NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI



1. Quan niêm của các tác gia người Pháp
Vào những năm 30 của thế kỉ XX, sử . : Am `. - ` 3x : thì Đăm Săn ' ˆ được Lêôpôn Sabachiê dịch ta tiếng Pháp và xuất ban ø Đan.
Năm 1933, L.Sabachiê công bố lần thứ hai trên tạp chí của Viện Viễn đông bác cổ (trụ sơ của Viện này lúc đó đóng tại Hà Nội). Lần xuất bản này có in cả tiếng b Đề. Đây là một công trình nghiền cứu công phu” mà theo ŒS Phan Đăng Nhật, "các sử thi khác ở Việt Nam ít có trương hợp làm
ss( 12)
dược như vậy
Các tác gia người Pháp đã hiểu tác phâm và đánh giá nhân vật Đăm Săn như thế nào?
Năm 1933. Sabachiê cho rắng tác phâm Đăm Săn là "một câu chuyện trình bày về các tục lệ, một bài học về xã hội học
(3)
và đạo đức” của người lồ Đê “hơn là câu
chuyện về ngươi anh hùng với các chiên
ss( |]
công của anh ta”, là "một điều ban bố đơn
«. ~ n _“ n ss{ñ) Kš ˆ Đc ` z gian về luật nối dây”” "không thê nào vì
„a§ phạm được”””.
Năm 1954, G.Côngđômnát nhận xét: Đăm Săn "là một văn ban giáo huấn”. "Toàn bộ bài ca toát lên sức mạnh của luật lệ điều khiển quan hệ vợ chồng””. Đăm Săn “chi là một con người thụ động, y chịu đựng không hề tìm kiếm một sự phiêu lưu thử thách đối với y"°”.
Năm 1950, Đuôcnơ có ý kiến rất khác với hai tác giả vừa nêu: YĐể tài cơ bản của bản anh hùng ca này là nhu cầu vươn lên của con người vốn sinh ra đã mang tình thân không thoa mãn. Tỉnh thần này được
NGHIÊN CỨU VẢ NHẬN THỨC Sử T1 Là riỘT Qwá TRÌBB
NGUYÊN XUÂN KÍNH”)
biêu hiện băng hành động đuôi mặt trời ^ sí((t) e #2 . P ˆ
đang lên””. Ông chứng minh rằng, đây
cũng là để tài thường thấy trong các sáng
tác dân gian Tây Nguyên.
2. Nhận thức của PGS Chu Xuân Liên
Năm 1957 tại Hà Nội, tác phẩm Đỡm Săn dược Đào Tử Chí dịch ra tiếng Việt, công bố trên tạp chí Văn nghệ với tên gọi Bài ca chàng J)am San. Sau đó năm 1959, tác phâm này được Nhà xuất bản Văn hoá ¡1n thành sách.
Năm 1960, trên tập san Nghiên cứu văn học, DGS Chu Xuân Diên dành một bài nghiên cứu công phu về tác phâm này.
Chu Xuân Diên là người định danh sớm nhất về tên gọi thể loại cho Đăm Săn, khi ông viết: "Đam San là một nhân vật anh hùng, và Bài ca chàng Đam San là một bản anh hùng ca, một sử £h¿ của đân tộc § Đê”””, Về chủ đề của tác phẩm ông viết:
"Đam Săn là một thanh niên lao động giỏi, chiến dấu dũng cảm, có sắc đẹp và sức mạnh phìị thương. Ngươi thanh niên anh hùng này ưa sống một cuộc sống tự do, phóng khoáng, có nhiều mơ ước tàn bạo. Nhưng khuôn khô chật hẹp của xã hội, sức manh của phong tục tập quán đã ngăn can không cho anh sống đây đủ cuộc sống tự do phóng khoáng ấy. Bài ca chàng Đam San ca ngợi tỉnh thân và hành động quật khởi của Đam San chống lại khuôn khổ chật hẹp
- seo ^ * `#sv(]] của xã hội đương thời "”'””.
' GS. TS. Viện Nghiên cứu Văn hóa. NGUYÊN XUÂN KÍNH
—_—__— —————___ —_—_—_— CC CC
Theo tác giả, "toàn bộ ý chí và hành động của Đam San từ đầu chí cuối là một loat những phản kháng chống lại phong tục nối dây và những tàn tích của chế độ mâu
_ ` xs{ l3) quyển đang còn mạnh” —.
Năm 1983, trong Từ điển Văn học, Chu Xuân Diên cho rằng, những hành động và chiến công của Đăm Săn xoay quanh hai chủ để chính. "Thứ nhất là chủ để đấu tranh để thoát khói những ràng buộc của một tâp tục hôn nhân theo chế độ mâu
"13 *®hn đề thứ hai của thiên sử thì
quyền là đấu tranh chống những tù trương thù địch để bảo vệ cuộc sống và mở rộng địa bàn cư trú của bộ tộc”.””,
Năm 3005, trong sách giáo khoa thí điểm Ngữ uăn 10, tập một, dành cho Ban hoa học xã hội uà nhân 0uăn, bộ 1, Chu Xuân Diên nhận định: "Nhìn chung, sử thì anh hùng Tây Nguyên có ba để tài chính: hôn nhân, chiến tranh và lao động xây đựng. Để tài chiến tranh quan trọng hơn ca, là để tài trung tâm của sử thi anh hùng và thu hút các sự kiện của hai loại để tài kia""”, Đến đây, về mặt nội dung đề tài cua sử thị, Chu Xuân Diên đã gặp gỡ Phan Đăng Nhật (ý kiến của Phan Đăng Nhật công bố từ năm 1986).
Như vậy, nhận thức của PGBS Chu Xuân Diên về để tài của sử thi là một quá trình 43 năm.
3. Quan niệm của PGS Đô Bình Trị
Năm 1970, trong giáo trình đại học Lịch sử uăn học Việt Nam, tập l_ Văn học đân gian, PGS Đỗ Bình Trị không tán thành ý kiên của PGS Chu Xuân Diên khi Chu Xuân Diên cho rằng tác phẩm Đămn Săn thể hiện đậm nét chủ đề chống lại tập tục nối dây. Đồ Bình Trị viết: *Nếu chúng ta xuất phát từ sự nhận thức tác phẩm từ sự tông hoà các mặt và các mối quan hệ trong tác phẩm mà phân tích thì chúng ta thây tác gia bài ca không phải đã miêu tả
xã hội Đam San như một cái gì "ngăn cần sự thực hiện những khát vọng về hạnh phúc của con ngươi”. Khuôn khô xã hội ở đây, với tập-Ltục chuê nuê và các tàn tích của chế độ mẫu quyền, chưa phải là cái gì bóp nghẹt hạnh phúc của con ngươi hoặc ràng buộc không cho con người vươn lên phía trước. Trái lại, hạnh phúc của con người - những hạnh phúc cụ thể - lịch sử xét về một mặt nào đó lại gắn với việc tuân theo tập tục. Trong toàn bộ bài ca chúng ta không hề bắt gặp một chỉ tiết nào chứng tỏ rằng những con người trong xã hội ấy, kế ca Đam San "đã thấy được cái vô lí bất công
2 ^ : (16) cua tập tục” ”
. "..) vấn để không phai ở chô Đam San muốn chống lại việc lấy Hơ Nhí. Hơ Bhí hoặc chống lại tập tục nối dây? Từng bước một, dưới hình thức phản kháng việc nối dây, Đam San đã biểu thị ý chí của mình đối với điều mình mong ước, biểu thị thái độ xứng đáng vai trò mà mình đòi hỏi, Đam San đã phấn dấu để xác lập địa vị tù trưởng của mình trong nội bộ thị tộc"? Đỗ Bình Trị đã rất đúng khi nhận xét răng: "Cơ sở của niềm thương tiếc Hơ Nhí, Hơ Bhí (khi Hơ Nhí, Hơ Bhí bị cây thần Smuk sập chết) và cơ sở của những hành động nhìn bể ngoài như chống lại việc lấy Hơ Nhí, Hơ Bhí về căn bản chỉ là một: đó là khát vọng để trở thành một người tù trưởng giàu mạnh ""*®, Ở Đam San. đức tính đẹp đẽ nhất là lòng dũng cảm. Ö chàng có ý chí kiên cương, có khát vọng lớn lao trở thành một tù trương hết sức hùng manh trên đơi không ai bì kịp. "Sau những chuyện gay go xung quanh việc nối dây và trong những buổi đầu ở nhà vơ, cuộc đời của Đam San từ đây mở ra một giai đoạn mới, đầy thành tích và chiến công kì diệu. Ý chí và khát vọng của “người tù trưởng đầu đội khăn kép vai mang túi da ấy lại được tiếp tục miêu tả trong khung cảnh những cuộc chiến đấu gay go quvết liệt chống thiên nhiên và chống kẻ thù bên ngoài, tức là trong những hoàn cảnh tiêu biêu nhất của thời đai?d? NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
Ö
——---—————— 5= __ —
4. Quan niệm của PGS. TS Võ (Quang Nhơn
Năm 1983 trong công trình sau này được nhận giải thưởng Nhà nước Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam, PGS.TS. Võ Quang Nhơn khẳng định, “tính tập thể, tính cộng đồng rồng lớn là một trong những đặc trưng chính của sử thi các đân tộc, trong đó nồi lên hình tượng tiêu biểu của nhân vật anh hùng”. Theo tác gia, sử thì Đam San có hai chủ để. Chủ để lớn thứ nhất là ca ngợi chiến công của người anh hùng tiêu diệt ke thù tước đoạt người yêu hoặc là ca ngợi chiến công tiêu diệt kẻ thù định phá cuộc sống yên lành và lao động sản xuất của buôn làng. Tác phẩm Đam Săn ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật anh hùng đã có công bao vệ công đồng, đồng thời qua đó khắẳng định một cách đây tự hào sự tổn tại và phát triên của xã hội cộng đồng. Chủ đề thứ hai là cuộc đấu tranh, cuộc đọ sức quyết liệt dai đăng giữa một bên là chế độ mẫu quyền tuy còn mạnh nhưng đã bắt đầu lung lay (tiêu biểu là tục nối dây - chuê nu) và một bên là thế lực mới, tuy có vẻ lẻ loi nhưng đang trỗi dậy mạnh mẽ (tiêu biểu là nhân vật
3] anh hùng Đam San) '””.
Đề vừa phản ánh được tính chất loại hình của các tác phẩm khan, cũng như để phân biệt với 1a, Ôđixê, Võ Quang Nhơn dùng thuật ngữ sử £h¡ anh hùng khi xác
(323)
định thê loại của Đăm: Xăn
Theo ông, sử thi nước ta có tiến trình phát triển lôgic là từ sử £h¡ thần thoại (như mo Đẻ đất đẻ nước của người Mường, đm ệt luông của người Thái) đến sử thị anh hùng (tiêu biểu là khan Đam San) ””. Cách phân loại này được Đỗ Hồng Kỳ (1994, 1996)”, Chu Xuân Diên (2003)"””, Lê Trường Phát (2003) tiếp tục khăng định.
5. Quan niệm của GS Phan Đăng Nhật
Ngươi dành nhiều thời gian và công sức cho việc nghiên cứu sư thị là GS.TSKH Phan Đăng Nhật.
Từ năm 1978 đến năm 1977, GS Phan Đăng Nhật đã sư dụng các thuật ngữ sử thi anh hùng, sư thị, sử thị - mo. Tuy nhiên trong thời gian này ý kiến của ông về thể loại sử thì còn đè đặt, thậm chí phân vân. Năm 1973, ông dùng thuật ngữ sử thi anh hùng để phân biệt với sử thi nghĩa rộng có nội dung tương ứng với thuật ngữ tự sự. Như trên đã thấy, mãi đến năm 1983 mới có sự phân biệt giữa sử thị anh hùng và sử thi thần thoại do Võ Quang Nhơn để
+“ (97 xuất“?
Trong khoang thời gian từ năm 1978 đến trước tháng 12 năm 1979, theo trí nhó của chúng tôi, ông đã cùng Nông Quốc Thắng đi nghiên cứu một đợt tại, Tây Nguyên trong hoàn cảnh đây khó khăn, chưa ổn định tại vùng đất mới giải phóng lúc bấy giờ. Trong các năm 1985 - 1987, Viên Văn hoá đân gian và Sơ Văn hoá - Thông tin tỉnh Đắc Lắc phối hợp tổ chức các đợt sưu tâm sử thị. Với cương vị Phó Viện trưởng, ông đã chỉ đạo và tham gia sưu tâm. Với sự giúp sức của nhiều cộng sự như Đỗ Hồng Kỳ, Tô Đông Hải, Bùi Khắc Trường, Nguyễn Đại Lượng,... ông đã có trong tay nhiều dị bản của tác phẩm Đăm Săn.
Năm 1986, trên tạp chí Nghiên cứu Văn hoá nghệ thuật, ông công bố bài viết “Sư thì ÐĐưm Xăn và phương pháp nghiên cứu văn hoá dân gian”. Theo ông, vân để ở đây không phải là vấn đề chống nối dây hay khuất phục tập tục này. (Trong nhận xét này, ông gặp gỡ PGS Đỗ Bình Trị. Như trên đã phân tích, muộn nhất thì Đỗ Bình Trị cũng đã công bố điều này từ năm 1970). Ở nhân vật Đam Xăn có ba nhiệm vụ: /ấy Uợ, lao động, chiên đấu giành lại uợ, trong đó chiến đấu giành lại uợ là nhiệm vụ
2 s 3 S8 mm T ° suøn trung tâm và chủ đạo'””. "Sự giàu có, sức 6

NGUYÊN XUÂN KÍNH

CO ——————
manh và uy danh của Đam Xăn cũng chính là sự giàu mạnh và uy danh của làng buôn dưới quyền Đam Xăn. Chỉ có một xã hội có tính chất công đồng như xã hội Đê vào thời đại anh hùng ca, mới có mối quan hệ đẹp đẽ này giữa anh hùng và toàn xã hội và chính mối quan hệ đó mới tạo nên không khí anh hùng ca""”. Tháng 6 năm 1989, ông bão vệ luận án Tiến sĩ khoa học tại Bungari với đề tài Những đặc điểm cơ bản sử thị - bhan ở Việt Nam. Nếu vào cuối thập kỉ thứ ba của thế kỉ XX, Sabachiê có công làm cho nước Pháp biết đến một tác phâm sử thi Việt Nam thì đến cuối thập kỉ thứ chín của thế kỉ XX, với luận án này, Phan Đăng Nhật lần đầu tiên giới thiệu toàn diện, có sức thuyết phục sử thi Ð Đê., được các nhà khoa học ở một nước Đông Âu có truyền thống nghiên cứu folklore thừa nhận. Cuối năm 1989 đầu 1990 trên hai số Tạp chí Văn hoá dân gian G8 Phan Đăng Nhật công bố bài Những đặc điêm cơ bản của sử thì - bhan ở Việt Nam. Năm 1991, cuốn sách Sử ¿h¡ E Đê của ông được xuất ban. Về cơ bản, nội dung cuốn sách là nội dung cua bài viết được In trên hai số tạp chí nói trên. Về cuốn sách này, GS N.I.Niculin, một chuyên gia về văn học Việt Nam của Liên Xô cũ và của nước Nga hiện nay cho rằng “công trình khảo cứu nổi tiếng Sử ¿h¡ E Đề của Phan Đăng Nhật có ý
« y2 ˆ z "2 ^“ss(:30 nghĩa khó có thê đánh giá được hết”
Đối với giới khoa học trong nước, Phan Lăng Nhật có đóng góp lón khi ông phân biệt sử thị Việt Nam với những tác phâm sử thi nổi tiếng của thế giới. Tiếp thu lí luận của Mêlêtinxkl,. một học giả xô - viết, Phan Đăng Nhật đã phân biệt sử £hồt cổ sơ và sử £fh¡ cô đại với tiêu chí phân loai rõ ràng và xác đáng. Sử thi cô sơ là sử thi ra đơi trước khi hình thành nhà nước: sử thi cổ đại (hoặc sử £hi cổ điển) ra đời sau khi hình thành nhà nước. Nếu 1z và Ôđixê (sử thi Hi Lạp) là sử thị cổ đại thì Đam Xăn là sử thì cổ sơ.
Năm 1997. Phan Đăng Nhật cho rằng nếu theo tiêu chí đặc điểm lịch sử - xã hội hình thành tác phâm thì có hai loại: sử thì cổ sơ và sử thi cổ đại; còn nếu theo chức năng, nhiệm vụ cua nhân vật trung tâm của sử thị thì có hai loại chính: sử thị sáng thế (sáng tạo thế giới) và sử thi thiết chế xã hội. Theo Phan Đăng Nhật, Để đất đe nước (của dân tộc Mường) thuộc loại sử thi sáng thế (sử thi sáng thế là thuật ngữ của các nhà khoa học Trung Quốc); còn Đam: Xăn thuộc loại sử thị thiết chế xã hội (sử £hi thiết chế là thuật ngữ do Đình Gia Khánh sơi ý, Phan Đăng Nhật phát triển)”.
Về chủ để của sử thị, Phan Đăng Nhật cho rằng có ba loại hành động (hoặc ba nhiệm vụ) là /ấy uợ, làm lụng và đánh giặc, trong đó đánh giặc là nhiệm vụ trung tâm của người anh hùng trong sử thi thiết chế xã hội. Theo ông, lí thuyết về ba nhiệm vụ anh hùng thích hợp với sử thị thiết chế xã hội Tây Nguyên, và có sự biến chuyển đối với các trương hợp khác nhau. Sử thi các đân tộc ngoài Tây Nguyên, thường nhiệm vụ /ờm tụng bị mở nhạt hoặc không có. Vị dụ: Chương Han (Thái) Teua Mưnô (Chăm), /z( (HI Lạp), amayana (Ấn Độ)... Trong sử thì sáng thế Đẻ đất đẻ nước, không phai cướp vợ mà lấy vợ đúng quy chế hôn nhân, nghiêm câm loạn luân (trường hợp Đá Cần với em gái Hai Kịt). Nhiệm vụ làm lụng là phát kiến nguyên thuỷ về chăn nuôi, trồng trọt (thuần dưỡng thú rừng, lên trời tìm giống lúa...). Các phát kiến văn hoá tìm lưa, tìm nước, tìm rượu... và sự ra đời của vũ trụ, con người, là những để tài trung tâm của sử thi sáng thế. Nhiệm vụ đánh giặc ở sư thì Đẻ đất đẻ nước khã mờ nhạt, chỉ có cuộc chiến tranh nội bộ giữa anh em nhà lang (giặc ma May, ma Lang...) và cuộc nổi dậy dốt phá của Tặm Tẻ Tặm Tạch!””.
Việc sắp xếp sử thi Việt Nam vào tiểu loại sử thi cổ sơ do Phan Đăng Nhật đề xuất đã được giới nghiên cứu trong và NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI

——————————————————— ———-_—
ngoài nước chấp nhận ””. Lí thuyết về ba nhiệm vụ hay ba chủ để của ông như trên đã nói, được thể hiện trong một cuốn sách giáo khoa thí điểm trong trường phổ thông.
Còn việc ông phân chia sử thì thành sử thì sáng thế và sử thi thiết chế xã hội thì đên nay vân còn là một tiếng nói riêng chưa có lời đồng vọng, khác với Võ Quang Nhơn, Đỗ Hồng Kỳ, Chu Xuân Diên, Lê Trương Phát.,...
Trong hành trình sưu tâm nghiên cứu sử thị, Phan Đăng Nhật không phải không có những sai lâm. Thí dụ, đó là việc ngộ nhân Đam Kiteh Man là sử thì” VIỆC hiểu sai ý kiên của Hoàng Thiếu Sơn nhận xét
rò . ^” 2 .Ấ (;32 về Đại Nam quốc sử diễn ca`"””
, VIỆC dùng không chính xác từ đưới (lời nói vấn) khi chỉ câu thơ nao mprinh của sư thị Mo (36)
Nông”... Trong nghiên cứu khoa học rất khó tránh khỏi sai lầm. Những nhầm lẫn
.: 3 thấy và cñ Ý= g:ần ah?+ (37 trên, ông đã thấy và cũng đã điều chỉnh! . 6. Kết luận
Bàn về sử thi còn có nhiều vấn để khác và còn có những ý kiến của các nhà nghiên cứu khác. Ở đây, với tư cách là người đọc sách, chúng tôi chỉ giới hạn trình bày lịch sử vấn đề của quá trình nhận dạng chủ đề của sử thì Đăm Săn và của sử thị nói chung, của quá trình phân loại sử thi đê trân trong ghì nhận công sức của từng nhà nghiên cứu trong nhiều thập kỉ qua. Nghiên cứu và nhận thức về sử thi đối với mối cá nhân cũng như đối với cả giới nghiên cứu là một quá trình. Quá trình này rất cần có tiếng nói trị âm uà sự phản biện khoa học" *”éf
N.X.K
(1) Đam San, Đăm Săn, Đam Xăn,... là những cách phiên âm khác nhau của các tác gia về cùng một nhân vật. Chúng tôi theo cách viết của nhà dân tộc học Nguyễn Hữu Thấu: Đăm Săn. Khi trích dẫn tác gia nào, chúng tôi cũng trích theo đúng cách viết ấy.
Về tên các đân tộc, chúng tôi theo Từ điền tiếng Việt (2003) do Hoàng Phê chủ biên. Nxb Đà Năng: Ê Đê, Mơ Nông. Chúng tôi xin được dùng thống nhất trong ca các trích dẫn.
(2) Phan Đăng Nhật (2001) Nghiên cứu sử thị Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 226.
(3), (4) Dân theo Võ Quang Nhơn (1997)
Sử thi anh hùng Táy Nguyên, Nxb Giáo dục, tr. 141.
(5), (6G) Võ Quang Nhơn (1997), sđd, tr 29 và 141.
(7), (8) Theo Võ Quang Nhơn (1997), sđd, tr. ỏ0.
(9) Xin xem Phan Đăng Nhật (2001), sđd, tr. 288- 289.
(10) Chu Xuân Diên (1960) “Tìm hiểu giá trị Bài ca chàng am San”, Nghiên cứu văn học, Hà Nội, số 3, tr. 48.
(11) Chu Xuân Diên (1960), bdd, tr 43 (12) Chu Xuân Diễn (1960), bdd, tr. 45.
(13) Chu Xuân Diễn (1983) “Đam San”, 1n trong Từ điển Văn học, Đỗ Đức Hiểu chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tập l, tr. 156.
(14) Chu Xuân Diễn (1985), sdd, tr. 186
(15) Chu Xuân Diên (2008) “Chiến thắng Mtao Mxây'” (trích sử thì Đươm. Săn), mm trong Ngữ uăn 10, tập một, sách giáo bhoa thí điểm, Ban Khoa học xã hội uà nhân uốn, bộ 1, nhiều tác øia, Trần Đình Sử tổng chủ biên, Nxb Cáo dục, Hà Nội, tr. 37,
(16) Đỗ Bình Trị (1970) “Chương IX Trường ca” trong tập sách nhiều tác gia Lịch sử uăn học Việt Nam, tập Ì, Văn học dân gian, phần II, Nxb Giáo dục, Hà Nội, in lần thứ ba có sửa chữa, tr. 107 - 108,
Đỗ Bình Trị giai thích: "Nếu không lấy Hơ Nhí, Đam San “sẽ trơ thành đứa giữ ngựa và giữ voi cho Hơ Nhí, chỉ quét phân ngựa phân voi. Hơ Nhí, Hơ Bhí nếu không lấy Đam San cũng sẽ phai chịu một số phận tương tự. Đây không phải là một chỉ tiết hư cấu. Cơ sở của nó có thể ở định lệ về quyền thừa kế tài san trong xã hội này. Khi Đam San chết, Hơ- âng cho con đến nối dây với lời đặn đò: “Con hãy đến ở thay để giữ lấy những của cải của cậu con để lại”. Đ
NGUYÊN XUÂN KÍNH
—————————_____DD____ ——— ——c
Trong lần xuất bản đầu tiên (năm 1961), Đăm Săn cùng như truyện thơ các dân tộc Ít người chưa được để cập trong giáo trình này.
(17) Đồ Bình Trị (1970) sdd., tr. 112. (18) Đồ Bình Trị (1970) sđd, tr. 113 (19) Đồ Bình Trị (1970) sđd., tr. 115
(20) Võ Quang Nhơn (1983) Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, tr. TỮO,
(21) Võ Quang Nhơn (1985) sdd, tr 354 -
(22), (23) Võ Quang Nhơn (1985), sdd, tr.349, 35Ò
(24) Đỗ Hồng Kỳ (1996) Sử thi thần thoại Mơ Nông, Nxb hoa học xã hội, Hà Nội, tr 15 - 159.
(25) Chu Xuân Diên (2008) sdd, tr 28
(26) Lê Trương Phát (20053) "Sư thị Đam Săn: ĐI bắt con gái thần Mặt Trời”, in trong Ngữ uăn 10, tập một, sách giáo bhoa thí điểm, Ban Khoa học xã hội uà nhân ăn, bộ 9, nhiều tác gia, Phan Trọng Luận tổng chủ biên, Nxb (ảo dục, Hà Nội, tr. 34.
(27) Xin xem Nguyễn Xuân Kính (1998) "Quá trình sử dụng thuật ngữ sử thị ở Việt Nam” trong tập sách nhiều tác gia Sử thí Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, tr. 93. Sách này là kỉ yếu Hội thảo Sử th¡ Tây Nguyên tổ chức tại Đắc Lắc năm 1997.
(28) Phan Đăng Nhật (1986) "Sử thì Đam Xãn và phương pháp nghiên cứu văn hoá đân sian, Nghiên cứu Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội, số 6, tháng 11 +12, tr. 24, tr. 27, tr. 29,
(29) Phan Đăng Nhật (1986) bdd, tr. 2B - 26.
(30) NI. Niculin (1998) "Cuộc cầu hôn anh hùng trong sử thì Ð Đê và Mã Lai". ăn trong tập sách của nhiều tác giả Sử thi Táy Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr 143.
(31) Phan Đăng Nhật (1998) "Nhìn lại quá trình sưu tầm, nghiên cứu sử thi Tây Nguyên trong bối canh sử thị Việt Nam”,in trong tập sách nhiều tác giả Sử thí Tây Nguyên, sảủ, tr 74 - 76.
(32) Phan Đăng Nhật (2008) "Thuộc tính cơ ban của sư thì”, Văn hoá dân gian, Hà Nội, sô 5, tr. 11.
(33) Xim xem, chẳng hạn:
a) Đỗ Hồng Kỳ (1990) “Ot Nrong - Sử thì cô sơ Mơ Nông”, Văn hoá dân gian, Hà Nội, số 3. tF.BÓ = 0©
b) Đỗ Hồng Kỳ (1993) Sử thi cổ sơ Mơ Nông, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội
e) Định Gia Khánh (1998) "Sử thị ở Việt Nam”, trong tập sách Sử thi Tây Nguyên, sảd., tf, d4.
d) Ngô Đức Thịnh (2002) "Sử thị Tây Nguyên - phát hiện và các vấn để”, Văn hoá dân gian, Hà Nội, số 4, tr. 7 - 8.
đ) Radost Ivanova (1987) “Việc bao vệ luận án tiến sĩ khoa học về sử thi Việt Nam”, Folklore Bungarl, số 4. (Xem: Phan Đăng Nhật (2001), sđd, tr. 291)
— (34), (35) Phan Đăng Nhật (1991) Sử thị b Đé, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 129, tf, 2- +3.
(36) Phan Đăng Nhật (2008) “Van trò của Kế dòng con cháu mẹ Chếp trong hệ thống sủ thì Mơ Nông”, 1m trong tập Kế dòng con cháu mẹ Chếp, Sở Văn hoá - Thông tin Đắc Lắc xb, tr. 16
(37) Thí dụ, xem Phan Đăng Nhật (2001), sđd, tr. 382, 413
(38) XIột mặt chúng ta khen tránh chê oan, mặt khác cũng cần tránh khen oan. Yêu cầu này đặt ra không riêng đối với việc nghiên cứu sử thị. Trong lời giới thiệu cuốn Cuộc sông của thành ngữ tục ngữ trong kho tàng ca dao người Việt của Nguyễn Nhà Bàn, Nxb Nghệ An, 2003, GS. TS Phạm Đức Dương đã viết như sau:
"Khai thác cuộc sống của thành ngữ, tục ngữ, ca dao đang là một hướng nghiên cứu lí thú và có nhiều triển VONØ.
Tuy nhiên, chỉ có Nguyễn Nhã Bản - một nhà phương ngữ học Nghệ Tĩnh - mới phát hiện ra một điều tưởng là rất đơn gian và hiển nhiên mà không mấy ai để ý: đó là đi tìm sức sống của thành ngữ, tục ngữ ngay trong ca đao - một loại thơ dân gian” (tr.?7).
Nhận xét trên là không chính xác. Bởi vì
trước PGS.TS. Nguyễn Nhã Bản, người ta đã viêt về vấn để này:
a) Trần Đức Các (1978) "Tục ngữ với câu thơ lục bát trong ca dao, dân ca”, Tạp chí Văn học, Hà Nội. số 1, tr. 91 - 103.
b) Nguyễn Phương Châm (1999) "Thành ngử, tục ngử trong ca dao”, Văn hoá dân gian, Hà Nội, số 3, tr. 59 - 66.