
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 494 - THÁNG 9 - SỐ 1 - 2020
99
nhóm nghiên cứu là 59,13±7,528, tỷ lệ nam/nữ
là 1,73. Kết quả này phù hợp với nhiều nghiên
cứu như nghiên cứu của Andre T. 2009, ung thư
đại tràng giai đoạn II,III nam chiếm 52,4%, nữ
chiếm 47,6%2. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
tất cả 30 bệnh nhân được xét nghiệm CEA trước
phẫu thuật. 40% có nồng độ cao hơn so với bình
thường, trong đó có 20% bệnh nhân tăng nhẹ từ
5 -10 ng/ml, tăng trên 10ng/ml chiếm 20%. Kết
quả này tương tự với tác giả Vũ Thị Hằng (2015)
với 35,6% và tác giả Lê Hồng Hạnh (2018) với
33,3% bệnh nhân có nồng độ CEA cao hơn bình
thường3,4.
Thời gian sống thêm toàn bộ, thời gian sống
thêm không bệnh, độc tính là những mục tiêu
mà nghiên cứu đặt ra. Trong nghiên cứu ngắn
hạn này, chúng tôi chỉ đánh giá được thời gian
sống thêm toàn bộ, sống thêm không bệnh và
các tác dụng phụ trong quá trinh điều trị cũng
như thời gian theo dõi. Các nghiên cứu trên thế
giới cũng như tại Việt Nam, nhìn chung tỷ lệ
sống thêm toàn bộ tại thời điểm 3 năm đạt hơn
83%, tỷ lệ sống thêm không bệnh trên 75%, và
các tạc dụng phụ thường gặp trên hệ huyết học,
tiêu hóa hay thần kinh ngoại vi chủ yếu là là mức
độ nhẹ, không ảnh hưởng đến dừng quá trình
điều trị5-9. Nghiên cứu của chúng tôi bước đầu cho
kết quả rất đáng khích lệ, tiệm cận với kết quả của
nhiều nghiên cứu trong nước cũng như nước ngoài
về điều trị hóa trị bổ trợ ung thư đại tràng.
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu 30 bệnh nhân ung thư đại tràng
giai đoạn III, điều trị hóa trị bổ trợ phác đồ
Folfox4, đánh giá kết quả của phương pháp điều
trị, ta thấy: tỷ lệ bệnh nhân sống thêm toàn bộ tại
thời điểm 3 năm 83,3%, sống thêm không bệnh
tại thời điểm 3 năm: 80%, tác dụng phụ lên hệ
tạo huyết, tiêu hóa, thần kinh ngoại vi là thấp và
chủ yếu là mức độ nhẹ. Hóa trị bổ trợ phác đồ
Folfox4 là 1 phác đồ hiệu quả và an toàn cho
bệnh nhân ung thư đại tràng giai đoạn III.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Globocan. Colorectal Cancer Incidence and
Mortality Worldwide in 2012. International Agency
for Research on Cancer. 2012.
2. André T Boni C, Navarro M. Improved overall
survival with oxaliplatin, fluorouracil, and
leucovorin as adjuvant treatment in stage II or III
colon cancer, The MOSAIC trial. J Clin oncol. 2009;
27: 3109.
3. Vũ Thị Hằng. Đánh giá kết quả điều trị ung thư
đại tràng giai đoạn II,III bằng phẫu thuật kết hợp
hóa chất bổ trợ FOLFOX4 tại bệnh viện đa khoa
tỉnh Thanh Hóa: Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
chuyên ngành ung thư, Đại học Y Hà Nội; 2015.
4. Lê Hồng Hạnh. Kết quả hóa trị bổ trợ Folfox 4
trong bệnh nhân ung thư đại tràng giai đoạn II, III
tại bệnh viện Tỉnh Nghệ An: Luận văn tốt nghiệp cao
học chuyên ngành ung thư, Đại học Y Hà Nội; 2018.
5. André T Boni C, Mounedji- boudiaf L. An
overrview of adjuvant systemic chemotherapy for
colon cancer. N Engl J Med. 2004;350(23)(2343): 51.
6. La Vân Trường. Kết quả điều trị bổ trợ ung thư
đại tràng giai đoạn II,III bằng phác đồ FOLFOX4, .
Tạp chí y học Việt Nam 2017; số 1 -2017: 126 -130.
7. Hyeong- Joon Jeon, Jin- Hye Won , et al.
Adjuvant chemotherapy using the Folfox 4 regimen
in colon cancer. Journal of the kerean society of
coloproctology 2011. 27(3): 140 -145.
8. Richard M.Goldberg, DanielJ. Sargent,
Morton RF.A randomized controlled trial of
fluorouracil Plus Leucovorin, Irinotecan, and
Oxaliplatin combinations in patients with previously
untreated metastatic colorrectal cancer. Journal of
clinical oncology. 2005; 22( 1): 23-30.
9. Nordlinger, Sorbye H, Debois M, et al.
Feasibility and risks of pre-operative chemotherapy
with FOLFOX 4 and surgery for resectable
colorectal cancer live metastases. 2005.
NGHIÊN CỨU ĐỘC TÍNH SINH SẢN MỘT THẾ HỆ CỦA KOCOL
TRÊN ĐỘNG VẬT THỰC NGHIỆM
Mai Phương Thanh1, Phạm Thị Vân Anh1,
Nguyễn Hồng Vân2, Lê Kim Loan3
TÓM TẮT25
1Đại học Y Hà Nội
2Công ty cổ phần dược phẩm và thiết bị y tế Nhật Đức
3Viện nghiên cứu Y Dược cổ truyền Bách thảo dược
Chịu trách nhiệm chính: Mai Phương Thanh
Email: maiphuongthanh@hmu.edu.vn
Ngày nhận bài: 14.7.2020
Ngày phản biện khoa học: 17.8.2020
Ngày duyệt bài: 24.8.2020
Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định độc
tính sinh sản một thế hệ của viên nang Kocol trên
chuột nhắt cái ở các mức liều nghiên cứu là 2,88
viên/kg/ngày và 8,64 viên/kg/ngày. Nghiên cứu được
tiến hành theo hướng dẫn OECD 415 với thời gian
uống thuốc của chuột nhắt cái bao gồm 3 tuần trước
giao phối, 3 tuần giao phối, thời gian mang thai và 21
sau sinh của chuột nhắt cái. Kết quả cho thấy, không
có sự khác biệt về số lượng hoàng thể, trọng lượng tử
cung của chuột nhắt cái giữa các lô nghiên cứu. Tỷ lệ
mang thai và số chuột con/1 lứa đẻ ở các lô uống

vietnam medical journal n01 - SEPTEMBER - 2020
100
Kocol có xu hướng thấp hơn so với lô chứng sinh học,
tuy nhiên, tỷ lệ chuột con sống và sự gia tăng trọng
lượng của chuột con ở các lô uống thuốc thử đều có
tăng tốt hơn so với lô chứng sinh học. Các kết quả
nghiên cứu này gợi ý rằng, chế phẩm Kocol ở các mức
liều nghiên cứu không gây độc tính sinh sản trên
chuột nhắt cái và thế hệ chuột con F1.
Từ khóa:
Kocol, độc tính sinh sản, chuột nhắt.
SUMMARY
ONE-GENERATION REPRODUCTION
TOXICITY STUDY OF KOCOL CAPSULES IN
FEMALE MICE
This study aimed to evaluate the potential toxicity
and safety of Kocol capsules by determining its effect
on the reproductive function and development of
Swiss mice at dose levels of 0 (control), 2.88, and
8.64 capsules/kg/day. No treatment-related difference
in the number of corpora lutea and the uterus weight
were observed between the groups. The pregnancy
rate and the litter size of the test drug groups tended
to be lower compared to the normal control group,
however, the number and proportion of live pups per
litter, and the mean body weight of live pups in Kocol-
treated groups were increased more than the control
group. These results indicated that the Kocol capsules
at the dose of 2.88 capsules/kg/day and 8.64
capsules/kg/day did not have reproductive toxicity for
parental females and for pups.
Keywords:
Kocol, reproductive toxicity, mice.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Với phụ nữ mang thai, khi hệ miễn dịch suy
giảm cùng với những thay đổi trong cơ thể có
nguy cơ làm bệnh cúm lâu khỏi hoặc trầm trọng
hơn ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi.
Các biện pháp điều trị cúm ở phụ nữ mang thai
chủ yếu là liệu pháp không dùng thuốc như nghỉ
ngơi, uống nhiều nước, chế độ ăn tăng cường
các thực phẩm giúp tăng cường hệ miễn dịch.
Nếu các triệu chứng ít cải thiện, dựa trên những
đánh giá về lợi ích-nguy cơ, các bác sĩ có thể chỉ
định dùng thêm một số thuốc theo y học hiện
đại như thuốc hạ sốt, giảm đau paracetamol,
một số thuốc giảm ho, giảm nghẹt mũi và chảy
nước mũi [1]. Các thuốc này tuy tác dụng nhanh
nhưng vẫn còn tiềm ẩn nhiều tác dụng không
mong muốn đối với phụ nữ mang thai.
Kocol là một chế phẩm phối hợp của các dược
liệu bạch chỉ, kinh giới, tô diệp, cát căn, địa liền
và thymomodulin. Kocol được sử dụng nhằm
mục đích hỗ trợ tăng cường sức đề kháng, giúp
giải cảm, hạ sốt trên những người bị cảm, cảm
lạnh, sốt với biểu hiện nhức đầu, hắt hơi, sổ mũi,
đau họng. Để có thể sử dụng Kocol trên phụ nữ
có thai bị cảm cúm, cần phải có những bằng
chứng khoa học đáng tin cậy về ảnh hưởng của
sản phẩm đến chức năng sinh sản. Nghiên cứu
này được tiến hành nhằm mục tiêu:
Đánh giá
độc tính sinh sản một thế hệ của viên nang Kocol
trên chuột nhắt cái.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu. Thực phẩm
bảo vệ sức khỏe Kocol do Công ty cổ phần dược
phẩm và thiết bị y tế Nhật Đức cung cấp. Thuốc
thử đạt tiêu chuẩn cơ sở. Mỗi viên nang chứa
350 g dược liệu tương đương với 300 mg bạch
chỉ, 200 mg kinh giới, 200 mg tô diệp, 200 mg
cát căn, 100 mg địa liền, và 20 mg
thymomodulin. Liều dùng dự kiến của Kocol ở
người lớn và trẻ em trên 10 tuổi là 9-12
viên/ngày, chia làm 3-4 lần.
2.2 Hóa chất, dụng cụ phục vụ nghiên cứu
- Dụng cụ và vật liệu dùng cho phẫu thuật
động vật: kính lúp, kéo, panh, bông, băng, gạc,
bơm tiêm,…
- Hóa chất: các hóa chất làm tiêu bản mô học
2.3 Động vật thực nghiệm: Chuột nhắt
trắng chủng Swiss 5-9 tuần tuổi, cả 2 giống,
khỏe mạnh do Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương
cung cấp. Động vật được nuôi trong phòng thí
nghiệm 3 - 5 ngày trước khi nghiên cứu bằng
thức ăn chuẩn dành riêng (do Viện Vệ sinh Dịch
tễ Trung ương cung cấp).
2.4 Phương pháp nghiên cứu. Nghiên cứu
được tiến hành theo hướng dẫn OECD 415 [2].
Chuột đực, chuột cái được chia ngẫu nhiên
thành các lô nghiên cứu.
Lô nghiên
cứu
Chuột đực
(n = 15)
Chuột cái
(n = 30)
Chứng sinh
học
Lô 1D (uống
nước)
Lô 1C (uống
nước)
Kocol liều
2,88 viên/kg
Lô 2D (uống
nước)
Lô 2C (uống
thuốc)
Kocol liều
8,64 viên/kg
Lô 3D (uống
nước)
Lô 3C (uống
thuốc)
Chuột ở các lô được uống thuốc thử/dung
môi pha thuốc một lần mỗi ngày với thể tích 0,2
mL/10g thể trọng chuột nhắt.
Thời gian uống thuốc và thời gian giao phối:
- Chuột đực uống nước trong suốt thời gian
nghiên cứu.
- Chuột cái ở các nhóm được uống thuốc
thử/dung môi pha thuốc liên tục 3 tuần trước khi
giao phối và kéo dài trong suốt 3 tuần giao phối.
Chuột mẹ tiếp tục được uống thuốc trong suốt
thời gian mang thai và kéo dài tới 21 ngày sau
khi sinh (thời gian cho con bú)
- Kết thúc giai đoạn 3 tuần uống thuốc trước
giao phối, các chuột đực được ghép cặp với
chuột cái để bắt đầu tiến hành giao phối.
+ Tỷ lệ ghép cặp: 1 chuột đực ghép với 2
chuột cái.

TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 494 - THÁNG 9 - SỐ 1 - 2020
101
Lô nghiên cứu
Ghép cặp
Chứng sinh học
Lô 1D (uống nước) + Lô 1C
(uống nước)
Kocol liều 2,88
viên/kg
Lô 2D (uống nước) + Lô 2C
(uống thuốc)
Kocol liều 8,64
viên/kg
Lô 3D (uống nước) + Lô 3C
(uống thuốc)
+ Thời gian ghép cặp: 3 tuần.
- Kết thúc thời gian giao phối:
+ Chuột đực: giết chuột đực, mổ lấy các cơ
quan sinh dục và cân trọng lượng (đầu dương vật,
tinh hoàn, mào tinh, túi tinh, tuyến tiền liệt, tuyến
Cowper, cơ nâng hậu môn-hành hang) ở mỗi lô.
+ 50% số chuột cái ở mỗi lô nghiên cứu bị
giết vào ngày thứ 18 tính từ thời điểm bắt đầu
ghép cặp, lấy tử cung nhằm xác định:
▪ Số chuột cái mang thai
▪ Đếm số thai đậu, số thai sống, thai chết, số
hoàng thể
+ 50% số chuột cái còn lại nuôi đến khi đẻ
▪ Xác định số chuột cái đẻ con.
▪ Đánh giá số con sinh ra trong một lứa đẻ,
số con sống/chết, số con bình thường, số con dị
tật. Xác định trọng lượng chuột con trong vòng
24 giờ đầu, ngày thứ 4, ngày thứ 13, và ngày
thứ 21 sau khi sinh.
2.5 Phân tích thống kê: Các số liệu được
thu thập xử lý thống kê theo thuật toán thống kê
Student’t-test, Mann-Whitney test và Chi-square
test bằng phần mềm Microsoft Excel 2010 và
SPSS 22.0. Sự khác biệt có ý nghĩa khi p < 0,05.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1 Trọng lượng các cơ quan sinh dục của chuột nhắt đực
Bảng 1. Trọng lượng các cơ quan sinh dục của chuột nhắt đực
Trọng lượng ( ± SD)
(mg/10g thể trọng)
Chứng sinh học
Kocol
2,88 viên/kg
Kocol
8,64 viên/kg
Đầu dương vật
9,86 ± 2,66
10,07 ± 2,51
10,69 ± 2,27
Tinh hoàn
87,99 ± 16,80
84,07 ± 13,25
91,66 ± 18,27
Mào tinh
30,32 ± 5,96
33,49 ± 6,97
29,76 ± 5,86
Túi tinh
45,96 ± 13,43
48,79 ± 14,05
50,59 ± 14,12
Tuyến tiền liệt
4,43 ± 1,54
4,92 ± 1,34
5,65 ± 1,53
Tuyến Cowper
11,52 ± 2,24
13,43 ± 3,07
12,62 ± 1,92
Cơ nâng hậu môn
46,22 ± 9,21
48,77 ± 11,83
53,22 ± 11,31
Kết quả ở bảng 1 cho thấy: không có sự khác biệt về trọng lượng tinh hoàn và các cơ quan sinh
dục phụ của chuột nhắt đực ở các lô nghiên cứu (p>0,05).
3.2 Ảnh hưởng của Kocol đến các chỉ số
nghiên cứu trên chuột nhắt cái
Bảng 2. Ảnh hưởng của Kocol đến tỷ lệ
mang thai của chuột nhắt cái
Lô nghiên
cứu
Số chuột
cái ghép
cặp
Số chuột
cái mang
thai
Tỷ lệ
mang
thai (%)
Chứng sinh
học
27
14
51,85
Kocol 2,88
viên/kg
25
06
24,00*
Kocol 8,64
viên/kg
27
12
44,44
*p<0,05 so với lô chứng sinh học (Chi-square
test)
Kết quả ở bảng 2 cho thấy: Tỷ lệ mang thai
của chuột nhắt cái uống Kocol liều 2,88 viên/kg
thấp nhất trong các lô nghiên cứu, sự khác biệt
được quan sát thấy khi so sánh với tỷ lệ mang
thai của chuột nhắt cái ở lô chứng sinh học (p (X
> χ2) = 0,039 < α = 0,05). Không có sự khác
biệt khi so sánh về tỷ lệ mang thai của 2 lô uống
Kocol (p (X > χ2) = 0,122 > α = 0,05).
Bảng 3. Ảnh hưởng của Kocol đến số
lượng hoàng thể và trọng lượng tử cung
của chuột nhắt cái
Lô nghiên
cứu
Số hoàng thể
( ± SD)
Trọng lượng tử
cung (mg/10g
thể trọng)
Chứng sinh học
11,26 ± 1,82
47,64 ± 7,89
Kocol 2,88
viên/kg
10,26 ± 2,51
45,17 ± 12,14
Kocol 8,64
viên/kg
9,89 ± 2,54
40,03 ± 4,34
Kết quả ở bảng 3 cho thấy: Số lượng hoàng
thể và trọng lượng tử cung của chuột nhắt cái ở
các lô uống Kocol không có sự khác biệt khi so
sánh với chuột nhắt cái ở các lô uống nước cất
(p > 0,05).
Bảng 4. Ảnh hưởng của Kocol đến các
chỉ số nghiên cứu trên chuột cái được mổ
để quan sát
Chỉ số nghiên
cứu
Chứng
Kocol
2,88
viên/kg
Kocol
8,64
viên/kg
Số thai đậu
11,60
0
9,75 ±

vietnam medical journal n01 - SEPTEMBER - 2020
102
± 1,82
1,71
Số thai sống
11,60
± 1,82
0
9,75 ±
1,71
Số thai
chết
Sớm
0
0
0
Muộn
0
0
0
Kết quả ở bảng 4 cho thấy: Không có chuột
cái mang thai tại thời điểm 18 ngày tính từ ngày
đầu tiên ghép cặp ở lô uống Kocol liều 2,88
viên/kg. Không có thai chết ở các chuột cái
mang thai của lô chứng và lô uống Kocol liều
8,64 viên/kg. Số thai đậu, số thai sống không có
sự khác biệt khi so sánh giữa lô chứng sinh học
và lô uống Kocol liều cao (p>0,05).
Bảng 5. Ảnh hưởng của Kocol đến các
chỉ số nghiên cứu trên chuột cái được nuôi
đến khi đẻ ra chuột con
Chỉ số
nghiên cứu
Chứng
Kocol
2,88
viên/kg
Kocol
8,64
viên/kg
Số chuột
con/1 lứa đẻ
10,89
± 4,01
9,00 ±
2,61
7,13 ±
2,64*
Tỷ lệ chuột
con sống (%)
17,3
44,4
57,9
Tỉ lệ chuột
con có dị tật
bẩm sinh (%)
0
0
0
Tỉ lệ chuột
con chết (%)
82,7
55,6
42,1
*p<0,05 so với lô chứng sinh học (Mann-
Whitney test)
Kết quả ở bảng 5 cho thấy: Chuột nhắt ở lô
chứng sinh học có số con trung bình/1 lứa đẻ là
cao nhất, tuy nhiên chuột con sống có mức tỷ lệ
thấp nhất trong các lô nghiên cứu.
Các lô uống Kocol tuy có số chuột con/1 lứa
đẻ thấp hơn so với lô chứng sinh học, nhưng tỷ
lệ chuột con chết giảm đi đáng kể so với lô
chứng sinh học. Không có sự khác biệt khi so
sánh về số lượng chuột con/1 lứa đẻ và tỷ lệ
chuột con sống/chết giữa hai lô uống Kocol.
Bảng 6. Ảnh hưởng của Kocol lên trọng lượng chuột con F1
Lô nghiên cứu
Trọng lượng chuột F1 ( ± SD) (g)
24 giờ đầu
sau sinh
Ngày thứ 4
sau sinh
Ngày thứ 13
sau sinh
Ngày thứ 21 sau
sinh
Chứng sinh học
1,59 ± 0,16
3,22 ± 0,64
10,29 ± 0,65
14,70 ± 0,83
Kocol 2,88 viên/kg
1,77 ±0,21***
3,07 ± 0,41
9,62 ± 2,30
16,55 ± 1,97***
Kocol 8,64 viên/kg
2,06 ±0,59***
3,28 ± 0,95
9,30 ± 2,37
16,44 ± 3,58*
*p<0,05; ***p<0,001 so với lô chứng sinh học (Student’t-test)
Kết quả bảng 6 cho thấy, tại thời điểm 24 giờ đầu sau sinh và kết thúc thời gian bú mẹ (ngày thứ
21 sau sinh), trọng lượng chuột con F1 ở các lô uống Kocol đều tăng tốt hơn so với lô chứng sinh học
(p<0,05 và p<0,001).
IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu độc tính sinh sản một thế hệ có
thể giúp cung cấp những thông tin chung liên
quan đến tác động của chất thử đối với hiệu quả
sinh sản, như chức năng tuyến sinh dục, chu kỳ
động dục, hành vi giao phối, các giai đoạn thụ
thai, sinh con, cho con bú và cai sữa. Những
quan sát sơ bộ về các độc tính của chất thử với
quá trình phát triển, chẳng hạn như tỷ lệ mắc
bệnh, tỷ lệ tử vong và tỷ lệ quái thai sau sinh
cũng có thể được thực hiện trong nghiên cứu
này, từ đó là cơ sở triển khai các hướng nghiên
cứu tiếp theo [2].
Kocol là một chế phẩm phối hợp của các dược
liệu, bao gồm bạch chỉ, kinh giới, tô diệp, cát
căn, địa liền, và thymomodulin. Bạch chỉ
(Angelica dahurica Benth. Et Hook.) có vị cay,
tính bình, có tác dụng khư phong, chỉ thống,
hoạt huyết, bài nung, sinh cơ. Kinh giới
(Schizonepeta tenuifolia Briq) vị cay, tính ôn
mang lại công dụng tán hàn, phát biểu, khứ
phong, lợi yết hầu. Tô diệp hay lá tía tô (Folium
Perillae) vị cay, tính ôn, có hiệu quả phát tán
phong hàn, lý khí khoan hung, giải uất, hóa
đờm. Cát căn (Pueraria thomsoni Benth.) vị ngọt,
cay, tính bình, giúp giải cơ, thoát nhiệt, thấu
chẩn, sinh tân chỉ khát, thăng tỳ dương để chỉ
tả. Địa liền (Kaempferia galanga L.) vị cay, tính
ôn, được dùng để ôn trung tán hàn, trừ thấp,
tịch (tránh) uế [3]. Chưa có tài liệu nào chỉ ra tác
động có hại của các dược liệu kể trên đối với phụ
nữ mang thai và sự phát triển của thai nhi.
Thymomodulin là dẫn xuất của acid lysate, bao
gồm một số peptide có trọng lượng phân tử dao
động 1-10kD. Trên in vitro và in vivo,
thymomodulin đã thể hiện khả năng cảm ứng sự
trưởng thành của tế bào lympho T. Ngoài ra, các
nghiên cứu in vitro còn cho thấy rằng dẫn xuất
tuyến ức này có thể tăng cường chức năng của
các tế bào lympho T trưởng thành với các hiệu
ứng chuỗi trên các chức năng của tế bào B và
đại thực bào. Các thử nghiệm lâm sàng trên

TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 494 - THÁNG 9 - SỐ 1 - 2020
103
người với thymomodulin cho thấy tác nhân này
có thể cải thiện các triệu chứng lâm sàng quan
sát được với nhiều bệnh lý khác nhau, bao gồm
nhiễm trùng, dị ứng và bệnh ác tính, và có thể
cải thiện chức năng miễn dịch trong quá trình lão
hóa [4]. Thymomodulin không có tác dụng gây
đột biến. Hơn nữa, thymomodulin được sử dụng
trong các nghiên cứu trên động vật cho thấy
không có độc tính ngay cả khi được sử dụng ở
nồng độ cao [4]. Với các đặc tính của các dược
liệu thành phần và thymomodulin, viên nang
Kocol được sử dụng nhằm mục đích hỗ trợ tăng
cường sức đề kháng, giúp giải cảm, hạ sốt trên
những người bị cảm, cảm lạnh, sốt với biểu hiện
nhức đầu, hắt hơi, sổ mũi, đau họng. Nghiên cứu
này được thực hiện nhằm đánh giá độc tính sinh
sản một thế hệ của Kocol trên chuột nhắt cái
trưởng thành, từ đó làm cơ sở cho các nghiên
cứu tiếp theo nhằm từng bước có thể mở rộng
đối tượng sử dụng sản phẩm cho phụ nữ có thai.
Theo hướng dẫn của OECD, nghiên cứu độc
tính sinh sản có thể được tiến hành trên các loài
động vật gặm nhấm, trong đó có chuột nhắt [2].
Thử nghiệm được tiến hành trên động vật cả hai
giống. Với mục đích chỉ đánh giá ảnh hưởng của
thuốc thử đến chức năng sinh sản của động vật
thực nghiệm giống cái, chuột nhắt đực trong
nghiên cứu này chỉ uống nước trong suốt thời
gian nghiên cứu. Theo kết quả ở bảng 1, không
có sự khác biệt về trọng lượng tinh hoàn và các
cơ quan sinh dục phụ ở các lô nghiên cứu, điều
này cho thấy sự đồng đều về cấu trúc và chức
năng của các cơ quan sinh sản của tất cả các
chuột nhắt đực tham gia ghép cặp với các chuột
nhắt cái trong thử nghiệm này. Đối với chuột cái,
thời gian dùng thuốc thử bao gồm 3 tuần trước
khi giao phối, thời gian giao phối, thời gian mang
thai và kéo dài đến ngày thứ 21 sau khi sinh. Từ
các kết quả về khả năng mang thai, các biểu
hiện trong thai kỳ và giai đoạn sau sinh, và sự
phát triển thể chất ban đầu của lứa chuột con F1
giúp đánh giá thêm được các tác dụng của thuốc
đến chức năng sinh sản ở giống cái [2]. Thời
gian tiến hành nghiên cứu này bao gồm 21 ngày
trước giao phối, thời gian giao phối tối đa 21
ngày, thời gian mang thai và 21 ngày đầu sau sinh
của chuột nhắt cái đã đảm bảo được thời gian cần
thiết để đánh giá ảnh hưởng của Kocol đến hoạt
động sinh sản của động vật thực nghiệm.
Kết quả nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của
Kocol đến hoạt động sinh sản của chuột nhắt cái
được thể hiện trong các bảng 2, 3, 4, 5 và 6.
Không có sự khác biệt về số lượng hoàng thể và
trọng lượng tử cung của chuột nhắt cái khi so
sánh giữa các lô nghiên cứu, bên cạnh đó, cũng
không quan sát thấy những biến đổi bất thường
trên hình ảnh vi thể cấu trúc âm đạo, tử cung và
buồng trứng ở cả lô chứng sinh học và các lô
uống thuốc thử. Như vậy, viên nang Kocol ở cả
hai mức liều nghiên cứu đều không gây ra những
tổn thương về cấu trúc của các cơ quan sinh sản
của chuột nhắt cái. Các số liệu nghiên cứu cũng
chưa chỉ ra ảnh hưởng của Kocol tới chức năng
của các cơ quan sinh sản. Quan sát số liệu về tỷ
lệ mang thai có thể nhận thấy, lô Kocol liều thấp
có số chuột nhắt cái mang thai là ít nhất, tuy
nhiên lô Kocol liều cao có tỷ lệ chuột mang thai
là tương đương với lô chứng sinh học. Kết quả
này chưa cho thấy mối tương quan giữa mức liều
Kocol và khả năng thụ tinh ở chuột nhắt cái. Tiếp
tục với các số liệu ở thế hệ F1, số chuột con/1
lứa đẻ ở các lô chuột uống Kocol tuy có thấp hơn
so với lô chứng sinh học nhưng tỷ lệ chuột con
sống sót sau sinh lại tăng cao hơn, sự phát triển
về mặt thể chất của chuột con trong thời gian bú
mẹ, thể hiện qua sự gia tăng trọng lượng cũng
tốt hơn so với chuột con ở lô chứng sinh học.
Điều này có thể giải thích một phần là do số
chuột con/1 lứa đẻ ở lô chứng sinh học quá cao
khiến cho chuột con sau khi sinh ra yếu, chuột
nhắt mẹ không đủ sữa để nuôi con, dẫn đến
tăng tỷ lệ chết sau sinh của chuột con. Từ các
kết quả này có thể thấy, Kocol chưa gây ra
những ảnh hưởng đến hoạt động sinh sản ở
chuột nhắt cái.
V. KẾT LUẬN
Không phát hiện các biểu hiện độc tính của
Kocol trong nghiên cứu độc tính sinh sản một
thế hệ trên chuột nhắt trắng.
Sản phẩm Kocol liều 2,88 viên/kg và 8,64
viên/kg trên thực nghiệm (tương đương 12
viên/người/ngày và liều 36 viên/người/ngày)
không gây độc tính sinh sản trên thế hệ F1 trên
thực nghiệm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Erebara A, Bozzo P, Einarson A, Koren G
(2008). Treating the common cold during
pregnancy. Can Fam Physician, 54(5), 687–689.
2. OECD (2019). Test No. 415: One-Generation
Reproduction Toxicity Study, OECD Guidelines for
the Testing of Chemicals, Section 4, OECD
Publishing,
Paris, https://doi.org/10.1787/9789264070844-en.
3. Đỗ Tất Lợi (2015). Những cây thuốc và vị thuốc
Việt Nam. Nhà xuất bản Y học.
4. Kouttab NM, Prada M, Cazzola P (1989).
Thymomodulin: biological properties and clinical
applications. Med Oncol Tumor Pharmacother,
6(1), 5-9.

