66
LÊ TRUNG HOA



VẤN ĐỀ BIÊN SOẬN Tử ĐIẾỄN Đị8 D8NH
LÊ TRUNG HOAT)
'l việc nghiên cứu địa danh giúp chúng ta hiểu rõ các phương thức đặt địa danh, cách phân loại địa danh, nguyên nhân ra đời và mất đi của một địa danh... Nhưng khi muốn tra cứu một địa danh nào về vị trí nguồn gốc, ý nghĩa sự ra đời, chuyển biến... chúng ta phải có từ điển địa danh. Ngành nghiên cứu địa danh (hay địa danh học) giúp cho việc biên soạn từ điển địa danh giống như từ vựng học giúp cho việc biên soạn từ điển giải thích.
Giữa từ điển giải thích và từ điển địa danh có nhiều điểm đị biệt về nội dung mục từ. Mỗi mục từ trong từ điển giải thích gồm 4 nội dung: nêu tên mục từ, xác định từ loại, mô tả các nét nghĩa, dẫn thí dụ. Còn mỗi mục từ trong từ điển địa danh thay đổi theo từng tiểu loại địa danh nhưng đại thể có 7 nội dung sau đây:
- Tên mục từ (tức địa danh)
- Tiểu loại địa danh
- Vị trí của đối tượng
- Các chỉ tiết liên hệ đến đối tượng
- Thời điểm ra đời của địa danh
- Nguồn gốc và ý nghĩa ban đầu của địa danh
- Sự chuyển biến của địa danh và đối tượng
Dưới đây chúng tôi sẽ triển khai các nội dung trên.
° TS, Viện Khoa học xã hội Tp. Hồ Chí Minh.
1. Tên mục tử
Chúng ta không đưa yếu tố chung chỉ tiểu loại vào. Ví dụ: Đối với rạch Chiếc, cầu Ông Lãnh, chúng ta không đưa các từ rạch, cầu vào tên mục từ mà chỉ nêu các yếu tố riêng vào đây: Chiếc, Ông Lãnh. Ö đây có bốn vấn đề cần giải quyết. Thứ nhất, chỉ khi nào yếu tố chung đó trở thành một thành tố của địa danh theo phương thức chuyển hoá (tên rạch biến thành tên cầu, tên cầu biến thành tên chợ, phường... ) thì chúng ta mới đưa vào. Ví dụ: cầu Rạch Chiếc, phường Cầu Ông Lãnh thì tên mục từ sẽ là Rạch Chiếc, Cầu Ông Lãnh.
Thứ hai, đối với các địa danh bằng ngôn ngữ dân tộc thiểu số, yếu tố chung thường không được rõ nghĩa và thường được dùng gắn chặt với yếu tố riêng, vì thế chúng ta nên đưa các yếu tố chung này vào tên mục từ; thí dụ Nảm Rớm, Đa Nhĩm, Plet Eu...
Thứ ba, nếu địa danh là tên người thì ta không được đưa danh từ chung chỉ tiểu loại địa danh vào mà chỉ nêu tên người, vì nhân danh lúc này đã trở thành địa danh. Thí dụ: đường Lê Lợi, thành phố Hồ Chí Minh, Trần Văn Thời...
Thứ tư, nếu địa danh là số từ ta không nêu danh từ chung mà chỉ nêu số từ, được viết bằng số hoặc bằng chữ. Thí dụ: phường 5, quận 3 thì chỉ nêu: 5 hoặc Năm, 3 hoặc Ba.
2. Tiểu loại địa danh
Yếu tố chung chỉ tiểu loại địa đanh là các từ: sông, rạch, núi, hồ... (địa danh chỉ địa hình thiên nhiên); ấp, xã, huyện, tình... (địa danh hành chính); uùng, xóm, bhu, miền... (địa danh vùng); cầu, đường, công Uuiên, sân uận động... (địa danh chỉ công trình xây dựng). NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
G7


Giữa mục 1 và mục 9, tuyệt đối không được có sự trùng lặp. Vì không tôn trọng quy tắc này, các tác giả Sổ tay địa danh Việt Nam đã mắc phải:
Sông Hương: sông chảy qua thành phố Huế
Cũng thế, nếu xem cả từ tổ thònh phố
Hồ Chí Minh, huyện Trần Văn Thời là địa danh, ta cũng vì phạm ngay:
Thành phố Hồ Chí Minh: thành phố ỏ Nam Bộ
Huyện Trần Văn Thời: huyện của tỉnh Cà Mau.
3. Vị trí của đối tượng
Ta phải nói rõ đối tượng của địa danh nằm trên địa bàn của đơn vị hành chính nào, tiếp giáp với những đối tượng nào khác. Nếu đối tượng là sông rạch, thì ta phải nói rõ sông rạch đó chảy từ đâu đến đâu...
4. Các chỉ tiết liên hệ đến đối tượng
Các chỉ tiết liên hệ đến đối tượng rất đa dạng. Nếu đó là núi đồi, ta phải nói đến độ cao. Nếu đó là công viên, quảng trưởng, ta phải nói đến diện tích. Đối với cầu cống, phải nói rõ chiều dài, chiều rộng (và có thể cả tải trọng). Đối với đường phố, cần nói rõ chiều dài và lộ giới. Nếu đó là sông rạch, nên nói rõ về độ dài, chiều rộng, độ sâu. Đối với các đơn vị hành chính thì phải nói đến diện tích, đân số, số lượng và tên các đơn vị nhỏ ở trong đơn vị đang đề cập, hoặc thuộc về đơn vị lớn nào...
5. Thời điểm ra đời của địa danh
Nếu biết chắc chắn, ta phải đưa vào. Chẳng hạn, phủ Gia Định được lập năm 1968; cầu Chữ Y được xây dựng trong các năm 1938 - 1941; thành phố Hồ Chí Minh được chính thức gọi vào ngày 2 - 7 - 1976.
Nếu không biết chính xác ngày, tháng, năm, ta có thể nêu khoảng thời gian. Chẳng hạn, địa danh 7Th¿ Nghè (Tp. Hồ Chí Minh) ra đời trong khoảng thời gian 1795 - 1750. Nếu không biết rõ thời điểm thì có thể phỏng đoán nhưng phải có căn cứ.
6. Nguồn gốc uà ý nghĩa ban đầu của địa danh
Đây là vấn đề /rọng tâm mà người làm từ điển phải lưu ý. Nội dung này rất thú vị đối với người đọc. Thế nhưng điều này cũng cực kì khó. Vì vậy, hầu hết các tác giả của những cuốn từ điển đã xuất bản đều phót lờ vì phải tốn nhiều thời gian và công sức mới có thể hi vọng phát hiện hoặc hoàn toàn vô vọng.
Dù sao, người biên soạn từ điển cũng. phải cố gắng tối đa. Đối với những địa danh mà ta đã tìm được nguồn gốc và ý nghĩa, ta phải trình bày theo những cách sau đây:
Nếu địa danh vốn là tên người (như Ông Tạ ỏ Tp. Hồ Chí Minh), ta phải nói rõ tiểu sử và sự nghiệp của nhân vật ấy.
Nếu địa danh vôn là tên cây (như Cử Cñ¡, Tp. Hồ Chí Minh), ta phải miêu tả chỉ tiết hình dáng, màu sắc, đặc điểm về thân, lá, rễ, trái... của cây Ấy.
Đối với địa danh vốn là tên một địa hình (như rạch Bòng Binh), ta cần mô tả hình dáng của địa hình ấy.
Nếu địa danh vốn là tên một con vật chỉ có ở địa phương (như rạch Cá Tra), chúng ta phải miêu tả hình dáng của con vật đó.
Đối với các địa đanh vốn là từ cổ, từ địa phương (như Hóc Môn, rạch Thai Thai) hoặc từ mượn của một ngôn ngữ khác (như Vàm Láng), ta cần miêu tả các nét nghĩa và nói rõ từ đó được mượn từ ngôn ngữ nào...
(Xem tiếp trang 69) NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI


VẤN ĐỀ BIÊN SOẠN.... (Tiếp theo trang 67))
7. Sự chuyển biến của địa danh uà đối tượng
Nhiều địa danh, sau một thời gian hành chức đã có những biến đổi vỏ ngữ âm. Những nguyên nhân này có thể nội tại hay ngoại lai. Ta phải trình bày đầy đủ âm gốc và âm biến. Ảnh hưởng bởi ngữ âm địa phương, Hàng Sanh, Gò Vấp... (Tp. Hồ Chí Minh) chuyển thành Hàng Xanh, Gò Vấp... Dưới tác động của luật dị hoá vần, Bèu Môn, Bàu Hói... biến thành Bà Môn, Bà Hói... ảnh hưởng bởi sự in ấn, Thạnh Đa, Lôi Giáng... chuyển thành Thanh Đa, Lôi Giang... Các địa danh Đa Kao, Lăng 1ó, Ki Hoà là kết quả do ảnh hưởng của người Pháp và tiếng Pháp...
Nhiều đối tượng của địa danh, nhất là các đơn vị hành chính và đường phố, có thể thu hẹp hoặc mở rộng. Tán Bình (Tp. Hồ Chí Minh) ban đầu là tên huyện, sau chuyển thành tên (rấn, rồi phủ, quận, tỉnh rồi trở lại guận với diện tích thay đổi theo đơn vị hành chính. Hai tỉnh Khánh Hoà và Phú Yên có thời gian nhập làm một thành tỉnh Phú Khánh (cuối năm 1975), sau đó
69
lại tách ra thành hai tỉnh và mang tên cũ (cuối năm 1991). Tương tự như vậy, trước năm 2000, đường Cách Mạng Thúng Tám dài hơn 19.000m. Đến ngày 7 - 4 - 2000, đường được cắt làm hai đường mang tên Cách Mạng Tháng Tám và Trường Chinh. Đường Trương Định hiện nay, trước ngày 14 - 8 - 1975, là hai đường Trương Định và Đoàn Thị Điểm...
Có lưu ý đầy đủ 7 nội dung trên, các mục từ địa danh mới hoàn chỉnh, thoả mãn những nhu cầu mà người đọc mong đợi.
1.1,