Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam



Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN

-1

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

MỤC LỤC

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.................................................................................................3

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .............................................................................7

3. NHIỆM VỤ, MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI ...................................................................11

4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI TƯ LIỆU .......................11

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..............................................................................12

6. BỐ CỤC KHÓA LUẬN ..............................................................................................12

7. QUY ƯỚC TRÌNH BÀY ............................................................................................13

GIẢNG NGHĨA THƠ ĐƯỜNG .................................................................................14 1.1. GIẢNG NGHĨA TỲ BÀ HÀNH TRONG SGK PT ............................................16 1.2. “GIẢNG NGHĨA” PHONG KIỀU DẠ BẠC TRONG SGK PT ........................29 1.3. LÝ GIẢI HIỆN TƯỢNG GIẢNG NGHĨA TRONG SGK PT ............................36 GIẢI NGHĨA THƠ ĐƯỜNG TRONG ......................................................................45 2.1. NGHIÊN CỨU PHÊ BÌNH TỲ BÀ HÀNH Ở VN .............................................46 2.2. NGHIÊN CỨU PHÊ BÌNH PHONG KIỀU DẠ BẠC Ở VN .............................52 2.3. LÝ GIẢI HIỆN TƯỢNG GIẢI NGHĨA TRONG NGHIÊN CỨU, PHÊ BÌNH Ở VIỆT NAM ...............................................................................................................57 KẾT LUẬN......................................................................................................................66

TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................................................72

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN

-2

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong một thời gian rất dài, khi nghiên cứu văn chương, người ta luôn

kiếm tìm lời giải cho tác phẩm từ tác giả. Bởi vậy mà, trong tiềm thức của

rất nhiều người hôm nay vẫn luôn tự tin khẳng định rằng tác phẩm

Baudelaire cho thấy sự suy sụp của con người Baudelaire, tranh Van Gogh

là sản phẩm trong những phút thăng hoa của hội chứng điên, nhạc

Tchaikovsky là ẩn ức của những tội lỗi, sám hối day dứt nhất… Không phủ

nhận tác giả có một vai trò quan trọng hình thành nên tác phẩm song đó

không phải là đối tượng quan trọng nhất và càng không phải là yếu tố duy

nhất để ta xoáy vào khi nghiên cứu văn học. Bởi lẽ nói như Trương Đăng

Dung rằng “tác phẩm văn học như là quá trình”, tác phẩm được phôi thai từ

sự chiếm lĩnh nghệ thuật về hiện thực của nhà văn và kết quả là người đọc

có được một văn bản nghệ thuật. “Nhưng sự sống của nó chỉ thực sự bắt đầu

khi trải qua quá trình chiếm lĩnh thẩm mỹ về tác phẩm của người đọc. Văn

bản chỉ trở thành tác phẩm khi có người đọc xuất hiện” [12, 108]. Đó là lí

do vì sao từ cổ chí kim, không ít nhà văn, nhà thơ sáng tác nên hàng triệu

tác phẩm nhưng không phải tất cả số đó vượt qua được dòng chảy nghiệt

ngã của thời gian để đứng vững cùng bạn đọc.

Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy đã có một nhận xét rất chính xác rằng:

“Khoa học văn chương trong hai thế kỷ gần đây có ba phát hiện quan trọng:

Thế kỷ XIX phát hiện ra tác giả, nửa đầu thế kỷ XX: tác phẩm, nửa cuối thế

kỷ XX là độc giả. Mối quan hệ ba ngôi này đã tạo ra một nhất thể, một chỉnh

thể văn học mà tùy theo từng thời điểm và từng phương pháp tiếp cận người

ta tôn một ngôi nào đó là trung tâm nhưng vẫn không đặt ra ngoài mối quan

hệ với hai ngôi kia.”[50, 28]. Đề cao vị thế của độc giả, tiếp cận tác phẩm từ

góc độ người đọc là một bước tiến của lí luận văn học thế giới cũng như bước

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN

-3

đầu ở Việt Nam. GS. TS Trần Đình Sử cũng đã đưa ra quan điểm của ông

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

rằng “về tác phẩm văn học, nhất thiết phải có khái niệm tác phẩm văn học

trên cơ sở văn bản mà lí luận văn học hiện hành còn thiếu. Ở đó văn bản chỉ

được coi như cái vỏ ngôn ngữ bên ngoài. Tác phẩm văn học phải được cắt

nghĩa theo lí thuyết tiếp nhận hiện đại”.

Cho dù tác giả đến tận hôm nay vẫn thống trị trong những bộ văn học

sử, trong các tiểu sử văn học, các cuộc phỏng vấn trên báo chí, thậm chí ngay

trong ý thức của giới văn chương… thì dần dần địa vị ấy đã và đang bị lật đổ.

Từ khi đưa ngôn ngữ lên vị trí trung tâm, giới nghiên cứu đã đề cao sự viết,

triệt tiêu tác giả và khôi phục lại vị thế cho độc giả. Nhà văn Mỹ Brecht đã

từng ví von rất ngộ nghĩnh là: nếu ví văn học là một sân khấu thì tác giả bị

thu lại thành một hình thù tí xíu ở tít đầu kia của sân khấu văn học.

Nếu như lí luận tiếp nhận truyền thống với tư duy lí luận văn học tiền

hiện đại chỉ nhấn mạnh đến tác giả thì đến tư duy lí luận văn học hiện đại đã

nhận ra vai trò quan trọng của văn bản nghệ thuật như là trung tâm tạo nghĩa.

“Tác giả trở thành xác chết và sự viết bắt đầu” (R. Barthes). Những hoạt

động ý thức của nhà văn không thuộc về tác phẩm mà chỉ là cơ sở tồn tại của

tác phẩm. Tác phẩm chỉ thực sự được đắp da đắp thịt thông qua quá trình đọc

“có chủ ý” của người tiếp nhận.

Với khám phá hết sức mới mẻ, mĩ học tiếp nhận đã đưa việc nghiên

cứu tác phẩm văn học lên một nấc thang mới. Nếu cứ cày xới từ góc độ tác

giả, ngôn ngữ văn bản thì cánh đồng văn chương tưởng chừng không còn

điều gì mới mẻ để khai phá. Từ đây, mở ra một chân trời tiếp nhận mới, tiếp

cận tác phẩm từ nhiều chiều hơn tựa như khối rubic lập phương. Sự tồn tại

của tác phẩm không thể hình dung được nếu thiếu sự tham dự của người

đọc. Không có tác phẩm văn học nếu không có người đọc, một nền văn học

không chỉ là phép cộng giản đơn của tác giả, tác phẩm mà còn phải kể tới

mối quan hệ tác giả - tác phẩm, đội ngũ dồi dào những người tiếp nhận

chúng cùng thời cũng như thế hệ mai sau… Quá trình tiếp nhận tác phẩm

chính là sự đối thoại liên tục với tác giả trên mọi lĩnh vực, độc giả cũng là

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN

-4

người đồng sáng tạo. Lý luận tiếp nhận đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

trọng trong lịch sử tác phẩm văn học. Theo dõi đời sống lịch sử của các tác

phẩm văn học, dễ nhận thấy tiếp nhận văn học ngày càng chiếm lĩnh tác

phẩm một cách sâu sắc hơn, toàn diện hơn, cụ thể hơn trong nhiều tương

quan và bình diện hơn.

Tiếp nhận là một vấn đề rất mới mẻ và hấp dẫn, nó mở ra những chiều

sâu khám phá sức sống nội tại của một tác phẩm văn học, đặc biệt là đối với

những tác phẩm kinh điển, có sức sống mạnh mẽ trong lịch sử văn học.

Người ta luôn tự hỏi: Cái gì làm nên sức sống tiềm tàng mãnh liệt ấy? Tác giả

là một cây bút đầy tài năng? Thông điệp của nó ẩn chứa nhiều vấn đề hấp dẫn

mang tính thời đại? Và độc giả mọi thế hệ chính là chiếc cầu nối kì diệu đã

tiếp nhận, cất cánh cho những áng văn chương ấy vươn xa hơn. Bởi vậy mà

có người đã nói không ngoa rằng: Lịch sử văn học là lịch sử của những cách

đọc. Từ thời đại này sang thời đại khác, từ người này qua người khác sẽ nới

rộng dần ra không gian thẩm mỹ của tác phẩm. Tác phẩm mở ra vô vàn

những cái nhìn khác lạ.

Thơ Đường là một trong những áng văn chương mang trong mình sức

sống tiềm tàng như vậy. Thơ Đường là một dạng thơ nổi tiếng bởi sự thâm

trầm, bí ẩn. Để hiểu hết được những tầng bậc ý nghĩa của nó không phải là

một điều giản đơn. Nói như Will Durant thì: “Khắp thế giới đâu thấy được

một thứ thơ nào so sánh được với thứ thơ đó về cách diễn tả thanh nhã, tế

nhị, về những tình cảm dịu dàng điều độ, về sự bình dị và cô đọng của một

câu ngắn thôi mà bao trùm được tư tưởng cân nhắc kĩ lưỡng.” Có phải thế

chăng mà cho đến nay, nhiều văn bản Đường thi vẫn như những nguồn suối

không cạn, có sức hút lớn, mời gọi bạn đọc khám phá.

Thơ Đường là tinh hoa của văn học Trung Quốc, là thành quả rực rỡ của

một thời đại văn chương một đi không trở lại, không chỉ với Trung Hoa mà

với toàn thể thế giới. Ảnh hưởng của nó đến với văn hóa, văn chương các

nước trên thế giới cũng như khu vực rất sâu nặng. Hàng nghìn năm đã trôi

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN

-5

qua nhưng việc tiếp nhận - diễn dịch thơ Đường vẫn không hề bị lãng quên.

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế cũng là

hai trong số đó.

Bạch Cư Dị vốn được coi là ba đỉnh cao của thơ Đường cùng với Lý

Bạch và Đỗ Phủ, tuy nhiên, còn có nhiều nhà thơ, tuy thơ của họ để lại không

nhiều nhưng chỉ đôi ba bài cũng đủ khiến họ trở thành nhà thơ bất hủ.

Trương Kế là một người như vậy. Có thể nói rằng, nếu kể tên mười nhà thơ

tiêu biểu của thơ ca cổ điển Trung Quốc thì có thể không có Trương Kế,

nhưng nếu kể tên mười thi phẩm xuất sắc của thơ cổ điển Trung Quốc thì khó

mà bỏ qua được Phong Kiều dạ bạc.

Nền văn học nghệ thuật Việt Nam đã đón nhận và lưu giữ tác phẩm Tỳ

bà hành của Bạch Cư Dị và Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế, đồng thời

cũng đã từng có những sự tiếp thu ảnh hưởng rất sâu sắc từ tác phẩm đó.

Không ít những sáng tác thơ ca Việt Nam đã được khởi xướng từ dư âm của

Tỳ bà hành hay ý thơ thâm trầm, tĩnh lặng của cảnh chùa Hàn San trong

Phong Kiều dạ bạc. Bài thơ từng được đưa vào giảng dạy trong chương trình

phổ thông nên khá quen thuộc với học sinh - sinh viên. Khi lí luận phê bình

văn học đã đạt được những thành tựu mới thì việc tiếp nhận tác phẩm văn học

nói chung, tiếp nhận Tỳ bà hành và Phong Kiều dạ bạc nói riêng càng được

quan tâm nhiều hơn. Như thế, Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế và Tỳ bà

hành của Bạch Cư Dị là hai tác phẩm hết sức tiêu biểu cho Đường thi, hơn

nữa tư liệu nghiên cứu về tiếp nhận hai tác phẩm này đã được thực hiện khá

đầy đủ trong các niên luận, khóa luận của những người đi trước.

Chúng tôi muốn trên nền những tư liệu đã có của những người nghiên

cứu trước để qua Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Phong Kiều dạ bạc của

Trương Kế tìm hiểu và lí giải một vài vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam.

Khóa luận của chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu hai cách đọc, hai hướng tiếp

nhận chính bên cạnh rất nhiều cách tiếp nhận phong phú khác đó là việc

“giảng nghĩa” thơ Đường trong sách giáo khoa phổ thông và việc giải nghĩa

thơ Đường trong nghiên cứu - phê bình để từ đó có cái nhìn tổng quát, nhận

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN

-6

diện và lí giải vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam. Ở một khía cạnh nào đó có

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

thể gợi mở những chân trời của mĩ học tiếp nhận, nhìn nhận tác phẩm ở góc

độ người đọc.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Có thể nói nghiên cứu quá trình tiếp nhận văn học ở góc độ người đọc

là một vấn đề khá mới mẻ ở nước ta. Cụ thể, trong khóa luận của chúng tôi có

nghiên cứu một vài vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam nói chung, tiêu biểu

qua hai trường hợp Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Phong kiều dạ bạc của

Trương Kế lại là một vấn đề ít gặp.

Viết về quá trình tiếp nhận thơ Đường ở Việt Nam có thể kể tới Luận

án phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn của Nguyễn Tuyết Hạnh với đề tài: Vấn đề

dịch thơ Đường ở Việt Nam (TP Hồ Chí Minh, 1996). Luận án gồm có ba

chương: Chương đầu tiên nói về lịch sử dịch thơ Đường ở Việt Nam với việc

nêu ra truyền thống dịch thuật ở Việt Nam, truyền thống dịch thơ Đường và

tổng kết lịch sử dịch thơ Đường ở Việt Nam. Chương hai đưa ra vấn đề

những phát sinh do quan hệ giao tiếp văn hóa nhiều đời giữa Việt Nam và

Trung Quốc trong việc dịch thơ Đường, chủ yếu là những thuận lợi và vấn đề

thể loại chuyển dịch. Chương cuối tác giả viết về nghệ thuật dịch thơ Đường

cần phải có sự đồng cảm giữa dịch giả và tác giả, ngôn ngữ thơ Đường trên

góc độ dịch và chủ yếu người viết đi sâu nghệ thuật dịch thơ Đường trên góc

độ thủ pháp. Có thể nói, luận án của Nguyễn Tuyết Hạnh đã nghiên cứu được

rất chi tiết sự vận động và phát triển của việc dịch thơ Đường qua các giai

đoạn lịch sử, sự vận động của thể loại chuyển dịch từ buổi ban đầu đến nay.

Người đọc có một cái nhìn sâu hơn về vấn đề dịch thuật nói chung cũng như

dịch thơ Đường nói riêng ở Việt Nam. Mà dịch thuật thực chất cũng chính là

một khía cạnh của quá trình tiếp nhận nơi độc giả, của mĩ học tiếp nhận. Tuy

nhiên, luận án mới chỉ nghiên cứu việc dịch thơ Đường theo thủ pháp nghệ

thuật thơ Đường và mới chủ yếu quan tâm những bài thơ có số câu dưới

mười sáu khi bàn về việc dịch theo thủ pháp.

Thơ Đường là một loại thơ khá đặc biệt bởi nó có một sinh mệnh dịch

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN

-7

thuật dài lâu ở Việt Nam. Cho tới hôm nay Đường thi vẫn được sự quan tâm

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

của không ít độc giả. Bởi vậy mà nó trở thành đối tượng lí tưởng cho nhiều

sự khảo sát. Nghiên cứu thơ Đường, mà cụ thể là sự tiếp nhận Đường thi ở

Việt Nam là một vấn đề hấp dẫn và có thể khai thác sâu sắc, tuy nhiên những

công trình nghiên cứu vấn đề này vẫn còn quá ít ỏi. Nhiều khóa luận tốt nghiệp

của sinh viên trường ĐH KHXH & NV Hà Nội đã đề cập tới vấn đề này. Ngay

từ khi nước nhà còn trong giai đoạn chiến tranh khốc liệt, năm 1965, Phạm

Đình Lợi dưới sự hướng dẫn của thầy Ngô Xuân Anh đã viết đề tài: Điểm qua

việc dịch thuật thơ Đường ở Việt Nam. Khóa luận có bốn phần: ngoài phần mở

đầu và kết luận, khóa luận gồm ba phần nội dung chính: Phần hai: Mấy nét về

thơ Đường và giá trị của nó. Phần ba: Điểm qua việc dịch thuật thơ Đường ở

Việt Nam với ranh giới phân chia hai giai đoạn là Cách mạng tháng Tám lịch

sử. Khóa luận tuy ngắn và mới chỉ bước đầu điểm qua trên những nét lớn nhất,

qua những dịch giả tên tuổi nhưng đã cung cấp cho bạn đọc nhiều nguồn tư

liệu quý giá về vấn đề dịch thuật thơ Đường ở Việt Nam.

Năm 1972, Nguyễn Trọng Nuôi viết khóa luận tốt nghiệp với tên đề tài

là Tìm hiểu việc dịch thuật và nghiên cứu Đường thi ở Việt Nam trước cách

mạng tháng Tám. Khóa luận gồm hai phần chính: Phần đầu: Vài nét về thơ

Đường. Phần hai đi sâu nghiên cứu việc dịch thuật và khảo cứu Đường thi ở

Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với việc chia ra ba ý lớn: dịch thuật,

khảo cứu và nhận định chung. Có thể nói, tuy trong hoàn cảnh đất nước khó

khăn, nguồn tư liệu khan hiếm, còn ghi chép tay nhưng khóa luận đã tổng

hợp được tài liệu và bước đầu có những lời bình giá nhất định về hiện tượng

nghiên cứu.

Nghiên cứu vấn đề tiếp nhận rộng hơn ở cả lĩnh vực giới thiệu, nghiên

cứu và phiên dịch và đối tượng nghiên cứu rộng hơn hẳn là thơ ca Trung

Quốc (không giới hạn ở Đường thi), Nguyễn Thị Mỹ Linh đã viết khóa luận

tốt nghiệp với đề tài: Tình hình giới thiệu, nghiên cứu và phiên dịch thơ ca

Trung Quốc ở Việt Nam từ trước tới nay. (năm 1991, Lê Đức Niệm hướng

dẫn). Khóa luận gồm có sáu phần lớn, mỗi phần đi theo lịch sử phát triển của

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN

-8

thơ Đường từ thời Tiên Tần; Tần Hán, Ngụy Tấn, Nam Bắc triều; thơ ca đời

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

Đường; thơ ca Tống Nguyên; thơ ca Minh Thanh và Cận đại; thơ ca Trung

Quốc thời Hiện đại. Trong đó tác giả lại đi vào tìm hiểu quá trình giới thiệu,

nghiên cứu cũng như đặt ra vấn đề ai là người đầu tiên dịch thơ Đường?

Người đầu tiên khảo cứu thơ Đường? Khóa luận đã cung cấp cho độc giả

nguồn tư liệu khảo sát rất chi tiết và đáng quý về thơ ca Trung Quốc đã được

tiếp nhận ở Việt Nam.

Các công trình trên được nghiên cứu từ các cách tiếp cận văn học so

sánh (nghiên cứu ảnh hưởng) hoặc từ góc độ phiên dịch học, chứ chưa quan

sát đối tượng từ góc độ mỹ học tiếp nhận. Hiện nay chúng ta đang thực hiện

công việc này một cách tập trung, ý thức về phương pháp cũng rất rõ ràng:

cùng với mỹ học tiếp nhận được truyền bá ở Việt Nam, dẫn đến cách hiểu

mới về tác phẩm văn học, từ đó mở rộng lĩnh vực nghiên cứu của văn học sử,

công việc nghiên cứu của chúng ta vẫn là bám chắc trên mảnh đất văn học sử,

song chúng ta đặt công việc của mình vào môi trường của văn hóa - văn học

so sánh, chuyển từ nghiên cứu ảnh hưởng sang nghiên cứu tiếp nhận. Người

đọc - văn bản đọc trở thành tư liệu nghiên cứu chính.

Trong những năm gần đây, khi mĩ học tiếp nhận được mở rộng và được

quan tâm nhiều hơn thì vấn đề này lại được lật lại và nghiên cứu sâu hơn.

Dưới sự hướng dẫn của GV Phạm Ánh Sao, liên tiếp trong những năm 2006,

2007, 2008 là các niên luận, khóa luận tìm hiểu quá trình tiếp nhận thơ

Đường tại Việt Nam thông qua một số trường hợp tiêu biểu. Năm 2006,

Nguyễn Thu Hương có khóa luận: Tiếp nhận và diễn dịch Phong Kiều dạ

bạc tại Việt Nam. Khóa luận gồm ba chương. Chương đầu nêu một số vấn đề

về lí luận tiếp nhận văn học, chương hai tổng thuật quá trình giao lưu văn hóa

và tiếp nhận văn học Trung Quốc tại Việt Nam. Chương chính tìm hiểu tiếp

nhận và diễn dịch Phong Kiều dạ bạc tại Việt Nam. Người viết đã đưa ra một

hướng tiếp cận mới với Phong Kiều dạ bạc. Có thể nói, khóa luận của

Nguyễn Thu Hương đã đưa ra được những tri thức lí luận văn học nền tảng

về tiếp nhận văn học cũng như những ghi chép đáng quý về sự xuất hiện, tiếp

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN

-9

nhận tác phẩm Phong Kiều dạ bạc tại Việt Nam.

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

Cũng như khóa luận của Nguyễn Thu Hương, niên luận của Nguyễn Thị

Hường: Vấn đề tiếp nhận Tỳ bà hành tại Việt Nam (năm 2007) đã cơ bản mô

tả được những ghi chép, tìm tòi tư liệu kỹ lưỡng về quá trình tác phẩm đến

Việt Nam và được tiếp nhận như thế nào theo thời gian. Niên luận gồm bốn

phần chính: Thời điểm sớm nhất tiếp nhận văn bản tác phẩm Tỳ bà hành tại

Việt Nam; Tỳ bà hành trên sách báo tạp chí đầu thế kỷ XX; vấn đề tuyển

dịch nghiên cứu Tỳ bà hành tại Việt Nam từ 1940 đến nay; vấn đề tiếp nhận

Tỳ bà hành trong các thể loại văn học nghệ thuật tại Việt Nam. Công trình

nghiên cứu của Nguyễn Thị Hường tuy nhỏ nhưng là nguồn tư liệu đáng quý

đã cho thấy được toàn cảnh quá trình tiếp nhận Tỳ bà hành tại Việt Nam trên

nhiều phương tiện: sách báo, tạp chí, sách, giáo trình… và tương ứng với nó

là các cách đọc khác nhau. Những ghi chép của Nguyễn Thị Hường về vấn đề

tiếp nhận Tỳ Bà hành tại Việt Nam là một sự tìm kiếm tư liệu đáng quý và

đáng ghi nhận. Cùng năm 2007 có khóa luận tốt nghiệp của Mạnh Thị Minh

nghiên cứu: Đường thi trong sách giáo khoa phổ thông ở Việt Nam. Với hai

chương: chương một: quá trình Đường thi được đưa vào giảng dạy trong

trường phổ thông ở Việt Nam và chương hai: Hướng dẫn giảng dạy Đường

thi trong sách giáo khoa phổ thông ở Việt Nam, đây cũng là một công trình tỉ

mỉ, cung cấp nhiều tư liệu rất có ích cho bạn đọc quan tâm đến vấn đề này.

Năm 2008, Nguyễn Hồng Mơ tiếp tục vấn đề tiếp nhận khi làm niên

luận nghiên cứu: Vấn đề tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam. Niên luận

gồm ba chương: Chương một vấn đề dịch thuật Hoàng hạc lâu, chương hai:

Vấn đề nghiên cứu Hoàng hạc lâu và chương ba: Từ tác phẩm đến tác phẩm.

Như vậy, ta có thể thấy rằng việc nghiên cứu vấn đề tiếp nhận văn học,

cụ thể là tiếp nhận Đường thi ở góc độ bạn đọc vẫn chưa có nhiều cây bút

tham gia. Nghiên cứu văn học từ mĩ học tiếp nhận là một vấn đề khó và thực

sự cần có nhiều thời gian. Trong khóa luận này, chúng tôi muốn tiếp tục phát

triển, nghiên cứu sâu hơn vấn đề tiếp nhận thơ Đường, thông qua hai trường

hợp tiêu biểu: Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế và Tỳ bà hành của Bạch

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -10

Cư Dị. Những niên luận, khóa luận đi trước quả thực là những phần tư liệu

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

rất quý báu để trên cơ sở đó, chúng tôi tìm hiểu, tổng hợp và sắp xếp theo

hướng tìm hiểu của mình. Tuy nhiên hầu hết những niên luận, khóa luận

trước mới chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tổng hợp tư liệu, ghi chép dữ liệu

quý báu về quá trình tiếp nhận các tác phẩm Đường thi chứ chưa lí giải sâu

sắc được ý nghĩa của các cách tiếp nhận. Chúng tôi không có tham vọng hoàn

thành được hết những phần việc rất có ích đó bởi đó là công việc cần nhiều

thời gian và tư liệu. Như một câu danh ngôn được lưu truyền rất hay là:

“cánh cửa đã mở nhưng còn phải đẩy”. Quả thực, khóa luận của chúng tôi

cũng mang tính chất gần giống như vậy, tiếp nối và để ngỏ để bạn đọc nào

quan tâm có thể tiếp tục tìm tòi và nâng cao hơn nữa, bởi mĩ học tiếp nhận

cho tới hôm nay vẫn là một mảnh đất màu mỡ chờ người khai phá.

3. NHIỆM VỤ, MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI

Nhiệm vụ của chúng tôi trong đề tài này là tìm hiểu quá trình tiếp nhận

và diễn dịch Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế

ở Việt Nam theo từng giai đoạn khác nhau, khảo sát mối quan hệ giữa chủ thể

và khách thể của quá trình tiếp nhận và diễn dịch văn bản, chỉ ra những chặng

đường và đặc điểm tiếp nhận của mỗi thời kỳ, lý giải nguyên nhân và hệ quả

của những cách tiếp nhận về hai tác phẩm ở từng đối tượng. Để rồi từ hiện

tượng Tỳ bà hành, Phong Kiều dạ bạc nhận diện một số vấn đề đọc thơ

Đường cũng như các tác phẩm văn học nước ngoài nói chung tại Việt Nam,

góp phần mở rộng việc nghiên cứu tác phẩm nhìn từ góc độ tiếp nhận bởi lẽ

mĩ học tiếp nhận vốn đang là một lĩnh vực còn hết sức mới mẻ và hấp dấn đối

với những ai đam mê tìm hiểu văn bản từ góc độ người đọc.

4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI TƯ LIỆU

Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là tìm hiểu quá trình tiếp nhận và

diễn dịch tác phẩm Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Phong Kiều dạ bạc của

Trương Kế ở Việt Nam. Tương ứng với đối tượng nghiên cứu đó, chúng tôi

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -11

giới hạn phạm vi nghiên cứu cũng chủ yếu tập trung ở hai văn bản tác phẩm

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

này. Trên cơ sở đó, cũng có những sự liên hệ nhất định với việc tiếp nhận

một số tác phẩm thơ ca khác của Đường thi tại Việt Nam.

Về phạm vi tư liệu của đề tài, chúng tôi chủ yếu dựa vào tư liệu thành

văn bằng chữ Quốc ngữ từ đầu thế kỷ XX đến thời điểm này đã được các tác

giả niên luận và khóa luận trước đó sưu tầm, giới thiệu trong công trình của

mình. Đó là những nguồn tư liệu rất quý báu và giúp ích rất nhiều cho chúng

tôi hoàn thành khóa luận này.

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để thực hiện đề tài này, trên bình diện lý thuyết, chúng tôi tiếp cận đối

tượng chủ yếu từ góc độ văn học so sánh và mĩ học tiếp nhận.

Về các mặt thao tác khoa học cụ thể, chúng tôi chủ yếu sử dụng

phương pháp mô tả, hệ thống hóa, thống kê, phân loại, chia giai đoạn nhằm

khôi phục diện mạo và phác họa quá trình tiếp nhận và diễn dịch hai tác

phẩm Tỳ bà hành, Phong Kiều dạ bạc, đồng thời cũng sử dụng phương pháp

phân tích, so sánh - đối chiếu nhằm cắt nghĩa đặc điểm, tính chất và lí giải

nguyên do của quá trình đó.

6. BỐ CỤC KHÓA LUẬN

Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục ra, phần

Nội dung của khóa luận bao gồm 2 chương:

CHƯƠNG 1: GIẢNG NGHĨA THƠ ĐƯỜNG TRONG SÁCH GIÁO KHOA

PHỔ THÔNG Ở VIỆT NAM

1.1 Giảng nghĩa Tỳ bà hành trong SGK PT.

1.2 Giảng nghĩa Phong Kiều dạ bạc trong SGK PT.

1.3 Lí giải hiện tượng giảng nghĩa trong SGK PT.

CHƯƠNG 2: GIẢI NGHĨA THƠ ĐƯỜNG TRONG NGHIÊN CỨU PHÊ

BÌNH Ở VIỆT NAM

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -12

2.1 Nghiên cứu phê bình Tỳ bà hành ở VN.

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

2.2 Nghiên cứu phê bình Phong Kiều dạ bạc ở VN.

2.3 Lí giải hiện tượng giải nghĩa trong nghiên cứu phê bình ở VN.

7. QUY ƯỚC TRÌNH BÀY

Khóa luận của chúng tôi được trình bày theo quy cách của Trường Đại

học KHXH & NV Hà Nội quy định cho khóa luận tốt nghiệp.

Sau trích dẫn tư liệu đều có ngoặc vuông ghi lần lượt: thứ tự tư liệu

(theo Tư liệu tham khảo ở cuối Khóa luận), trang thứ bao nhiêu của tư liệu

đó. Chú thích trực tiếp ở chân trang dành riêng cho việc giải thích từ ngữ,

khái niệm…

Đối với tên tác phẩm văn học thời cổ đại Trung Quốc và Việt Nam, để

tôn trọng nguyên tác và tiện tra cứu, chúng tôi sẽ phiên âm Hán Việt, đồng

thời in nghiêng (riêng tác phẩm Tỳ bà hành và Phong Kiều dạ bạc là in

nghiêng đậm). Nếu tên tác phẩm nằm trong công trình nghiên cứu thì chúng

tôi sẽ in nghiêng đậm.

Đối với tên các công trình nghiên cứu và các bài báo khoa học, chúng

tôi cũng sẽ in nghiêng. Các thông tin về công trình và bài báo như xuất xứ,

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -13

tên tạp chí, tên các nhà xuất bản chúng tôi sẽ ghi ngay bên cạnh.

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

NỘI DUNG CHÍNH

CHƯƠNG 1 GIẢNG NGHĨA THƠ ĐƯỜNG TRONG SGK PT Ở VIỆT NAM

Trong lịch sử văn minh nhân loại, không có một nước nào có thể tự hào

là không hề vay mượn, tiếp thu một ít vốn liếng của các dân tộc khác. Quả

thực, văn học ở nước nào cũng vậy, cũng cần có một sự tiếp nhận, giao lưu

với các nền văn học khác, tối thiểu là với các quốc gia láng giềng xung quanh

mình. Như Giáo sư Quý Tiện Lâm (Đại học Bắc Kinh) đã từng ví: “Nếu lấy

dòng sông để so sánh thì dòng sông văn học Trung Quốc có lúc nước đầy, có

lúc nước cạn nhưng chưa từng khô kiệt bao giờ. Nguyên nhân là vì có nước

mới chảy vào. Những lần chảy vào có khi nhiều, khi ít. Nhiều nhất có hai lần:

một lần nước từ Ấn Độ chảy sang, một là vì phương Tây chảy tới. Mà hai lần

nước chảy vào này đều do người dịch khơi thông”. Có thể nói thơ Đường nói

riêng cũng như văn học Trung Quốc nói chung là một trong những dòng chảy

lớn hòa vào văn học dân tộc nước ta. Từ rất lâu, thơ Đường - tinh hoa của cả

thế giới đã được các nhà dịch thuật chú ý, dày công tuyển chọn và dịch cho

độc giả tiếp cận. Và không ai lại không đồng ý rằng: Tuổi thọ của một bản

dịch tác phẩm văn học phụ thuộc rất nhiều vào tài năng của dịch giả. “Mỗi

một dịch giả có trình độ đều là một nghệ sĩ” (R. Italiander). Nhưng một điều

rất dễ nhận ra là tuy những tác phẩm Đường thi được dịch thuật và giới thiệu

rất sớm ở Việt Nam nhưng phải một thời gian dài sau đó, nó mới được tuyển

lựa vào sách giáo khoa phổ thông giảng dạy cho học sinh.

Có thể nói, soạn sách giáo khoa cho chương trình phổ thông đến hôm

nay vẫn không phải là một công việc đơn giản. Bởi lẽ để có được một bộ sách

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -14

chuẩn, trở thành chương trình mẫu mực giúp cho việc tiếp thu, nhận thức của

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

học sinh được tốt cần phải có một đội ngũ biên soạn có tầm hiểu biết, trí tuệ

và làm việc khoa học. Sách giáo khoa ở nước nào cũng vậy, nó “chứa đựng

những tri thức cơ bản, chính xác nhất và được nhân loại tin cậy nhất” (GS.

TS Nguyễn Thanh Hùng). Sách giáo khoa trong nhà trường là loại sách dành

cho học sinh nghiên cứu và học tập dưới sự chỉ đạo của giáo viên. Sách giáo

khoa bộ môn văn cũng không nằm ngoài những vai trò và định hướng đó.

“Chương trình sách giáo khoa là căn cứ rõ nhất để nghiên cứu tìm hiểu vấn

đề tiếp nhận văn học theo hướng chính thống trong nhà trường. Sự biến đổi

của nội dung chương trình phản ánh mức độ thích ứng giữa thực tế giảng dạy

với lí luận mới về tiếp nhận văn học.” [34, 5]. Đặc biệt là đối với những tác

phẩm văn học nước ngoài được biên soạn và đưa vào giới thiệu cho học sinh

nhằm giao lưu, mở mang tầm hiểu biết của các em về văn học, văn hóa các

dân tộc khác.

Đã được coi là chuẩn mực trong việc đưa đến cho học sinh những kiến

thức cơ bản và hữu ích nhất, đương nhiên những tác phẩm văn học nước

ngoài được đưa vào chương trình đều phải được chọn lựa kĩ càng, là những

đỉnh cao của văn học các nước và tiêu biểu cho quá trình phát triển lịch sử

văn học thế giới qua các thời đại.

Cách đây gần 60 năm, theo tư liệu nghiên cứu của Mạnh Thị Minh trong

khóa luận của mình, Dương Quảng Hàm là người đầu tiên đưa môn văn học

Trung Quốc vào chương trình THPT. Ông là người đặt viên gạch đầu tiên

cho công việc giảng dạy và học tập văn học Trung Quốc ở nước ta nói chung

và thơ Đường nói riêng.

Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế cũng

là hai trong số rất nhiều những tác phẩm Đường thi đã được giới thiệu và giảng

dạy trong chương trình THPT nước ta. Có thể ở hệ SGK này, nó được giảng

chính (đọc thêm), sang hệ SGK khác, nó lại được xếp vào phần đọc thêm

(giảng chính) hay đọc thêm bắt buộc… Sự chuyển dịch của tác phẩm từ chỗ là

bài được chọn giảng chính chuyển sang tác phẩm đọc thêm, hay đọc thêm bắt

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -15

buộc đều phản ánh rất rõ sự chuyển biến về nhận thức và quan điểm của người

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

biên soạn chương trình. Trên đó là sự chi phối không nhỏ của các tư tưởng,

quan điểm của ban chỉ đạo biên soạn chương trình, các chính sách mới đối với

nền giáo dục. Nhưng qua đó, bạn đọc có thể nhận ra một số vấn đề đọc, “giảng

nghĩa” trong SGK PT về hai tác phẩm này. Đây cũng là một khía cạnh của

việc tiếp nhận văn học từ góc độ người đọc mà chúng tôi quan tâm.

1.1. GIẢNG NGHĨA TỲ BÀ HÀNH TRONG SGK PT

Cũng như hầu hết các tác phẩm cổ điển Trung Quốc khác được giới

thiệu ở Việt Nam, để xác định thời điểm sớm nhất tiếp nhận văn bản tác

phẩm Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị tại Việt Nam quả là một vấn đề không hề

đơn giản. Cho đến nay, giới nghiên cứu văn học vẫn chưa khẳng định được

Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị đã đến Việt Nam chính xác tự bao giờ. Trên cơ

sở tổng hợp cứ liệu sẵn có thì bản dịch Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị được

phát hiện, bản khắc in năm 1881 là bản cổ nhất.

Dù chưa biết rõ văn bản chữ Hán của Tỳ bà hành đã xuất hiện và được

dịch ra chữ Quốc ngữ ở Việt Nam từ bao giờ nhưng theo những tài liệu đã có

được trong tay, dự đoán văn bản chữ Hán của tác phẩm này đã đến với người

Việt từ khá sớm. Bản dịch Tỳ bà hành được truyển tụng xưa nay, đã từng

được coi là của Phan Huy Vịnh nhưng hiện nay đã được chứng minh là của

Phan Huy Thực - thân phụ của Phan Huy Vịnh. Căn cứ vào thời gian Phan

Huy Thực sống (1779- 1846) thì chúng ta có thể dự đoán: bản dịch Tỳ bà

hành đã ra đời từ những năm đầu thế kỷ XIX. Điều này có liên quan đến luận

điểm của Phan Văn Diêu: “Trong đời làm quan, Huy Thực đã ba lần lên

xuống chức Thượng thư bộ Lễ. Vì lẽ đó, ông đã cảm thông sâu xa với Bạch

Lạc Thiên mà phiên diễn Tỳ bà hành chăng?”

Tới nay, bản dịch Tỳ bà hành có nhiều, song thành công nhất vẫn là

bản dịch của Phan Huy Thực. Đây được coi là một trong hai bản dịch hay

nhất trong lịch sử dịch thuật của nước ta bên cạnh bản dịch tác phẩm Chinh

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -16

Phụ ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm (nguyên tác của Đặng Trần Côn). Bản

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

dịch sử dụng thể thơ song thất lục bát- một thể thơ truyền thống của dân tộc

có khả năng biểu cảm mạnh mẽ. Bản dịch hoàn hảo bởi nó giữ được đúng số

câu và số chữ của nguyên tác (88 câu và 616 chữ), soạn giả Phan Huy Thực

đã khéo léo trong việc sử dụng những tiếng đôi, những từ láy trong tiếng

Việt, tăng sức gợi tả, gợi cảm. Quan trọng hơn nó đã thể hiện được tinh thần

của nguyên tác, lột tả được cái “thần”, cái “nhã” của Tỳ bà hành nguyên gốc

chữ Hán. Cho dẫu còn rất nhiều ý kiến khác nhau chỉ ra những thiếu sót của

bản dịch này nhưng đến hôm nay, nó vẫn chứng tỏ sức sống mãnh liệt của

mình trong nền văn học dân tộc.

Ngay từ những năm đầu tiên khi Đường thi được đưa vào giới thiệu

trong chương trình SGK PT, Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị đã được chọn lựa.

Không những vậy, thi phẩm còn được đưa vào giảng chính dù dung lượng

không nhỏ và sự tiếp cận thấu đáo tinh thần bài thơ không phải là một công

việc giản đơn.

Theo nghiên cứu của Mạnh Thị Minh, năm 1990, Đường thi chính thức

được đưa vào giảng dạy trong chương trình PTTH thì cũng trong sách Văn

10, tập 2, phần văn học nước ngoài và lí luận văn học, NXB Giáo dục, năm

1990, do Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên, chúng tôi tìm được văn bản Tỳ bà

hành của Bạch Cư Dị được giới thiệu. Ở đây, nhà biên soạn chỉ đưa ra bản

dịch của Phan Huy Vịnh, không có phần phiên âm chữ Hán và dịch nghĩa.

Việc cho học sinh tiếp cận tác phẩm văn học nước ngoài qua văn bản dịch

phần nào đã hạn chế tầm nhìn và tầm tiếp nhận của học sinh. Sách Văn 10

ngay phần giới thiệu văn bản dịch là phần Chú giải. Người soạn sách cho học

sinh nắm rõ hơn những thông tin về tác giả Bạch Cư Dị một cách hết sức

ngắn gọn, lời tựa của thi phẩm và những từ Hán Việt khó đối với học sinh.

Tuy nhiên số lượng từ chú giải so với dung lượng của tác phẩm còn quá ít ỏi,

chỉ bao gồm 11 từ khó. Để giáo viên và học sinh có sự định hướng trong việc

tìm hiểu, tiếp nhận tác phẩm, người soạn đã đưa ra một hệ thống câu hỏi

trong phần Hướng dẫn học bài. Có thể thấy được phần nào đó trong việc

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -17

“giảng nghĩa” tác phẩm trong chương trình SGK PT, chúng tôi muốn trích

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

dẫn phần câu hỏi này để thấy được rõ hơn việc phân tích, tìm hiểu tác phẩm

Tỳ bà hành :

“1. Tóm tắt câu chuyện diễn ra trong Tỳ bà hành? (Song cần lưu ý, Tỳ

bà hành chủ yếu vẫn là thơ trữ tình. Cốt truyện chỉ là phương tiện để nhà thơ

biểu lộ cảm xúc).

2. Bài thơ dài đến 88 câu nên chỉ có thể tập trung phân tích đoạn miêu

tả tiếng đàn lần hai của người ca nữ. Tuy vậy, muốn thấy hết cái hay của

đoạn thơ này, cần nắm vững mối quan hệ giữa nó với các phần khác. Lúc đầu

tác giả và người ca nữ hoàn toàn không quen biết nhau, nhờ tiếng đàn làm

môi giới, hai người dần dần hiểu biết, thông cảm với nhau và đến cuối bài

thơ, có thể nói tâm tư của hai con người đã hòa hợp làm một.

3. Hãy nêu những thành công của tác giả trong việc miêu tả tiếng đàn

của người ca nữ.

a. Người ca nữ đã đánh đàn 3 lần. Hãy nêu lên sự hợp lí trong việc

phân bố mức độ miêu tả ở mỗi lần. (Lần đầu không thể tả cụ thể vì chỉ thoảng

nghe ở xa. Lần thứ 3 tâm tư hai người đã hòa quyện vào nhau, tác giả không

thể, không nỡ và cũng không cần miêu tả dài dòng.)

b. Tác giả đã dùng những phương pháp nào để miêu tả tài nghệ của

người ca nữ? (Miêu tả hiệu quả, tác dụng của tiếng đàn: miêu tả trực tiếp các

yếu tố của âm nhạc- âm sắc, cường độ, cao độ, trường độ- bằng tỉ dụ, miêu tả

dung nhan, động tác, miêu tả gián tiếp bằng cảnh sắc thiên nhiên)

c. Tác giả đã tập trung miêu tả những thời điểm nào của quá trình diễn

tấu bản nhạc? (Lúc vặn trục lên dây dạo qua đôi ba tiếng, lúc ngắt, lúc đến

cao trào và lúc ngừng hẳn)

d. Tại sao có thể nói 2 câu 17 và 18 là linh hồn của cả đoạn trích? Vì

sao nhà thơ đã nhanh chóng trở thành kẻ “tri âm” của người ca nữ như vậy?

e. Đoạn trích gợi cho ta liên tưởng tới đoạn nào trong Truyện Kiều của

Nguyễn Du?”[4, 63- 64]

Có thể thấy, trong phần Hướng dẫn đọc bài của người biên soạn nhằm

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -18

giúp học sinh và giáo viên có những định hướng trong việc tiếp cận và tìm

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

hiểu đã đưa ra một hệ thống câu hỏi hết sức chi tiết, chủ yếu tập trung vào

việc lột tả được cái thần thái kỳ diệu của tiếng đàn người kỹ nữ. Sau khi nêu

câu hỏi, soạn giả không quên gợi ý cho học sinh tìm hiểu bài, gợi ý cách trả

lời theo hướng mà họ đã định sẵn trong phần ngoặc đơn đi kèm. Đây là cách

giảng nghĩa tỉ mỉ, cặn kẽ của người biên soạn- có thể thấy họ là những người

có một tầm hiểu biết rộng về văn học Trung Quốc nói chung cũng như

Đường thi và tác phẩm Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị nói riêng. Nó cho thấy

rất rõ cách dạy và học thời kỳ những năm 1990. Đó là cách dạy theo lối gần

như áp đặt một chiều, chưa khai thác được thực sự khả năng sáng tạo, chủ

động của học sinh- đồng thời cũng là những chủ thể tiếp nhận. Mà sự chủ

động ấy là hết sức cần thiết trong quá trình tiếp nhận một tác phẩm văn

chương bất kỳ.

Năm 1994, SGK đã có sự chuyển đổi, sách được phân chia làm hai

ban: ban KHXH và ban KHTN và KT để tiện cho việc dạy và học của học

sinh theo từng phân ban. Kiến thức được chọn lựa phù hợp với từng chuyên

ngành riêng biệt. Văn học 10 (tập 2, ban KHXH, NXB GD năm 1994, tài liệu

giáo khoa thực nghiệm, do Nguyễn Hoàng Tuyên, Lưu Đức Trung, Nguyễn

Khắc Phi, Trần Đình Sử biên soạn) vẫn chọn lựa Tỳ bà hành vào chương

trình học của học sinh ban KHXH. Nhìn chung, những kiến thức về tác phẩm

vẫn tương tự như SGK năm 1990 nhưng đã có thay đổi trong việc trình bày.

Ngay sau nhan đề tác phẩm là phần chữ in nhỏ giới thiệu về tác giả Bạch Cư

Dị, phần giới thiệu này có chi tiết hơn và dài hơn so với SGK năm 1990, đã

có sự so sánh, đối chiếu với Đỗ Phủ, Lý Bạch… để học sinh nắm bắt rõ hơn

về hoàn cảnh sáng tác cũng như cảm hứng chủ đạo, tinh thần chung về tác

phẩm mà mình sẽ được học. Như thế, trước khi đi sâu vào tác phẩm, học sinh

đã có cái nhìn khái quát về Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị.

Phần trích dẫn văn bản cho học sinh tiếp cận vẫn chỉ là văn bản dịch,

đó là bản dịch thành công nhất trong những bản dịch Tỳ bà hành hiện nay

của Phan Huy Vịnh (nay được cho là của Phan Huy Thực, thân phụ của

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -19

Phan Huy Vịnh). Trong quá trình trích dẫn văn bản, người biên soạn đã rất

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

chú ý khi tách riêng thành những khổ 4 câu và đánh số cho câu đầu tiên

trong khổ để học sinh tiện theo dõi tác phẩm có dung lượng khá dài này.

Phần Chú giải gần như giống với SGK năm 1990 đã xuất bản. Không có

thêm từ khó được giải nghĩa, trong số 12 chú giải đã bao gồm một lời tựa

trích dẫn của tác phẩm và thông tin về dịch giả Phan Huy Vịnh. Phần

Hướng dẫn học bài đã cắt bớt những gợi ý quá kỹ càng nhằm vạch hướng

cho học sinh tìm hiểu tác phẩm, câu hỏi đã được biên soạn lại theo hướng

gợi mở nhiều hơn. Như thế, tính tích cực, năng động của học sinh- chủ thể

tiếp nhận đã được chú ý. Sự thay đổi này phản ánh rất sâu sắc sự thay đổi

trong nhận thức và quan điểm của các nhà biên soạn bấy giờ, đồng thời

cũng phản ánh sự thay đổi trong chủ trương, chính sách giáo dục của Đảng

và Nhà nước ta thời điểm đó. Ai cũng biết, trước khi đến với sự tiếp nhận

của học sinh THPT thì thi phẩm này đã trải qua một sự tiếp nhận có tính

thẩm mỹ chuyên biệt của các soạn giả. Họ đọc tác phẩm với tinh thần trách

nhiệm cao, là loại độc giả “đặc biệt”, có chuyên môn và hiểu thấu đáo, sâu

sắc cái “thần”, cái “nhã” của tác phẩm. Thế nhưng việc “đọc” của họ lại

hướng về những đối tượng đa dạng khác nhau. Không phải giáo viên nào

khi soạn giáo án hay học sinh nào khi soạn bài học ở nhà, thậm chí được

giảng dạy chính trên lớp có thể hiểu sâu sắc Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị

ngay lập tức. Mỗi độc giả lại có một trình độ và nền kiến thức ban đầu

không giống nhau, bởi vậy tầm đón nhận đối với văn bản cũng vì lẽ đó mà

rất khác nhau.

Hiểu được nguyên tắc đó, trong phần Hướng dẫn học bài, các nhà biên

soạn sách đã cố gắng phát huy tối đa tính gợi mở của câu hỏi cũng như qua

đó thúc đẩy sự chủ động trong việc “đọc” của học sinh. Có khá nhiều câu hỏi

được đưa ra xoay quanh tác phẩm cần tìm hiểu, nội dung gần như vẫn giống

với phần câu hỏi trong SGK 1990, chỉ khác biệt ở chỗ đã có sự lược bỏ hết

những phần gợi ý đi sâu vào tác phẩm trong ngoặc đơn như trước và thêm

một số những gợi ý khác giúp học sinh hiểu rõ thi phẩm hơn. Có thể thấy rất

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -20

rõ điều đó khi đọc một số câu hỏi được đưa ra trong mục này:

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

“1. Tóm tắt câu chuyện diễn ra trong Tỳ bà hành. Giữa cốt truyện có thể

rút ra từ tác phẩm và câu chuyện nhà thơ kể lại trong lời tựa có chỗ nào

không giống nhau? Thử tìm hiểu nguyên nhân và lí giải ý nghĩa của những

chỗ không giống nhau đó.

2. Những yếu tố nào đã làm cho Tư mã Giang Châu và người ca nữ từ

chỗ hoàn toàn không quen biết nhau đi đến dần hiểu biết thông cảm lẫn nhau,

và đến cuối bài, dường như hòa nhập tâm tư làm một?

3. Hãy nêu những thành công của tác giả trong việc miêu tả tiếng đàn.

Gợi ý:

a. Người ca nữ đánh đàn 3 lần. Hãy nêu lên sự hợp lí trong việc phân bố

mức độ miêu tả ở mỗi lần?

b. Tác giả dùng những phương pháp nào để miêu tả tài nghệ của người

ca nữ.

c. Tác giả đã tập trung miêu tả những thời điểm nào của quá trình diễn

tấu”...[5, 74]

Qua việc xem xét hệ thống câu hỏi trong SGK được soạn giả tuyển lựa,

ta thấy rằng những phần ngoặc đơn trước kia đã được cắt bớt đi, thay vào đó

là cách trình bày có sự in nghiêng các chữ quan trọng, cần nhấn mạnh trong

câu hỏi. Đó cũng là cách định hướng cho công việc “đọc” của nhiều đối

tượng khác nhau theo chủ ý của nhà biên soạn sách. Bên cạnh những nội

dung tương tự sách giáo khoa năm 1990, SGK dành cho phân ban KHXH còn

đưa thêm một số câu hỏi gợi mở mới:

“4. Qua lời tự thuật của nhà thơ và ca nữ, có thể thấy những gì giống

nhau trong cảnh ngộ và tâm sự giữa hai người? Vị trí của những lời tự thuật

này trong bài thơ?

5. Có người cho hình tượng người ca nữ chỉ là sự khách quan hóa hình

tượng nhà thơ. Ý kiến đó đúng hay sai? (Dành cho học sinh giỏi)”[5, 74].

Dễ hiểu vì sao với Tỳ bà hành, người biên soạn phải đưa ra một hệ

thống câu hỏi nhiều như vậy và có sự định hướng gợi mở cho sự tiếp cận của

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -21

học sinh. Bởi đây là một tác phẩm có số lượng câu chữ khá dài, để hiểu hết ý

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

nghĩa, cái “thần” cũng như cái “nhã” của tác phẩm Đường thi này không phải

là một công việc dễ dàng đối với học sinh THPT. Người biên soạn đã cố gắng

gợi mở, hướng học sinh đến những cách đọc đa chiều, tìm hiểu tác phẩm từ

nhiều góc độ cũng như để học sinh tranh luận với nhau về những ý kiến trái

chiều đang tồn tại trong giới dịch giả, nghiên cứu phê bình nhằm giúp những

chủ thể tiếp nhận này thêm phần năng động, chủ động chiếm lĩnh tác phẩm.

Qua cách gợi mở “có người cho rằng…” và trả lời lựa chọn “đúng”, “sai”,

học sinh có cơ hội đưa ra ý kiến riêng. Từ đó chính chủ thể tiếp nhận cũng có

sự thâm nhập sâu hơn vào tác phẩm, hiểu tác phẩm và lĩnh hội nó theo cách

riêng của bản thân mình.

Theo nghiên cứu của Mạnh Thị Minh (sđd), trong chương trình SGK PT

từ năm 1990 (khi Đường thi chính thức được đưa vào giảng dạy) đến 2006,

Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị có tần số được lựa chọn vào chương trình là rất

nhiều, 8 lần. Năm 1990, năm 1993, 1994, 1995, 1997, 2000, 2003 và 2006.

Khi thì thi phẩm được lựa chọn vào giảng chính (1990), lúc lại đưa vào phần

đọc thêm (năm 1993, 1997, ban KHTN), từ sau 1995 lại trả vị trí cho nó về

giảng chính. Sự sàng lọc này chứng tỏ giá trị thầm mỹ của Tỳ bà hành cũng

như chứng tỏ sự phù hợp nội dung của nó với đối tượng tiếp nhận và đáp ứng

mục tiêu giáo dục của chế độ.

Năm 2000, trong bộ SGK Văn học 10 (tập 2, Phần Văn học nước ngoài

và Lí luận văn học, NXB GD 2000, Nguyễn Hải Hà và Lương Duy Trung

chủ biên), tác phẩm Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị được giới thiệu với tổng

quan nội dung tương tự như sách năm 1994 dù đã có sự chỉnh lí, sửa đổi. Có

sự thay đổi dễ nhận ra ở cách trình bày, sắp xếp và đặt tên cho các đề mục

của người biên soạn: Tác giả và tác phẩm (cuối mục này có phần chú thích

1 từ khó: Tinh thần “phúng thích”: có nghĩa là châm biếm, phê phán, chưa

đến mức đả kích), Giảng văn (trích dẫn phần dịch thơ của Phan Huy Vịnh),

chú thích, cuối cùng là phần Hướng dẫn học bài. Các câu hỏi trong phần

Hướng dẫn học bài vẫn được giữ nguyên so với SGK năm 1994, riêng ở câu

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -22

5 có bổ sung thêm “Lại có ý kiến cho Tỳ bà hành cơ bản là một bài thơ tự

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

sự và người ca nữ là hình tượng nhân vật chính của tác phẩm. Ý kiến đó có

thỏa đáng không? (dành cho học sinh giỏi)” [6, 58]. Việc thêm ý kiến bổ

sung trong câu hỏi đưa ra đã góp phần khơi gợi khả năng tranh luận cho học

sinh. Học sinh tiếp cận với nhiều ý kiến trái nhau như vậy sẽ kích thích sự

suy nghĩ, lí giải và đẩy việc “đọc” lên một ý trình độ cao hơn, hiểu tác phẩm

một cách sâu sắc hơn. Đó cũng là mục tiêu của những người biên soạn sách

khi giới thiệu các tác phẩm tiêu biểu của nước ngoài vào chương trình

PTTH.

Năm 2003, sách Ngữ văn 10 (tập 2- Bộ SGK thí điểm, bộ 2 ban KHXH

& NV, NXB GD, 2003, do Phan Trọng Luận tổng chủ biên) có xếp Tỳ bà

hành của Bạch Cư Dị vào phần Đọc thêm bắt buộc cùng với 2 tác phẩm

Xuân hiểu (Mạnh Hạo Nhiên) và Thu hứng (Đỗ Phủ). Vì nằm trong mục đọc

thêm nên những chú giải về tác phẩm không nhiều. Tác giả Bạch Cư Dị

được giới thiệu bằng một đoạn văn ngắn gọn ở sau nhan đề, tiếp đó là bản

dịch thơ (không có sự chia tách khổ nhỏ hay đánh số cho câu thơ như những

bản dịch trước đó, có sự ghi chú ở cuối văn bản trích dẫn tên người dịch

Phan Huy Vịnh và nguồn dẫn Thơ Đường, tập 1, sđd). Phần Chú thích ngắn

với 5 từ, câu khó cần giải thích, trong đó có lời tựa tác phẩm và vấn đề dịch

giả. Hướng dẫn đọc thêm gồm 4 câu, không bao gồm những gợi ý chi tiết cụ

thể định hướng cho học sinh trả lời. Nhìn chung, nội dung của những câu

hỏi này vẫn giống với những câu hỏi SGK trước đó. Như vậy, các nhà biên

soạn vẫn lựa chọn Tỳ bà hành vốn là một tác phẩm tiêu biểu của Đường thi

vào chương trình dù xếp nó vào phần Đọc thêm bắt buộc. Những soạn giả

đã cố gắng đưa ra những thông tin khái quát mà tiêu biểu nhất xoay quanh

tác phẩm. Đọc thêm nhưng là đọc thêm bắt buộc bởi trong ý thức, suy nghĩ

của những nhà biên soạn, Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị vẫn là một điểm sáng

cần in dấu trong bầu trời lấp lánh vô vàn ánh sao của Đường thi.

Năm 2006, Tỳ bà hành được tuyển lựa giảng dạy trong chương trình

nâng cao. Có thể bởi dung lượng dài rất khó khăn cho việc cảm nhận trọn vẹn

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -23

của học sinh THPT nên trong chương trình học cơ bản, tác phẩm đã không

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

được đưa vào giảng dạy. Tác phẩm cần có một sự cảm nhận, tiếp nhận ở trình

độ cao hơn, sâu sắc hơn như ở bậc đại học và sau đại học.

Cho đến nay, từ năm 2008, Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị không được đưa

vào chương trình SGK PT lớp 10 nữa. Có thể dung lượng tác phẩm quá dài

và việc tiếp nhận trọn vẹn nó không phải là điều đơn giản đối với học sinh

trình độ THPT. Mặt khác, nó cũng thể hiện sự thay đổi trong chủ trương,

chính sách của Nhà nước về Giáo dục, đặc biệt là vấn đề đổi mới SGK đang

rất được quan tâm trong nhà trường cũng như dư luận hiện nay.

Như vậy, Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị ngay từ ban đầu được lựa chọn

vào chương trình học PTTH đã được vào giảng dạy chính thức. Điều đó cho

thấy rất rõ những thành công xuất sắc về nội dung cũng như nghệ thuật tài

ba của thi phẩm này. Năm 1993 và 1997, tác phẩm đưa vào phần Đọc thêm

trong sách phân ban KHTN có lẽ nhằm tránh sự quá tải cho chuyên ban này.

Từ 1995 trở đi, tác phẩm lại tiếp tục được lựa chọn vào giảng chính trong

chương trình. Tuy nhiên, hầu hết, các bộ SGK PT đều chỉ dừng lại ở việc

trích văn bản dịch chứ chưa có phần chữ Hán hay phiên âm chữ Hán. Điều

đó đã hạn chế phần nào sự tiếp nhận văn bản của học sinh khi chỉ được tiếp

xúc với văn bản dịch. Dù cho văn bản dịch được coi là thành công hơn cả,

thậm chí có người còn coi bản dịch của Phan Huy Thực là một tác phẩm văn

học thực sự của Việt Nam thì ở một khía cạnh nào đó, vẫn tác động không

nhỏ đến sự tiếp nhận của độc giả, cụ thể là học sinh THPT. Nói như Nguyễn

Quốc Siêu thì: “Dịch thơ, dù rằng rất tài ba thì chí ít cũng là làm cái công

việc phủ lên bức tranh đẹp một tấm màn mỏng, làm mờ đi những đường nét

tinh tế.” [24, 66]

Nhìn tổng quan, từ cách biên soạn các câu hỏi trong phần Hướng dẫn

học bài, ta có thể nhận thấy các nhà biên soạn SGK từ trước đến nay vẫn luôn

nhất quán quan điểm cho rằng mặc dầu hình tượng người nghệ nhân tì bà là

rất quan trọng và có ý nghĩa tương đối độc lập, song xét toàn bài thơ, hình

tượng bao trùm hơn cả vẫn là Tư Mã Giang Châu họ Bạch. Từ đó, họ hướng

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -24

học sinh theo cách cảm nhận Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị là tác phẩm dùng

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

hình tượng kĩ nữ để gửi gắm nỗi niềm riêng tư của cá nhân nhà thơ. Suy cho

cùng bài thơ vẫn được coi là một tác phẩm trữ tình hơn là một tác phẩm tự sự

dù cho nó có yếu tố kể chuyện trong đó. Tuy nhiên, việc trích dẫn trong SGK

PT mới chỉ dừng lại ở văn bản dịch của Phan Huy Thực chứ chưa tạo điều

kiện cho học sinh tiếp cận với nguyên văn chữ Hán cũng như phiên âm chữ

Hán, dịch nghĩa tác phẩm. Điều đó cũng phần nào ảnh hưởng tới việc “đọc”

của học sinh cũng như các độc giả nói chung khi đến với tác phẩm trong

chương trình SGK chính thống. Sự trích dẫn ấy phải nhờ đến các bộ sách

tham khảo môn Ngữ văn trong nhà trường dành cho giáo viên và học sinh

biên soạn theo chương trình PT.

Bên cạnh SGK PT là bộ sách chính quy bắt buộc cho học sinh ở trường

thì còn rất nhiều những sách văn mẫu, sách phân tích bình giảng, tủ sách

trong nhà trường nhằm giúp học sinh trong việc cảm nhận sâu sắc hơn các tác

phẩm trong chương trình. Biên soạn những quyển sách tham khảo này hầu

hết vẫn là những cái tên quen thuộc đã từng tham gia biên soạn SGK PT. Bởi

vậy mà, tìm đọc những phân tích, bình giảng của họ cũng là một cách để

chúng ta thấy được cách “đọc” của những người biên soạn sách cũng như họ

định hướng cách “đọc” cho vô vàn những độc giả khác nhau trong cuộc sống

nói chung và nhà trường nói riêng.

Có lẽ bởi Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị có dung lượng khá dài, lại là một

thi phẩm tuyệt vời của Bạch Cư Dị- một trong ba đỉnh cao của thơ Đường

nên việc tìm hiểu, phân tích nó trong nhà trường còn nhiều khó khăn, hạn

chế. Chính vì vậy mà trong nhiều sách tham khảo, các bài phân tích, bình

giảng Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị không phải là hiếm. Rất nhiều cuốn sách

phân tích theo các tác phẩm được giảng dạy trong chương trình PTTH.

Năm 1995, Hồ Sĩ Hiệp biên soạn cuốn Thơ Đường ở trường PT (NXB

Văn Nghệ, TP Hồ Chí Minh), trong đó có phân chia hẳn chương trình

PTCS và chương trình PTTH. Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị cũng là một

trong số những tác phẩm được phân tích. Có thể coi đây cũng là một bài

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -25

giảng dạy, định hướng cho học sinh trong quá trình tìm hiểu tác phẩm. Tác

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

giả có trích phần dịch thơ (đánh số theo đầu mỗi khổ chi tách) do Phan

Huy Vịnh dịch và đi vào phân tích nôi dung cũng như nghệ thuật của tác

phẩm. Vì là tài liệu tham khảo cho học sinh PTTH nên cách phân tích cũng

hết sức bài bản, bao quát cả nội dung và nghệ thuật tác phẩm này. Về nội

dung, tác giả làm rõ hai ý lớn: tiếng kêu than của một người phụ nữ kỹ nữ

bị giày vò khổ đau về vật chất và tinh thần trong xã hội phong kiến Trung

Quốc; lời tố cáo của một kẻ tài hoa bị chà đạp. Trong quá trình phân tích

nội dung, người viết đã chia đoạn hết sức tỉ mỉ, đoạn I: từ câu 1 đến câu 14

là cuộc gặp gỡ tình cờ, đoạn II: câu 15 đến câu 82: miêu tả bản đàn, đoạn

III: còn lại, người kỹ nữ đánh đàn khiến Tư Mã Giang Châu rơi lệ. Trong

từng đoạn, Hồ Sĩ Hiệp lại phân chia các đoạn nhỏ hơn với những nội dung

cụ thể của từng câu thơ. Có cảm giác đó là sự diễn xuôi nội dung văn bản,

sự chia tách quá nhỏ dù khiến việc đọc dễ dàng hơn nhưng lại nghiêng về

kể lại diễn biến câu chuyện hơn là cảm nhận nó. Về nghệ thuật, người viết

phân tích những đặc trưng tiêu biểu cho thơ Bạch Cư Dị như: nghệ thuật tả

cảnh xen tả tâm trạng của con người, kết cấu “Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị

là cả một khối sầu hận không cùng trên mấy đường tơ. Hết thảy mọi chi

tiết trong bài thơ đều xoay quanh bản đàn minh diễm mà kích thích tố mỗi

lúc một tăng dần lên để đưa lên nỗi xúc cảm cực độ lan tràn ra nước mắt.”

[16, 101]. Bên cạnh đó là bút pháp miêu tả cảnh tài tình, miêu tả tiếng đàn,

thể thơ trường thiên thất ngôn cổ phong. Rõ rang, không thể phủ nhận việc

“đọc” tác phẩm rất kỹ của Hồ Sĩ Hiệp thông qua cách trình bày, phân tích,

hướng dẫn học sinh PTTH của ông. Đây là cách bình giảng, phân tích theo

kiểu cho học sinh PTTH, không có sự nhấn nhá, hay sự cảm nhận chủ quan

cá nhân theo kiểu của giới phê bình nghiên cứu dù họ đều hướng sản phẩm

đã “đọc” của mình đến những độc giả khác nhau và định hướng cho họ

cách “đọc” tác phẩm ấy.

Năm 1997, Tỳ bà hành vẫn là tác phẩm được giảng dạy trong chương

trình nên trong cuốn Phê bình- bình luận văn học: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -26

Cư Dị, Thôi Hiệu do Vũ Tiến Quỳnh biên soạn (NXB Văn Nghệ TP Hồ

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

Chí Minh, Tủ sách trong nhà trường) vẫn hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác

phẩm này. Với ba phần chính: Phân tích- bình luận- tác giả, tác phẩm;

Phân tích- bình giảng- bình luận và Bài văn của học sinh, cuốn sách khá

hữu ích cho học sinh tham khảo trong nhà trường.Vẫn là phần tìm hiểu tác

phẩm nhưng thông qua bản dich của Phan Huy Vịnh, người biên soạn

hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu thi phẩm nổi tiếng này bằng các ý lớn khá

rõ ràng. Đầu tiên là cảm giác cô đơn lạnh lẽo toát lên từ khung cảnh, cái cô

đơn của người đánh đàn và cô đơn của người nghe đàn. Ý 2 phân tích cảm

giác buồn nhớ mênh mông, buồn vì cảnh vật, buồn vì tiếng đàn, buồn vì

câu chuyện của người kỹ nữ, buồn vì cảnh ngộ của tác giả. Ý 3, Vũ Tiến

Quỳnh làm rõ tâm sự của tác giả hòa hợp với tâm sự người đánh đàn. Phần

cuối cùng, sau khi đi sâu nội dung là những khái quát về thành công nghệ

thuật mà ông đặt tên cho phần này là Văn chương gồm có kết cấu, nghệ

thuật tả tiếng đàn và kể chuyện tâm sự; lời thơ. Đây cũng là một cách

“đọc” khác lạ của riêng Vũ Tiến Quỳnh, góp phần bổ sung thêm cho học

sinh trong quá trình tìm hiểu tác phẩm. Điều đáng chú ý là ở đây, so với

cách bình giảng năm 1995 của Hồ Sĩ Hiệp, Vũ Tiến Quỳnh đã có ý thức

hướng học sinh đến văn bản gốc, phiên âm chữ Hán để từ đó có những so

sánh, làm nổi bật thành công của bản dịch Phan Huy Vịnh. Học sinh có cái

nhìn bao quát hơn và có cách “đọc” mới mẻ hơn, rất giúp ích cho việc học

những tác phẩm văn học nước ngoài nói chung.

Tiếp tục việc giảng nghĩa Tỳ bà hành trong SGK PT, năm 2004,

Trần Ngọc Hưởng cho ra đời cuốn Thơ Đường trong nhà trường (NXB

Tổng hợp Đồng Nai). Cuốn sách có phân tích, giảng bình tất cả những tác

phẩm có trong chương trình THPT, kể cả những bài đọc thêm. Tỳ bà

hành của Bạch Cư Dị có trích dẫn đầy đủ Nguyên bản chữ Hán, Phiên âm

(chia khổ 5 câu một), Chú thích cho phần Phiên âm khá nhiều (53 từ, câu

khó), Dịch nghĩa và Dịch thơ (bản dịch của Phan Huy Vịnh, lấy từ Thơ

Đường, tập 1, NXB Văn học, Hà Nội, 1987), có 12 chú thích cho phần

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -27

dịch thơ. Cuối cùng là trích lời bình của Nguyễn Xuân Nam và bình giảng

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

của Hoắc Tùng Lâm (do Nguyễn Khắc Phi dịch). Lời bình của Nguyễn

Xuân Nam cho rằng đây là một bản dịch mẫu mực, đồng thời gợi ý chia

văn bản thành 3 đoạn lớn với những nội dung tương ứng: đoạn I: buổi

tiễn đưa và tiếng đàn vằng đến, đoạn II: cuộc đời người kỹ nữ, đoạn III:

từ cuộc đời kỹ nữ đến cuộc đời tác giả. Dù không phân tích nhiều,

nghiêng về tính chất tham khảo nhưng cuốn sách đã cung cấp cho học

sinh đầy đủ văn bản gốc và dịch cho học sinh. Việc xem xét tác phẩm ở

nhiều góc độ, đưa thêm nhiều cách tiếp cận tác phẩm của những nhà

nghiên cứu khác sẽ khiến việc “đọc” được toàn diện hơn và học sinh từ

đó sẽ “đọc” tác phẩm được tốt hơn.

Nguyễn Quốc Siêu cũng góp phần định hướng cách “đọc” cho học sinh

thông qua sản phẩm “đọc” của bản thân qua cuốn Thơ Đường bình giải, theo

sách giáo khoa Văn học 9 và 10. (NXB Giáo Dục, 2005). Tỳ bà hành của

Bạch Cư Dị được tìm hiểu có phần Tác giả, Giải đề, Phiên âm, Chú thích,

Dịch nghĩa, Lời bình và Dịch thơ. Cuốn sách có cung cấp văn bản nguyên

văn chữ Hán để bạn đọc tiện theo dõi.

Có thể nói, cùng với việc tuyển lựa cho vào chương trình giảng dạy

chính thức, các cuốn sách tham khảo cho học sinh PTTH cũng đã giới thiệu,

định hướng cho học sinh cách “đọc”, tiếp nhận văn bản Tỳ bà hành của

Bạch Cư Dị. Đó đều là những thành quả nghiên cứu, những cách “đọc” của

những người biên soạn vốn rất am tường thơ Đường. Họ cũng tiếp nhận Tỳ

bà hành nhưng không phải theo hướng nhằm cung cấp một bản dịch toát

lên cái “thần”, cái “nhã” của tác phẩm như các dịch giả hay cung cấp cho

độc giả cảm nhận chủ quan của bản thân như những nhà nghiên cứu, phê

bình mà sự cảm nhận ấy nằm trong khuôn khổ của nhà trường PTTH cũng

như chịu sự chi phối của nhiều chính sách, quy định giáo dục. Cách họ phân

tích, bình giảng cũng hết sức bài bản, theo kiểu bài văn trong chương trình

THPT nhằm định hướng cho giáo viên, học sinh hay những người yêu văn

thơ Trung Quốc tự đi sâu tìm hiểu tác phẩm ở cả hai phương diện nội dung

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -28

và nghệ thuật. Bên cạnh đó, các nhà biên soạn sách cũng định hướng cho

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

học sinh cách làm bài, trình bày một bài văn phân tích, bình giảng trong nhà

trường phổ thông.

1.2. “GIẢNG NGHĨA” PHONG KIỀU DẠ BẠC TRONG SGK PT

Cũng như Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, thật khó để xác định thời điểm

chính xác tác phẩm Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế được giới thiệu tại

Việt Nam. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa biết được đích xác Phong Kiều

dạ bạc đến Việt Nam từ lúc nào trên tư liệu chữ Hán, chỉ biết rằng vào những

năm đầu của thế kỷ XX đã có bản diễn Nôm của tác phẩm này và sau đó

được in trong quyển Trong 99 chóp núi (Tân Việt, Hà Nội, 1942), tư liệu do

Nguyễn Quảng Tuân cung cấp trên Tạp chí Hán Nôm số 1/2002.

Cho đến nay, bản dịch thành công nhất được cho là của thi sĩ- gạch nối

của hai thế kỷ- Tản Đà. Tản Đà dịch thơ Đường nhiều và phần lớn đều lồng

vào đó được cái tài, cái tình của một cây bút phóng túng, bay bổng, đồng cảm

sâu sắc với thơ cổ điển xưa. Phong Kiều dạ bạc cũng được thi nhân dịch với

phong thái đó:

Trăng tà tiếng quạ kêu sương

Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ

Thuyền ai đậu bến Cô Tô

Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

(Thơ Đường - Nguyễn Quảng Tuân biên soạn, NXB Văn học 2003)

Các dịch giả khi đi vào dịch Phong Kiều dạ bạc cũng đã cố gắng để

dịch sát nguyên tác, giữ được cái “thần”, cái “nhã” của bài thơ. Tuy nhiên

ngay trong câu chữ của nguyên tác cũng đã tạo nhiều làn sóng tranh luận

khác nhau. Lấy ví dụ với câu: “Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền” cũng

có nhiều bản dịch khác nhau:

Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San

(Tản Đà)

Tiếng chuông đưa đến bến đò canh khuya

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -29

(Ngô Tất Tố)

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

Đêm Cô- Tô vẳng tiếng chuông

Chùa Hàn- San đến thuyền sông Phong- Kiều?

(Trần Trọng San)

Có lẽ chính bởi những tranh luận xoay quanh văn bản tác phẩm như vậy

mà Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế được lựa chọn vào chương trình

PTTH muộn hơn Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị. Bản thân tác phẩm được giới

thiệu ở Việt Nam cũng muộn hơn so với Tỳ bà hành. Nếu như ngay từ những

năm đầu tiên khi thơ Đường được đưa vào giảng dạy trong chương trình, Tỳ

bà hành đã được tuyển chọn vào giảng dạy chính thức thì mãi đến năm 2001,

Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế mới được các nhà biên soạn đưa vào

SGK PT lớp 7.

Trong SGK Ngữ văn 7 (bộ SGK thí điểm), tập 1, Nguyễn Khắc Phi tổng

chủ biên, NXB GD năm 2001, Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế được đưa

vào phần Đọc thêm. Người soạn sách đã trích dẫn tác phẩm với phần Phiên

âm chữ Hán, Dịch nghĩa và Dịch thơ (bản dịch được ghi rõ do Tản Đà dịch,

rút từ tập Thơ Đường, tập 1, NXB Văn học, 1987). Phần Chú thích giải nghĩa

“(1) Phong Kiều: địa danh ở phía Tây thành Cô Tô (thuộc thành phố Tô

Châu, Giang Châu ngày nay)” và “(2) Trương Kế: sống khoảng giữa thế kỷ

VIII, người Tương Châu, tỉnh Hồ Bắc, đỗ tiến sĩ, có làm chức quan nhỏ. Thơ

thường tả phong cảnh là chủ yếu.”[1, 126]. Vì là phần đọc thêm nên người

biên soạn sách đã không soạn phần Hướng dẫn học bài hay những chú thích

kỹ càng hơn về câu chữ trong thi phẩm. Bài thơ chỉ có 28 chữ nhưng sự tranh

cãi về chúng lại không hề ít ỏi, ngay chính các cách dịch từ trước đến nay

cũng có nhiều người hiểu rất khác nhau. Có lẽ bởi vậy mà khi biên soạn, lựa

chọn Phong Kiều dạ bạc vào chương trình, những nhà biên soạn cũng hiểu

rất rõ điều đó. Vì vậy, họ đã trích dịch cho học sinh bản dịch thành công nhất

ở nước ta, đồng thời cũng cung cấp đầy đủ phiên âm chữ Hán cũng như dịch

nghĩa, điều đó sẽ gợi mở khả năng “đọc” chủ động hơn ở độc giả. Dù chỉ là

đọc thêm nhưng việc lựa chọn Phong Kiều dạ bạc vào chương trình SGK PT

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -30

giới thiệu đến học sinh đã chứng tỏ sức sống tiềm tàng cũng như những dư

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

âm lan tỏa mạnh mẽ của tác phẩm này bên cạnh rất nhiều những áng thơ bay

bổng khác của Đường thi.

Sách Ngữ văn 7 tập 1, năm 2006 và năm 2008 do Nguyễn Khắc Phi tổng

chủ biên (NXB GD) vẫn giữ Phong Kiều dạ bạc vào chương trình SGK PT.

Nằm trong phần Đọc thêm, các soạn giả đã trích dịch tương đối giống với

SGK năm 2001 đã đưa. Cũng với phần Phiên âm, Dịch nghĩa, Dịch thơ. Song

bản dịch chỉ khác ở hai chữ cuối cùng của văn bản: “Hàn Sơn” và được ghi

chú là do “K. D dịch (Thơ Đường, tập 1, NXB Văn học, Hà Nội, 1987)” [2,

112- 113 ]. (Bản dịch trước đây trong SGK Ngữ văn 7 năm 2001 khác ở hai

chữ cuối là “Hàn San” và được ghi là Tản Đà dịch, rút từ Thơ Đường, NXB

Văn Học, Hà Nội, 1987- tr.126). Điểm khác biệt này thể hiện sự thay đổi

trong quan niệm, tư tưởng cũng như trong quá trình khảo sát, nghiên cứu của

những người biên soạn SGK PT. Ở quyển sách này, bên cạnh có chú thích ở

chân trang về địa điểm “Phong Kiều” và tác giả “Trương Kế”, soạn giả đã

đưa thêm phần Gợi ý thưởng thức. Đây có thể coi là những định hướng cơ

bản, nhằm giúp học sinh có những kiến thức nhất định khi tìm hiểu tác phẩm

dù phần gợi ý này không dài. Chúng tôi muốn trích phần Gợi ý thưởng thức

ra để có hình dung dễ hơn về cách “giảng nghĩa” trong SGK PT:

“Bài thơ thể hiện một cách sinh động cảm nhận qua những điều nghe

thấy, nhìn thấy của một khách xa quê đang thao thức không ngủ trong đêm đỗ

thuyền ở bến Phong Kiều.

Nếu K. D. đã rất tài hoa và hết sức sáng tạo trong việc dịch hai câu thơ

đầu thì có thể nói đã không thành công trong việc dịch hai câu thơ sau, khi

biến chủ thể vốn là tiếng chuông thành chủ thế là chiếc thuyền của lữ khách.

Trương Kế đã kết hợp hai thủ pháp nghệ thuật truyền thống của thơ Đường

là dùng động để tả tĩnh và mượn âm thanh để truyền hình ảnh. Câu thơ dịch

của K. D. đã làm nhòa mất sự ngân vang, lan tỏa của tiếng chuông trong

đêm yên tĩnh.” [2, 113].

Việc in nghiêng những phần chữ quan trọng trong phần gợi ý của biên

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -31

soạn sách đã khéo léo mở hướng cho học sinh cũng như giáo viên trong quá

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

trình phân tích, bình giảng bài thơ tứ tuyệt này. Mới chỉ bước đầu chạm nhẹ

vào tư tưởng của tác phẩm, gợi mở những ý chung nhất về nghệ thuật và có

hướng so sánh giữa bản dịch với nguyên tác nhưng nó đã là chìa khóa giúp

học sinh tự “đọc” và cảm nhận, ngấm sâu cho riêng mình. Nằm trong số

những tác phẩm đọc thêm, do vậy việc học và giảng dạy Phong Kiều dạ bạc

ở trên lớp không có. Sách trích dẫn và chú giải không nhiều. Điều này đã

khiến cho việc tiếp nhận tác phẩm đối với độc giả không phải là điều đơn

giản. Bài thơ ngắn ngủi, tưởng chừng dễ hiểu nhưng ẩn sâu trong đó là

nhiều vấn đề mà đến hôm nay vẫn còn gây ra nhiều tranh cãi trong giới phê

bình- nghiên cứu. Trong bộ SGK Ngữ văn 7 không có thêm lời phân tích

nào sâu hơn về văn bản này. Chỉ duy nhất trong Để học tốt Ngữ văn 7 (NXB

Thanh Niên do Trần Văn Sáu và Đặng Văn Khương biên soạn, 2007) có

xuất hiện việc so sánh Đêm đỗ thuyền ở Phong Kiều với bài Rằm tháng

giêng trong bài Ôn tập tác phẩm trữ tình (tiếp theo). Thao tác so sánh được

gợi ý cho học sinh bằng một vài gạch đầu dòng ngắn gọn, mang tính chất

định hướng là chính:

“- Cảnh vật: ít nhiều có nét tương đồng.

- Tình cảm: Nếu Đêm đỗ thuyền ở Phong Kiều là tâm tình của khách xa

quê thao thức thì Rằm tháng giêng là tình yêu thiên nhiên gắn liền với lòng

yêu nước, tâm hồn nghệ sĩ hòa hợp thống nhất với cốt cách của người chiến

sĩ, của vị lãnh tụ.”(tr 122- 123).

Như thế, so với Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, tần số xuất hiện được chọn

giảng dạy trong chương trình PT của Phong Kiều dạ bạc ít hơn, chỉ có 1 lần.

Đây là tác phẩm mới được đưa vào chương trình nhằm tạo nên một luồng

sinh khí mới cho Đường thi trong nhà trường PT. Tuy vậy, nó cũng chứng tỏ

được vị trí của mình trong số rất nhiều bài thơ Đường cùng thời khác khi

vượt lên được tất cả số đó, chinh phục người biên soạn để được lựa chọn vào

chương trình SGK PT chuẩn mực. Điều này cũng cho ta thấy sự đánh giá rất

cao của những người biên soạn khi chọn Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -32

để giới thiệu cho học sinh. Bởi trong chương trình PT, thơ Đường được giới

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

thiệu không nhiều, chỉ là những áng thơ tiêu biểu và có sức sống lâu bền nhất

trong lịch sử thơ ca Trung Quốc cũng như ở Việt Nam. Họ đã tiếp nhận, cảm

nhận nó, sống với nó và khi biên soạn SGK đã không ngần ngại đưa tác phẩm

này vào chương trình. Trương Kế không phải một nhà thơ tiêu biểu của

Đường thi nhưng Phong Kiều dạ bạc là một trong số ít những tác phẩm chiến

thắng được thời gian để tồn tại mãi trong lòng người đọc. Đối với người Việt

Nam, bài thơ từ lâu đã trở nên quen thuộc mà ai ai cũng có thể ngâm, đọc và

vận dụng sáng tạo trong thơ văn mình. Bởi vậy, việc lựa chọn đưa vào

chương trình tác phầm này là quan điểm đúng đắn và thể hiện sự am hiểu

Đường thi của những người biên soạn.

Trong Thơ Đường ở trường PT do Hồ Sĩ Hiệp biên soạn năm 1995

(sđd), trong số những thi phẩm được chọn phân tích ở chương trình THCS

không có Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế nhưng phần cuối sách có trích

dẫn bài viết Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa- Trương Vĩnh Hằng, Giác ngộ,

1992 (tr 163- 164). Bài viết có thể được coi là một nguồn tư liệu mới cho học

sinh và giáo viên trong quá trình “đọc” tác phẩm khi đưa ra một quan điểm

khác về nội dung tư tưởng của nó. Từ chỗ nêu lên hoàn cảnh xã hội đen tối

của kinh thành Trường An chìm trong khói lửa mịt mù, loạn An Lộc Sơn, tác

giả đã diễn câu từ của bài thơ theo hướng u ám như vậy. Bài thơ “chứa đựng

muôn vàn uẩn sự”. Những uẩn sự ấy hiển hiện thông qua những chi tiết dày

đặc trong tác phẩm. Ấy là trăng lặn- tượng trưng cho xã hội xuống dốc, tiếng

quạ kêu là của con người rên siết lầm than, màn sương gợi nên sự tối tăm,

trăng chiếu, lửa chài tựa những bóng ma trơi vất vưởng lang thang trong đêm

tối. Cây bàng ven sông rì rào điệp khúc ai oán, thành Cô Tô say giấc triền

miên. Nổi lên tất cả là âm hưởng “nhặt khoan” của tiếng chuông chủa đã xoa

dịu nỗi trầm tư của “kẻ thất thời bôn tẩu”. Cùng với việc đưa ra một quan

điểm mới về nội dung tư tưởng, người viết còn đưa thêm chi tiết chùa Hàn

San là một địa danh bên cầu Tây Phong, thuộc tỉnh Giang Tô. Như vậy, dù

không định hướng cho học sinh cách “đọc” nhưng việc người biên soạn đưa

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -33

ra tư liệu bài viết của Trương Vĩnh Hằng đã phần nào giúp học sinh tiếp cận

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

thêm với những “xôn xao” xung quanh thi phẩm này, tạo cái nhìn đa chiều để

đánh giá tác phẩm được toàn diện hơn.

Thơ Đường trong nhà trường của Trần Ngọc Hưởng xuất bản năm 2004

(sđd) phân tích toàn bộ những tác phẩm trong chương trình Ngữ văn PT, kể

cả những tác phẩm đọc thêm, trong đó có Phong Kiều dạ bạc của Trương

Kế. Bài thơ được trích dẫn giới thiệu với Nguyên bản chữ Hán, Phiên âm,

Dịch nghĩa và Dịch thơ (bản dịch được ghi của Tản Đà) và có chú thích chân

trang về địa danh Phong Kiều. Tiếp đến là phần Gợi ý thưởng thức của người

biên soạn dành cho học sinh tham khảo. Phần Gợi ý thưởng thức đưa ra hai ý

kiến của Nguyễn Xuân Nam và của Nguyễn Khắc Phi. Đây cũng là những

định hướng cho học sinh trong quá trình “đọc” văn bản tác phẩm. Nguyễn

Xuân Nam và Nguyễn Khắc Phi đều là những người am tường sâu sắc thơ

Đường nói riêng cũng như thơ ca Trung Quốc nói chung. Trước khi đến với

độc giả, họ cũng như đa số những nhà biên soạn sách đều đã trải qua quá

trình “đọc” tác phẩm. Hoạt động đọc của họ lại hướng về số đông những độc

giả rất khác nhau, đặc trưng trong nhà trường. Có lẽ bởi vậy mà hoạt động

“đọc” của họ cũng mang những đặc thù riêng khác với dịch giả hay giới

nghiên cứu, phê bình dù chung quy lại đây đều là những “siêu độc giả”, đọc

với tầm chuyên biệt thẩm mỹ cao.

Nguyễn Xuân Nam đã giúp bạn đọc vẽ nên một bức tranh sống động về

khung cảnh trong Phong Kiều dạ bạc: “Một cảnh buồn: trăng tà, sương tỏa,

cây dọc bờ song cũng đen đen mờ mờ. Một vài đốm lửa thuyền chài leo lét

càng làm cảnh buồn tối thêm. Và cảnh rất vắng lặng: Có vắng lặng mới nghe

rõ tiếng quạ kêu, mới phân biệt tiếng chuông từng chùa trong một vùng nhiều

chùa. Giữa cảnh buồn vắng mênh mông ấy là con người chơ vơ giữa những

danh thắng: Cô Tô là nơi ở của vua Ngô và Tây Thi ngày xưa. Chùa Hàn

Sơn, bến Phong Kiều đều là những cảnh đẹp nổi tiếng của Tô Châu. Bài thơ

gợi ta nhiều liên tưởng, suy tưởng đẹp. Trong bài thơ có họa. Tôi đã xem hai

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -34

bức tranh màu vẽ cảnh “Phong Kiều dạ bạc”.

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

Chỉ tiếc tiếng chuông ngân nga, trong đêm tĩnh mịch bức tranh không

thể nào thể hiện được. Độc giả Việt nam rất quen thuộc bài thơ này. Các nhân

vật, nhà thơ thường nhắc đến:

Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng (Quách Tấn)

Hồ Dzếnh cũng nhắc đến giọng ngâm: Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên

trong Chân trời cũ.” [17, 23].

Người biên soạn cũng trích dẫn ý kiến của Nguyễn Khắc Phi một cách

ngắn gọn nhưng nổi lên những quan điểm chính nhất: “1. Chú ý sự chuyển

đổi nhịp điệu ở các câu thơ. Câu 1 không thể đọc hiểu một mạch mà phải

ngắt làm ba vì có 3 cụm chủ vị. Ngược lại 2 câu cuối gần như phải đọc liền

hơi vì nghĩa gắn chặt vào nhau. Chính vì kết cấu ngữ pháp gắn bó như vậy

nên có người cho rằng 2 câu này đã diễn tả một cách tài tình sự vang vọng

lan tỏa của tiếng chuông chùa trong đêm vắng.

2. Hai câu đầu dịch khá hay song 2 câu sau dịch không đạt: Ở nguyên

bản chủ thể là tiếng chuông, ở bản dịch đã chuyển du khách thành chủ thể.”

[17, 23- 24].

Như vậy, trong SGK PT, Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế chưa

được giảng dạy trong chương trình chính. Có nhiều nguyên nhân để những

người biên soạn sách cân nhắc trong việc tuyển lựa nó vào giảng chính hay

Đọc thêm, đọc thêm bắt buộc. Một trong những lí do ấy có thể kể tới việc

tiép nhận văn bản văn học này đến nay còn khá nhiều tranh luận dù câu

chữ hết sức ngắn ngủi. Đọc một bài thơ Đường, nhất là tứ tuyệt, chúng ta

luôn phải lắng nghe âm vang của nó, tưởng tượng ra những đường nét và

màu sắc của nó để có thể cảm nhận hình tượng chung của bài thơ chứ

không dựa vào những chi tiết ngôn ngữ cụ thể của bài thơ. Cái ma lực của

Phong Kiều dạ bạc chủ yếu là bắt nguồn từ nghệ thuật miêu tả và biểu

hiện tuyệt vời của nó. Nếu như hai câu đầu “đứt đoạn”, “dày đặc” tư liệu,

hình ảnh thì hai câu thơ sau lại “liên tục” mà “thưa thoáng”. Những nhà

biên soạn SGK hầu hết khi hướng cách “đọc” cho học sinh đều chỉ ra văn

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -35

bản dịch chưa thành công ở hai câu thơ sau và chất tịch mịch, u hoài của

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

cảnh vật cũng như cái tĩnh lặng trong hồn người. Từ đó, độc giả có những

cảm nhận riêng cho mình, tự tìm ra những nốt nhạc đồng điệu ẩn trong câu

chữ. Tuy nhiên, việc gợi ý tìm hiểu Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế

trong SGK PT còn quá ít ỏi, bởi thế, việc tiếp nhận thấu đáo văn bản này

vẫn là một việc không dễ dàng, ngay cả đối với những nhà biên soạn sách

vẫn còn nhiều do dự và phân vân.

Nếu như ở năm đầu tiên, khi Phong Kiều dạ bạc mới được đưa vào

chương trình, tác phẩm chỉ mang tính chất giới thiệu cho học sinh PT nên

không có những phần gợi ý phân tích tác phẩm thì đến năm 2006, những

người biên soạn sách đã soạn thêm phần Gợi ý thưởng thức nhằm đinh hướng

cho học sinh cách tiếp cận văn bản. Nó giúp cho học sinh nói riêng và độc giả

nói chung có thể hiểu hơn về tác phẩm, và từ đó có tâm thế, những cách

“đọc” mới mẻ về tuyệt tác này. Cho đến nay, khi Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị

đã bị lược bỏ khỏi chương trình SGK PT vì dung lượng quá dài và khó khăn

trong quá trình “đọc” của học sinh thì SGK Ngữ Văn 7 vẫn tiếp tục đưa tác

phẩm Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế vào chương trình. Dù chỉ là chương

trình Đọc thêm nhưng nó đã chứng tỏ được sức sống cũng như giá trị tiềm ẩn

của tác phẩm. Một văn bản “mở” mà đến hôm nay nó vẫn còn mời gọi độc

giả tiếp tục khám phá, tiếp nhận.

1.3. LÝ GIẢI HIỆN TƯỢNG GIẢNG NGHĨA TRONG SGK PT

Có thể nói, qua quá trình khảo sát, tìm hiểu hai tác phẩm tiêu biểu của

thơ Đường: Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Phong Kiều dạ bạc của Trương

Kế trong SGK PT, ta thấy được nhiều nét rất đặc trưng trong vấn đề “giảng

nghĩa” trong SGK PT.

Từ góc độ mỹ học tiếp nhận, hai chữ “giảng nghĩa” có thể hiểu là “đọc

nghĩa” kiểu SGK... Trong khóa luận này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu việc giảng

nghĩa hai tác phẩm Đường thi trong SGK PT là Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -36

và Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế. Đây cũng là một trong những cách

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

“đọc” thơ Đường ở Việt Nam vốn rất đa dạng và phong phú với nhiều hình

thức khác nhau như: dịch, nghiên cứu, phê bình đại chúng (sách, báo, tạp chí,

mạng), dụng điển (tác phẩm văn học khác) v.v…

Tỳ bà hành và Phong Kiều dạ bạc là hai tác phẩm được giới thiệu vào

Việt Nam không phải đồng thời, Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị được bạn đọc

Việt Nam biết đến sớm hơn Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế. Dung lượng

của chúng khác nhau rất nhiều, Tỳ bà hành- Bạch Cư Dị viết theo thể trường

thiên thất ngôn cổ phong, số câu số chữ dài hơn so với thể thất ngôn tuyệt cú

của Phong Kiều dạ bạc- Trương Kế. Tuy nhiên, cả hai tác phẩm đều đã được

lựa chọn vào chương trình SGK PT nhằm giới thiệu, mở rộng tầm hiểu biết

về một nền thơ ca rực rỡ của cả nhân loại cho học sinh.

SGK trong nhà trường là loại sách dùng cho học sinh nghiên cứu, học

tập dưới sự giảng dạy của giáo viên. Qua hệ thống câu hỏi trong SGK, giáo

viên biết HS đã được định hướng đến đâu, từ đó biết cách truyền đạt kiến

thức hiệu quả nhất. SGK Ngữ văn cũng vậy, đặc biệt với đặc thù của bộ môn,

người giáo viên không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn phải gợi mở, hướng

học sinh tự “đọc” để cảm thụ, thấm nhuần chất thơ, chất nghệ thuật của văn

bản và trau dồi tình cảm, làm phong phú thêm thế giới cảm xúc của bản thân.

Muốn đạt được mục tiêu cao cả ấy, cần phải có sự phối hợp nhuần nhuyễn

của rất nhiều khâu trong quá trình giáo dục ở nhà trường. Một trong những

khâu mang tính quyết định cao chính là nằm trong tay những người biên soạn

sách, chọn lựa và sắp xếp chương trình sao cho phù hợp nhất, định hướng

cách “đọc” cho nhiều độc giả khác nhau không chỉ gói gọn ở học sinh.

Người ta muốn biết nền giáo dục của một quốc gia phát triển ở mức độ

nào, không thể không xem tới chương trình chuẩn SGK PT của nước đó. Bởi

vậy, những người biên soạn, “giảng nghĩa” SGK PT cũng mang trên mình

một trọng trách thiêng liêng, cao quý, định hướng cho lớp trẻ của đất nước

một nền tảng trí thức vững vàng.

Có rất nhiều yếu tố chi phối tới công việc biên soạn một chương trình

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -37

SGK PT. Đó là chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước trong việc định

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

hướng phát triển một nền giáo dục. Sau đó là các quan điểm văn nghệ, các

trường phái lí luận tiến bộ trên thế giới và những tác động của chúng đối với

nguyên tắc và cách thức làm việc của tập thể tác giả biên soạn… Có thể lấy

ví dụ như trong giai đoạn 1975- 1979, đất nước ta gặp rất nhiều khó khăn

trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, giáo dục

gắn chặt với sự nghiệp cách mạng XHCN. Các tác phẩm được lựa chọn đưa

vào giảng dạy chủ yếu thiên về phản ánh cuộc sống chiến đấu, lao động sản

xuất của nhân dân. Bởi vậy, trong giai đoạn này, Đường thi không được chú

trọng và trên thực tế không xuất hiện trong chương trình SGK PT. Chỉ từ

năm 1990 đến 2000, Đảng đề ra đường lối đổi mới, các tác phẩm đưa vào

chương trình đa dạng hơn, mang nhiều nội dung, tư tưởng, tình cảm phong

phú của con người. Đường thi cũng chính thức được đưa vào giới thiệu cho

học sinh. Cho đến nay, các tác phẩm Đường thi ngày càng được mở rộng

hơn, nhiều hơn và có thêm những tác phẩm mới, tạo luồng sinh khí mới cho

văn thơ Trung Quốc. Điều đó rất hữu ích cho việc tiếp nhận, tìm hiểu sâu hơn

những thi phẩm này của bạn đọc yêu văn thơ.

Có thể nói, những chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước về

Giáo dục đã chi phối không nhỏ tới việc “đọc” của các nhà soạn sách và từ

đó ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận của học sinh. Trước năm 1990, đất

nước ta còn nhiều khó khăn, nhiều vấn đề phải giải quyết do vậy nội dung

chương trình SGK chưa được chú trọng. Từ năm 1991 trở về sau, Nhà nước

ta đã chú ý sâu sát hơn đến vấn đề này. Khi kinh tế, xã hội đất nước phát triển

thì giáo dục và đào tạo cũng được Nhà nước ta quan tâm thích đáng hơn.

Trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW lần VI tại Đại hội đại biểu

toàn quốc lần VII (6- 1991) đã ghi rất rõ rằng: “Xác định rõ hơn mục tiêu,

thiết kế nội dung, chương trình, đổi mới phương pháp giáo dục, đào tạo lựa

chọn những nội dung có tính cơ bản, hiện đại” [9, 24]. Bắt đầu từ đây, việc

biên soạn sách giáo khoa PT cũng có sự thay đổi đáng kể. Đặc biệt là từ sau

năm 2001, khi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX của Đảng (4-

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -38

2001) đặt mục tiêu giáo dục và đào tạo lên tầm cao hơn, coi đây là quốc sách

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

hàng đầu “tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung,

phương pháp dạy và học[…] Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo

của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay

nghề…”[9, 29] thì chương trình SGK PT cũng được biên soạn theo hướng

mới. Những câu hỏi trong phần Hướng dẫn học bài của SGK PT đã loại bỏ đi

những gợi ý cụ thể để nhường chỗ trống cho học sinh “tự học, tự hoàn thiện”.

Với chương trình SGK PT, chiến lược của nhà nước ta đến năm 2010 là

“Khẩn trương biên soạn và đưa vào sử dụng ổn định trong cả nước bộ chương

trình và SGK PT phù hợp với yêu cầu mới”, “đổi mới phương pháp dạy và

học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng

thực hành, thực nghiệm, ngoại khóa, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học

vẹt, học chay…” [9, 29] Chính điều đó đã tác động tích cực đến những người

biên soạn, đổi mới một bước SGK, loại bỏ những nội dung không thiết thực,

bổ sung những nội dung cần thiết theo hướng đảm bảo kiến thức cơ bản, cập

nhật những tiến bộ khoa học, công nghệ, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài

một cách có chọn lọc và đặc biệt rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người

học. SGK Ngữ văn PT cũng không nằm ngoài những mục tiêu đề ra đó. Các

soạn giả đã cố gắng “đọc” để từ đó xây dựng nên chương trình SGK PT vừa

đảm bảo tính hệ thống, kế thừa và phát triển của chương trình cũ, vừa phù

hợp với thực tiễn và truyền thống nước ta từ xưa. Bởi vậy, dù chương trình

vẫn có tác phẩm Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị nhưng cách trình bày cũng như

phần chú giải, hướng dẫn học bài…qua các năm gần đây đã có sự đổi mới,

phù hợp với mục tiêu phát huy tính năng động, sáng tạo của người tiếp nhận.

Việc biên soạn SGK PT đã huy động được đội ngũ các nhà khoa học,

các nhà sư phạm, các cán bộ quản lý giáo dục am hiểu, có kinh nghiệm về

GD PT và các giáo viên giỏi tham gia biên soạn, thẩm định, thử nghiệm

chương trình SGK mới trước khi áp dụng bộ SGK chuẩn trên cả nước. Những

nhà biên soạn SGK ngữ văn, trước hết cũng là “độc giả” nhưng họ là những

“siêu độc giả” bởi họ đến với thơ Đường trên một nền tảng vững chắc và dày

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -39

dặn. Họ giữ vai trò quan trọng trong tư cách của “người đọc mẫu”. Để giảng

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

nghĩa một tác phẩm, trước hết họ cũng phải am hiểu thơ Đường như chính

máu thịt của mình, có một quá trình tiếp nhận, “đọc” nghiêm túc và sống với

nó để tìm ra những vấn đề nổi trội của văn bản. Có như vậy, những nhà biên

soạn mới đủ trình độ để định hướng, gợi mở cho những độc giả “chính

thống” trong nhà trường PT.

Văn bản tác phẩm là một hệ thống kí hiệu nhưng chưa phải đã là một

tác phẩm thực sự mà nó chỉ là bước đầu tiên không thể thiếu được để trở

thành tác phẩm. Văn bản chỉ trở thành tác phẩm khi có người đọc xuất hiện.

Ở văn bản, ngoài phần chủ ý (tức ý đồ của tác giả) trước và trong khi sáng

tác còn có phần không chủ ý, nằm ngoài ý muốn của tác giả, đó là cái vô

thức. Chính nó đã tạo ra một KHOẢNG TRỐNG để người đọc tham dự vào

tác phẩm, trở thành kẻ đồng sáng tạo với tác giả. Sự giải mã một văn bản

tùy thuộc rất nhiều vào vốn văn hóa, kinh nghiệm sống, kinh nghiệm thẩm

mỹ của người tiếp nhận. Giống như Trương Đăng Dung đã từng phân loại:

“Đối với một bạn đọc ngây thơ thì không tồn tại một văn bản văn học và tác

phẩm văn học riêng. Trong ý thức của họ tác phẩm văn học là một khách

thể. Đối với họ, từ một câu chữ đến một cuốn sách in đều rõ ràng, không có

điều gì ẩn kín phải suy nghĩ. Tác phẩm văn học phản ánh cuộc sống thì nó

phải như cuộc sống.”

Nếu nói tác phẩm là một cái nhìn của người đọc thì nếu dịch giả cố gắng

đem đến cho độc giả một văn bản đúng nhất, giữ được đúng cái “thần”, cái

“nhã” của nguyên tác ban đầu thì đối với những người biên soạn sách lại

hoàn toàn khác hẳn. Họ lựa chọn bản dịch thành công nhất đưa vào chương

trình và từ đó phác họa những bước đi đầu tiên trên con đường đến với tác

phẩm cho bạn đọc. Đó cũng là một sứ mệnh không kém phần cao cả. Giống

như những dịch giả hay nhà phê bình- nghiên cứu, nhà biên soạn sách không

phải là người cung cấp cho bạn đọc cái nghĩa đúng sai của thi phẩm đó. Họ

chỉ có vai trò như người “định hướng” nhưng định hướng theo cách “đọc”

của mình dù cho cách “đọc” ấy không được thỏa sức tung hoành, bộc lộ cái

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -40

Tôi của bản thân như phê bình, nghiên cứu. Do đặc thù của công việc, văn

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

học nước ngoài có ít giờ ở nhà trường PT mà phải đưa học sinh tiếp xúc ngay

với tinh hoa của văn chương thế giới nên việc giới thiệu đoạn trích của các

soạn giả SGK cũng phải rất chu đáo: có các thông tin tuy vắn tắt nhưng đầy

đủ về thời đại, tác phẩm, tác giả cũng như định hướng phân tích, nghiên cứu

cho học sinh, giáo viên.

Học sinh được giảng dạy trong chương trình phần nhiều mới chỉ thiên về

các văn bản dịch. Đó cũng là một cách sống với nó, một cách cảm nhận sâu

sắc tác phẩm khi có sự so sánh, đối chiếu với nguyên bản chữ Hán và rồi băn

khoăn tìm ra con chữ phù hợp nhất với phong thái, tinh thần của bài thơ. Việc

“đọc” của học sinh có thể gọi là việc “đọc lại”, có định hướng. Trước đó, các

nhà soạn giả đã phải dành thời gian “đọc” tác phẩm như rất nhiều những độc

giả thông thường khác. Để rồi, sau đó là việc “đọc” của giáo viên. Giáo viên

tiếp nhận tác phẩm. Tư cách bạn đọc của giáo viên đã được xác lập trong

quan hệ tri âm, đối thoại với tác giả thông qua tác phẩm. Văn bản văn học

của nhà văn (vật tự nó) đã chuyển hóa thành tác phẩm văn chương trong thầy

giáo (vật cho ta). Tri thức văn học được chuyển hóa thành tri thức dạy học để

rồi trên cơ sở đó xác lập quan hệ bạn đọc- bạn đọc, chủ thể định hướng- đối

tượng tiếp nhận với học trò. Đó chính là lí do việc “đọc” của nhà biên soạn

hướng đến những độc giả khác nhau, có trình độ không giống nhau và họ có

vai trò “định hướng”.

Khác với những người biên soạn SGK Toán, Lí hay Hóa học…, những

người soạn SGK Ngữ văn bên cạnh việc bị chi phối bởi chủ trương của Đảng

hay những định hướng giáo dục, họ còn bị quy định bởi những bước biến

chuyển tinh vi của khoa lí luận văn học, những khuynh hướng, phương pháp

nghiên cứu và các công trình nghiên cứu cũng như phê bình văn học trong

nước và nước ngoài. Từ năm 1986 đến nay, lí luận phê bình, nghiên cứu văn

học có những đột phá quan trọng, đưa ra vấn đề đặc trưng văn học trong cấu

tạo của nó, đặc điểm thẩm mỹ của văn học, tiếp nhận văn học, vai trò của

người đọc, nghiên cứu từ góc độ thi pháp học… Rất nhiều người tham gia

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -41

biên soạn nội dung giảng dạy Đường thi trong SGK PT cũng chính là những

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

người đi đầu trong việc ứng dụng thi pháp học nghiên cứu văn học. Bởi vậy

mà, cùng với sự chuyển biến của lí luận văn học trên thế giới, những thành

tựu mới đó cũng được áp dụng trong công cuộc soạn SGK. Lý luận văn học

thế giới từ chỗ phát hiện ra tác giả, sau đó tác phẩm và gần đây nhất là người

đọc được đề cao, có một vị thế mới. Những tiến bộ đó đã được giới thiệu vào

nước ta theo nhiều con đường khác nhau, có ảnh hưởng lớn đến giới văn

chương từ những người sáng tác đến nghiên cứu, phê bình hay dịch thuật…

Nếu như trước đây, những bài biên soạn trong SGK chủ yếu được chú trọng

vào nội dung tư tưởng, xã hội của tác phẩm thì sau đó, chúng đã được tìm

hiểu nhiều hơn về phương diện nghệ thuật, đi sâu vào văn bản. Và càng về

sau này, việc gợi mở cho học sinh- đồng thời cũng là những chủ thể tiếp nhận

tự đi sâu vào văn bản, tìm hiểu tác phẩm càng được các nhà biên soạn ý thức

rõ hơn. Sự thay đổi dần dần theo thời gian thông qua các bộ SGK chỉnh lí, cụ

thể qua một tác phẩm cho thấy rất rõ bước chuyển biến trong việc tiếp nhận

những lí thuyết nghiên cứu văn học phương Tây của soạn giả. Có thể nói,

quan niệm và trình độ hiểu biết của người soạn sách gián tiếp quyết định đến

chất lượng phần gợi ý học sinh học tác phẩm.

Quan sát phần Hướng dẫn học bài đối với những tác phẩm giảng dạy

chính và Gợi ý thưởng thức với tác phẩm đọc thêm, chúng ta thấy rất rõ sự

thay đổi trong quan niệm, tư tưởng của người biên soạn theo thời gian. Tỳ

bà hành trong SGK Ngữ văn 10 là một ví dụ, từ lúc tác phẩm mới được đưa

vào chương trình đến ngày nay, số câu hỏi trong mục Hướng dẫn học bài

cũng đã có sự thay đổi ít nhiều. Lúc đầu, tỉ lệ giữa câu hỏi về nội dung và

nghệ thuật tác phẩm còn khá nhiều ưu ái cho nội dung, việc gợi ý của người

biên soạn trong ngoặc đơn gần như đã thay câu trả lời dù còn hết sức sơ

lược. Nhưng dần dần, sự định hướng đó đã thay đổi. Có thể nhận ra cách

“đọc” của người biên soạn cũng thay đổi dần dần qua chính sản phẩm của

họ. Những câu hỏi về nghệ thuật đã được chú trọng và phần lớn xoáy sâu

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -42

vào trọng tâm làm nên giá trị thực sự của thi phẩm. Với những gợi ý chi tiết

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

như vậy, học sinh có cơ hội hiểu biết về thơ Đường nhiều hơn, từ đó hiểu

văn thơ của ông cha ta ngày trước.

Đầu thế kỷ XX, khi mà lí luận văn học thế giới khám phá ra người đọc,

xem người đọc có vai trò quan trọng với tuổi thọ của một tác phẩm bất kỳ thì

việc biên soạn SGK PT cũng có sự chuyển biến. Đó chính là sự ra đời của mĩ

học tiếp nhận. Mỹ học tiếp nhận đặc biệt chú ý đến người đọc, đúng hơn là

việc đọc văn bản tác phẩm. Nó nhấn mạnh đến quá trình khai triển những

thông tin thẩm mỹ (nghĩa) được mã hóa trong văn bản tác phẩm đó. Những

nhà biên soạn chương trình đã cố gắng trình bày nội dung theo hướng gợi

mở, định hướng và tích hợp nhiều hơn là chỉ ra rõ ràng như trước. SGK được

chỉnh lí và mang một bộ mặt hoàn toàn mới, thay thế những bộ sách cũ ngày

xưa. Hình thức mới mang trong lòng nó những nội dung và phương pháp mới

hơn. Họ nhận ra trong giảng văn, không thể áp đặt cách hiểu, cách cảm thụ

cho học sinh, bắt học sinh phải học thuộc theo phương pháp cũ. Từ chỗ chỉ

trích bản dịch, nhà soạn sách đã trích toàn bộ nguyên âm chữ Hán, phiên âm

chữ Hán, dịch nghĩa và dịch thơ…Từ chỗ dành nhiều “đất” cho tác giả (tiểu

sử, thân thế, sự nghiệp…) đến chỗ ưu ái hơn cho văn bản, nguyên tác và sau

đó chú ý gợi mở, dành nhiều KHOẢNG TRỐNG cho học sinh tự “đọc”. Điều

đó có ý nghĩa rất quan trọng giúp chúng ta nhìn một cách đầy đủ, toàn diện

văn bản và phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của người tiếp nhận.

Cũng là một cách tiếp nhận, một cách “đọc” thơ Đường nhưng các nhà

biên soạn sách đã dần dần có ý thức đặt vấn đề năng động, sáng tạo của chủ

thể tiếp nhận (học sinh), phát hiện đặc điểm, quy luật tâm lí cảm thụ của học

sinh lên hàng đầu. Và từ đó, họ cố gắng xác lập cơ chế dạy và học văn hợp lí

trong nhà trường thông qua cách trình bày SGK PT. Không phải những nhà

biên soạn không hiểu kỹ Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị hay không hiểu hết câu

chữ trong Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế nên phần hướng dẫn trong

SGK còn ít ỏi. Bởi họ còn bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố khác khi biên soạn

chương trình. Cũng là một cách “đọc” nhưng họ phải cô đúc những hiểu biết

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -43

của mình và cố gắng gửi gắm nó qua những câu hỏi trong phần hướng dẫn để

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

học sinh dần tiến đến tư tưởng mà họ muốn nói đến. Học sinh khi tiếp xúc

với văn bản văn học chính là đang tiến hành quá trình giao tiếp thẩm mỹ với

văn bản. Việc tiếp nhận văn học của học sinh ở mỗi thế hệ khác nhau. Những

thay đổi tùy thuộc vào thời đại và sự phát triển về cấu trúc tâm lí, cấu trúc

nhân cách và cấu trúc văn hóa của chủ thể tiếp nhận. Do khoảng cách thẩm

mỹ, thời đại và khác biệt về văn hóa nên tầm đón nhận của bạn đọc- học sinh

cũng mang đặc trưng riêng. Việc gợi ý, hướng dẫn con đường tiếp nhận trong

SGK PT là hết sức cần thiết nhằm rút ngắn khoảng cách đó. Việc tiếp nhận

văn học trong nhà trường có những quy tắc, đặc điểm riêng, mang tính tập thể

và có sự hướng dẫn của giáo viên nên khi biên soạn sách, các soạn giả cũng

luôn phấn đấu vì mục đích hướng vào đáp ứng của học sinh. Trước đây, phần

Hướng dẫn học bài còn nặng quan niệm truyền thống: dạy học sinh thấy

được cái hay, cái đẹp của tác phẩm nhưng cái hay, cái đẹp đó là do người

soạn sách chỉ ra và giáo viên thuyết trình, thuyết giảng. Những SGK biên

soạn sau năm 2000 đã đưa ra nhiều câu hỏi gợi mở hơn, cho thấy những nhà

biên soạn đã quán triệt quan điểm phát huy tính chủ động, sáng tạo của người

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -44

học- đồng thời cũng là những chủ thể tiếp nhận.

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

CHƯƠNG 2 GIẢI NGHĨA THƠ ĐƯỜNG TRONG NGHIÊN CỨU PHÊ BÌNH Ở VIỆT NAM

Đa nghĩa là thuộc tính của tác phẩm nghệ thuật. Với người này, vào

hoàn cảnh này thì nghĩa này nổi lên, với người khác vào hoàn cảnh khác thì

nghĩa khác sẽ nổi lên. Quả thực không có một tác phẩm văn học nào tồn tại

khép kín với một vẻ mặt duy nhất dành cho tất cả mọi người đến với nó. Đó

là yếu tố chủ quan trong việc đọc và tìm hiểu tác phẩm. Hoạt động ý thức của

nhà văn không thuộc về tác phẩm mà chỉ là cơ sở tồn tại của tác phẩm mà

thôi. Một mặt, tồn tại một văn bản văn học như là sản phẩm sơ lược với

những chỗ trống và những sự kiện chưa xác định, giống như một bộ xương,

mặt khác thông qua sự cụ thể hóa (đọc) như là một hoạt động của ý thức

hướng về nó mà bộ xương được đắp thêm da thịt và tác phẩm trên cơ sở đó

mới thực sự được hình thành.

Tính chất của sự cụ thể hóa này phụ thuộc vào trình độ người đọc và bản

thân tác phẩm cũng hiện ra đúng với diện mạo của nó nếu gặp được sự cụ thể

hóa lí tưởng nhất. Sự cụ thể hóa này mỗi người mỗi vẻ, không ai giống ai.

Phương thức tồn tại của tác phẩm văn học qua sự cụ thể hóa của người đọc đã

cho thấy sự tồn tại một tác phẩm không đơn giản là cái văn bản được viết ra

mà còn phụ thuộc vào việc người ta tiếp nhận nó như thế nào.

Nhà nghiên cứu- phê bình cũng là một trong số những độc giả tiếp nhận

tác phẩm nhưng nếu như dịch giả với sứ mệnh cao cả đem đến cho người đọc

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -45

bản dịch trung thành nhất với nguyên tác, người soạn sách “đọc” dưới sự chi

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

phối, quy định chặt chẽ của rất nhiều yếu tố khác thì nhà phê bình lại cung

cấp cho họ một cái nhìn riêng, độc đáo, mới mẻ của riêng mình. Mỗi một nhà

nghiên cứu lại mang đến một diện mạo mới, gương mặt mới cho một văn

bản, khác với nhà biên soạn sách. Dù cho hoạt động “đọc” của họ đều xuất

phát từ lập trường thẩm mỹ chuyên biệt và việc đọc nghĩa các tác phẩm của

họ đều hướng đến những độc giả khác nhau, có tác dụng định hướng cao.

2.1. NGHIÊN CỨU PHÊ BÌNH TỲ BÀ HÀNH Ở VN

2.1.1. Giai đoạn 40 – 75:

Sau năm 1940, đặc biệt là từ sau 1945, khi nền văn học Việt Nam thoát

khỏi sự kiểm soát gắt gao của thực dân Pháp. Văn học Việt Nam có những

điều kiện mới để phát triển, lí luận văn học từng bước được củng cố và nâng

cao. Do đó, vấn đề diễn dịch tác phẩm Tỳ bà hành cũng được chú trọng.

Hầu hết các tạp chí sách báo khoa học, chuyên ngành cũng như một số

sách giáo trình và sách giáo khoa, khi giới thiệu văn bản chữ Hán của Tỳ bà

hành đều có kèm lời “tự” của bài thơ. Bài tự này như sau:

“Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 10, ta phải đổi ra làm Tư Mã quận Cửu

Giang. Mùa thu năm sau, đi tiễn khách ở bến Bồn, đêm nghe thấy người gảy

tiếng đàn tỳ bà ở trong một chiếc thuyền kia, những giọng đàn lanh lảnh có

tiếng ở Kinh kỳ. Hỏi ra mới biết là một người xướng nữ ở Trường An,

thường học đàn hai nhà thiện tài họ Mục và họ Tào, đến khi tuổi già sắc suy

mới gửi thân làm vợ một anh lái buôn. Liền bảo đặt rượu và gảy mấy khúc

chơi. Gảy xong, người ấy buồn bã tự kể trẻ trung thì vui thú chừng nào, nay

phải lưu lạc tiều tụy ở nơi giang hồ. Ta ra làm quan ở ngoài đã hai mươi năm,

vẫn thường lẳng lặng, tự dưng đêm ấy cảm mấy lời nàng nói mới để ý đến

mình bị giáng trích, nhân làm ra bài trường thiên này để tặng. Có bài có sáu

trăm mười sáu lời, đặt tên là Tỳ bà hành”.

Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị trên sách báo, tạp chí khoa học đã được

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -46

tiếp nhận từ nhiều khía cạnh khác nhau.

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

Thơ Đường ở Việt Nam, ít nhiều đều tạo nên những ý hướng khác

nhau trong việc diễn giải các điển tích, điển cố và ý thơ trong bài. Có những

bài thơ rất ngắn nhưng cuộc tranh luận về câu chữ của nó thì hoàn toàn

ngược lại, chẳng hạn như Phong kiều dạ bạc của Trương Kế. Bài thơ vẻn

vẹn 4 câu thất ngôn thế nhưng “chẳng những nó gây xôn xao dư luận ở Việt

nam mà cũng từng gây xôn xao dư luận cả ngàn đời ngay chính tại nơi nó

sinh ra”. Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, tuy là một tác phẩm lớn nhưng sự

tranh luận về nghĩa của câu chữ thì không phải là nhiều. Có sách chú thích

theo bản dịch, có sách chú thích theo nguyên văn nhưng lượng từ được chú

thích không nhiều. Trong nguồn tài liệu về Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị

hiện còn lưu giữ, Bài hát Tỳ - bà của Thê Húc là quyển chú thích trọn vẹn

nhất cho tác phẩm – cả nguyên tác và bản dịch. Nhìn chung các từ ngữ, ý

thơ đều được hiểu tương tự nhau, chỉ số ít từ ngữ là không được thống nhất

trong cách diễn giải.

Việc chú thích cho các từ ngữ trong Tỳ bà hành dù không gây ra

những cuộc tranh luận lớn nhưng cũng là một công việc khá phức tạp. Cuộc

tranh luận về Tỳ bà hành chủ yếu tập trung vào mục đích và nội dung tư

tưởng của tác phẩm. Lời tự của Bạch Cư Dị đã nói đến hoàn cảnh và nguyên

nhân ra đời của bài thơ, nhưng cho đến nay, vẫn chưa có sự thống nhất trong

cách cắt nghĩa về mục đích và nội dung tư tưởng của nó. Về hình ảnh người

kỹ nữ trong bài, cũng có người cho đó là chuyện có thực, cũng có người cho

đó chỉ là cái cớ tác giả tạo ra để tiện giãi bày tâm trạng.

Năm 1949, trong Việt Nam văn học sử trích yếu (Nhà sách Vĩnh Bảo-

Sài Gòn), Nghiêm Toản viết “Tỳ bà hành là bài thơ tả cảnh huống một

người ký nữ, nổi danh tài sắc, riêng ngón đàn Tỳ thực là tuyệt diệu những

sau một thời gian lừng lẫy trong làng son phấn, nàng lấy và đi theo một lái

buôn. Khách mải kinh doanh để nàng trơ trọi một mình, trong đêm khuya

nương bóng bên ngọn đèn xanh, nàng gửi lòng mình vào tiếng đàn Tỳ, vừa

hay Bạch Lạc Thiên tiễn bạn đi qua, nghe tiếng đàn ghé lại hỏi chuyện

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -47

nàng, “Nhân một lứa bên trời lận đận”, thi sĩ không khỏi ngậm ngùi mới

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

làm ra bài thơ này truyền thế” Theo cách hiểu này thì cuộc gặp gỡ giữa nhà

thơ và kỹ nữ trên bến Tầm Dương là có thật, bài thơ được viết ra bởi tấm

long xót xa đồng cảm với người kỹ nữ. Như vậy, Nghiêm Toản đã tiếp nhận

Tỳ bà hành là một tác phẩm nghiêng về yếu tố tự sự. Cách tiếp nhận này về

sau đã được một số tác giả sách giáo trình đồng tình, trong đó có Giáo sư Lê

Đức Niệm.

Đối lập với ý kiến trên, có người cho rằng Tỳ bà hành là bài thơ

nghiêng về chất trữ tình thể hiện tâm trạng riêng của Bạch Cư Dị. Năm 1953,

Phạm Văn Diêu trong Việt Nam văn học giảng bình đã chỉ ra rằng “cảm

thông cho thân phận của người kỹ nữ này, lại nghĩ rằng đời bạc mệnh của

nàng có giống than thế mình, thi sĩ ngậm ngùi phiên tác Tỳ bà hành đưa tặng

người ca kỹ nhưng thực ra là cốt chỉ để bộc lộ nỗi niềm tâm sự riêng tây”.

Nói như vậy, người kỹ nữ và cuộc gặp gỡ trên bến Tầm Dương có thể đã có

thật nhưng mục đích của Bạch Cư Dị khi viết tác phẩm này là để kí thác tâm

sự của mình, còn việc tặng thơ cho người ca kỹ chỉ là cái cớ. Phạm Văn Diêu

đã phân tích khá chi tiết Tỳ bà hành. Ông diễn giải tác phẩm theo các luận

điểm chính, đó là: 1 – Cảm giác cô đơn, lạnh lẽo (cô đơn trong khung cảnh,

cô đơn của người đánh đàn, cô đơn của người nghe đàn), 2 – Cảm giác buồn

nhớ mênh mông (buồn vì cảnh vật, buồn vì tiếng đàn, buồn vì câu chuyện của

người kỹ nữ, buồn vì cảnh ngộ của tác giả), 3 – Tâm sự của tác giả hòa hợp

với tâm sự của người đánh đàn, 4 – văn chương (kết cấu và lời thơ).

Cùng thời gian năm 1953, có những người tiếp nhận Tỳ bà hành theo

hướng phủ định tất cả nội dung tư tưởng của nó. Điều đáng nói là ý tưởng

này lại nằm trong cuốn sách hướng dẫn ôn thi Trung học – Luận đề về Phan

Huy Vịnh (bản dịch Tỳ bà hành) và Từ Diễn Đồng (Những bài thơ Nôm)

(NXB Thăng Long, tác giả Sao Mai). Trong sách này, Sao Mai cho rằng

“Áng thơ chỉ là một hoạt động thuần nhất, không cần chú trọng đến nhân

sinh. Trong một phú xúc động mạnh mẽ, tác giả viết nó ra để tình cảm của

mình bớt đau khổ. Bạch Cư Dị làm bài Tỳ bà hành chỉ vì chất nghệ sĩ, vì

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -48

niềm tâm sự riêng của mình”. Như vậy, nói theo quan điểm đương thời ở Việt

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

Nam, thì Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị chỉ thuần túy là một tác phẩm “nghệ

thuật vị nghệ thuật”, chứ hòan tòan không có “nghệ thuật vị nhân sinh”. Tuy

nhiên cách hiểu này dường như bị cô lập, đến nay không còn xuất hiện trên

các tạp chí, sách báo khoa học.

2.1.2. Giai đoạn sau 1975:

Sau năm 1975, có thể nói, nghiên cứu, phê bình văn học nói chung và

văn học Trung Quốc nói riêng, tiêu biểu là thơ Đường đã có điều kiện phát

triển rầm rộ ở nước ta. Nhiều bài nhiên cứu, phê bình đã được in và giới thiệu

trên các tạp chí khoa học, các tuyển tập… Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị trong

bối cảnh đó cũng nhận được nhiều sự quan tâm của giới yêu văn thơ, đặc biệt

là yêu cái thâm trầm, kín đáo của thơ Đường.

Cùng với cách hiểu với Phạm văn Diêu, năm 1994, Nguyễn Thạch

Giang xếp Tỳ bà hành vào Những khúc ngâm chọn lọc cùng với Chinh Phụ

ngâm- Đoàn Thị Điểm (nguyên tác của Đặng Trần Côn), Cung oán ngâm

khúc- Nguyễn Gia Thiều… Ở đây, Tỳ bà hành được xem là “một bài thơ nổi

tiếng lấy chuyện người đánh đàn Tỳ - bà để tự ví mình” và ở đó, nhà thơ

Bạch Cư Dị “khóc cho người mà cũng khóc cho chính mình”. (Nguyễn Thạch

Giang (biên khảo và chú giải): Những khúc ngâm chọn lọc. Tập II. NXB Giáo

Dục, 1994).

Nhiều nhà nghiên cứu – phê bình tiếp cận Tỳ bà hành theo hướng khác:

coi tác phẩm như một chỉnh thể vừa là tự sự, vừa là trữ tình – vừa nói về kỹ

nữ, vừa nói về nhà thơ. Năm 2004, trong cuốn Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc:

Toàn tập, tập II, NXB Văn học, tác giả, trên cơ sở phân tích mối quan hệ

tương đồng giữa hoàn cảnh của Bạch Cư Dị và người kỹ nữ đã viết “…cái bài

tràng thiên những sáu trăm hai mươi hai chữ của ông Lạc Thiên này vừa nói

chính ông, lại vừa nói cả kỹ nữ, ngụ biết bao nhiêu ý tứ não nùng, diễn ra bao

câu văn thú vị”.

Nguyễn Quốc Siêu, khi giải đề cho Tỳ bà hành đã đồng thời nhấn

mạnh cả chất tự sự và chất trữ tình. Ông không phản đối ý kiến cho rằng bài

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -49

thơ có tâm trạng của Bạch Cư Dị song cũng chú ý đến tính chất “điển hình”

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

của người ca nữ. Theo ông, “bài thơ miêu tả tài nghệ điêu luyện của ngón đàn

nọ cùng lời than vãn về cuộc đời đã khái quát được số phận rất hay bị chà đạp

của người kỹ nữ trong xã hội cũ…Nhà thơ đã cất tiếng bày tỏ nỗi bất bình

cho người ca nữ và cho cả mình”. Câu chuyện về ca nữ trên bến Tầm Dương

là thực hay không hiện thực đang còn được tranh luận. Nhưng khong ít người

cho rằng điều đó có thể là thực cũng có thể là do chủ ý của nhà thơ tạo ra.

Bên cạnh những cách hiểu trên, Phương Lựu trong Lý luận phê bình

văn học, NXB Đà Nẵng, 2004 đã phân tích, đánh giá giá trị của Tỳ bà

hành qua hai phương diện cụ thể. Phương diện thứ nhất, đó là “tiếng kêu

than của một người phụ nữ bị giày vò trong xã hội cũ”. Ông lý giải: từ

những tập thơ đầu của Trung Quốc, đã có tiếng than của người phụ nữ

“nhưng đến những cung nữ của Bạch Cư Dị thì lại là cả một cuộc đời bi

thảm, suốt cuộc đời phải ấm cung như trong Thượng Dương bạch phát

nhân, phải sự tử như sự sinh như trong Lăng Viên thiếp và bao nhiêu nỗi

khổ đau ấy, Bạch Cư Dị đem tập trung lại xây dựng nên một nhân vật tiêu

biểu làm cho nó sống mãi với thời gian và vượt qua ngoài biên giới, đó là

hình tượng kỹ nữ trên bến Tầm Dương trong Tỳ bà hành”. Phương diện

thứ hai thể hiện giá trị của tác phẩm này được Phương Lựu xác định là “lời

tố cáo của một kẻ tài hoa bị chà đạp”. Như vậy theo cách cắt nghĩa, giải

thích của Phương Lựu thì giá trị nội dung – tư tưởng của Tỳ bà hành chủ

yếu tập trung vào lời tố cáo.

Đồng thời với cuộc tranh luận về mục đích và nội dung tư tưởng của Tỳ

bà hành, giới nghiên cứu - phê bình qua sách báo, tạp chí chuyên ngành

cũng quan tâm đến nghệ thuật của tác phẩm. Tỳ bà hành được chú ý nhiều

nhất ở đoạn thơ miêu tả tiếng đàn của người kỹ nữ. Cho đến hôm nay, không

ít nhà nghiên cứu vẫn tốn bao giấy bút để thử sức mình lột tả cho được cái

thần tình của khúc đàn ai oán, não nùng ấy.

Phạm văn Diêu phân tích nghệ thuật trong Tỳ bà hành qua kết cấu –

nghệ thuật tả tiếng đàn, kể chuyện của tác phẩm và qua lời thơ của nó. Theo

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -50

ông, “Tỳ bà hành là một khối sầu hận không cùng trên mấy đường tơ”. Bạch

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

Cư Dị tả người kỹ nữ đánh đàn ba lần nhưng lần đầu được tả nhiều hơn và

“tuyệt diệu hơn vì đó là tất cả cuộc đời kỹ nữ trên mấy ngón đàn”.

Phạm Văn Diêu chỉ ra những sự biến đổi của tiếng đàn theo thời gian

“đi từ hình tượng âm thanh, sang hình ảnh sự vật tượng trưng, đến những

cảm giác trừu tượng một cách uyển chuyển rõ ràng”. Bên cạnh đó ông

cũng chú ý đến ngôn từ của tác phẩm. Tỳ bà hành được sáng tác theo thể

thất ngôn trường thiên cổ phong, bởi vậy mà nó mang trong mình “tính

cách cổ kính và hàm súc”, “một âm hưởng nhẹ nhàng, mênh mông trong

cảm quan của người thưởng thức”…Chính vì lẽ đó mà Tỳ bà hành của

Bạch Cư Dị đã có sức sống mạnh mẽ, có ảnh hưởng lớn đến các tác giả,

tác phẩm đương thời như Nguyễn Công Trứ, Chu Mạnh Trinh, Xuân

Diệu…

Nguyễn Quốc Siêu cũng bình thêm rằng: “Cái hay, cái đẹp của bài thơ

còn ở chỗ nhà thơ đã khéo léo miêu tả âm thanh, lấy thính giác để chuyển

hóa thị giác, xúc giác.” (Thơ Đường bình giảng)

Năm 2002, trong quyển Chân dung các nhà văn thế giới, NXB Giáo

Dục- H, 2002 do Lê Đức Trung chủ biên cùng Trần Lê Bảo và Lê Huy Bắc

có trích dẫn đánh giá của Lê Đức Niệm: “Tỳ bà hành đạt tới mức nghệ

thuật tuyệt vời…Nhà thơ đã xoáy sâu vào nội tâm nhân vật, mô tả sự phát

triển của nó theo một quy luật phát triển tự than gắn với tính giai cấp”.

Năm 2004, trong Lý luận phê bình văn học (NXB Đà Nẵng), Phương

Lựu coi diễn biến mạch thơ Tỳ bà hành chính là kết cấu của bản nhạc.

Ông nhận xét: “Đặc sắc nhất trong nghệ thuật Tỳ bà hành là tiếng đàn”.

Cũng tiếp tục say mê với tiếng đàn trầm bổng ấy khi ông coi “nó là linh

hồn của bản trường ca, là kết tinh cao nhất của tài hoa Bạch Cư Dị, (…) nó

trở thành một cái gì đặc biệt phương Đông về mặt nghệ thuật” trong Lý

luận văn học cổ điển phương Đông, tập I, NXB Giáo Dục xuất bản năm

2005. Ý kiến này cũng được nhiều người đồng tình, trong đó có Nguyễn

Hữu Ái. Nói về Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, ông viết: “Từ đầu chí cuối

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -51

bản này đều bắt chước theo giọng đàn Tỳ bà mà ngâm. Có chỗ thưa thớt,

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

có chỗ rườm rà, có lúc chậm và nhẹ, có lúc mau mà liên, chỗ thì rào rào,

chỗ thì nghẹn ngào, vui buồn thổn thức, đều nên nương theo ý mà ngâm sẽ

thấy hết cái hay của Tỳ bà hành.” (Thơ Đường trong nhà trường PT, Hồ Sĩ

Hiệp, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 1995).

Bên cạnh các tạp chí sách báo khoa học, khi công nghệ thông tin phát

triển vượt bậc, một số trang web cũng quan tâm đến việc giới thiệu và diễn

dịch tác phẩm Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị. Có thể lấy dẫn chứng trong trang

web của Viện Hán Nôm (www. Hannom.vn) Hải Đà- Vương Ngọc Long có

sưu tầm bài viết Tiếng đàn trên sông viết về Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị. Bài

viết nghiêng về khía cạnh tác phẩm là một thông điệp sâu xa, thầm kín: “Đó

là một bài thơ mang khía cạnh nhân sinh, xã hội hiện thực đã được truyền

tụng trong dân gian gắn với tên tuổi của nhà thơ…”

Cố gắng sắp xếp theo mạch thời gian lịch sử nhưng hầu như, khóa luận

của chúng tôi vẫn kết hợp theo cách sắp xếp theo các xu hướng tiếp cận, đánh

giá tác phẩm ở phương diện nội dung tư tưởng và nghệ thuật hay hình tượng

người kỹ nữ. Có thể thấy rất rõ, theo chiều dài của văn học sử Việt Nam, nếu

như giai đoạn từ những năm 40 trở đi đến 1975, nghiên cứu, phê bình Tỳ bà

hành còn khá ít, lẻ tẻ thì sau 1975, đặc biệt là những năm sau 1990 và gần

đây là sau năm 2000, tác phẩm lại hướng được sự chú ý của nhiều nhà nghiên

cứu. Vẫn còn người đọc tìm đến với Tỳ bà hành có nghĩa là nó vẫn có một

sức hút mãnh liệt, vẫn có khả năng gợi mở, mời gọi bạn đọc khai phá, mở ra

những chiều kích mới cho nội dung thi phẩm. Đó là một minh chứng sắc nét

cho sức sống tiềm tàng của Tỳ bà hành trong lòng người tiếp nhận.

2.2. NGHIÊN CỨU PHÊ BÌNH PHONG KIỀU DẠ BẠC Ở VN

Khác với Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, dung lượng dài hơn nhưng

những cuộc tranh luận xung quanh nó không ồn ào, mà chủ yếu bổ sung cho

nhau, góp phần làm sáng rõ nội dung- nghệ thuật của tác phẩm thì Phong

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -52

Kiều dạ bạc của Trương Kế lại thu hút khá nhiều tranh cãi. Những tranh luận

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

chủ yếu xung quanh vấn đề câu chữ của bài thơ, vấn đề địa danh hóa một số

từ ngữ…Chỉ có 4 câu cùng 28 chữ ngắn gọn mà cho đến hôm nay, nó vẫn

khiến bao người phải tốn giấy mực mong muốn khám phá thông điệp đúng

nhất của nhà thơ Trương Kế gửi cho đời sau.

2.2.1. Giai đoạn trước 1975:

Bắt đầu là năm 1966, trong số 12 của Tạp chí Vạn Hạnh, Trần Thanh

Đạm với bài Chùa Hàn Sơn với bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế

đã chỉ rõ được mối quan hệ của bài thơ với những tư tưởng Phật học cùng

sự ảnh hưởng của bài thơ đối với nền văn hóa Trung Quốc. Tác giả Trần

Thanh Đạm cho rằng, Trương Kế đã có sự nhầm lẫn giữa cây phong và cây

ô bách. Ông dẫn ra nhiều sách, trong đó có chú giải của học giả Vương

Đoan Lý, đời Thanh “Miền Giang Nam, hai bên bờ sông đều trồng cây ô

bách, tiết thu sương móc lạ lùng, lá cây đỏ rực một màu thu nhuộm huyết

rất nên thơ, đẹp mắt. Vì vậy thi nhân bèn nhận lầm ra cây phong, không

biết rằng cây phong chỉ ưa mọc tại miền núi gò cao ráo, tính chất của nó

rất kị sự ẩm thấp, không thể trồng ở bên sông mà sinh trưởng được. Bài

thơ này hai chữ “giang phong” không khỏi nhận lầm vậy.” Trích dẫn khá

nhiều dẫn chứng được coi là uy tín của nhiều nhà nghiên cứu Trung Quốc

khác, tác giả đi vào khẳng đinh Sầu Miên là tên phiến đá, thủ nghĩa mối

sầu dằng dặc. Trần Thanh Đạm cũng đã châm ngòi cho cuộc tranh luận dài

trên các tạp chí, các tuyển tập sách báo nghiên cứu khi nhận xét rằng:

“Xưa nay, chú thích câu thừa đề bài thơ Phong Kiều dạ bạc, người ta đều

viết: “Giang phong sở ánh chi ngư hỏa sạ đáo thương nội, chính giữ sầu

miên tương đối” (Lửa chài ánh lên cây phong bên bờ sông rồi chiếu vào

khoang thuyền là những yếu tố tạo thành giấc ngủ sầu buồn). Chú thích

như vậy có lẽ không đúng với ngoại cảnh ảnh hưởng lớn lao đến những

xao xuyến, những rung cảm dạt dào của dòng tư tưởng đương trào lên

trong lòng Trương Kế…”.

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -53

2.2.2. Giai đoạn sau 1975 đến nay:

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

Nếu như Trần Thanh Đạm trăn trở vấn đề của hai chữ “sầu miên” thì

Nguyễn Dậu trên tuần báo Văn nghệ số 28/1992 với Đôi điều thâu lượm

quanh Hán tự lại quan tâm đến ‘giang phong” và “ngư hỏa”. Với sự khẳng

định đây là tên hai ngọn núi ở hai bờ sông chứ không dính gì đến cây phong

và lửa nhà chài. Ông dã bắt gặp sự phản đối của nhiều người. Cũng chính từ

đây, những tranh luận xoay quanh Phong kiều dạ bạc nổi lên mạnh mẽ.

Năm 1995, cũng trên tuần báo Văn nghệ, tác giả Hoài Anh có bài Nên

hiểu bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế như thế nào?. Bài viết này

sau đưa vào cuốn Thơ Đường giai thoại và tác giả (NXB văn nghệ, TP HCM,

2002). Bài viết nhằm làm sáng tỏ việc có địa danh “Giang Phong” và “Ngư

hỏa” bằng việc đưa thông tin được trích từ bài báo của người Nhật Bản Hà

Tương Tòan Thứ Lang, đăng trên tạp chí Bella của người Đài Loan (số 137,

tháng 12/1994): Đó là việc ông khách người Nhật này đi thăm chùa Hàn Sơn,

và được nhà sư Tịnh Không cai quản chùa Hàn Sơn cho biết, Ô Đề là tên

thôn, Sầu Miên là tên núi. Từ đây tác giả bác bỏ ý kiến “giang phong, ngư

hỏa” là địa danh, đồng thời cũng cho rằng nếu như có Ô Đề thôn và Sầu Miên

sơn là do bài thơ khi đã nổi tiếng, người ta mới đổi tên như vậy.

Năm 1997, trên Tạp chí Hán Nôm, số 3 (32)/1997, trang 63, xuất hiện

bài của ông Trần Đắc Thọ: Tư liệu mới về một bài thơ Đường nổi tiếng nêu ra

những thắc mắc của các học giả Trung Quốc, Nhật Bản, Phương Tây về nội

dung của Phong Kiều dạ bạc. Những thắc mắc như: Ô Đề là tên thôn, Giang

phong, ngư hỏa là địa danh, cây được nhắc đến trong bài là cây ô bách chứ

không phải cây phong, Sầu Miên là tên ngọn núi, hòn đá, quạ không phải là

giống chim ăn đêm…

Cũng trong năm 1997, ông Nguyễn Hà trong chuyến thăm Tô Châu, đã

tìm hiểu về những tên gọi trên. Bằng cách rất khéo léo, hỏi tìm về những địa

danh ấy, tác giả đã tìm được câu trả lời. Người dân ở đây không biết thôn Ô

Đề, núi Sầu Miên…Tác giả đã viết bài báo Tôi đã đến chùa Hàn San đăng

trên Tuần Du Lịch, số Tết Mậu Dần, 1998 và được Nguyễn Khắc Phi đưa vào

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -54

Thơ văn cổ diển Trung Hoa – mảnh đất quen mà lạ. Cũng trong cuốn sách

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

này, với bài viết Bàn thêm về cách hiểu và dịch bài thơ Phong Kiều dạ bạc,

Nguyễn Khắc Phi cũng phản đối cách hiểu “Ô đề” là tên thôn, “Sầu miên” là

tên núi: “Nếu chúng là địa danh thì ý bài thơ sẽ rất rời rạc, không thể có được

những mối liên hệ nội tại.”

Thực ra vấn đề này địa danh hóa một số từ ngữ trong nội dung bài thơ

này đã được đề cập từ lâu. Trong Đến Hàn San tự tìm hiểu bài thơ Phong

Kiều dạ bạc của Trương Kế (tạp chí Hán Nôm, số 1(50), 2002), tác giả

Nguyễn Quảng Tuân đã dẫn ra trong văn thơ Lý Bạch với bài Ô dạ đề và Kim

Thi trong Tự thuật có câu:

Không phòng dạ dạ văn đề ô

(Đêm đêm nghe thấy quạ kêu ở ngoài phòng vắng)

Và ông bác bỏ “Ô Đề” là tên thôn. Tác giả cũng đưa ra những dẫn

chứng xác đáng để khẳng định việc địa danh hóa xảy ra từ lâu và xảy ra ở

ngay chính nơi mà Phong Kiều dạ bạc được phát khởi.

Năm 2004, tác giả Nguyễn Cảnh Phức có hẳn một bài viết bàn về câu

thứ hai của bài thơ: Một cách tiếp cận bài thơ Phong Kiều dạ bạc in trong

Tạp chí Hán Nôm sô 5 (66)/ 2004. Vấn đề “ai đối cảnh mà sầu? ai đeo sầu mà

ngủ?” được tác gải bài viết đưa ra 3 cách hiểu khác nhau của 3 tác giả khác

nhau. Đó là Nguyễn Thị Bích Hải trong Bình giảng thơ Đường dịch: “Cây

phong bên bờ sông, ngọn lửa đèn chài, (khách) ngủ với nỗi buồn. Nguyễn

Khuê trong cuốn Tự học Hán văn (NXB TP Hồ Chí Minh, 1995) dịch: “Hàng

cây phong bên bờ sông, ánh đèn thuyền chài đối cùng khách đang thao thức

sầu” (trong khoang thuyền đậu tại bến Phong Kiều). Nguyễn Quảng Tuân lại

hiểu: “Khách nằm trong thuyền ngó ra ngoài thấy hàng cây phong ở bên bờ

sông và những ánh đèn thuyền trước bến trong lòng sinh ra buồn bã nên cứ

mơ màng ngủ.” Đã có không ít cách hiểu khác nhau chỉ xoay quanh câu thơ

thứ hai này của tác phẩm. Nguyễn Cảnh Phúc đã dịch: “Rặng cây phong bên

bờ sông và ngọn lửa trên thuyền chài đang đối diện với nhau mà ngủ một

cách buồn sầu”. Ông phân tích lí giải câu thơ bằng cách phân tích cấu trúc

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -55

ngữ pháp câu thơ. Ý kiến này sau đó đã gặp sự phản đối của GS. Kiều Thu

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

Hoạch với bài viết: Lại bàn về bài Phong Kiều dạ bạc- một bài thơ gây xôn

xao dư luận ngàn đời trên Tạp chí Hán Nôm. Qua bài viết này, tác giả cũng

đã cho rằng để tìm hiểu các từ ngữ trong bài thơ là tìm đọc những chú giải

của các nhà biên khảo người Trung Quốc. Bài viết còn cho thấy sức sống lan

tỏa mạnh mẽ của Phong Kiều dạ bạc không chỉ với độc giả Trung Quốc mà

còn với Việt Nam và trên nhiều quốc gia khác.

Trong các diễn đàn văn học trên nhiều trang web có không dưới một

bài viết nói về Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế. Trở lại với Phong Kiều

dạ bạc của Hải Đà- Vương Ngọc Long, tác giả đã trình bày một cách có hệ

thống những cuộc tranh luận xung quanh bài thơ nhỏ bé này. Một thi phẩm

ngắn mà gây nhiều tranh cãi về địa danh của chùa Hàn Sơn, âm thanh trong

bài thơ, cách dịch bài thơ, Sầu Miên là tên ngọn núi? Giang phong là tên của

hai cây cầu?... Các website đã đưa tác phẩm Phong Kiều dạ bạc nói riêng và

các tác phẩm Đường thi nói chung đến với một số đông bạn tiếp nhận. Mọi

độc giả khi truy cập các diễn đàn được công khai bày tỏ quan điểm của bản

thân, chia sẻ chúng và hình thành một tầm hiểu biết mới về một tác phẩm

cách thời đại chúng ta nhiều thế kỷ.

Năm 2006, Nguyễn Thu Hương trong khóa luận tốt nghiệp Tiếp nhận

và diễn dịch Phong Kiều dạ bạc tại Việt Nam đã đưa một hướng tiếp cận mới

đối với tác phẩm. Người viết đã tìm hiểu tầng nghĩa ẩn sâu trong bài thơ qua

cách tìm hiểu đặc trưng về mặt nghệ thuật sử dụng “tượng”, những thủ pháp

nghệ thuật được sử dụng trong tác phẩm và áp dụng lí thuyết của mĩ học tiếp

nhận để giải mã bài thơ. Đây là một hướng tiếp cận mới mẻ và thú vị với bạn

đọc quan tâm tới Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế. Nguyễn Thu Hương đã

khép lại cách diễn dich mới của bản thân bằng lời nhận xét: “Phong Kiều dạ

bạc không phải là bài thơ tức cảnh, mà đây chính là bài thơ bộc lộ cảm nhận

về thế sự hưng vong, thể hiện những nỗi suy tư của Trương Kế. Tiếng

chuông chùa đặc trưng, cái “tượng âm thanh” thức tỉnh con người ấy trải qua

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -56

bao năm tháng vẫn làm rung động long người bởi chính ý nghĩa sâu xa ấy.

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

Sức sống muôn đời của bài thơ cũng theo đó mà trường tồn. Bài thơ vì vậy

xứng đáng trở thành một hiện tượng của mĩ học tiếp nhận.”

Như vậy, tìm hiểu vấn đề nghiên cứu Phong Kiều dạ bạc tại Việt Nam

chúng ta nhận thấy giai đoạn trước năm 1975, đặc biệt là trước những năm

1960 hầu như rất ít công trình nào nghiên cứu về tác phẩm. Chỉ lác đác có bài

nghiên cứu vào năm 1966 mở đầu cho cuộc tranh luận của nhà nghiên cứu

Trần Thanh Đạm. Nhưng từ sau 1975, việc nghiên cứu, phê bình đã khởi sắc

và ồ ạt liên tiếp trong những năm 1997, 2002, 2004, 2005, các tác giả Trần

Đức Thọ, Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Cảnh Phức, Kiều Thu Hoạch… đã

có những bài viết xoay quanh cách hiểu văn bản tác phẩm này. Điều đó cho

thấy rằng mỗi tác giả có cách nhìn nhận, tiếp cận rất khác nhau về văn bản

tác phẩm và ở mỗi một thời điểm khác nhau lại có cách nhìn khác nhau. Đó

là sự phong phú trong quá trình tiếp nhận thơ Đường nói chung. Mặt khác,

cùng một văn bản với 28 chữ nhưng lại có khá nhiều tranh luận cũng như

cách hiểu khác nhau, thậm chí đối lập hoàn toàn, phủ định lẫn nhau, chưa thể

biết ai đúng, ai sai trong cách diễn giải của mình. Điều này có thể được lí giải

bởi mĩ học tiếp nhận, nghiên cứu tác phẩm văn học từ phía bạn đọc.

2.3. LÝ GIẢI HIỆN TƯỢNG GIẢI NGHĨA TRONG NGHIÊN CỨU,

PHÊ BÌNH Ở VIỆT NAM

Nghiên cứu qua hai trường hợp tiêu biểu Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị

và Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế, bạn đọc nhìn ra được khá nhiều điều

thú vị về vấn đề nghiên cứu- phê bình Đường thi nói chung ở Việt Nam.

Trong thế kỷ XX, cùng với việc dịch thuật trên báo chí, tạp chí, các tạp chí

chuyên ngành, việc nghiên cứu Đường thi cũng dần được quan tâm sâu sắc.

Nếu như trước những năm 60, chúng ta hiểu biết về thơ Đường qua những tác

phẩm dịch thuật thì giai đoạn sau này chúng ta đã có cách nhìn toàn diện về

nó qua những bài viết của những nhà nghiên cứu. Trải qua mỗi thời kỳ khác

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -57

nhau với mỗi biến động xã hội, thơ Đường cũng có những quá trình tiếp nhận

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

và phát triển riêng của mình. Những dịch phẩm ngày càng được chọn lọc

hơn, những đánh giá cũng ngày càng sâu sắc hơn. Số lượng các tác giả

nghiên cứu về Đường thi ngày càng tăng, trong đó có những người viết khá

nhiều về thơ Đường như Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử, Lê Đức Niệm,

Nguyễn Thị Bích Hải…

Nhà phê bình thực chất cũng là một loại độc giả nhưng là một thứ “siêu

độc giả”, không cung cấp cho người đọc cái nghĩa đúng sai của tác phẩm mà

cung cấp cho họ một cái nhìn riêng, độc đáo, mới mẻ của riêng mình. Đó là

những đóng góp mà họ đã đạt được thông qua một quá trình “đọc” nghĩa tác

phẩm nghiêm túc và có tính nghệ thuật cao. Nếu hiểu một cách giản đơn rằng

nghiên cứu, phê bình là khen chê khi tiếp nhận một tác phẩm văn học thì ai

cũng có thể và cũng có khả năng phê bình. Song, nghiên cứu, phê bình không

đơn thuần như vậy, đó là công việc “đọc” mang tính chuyên nghiệp, khoa

học, nghệ thuật, học rộng, đọc nhiều. Cái giới hạn lớn nhất mà nhà nghiên

cứu luôn luôn phải đối diện chính là văn bản văn học. Cơ sở của nghiên cứu,

phê bình là sự đối thoại với các văn bản văn học thông qua hoạt động “đọc”

và hiểu chúng. Mỗi cách lí giải tác phẩm văn học đều phản ánh những yếu tố

chủ quan của nhà nghiên cứu, phê bình trong việc đọc và hiểu tác phẩm. Bởi

vậy mà cùng một đối tượng, một văn bản giống nhau nhưng những nghiên

cứu cũng như những phát hiện về Tỳ bà hành hay Phong Kiều dạ bạc của

các nhà nghiên cứu lại hoàn toàn không giống nhau. Đặc biệt là khi lý luận

phê bình phương Tây phát triển và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến giới văn

chương trong nước thì các công trình nghiên cứu, phê bình cũng chuyển

hướng theo con đường mới mẻ hơn.

Mỗi một người đọc khác nhau lại nới rộng biên giới của tác phẩm ra

một chiều kích mới. Tác phẩm văn học là “vật có chủ ý”, đời sống của nó phụ

thuộc vào hoạt động đọc. Tác phẩm văn học mang tính đối thoại, cứ mỗi lần

đọc lại nghe những tiếng vọng mới hơn. Nếu như độc giả thông thường chỉ

đến với tác phẩm trên bề mặt câu chữ không có gì sâu xa, gợi mở. Người dịch

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -58

thuật chú ý tới văn bản ở góc độ nghề nghiệp nghiêm túc và sát sao, chuyển

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

từ hệ thống ngôn ngữ này sang một hệ thống ngôn ngữ khác tương đương với

nó thì người nghiên cứu lại đến với tác phẩm với con mắt hoàn toàn khác

hẳn. Họ giải thích nó, phân tích nó bằng công cụ ngôn ngữ sao cho đem đến

cho độc giả khác cảm nhận được cái hay, cái đẹp của tác phẩm mà chính bản

thân họ cũng tâm đắc và đồng cảm. Mỗi một nhà nghiên cứu lại đi vào một

ngõ ngách riêng cho dẫu đối tượng hoàn toàn giống nhau. Bởi lẽ tác phẩm

văn học luôn có đặc trưng bởi tính đa nghĩa, mơ hồ. Tính mơ hồ đa nghĩa là

sự mê hoặc, hấp dẫn của nghệ thuật. Hoàn toàn kín mít, không nhìn thấy ý

nghĩa là vô vị, nhưng nhìn một cái nhận ra ngay hết mọi ý nghĩa cũng là hết

vị. Tính mơ hồ, đa nghĩa đảm bảo thu hút người đọc đi vào cuộc tìm tòi bất

tận về ý nghĩa và chỉ có tác phẩm văn học đích thực mới giữ được quyến rũ

lâu bền. Nhà nghiên cứu, phê bình không giản đơn là “đọc hộ” người đọc

theo cách thông thường mà phải đưa ra cách cắt nghĩa, lí giải về quan niệm

nghệ thuật trong sáng tác nghệ thuật của nhà văn. Không có một nhà nghiên

cứu, phê bình nào có thể nắm trọn hay độc quyền chân lí trong nghiên cứu

bởi cấu trúc nghệ thuật cho phép có nhiều cách cắt nghĩa và thái độ đối thoại

cũng không thừa nhận “độc quyền” dù là đối với nhà nghiên cứu lỗi lạc nhất.

Bởi vậy mà đến hôm nay, Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế vẫn có những

khám phá mới hấp dẫn, những cách cắt nghĩa “hợp lí” theo chủ quan của

người tiếp nhận.

Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế

cũng tiềm ẩn trong nó chất đa nghĩa mơ hồ như thế. Bởi vậy mà đến hôm nay,

chưa có ai dám khẳng định hiểu rõ tất cả tầng bậc ý nghĩa của tác phẩm. Thơ

Đường mang trong nó sự thâm trầm, kín đáo. Thơ Đường ẩn giấu cái triết lý

lớn lao về cuộc đời, về thái độ của con người đối với tự nhiên, về những cảm

xúc rất sâu sắc dười cái vẻ cực kỳ giản dị. Thơ Đường vốn nghiêng nhiều về

gợi hơn là mô tả. Bởi vậy, xung quanh Tỳ bà hành và Phong Kiều dạ bạc có

nhiều cuộc tranh luận xảy ra về văn bản tác phẩm cũng là một điều dễ hiểu.

Thơ Đường đã trở thành kho tàng chung của thế giới mà những ai biết khai

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -59

thác vẫn còn tìm thấy rất nhiều cái hay, cái đẹp để thưởng thức, để học tập và

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

sáng tác. Đặc biệt đối với văn học Việt Nam thì đó còn là cách để hiểu sâu sắc

hơn thơ văn của ông cha ta. Nếu như người dịch thơ Đường trước hết phải là

một độc giả tri âm để lòng mình rung động theo nỗi lòng của tác giả thì người

nghiên cứu phê bình trước hết cũng phải là một độc giả biết đập nhịp cùng hồn

thơ ấy trước khi tìm hiểu sâu về nó. Thơ Đường khó dịch và vì vậy mà nghiên

cứu phê bình cũng không phải là một công việc đơn giản. Nguyên lí của thơ

Đường là thứ thơ đặc biệt có nhiều dấu lặng. “Khoảng trống chiếm một

khoảng không gian rất lớn trong bức tranh thủy mặc. Nó trống trải đến lạ lùng,

người phương Tây thấy nó mất cân đối so với phần có hình vẽ, nhưng với

người Trung Hoa thì nó rất quan trọng. Nó là nguyên khí bao bọc chung quanh

vạn vật, giúp cho vạn vật có liên lạc với nhau” (Nguyễn Tuyết Hạnh). Màu sắc

trong thơ Đường thường là màu hoài cổ, sầu tư, màu lạnh nhiều hơn màu

nóng, đó là sắc màu của thời quá vãng… Để hiểu hết những thâm trầm kín đáo

đó, nhà nghiên cứu, phê bình vừa phải là nhà khoa học vừa là nhà nghệ sĩ với

tư duy logic kết hợp với tư duy hình tượng.

Nhà nghiên cứu, phê bình trước hết cũng là một bạn đọc. Họ như một

người dẫn truyện trong hình thức kịch dân gian và cổ đại, bắc một cái cầu từ

tác phẩm tới công chúng. Đôi khi, họ lại giống như người lĩnh xướng trong

dàn đồng ca của bạn đọc, hát lên những cảm giác của một bộ phận công

chúng trước tác phẩm. Nghiên cứu, phê bình không nhằm thuyết phục, dạy

dỗ người đọc mà trước hết khơi gợi cảm xúc của người đọc với đối tượng là

tác phẩm văn học. Cũng như nhà soạn sách là “đọc hộ” thì nghiên cứu cũng

là “đọc giùm” cho kẻ khác. Nhưng giữa nhà nghiên cứu, phê bình (người gửi

thông điệp) và độc giả (người nhận thông điệp) vẫn là mối quan hệ bình đẳng

với nhau. Văn bản hậu hiện đại được xây dựng sao cho bằng cách này hay

cách khác đều tạo khả năng hiểu được hàm nghĩa của nó, kể cả theo cách đọc

“ngây thơ” của độc giả thường hay của những người “lí giải” có chuyên môn,

học thức. Nhưng ở mỗi một đối tượng tiếp nhận khác nhau lại có những lí

giải khác nhau. Mỗi một người đọc, trước thời điểm đọc tác phẩm, họ đã có

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -60

sẵn một khả năng tiếp nhận. Đó chính là một hệ quy chiếu thuộc về kinh

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

nghiệm văn học của người tiếp nhận, là tầm hiểu biết về văn học, là nhu cầu,

trình độ thưởng thức kết tinh từ kinh nghiệm sống, hứng thú, quan điểm và lí

tưởng thẩm mỹ của người đọc. Sự tồn tại đa dạng của công chúng trong cùng

một thời đại với nhiều tầm đón đợi khác nhau là nguyên nhân làm nên tính

phong phú của sự tiếp nhận đối với một tác phẩm trong tương quan đồng đại.

Có thể nói, nghiên cứu văn học cũng là một dạng hoạt động nhận

thức, khoa học là một dạng hoạt động xã hội nhưng nhận thức lại là một

hoạt động mang tính cá thể cao. Cũng như dịch thuật và các cách tiếp nhận

khác, nghiên cứu, phê bình là hoạt động khoa học mang tính chủ quan. Nếu

triết học khám phá chân lý bằng cách phát huy tối đa khả năng suy đoán của

trí tuệ theo chiều sâu để đi đến tận cùng sự khái quát thì tôn giáo lại có khả

năng gõ vào tâm linh. Văn học khác triết học và tôn giáo ở chỗ nó khám phá

chân lý đời người bằng cách dùng hình thức cảm tính, cụ thể, giàu hình ảnh

để tác động đến nhận thức và sự lựa chọn của mỗi người. Phê bình văn học

không phải là hành vi “nói xuôi” tác phẩm bởi “nói xuôi” rất dễ biến văn

học thành khoa học hay tôn giáo. PGS. TS Mỹ học Đỗ Văn Khang đã có

cách ví von rất hay rằng: “Nếu tác phẩm văn chương là một tiền đề, lẽ tất

nhiên phê bình phải là một phản đề. Chỉ có cách đi từ tiền đề qua phản đề

mới có một hợp đề đáng tin cậy cho nền văn học.” (Phê bình văn học hiện

đại- Tạp chí văn học số 3/1996). Nếu như một bản dịch hay phải đảm bảo

đạt được “tín”, “đạt”, “nhã” thì nhà nghiên cứu, phê bình thơ Đường cũng là

nhằm tìm ra cái thần, cái khí, cái cốt của tác phẩm. Dịch thuật hay nghiên

cứu tựu chung lại đều là những người sáng tạo. Mỗi một cách tiếp nhận lại

đem đến một cách hiểu mới mẻ, mở rộng tầng nghĩa của câu chữ trong văn

bản. Rõ ràng, để đánh giá một hiện tượng văn học không thể bằng lòng với

một vài nhận định, đánh giá dù cho của ai và chỉ một lần là xong. Rất cần có

sự đối chiếu, nhìn nhận từ nhiều cách nghiên cứu, phê bình khác nhau để có

cái nhìn sâu sắc hơn về tác phẩm.

Khi đi vào tìm hiểu quá trình nghiên cứu, phê bình thơ Đường ở Việt

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -61

Nam, đặc biệt qua hai trường hợp tiêu biểu: Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế, có một vấn đề nảy sinh. Đó là tại sao văn

bản tác phẩm đã được giới thiệu đến độc giả từ khá sớm, ngay từ những năm

đầu của thế kỷ XX, nhưng phải đến đầu những năm 60 của thế kỷ mới phát

triển rầm rộ những công trình nghiên cứu về tác phẩm? Điều này có thể được

lí giải bằng mĩ học tiếp nhận.

Chúng ta luôn biết rằng những hình thức độc đáo không chiếm được

công chúng rộng rãi ngay từ đầu, đôi khi cả công chúng dự kiến trong tiềm

thức của người sáng tác. Sự tiếp xúc với hình thức nghệ thuật mới ví dụ

những tác phẩm mới, những vở kịch mới… làm nảy sinh những yêu cầu mới

và làm giàu cho cơ sở cảm quan của người đọc hay khán giả. Hình thức mới

sẽ tạo ra lớp công chúng mới có khả năng hiểu được thông điệp của nó, có

khả năng chế biến về mặt tinh thần và đưa ra những ý nghĩa khác so với

những ý nghĩa đã có của tác phẩm.

Nhà xã hội học R. Escaspit đã từng đúc rút nên một kinh nghiệm rất

đúng rằng: giữa thời điểm xuất hiện một tác phẩm, một nhà sáng tạo, với

công chúng của anh ta có một khoảng cách là 25- 30 năm. Việc giao lưu

thông điệp mới không thể thực hiện được ngay một lúc, cần phải có một

chủ thể tiếp nhận được hình thành trong lịch sử, có khả năng can dự vào

hiện thực văn hóa- xã hội của tác phẩm. Quả thực, Tỳ bà hành của Bạch

Cư Dị và Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế cũng như hầu hết những tác

phẩm Đường thi khi mới được giới thiệu đến bạn đọc hẳn còn xa lạ, còn

nhiều khác biệt cả về văn hóa, thời đại. Người ta hay gọi đó là “độ chênh

văn hóa”. Bởi vậy mà giai đoạn đầu tiên, chúng ta mới chỉ tiếp nhận những

áng văn thơ đó bằng con đường dịch thuật. Để rồi sau đó nhường chỗ cho

công cuộc khai phá, tìm hiểu đối tượng của những nhà nghiên cứu, phê

bình từ sau những năm 60. Khi đó, sau một khoảng thời gian nhất định, đã

hình thành một lớp công chúng độc giả có khả năng hiểu sâu hơn và thấu

đáo hơn Đường thi từ khi những thi phẩm ấy mới bỡ ngỡ trên thi đàn văn

học Việt Nam. Trước cách mạng, có không ít những học giả, nghiên cứu

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -62

văn học song việc khảo cứu thơ Đường tỏ ra rất nghèo nàn, số lượng bài

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

viết ít. Có thể nói giai đoạn này việc nghiên cứu Đường thi không đáng kể,

phần lớn là những bài viết có tính chất giới thiệu, một số còn nhằm phục

vụ cho tay sai phản quốc, hướng nhân dân đi theo phong trào sùng cổ,

quên đi thời cuộc. Nhưng sau cách mạng, công việc nghiên cứu đã phát

triển hơn và đạt nhiều thành tựu hơn trước.

Tính đa dạng về trình độ của công chúng là điều hiển nhiên cho dẫu ở

thời kỳ nào đi chăng nữa. Công chúng luôn luôn biến động và không ngừng

phát triển cũng như độc giả Việt Nam vẫn ngày càng lớn hơn cả về số lượng

và chất lượng. Những dịch giả ngày càng dịch tinh tế hơn và những nhà

nghiên cứu, phê bình ngày càng chứng tỏ được rõ hơn khả năng của chính

mình khi đi vào khám phá tác phẩm.

Tầm đón nhận của độc giả luôn luôn ngỡ ngàng trước những tác phẩm

mới lạ và sự xung đột giữa chúng với độc giả ngày càng trở nên căng thẳng

hơn. Xung đột ấy chỉ có thể được giải tỏa khi có sự xuất hiện và đóng góp

của các nhà phê bình, nghiên cứu. Trước khi nhà nghiên cứu Albert

Thibaudet nghiên cứu về nhà thơ Mallrmé năm 1912 thì nhà thơ ấy vẫn chưa

được công chúng chấp nhận thực sự, hay từ khi Turdor Vianu nghiên cứu về

nhà thơ Rumani bí hiểm Ion Barbu thì nhà thơ bí hiểm ấy mới hết bóng tối

trong lòng công chúng tiếp nhận… Tầm đón nhận của độc giả luôn luôn mâu

thuẫn với những giá trị mới. Nó bị quy định bởi tầm đón đợi truyền thống,

bao gồm những tư tưởng kinh điển, những chuẩn mực thẩm mỹ truyền

thống… đã ăn sâu và tạo nên thế giới quan, nhân sinh quan của người đọc.

Có lẽ vì thế mà phải có một quá trình ảnh hưởng lẫn nhau giữa độc giả và tác

phẩm, nó làm thay đổi cảm quan của độc giả dần dần và cho phép họ chấp

nhận các nhà thơ mới cũng như những thi phẩm mới tồn tại trong thế giới

tiếp nhận thẩm mĩ của họ bên cạnh những nhà thơ cổ điển xưa.

Mỗi người lại có một thế giới tiếp nhận thẩm mỹ hoàn toàn không

giống nhau, giống như Heinrich F. Plett đã từng nói: “Có bao nhiêu người

tiếp nhận thì có bấy nhiêu văn bản.” Đặc biệt là với văn bản thơ ca. Thơ ca tự

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -63

bản thân nó là đa trị, nghĩa là tự nó bao gồm tất cả mọi khả năng lí giải, bằng

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

cách đó nó chứng minh năng lực làn tỏa trong tương lai của mình với hình

ảnh nghệ thuật được tạo ra tại một thời điểm lịch sử đã qua. Lấy trường hợp

Phong Kiều dạ bạc của Trương kế thì sự tranh luận, xôn xao về ngôn từ, địa

danh của nó vẫn còn là một đề tài thu hút nhiều độc giả. Tác phẩm văn học

với cái văn bản có vẻ ổn định về không gian, được viết trong một thời gian

nhất định và bất biến tại sao lại thay đổi từ thời đại này sang thời đại khác, từ

người đọc này đến người đọc khác? Có thể lí giải nó bằng hoạt động đọc

cũng chính là tình huống trong đó ý nghĩa văn bản được hình thành. Văn bản

văn học với ngôn ngữ tự do luôn tạo ra sự “hiểu nhầm”, “sự đọc sai”. Có thể

những địa danh được người đời nay nêu lên không hoàn toàn trùng khớp với

những gì mà Trương Kế muốn nói đến nhưng đó không phải là lỗi hay hạn

chế của người tiếp nhận, người đọc. Đó là đặc trưng của văn bản, của ngôn

ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ thơ ca vốn hàm súc, cô đọng. Các nhà nghiên cứu,

phê bình thực chất cũng là hoạt động “đọc” nhưng ở cấp độ cao hơn, “đọc

kĩ”. Thực ra không có sự đọc một lần mà mọi sự đọc, trên thực tế đều là sự

“đọc lại”. “Sự đọc sai” với bất kì tác phẩm văn học nào, không chỉ Tỳ bà

hành hay Phong Kiều dạ bạc là hậu quả của việc sử dụng hình thức văn bản

mà người đọc, một cách tất yếu phải đối chứng nó trong ngôn ngữ của mình,

qua văn bản dịch. Bởi vậy mà “sự đọc kĩ sự đọc” trước đó là vấn đề phức tạp

và quan trọng đối với các nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Các nghĩa của

tác phẩm được soi sáng qua những tầm nhìn mới, hay nhà nghiên cứu đã kết

nối tầm nhìn của quá khứ với tầm nhìn hiện tại để có một “sự hòa hợp tầm

nhìn”. Ngay cả những độc giả Trung Quốc hiện nay khi đến với Tỳ bà hành

của Bạch Cư Dị hay Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế đều giống độc giả

Việt Nam bởi họ không sống cùng thời đại của thi nhân. Việc người kĩ nữ có

thật hay chỉ là hư cấu? Sầu miên, Ô Đề… là những địa danh cổ xưa? Không

ai có một khẳng định chắc chắn nào. Bởi ngay cả với những nhà nghiên cứu,

phê bình thì việc “đọc” của họ cũng gặp nhiều hạn chế và khó khăn. Với tác

phẩm văn học, sản phẩm của ý thức xa xưa, với cái văn bản được gìn giữ từ

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -64

quá khứ có thể tiếp cận nó như một “thực tại hiện hữu”. Nhưng với môi

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

trường của tác phẩm, cái quá khứ mà bằng phương pháp “phục chế” của

nghiên cứu lịch sử có thể làm cho nó hiện diện. Làm thế nào để có sự thống

nhất giữa một bên là văn bản hiện hữu đích thực và một bên là sự phục chế

mang tính chất giao động của lịch sử? Đó là công việc “đọc” gian nan của

người nghiên cứu, phê bình. Bản thân họ trước hết cũng là người đọc với tất

cả những hạn chế thường thấy trong cách lựa chọn và đánh giá tác phẩm.

Việc lựa chọn tác giả, tác phẩm cũng đã phản ánh trình độ và cách đánh giá

về văn học của nhà nghiên cứu.

Phải có một thời gian để hiểu được và đón nhận một tác phẩm mới vào

lòng công chúng, và cũng cần bấy nhiêu thời gian đề những tác phẩm ấy có

chỗ đứng trong lòng người, khẳng định được vị trí của nó và được chọn lựa

vào chương trình SGK PT cho học sinh. Nhìn một cách khái quát, có thể

nhầm tưởng người nghiên cứu phê bình và soạn sách có chung một nhiệm vụ,

mục đích. Song, dù có những giao thoa nhất định trong công việc “đọc”

nghĩa tác phẩm văn chương thì hai cách “đọc” này vẫn có những ranh giới

riêng của mình. Nếu độc giả của những người nghiên cứu, phê bình có thể là

tự do ngoài xã hội thì với SGK PT lại là những học sinh- với cách tiếp nhận

mang đặc thù riêng và quy tắc riêng.

Mối quan hệ giữa công chúng và nghệ thuật vẫn tiếp tục là đối tượng

nghiên cứu của nhiều công trình nghiên cứu mĩ học, triết học và xã hội học.

Bất cứ một thế hệ sáng tạo nào cũng đưa ra được một thông điệp mới mẻ,

một thông điệp đòi hỏi phải có một công chúng tiếp nhận nhất định có khả

năng giải mã được ý nghĩa của tác phẩm. Một tác phẩm chân chính có giá trị

thẩm mỹ và ý nghĩa đích thực luôn luôn có ý nghĩa thời sự đối với bất cứ thời

đại nào, bởi lẽ nó mang tính mở đối với tinh thần của thời đại như Umberto

Eco đã từng muốn nói đến. Một kiệt tác không bao giờ già đi bởi nó luôn có ý

nghĩa đối với loài người ở mọi thời kỳ lịch sử. Đó chính là dấu hiệu rõ ràng

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -65

của tính trường tồn của tác phẩm nghệ thuật.

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

KẾT LUẬN

Trong bài thơ rất nổi tiếng: Độc Tiểu Thanh kí, Nguyễn Du đã từng trăn

trở rằng:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Niên hạ hà nhân khấp Tố Như

(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa

Người đời ai khóc Tố Như chăng?)

Câu thơ đã phần nào cho ta thấy vai trò vô cùng to lớn của độc giả đối

với cuộc đời của những tác phẩm. Khi tác phẩm ấy ra đời, tức là nó rời xa

tầm tay của người sáng tác và bắt đầu bước vào dòng chảy nghiệt ngã đào

thải của thời gian. Rất nhiều thi phẩm đã bị lớp bụi thời gian phủ mờ nhưng

chính sự nghiệt ngã ấy lại mài sáng những áng văn chương bất hủ của nhân

loại. Cuộc đời của một tác phẩm dài hay ngắn phụ thuộc rất lớn ở chính lực

lượng hùng hậu độc giả tiếp nối qua nhiều thế hệ, chắp cánh nâng đỡ chúng.

Mĩ học tiếp nhận ra đời đầu thế kỷ XX đã có ý nghĩa rất to lớn khi khám

phá và đề cao người đọc. Nếu lịch sử sáng tác tác phẩm chỉ tính bằng năm,

chục năm thì lịch sử tiếp nhận phải tính đến thế kỷ hoặc lâu hơn nữa, thậm

chí suốt thời gian tồn tại của loài người. Ý nghĩa của lí luận tiếp nhận hiện

đại là giải thích rõ được hoạt động tiếp nhận và từ đó cho thấy sự tồn tại đích

thực của tác phẩm cũng như số phận lịch sử của nó. Những gì nhà văn viết ra

mà bấy lâu nay chúng ta vẫn tưởng đã là tác phẩm văn học thì theo lí luận

văn học hậu hiện đại chỉ đang là, hay nói cách khác chỉ là văn bản. Cái văn

bản đó cần phải được người đọc bằng cảm xúc, kinh nghiệm sống và kinh

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -66

nghiệm thẩm mỹ, cộng thêm trí tưởng tượng cụ thể hóa nó thì mới trở thành

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

tác phẩm. Nói đến tác phẩm văn học không thể thiếu được vai trò của người

đọc như là “kẻ đồng sáng tạo”, người thực hiện công đoạn hai trong việc

hoàn tất một ngôi nhà. Nhà văn trong tác phẩm của mình phải dành nhiều

khoảng trống, khoảng trắng và khoảng lặng, phải có sự chưa nói hết, sự đa

nghĩa, phải có những khẳng định và hoài nghi có tính chất thách đố… Như

thế, theo lí thuyết tiếp nhận hiện đại thì người đọc tham gia vào đối thoại với

văn bản để hình thành tác phẩm, biến nghĩa của văn bản thành ý nghĩa của

tác phẩm, hay nghĩa đang tồn tại thành nghĩa đang tạo lập. Cho dù người

đọc với tư cách là một cá nhân có cảm nhận riêng nhưng không vì thế mà văn

bản bị biến thành vô vàn những tác phẩm khác nhau. Mỗi người đều là sản

phẩm của một thời đại văn hóa, xa hơn là một truyền thống văn hóa. Chính

thứ định kiến văn hóa này sẽ khiến cho bạn đọc dù “tung tẩy” đến đâu trong

cách đọc thì cũng chỉ “tung tẩy” trong giới hạn của một vài cách đã được quy

định trước, gọi là tầm đón nhận. Tác phẩm văn học, như vậy, ngoài phần chủ

ý còn có phần không chủ ý. Thật nghịch lí là giá trị của nó hình như lại nằm

ở chính cái phần không chủ ý này. Tác phẩm văn học là một hệ mở, người

đọc khi tiếp cận nó đã đánh thức từ trong tác phẩm những “con chữ bẹp dí”

biết “lồm cồm bò dậy”, chính thế giới tâm hồn và sự tưởng tượng của độc giả

đã thổi linh hồn vào ngôn từ trong tác phẩm. Cứ thế hệ mai sau lại đắp thêm

cho tác phẩm một tấm áo mới, một lớp nghĩa mới cho dù chính nhà văn cũng

không nghĩ tới khi cầm bút viết. Đây là một cuộc đối thoại giữa nhà văn và

độc giả mà phương tiện trung gian giữa mối liên hệ tương hỗ ấy chính là tác

phẩm, văn bản văn học. Cả người sáng tác và độc giả đều là những biến số,

tạo nên sự phong phú của các dạng thức giao lưu văn học.

Và bởi, tác phẩm văn học được sáng tác ra là nhằm để thưởng thức và

tiếp nhận nên vấn đề bạn đọc vẫn là một mảng lớn bỏ ngỏ cho những ai quan

tâm. Việc nghiên cứu từ nhiều góc độ cho phép ta tiếp cận được chân lí nghệ

thuật của tác phẩm. Từ khi ra đời, mĩ học tiếp nhận đã có ảnh hưởng mạnh

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -67

mẽ trên thế giới.

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

Người Trung Hoa vẫn luôn tự hào rằng mình là đất nước của thơ ca-

“thi ca chi bang”, thơ là “tôn giáo” của người Trung Hoa (chữ dùng của Lâm

Ngữ Đường- Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa). Quả thực, thơ Đường

không chỉ là thành quả hiếm có của Trung Quốc mà đã trở thành di sản quý

báu của cả nhân loại cần gìn giữ. Di sản đồ sộ và tinh hoa của thơ Đường đã

trở thành niềm tự hào của nhân dân Trung Hoa và là một trong những điểm

sáng rực rỡ của văn hóa nhân loại. Thơ Đường thuộc loại “âm tính”, tình cảm

là cội nguồn, tất cả đều chỉ hiện lên như những nét phác họa mờ ảo, thiên

nhiên không hoàn toàn câm lặng những cũng thường là tĩnh mịch, xa xăm…

Thế giới thơ Đường rất thoáng nhẹ và có cái gì sâu lắng. Đặc biệt là với thơ

Đường vốn đề cao chữ Tâm, “dĩ Tâm vi mỹ” (coi cái Tâm là cái đẹp). Bước

vào thế giới thơ Đường là bước vào thế giới của sự hòa điệu. Sự hòa điệu ấy

lấy cái Tâm làm trung tâm. Bởi có Tâm ấy nên thơ Đường có thể “truyền tâm

ấn”, chẳng những cho con người đương thời mà cho cả người mai sau. Hẳn là

bạn đọc phương Tây sẽ ngạc nhiên nếu so sánh cái hối hả quyết liệt của một

đời sống phương Tây với cái bình tĩnh minh triết của một đời sống phương

Đông. Bởi vậy mà, “huyền thoại phương Đông đầy bí ẩn trên các trục không

gian và thời gian của lịch sử mọi thời đại và mở ra những miền đất hứa không

ngừng quyến rũ mọi trí tuệ, mọi suy nghĩ của mọi con người” (Đoàn Thị

Đặng Hương).

Nhìn lại văn học Việt Nam từ trước đến nay, từ phương diện đề tài,

chủ đề, từ phần thơ chữ Hán đến phần thơ chữ Nôm của dân tộc đều ghi

dấu đậm nét của Đường thi. Các nhà nho Việt Nam đã coi các danh gia

Trung Quốc là cổ nhân của mình, lấy thơ Đường làm “khuôn vàng thước

ngọc” để tiếp thu và sáng tạo. Chế độ khoa cử bằng chữ Hán ở Việt Nam

đã đào tạo nên một lớp người vô cùng am hiểu chữ Hán, đó là nhân tố

quan trọng trong việc phát triển dịch thuật thơ Đường ở Việt Nam. Thế kỷ

XV khi chữ Nôm thịnh hành, chúng ta không thể bỏ qua được ảnh hưởng

của Thơ Đường trong các sáng tác chữ Nôm. Văn học Việt Nam đã từng

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -68

bước chuyển dần từ nền văn học chữ Hán sang nền văn học chữ Nôm. Đây

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

là lúc đã diễn ra truyền thống diễn ca thơ Đường. Các tuyển tập thơ Đường

cũng được tuyển chọn và dịch đi dịch lại nhiều lần. Trong giai đoạn này,

hầu như độc giả Việt Nam tiếp nhận và hiểu thơ Đường qua các nguyên tác

và các bản dịch. Tiếp nhận thơ Đường qua các bản dịch là đặc điểm sự

sáng tạo của thơ ca Việt Nam bởi chính qua các bản dịch, dịch giả đã

truyền vào đó hồn cốt Việt, dễ đi vào lòng người.

Giống như Nguyên Ngọc, trong bài viết Vai trò văn học dịch trong sự

phát triển văn học dân tộc (Tạp chí văn học số 2/1991, tr. 1) đã khẳng

định: “Một điều có thể khẳng định rõ ràng rằng không một nền văn học

dân tộc nào có thể phát triển, thậm chí có thể hình thành mà không có sự

giao lưu, tiếp thu ảnh hưởng tác động qua lại dưới dạng này hay dạng

khác, ở quy mô này hay quy mô khác với các nền văn học khác”. Sự tác

động của văn học nước ngoài và nói riêng của văn học dịch là một yếu tố

có tính quy luật trong sự phát triển văn học dân tộc. Tỳ bà hành của Bạch

Cư Dị và Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế là hai tác phẩm tiêu biểu của

Đường thi mà sức ảnh hưởng của nó tới độc giả Việt Nam không hề nhỏ

chút nào. Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị được xếp vào bậc những tác phẩm

xuất sắc nhất của thơ Đường, nó thể hiện đặc điểm nghệ thuật của thơ ca

cổ điển Trung Quốc. Bài trường thiên này vốn quen thuộc với độc giả Việt

Nam qua bản dịch của Phan Huy Thực. Tác phẩm đã thu hút được nhiều

tâm lực của giới nghiên cứu, phê bình, dịch thuật, soạn sách, trước kia và

bây giờ cũng vậy. Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế cũng là một trong

những kiệt tác của thơ ca cổ điển Trung Quốc. Với những mã khóa bí ẩn

chứa đựng trong ngôn ngữ uyên thâm, hàm súc, tác phẩm đã gây “xôn xao”

không chỉ trong nước ta mà cả với nước ngoài cho đến tận hôm nay. Bởi

vậy, với những thành công về nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuật độc

đáo, hai tác phẩm đã thu hút được sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu và

phê bình. Cùng với đó, hai tác phẩm cũng được tuyển chọn đưa vào

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -69

chương trình SGK PT, giới thiệu đến học sinh.

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

Đọc Đường thi ở Việt Nam có rất nhiều hình thức phong phú như dịch,

nghiên cứu, phê bình đại chúng (sách, báo, tạp chí, mạng), giảng văn (SGK),

dụng điển (tác phẩm văn học khác)…Nhưng trong khóa luận này, chúng tôi

chỉ đi sâu tìm hiểu hai cách “đọc” thơ Đường tiêu biểu, Đó là việc “giảng

nghĩa” trong SGK PT và nghiên cứu, phê bình. Người đọc ở hai trường hợp

này phần đa là thuộc loại người đọc “đặc biệt”, những siêu độc giả (từ lập

trường thẩm mỹ chuyên biệt), song việc đọc nghĩa tác phẩm của họ lại hướng

tới phục vụ những đối tượng người đọc khác nhau. Giảng nghĩa hay phê bình,

nghiên cứu đều thuộc công việc sáng tạo.

Người soạn sách giáo khoa có vai trò quan trọng trong việc định hướng

cho việc “đọc” của học sinh. Họ cũng “đọc” tác phẩm, sống với tác phẩm bằng

tất cả cảm xúc, hiểu biết của bản thân nhưng bị quy định bởi nhiều yếu tố khác

nhau. Đó là những chính sách, chủ trương, quy định của Đảng và Nhà nước ta

về giáo dục và đào tạo; những biến chuyển, phát triển của lí luận phê bình

phương Tây ảnh hưởng vào Việt Nam hay do đặc thù riêng của công việc dạy

và học trong nhà trường…Tất cả đã chi phối không nhỏ đến cách “đọc”, cách

tiếp nhận của các soạn giả. Việc “đọc” của họ đã được phản ánh rất rõ qua

cách chọn lựa tác phẩm, quy cách trình bày hay những chú giải, những câu hỏi

gợi mở trong phần Hướng dẫn học bài trong SGK PT…

Cũng tiếp nhận tác phẩm, cũng “đọc” văn bản văn học nhưng cách tiếp

nhận của nhà nghiên cứu, phê bình lại có nét đặc thù riêng. Bản thân nhà

nghiên cứu, phê bình cũng là một nhà văn nhưng họ viết văn về tác phẩm văn

học của người khác. Không cung cấp nghĩa đúng sai của tác phẩm đến bạn

đọc, nhà nghiên cứu, phê bình đem đến cho ta những quan điểm thẩm mỹ của

riêng họ về đối tượng. Cả nhà biên soạn và nhà nghiên cứu, phê bình đều trải

qua một quá trình tiếp nhận tác phẩm, đọc nó, sống với nó và có được sản

phẩm của mình từ hoạt động “đọc” nghĩa đó. Nhà nghiên cứu, phê bình đại

diện cho các nhu cầu xã hội, thầm mỹ của người đọc để tiếp nhận tác phẩm.

Đó là ý thức về văn học trên cấp độ xã hội, xuất phát từ những lập trường xã

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -70

hội nhất định, từ nhu cầu phát triển những trào lưu văn học nhất định. Hoạt

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

động tiếp nhận của họ có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển năng lực tiếp

nhận của người đọc nói chung. Tính chuyên nghiệp trong hoạt động “đọc” của

nhà nghiên cứu phê bình không chỉ được nhận diện từ hoạt động của chủ thể

sáng tạo mà còn ở hoạt động định hướng văn học cho hoạt động tiếp nhận của

công chúng.

Qua hai cách “đọc” riêng biệt này, chúng ta thấy rất rõ hai tác phẩm Tỳ

bà hành và Phong Kiều dạ bạc cũng có sự tiếp nhận khác nhau theo thời gian.

Sự thay đổi phụ thuộc rất nhiều vào đối tượng tiếp nhận và sự thay đổi theo

thời gian, lịch sử văn học. Cùng một đối tượng nhưng với nhà biên soạn, nó lại

được nhìn theo một cách riêng và với nhà nghiên cứu, phê bình, tác phẩm lại

chứa đựng một hình hài khác hẳn. Ở cấp độ đọc nghĩa thấp hơn, khi tiếp nhận

tác phẩm có sự định hướng của nhà biên soạn sách hay nghiên cứu, phê bình,

tác phẩm lại được cảm nhận với những tầng bậc nghĩa khác… Bởi vậy, nhìn

nhận tác phẩm trong thế đối chiếu với nhiều cách đọc, mỗi một cách “đọc” lại

cho ta một mặt khác của thi phẩm. Càng nhiều cách đọc càng mở rộng hơn

biên độ nghĩa của tác phẩm. Văn học, dĩ nhiên không tự nó sống được. Chính

nhu cầu của bạn đọc, khả năng phát hiện, sáng tạo của nó đã làm cho tác phẩm

nghệ thuật có tầm cỡ trở nên bất tử.

Đặc biệt chú ý đến người đọc, đó chính là mối quan tâm hàng đầu của

mĩ học tiếp nhận, đúng hơn là việc đọc văn bản tác phẩm. Nó nhấn mạnh đến

quá trình khai triển những thông tin thẩm mỹ (nghĩa) được mã hóa trong văn

bản tác phẩm. “Lịch sử tiếp nhận như là quá trình khai triển dần dần tiềm

năng nghĩa ở tác phẩm vốn được hiện thời hóa trong các giai đoạn lịch sử của

sự tiếp nhận” (H. R. Jauss). Không chỉ thơ ca mà với những tác phẩm văn

chương nói chung, tác giả không nên để người đọc bắt được mạch ngay từ

đầu, cái lạ xưa nay vẫn là một yêu cầu của nghệ thuật.

Đề tài của chúng tôi chỉ mới bước đầu khảo sát và lí giải việc tiếp nhận

vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam qua hai trường hợp tiêu biểu: Tỳ bà hành

của Bạch Cư Dị và Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế, với hai cách “đọc”

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -71

chính là giảng nghĩa trong SGK PT và giải nghĩa trong nghiên cứu, phê bình.

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

Hy vọng, đề tài này sẽ đặt nền tảng tri thức và cơ sở lí luận cho việc mở rộng,

đi sâu hơn nữa vấn đề tiếp nhận văn học, đọc tác phẩm ở phía bạn đọc trong

thời gian tiếp theo.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Khắc Phi tổng chủ biên, (2001), Ngữ văn 7, (SGK thí điểm), tập I, ,

NXB Giáo dục, HN.

2. Nguyễn Khắc Phi tổng chủ biên, (2006), Ngữ văn 7, tập I, NXB Giáo dục.

3. Nguyễn Đăng Điệp, Đỗ Việt Hùng, Vũ Băng Tú biên soạn, (2004), Ngữ văn

7 nâng cao, NXB GD, HN.

4. Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên, (1990), Văn 10 (phần văn học nước ngoài và

lí luận văn học), NXB GD, HN.

5. Nguyễn Hoàng Tuyên, Lưu Đức Trung, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử

biên soạn, (1994), Văn học 10 (tập II), ban KHXH, (Tài liệu giáo khoa thực

nghiệm), NXB GD, HN.

6. Nguyễn Hải Hà, Lương Duy Trung chủ biên, (2000), Văn học 10 (phần văn

học nước ngoài và lí luận văn học), NXB GD, HN.

7. Phan Trọng Luận tổng chủ biên, (2003), Ngữ văn 10 (tập 2), (SGK thí điểm,

ban KHXH & NV), NXB GD, HN.

8. Trần Đình Sử chủ biên, (2006), Ngữ văn 10 nâng cao, NXB GD, HN.

Sách giáo khoa

9. Ban khoa giáo TW, (2002) Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới, chủ

trương, thực hiện, đánh giá, NXB Chính trị Quốc gia.

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -72

Sách tham khảo, nghiên cứu

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

10. Việt Nam điều tra nhân khẩu học giữa kì 1994, (5/ 1996), Giáo dục tại Việt

Nam, xu hướng phát triển và những sự khác biệt, NXB Thống kê, HN.

11. Sở nghiên cứu văn học thuộc viện văn học, (1964), Lịch sử văn học Trung

Quốc, quyển 2, NXB Văn học, HN.

12. Trương Đăng Dung, (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, NXB

KHXH, HN.

13. Nguyễn Văn Dân, (1991), Văn học nghệ thuật và sự tiếp nhận, Viện thông

tin KHXH, HN.

14. Nguyễn Danh Đạt, (1999), Bình và chú giải 100 bài thơ Đường hay nhất,

NXB Văn nghệ TP HCM.

15. Nguyễn Hà, (1994), Thơ nghìn nhà, NXB Văn hóa, HN.

16. Hồ Sĩ Hiệp, (1995), Thơ Đường ở trường PT, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí

Minh,.

17. Trần Ngọc Hưởng, (2004), Thơ Đường trong nhà trường, NXB Tổng hợp

Đồng Nai.

18. Nguyễn Lai, (1998) Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học, NXB GD.

19. GS. TSKH. Phương Lựu chủ biên, (2008), Lí luận văn học ( tập I, Văn học,

nhà văn, bạn đọc), NXB ĐH SP, HN.

20. GS. Lê Đức Niệm, (1995) Diện mạo thơ Đường, NXB Văn hóa thông tin,

trường ĐH Tổng hợp HN.

21. Ngô Văn Phú, (2000), Đường thi tam bách thủ, NXB Hội nhà văn.

22. Ngô Văn Phú dịch, (2008), 300 bài thơ Đường, Hành Đường thoái sĩ tuyển

chọn, Trần Uyển Tuấn bổ chú, NXB Văn học.

23. Vũ Tiến Quỳnh, (1997), Phê bình- bình luận văn học: Lý Bạch, Đỗ Phủ,

Bạch Cư Dị, Thôi Hiệu, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh.

24. Nguyễn Quốc Siêu, (2005), Thơ Đường bình giải (theo SGK Văn học 9 và

10), NXB Giáo dục.

25. Trần Đình Sử, (1998), Lý luận và phê bình văn học, NXB GD.

26. GS. Lương Duy Thứ, (2005), Thi pháp thơ Đường, NXB ĐHSP.

27. Lê Huy Tiêu chủ biên, (2003), Lịch sử văn học Trung Quốc, tập I, NXB GD.

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -73

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

28. Trần Ngọc Vương, (2007) Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX,

những vấn đề lí luận và lịch sử, NXB GD.

29. Nguyễn Tuyết Hạnh, (1996), Vấn đề dịch thơ Đường ở Việt Nam, luận án

phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn, TP HCM.

30. Nguyễn Thu Hương, (2006), Tiếp nhận và diễn dịch Phong Kiều dạ bạc tại

Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, ĐH KHXH & NV, HN.

31. Nguyễn Thị Hường, (2007), Vấn đề tiếp nhận Tỳ bà hành tai Việt Nam,

Niên luận, ĐH KHXH & NV, Hà Nội.

32. Phạm Đình Lợi, (1965), Điểm qua việc dịch thuật thơ Đường ở Việt Nam,

Khóa luận tốt nghiệp, ĐH KHXH & NV, HN.

33. Nguyễn Thị Mỹ Linh, (1991), Tình hình giới thiệu, nghiên cứu và phiên dịch

thơ ca Trung Quốc ở Việt Nam từ trước tới nay, Khóa luận tốt nghiệp, ĐH

KHXH & NV, HN.

34. Mạnh Thị Minh, (2007), Đường thi trong SGK PT ở Việt Nam, Khóa luận

tốt nghiệp, ĐH KHXH & NV, HN.

35. Nguyễn Thị Mơ, (2008), Vấn đề tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam, Niên

luận, ĐH KHXH & NV, HN.

36. Nguyễn Trọng Nuôi, (1972), Tìm hiểu việc dịch thuật và nghiên cứu Đường

thi ở Việt Nam trước CM tháng 8, KL tốt nghiệp, ĐH KHXH & NV, HN.

Luận án, luận văn

37. Bùi Thanh Ca, “Bạch Cư Dị- nhà thơ và nhà lí luận thơ ca”, tạp chí Nghiên

cứu văn học số 4/1962, tr 57.

38. Lê Đình Cúc, “Lại bàn về phê bình văn học”, Tạp chí văn học số 1/91, tr 11.

39. PGS. TS Viện Văn học Trương Đăng Dung, “Phương thức tồn tại của tác

phẩm”, Tạp chí Văn học, số 7/ 2002.

40. Đặng Anh Đào, “Hai bí quyết của phê bình văn học”, Tạp chí văn học, số

3/1991, tr 6.

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -74

Sách báo & tạp chí

Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu tiếp nhận vấn đề đọc thơ Đường ở Việt Nam

41. Trịnh Bá Đĩnh, “Các hình thái tư duy phê bình văn học đầu TK XX”, tạp chí

Nghiên cứu văn học, 2/2004, tr 31.

42. Trịnh Bá Đĩnh, “Nửa thế kỷ giới thiệu những tư tưởng mĩ học và lí luận văn

học nước ngoài ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, 5/2005, tr 45.

43. Đoàn Thị Đặng Hương, “Thử giải mã văn học Việt Nam theo tinh thần

văn hóa Việt Nam và văn hóa phương Đông”, Tạp chí văn học số

3/1996, tr 23.

44. Đỗ Văn Khang, “Phê bình văn học hiện đại”, Tạp chí văn học, số 2/96, tr 12.

45. Phan Luân dịch, “Cái chết của tác giả”- Roland Barthes, Nghiên cứu văn

học, số 2/2008.

46. Phương Lựu, “Vài suy nghĩ nhân đi tìm hiểu ảnh hưởng của Trường hận ca

và Tỳ bà hành trong thơ ca nước nhà”, Tạp chí văn học số 7/1996, tr 12.

47. Nguyên Ngọc, “Vai trò của văn học dịch trong sự phát triển văn học dân

tộc”, Tạp chí văn học, số 2/1991, tr 1.

48. Trần Đình Sử, “Tính mơ hồ, đa nghĩa của văn học”, Tạp chí văn học, số

1/1996, tr 31.

49. TS. Trần Nho Thìn, “Tính hệ thống của tiến trình lịch sử văn học Việt

Nam”, Tạp chí văn học, số 7/2002, tr. 58- 59.

50. Đỗ Lai Thúy, “Những con chữ không đồng hành”, Tạp chí văn học số

7/1999.

51. Phùng Văn Tửu, “Từ cuộc đời đến tác phẩm văn chương”, Tạp chí văn học

số 7/1997, tr 3.

52. Lương Duy Thứ, “Thơ cổ Trung Quốc- quá trình diễn tiến và thi pháp”, Tạp

chí văn học số 6/1996, tr 24.

Lê Thị Tuyết Mai - Lớp Văn K50 CLC - Khoa Văn học - Trường ĐH KHXH&NV HN -75