CHU XUÂN GIAO

60

T ư LIỆU 'Hãn hóa Jân gian

NHẬN LOẠI HỌC LỊCH sử - MỘT NHU CẨU VỀ PHƯỚNG PHÁP TỪ THỰC TÊ ĐIỀN DÃ TẠI NHẬT BẢN, DÒNG CHẢY VÀ ĐỘNG THÁI HIỆN TẠI CỦA CÁCH TIẾP CẬN NÀY (tiếp theo và hết)

CHU XUÂN giao'*’

P h ầ n 2. T ổ n g q u a n v ề q u á trìn h triể n k h a i m a n g tín h lí lu ậ n v ề n g h iê n cửu lịch sử tr o n g N h â n loại h ọ c và D ân tục h ọ c (N h ật B ản ) h a y là c á c lí lu ậ n ch o đ ế n n ay x o a y q u a n h N h â n lo ạ i h ọc L ịch sử và D ân tụ c h ọ c L ịch sử .111

bằng những phát triển vê mặt lí luận trong nội bộ ngành nhân loại học/dân tộc học từ khoảng thập niên 1950, cả ỏ Nhân loại học Xã hội của Anh hay Nhân loại học Văn hóa của Mĩ hoặc Dân tộc học của Pháp, các nhà nghiên cứu nhân loại học/dân tộc học đã bắt đầu quan tâm sâu sắc đến chiêu lịch đại trong các hiện tượng văn hóa xã hội, nhờ đó các nghiên cứu lịch sử trong nội bộ ngành đã được triển khai (Evans-Pritchard 1956,1962; Leach 1954). Tất nhiên những triển khai này đêu mói chỉ dừng lại ở sự tìm tòi mang tính cá nhân của nhà nghiên cứu, chưa được sự đón nhận của phái chủ lưu là những người theo chủ nghĩa chức năng cấu tạo vẫn tiếp tục chỉ chăm chú vào trạng thái đồng hiện.

Nhân loại học Lịch sử mà chúng tôi hưởng đến ở đây không phải là Dân tộc học Lịch sử (Lịch sử tộc người) có nguồn gốc từ chủ nghĩa truyền bá vê văn hóa (hay thuyết Vòng văn hóa) đã được triển khai ở Đức hay Áo hồi cuối thê kỉ 19 đầu thê kỉ 20, ở Nhật như vối nghiên cứu của Oka Masao, ở Việt Nam như vói một số công trình của Nguyễn Từ Chi vê mốì quan hệ giữa Mường và Việt hay các công trình của (Jacques Dournes vê quan hệ giữa người Chăm và một số nhóm người thượng vùng Tây Nguyên'2’. Đồng thời, D án tục hoc Lịch sử mà chúng tôi hướng đến cũng không phải là chỉ phương pháp luận lịch sử đìa lí được quen gọi là trường p h á i Phần L an trong ngành folklore gắn với tên tuổi của cha con nhà Julius Krohn nghiên cứu về sử thi vĩ đại Kalevala.

Có the tóm tắ t một quá trình triển khai mang tính lí luận về nghiên cứu lịch sử trong nhân loại học như sau. Khởi đầu

Thê rồi, gây một cú hích lớn đối với nhân loại học lại chính là trường phái sử học Annales của Pháp, trường phái nàv xuất phát từ sử học và đã tích cực tiếp cận lí luận, sử dụng các thủ pháp của nhân loại học, đặc biệt là thủ pháp điều tra thực địa và tư liệu ngoài văn bản viết, đê chủ trương xây dựng Sư học mới (xã hội sử) hay tự xưng là L ịch sử N h ân lo ạ i h ọ c /N h â n lo ạ i h ọ c L ịch sử. Có thể nói trường phái Lịch sử Nhân loại học của Pháp là kêt quả từ sự dung hợp lí

1 ’ Viện Nghiên cứu văn hóa

Tư liệu folklore

61

luận, phương pháp, thành quả của sử học và nhân loại học, đã cho ra đời những công trình có tiếng vang, gây ảnh hưởng lớn đến toàn bộ khoa học xã hội.

lĩnh vực nghiên cứu

cứu xã hội có truyền thông chữ viết lâu dời. Nghiên cứu của Kawada, của Fukui ở châu Phi, hay các danh tác của Levi Strauss vê' tư duy và lịch sử của “con người hoang dã" ở Nam Mĩ là thuộc lĩnh vực nghiên cứu thứ nhất (Levi Strauss 1952 và 1962, Kawada Junzo 2001, Fukui Katsuo 1986). Các nghiên cứu của Leach ở Mianma, của Sahlins và Kasuga ở Thái Bình Dương là thuộc thứ hai (Enmund Ronal Leach 1970, Marshall Sahlins 1985, Kasuga Naoki 2001). Các nghiên cứu của Ohtsuka ở thê giới Hồi giáo, nghiên cứu của Mori ở Áo, nghiên cứu của Shirakawa và của chúng tôi ỏ' Nhật là thuộc lĩnh vực nghiên cứu thứ ba (Ohtsuka 2000, Mori Akiko 1999, Shirakawa Takuma 2002, 2004, 2005).

Anh hưởng của trường phái sử học Annales (Emmanuel Le Roi Ladurie 1973,1983; Jacques Le Goff 1976; Peter Burke 1990) đã lan ngược lại tới nhân loại học, nhưng thái độ của các nhà nhân loại học, đặc biệt là nhân loại học Nhật Bản, thì đại bộ phận không mấy tích cực, ở chỗ vừa công nhận ảnh hưởng của Lịch sử Nhân loại học bằng việc coi nghiên cứu lịch sử trong nhân loại học là quan trọng nhưng lại vừa muốn cố thủ đặc quyên là cách tiếp cận đồng đại và đôi tượng nghiên cứu là vật thể ngoài chữ viết đê phân biệt mình với sử học mới (Seki Kazutoshi biên tập 1986; Sekimoto Teruo 1986).

tình

trạ n g hậu

Đồng thòi, còn có hưổng triển khai nghiên cứu về lịch sử trong ngành dân tục học (Folklore, Văn hóa dân gian), ở đây là nói vê Dân tục học N hật Bản, có thể gọi là Dân tục học Lịch sử. Cũng do ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại, dân tục học Nhật Bản đã bị phê phán mạnh mẽ bắt đầu từ thập niên 1980, nhưng gần đây, đã có ý kiến từ phía các nhà nhân loại học muôn đặt lại giá trị của dân tục học vổi tư cách là N hản loại học bản đ ịa hay N hăn loại học trong nước.

Từ nửa đầu thập niên 1990, do ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đạilhậu cận d ạ i (trong đó gồm cả trào lưu phê phán thực dân = postcolonial), cả sử học và nhân loại học đều bị đặt vào cùng một trạng thái hết sức nguy hiểm, gọi là sự khủng hoảng biểu tượng về người khác. Nhằm tái cấu trúc lại mình, nhân loại học và sử học đã cùng bước vào đôi thoại, cùng suy nghĩ lại vê các vấn đề cốt lõi quyết định sự sông còn của hai chuyên ngành đó là “văn hóa" và “lịch sử”. Trong đôi thoại này thì cả hai đều tỏ thái độ tích cực, nhân loại học không còn quá cô chấp vào đặc quyên “dồng đại” và “vô văn tự” của mình như trưóc nữa, đã chủ trương cẩn tiếp cận sâu hơn vê phía lịch sử.

Trào lưu xem nghiên cứu dân tục học trong nưốc là N hăn loại học bản địa ở Nhật Bản có những diểm tương đồng với cái gọi là “bản thô h ó a ” nhân loại học ỏ Trung Quôc hiện nay (chủ trương rằng cần bản địa hóa một cách hợp lí các lí luận của nhân loại học vào tình hình thực tế của Trung Quõc), tất nhiên là khác nhau vê động cơ lí luận6”.

Dân tục học N hật Bản có quan hệ gần gũi với sử học từ những ngày chập chững đầu tiên, gần đây, nó cũng chịu ảnh hưởng của trường phái sử học Annales, tích cực

Theo ý kiến cá nhân của chúng tôi, đến thời điểm hiện tại, có thể phân loại các nghiên cứu về lịch sử trong nhân loại học, hay là Nhân loại học Lịch sử, thành 3 lĩnh vực sau: nghiên cứu xã hội không có chữ viết, nghiên cứu xã hội vòn không có chữ viết nhưng hiện nay đã có chữ viết, nghiên

CHU XUÂN GIAO

62

giao lưu với sử học. nhân loại học nhưng vẫn chủ trương lưu giữ những đặc sắc của riêng mình.

người đế xưống chủ nghĩa chức năng cảu tạo ỏ Anh chỉ một mực nhấn mạnh vào trạng thái đồng đại, chủ trương là không cần thuyết minh về chiều lịch sử, việc nghiên cứu lịch sử vì thê trở thành một thứ cấm kị (taboo) suôi một thời gian dài.

làn sóng

Mục đích của bài viết này không phải là đặt thêm một mục hay tiểu mục vào trong danh sách các lĩnh vực nghiên cứu của Folklore hay Anthropology mà là hướng đến việc “tái tưởng tượng” lại vê hai chuyên ngành này, tìm đến một kết hợp mỏi cho cả hai, bằng việc khảo sát tổng thê về phương pháp luận nghiên cứu của nhân loại học và dân tục học ở góc độ mà chúng tôi có quan tâm, mà sự quan tâm lại bắt đầu từ những kinh nghiệm điêu tra thực tế. Có nghĩa là chúng tôi sẽ từ kinh nghiệm thực dịa tởi lí luận, rồi lại từ lí luận trỏ vê với thực địa. Việc tái tưởng tượng ở đây là một yêu cầu và cũng là khả năng được mang đến từ trào lưu tư tưởng hậu hiện dại/cận đại bên cạnh tính phá hoại hủy diệt (phủ định sạch trơn) của nó, đồng thời dây cũng là đòi hỏi về mặt phương pháp luận của Folklore (trong đó có Folklore Việt Nam) hôm nay về tương lai của chuyên ngành'”.

Vê vấn đề thứ hai thì có thể trả lời từ ba phương diện (như là ba giai doạn nôi tiếp nhau). Ớ góc nhìn từ lí luận nội tại của nhân loại học, cũng tức là giai đoạn thứ nhất, thì là do sự phản tỉnh của chính các nhà nhân loại học trước sự cấm kị của chủ nghĩa chức năng cấu tạo. Họ cho rằng, cách nhìn đồng đại tĩnh thái mà nhân loại học nhấn mạnh đã bất lực trước các biến đổi xã hội, đặc biệt là từ sau phong trào dộc lập của các “xã hội lạnh lẽo”, vói phương pháp cũ sẽ không nắm bắt toàn vẹn được đôi tượng quan sát. Ổ góc nhìn ảnh hưởng từ bên ngoài, tức giai đoạn thú' hai, thì là do trường phái sử học sự xuất hiện của Annales. Ó phương diện thời sự gần dây, tức giai đoạn hiện nay, thì là do sự xuất hiện của tưởng hậu cận đại/hiện đại.

3.2. Định danh phương pháp Nhân loại học Lịch sử và tính chất cơ bản của nó Phẩn 3. Phương pháp Nhân loại học- Dân tục học Lịch sử cho các xã hội có tính văn tự cao

3.1. Hai vấn để quan trọng

Trước hết, cần nhắc lại về hai vấn đê' quan trọng. Một là vì sao nhân loại học cận đại/hiện đại đã ghẻ lạnh với lịch sử. Hai là vì sao hiện nay nghiên cứu lịch sử trong nhân loại học không thể thiếu, hay nói cách khác, vì sao can phải có sự giao lưu giữa nhân loại học và sử học.

ở trên, chúng tôi đã dùng cả Nhân loại học Lịch sử và Dân tục học Lịch sử để chỉ ra các triển khai mang tính lí luận về vấn đề nghiên cứu lịch sử trong nhân loại học và trong dân tục học (Nhật Bản). Chúng tôi muôn sử dụng kết hợp cả hai, dùng chỗ mạnh của bên này để bổ sung chỗ yếu của bên kia, và gọi kết hợp dó là N hãn loại học - Dán tục học Lịch sử. Có thê hiểu đơn giản là, N hân loại hoc - Dân tục học Lịch sử = N hăn loai hoc Licit sử + Dân tục học Lịch sử. Nhưng dây không phải là phép cộng đơn thuần để tạo ra một sự hỗn độn vê m ặt phương pháp, điểm cần chú ý là, N hàn loại hoc - Dân tuc hoc

Vê vấn đê thứ nhát thì đó là do sự cứng rắn thái quá của chủ nghĩa chức năng cấu tạo (funtionalism) trong nhân loại học. Do đê phê phán, phủ định sự “chế tác" lịch sử phần nhiều thiếu căn cứ xác thực của chủ nghĩa truyền bá (difflusionism), mà những

Tư liệu folklore

63

Lịch sử mà chúng tôi chủ trương có trọng tâm ở phía nhân loại học. Trọng tâm là ỏ phía nhân loại học nhưng luôn chú ý đến phía dân tục học, xem dân tục học là nhân loại học trong nước. Nên từ đây trở xuông, và cũng là từ nay trở đi, để tiện cho sử dụng, chúng tôi sẽ gọi N hản loại hoc - Dân tục học Lịch sử mà mình chủ trương gọn lại thành N hân loại hoc Lịch sử.

Một điểm cơ bản nữa để phân biệt dàn tục học vối nhân loại học là ở chí hưởng của nhà nghiên cứu, cả hai đêu nghiên cứu về văn hóa, nhưng dân tục học thì vối mục đích truy tìm bản sắc của dân tộc mình mà thường có chí hướng vê quá khứInguồn gổc nên rất gần gũi với sử học nói chung, còn nhân loại học với mục đích là tìm vê nhân tính phô quát của con người trong tất cả các xã hội nên đặt chí hưóng ở hiện tại/đương đại nên gần vối xã hội học. Điêu này sẽ quyết định đến sự khác nhau vế hưống của vectơ lực trong nghiên cứu lịch sử của dân tục học (Dân tục học Lịch sử) và nhân loại học (Nhân loại học Lịch sử).

Phương pháp dân tục học của Fukuta được xem là phương pháp mổi của dân tục học Nhật Bản hiện nay, từ mục đích bô khuyết cho phương pháp dàn tục học của Yanagita, đã tích cực tiếp thu cả lí thuyết và phương pháp của nhân loại học, sử học mới. Nhưng véctơ lực trong phương pháp ấy là hưóng về quá khứ, cái hiện tại đang diễn ra chỉ là tư liệu của quá khứ/tài liệu của lịch sử, tức là khi quan sát cái đang ở trước mắt mình, nhà dân tục học, cũng giông như nhà sử học, chỉ xem dó như là một tư liệu đê đi ngược lại quá khứ, họ vẫn kiên định duy trì niềm tin: bản sắc năm ở quá khứ.

Trên thực tế, do điểu kiện lịch sử địa lí, tình hình chính trị xã hội, hiện trạng của kết cấu dân tộc trong một quốc gia khác nhau mà bôi cảnh chung của học thuật, quan hệ giữa các ngành trong khoa học xã hội và nhàn vãn (cũng như khoa học tự nhiên) của mỗi nưởc sẽ không giông nhau. Chẳng hạn như ở châu Âu (như Áo, Pháp, Hà Lan), vê cơ bản, dân tộc học/nhân loại học và dân tục học vôn được xem là hai ngành khác nhau, dân tộc học/nhân loại học thì có mục đích chính là nghiên cứu các xã hội vị khai ở các nước thuộc địa - đây là lí do cơ bản đê nhân loại học bị phê phán là vào hùa với chủ nghĩa đế quôc - còn dân tục học là nghiên cứu văn hóa của chính nước mình (mẫu quốc của các nưỏc thuộc địa); sau khi các nước thuộc địa lần lượt độc lập, có nhiều nhà nhân loại học rút vê mẫu quốc, chuyên hưởng sang nghiên cứu nhân loại học bản địa; hiện nay, dù có những hợp tác nhưng giữa các nhà nhân loại học bản dịa này và các nhà dân tục học vẫn có khoảng cách (tùy theo mỗi nước và mỗi thời kì mà khoảng cách là khác nhau).

Chúng tôi cho rằng bản sắc cũng như văn hóa nói chung là cái được cấu thành mang tính lịch sử, là cái đang tiếp tục vận hành mang tính cấu tạo (biến dung, đổi mới), nên việc nghiên cứu lịch sử trong nhân loại học không phải là từ thời diêm hiện tại mà trở về quá khứ đê chỉ khám phá, hay tái cấu trúc lại quá khứ, mà là ngược lại, việc nghiên cứu lịch sử là đê hiếu rõ hơn về cấu trúc của cái đang diễn ra trong hiện tại. Quan điểm chính của Nhân loại học Lịch sử là: xem văn hóa với tư cách là quá trình văn hóa. Vì thế Nhản loại học Lịch sử mà chúng tôi chủ trương có tính

Ó Nhật Bản, nhìn tổng quan, cũng như châu Âu, từ lâu đã định hình ý thức cho rằng d ân tục học là n g àn h chuyên nghiên cứu về văn hóa trong nước (tức văn hóa Nhật Bản), còn dân tộc học/ nhân loại học là ngành chuyên nghiên cứu vê nước ngoài, ý thức này ngàv một rõ và trở nên cứng rắn, xem như là “kỉ cương” phân giới hai chuyên ngành"’’.

CHU XUÂN GIAO

64

cách cơ bản là: đối tượng của nó là văn hóa/quá trình văn hóa mà không p h ải lich sử/quá trình lịch sử, trọng tâm của nó nam ở thời hiện tại mà không p h ả i ở quá khứ. Lộ trình của nghiên cứu Nhân loại học Lịch sử là:

Hiện tại -> Quá khứ -> Hiện tại

về cấu tạo và sự kiện" của Levi - Strauss (Lévi-Strauss 1952, 1962, 1983), quan điểm “c ầ n vượt qua nhị nguyên luận vẽ đồng d ạ i và lịch đ ạ i” trong cái gọi là “N hãn loại học Lịch sử m ang tính chủ nghĩa cấu ta o ” của Sahlins (Sahlins 1985), quan điểm “con người hành động từ hiêu biết của mình, nhưng cái mà con người hiếu biết đó là được sinh ra từ văn hóa dược câu trúc m ột cách lịch sử ” của Bloch (Bloch 1986), cải gọi là “khung dân tộc chí m ang tính động th á i” của nhóm Sudo (Sudo Kenichi, Yamashita Shinji, Yoshioka Masanori biên tập, 1988), quan điểm 'tiếp thu cả lí luận và phương p h á p của đội bạn vào trong nghiên cứu của m ìn h ” của nhóm Suenari (Suenari 1992, 1996a, 1996b), cải gọi là “N hãn loại học Lịch sử ” của Shirakawa (Shirakawa 2005), và cái gọi là “D ân tục học so sá n h ” của Suzuki (Suzuki 1982).

Có nghĩa là, xuất phát từ hiện tại, từ hiện tại sẽ ngược lại quá khứ trong điều kiện cho phép của tư liệu (tư liệu quan sát tham dự, tư liệu ngoài văn tự, tư liệu văn tự), nhưng cuối cùng là để trở vê vởi hiện tại, việc đi vào quá khứ là vì mục đích cho cái hiện tại. Kết quả đi vào quá khứ cũng không chỉ là tìm ra môi quan hệ nhân quả giữa quá khứ và hiện tại (như cải gọi là gánh nặng quá khứ của hiện tại, và gánh nặng hiện tại của quá khứ) mà là tìm ra quá trình, đó là quá trình biến đôi mang tính cấu tạo.

3.3. Phương pháp gọi là Nhân loại học Lịch sử

2004;

Đôi thoại của nhóm Mori (Mori Akiko biên tập 2002, Mori Akiko 1999) và đặc san của nhóm Kasuga (Kusuga Naoki 2004; Shugishima Ishikawa Noboru Takashi 2004) thì đóng góp cho Nhân loại học Lịch sử những kiến thức mang tính nhận thức luận về tính thời sự của nhân loại học, và mục tiêu hướng đến của dân tộc chí hậu cận đại/hiện đại.

Trào lưu tự phê phán gọi là hậu cận đại/hiện đại đã phủ sóng trên quy mô toàn thê giới như một cuộc cách mạng vê tri thức, các ngành và các nước “phiên dịch” nó bằng các cách không giông nhau, nó mang đến cả nguy cơ (nguy cơ tự hủy hoại) và cả động lực cho những khả năng mối (khả năng mang đến sự bình đẳng vê tri thức, quyền lực), v ề cơ bản, theo chúng tôi, nó thiên vê nhận thức luận hơn là phương pháp luận. Ó nhân loại học, dân tục học và sử học thì trào lưu này xoáy sâu vào câu

N hân loại học Lịch sử được chủ trương ở đây là thành quả tiếp thu các triến khai lí luận của các nhà nhân loại học và dân tục học trong suốt một nửa thê kỉ qua. Đó là: lời kêu gọi "nhân loai hoc với tư cách như là sử học" của Evans- Pritchard (Evans-Pritchard 1956, 1962), cái gọi là “các/i ghi chép về cấu tạo của hệ thòng không căn bằng' của Leach (Leach 1954), “cách tiếp cận chủ nghĩa chức năng m ang tín h động thái" của Geertz (Geertz 1957, 1980), quan diểm vê quan hệ khăn g k h ít cần có giữ a nhản loại học và sử hoc dôi với nghiên cứu các xã hội có truyên thống văn tư lâu đời như Trung Quốc của Freedman (1962), quan điểm “cần vượt qua nhị nguyên luận

Tư liệu folklore

65

tính, mang dấu ấn của bản thân nhà nghiên cứu, có nhiều tư liệu chi tiết không ghi chép lại được mà nhà nghiên cứu phải ghi nhớ bằng não bộ và con tim, chúng sẽ sông lại khi rời khỏi thực địa và khi chế tác dân tộc chí trên bàn giấy. Tư liệu cảm tính này gọi là tư liệu thực địa.

hỏi “ai là người có quyền nói về văn hóa?" hay “ai là người có quyền trần thuật lịch sử?”, tức là dồn mũi dùi tự phê phán vào cách viết dân tộc chí của nhà nhân loại học cận đại/hiện đại (tương ứng với cách viết dân tục chí trong dân tục học cận đại/hiện đại, cách trần thuật lịch sử d trong sử học cận đại/hiện đại), đê hướng đến cách viết dân tộc chí (tương ứng với dân tục chí và sách giáo khoa lịch sử) hậu cận đại/hiện đại, nhưng viết như th ế nào - điều quan thì chưa có phương pháp cụ trọng nhất - thê, mối chỉ có mục tiêu mang tính nhận thức luận mà thôi. Hiện tại, ở một sô nước vẫn đang rộ lên với ảnh hưởng của trào lưu này, và một số nưốc thì sóng đã qua đi.

Trên cơ sở tham khảo các thuyết trưởc nay, đặc biệt là đề án của nhóm Suenari (Suenari 1996b; Miyanaga Kuniko 1996), dưới đây, chúng tôi sẽ đê xuất các quan điểm cụ thể vê phương pháp của Nhân loại học Lịch sử trên các vấn đề: tư liệu nghiên cứu, thời lượng của chiểu lịch sử được nghiên cứu, phương thức suy luận, định hướng cho việc viết dân tộc chí Nhân loại học Lịch sử, giao lưu hợp tác giữa nhà nhân loại học với nhà sử, học và nhà nhân loại học với nhà dân tục học.

a. Tư liệu nghiên cứu

Loại tư liệu thứ hai là tư liệu văn tự. Với các nước có tính văn tự cao như vùng Đông A thì đó là tư liệu trước thời cận đại, gồm tư liệu các loại của làng xã (như số đăng kí nhân khẩu, địa bạ, địa chí, số thuế...), tư liệu của các điểm tín ngưỡng (như thần tích, thần phả, văn giáng bút, văn cầu cơ...), gia phả và ghi chép gia đình, nhật kí của cá nhân, bia kí, mộ chí, hoành phi, minh chuông, v.v... Với loại tư liệu này thì cần sự hợp tác của nhà nhân loại học vói nhà sử học, nhà văn tự học, các nhà nghiên cứu địa phương, để đọc hiểu đúng các văn bản, phân biệt được th ật giả. Tư liệu trưởc cận đại ở các nước Đông Á có điểm chung là phần lớn được ghi bằng chữ Hán, nên nếu có một trình độ nhất định vê Hán văn sẽ rất tiện lợi trong điều tra điền dã. Tiếp đó là mảng tư liệu cận đại gắn với kĩ thuật in ấn, đáng chú ý nhất là báo chí (địa phương và trung ương). Với tư liệu văn tự, cả trước cận đại và cận đại, cần chú ý đặc biệt đến tính liên tục của tư liệu.

(Seki Kazutoshi biên

Nhà nhân loại học tiến hành điểu tra điền dã trong một thời gian tại một địa bàn với quy mô không lởn (thường chỉ là một làng), và bằng các phương pháp cần thiết sẽ thu thập 3 loại tư liệu như sau.

Tư liệu quan sát tham dự hay tư liệu thực địa. Đặc trưng quan trọng nhất của tư liệu cho dân tộc chí của nhân loại học là tính cảm tính. Bởi chỗ phương pháp cơ bản của nhân loại học là quan sát tham dự trong điều tra điền dã dài hạn cho nên tư liệu thu được trong thời điểm đó là cái cảm

Loại tư liệu ngoài văn tự, cũng tức là cái mà trường phải sử học Annales hay nhóm Seki tập 1986; Sekimoto Teruo 1986) gọi là môi thể phi văn tự. Chẳng hạn như là ảnh, tranh, cuổn thư, b ản dồ. các v ật th ể in dâ'u vào trong trời đất (như kiến trúc, đường giao thông, mạng thủy lợi, vết nứt của đất canh tác...), ngôn ngữ của cơ thể (như múa, phong thải, tật của động tác, tật của phát âm, các ghi nhớ mang tính động tác...), tư liệu của ngành nghiên cứu dân cụ (dụng cụ dân gian).

CHU XUÂN GIAO

66

b. Thời lượng của chiêu lịch sử được

nghiên cứu

Clifford, George Marcus). Họ xem lại và phê phán hành vi viết/sáng tác của người viết dân tộc chí cận đại/hiện tại, đê' nghị cần xây dựng quan hệ đôi thoại — đa thanh giữa người cầm bút và người được phản ánh trong tác phẩm, người ở thực địa được quyền lên tiếng trong dân tộc chí. Nhưng có ý kiến cho rằng, thực ra, các nhà nhân loại học hậu cận đại/hiện đại mới chỉ chú tâm nhiều vào phía người viết và người đọc tác phẩm, mà chưa để mắt đến phía người được phản ánh vào tác phẩm*

liệu

từ

Sẽ không có một khung chung về thời lượng cho chiều lịch sử, mà tùy vào đề tài của nghiên cứu và tình hình tư liệu. Nhóm của Sudo (Sudo Kenichi, Yamashita Shinji, Yoshioka Masanori biên tập, 1988) đã nêu một hạn định về thời gian “ít nhất là một trăm năm”, nhưng Lévi-Strauss đã chứng minh là có thể khai thác sử liệu và tác phẩm văn học thê kỉ 11 ở Nhật Bản (Lévi- Strauss 1983), Shirakawa đã ngược vê' với tư thê kỉ 19 thê kỉ 15 đến (Shirakawa 2002, 2004, 2005). Điều quan trọng, liên quan đến tính cách cơ bản của Nhân loại học Lịch sử đã nêu trên đây, là việc sử dụng sử liệu phải trong ý thức thường trực hướng về hiện tại, mà không phải là đi vào quá khứ rồi không trở lại.

c. Phương thức suy luận

Vối ý thức xây dựng quan hệ đôi thoại giữa người điều tra và người được điêu tra, Nhân loại học Lịch sử sẽ đặc biệt chú tâm đến sự đa thanh trong chính người ở địa bàn điều tra. Dân tộc chí của Nhân loại học Lịch sử không nhằm dựng lại các “âm thanh đã mất” (“the voice of the past”), hay hướng vê' đối thoại với người không nhìn thấy ở trong quá khứ, mà là tìm ra một quá trình vận động mang tính cấu tạo từ quá khứ tói hiện tại. Những âm thanh vọng vê từ quá khứ sẽ được đặt trong cấu trúc mang tính vận động vởi âm thanh đang ngân lên trong thời điểm hiện tại, có khi là trong quan hệ hòa hợp và có khi là mâu thuẫn. Từ quan hệ này, có thể tìm ra được cái gọi là “kí ức tập thể” hay là “sự quên mang tính cấu tạo/hệ thông” (structural amnesia). Tính chất của dáng vẻ hiện tại mà nhà nhân loại học đang quan sát tại thực địa sẽ hiện ra trong cấu trúc như vậy.

Kasuga phiền lòng trước ảnh hưởng của nhân loại học hậu cận đại/hiện đại mà muôn tìm ra một phương thức suy luận có đủ sức vượt qua nó, đó là abduction (phát tưởng từ giả thuyêt, tìm chân lí qua giả thuyết). Theo ông, abduction có sức mạnh hơn các phương thức tư duy diễn dịch và quy nạp (Kusuga Naoki 2004). Nhưng thực ra, abduction không phải là phương thức suy luận mới, việc dựng giả thuyết để rồi kiểm chứng tính khả thi của nó trong thực tế là việc đã và đang diễn ra ở bất cứ ngành khoa học nào. K hông p h ả i là giải pháp mang tính chiết trung, nhưng phương thức suy luận của Nhân loại học Lịch sử là kết hợp của cả quy nạp và abduction.

ngữ

“ghi

chép

dầy”

d. Dân tộc chí Nhân loại học Lịch sử

Hiện nay, trong lí luận vê' dân tộc chí, các nhà nhân loại học hậu cận đại/hiện đại chủ trương cái gọi là “dân tộc chí mang tính đối thoại, đa âm thanh, cùng viết” (James

Người mở dường cho nhân loại học hậu cận đại/hiện đại là Clifford Geertz - như nhận xét của Alan B arnad(8) - đã đưa ra thuật (thick description). Miyanaga phân tích rằng, “ghi chép dầy” chính là biểu hiện Mĩ của cái mà Evans-Prichard gọi là “lịch sử”. Evans- Prichard chủ trương nhân loại học như là sử học, và sử học mà ông hướng đến là sử

Tư liệu folklore

67

này làm mất rấ t nhiều thời gian của độc giả). Đó chính là sự công phu sáng tạo của Geertz, nêu không có sự công phu này thì sách đã trở thành một công trình sử học mà không phải nhân loại học. Geertz đã thưa trước vởi độc giả rằng, sách ấy như là hai công trình tách biệt, phần chính văn và phần chú thích, những người không có quan tâm và chuyên môn sâu về Indonesia thì không cần đọc phần chú thích, chỉ cần đọc chính văn. Xem kĩ thì thấy, phần chú thích có dung lượng không kém phần chính văn, và đó chính là phần “làm sử”, tức là phần phân tích và thảo luận của Geertz vê các sử liệu hay các nghiên cứu về lịch sử. Còn chính văn là kết quả từ công việc làm sử ấy, tức là cái đã được trừu tượng hóa từ các sự kiện lịch sử, cộng với tư liệu điều tra thực địa của ông.

học mang tính sáng tạo, “cái sử học không phải là nhìn hiện tại từ quá khứ mà là, từ hiện tại nhìn về quá khứ và tương lai” (Miyanaga Kuniko 1996). Theo chúng tôi, “ghi chép dầy” mà Geertz đã thực hiện trong nghiên cứu về nhà nưốc Ball trước thế kỉ 19 là ở chỗ: mô hình về nhà nưởc ấy được rút ra trong quá trình khảo sát lịch sử, nhưng nó là “tồn tại mang tính quan niệm mà không phải tồn tại mang tính lịch sử “(Geertz 1980). Có nghĩa là dân tộc chí của Nhân loại học Lịch sử không phải là một bản trần thuật lịch sử của sử học, đôi tượng của nó là văn hóa với nghĩa là quá trình văn hóa mang tính lịch sử mà không phải chính là lịch sử. Quá trình văn hóa này sẽ được mô hình hóa, trừu tượng hóa, đê có thể so sánh được vối các mô hình văn hóa khác (quá trình văn hóa khác). So sánh văn hóa theo quan điểm của Nhân loại học Lịch sử là so sánh các quá trình văn hóa vối nhau mà không phải là các yếu tố văn hóa riêng lẻ<9>.

Cách trình bày công phu cũng còn thấy ở công trình vê nghi lễ ở Madagacar của Bloch (Bloch 1986), ông cho biết là để công hiến được nhiều hơn cho khoa học xã hội nói chung thì đã phải bỏ bớt các chi tiết quá sâu. Cách trình bày của Shirakawa trong nghiên cứu về Kagura (Shirakawa 2005) cũng đã tương đôi công phu nhưng màu sắc “làm sử” trong chính văn còn khá nặng, tác giả dẫn rấ t nhiều văn bản cô và các sự kiện lịch sử, cách này sẽ gây khó đọc cho người không có chuyên môn sâu về tôn giáo và lịch sử Nhật Bản.

Suenari còn phân tích chỗ khác nhau giữa nhân loại học và sử học trong việc ghi tên riêng (nhân danh). Các nhà sử học thì bao giờ cũng ghi đường hoàng tên riêng trong nghiên cứu của mình, và họ lây làm lạ khi các nhà nhân loại học lại ghi tắt hay ghi tên giả, theo con mắt của sử học thì đó là hư cấu mà không phải khoa học. ơ đây chính là điểm khác nhau giữa nhân loại học và sử học, ở chỗ, vì nhân vật mà nhà sử

Một thành công nữa của Geertz trở thành tiền lệ cho phương pháp viết dân tộc chí Nhân loại học Lịch sử là ỏ cách trình bày của sách trên. Không phải dân tộc chí Nhân loại học Lịch sử phải rập khuôn cách trình bày đó, mà nên xem đó là một tham khảo; để có được hình thức trình bày tốt nhất hợp vối đề tài nghiên cứu của mình thì đòi hỏi sự suy nghĩ sáng tạo của chính người cầm bút. Có thê nói là Geertz đã rất công phu cho việc trình bày trong cuốn Negara - nhà nước sân khấu ở Ball th ế kí 19. Đầu tiên khi mở sách ấy có lẽ là cảm giác hơi khó chịu vói cách chú thích của nó sẽ đến với bạn đọc, chú thích ở đấy không phải được đánh sô thứ tự như bình thường, mà là chú thích theo các dòng ở cách trang (tựa như là lôi huấn hỗ của Trung Quốc thời cổ, theo dòng chữ và tờ văn bản - lô'i

CHU XUÂN GIAO

68

học nghiên cứu là thuộc về quá khứ nên nếu có ghi thẳng tên thật cũng không gây rắc rối gì, còn đoi tượng mà nhà nhân loại học quan sát là thuộc về thì hiện tại nên cần phải ghi tên giả để tránh việc xâm phạm nhân quyền hay tránh những rắc rối có thể xảy ra (Suenari 1996b).

e. Nhân loại học với sử học và dân tục

học

Suenari chủ trương một sự giao lưu sâu về lí luận và phương pháp giữa nhân loại học và sử học, hai bên hưổng đến việc tiếp thu cả lí luận và phương pháp của đội trong nghiên cứu của mình bạn vào (Suenari 1996b). Chúng tôi đánh giá cao đê án của Suenari bởi nó kết nối trực tiếp với kinh nghiệm điền dã trên thực tế, là đề án được trăn trở suy nghĩ từ chính thực địa.

phương. Từ phía sử học thì thấy, nhà nhân loại học sử dụng thời gian rất lãng phí cho những cuộc phỏng vấn vòng vo, và nhiều khi có vẻ “dai dẳng đến mức khó chịu". Theo ông, việc điểu tra chung như vậy có cơ hội thê nghiệm những khác nhau về tiểu tiết, nhưng không phải để phân biệt nhau mà là hướng đến việc kết hợp phương pháp, bố trợ cho nhau. Theo ông, nhà sử học sẽ giúp nhà nhân loại học ở các diêm sau; 1. Kĩ pháp bình giá và đọc hiểu tư liệu văn tự, 2. Tri thức lịch sử với tư cách là khung cảnh thời gian cho xã hội của đối tượng điều tra, 3. Sự kiện lịch sử cụ thể có ý nghĩa gì, ảnh hưởng gì ở địa bàn điêu tra, 4. Cách suy nghĩ về việc biến đổi. Ngược lại, nhà nhân loại học sẽ có giúp nhà sử học ở các điểm sau: 1. Quan sát kĩ lưỡng vê tác dụng xã hội trong thời điểm hiện tại, 2. Những giải thích thú vị vê' các hành động có tính tượng trưng, 3. Thuyết minh về sự gắn kết với nhau giữa các bộ phận trong một hệ thông xã hội, 4. Cung cấp tư liệu khác với tư liệu của nhà sử học. Để tăng cường quan hệ hợp tác giữa hai chuyên ngành, ông đưa ra đề án giáo dục bắt chéo, tức là học sinh ở chuyên ngành nhân loại học thì nên được đào tạo thêm vê sử học, và ngược lại, học sinh ở chuyên ngành sử học thì nên học thêm về lí luận hay tham gia vào các điểu tra của nhân loại học.

Trưởc năm 1996, Suenari đã từng có kinh nghiệm đi điểu tra cùng với các nhà sử học tại làng Bách Cốc (Nam Định, Việt Nam) trong 3 năm (mỗi năm một lần, mỗi lần ba tuần), đây là một nghiên cứu mang tính tổng hợp - liên ngành do các nhà sử học ở Đại học Tokyo chủ trì. Ông đã cùng các nhà sử học trọ ở ngoài phô và hàng ngày đi vào làng để thu thập tư liệu (địa bạ, gia phả), vẽ bản đồ, thăm và làm việc tại các đền miếu, nhà dân. Tất cả các nhà sử học trong đoàn đêu nói được tiếng Việt, và tiến hành điểu tra tập trung rấ t giông với thủ pháp của nhân loại học. Nhưng rõ ràng vẫn thấy có điểm cách biệt giữa hai bên. Từ phía nhân loại học thì thấy, các nhà sử học có quan tâm đặc biệt vào tư liệu văn tự, đi đến bất cứ nơi nào cũng đặt việc sao chép cho bằng hết các hoành phi, câu đôi lên trước việc phỏng vấn; khi phỏng vấn thì thường hỏi một mạch và không chú ý nhiều đên lịch sử truyền miệng, không để ý đến việc chuyện trò vặt vãnh của người địa

Theo Suenari, để có đửợc giao lưu thực chất thì cả hai bên cần cùng hạ thấp cá tính của mình xuống, nhưng không đến mức là vứt bỏ hết các đặc trưng cơ bản. Với nhân loại học thì có ba đặc trưng cơ bản: điều tra điền dã, nắm tổng thể của một vùng nhỏ, cảm giác mang tính tương đôi, nêu bỏ cả để đi vào giao lưu với sử học thì không có ý nghĩa gì. Một giao lưu hứa hẹn những thành quả chưa từng có bao giờ là, cả hai đều giữ những đặc trưng tiền để như

Tư liệu folklore

69

trên, rồi từ đó, nhà nhân loại học biết đến thế giới văn tự, nhà sử học sẽ đi thực địa và thử quan sát theo kiểu nhân loại học.

toàn

ngành nghiên cứu văn hóa dân gian), và là một mường tượng vê' con đường hình thành của nhân loại học Việt Nam. Chúng tôi hoàn tán đồng quan điểm của Miyanaga cho rằng, hiện tại một thời đại mói đang đến với nhân loại học th ế giới, và đôi với các quốc gia phi phương Tây chưa phát triển nhân loại học thì việc suy nghĩ vê lịch sử là một điểu kiện quan trọng để tìm ra xuất phát điểm cho nhân loại học của mình. Nhân loại học Lịch sử sẽ là điểm cất bước cho nhân loại học Việt Nam trên con đường đã mở ra ở trưóc m ặt.o

C.X.G

(1) Trong bản thảo ban đầu của bài viết, chúng tôi dã dành một phần viết dài (khoảng 40 trang khô A4) đế dựng lại quá trình triển khai mang tính lí luận vê nghiên cứu lịch sử trong Nhân loại học và trong Dân tục học (Nhật Ban), tức là tìm hiểu về các lí luận cho đến nay xoay quanh Nhân loại học Lịch sử và Dân tục học Lịch sử. Nhưng do có hạn chê vê' sô trang, Phần 2 này đã được rút ngắn, chỉ dừng lại ở mức là đưa ra một tổng quan về quá trình nói trên. Những trình bày chi tiết đã được lược bỏ toàn bộ (chỉ còn là những ghi chú về xuất xứ tư liệu, với hình thức chang hạn như: Suenri 1996b). Cách rút ngan như hiện nay có thê gây khó hiếu cho độc giả, chúng tôi xin thuyết minh bố sung bằng những bài viết khác.

(2) Về chủ nghĩa truyền bả, ỏ' đây, chỉ nói thêm một chút về các triền khai của thuyết này ỏ Nhật Bản và Việt Nam.

Trong các chuyên ngành kê' cận, ngoài sử học, nhân loại học đã và tiếp tục cần giao lưu sâu sắc với dân tục học. Chúng tôi suy nghĩ vê' quan hệ giữa nhân loại học và dân tục học từ hai điểm sau. Một là, dân tục học cần được xem, hoặc phát triển theo hướng nhân loại học trong nước (native anthropology, anthropology at home, home anthropology), hoặc là bản đ ịa hóa/dán tục học hóa nhân loại hoc, hoặc cùng một nhà nghiên cứu sẽ tiến hành cả nghiên cứu dân tục học và nhân loại học (tức là nghiên cứu cả ở trong nước và ở nưởc ngoài). Hai là, các nhà nhân loại học đến từ nước ngoài thì nên tham khảo và hợp tác vái các nhà dàn tục học (nhân loại học trong nước), thành quả của dân tục học và sự giúp đỡ của nhà dân tục học sẽ công hiến nhiều cho nghiên cứu của nhà nhân loại học. Ó các quốc gia đa dân tộc như Việt Nam, Trung Quốc, có điểm thú vị là sẽ có các cấp độ trong nhân loại học/dân tục học như sau. Một là, nhân loại học/dân tục học nghiên cứu chính nền văn hóa của bản thân mình, như người Việt nghiên cứu người Việt, người Dao nghiên cứu người Dao, người Hán nghiên cứu người Hán. Hai là, nhân loại học/dân tục học nghiên cứu người khác một nửa, như người Việt nghiên cứu người Tày người Nùng, hay ngược lại. Ba là, nhân loại học nghiên cứu người khác thực thụ. như người Việt nghiên cứu người Nhật hoặc người châu Phi, hay ngược lại.

Công trình tiêu biêu của Oka Masao là luận văn tiến sĩ bằng tiếng Đức " K u ltu rsch ich ten in A lt-J a p an 1: 4'1 2' 1 t (L.lri - T ầng văn hoá cô N hật Bản" được bảo vệ năm 1993 tại Đại học Viên dưới ảnh hưỏng của w. Schmidt - một đại biêu của chủ nghĩa truyền bá tại đại học này.

Về các nghiên cứu của Nguyễn Từ Chi, xin xem Nguyễn Từ Chi 1996. Chúng tôi cho rằng, mặc dù có ảnh hưởng cả từ Lévi-Strauss, nhưng

Vối các phân tích ở trên, đến đây, có thể nói rằng, Nhân loại học Lịch sử mà chúng tôi chủ trương có mong muốn là kêu gọi sự giao lưu thực chất giữa nhân loại học với dân tục học và sử học, cũng là một tìm kiếm vê hưống đi cho dân tục học (chuyên

CHU XUÂN GIAO

70

Từ Chi là người tiêu biêu cho hưởng nghiên cứu kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa tiến hoá và chú nghĩa truyền bá trong dân tộc học Việt Nam (xin đặc biệt chú ý đên các cưổc chú có giá trị như các tiêu luận nhỏ nằm trong các bài viết), những suy nghĩ trăn trở, nhiều khi có phần trầm mặc và cô đơn, vê' nguồn gốc các tộc người và văn hoá tộc người đã làm nên chiều sâu và chất trữ tình trong các tác phẩm của ông.

trình Các công

tiêu biểu của Jacques Dournes có La cu ltu re J o r a i (1972) hay Patao: Une T heorie d u P o u vo ir ches les In doch in ois J o r a i (1977). Nhân loại học. Có thể thấy được quá trình này qua các chặng phát triển từ Ban Văn học dân gian sang ban Văn hoá dân gian, rồi Viện Nghiên cứu vãn hoá dân gian, nay đã đổi thành Viện Nghiên cứu văn hoá. ơ các chặng chuyên đổi trong quá trình phát triển này đều xuất, hiện cái gọi sự tái cấu trúc (có cả hàm ý hà tính phá huỷ), đồng thời cùng sinh ra những khá năng mới, tính sáng tạo mới. v ề các chặng phát triển của chuyên ngành văn hoá dân gian và Viện Nghiên cứu văn hoá dân gian có thế xem các bài viết của Phan Đăng Nhật (Phan Đãng Nhật 1999), Nguyễn Xuân Kính (Nguyễn Xuân Kính 2005).

Quá trình phát triển của Dân tục học Trung Quốic cũng theo hướng từ vãn học dân gian, mơ rộng ra văn hoá xã hội, và hiện là về phía Nhân loại học. Xin xem Đào Lập Phan 1987. Chung Kính Văn 1998.

(3) Trường phái Phần Lan: tại Việt Nam, có những giối thiệu sơ lược về trường phái này trong một sô'bài viết của Lê Chí Quế và Nguyễn Thị Hiền (bài của Nguyễn Thị Hiền mang tiêu đê ''Một sô phương pháp nghiên cứu Folklore ở phương Tây" đăng trên tạp chí Văn hoá dân gian số 3 (71), 2000).

Theo Fukuta Ajio, nhò công của Yanagita Kunio mà Dân tục học Nhật Bản khác với đại bộ phận các nước khác, ở chỗ là ngay từ xuất phát đã chú ý nhiêu đến văn hoá và xã hội, mà không nặng về văn học dân gian. Xin xem Fukuta Ajio 2002.

Trường phái này đã được Julius Krohn (1835 - 1888) khởi xướng vối việc nghiên cứu sử thi Kalevala của Phần Lan, ông đã dành cả đời đế khôi phục nguyên mẫu sử thi vĩ đại này bằng cách sắp xếp các dị bản của nó theo địa lí và theo lịch sử. Sau đó, người con trai là Kaarle Krohn đã tiếp tục hoàn thiện phương pháp của cha mình, đem ứng dụng cách làm của cha vào nghiên cứu truyện cổ nói chung.

(4) Vê Nhân loại học bản địa hay Nhân loại học trong nước, xin xem Suenari Michio 1992, Kuwayama Takiami 2000, 2001, Nakanishi Yori 2005, và Chu Xuân Giao 2000b (chi là một diem tin, chúng tôi chưa có điều kiện vê' mặt thời gian dê tông kết lại các vân đề về lí luận tại Hội nghị Bắc Kinh năm 1999). v ề "bản thố hoá" nhân loại học ở Trung Quốc, có thể xem trong Trần Quốc Vượng 1992, Dung Quan Quỳnh 1999, và Kiều Thu Hoạch 1999.

(6) Thời kì trước chiến tranh thế giởi thứ hai. dân tộc học quan hệ gần gũi vởi dân tục học (Yanagita và các học trò của ông), rất nhiều nhà dân tộc học vốn là xuất thân từ nghiên cứu dân tục học (ví dụ điển hình như Ishida Eĩichiro - một trong những người có công xây dựng ngành dân tộc học Nhật Bản), có rất nhiều người nghiên cứu cả trong nước và cả nước ngoài. Sau chiên tranh, "Nhân loại học" trở thành một môn ở bậc đại học (hoặc thành lập mới hoặc đổi tên từ "Dân tộc học", nhưng tên "Hội Dân tộc học Nhật Bản" và tạp chí chuyên ngành "Nghiên cứu Dân tộc học" thì vẫn giữ nguyên cho đến hết năm 2004 (cho đến thập niên 1960 vẫn đăng tíii nhiều nghiên cứu trong nước, nhưng từ thập niên 1970 thì vắng bóng dần, đến nay thì gần như chỉ chuyên cho các nghiên cứu vê nước ngoài của các nhà nghiên cứu Nhật Bán). Các nhà nghiên cứu dân tục Nhật Bản thì có "Hội (5) Ngành nghiên cứu Folklore (Văn hoá dân gian, Dân tục học) Việt Nam được xuất phát từ Văn học (Văn học dân gian), mở rộng sang Dân tộc học và Nghệ thuật học (Nghệ thuật dân gian) và hiện nay, đang vận động vê' hướng

Tư liệu folklore

71

Dân tục học Nhật Bản" và tạp chí chuyên ngành "Dân tục học Nhật Bản".

7- Đào Duy Anh, 1975, Chữ Nôm, nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến. Hà Nội, Nxb Khoa học xã hội. (7) Xem xem Kuwayama Takami 2000. 2001.

8- Đinh Gia Khánh, 1968, Sơ bộ tìm hiếu nhữ ng vân đ ê của tru yện cô tích qu a truyên Tấm Cám, Hà Nội, Nxb Văn học. (8) Ý kiên của Alan Barnad trong H isto ry in A n th ro p ology, Cambridge

a n d Theory University Press, 2000.

(9) Xin xem chú thích sô' 3 ở kì 1.

TÀI LIỆU THAM KHẢO TRÍCH DAN

9- Clifford Geertz, 1973, The Interpretation of Cultures: Selected Essays, Basic Books, Inc. (BdN: Yoshida Teigo và những người khác dịch, 1987, Nxb Iwanami).

(G hi chú: B d N = B ả n d ịc h t iế n g N h ật)

10- Clifford Geertz, 1973 (1957), Ritual and Social Change: A Javanese Example (BdN: Yoshida Teigo và các người khác dịch, 1987. tập 1).

LTS: P h ầ n n ày có n hiêu chú g iả i ban g tiến g N hật, do đ iêu kiện k ĩ th u ậ t, ch ú n g tôi đã lược bỏ. M ong tá c g iả và bạn đọc thôn g cảm .

11- Clifford Geertz, 1973 (1966), Religons as Cultural System (BdN: Yoshida Teigo và các người khác dịch, 1987, tập 1)

1- Amino Yoshihiko, Miyata Noboru, Fukuta Ajio biên tập, 1992, Tống tập về dân tục lịch sử Nhật Bản, tập 1, Lịch sử học và Dân tục học, Nxb Yoshikawa Kobunkan.

12- Clifford Geertz, 1980, Negara The Theatre State in Nineteenth-Century Bali, Princeton University Press (BdN: Koizumi Junji dich, 1990. Nxb Misuzu Shobo).

13- Edmund Ronald Leach 2- Chiba Tokuji 1976, "Nghiên cứu khu vực và dân tục học", Wakamori Taro biên tập, Các bài giảng Dân tục học Nhật Bản 5 - Phương pháp của Dân tục học. Nxb Asakura Shoten.

1970 (1954) Political Systems of Highland Burma, The Athlone Press of the University of London (BdN: Sekimoto Teruo dịch, 1987, Nxb Kobundo).

3- Trần Quốc Cường (Chín Quoqiang) và những người khác, 1992, Nhân loại học Trung Quốc đang trong thời kì thành lập. Thượng Hải, Nxb Tam Liên Thượng Hải.

14- Emmanuel Le Roi Ladurie, 1973 (1978), Territoire de L'historien, Tome I et II (BdN: Kabayama Koichi và những người khác dịch, 2002 (1980), Nxb Fujiwara Shoten.

4- Chu Xuân Giao, 2000a, Đời sống, vai trò và bản chất của thầy Tảo người Nùng An qua trường hợp bản Phía Chang, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn hóa dân gian (hiện lưu tại Thư viện Viện Nghiên cứu văn hóa).

15- Emmanuel Le Roi Ladurie, 1983, Le territoire de 1'historien - histoire et anthropologie (BdN: Ninomiya Hiroyuki biên dịch, 1992, Nxb Iwanami Shoten).

16- Evans-Pritchard, E.E, 1954, Social anthropology, Glencoe, III.: Free Press. 5- Chu Xuân Giao, 2000b, “Hội nghị giữa kì năm 2000 của Hiệp hội Nhân loại học và Dân tộc học quốc tê” , Tạp chí Văn hóa dân gian, sô' 3 (71). năm 2000. 17- Evans-Pritchard, E.E,

1956, The Institutions of Primitive Society, Oxford: Basil Blackwell (BdN: Yoshida Teigo dịch, Nxb Kobundo).

18- Evans-Pritchard, E.E, 1962, Anthropology and History, M anchester University Press. 6- Chu Xuân Giao, 2002, "Một nghiên cứu dân tục học vê nhân vật Tào - người thực hành nghi lễ trong nhóm Nùng An thuộc tộc người Nùng ỏ Đông Bắc Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa khu vực, sô' 8, Đại học Ngoại ngữ Tokyo.

CHU XUÂN GIAO

72

31- Lévi-Strauss, 1952, Race et Histoữe, Unesco (BdN: Arakawa Ikio dịch, 1976 (197)), Nhân chủng và lịch sử, Nxb Misuzu Shobo).

19- Fukui Katsuo 1986, "Cái kết nối sinh thải và lịch sử: hướng đến mô hình sinh thành của lịch sử", trong sách do Seki Kazutoshi biên tập Lịch sử mang tính Nhăn loại học là gì? Nxb Kaimei.

20- Fukuta Ajio 1982, Cấu tạo mang tính 32- Lévi-Strauss, 1962. La pensee sauvage. Librairie Plon (BdN: Ohashi Yasuo dịch. 1988 (1976), Nxb Misuzu Shoho). dân tục của làng xã Nhật Bản, Nxb Kobundo. 33- Lévi-Strauss, 1983, "Histoire et 21- Fukuta Ajio 2002, Làng xã thời cận thê và dân tục hiện đại, Nxb Yoshikawa Kobunkan. ethnologie", Paru dans la revue Annales. 38' (BdN: annee-N°6, novembre-decembre 1983

Sugiyama dịch, 1985, Tạp chí Tư tưởng, sô’ 727). aujourd'hui 22- Jacques Le Goff 1976, Histoire et (BdN: Ninomiya ethnologic Hiroyuki biên dịch, 1992, Nxb Iwanami Shoten).

ideology in the Merina and o f ritual

34- Maurice Bloch. 1986. From blessing to the Violence: History circumcision of Madagascar, Cambridge University Press (BdN: Tanabe Shigeharau và Akisu Motoki dich, 1994. Nxb Đại học Hosei). 23- Ishikawa Noboru 2004, "Quá trình toàn cầu hóa trong lịch sử - vê những người lao dộng ở thòi kì thuộc địa và hiện nay tại miên Bắc Borneo", Tạp chí Nhân loại học Văn hóa, số 3 quyển 69.

35- Marshall Sahlins, 1985, Islands of (BdN: History, The University of Chicago

24- Kawada Junzo, 2001, Lịch sử của xã hội không có chữ viết - từ nghiên cứu trường hợp tộc người Mosi ở châu Phi, Nxb Iwanami-shoten. Yamamoto Matori dich, 1993, Nxb Đại học Hosei).

36- Miyanaga Kuniko, 1996. "Sự thực và nhận thức - điểm nhìn từ Nhật Bản", Tạp chí Văn hoá phương Đông, sô’ 76. 25- Kawada Junzo, 1986, "Bàn về lịch sử trong xã hội không có chữ viết", trong sách Seki Kazutoshi biên tập, Lịch sử mang tính Nhân loại học là gì? Nxb Kaimei.

37- Mori Akiko, 1999, Các gia đình xem lại đất đai - Dàn tộc chí Lịch sử về bang Karten ớ Ao, Nxb Shinyo-sha. 26- Kiêu Thu Hoạch, 1999. "Tình hình nghiên cứu nhân loại học ở Trung quô'c", Tạp chí Văn hoả dân gian, sô 4.

38- Mori Akiko biên tập, 2002, Tình hình hiện tại của việc ghi chép lịch sử - đối thoại giữa Sử học và Nhân loại học, Nxb Jinbun Shoin. 27- Kusuga Naoki, 2001, Rasputin ở Thái Bình Dương - Nhân loại học Lịch sử về phong trảo "Công ti của người Fiji", Nxb Sekaishiso.

39- Nakanishi Yuri, 2005, Nghiên cứu cơ bản hướng đến việc xây dựng Nhân loại học nghiên cứu vê' văn hoá bản địa/ trong nước. 28- Kusuga Naoki, 2004. "Vì sao bây giờ lại bàn vê lịch sử - thay cho lời dẫn", Tạp chí Nhân loại học Văn hoá, số 3 quyển 69.

40- Nguyễn Từ Chi, 1996, Góp phần nghiên cứu văn hoá và tộc người, Hà Nội, Nxb Vãn hoá thông tin - Tạp chí Văn hoá nghệ thuật.

29- Kuwavama Takami, 2000, "Suy nghĩ lại về cái gọi là "Dân tục học th ế giới" của Yanagita Kunio - dưới con mắt của nhà Nhân loại học Văn hoá", Tạp chí Dân tục học Nhật Bản. sô 222.

41- Nguyễn Xuân Kính, 2005. "Nghĩ về công tác lí luận và nghiên cứu văn học dân gian", Tạp chí Văn hoá dân gian, sô’ 1, 2005.

42- Ohtsuka Kazuo, 2000, Một cách tiếp 30- Kuwavama Takarni, 2001, "Lí luận mới nhất vê Nhân loại học bản địa", Tạp chí Niên báo Nhân loại học xã hội, sô 27. cận về Cận đại và Islam, Nxb Đại học Tokyo.

Tư liệu folklore

73

43- Peter Burke.

1990. The French Historical Revolution: The Annales School, 1929-89, CA: Stanford University Press. CHAO Chen Eds. Home Bound: Studies in East Asian Society, The Center for East Asian Cultural Studies.

44- Peter Burke. 1991. New Perspectives on Historical Writing, Cambridge. for Anthropology

in

45- Phan Đăng Nhật, 1999. "Ban Văn hoá dân gian tiền thân của Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian". Tạp chí Văn hoá dân gian, sô' 4. 56- Suenari Michio, 1996a, "Vietnam as a and Polyhedral Mirror Historians", Proceedings for the Conference on the 21st Century: Toward a New Asia Frameword for Asian Studies, Institute of Orintal Culture, University of Tokyo.

46- Priedrich Engels (Ph. Ăng-ghen), 1972 (1884), Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của nhà nước. Hà Nội, Nxb Sự thật. 57- Suenari Michio, 1996b, "Nhân loại học và nghiên cứu lịch sử", Tạp chí Văn hoá phương Đông, sô 76.

47- Rong Guangqiong (Dung Quan Quỳnh), 1999, Phương pháp luận Nhân loại học, Quảng Tây. Nxb Dân tộc Quảng Tây. 58- Suzuki Michio 1982, "Cấu tạo và điểm nhìn "so sánh’ trong dân tục học so sánh". Tạp chí Tư tưởng, sô' 693. 48- Seki Kazutoshi biên tập, 1986. Lịch sử mang tính Nhăn loại học là gi? Nxb Kaimei.

59- Takahashi Toichi. 1978, cấu tạo và biên đổi của Miyaza - nghiên cứu mang tính Nhản loại học xã hội về chê độ trưởng lão trong tếtự. Nxb Mirai-shya.

49- Sekimoto Teruo, 1986, "Lịch sử nhií là tấm bia kỉ niệm", trong sách do Scki Kazutoshi biên tập Lịch sử mang tính Nhân loại học là gì? Nxb Kaimei.

60- Takahashi Toichi. 1994, Cận đại hoá và truyền thông văn hoá ở xã hội nông thôn - duy trì và biến dung của cộng đồng làng xã. Nxb Iwada Shoin. 50- Shirakawa Takuma, 2002, "Tín ngưỡng được dựng ra: lịch sử và hiện thực về tín ngưỡng Konpira ở cận thế".

61- Takeda Chyoshu, 1972, Đền chùa và sự dung hợp thần Phật ở làng xã thời cận thế- làng Yamakuni ở Danba. Nxb Hozokan. 51- Shirakawa Takuma, 2004, "Thế lực mật giáo hiển giáo và dân tục tôn giáo - thử đặt vị trí của Shugen ở vùng Bắc Kyushu".

62- Tao Lifan (Đào Lập Phan), 1987. Dân tục học khái luận, Nxb Học viện Dân tộc Trung ương.

52- Shirakawa Takuma, 2005, "Tìm lời giải cho sự lệch pha - vê Kagura ỏ vùng Buzen". trong sách Nghiên cứu cơ bản hướng đèn việc xây dựng Nhân loại học nghiên cứu về văn hoá bản địa ỉ trong nước. 63- Vitor Tunrner, 1969, The Ritual Process: Structure and Anti-Structure (BdN: Tomikura Mitsuo dịch, 1976, Nxb Shisaku-sha).

64- Viện Nghiên cứư Văn hoá phương Đông, Đại học Tokyo, 1996, Tạp chí Văn hoá phương Đông, sô' 76, Đặc san Nhân loại học và nghiên cứu lịch sử ở Đông A. 53- Shugishima Takashi. 2004. "Nghiên cứu lịch sử dể lí giải hiện tại - qua nghiên cứu trường hợp ỏ khu trung tâm Flores thuộc miền Đông Indonexia, Tạp chí Nhân loại học văn hoá, sô' 3, quyển 69.

65- Zhong Kingwen (Chung Kính Văn) chủ biên, 1998, Dàn tục học khái luận, Thượng Hải. Nxb văn hoá nghệ Thượng Hải.

54- Sudo Kenichi, Yamashita Shinji. Yoshioka Masanori biên tập, 1988, Tinh khả năng của Nhản loại học xã hội 1 - Xã hội ớ trong lòng lịch sử. Nxb Kobundo.

55- Suenari Michio, "Anthropology of One’s Own Society in East Asia". NAKANE chie &