatings, 2007, 59, 214–223.
43. Z. Li and Y. Yuan, Preparation and characterization of superhydrophobic composite coatings on a magnesium–lithium alloy, RSC Advances, 2016, 6(93), 90587–90596.
44. Y. Zhai, Z. Zhao, G. S. Frankel, J. Zimmerman, T. Bryden, W. Fristad, and H. Corp, Surface Pretreatment Based On Dilute Hexafluorozirconic Acid, Corrosion, 2007, 1–16.
45. H. E. Mohammadloo, A. A. Sarabi, A. A. S. Alvani, H. Sameie, and R. Salimi, Nano-ceramic hexafluorozirconic acid based conversion thin film: Surface characterization and electrochemical study, Surface and Coatings Technology, 2012, 206(19–20), 4132–4139.
46. H. Eivaz Mohammadloo, A. A. Sarabi, R. Mohammad Hosseini, M. Sarayloo, H. Sameie, and R. Salimi, A comprehensive study of the green hexafluorozirconic acid-based conversion coating, Progress in Organic Coatings, 2014, 77(2), 322–330.
47. S. Verdier, N. van der Laak, F. Dalard, J. Metson, and S. Delalande, An electrochemical and SEM study of the mechanism of formation, morphology, and composition of titanium or zirconium fluoride-based coatings, Surface and Coatings Technology, 2006, 200(9), 2955–2964.
48. S. S. Golru, M. M. Attar, and B. Ramezanzadeh, Morphological analysis and corrosion performance of zirconium based conversion coating on the aluminum alloy 1050, Journal of Industrial and Engineering Chemistry, 2015,
111
24, 233–244.
49. H. R. Asemani, P. Ahmadi, A. A. Sarabi, and H. Eivaz Mohammadloo, Effect of zirconium conversion coating: Adhesion and anti-corrosion properties of epoxy organic coating containing zinc aluminum polyphosphate (ZAPP) pigment on carbon mild steel, Progress in Organic Coatings, 2016, 94, 18–27.
50. T.S.N Sankara Narayanan, Surface pretreatment by phosphate conversion coatings, Advanced Study Center Co. Ltd, India, 2005.
51. M. Becke, Phosphorous and its Compounds, Angewandte chemie, 1963, 75(2), 148.
52. G. Y. Li, J. S. Lian, L. Y. Niu, Z. H. Jiang, and Q. Jiang, Growth of zinc phosphate coatings on AZ91D magnesium alloy, Surface and Coatings Technology, 2006, 201(3–4), 1814–1820.
53. A. S. Akhtar, D. Susac, K. C. Wong, P. C. Wong, and K. A. R. Mitchell, Surface Science Studies of the Effect of Mn2+ on Zinc Phosphating of 2024-T3 Al Alloy, Materials Science Forum, 2006, 519– 521(2–3), 753–758.
54. M. F. Morks, Magnesium phosphate treatment for steel, Materials Letters, 2004, 58(26), 3316–3319.
55. Raush W, The phosphating of Metals, Finishing Publication LTD., Middlesex, 1990.
56. F. W. Eppensteiner and M. R. Jennkind, Chromate conversion coatings, Metal Finishing, 2007, 105(10), 413–424.
57. D.M. Johnson, Zinc and cadmium passivating bath, United State Patent, US2559878A, 1951.
58. C. Barner, J. J. B. Ward, T. S. Sehmbhi, and E. Al., Non chromate passivation treatment for zinc., Transactions of the Institute of Metal Finishing, 1982, 60, 45–48.
59. D.E. Crotty and R.J. Lash, Trivalent chromium passivate composition and process, United State Patent, US4384902A, 1983.
60. R.J. Lash and D.E. Crotty, Trivalent chromium passivate process, United State Patent, US4367099A, 1983.
61. W. Eckles and R. Frischauf, Alternatives to the hexavalent chromates an evolution of trivalnet chromate technologies, Plating and Surface Finishing, 2007, 24.
62. R. Di Maggio, L. Fedrizzi, and S. Rossi, Effect of the chemical modification of the precursor of ZrO2 films on the adhesion of organic coatings, Journal of Adhesion Science and Technology, 2001, 15(7), 793–808.
63. L. Fedrizzi, F. J. Rodriguez, S. Rossi, F. Deflorian, and R. Di Maggio, The use of electrochemical techniques to study the corrosion behaviour of organic coatings on steel pretreated with sol-gel zirconia films, Electrochimica Acta, 2001, 46(24–25), 3715–3724.
112
64. W. K. Lu, R. L. Elsenbaumer, and B. Wessling, Corrosion protection of mild steel by coatings containing polyaniline, Synthetic Metals, 1995, 71(1–3), 2163–2166.
65. G. Gusmano, G. Montesperelli, M. Rapone, G. Padeletti, A. Cusmà, S. Kaciulis, A. Mezzi, and R. Di Maggio, Zirconia primers for corrosion resistant coatings, Surface and Coatings Technology, 2007, 201(12), 5822– 5828.
66. A. Ghanbari and M. M. Attar, The effect of zirconium-based surface treatment on the cathodic disbonding resistance of epoxy coated mild steel, Applied Surface Science, 2014, 316(1), 429–434.
67. P. Puomi, H. M. Fagerholm, and A. Sopanen, Parameters affecting long-term performance of painted galvanized steels, Anti-Corrosion Methods and Materials, 2001, 48(160), 160–170.
68. C. Stromberg, P. Thissen, I. Klueppel, N. Fink, and G. Grundmeier, Synthesis and characterisation of surface gradient thin conversion films on zinc coated steel, Electrochimica Acta, 2006, 52(3), 804–815.
69. O. Lunder, C. Simensen, Y. Yu, and K. Nisancioglu, Formation and characterisation of Ti-Zr based conversion layers on AA6060 aluminium, Surface and Coatings Technology, 2004, 184(2–3), 278–290.
70. P. Taheri, P. Laha, H. Terryn, and J. M. C. Mol, An in situ study of zirconium- based conversion treatment on zinc surfaces, Applied Surface Science, 2015, 356, 837–843.
71. E. Ramanathan and S. Balasubramanian, Comparative study on polyester epoxy powder coat and amide cured epoxy liquid paint over nano-zirconia treated mild steel, Progress in Organic Coatings, 2016, 93, 68–76.
72. M. Sababi, H. Terryn, and J. M. C. Mol, The influence of a Zr-based conversion treatment on interfacial bonding strength and stability of epoxy coated carbon steel, Progress in Organic Coatings, 2017, 105, 29–36.
73. L. I. Fockaert, P. Taheri, S. T. Abrahami, B. Boelen, H. Terryn, and J. M. C. Mol, Zirconium-based conversion film formation on zinc, aluminium and magnesium oxides and their interactions with functionalized molecules, Applied Surface Science, 2017, 423, 817–828.
74. H. E. Mohammadloo, A. A. Sarabi, A. A. S. Alvani, R. Salimi, and H. Sameie, The effect of solution temperature and pH on corrosion performance and morphology of nanoceramic-based conversion thin film, Materials and Corrosion, 2013, 64(6), 535–543.
75. G. Yoganandan, K. Pradeep Premkumar, and J. N. Balaraju, Evaluation of corrosion resistance and self-healing behavior of zirconium-cerium conversion coating developed on AA2024 alloy, Surface and Coatings Technology, 2015, 270, 249–258.
76. B. Arkles, Silicon Esters, Encyclopedia of Chemical Technology, 1997, 22(Fourth Edition), 69–81.
77. M. Xanthos., Functional Fillers for Plastics, WILEY-VCH, Weinheim, 2010,
113
419.
78. L. Wang, C. sheng Liu, H. yun Yu, and C. qiang An, Structure and Corrosion Resistance of a Composite γ-Amino Propyl Triethoxy Silane and γ-Glycidoxy Propyl Trimethoxy Silane Conversion Coating on Galvanized Steel, Journal of Iron and Steel Research International, 2012, 19(11), 46–51.
79. Y. Liu, H. Cao, Y. Yu, and S. Chen, Corrosion protection of silane coatings modified by carbon nanotubes on stainless steel, International Journal of Electrochemical Science, 2015, 10(4), 3497–3509.
80. V. Palanivel, D. Zhu, and W. J. Van Ooij, Nanoparticle-filled silane films as chromate replacements for aluminum alloys, Progress in Organic Coatings, 2003, 47(3–4), 384–392.
81. K. L. Mittal, Silanes and Other Coupling Agents, Volume 4, CRC Press Book, 2007, 5, 348.
82. P. H. Suegama, H. G. de Melo, A. A. C. Recco, A. P. Tschiptschin, and I. V. Aoki, Corrosion behavior of carbon steel protected with single and bi-layer of silane films filled with silica nanoparticles, Surface and Coatings Technology, 2008, 202(13), 2850–2858.
83. N. Asadi, R. Naderi, and M. Saremi, Determination of optimum concentration of cloisite in an eco-friendly silane sol-gel film to improve corrosion resistance of mild steel, Applied Clay Science, 2014, 95, 243–251.
84. P. R. Seré, M. Banera, W. A. Egli, C. I. Elsner, A. R. Di Sarli, and C. Deyá, Effect on temporary protection and adhesion promoter of silane nanofilms applied on electro-galvanized steel, International Journal of Adhesion and Adhesives, 2016, 65, 88–95.
85. M. Pantoja, J. Abenojar, M. A. Martínez, and F. Velasco, Silane pretreatment of electrogalvanized steels: Effect on adhesive properties, International Journal of Adhesion and Adhesives, 2016, 65, 54–62.
86. D. M. Segura, A. D. Nurse, A. McCourt, R. Phelps, and A. Segura, Chapter 3 Chemistry of polyurethane adhesives and sealants, Handbook of Adhesives and Sealants, 2005, 1, 101–162.
87. M. Fedel, M. Olivier, M. Poelman, F. Deflorian, S. Rossi, and M.-E. Druart, Corrosion prorection properties of silane pre-treatment powder coated galvanized steel, Progress in Organic Coatings, 2009, 66, 118–128.
88. B. Chico, D. De La Fuente, M. L. Pérez, and M. Morcillo, Corrosion resistance of steel treated with different silane/paint systems, Journal of Coatings Technology and Research, 2012, 9(1), 3–13.
89. M. R. Tchoquessi Doidjo, L. Belec, E. Aragon, Y. Joliff, L. Lanarde, M. Meyer, M. Bonnaudet, and F. X. Perrin, Influence of silane-based treatment on adherence and wet durability of fusion bonded epoxy/steel joints, Progress in Organic Coatings, 2013, 76(12), 1765–1772.
90. S. Akhtar, A. Matin, A. Madhan Kumar, A. Ibrahim, and T. Laoui, Enhancement of anticorrosion property of 304 stainless steel using silane coatings, Applied Surface Science, 2018, 440, 1286–1297.
114
91. F. J. Shan, C. S. Liu, S. H. Wang, and G. C. Qi, Corrosion resistance of hot dip galvanized steel pretreated with bis-functional silanes modified with nanoalumina, Acta Metallurgica Sinica (English Letters), 2008, 21(4), 245– 252.
92. M. F. Montemor and M. G. S. Ferreira, Analytical characterization of silane films modified with cerium activated nanoparticles and its relation with the corrosion protection of galvanised steel substrates, Progress in Organic Coatings, 2008, 63(3), 330–337.
93. M. F. Montemor, R. Pinto, and M. G. S. Ferreira, Chemical composition and corrosion protection of silane films modified with CeO2 nanoparticles, Electrochimica Acta, 2009, 54, 5179–5189.
94. Z. She, Q. Li, S. Wang, F. Luo, F. Chen, and L. Li, Inhibiting and healing effects of potassium permanganate for silane films, Thin Solid Films, 2013, 539, 139–144.
95. S. Chen, Y. Cai, C. Zhuang, M. Yu, X. Song, and Y. Zhang, Electrochemical behavior and corrosion protection performance of bis-[triethoxysilylpropyl] tetrasulfide silane films modified with TiO2 sol on 304 stainless steel, Applied Surface Science, 2015, 331, 315–326.
96. M. Mahdavian, B. Ramezanzadeh, M. Akbarian, M. Ramezanzadeh, P. Kardar, E. Alibakhshi, and S. Farashi, Enhancement of silane coating protective performance by using a polydimethylsiloxane additive, Journal of Industrial and Engineering Chemistry, 2017, 55, 244–252.
the corrosion protection of AA2024-T3 97. V. Dalmoro, J. H. Z. dos Santos, C. Alemán, and D. S. Azambuja, An treated with Corrosion assessment of vinyltrimethoxysilane/(3-glycidyloxypropyl)trimethoxysilane, Science, 2015, 92, 200–208.
98. B. Ramezanzadeh, E. Raeisi, and M. Mahdavian, Studying various mixtures of 3-aminopropyltriethoxysilane (APS) and tetraethylorthosilicate (TEOS) silanes on the corrosion resistance of mild steel and adhesion properties of epoxy coating, International Journal of Adhesion and Adhesives, 2015, 63, 166–176.
99. G. Kong, J. Lu, S. Zhang, C. Che, and H. Wu, A comparative study of molybdate / silane composite fi lms on galvanized steel with different treatment processes, Surface & Coatings Technology, 2010, 205(2), 545–550.
100. Suresh Patel, The Power Coating Show: Next Generation (Advanced) Non- Phosphate Pretreatment.
101. K. Zuo, X. Wang, W. Liu, and Y. Zhao, Preparation and characterization of Ce − silane − ZrO 2 composite coatings on 1060 aluminum, Transactions of Nonferrous Metals Society of China, 2014, 24(5), 1474–1480.
102. Lê Minh Đức, Nghiên cứu khả năng chống ăn mòn của lớp phủ hữu cơ bằng lớp biến tính chứa Zr, Ti, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng, 2017, 1(110), 25–28.
103. Dương Thị Hồng Phấn, Nguyễn Tiến Dũng, Lê Minh Đức và Đào Hùng
115
Cường, Nghiên cứu lớp thụ động ức chế ăn mòn đa kim loại Mo/Zr/Ti trên nền thép, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng, 2017, 7(116), 62–66.
104. V. Drits, J. Środoń, and D. D. Eberl, XRD measurement of mean crystallite thickness of illite and illite/smectite: Reappraisal of the Kubler index and the Scherrer equation, Clays and Clay Minerals, 1997, 45(3), 461–475.
105. M. Negahdary, A. Habibi-tamijani, A. Asadi, and S. Ayati, Synthesis of Zirconia Nanoparticles and Their Ameliorative Roles as Additives Synthesis of Zirconia Nanoparticles and Their Ameliorative Roles as Additives Concrete Structures, Journal of Chemistry, 2013, 1–7.
106. G. J. Brug, A. L. G. Van den Eeden, M. Sluyters-Rehbach, and J. H. Sluyters, The analysis of eletrode impedances complicated by thepresence of a constant phase element, Journal of Electroanalytical Chemistry, 1984, 176(1–2), 275– 295.
107. H. T. M. Abdel-Fatah, H. S. Abdel-Samad, A. A. M. Hassan, and H. E. E. El- Sehiety, Effect of variation of the structure of amino acids on inhibition of the corrosion of low-alloy steel in ammoniated citric acid solutions, Research on Chemical Intermediates, 2014, 40(4), 1675–1690.
108. A. A. Hermas and M. S. Morad, A comparative study on the corrosion behaviour of 304 austenitic stainless steel in sulfamic and sulfuric acid solutions, Corrosion Science, 2008, 50(9), 2710–2717.
109. P. Taheri, K. Lill, J. H. W. De Wit, J. M. C. Mol, and H. Terryn, Effects of zinc surface acid-based properties on formation mechanisms and interfacial bonding properties of zirconium-based conversion layers, Journal of Physical Chemistry C, 2012, 116(15), 8426–8436.
110. T. Lostak, S. Krebs, A. Maljusch, T. Gothe, M. Giza, M. Kimpel, J. Flock, and S. Schulz, Formation and characterization of Fe3+-/Cu2+-modified zirconium oxide conversion layers on zinc alloy coated steel sheets, Electrochimica Acta, 2013, 112, 14–23.
111. J. W. Schultze and M. M. Lohrengel, Stability , reactivity and breakdown of passive films . Problems of recent and future research, Electrochemica Acta, 2000, 45, 2499–2513.
112. G. Kong, J. Lu, S. Zhang, C. Che, and H. Wu, A comparative study of molybdate/silane composite films on galvanized steel with different treatment processes, Surface and Coatings Technology, 2010, 205, 545–550.
113. V. P. Tolstoy and B. Altangerel, A new “fluoride” synthesis route for successive ionic layer deposition of the ZnxZr(OH)yFz·nH2O nanolayers, Materials Letters, 2007, 61(1), 123–125.
114. M. Behzadnasab, S. M. Mirabedini, K. Kabiri, and S. Jamali, Corrosion performance of epoxy coatings containing silane treated ZrO2 nanoparticles on mild steel in 3.5% NaCl solution, Corrosion Science, 2011, 53(1), 89–98.
115. L. Khomenkova et al., Effect of Ge Content on the Formation of Ge Nanoclusters in Magnetron-Sputtered GeZrOx-Based Structures, Nanoscale
116
Research Letters, 2017, 12(1).
116. A. I. Vaizoǧullar, A. Balci, and M. Uǧurlu, Synthesis of ZrO2and ZrO2/SiO2particles and photocatalytic degradation of methylene blue, Indian Journal of Chemistry - Section A Inorganic, Physical, Theoretical and Analytical Chemistry, 2015, 54A(12), 1434–1439.
117. V. V. Ganbavle, U. K. H. Bangi, S. S. Latthe, S. A. Mahadik, and A. V. Rao, Self-cleaning silica coatings on glass by single step sol-gel route, Surface and Coatings Technology, 2011, 205(23–24), 5338–5344.
118. G. A. El-Mahdy, A. M. Atta, and H. A. Al-Lohedan, Synthesis and Evaluation of Poly(Sodium 2-Acrylamido-2- Methylpropane Sulfonate-co- Styrene)/Magnetite Nanoparticle Composites as Corrosion Inhibitors for Steel, Molecules, 2014, 19(2), 1713–1731.
119. A. Ahmadi, B. Ramezanzadeh, and M. Mahdavian, Hybrid silane coating reinforced with silanized graphene oxide nanosheets with improved corrosion protective performance, RSC Advances, 2016, 6, 54102–54112.
120. D. J. K. Robert M. Silverstein, Francis X. Webster, Spectrometric identification of organic compounds, Journal of Molecular Structure, 2005, 512.
studies and of
121. S. L. a Maranhão, I. C. Guedes, F. J. Anaissi, H. E. Toma, and I. V. Aoki, Electrochemical poly(nickel- corrosion tetraaminophthalocyanine) on carbon steel, Electrochimica Acta, 2006, 52, 519–526.
122. I. R. Fontinha, M. M. Salta, M. L. Zheludkevich, and M. G. S. Ferreira, EIS Study of Amine Cured Epoxy-silica-zirconia Sol-gel Coatings for Corrosion Protection of the Aluminium Alloy EN AW 6063, Portugaliae Electrochimica Acta, 2013, 31(6), 307–319.
123. S. H. Khezri, A. Yazdani, and R. Khordad, Pure iron nanoparticles prepared by electric arc discharge method in ethylene glycol, The European Physical Journal Applied Physics, 2012, 59(September).
124. R. K. Singhal, B. Gangadhar, H. Basu, V. Manisha, G. R. K. Naidu, and A. V. R. Reddy, Remediation of Malathion Contaminated Soil Using Zero Valent Iron Nano-Particles, American Journal of Analytical Chemistry, 2012, 3, 76– 82.
125. I. Uhlmann, D. Hawelka, E. Hildebrandt, J. Pradella, and J. Rödel, Structure and mechanical properties of silica doped zirconia thin films, Thin Solid Films, 2013, 527, 200–204.
126. Y. Y. Zheng, H. M. Huang, W. J. Ji, J. W. Guo, L. Yu, and M. Sun, Synthesis of Different Nanostructured Zirconia by Mechanically Activated Solid State Reaction, Advanced Materials Research, 2011, 233–235, 1901–1905.
127. X. Zhang, C. van den Bos, W. G. Sloof, A. Hovestad, H. Terryn, and J. H. . . De Wit, Drying Effects on Corrosion Properties of Cr(VI)- and Cr(III)- Treated Electrogalvanized Steel, ECS Transactions, 2006, 1(July), 165–176.
128. C. Y. K. Lung, E. Kukk, and J. P. Matinlinna, Shear bond strength between
117
resin and zirconia with two different silane blends, Acta Odontologica Scandinavica, 2012, 70(5), 405–413.
129. G. Grundmeier and M. Stratmann, Adhesion and De-adhesion Mechanism at polimer/metal interfaces: Mechanistic Understanding Based on In Situ Studies of Buried Interfaces, Annual Review of Materials Research, 2005, 35(1), 571–615.
130. K. Ogle, S. Morel, and N. Meddahi, An electrochemical study of the delamination of polymer coatings on galvanized steel, Corrosion Science, 2005, 47(8), 2034–2052.
131. J. an I. Skar and U. Steinsmo, Cathodic disbonding of paint films- transport of charge, Corrosion Science, 1993, 35, 1385–1389.
132. Y. Shao, C. Jia, G. Meng, T. Zhang, and F. Wang, The role of a zinc phosphate pigment in the corrosion of scratched epoxy-coated steel, Corrosion Science, 2009, 51(2), 371–379.