NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
1. Quan niêm của các tác gia người
Pháp
Vào những năm 30 của thế kỉ XX, sử
. : Am `. - ` 3x :
thì Đăm Săn ' ˆ được Lêôpôn Sabachiê dịch
ta tiếng Pháp và xuất ban ø Đan.
Năm 1933, L.Sabachiê công bố lần thứ
hai trên tạp chí của Viện Viễn đông bác cổ
(trụ sơ của Viện này lúc đó đóng tại Hà
Nội). Lần xuất bản này có in cả tiếng b Đề.
Đây là một công trình nghiền cứu công
phu” mà theo ŒS Phan Đăng Nhật, "các sử
thi khác ở Việt Nam ít có trương hợp làm
ss( 12)
dược như vậy
Các tác gia người Pháp đã hiểu tác
phâm và đánh giá nhân vật Đăm Săn như
thế nào?
Năm 1933. Sabachiê cho rắng tác
phâm Đăm Săn là "một câu chuyện trình
bày về các tục lệ, một bài học về xã hội học
(3)
và đạo đức” của người lồ Đê “hơn là câu
chuyện về ngươi anh hùng với các chiên
ss( |]
công của anh ta”, là "một điều ban bố đơn
«. ~ n _“ n ss{ñ) Kš ˆ Đc ` z
gian về luật nối dây”” "không thê nào vì
„a§
phạm được”””.
Năm 1954, G.Côngđômnát nhận xét:
Đăm Săn "là một văn ban giáo huấn”.
"Toàn bộ bài ca toát lên sức mạnh của luật
lệ điều khiển quan hệ vợ chồng””. Đăm
Săn “chi là một con người thụ động, y chịu
đựng không hề tìm kiếm một sự phiêu lưu
thử thách đối với y"°”.
Năm 1950, Đuôcnơ có ý kiến rất khác
với hai tác giả vừa nêu: YĐể tài cơ bản của
bản anh hùng ca này là nhu cầu vươn lên
của con người vốn sinh ra đã mang tình
thân không thoa mãn. Tỉnh thần này được
NGHIÊN CỨU VẢ NHẬN THỨC
Sử T1 Là riỘT Qwá TRÌBB
NGUYÊN XUÂN KÍNH”)
biêu hiện băng hành động đuôi mặt trời
^ sí((t) e #2 . P ˆ
đang lên””. Ông chứng minh rằng, đây
cũng là để tài thường thấy trong các sáng
tác dân gian Tây Nguyên.
2. Nhận thức của PGS Chu Xuân
Liên
Năm 1957 tại Hà Nội, tác phẩm Đỡm
Săn dược Đào Tử Chí dịch ra tiếng Việt,
công bố trên tạp chí Văn nghệ với tên gọi
Bài ca chàng J)am San. Sau đó năm 1959,
tác phâm này được Nhà xuất bản Văn hoá
¡1n thành sách.
Năm 1960, trên tập san Nghiên cứu
văn học, DGS Chu Xuân Diên dành một bài
nghiên cứu công phu về tác phâm này.
Chu Xuân Diên là người định danh
sớm nhất về tên gọi thể loại cho Đăm
Săn, khi ông viết: "Đam San là một nhân
vật anh hùng, và Bài ca chàng Đam San
là một bản anh hùng ca, một sử £h¿ của
đân tộc § Đê”””, Về chủ đề của tác phẩm
ông viết:
"Đam Săn là một thanh niên lao động
giỏi, chiến dấu dũng cảm, có sắc đẹp và sức
mạnh phìị thương. Ngươi thanh niên anh
hùng này ưa sống một cuộc sống tự do,
phóng khoáng, có nhiều mơ ước tàn bạo.
Nhưng khuôn khô chật hẹp của xã hội, sức
manh của phong tục tập quán đã ngăn can
không cho anh sống đây đủ cuộc sống tự do
phóng khoáng ấy. Bài ca chàng Đam San
ca ngợi tỉnh thân và hành động quật khởi
của Đam San chống lại khuôn khổ chật hẹp
- seo ^ * `#sv(]]
của xã hội đương thời "”'””.
' GS. TS. Viện Nghiên cứu Văn hóa.
NGUYÊN XUÂN KÍNH
—_—__— —————___ —_—_—_— CC CC
Theo tác giả, "toàn bộ ý chí và hành
động của Đam San từ đầu chí cuối là một
loat những phản kháng chống lại phong tục
nối dây và những tàn tích của chế độ mâu
_ ` xs{ l3)
quyển đang còn mạnh” —.
Năm 1983, trong Từ điển Văn học, Chu
Xuân Diên cho rằng, những hành động và
chiến công của Đăm Săn xoay quanh hai
chủ để chính. "Thứ nhất là chủ để đấu
tranh để thoát khói những ràng buộc của
một tâp tục hôn nhân theo chế độ mâu
"13 *®hn đề thứ hai của thiên sử thì
quyền
là đấu tranh chống những tù trương thù
địch để bảo vệ cuộc sống và mở rộng địa
bàn cư trú của bộ tộc”.””,
Năm 3005, trong sách giáo khoa thí
điểm Ngữ uăn 10, tập một, dành cho Ban
hoa học xã hội uà nhân 0uăn, bộ 1, Chu
Xuân Diên nhận định: "Nhìn chung, sử thì
anh hùng Tây Nguyên có ba để tài chính:
hôn nhân, chiến tranh và lao động xây
đựng. Để tài chiến tranh quan trọng hơn
ca, là để tài trung tâm của sử thi anh hùng
và thu hút các sự kiện của hai loại để tài
kia""”, Đến đây, về mặt nội dung đề tài
cua sử thị, Chu Xuân Diên đã gặp gỡ Phan
Đăng Nhật (ý kiến của Phan Đăng Nhật
công bố từ năm 1986).
Như vậy, nhận thức của PGBS Chu
Xuân Diên về để tài của sử thi là một quá
trình 43 năm.
3. Quan niệm của PGS Đô Bình Trị
Năm 1970, trong giáo trình đại học
Lịch sử uăn học Việt Nam, tập l_ Văn học
đân gian, PGS Đỗ Bình Trị không tán
thành ý kiên của PGS Chu Xuân Diên khi
Chu Xuân Diên cho rằng tác phẩm Đămn
Săn thể hiện đậm nét chủ đề chống lại tập
tục nối dây. Đồ Bình Trị viết: *Nếu chúng
ta xuất phát từ sự nhận thức tác phẩm từ
sự tông hoà các mặt và các mối quan hệ
trong tác phẩm mà phân tích thì chúng ta
thây tác gia bài ca không phải đã miêu tả
xã hội Đam San như một cái gì "ngăn cần
sự thực hiện những khát vọng về hạnh
phúc của con ngươi”. Khuôn khô xã hội ở
đây, với tập-Ltục chuê nuê và các tàn tích
của chế độ mẫu quyền, chưa phải là cái gì
bóp nghẹt hạnh phúc của con ngươi hoặc
ràng buộc không cho con người vươn lên
phía trước. Trái lại, hạnh phúc của con
người - những hạnh phúc cụ thể - lịch sử
xét về một mặt nào đó lại gắn với việc tuân
theo tập tục. Trong toàn bộ bài ca chúng ta
không hề bắt gặp một chỉ tiết nào chứng tỏ
rằng những con người trong xã hội ấy, kế
ca Đam San "đã thấy được cái vô lí bất công
2 ^ : (16)
cua tập tục” ”
. "..) vấn để không phai ở
chô Đam San muốn chống lại việc lấy Hơ
Nhí. Hơ Bhí hoặc chống lại tập tục nối dây?
Từng bước một, dưới hình thức phản kháng
việc nối dây, Đam San đã biểu thị ý chí của
mình đối với điều mình mong ước, biểu thị
thái độ xứng đáng vai trò mà mình đòi hỏi,
Đam San đã phấn dấu để xác lập địa vị tù
trưởng của mình trong nội bộ thị tộc"? Đỗ
Bình Trị đã rất đúng khi nhận xét răng:
"Cơ sở của niềm thương tiếc Hơ Nhí, Hơ
Bhí (khi Hơ Nhí, Hơ Bhí bị cây thần Smuk
sập chết) và cơ sở của những hành động
nhìn bể ngoài như chống lại việc lấy Hơ
Nhí, Hơ Bhí về căn bản chỉ là một: đó là
khát vọng để trở thành một người tù
trưởng giàu mạnh ""*®, Ở Đam San. đức tính
đẹp đẽ nhất là lòng dũng cảm. Ö chàng có ý
chí kiên cương, có khát vọng lớn lao trở
thành một tù trương hết sức hùng manh
trên đơi không ai bì kịp. "Sau những
chuyện gay go xung quanh việc nối dây và
trong những buổi đầu ở nhà vơ, cuộc đời
của Đam San từ đây mở ra một giai đoạn
mới, đầy thành tích và chiến công kì diệu.
Ý chí và khát vọng của “người tù trưởng
đầu đội khăn kép vai mang túi da ấy lại
được tiếp tục miêu tả trong khung cảnh
những cuộc chiến đấu gay go quvết liệt
chống thiên nhiên và chống kẻ thù bên
ngoài, tức là trong những hoàn cảnh tiêu
biêu nhất của thời đai?d?
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
Ö
——---—————— 5= __ —
4. Quan niệm của PGS. TS Võ
(Quang Nhơn
Năm 1983 trong công trình sau này
được nhận giải thưởng Nhà nước Văn học
dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam,
PGS.TS. Võ Quang Nhơn khẳng định, “tính
tập thể, tính cộng đồng rồng lớn là một
trong những đặc trưng chính của sử thi các
đân tộc, trong đó nồi lên hình tượng tiêu
biểu của nhân vật anh hùng”. Theo tác
gia, sử thì Đam San có hai chủ để. Chủ để
lớn thứ nhất là ca ngợi chiến công của
người anh hùng tiêu diệt ke thù tước đoạt
người yêu hoặc là ca ngợi chiến công tiêu
diệt kẻ thù định phá cuộc sống yên lành và
lao động sản xuất của buôn làng. Tác phẩm
Đam Săn ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp
của nhân vật anh hùng đã có công bao vệ
công đồng, đồng thời qua đó khắẳng định
một cách đây tự hào sự tổn tại và phát
triên của xã hội cộng đồng. Chủ đề thứ hai
là cuộc đấu tranh, cuộc đọ sức quyết liệt dai
đăng giữa một bên là chế độ mẫu quyền tuy
còn mạnh nhưng đã bắt đầu lung lay (tiêu
biểu là tục nối dây - chuê nu) và một bên
là thế lực mới, tuy có vẻ lẻ loi nhưng đang
trỗi dậy mạnh mẽ (tiêu biểu là nhân vật
3]
anh hùng Đam San) '””.
Đề vừa phản ánh được tính chất loại
hình của các tác phẩm khan, cũng như để
phân biệt với 1a, Ôđixê, Võ Quang Nhơn
dùng thuật ngữ sử £h¡ anh hùng khi xác
(323)
định thê loại của Đăm: Xăn
Theo ông, sử thi nước ta có tiến trình
phát triển lôgic là từ sử £h¡ thần thoại (như
mo Đẻ đất đẻ nước của người Mường, đm ệt
luông của người Thái) đến sử thị anh hùng
(tiêu biểu là khan Đam San) ””. Cách phân
loại này được Đỗ Hồng Kỳ (1994, 1996)”,
Chu Xuân Diên (2003)"””, Lê Trường Phát
(2003) tiếp tục khăng định.
5. Quan niệm của GS Phan Đăng Nhật
Ngươi dành nhiều thời gian và công sức
cho việc nghiên cứu sư thị là GS.TSKH
Phan Đăng Nhật.
Từ năm 1978 đến năm 1977, GS Phan
Đăng Nhật đã sư dụng các thuật ngữ sử thi
anh hùng, sư thị, sử thị - mo. Tuy nhiên
trong thời gian này ý kiến của ông về thể
loại sử thì còn đè đặt, thậm chí phân vân.
Năm 1973, ông dùng thuật ngữ sử thi anh
hùng để phân biệt với sử thi nghĩa rộng có
nội dung tương ứng với thuật ngữ tự sự.
Như trên đã thấy, mãi đến năm 1983 mới
có sự phân biệt giữa sử thị anh hùng và sử
thi thần thoại do Võ Quang Nhơn để
+“ (97
xuất“?
Trong khoang thời gian từ năm 1978
đến trước tháng 12 năm 1979, theo trí nhó
của chúng tôi, ông đã cùng Nông Quốc
Thắng đi nghiên cứu một đợt tại, Tây
Nguyên trong hoàn cảnh đây khó khăn,
chưa ổn định tại vùng đất mới giải phóng
lúc bấy giờ. Trong các năm 1985 - 1987,
Viên Văn hoá đân gian và Sơ Văn hoá -
Thông tin tỉnh Đắc Lắc phối hợp tổ chức các
đợt sưu tâm sử thị. Với cương vị Phó Viện
trưởng, ông đã chỉ đạo và tham gia sưu tâm.
Với sự giúp sức của nhiều cộng sự như Đỗ
Hồng Kỳ, Tô Đông Hải, Bùi Khắc Trường,
Nguyễn Đại Lượng,... ông đã có trong tay
nhiều dị bản của tác phẩm Đăm Săn.
Năm 1986, trên tạp chí Nghiên cứu
Văn hoá nghệ thuật, ông công bố bài viết
“Sư thì ÐĐưm Xăn và phương pháp nghiên
cứu văn hoá dân gian”. Theo ông, vân để ở
đây không phải là vấn đề chống nối dây
hay khuất phục tập tục này. (Trong nhận
xét này, ông gặp gỡ PGS Đỗ Bình Trị. Như
trên đã phân tích, muộn nhất thì Đỗ Bình
Trị cũng đã công bố điều này từ năm 1970).
Ở nhân vật Đam Xăn có ba nhiệm vụ: /ấy
Uợ, lao động, chiên đấu giành lại uợ, trong
đó chiến đấu giành lại uợ là nhiệm vụ
2 s 3 S8 mm T ° suøn
trung tâm và chủ đạo'””. "Sự giàu có, sức
6
NGUYÊN XUÂN KÍNH
CO ——————
manh và uy danh của Đam Xăn cũng chính
là sự giàu mạnh và uy danh của làng buôn
dưới quyền Đam Xăn. Chỉ có một xã hội có
tính chất công đồng như xã hội Đê vào
thời đại anh hùng ca, mới có mối quan hệ
đẹp đẽ này giữa anh hùng và toàn xã hội và
chính mối quan hệ đó mới tạo nên không
khí anh hùng ca""”. Tháng 6 năm 1989,
ông bão vệ luận án Tiến sĩ khoa học tại
Bungari với đề tài Những đặc điểm cơ bản
sử thị - bhan ở Việt Nam. Nếu vào cuối
thập kỉ thứ ba của thế kỉ XX, Sabachiê có
công làm cho nước Pháp biết đến một tác
phâm sử thi Việt Nam thì đến cuối thập kỉ
thứ chín của thế kỉ XX, với luận án này,
Phan Đăng Nhật lần đầu tiên giới thiệu
toàn diện, có sức thuyết phục sử thi Ð Đê.,
được các nhà khoa học ở một nước Đông Âu
có truyền thống nghiên cứu folklore thừa
nhận. Cuối năm 1989 đầu 1990 trên hai số
Tạp chí Văn hoá dân gian G8 Phan Đăng
Nhật công bố bài Những đặc điêm cơ bản
của sử thì - bhan ở Việt Nam. Năm 1991,
cuốn sách Sử ¿h¡ E Đê của ông được xuất
ban. Về cơ bản, nội dung cuốn sách là nội
dung cua bài viết được In trên hai số tạp
chí nói trên. Về cuốn sách này, GS
N.I.Niculin, một chuyên gia về văn học Việt
Nam của Liên Xô cũ và của nước Nga hiện
nay cho rằng “công trình khảo cứu nổi
tiếng Sử ¿h¡ E Đề của Phan Đăng Nhật có ý
« y2 ˆ z "2 ^“ss(:30
nghĩa khó có thê đánh giá được hết”
Đối với giới khoa học trong nước, Phan
Lăng Nhật có đóng góp lón khi ông phân
biệt sử thị Việt Nam với những tác phâm
sử thi nổi tiếng của thế giới. Tiếp thu lí
luận của Mêlêtinxkl,. một học giả xô - viết,
Phan Đăng Nhật đã phân biệt sử £hồt cổ sơ
và sử £fh¡ cô đại với tiêu chí phân loai rõ
ràng và xác đáng. Sử thi cô sơ là sử thi ra
đơi trước khi hình thành nhà nước: sử thi
cổ đại (hoặc sử £hi cổ điển) ra đời sau khi
hình thành nhà nước. Nếu 1z và Ôđixê
(sử thi Hi Lạp) là sử thị cổ đại thì Đam Xăn
là sử thì cổ sơ.
Năm 1997. Phan Đăng Nhật cho rằng
nếu theo tiêu chí đặc điểm lịch sử - xã hội
hình thành tác phâm thì có hai loại: sử thì
cổ sơ và sử thi cổ đại; còn nếu theo chức
năng, nhiệm vụ cua nhân vật trung tâm
của sử thị thì có hai loại chính: sử thị sáng
thế (sáng tạo thế giới) và sử thi thiết chế xã
hội. Theo Phan Đăng Nhật, Để đất đe nước
(của dân tộc Mường) thuộc loại sử thi sáng
thế (sử thi sáng thế là thuật ngữ của các
nhà khoa học Trung Quốc); còn Đam: Xăn
thuộc loại sử thị thiết chế xã hội (sử £hi
thiết chế là thuật ngữ do Đình Gia Khánh
sơi ý, Phan Đăng Nhật phát triển)”.
Về chủ để của sử thị, Phan Đăng Nhật
cho rằng có ba loại hành động (hoặc ba
nhiệm vụ) là /ấy uợ, làm lụng và đánh giặc,
trong đó đánh giặc là nhiệm vụ trung tâm
của người anh hùng trong sử thi thiết chế
xã hội. Theo ông, lí thuyết về ba nhiệm vụ
anh hùng thích hợp với sử thị thiết chế xã
hội Tây Nguyên, và có sự biến chuyển đối
với các trương hợp khác nhau. Sử thi các
đân tộc ngoài Tây Nguyên, thường nhiệm
vụ /ờm tụng bị mở nhạt hoặc không có. Vị
dụ: Chương Han (Thái) Teua Mưnô
(Chăm), /z( (HI Lạp), amayana (Ấn
Độ)... Trong sử thì sáng thế Đẻ đất đẻ nước,
không phai cướp vợ mà lấy vợ đúng quy chế
hôn nhân, nghiêm câm loạn luân (trường
hợp Đá Cần với em gái Hai Kịt). Nhiệm vụ
làm lụng là phát kiến nguyên thuỷ về chăn
nuôi, trồng trọt (thuần dưỡng thú rừng, lên
trời tìm giống lúa...). Các phát kiến văn hoá
tìm lưa, tìm nước, tìm rượu... và sự ra đời
của vũ trụ, con người, là những để tài trung
tâm của sử thi sáng thế. Nhiệm vụ đánh
giặc ở sư thì Đẻ đất đẻ nước khã mờ nhạt,
chỉ có cuộc chiến tranh nội bộ giữa anh em
nhà lang (giặc ma May, ma Lang...) và cuộc
nổi dậy dốt phá của Tặm Tẻ Tặm Tạch!””.
Việc sắp xếp sử thi Việt Nam vào tiểu
loại sử thi cổ sơ do Phan Đăng Nhật đề
xuất đã được giới nghiên cứu trong và
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
Ẳ
——————————————————— ———-_—
ngoài nước chấp nhận ””. Lí thuyết về ba
nhiệm vụ hay ba chủ để của ông như trên
đã nói, được thể hiện trong một cuốn sách
giáo khoa thí điểm trong trường phổ thông.
Còn việc ông phân chia sử thì thành sử
thì sáng thế và sử thi thiết chế xã hội thì
đên nay vân còn là một tiếng nói riêng
chưa có lời đồng vọng, khác với Võ Quang
Nhơn, Đỗ Hồng Kỳ, Chu Xuân Diên, Lê
Trương Phát.,...
Trong hành trình sưu tâm nghiên cứu
sử thị, Phan Đăng Nhật không phải không
có những sai lâm. Thí dụ, đó là việc ngộ
nhân Đam Kiteh Man là sử thì” VIỆC hiểu
sai ý kiên của Hoàng Thiếu Sơn nhận xét
rò . ^” 2 .Ấ (;32
về Đại Nam quốc sử diễn ca`"””
, VIỆC dùng
không chính xác từ đưới (lời nói vấn) khi
chỉ câu thơ nao mprinh của sư thị Mo
(36)
Nông”... Trong nghiên cứu khoa học rất
khó tránh khỏi sai lầm. Những nhầm lẫn
.: 3 thấy và cñ Ý= g:ần ah?+ (37
trên, ông đã thấy và cũng đã điều chỉnh! .
6. Kết luận
Bàn về sử thi còn có nhiều vấn để khác
và còn có những ý kiến của các nhà nghiên
cứu khác. Ở đây, với tư cách là người đọc
sách, chúng tôi chỉ giới hạn trình bày lịch
sử vấn đề của quá trình nhận dạng chủ đề
của sử thì Đăm Săn và của sử thị nói
chung, của quá trình phân loại sử thi đê
trân trong ghì nhận công sức của từng nhà
nghiên cứu trong nhiều thập kỉ qua.
Nghiên cứu và nhận thức về sử thi đối với
mối cá nhân cũng như đối với cả giới
nghiên cứu là một quá trình. Quá trình này
rất cần có tiếng nói trị âm uà sự phản biện
khoa học" *”éf
N.X.K
(1) Đam San, Đăm Săn, Đam Xăn,... là
những cách phiên âm khác nhau của các tác
gia về cùng một nhân vật. Chúng tôi theo
cách viết của nhà dân tộc học Nguyễn Hữu
Thấu: Đăm Săn. Khi trích dẫn tác gia nào,
chúng tôi cũng trích theo đúng cách viết ấy.
Về tên các đân tộc, chúng tôi theo Từ
điền tiếng Việt (2003) do Hoàng Phê chủ biên.
Nxb Đà Năng: Ê Đê, Mơ Nông. Chúng tôi xin
được dùng thống nhất trong ca các trích dẫn.
(2) Phan Đăng Nhật (2001) Nghiên cứu
sử thị Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, tr. 226.
(3), (4) Dân theo Võ Quang Nhơn (1997)
Sử thi anh hùng Táy Nguyên, Nxb Giáo dục,
tr. 141.
(5), (6G) Võ Quang Nhơn (1997), sđd, tr 29
và 141.
(7), (8) Theo Võ Quang Nhơn (1997), sđd,
tr. ỏ0.
(9) Xin xem Phan Đăng Nhật (2001), sđd,
tr. 288- 289.
(10) Chu Xuân Diên (1960) “Tìm hiểu giá
trị Bài ca chàng am San”, Nghiên cứu văn
học, Hà Nội, số 3, tr. 48.
(11) Chu Xuân Diên (1960), bdd, tr 43
(12) Chu Xuân Diễn (1960), bdd, tr. 45.
(13) Chu Xuân Diễn (1983) “Đam San”, 1n
trong Từ điển Văn học, Đỗ Đức Hiểu chủ
biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tập l,
tr. 156.
(14) Chu Xuân Diễn (1985), sdd, tr. 186
(15) Chu Xuân Diên (2008) “Chiến thắng
Mtao Mxây'” (trích sử thì Đươm. Săn), mm trong
Ngữ uăn 10, tập một, sách giáo bhoa thí điểm,
Ban Khoa học xã hội uà nhân uốn, bộ 1, nhiều
tác øia, Trần Đình Sử tổng chủ biên, Nxb
Cáo dục, Hà Nội, tr. 37,
(16) Đỗ Bình Trị (1970) “Chương IX
Trường ca” trong tập sách nhiều tác gia Lịch
sử uăn học Việt Nam, tập Ì, Văn học dân gian,
phần II, Nxb Giáo dục, Hà Nội, in lần thứ ba
có sửa chữa, tr. 107 - 108,
Đỗ Bình Trị giai thích: "Nếu không lấy
Hơ Nhí, Đam San “sẽ trơ thành đứa giữ ngựa
và giữ voi cho Hơ Nhí, chỉ quét phân ngựa
phân voi. Hơ Nhí, Hơ Bhí nếu không lấy Đam
San cũng sẽ phai chịu một số phận tương tự.
Đây không phải là một chỉ tiết hư cấu. Cơ sở
của nó có thể ở định lệ về quyền thừa kế tài
san trong xã hội này. Khi Đam San chết, Hơ-
âng cho con đến nối dây với lời đặn đò: “Con
hãy đến ở thay để giữ lấy những của cải của
cậu con để lại”.
Đ
NGUYÊN XUÂN KÍNH
—————————_____DD____ ——— ——c
Trong lần xuất bản đầu tiên (năm 1961),
Đăm Săn cùng như truyện thơ các dân tộc Ít
người chưa được để cập trong giáo trình này.
(17) Đồ Bình Trị (1970) sdd., tr. 112.
(18) Đồ Bình Trị (1970) sđd, tr. 113
(19) Đồ Bình Trị (1970) sđd., tr. 115
(20) Võ Quang Nhơn (1983) Văn học dân
gian các dân tộc ít người ở Việt Nam, Nxb Đại
học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, tr.
TỮO,
(21) Võ Quang Nhơn (1985) sdd, tr 354 -
(22), (23) Võ Quang Nhơn (1985), sdd,
tr.349, 35Ò
(24) Đỗ Hồng Kỳ (1996) Sử thi thần thoại
Mơ Nông, Nxb hoa học xã hội, Hà Nội, tr
15 - 159.
(25) Chu Xuân Diên (2008) sdd, tr 28
(26) Lê Trương Phát (20053) "Sư thị Đam
Săn: ĐI bắt con gái thần Mặt Trời”, in trong
Ngữ uăn 10, tập một, sách giáo bhoa thí điểm,
Ban Khoa học xã hội uà nhân ăn, bộ 9, nhiều
tác gia, Phan Trọng Luận tổng chủ biên, Nxb
(ảo dục, Hà Nội, tr. 34.
(27) Xin xem Nguyễn Xuân Kính (1998)
"Quá trình sử dụng thuật ngữ sử thị ở Việt
Nam” trong tập sách nhiều tác gia Sử thí Tây
Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, tr. 93. Sách
này là kỉ yếu Hội thảo Sử th¡ Tây Nguyên tổ
chức tại Đắc Lắc năm 1997.
(28) Phan Đăng Nhật (1986) "Sử thì Đam
Xãn và phương pháp nghiên cứu văn hoá đân
sian, Nghiên cứu Văn hoá nghệ thuật, Hà
Nội, số 6, tháng 11 +12, tr. 24, tr. 27, tr. 29,
(29) Phan Đăng Nhật (1986) bdd, tr. 2B -
26.
(30) NI. Niculin (1998) "Cuộc cầu hôn
anh hùng trong sử thì Ð Đê và Mã Lai". ăn
trong tập sách của nhiều tác giả Sử thi Táy
Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr 143.
(31) Phan Đăng Nhật (1998) "Nhìn lại
quá trình sưu tầm, nghiên cứu sử thi Tây
Nguyên trong bối canh sử thị Việt Nam”,in
trong tập sách nhiều tác giả Sử thí Tây
Nguyên, sảủ, tr 74 - 76.
(32) Phan Đăng Nhật (2008) "Thuộc tính
cơ ban của sư thì”, Văn hoá dân gian, Hà Nội,
sô 5, tr. 11.
(33) Xim xem, chẳng hạn:
a) Đỗ Hồng Kỳ (1990) “Ot Nrong - Sử thì
cô sơ Mơ Nông”, Văn hoá dân gian, Hà Nội, số
3. tF.BÓ = 0©
b) Đỗ Hồng Kỳ (1993) Sử thi cổ sơ Mơ
Nông, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội
e) Định Gia Khánh (1998) "Sử thị ở Việt
Nam”, trong tập sách Sử thi Tây Nguyên, sảd.,
tf, d4.
d) Ngô Đức Thịnh (2002) "Sử thị Tây
Nguyên - phát hiện và các vấn để”, Văn hoá
dân gian, Hà Nội, số 4, tr. 7 - 8.
đ) Radost Ivanova (1987) “Việc bao vệ
luận án tiến sĩ khoa học về sử thi Việt Nam”,
Folklore Bungarl, số 4. (Xem: Phan Đăng
Nhật (2001), sđd, tr. 291)
— (34), (35) Phan Đăng Nhật (1991) Sử thị
b Đé, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 129,
tf, 2- +3.
(36) Phan Đăng Nhật (2008) “Van trò của
Kế dòng con cháu mẹ Chếp trong hệ thống sủ
thì Mơ Nông”, 1m trong tập Kế dòng con cháu
mẹ Chếp, Sở Văn hoá - Thông tin Đắc Lắc xb,
tr. 16
(37) Thí dụ, xem Phan Đăng Nhật (2001),
sđd, tr. 382, 413
(38) XIột mặt chúng ta khen tránh chê
oan, mặt khác cũng cần tránh khen oan. Yêu
cầu này đặt ra không riêng đối với việc
nghiên cứu sử thị. Trong lời giới thiệu cuốn
Cuộc sông của thành ngữ tục ngữ trong kho
tàng ca dao người Việt của Nguyễn Nhà Bàn,
Nxb Nghệ An, 2003, GS. TS Phạm Đức Dương
đã viết như sau:
"Khai thác cuộc sống của thành ngữ, tục
ngữ, ca dao đang là một hướng nghiên cứu lí
thú và có nhiều triển VONØ.
Tuy nhiên, chỉ có Nguyễn Nhã Bản - một
nhà phương ngữ học Nghệ Tĩnh - mới phát
hiện ra một điều tưởng là rất đơn gian và
hiển nhiên mà không mấy ai để ý: đó là đi tìm
sức sống của thành ngữ, tục ngữ ngay trong
ca đao - một loại thơ dân gian” (tr.?7).
Nhận xét trên là không chính xác. Bởi vì
trước PGS.TS. Nguyễn Nhã Bản, người ta đã
viêt về vấn để này:
a) Trần Đức Các (1978) "Tục ngữ với câu
thơ lục bát trong ca dao, dân ca”, Tạp chí Văn
học, Hà Nội. số 1, tr. 91 - 103.
b) Nguyễn Phương Châm (1999) "Thành
ngử, tục ngử trong ca dao”, Văn hoá dân gian,
Hà Nội, số 3, tr. 59 - 66.