intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu ứng dụng các lí thuyết phát triển tâm lí người theo tiếp cận tư duy hệ thống

Chia sẻ: ViAres2711 ViAres2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

70
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong tâm lí học phát triển có nhiều lí thuyết về sự phát triển tâm lí người đóng vai trò nền tảng. Nhưng do nhiều lí thuyết được hình thành bởi khuôn mẫu tư duy cơ giới, với nguyên lí chung là chia sự phát triển tâm lí cá nhân thành các cấu phần nhỏ, nghiên cứu sâu từng cấu phần trong thế cô lập với các cấu phần khác.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu ứng dụng các lí thuyết phát triển tâm lí người theo tiếp cận tư duy hệ thống

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0192<br /> Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 8B, pp. 63-70<br /> This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG CÁC LÍ THUYẾT<br /> PHÁT TRIỂN TÂM LÍ NGƯỜI THEO TIẾP CẬN TƯ DUY HỆ THỐNG<br /> <br /> Lê Minh Nguyệt<br /> Khoa Tâm lí - Giáo dục học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br /> <br /> <br /> Tóm tắt. Trong tâm lí học phát triển có nhiều lí thuyết về sự phát triển tâm lí người đóng<br /> vai trò nền tảng. Nhưng do nhiều lí thuyết được hình thành bởi khuôn mẫu tư duy cơ giới,<br /> với nguyên lí chung là chia sự phát triển tâm lí cá nhân thành các cấu phần nhỏ, nghiên cứu<br /> sâu từng cấu phần trong thế cô lập với các cấu phần khác. Vì vậy, tuy các lí thuyết đã cung<br /> cấp bức tranh phong phú, sinh động và chi tiết về sự phát triển tâm lí cá nhân, nhưng từng<br /> lí thuyết riêng lẻ sẽ không phản ánh được bản chất, cơ chế và quy luật của sự phát triển tâm<br /> lí cá nhân. Dẫn đến khó khăn và hạn chế trong việc vân dụng thành tựu của các lí thuyết<br /> đó vào thực tiễn. Bất cập này chỉ được khắc phục khi đặt các lí thuyết trong khuôn mẫu tư<br /> duy hệ thống, với đặc trưng là tiếp cận toàn thể, tương tác, đa chiều và tính vượt trội.<br /> Từ khóa: Tư duy cơ giới, hệ thống, tư duy hệ thống, lí thuyết phát triển tâm lí người, sự<br /> phát triển tâm lí người theo tiếp cận hệ thống.<br /> <br /> 1. Mở đầu<br /> Từ khi trở thành khoa học độc lập, Tâm lí học đã có nhiều lí thuyết (Patriccia H. Miler [7],<br /> Bary D.Smith- Harod J. Vetter [10], Phan Trọng Ngọ [8]). Trong đó có những lí thuyết đóng vai<br /> trò nền tảng. Thậm chí, trong hệ thống khoa học, có học thuyết được sánh ngang với Thuyết thiên<br /> văn của Copernicus,Thuyết tiến hóa muôn loài của Darwin (Patriccia H. Miler [7]).Vì vậy, việc<br /> nghiên cứu ứng dụng chúng rất cần đối với ai quan tâm tới sự phát triển của con người. Tuy nhiên,<br /> giống các lí thuyết khoa học khác ra đời từ nửa đầu thế kỉ XX, nhiều lí thuyết về sự phát triển<br /> tâm lí người được hình thành chủ yếu bởi khuôn mẫu tư duy cơ giới. Trong khi đó, từ những thập<br /> niên cuối thế kỉ XX, đã có sự chuyển dịch khuôn mẫu tư duy cơ giới sang tư duy hệ thống (Phan<br /> Đình Diệu [1]) và quan điểm hệ thống ngày càng chiếm ưu thế trong nghiên cứu khoa học cũng<br /> như trong thực tiễn (Jamshid Gharajedaghi [6]). Điều này đặt ra vấn đề vừa có tính tất yếu vừa cấp<br /> bách: Nghiên cứu ứng dụng các lí thuyết tâm lí học đã có vào trong lĩnh vực phát triển tâm lí người<br /> theo tiếp cận hệ thống, cho phù hợp với sự tiến bộ của tư duy khoa học. Bài viết này trình bày một<br /> số nhận thức về tư duy hệ thống và việc vận dụng thành tựu khoa học của các lí thuyết phát triển<br /> tâm lí người vào thực tiễn dưới góc độ tư duy hệ thống, với mục đích trao đổi về vấn đề đổi mới tư<br /> duy trong việc tiếp cận các thành tựu khoa học.<br /> <br /> <br /> Ngày nhận bài: 5/7/2015 Ngày nhận đăng: 10/9/2015<br /> Liên hệ: Lê Minh Nguyệt, e-mail: nguyet.daihocsupham@gmail.com<br /> <br /> <br /> <br /> 63<br /> Lê Minh Nguyệt<br /> <br /> <br /> 2. Nội dung nghiên cứu<br /> 2.1. Nghiên cứu ứng dụng các lí thuyết phát triển tâm lí người theo tiếp cận tư<br /> duy hệ thống<br /> 2.1.1. Tư duy cơ giới và ảnh hưởng tới sự phát triển nhận thức khoa học<br /> a. Tư duy cơ giới<br /> Tư duy cơ giới là tư duy sử dụng phương pháp phân tích để hiểu đối tượng, theo hướng bẻ<br /> vấn đề thành các cấu phần, nghiên cứu từng phần cô lập và rồi rút ra kết luận về cái toàn thể.<br /> Người có ảnh hưởng nhất tới việc định hình và phát triển tư duy cơ giới là Descartes - nhà<br /> toán học và triết học lỗi lạc của thế kỉ XVII (Trần Thái Đỉnh [2]). Cốt lõi của tư duy cơ giới là<br /> khuôn mẫu “máy móc” trong nhận thức khoa học, với nguyên lí là chia vấn đề thành các thành<br /> phần nhỏ, nghiên cứu từng phần cô lập theo logic tuyến tính, rồi từ đó lần ngược lên các bậc cao<br /> hơn để hiểu đối tượng. Những tri thức thu được từ tư duy cơ giới đều phải có tính đúng đắn một<br /> cách chắc chắn, lôgích, với giá trị nhị nguyên về tính chân lí. Trong đó mọi phán đoán đều phải<br /> hoặc đúng hoặc sai và phải được phân biệt rạch ròi.<br /> Phương pháp chủ yếu theo tư duy cơ giới là phân tích nhân tố và phán đoán. Các nội và<br /> ngoại quan hệ của đối tượng nhận thức được quy giản về các quan hệ nhân quả tuyến tính (nếu. . .<br /> thì). Các mô hình toán học được sử dụng để mô tả các quan hệ của đối tượng thích hợp với quan<br /> điểm phân tích. Vì thế các mô hình tuyến tính (mô hình cấu trúc) trở thành phổ biến. Từ đó hình<br /> thành nếp tư duy tuyến tính và sự quy giản đối tượng về các quan hệ tuyến tính.<br /> b. Ảnh hưởng của tư duy cơ giới đến nhận thức khoa học và thực tiễn<br /> Trong suốt mấy thế kỉ, nhờ khuôn mẫu tư duy cơ giới, đã hình thành và phát triển nền sản<br /> xuất công nghiệp, với hàng triệu phát minh kĩ thuật và công nghệ. Tất cả kĩ thuật, công nghệ và<br /> máy móc mà con người đã tạo ra đều hoạt động theo nguyên lí và định luật mang tính tất định, tuân<br /> thủ các quy tắc định lượng chính xác. Nếu trong nhận thức của con người không có khuôn mẫu và<br /> năng lực tư duy như vậy, thì không thể có các thành tựu kĩ thuật, công nghệ và máy móc hiện nay.<br /> Mặt khác, tư duy cơ giới đã thâm nhập và ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển nhận thức<br /> khoa học, tới mức tư duy cơ giới đồng nghĩa với tư duy khoa học. Nói tới phát triển tư duy khoa<br /> học là nói tới sự phát triển năng lực phân tích, phán đoán, suy luận và tổng hợp; quy nạp và diễn<br /> dịch,... Thậm chí tư duy cơ giới ăn sâu vào tư duy xã hội. Cách nhìn đối tượng như một "bộ máy",<br /> vận hành theo các nguyên tắc cơ giới, tuân theo các định luật nhân quả mang tính tất định và nhị<br /> nguyên, là cách nhìn phổ biến trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hình ảnh ẩn dụ "bộ máy"<br /> trở thành quen thuộc trong mọi liên tưởng, người ta nói đến bộ máy hành chính, bộ máy quản lí,<br /> bộ máy lãnh đạo, bộ máy hô hấp, tuần hoàn, bộ máy tâm lí v.v. (Phan Đình Diệu [1]).<br /> Phương pháp thực nghiệm, phân tích và phán đoán đã giúp ngày càng nghiên cứu sâu hơn<br /> các thành phần cơ bản của đối tượng nhận thức; đã giúp nhân loại hiểu biết sâu sắc về cấu trúc của<br /> các thành phần cơ bản trong nhiều loại đối tượng khác nhau. Bên cạnh đó, tư duy cơ giới đã kích<br /> thích sự phát triển phương pháp mô hình hóa, mô tả các quan hệ giữa các thành phần liên quan của<br /> đối tượng.<br /> Có thể nói, tư duy cơ giới đã tác động tích cực đến sự phát triển nhận thức của nhiều ngành<br /> khoa học, đưa các ngành đó vượt ra khỏi giới hạn của các phương pháp quan sát và mô tả thông<br /> thường, để tiếp cận khả năng được "lí thuyết hoá" và phát triển bằng các công cụ của suy luận diễn<br /> dịch.<br /> <br /> 64<br /> Nghiên cứu ứng dụng các lí thuyết phát triển tâm lí người theo tiếp cận tư duy hệ thống<br /> <br /> <br /> Trong bối cảnh như vậy, nhiều lí thuyết về sự phát triển tâm lí người đã được ra đời và in<br /> đậm dấu ấn của tư duy cơ giới.<br /> c. Hạn chế của tư duy cơ giới<br /> Nhờ tư duy cơ giới, nhân loại đã tạo ra nhiều thành tựu khoa học kĩ thuật và công nghệ;<br /> đã định hình và phát triển phương pháp tư duy khoa học, nhất là trong vật lí học. Tuy nhiên, khi<br /> mở rộng ra ngoài phạm vi cơ giới, ta gặp ngay trong thực tế nhiều hiện tượng phi tuyến tính, phức<br /> hợp và hỗn độn, mà nhận thức cơ giới không thể giải quyết được. Một hiện tượng tâm lí (trí tuệ cá<br /> nhân chẳng hạn) phát sinh và phát triển thường được giải thích bởi sự tác động của các yếu tố từ<br /> môi trường sống (B.F. Skinner [15]), hay từ các yếu tố tự nhiên, sinh học thuộc di truyền, hoặc từ<br /> chính hoạt động và tương tác giao tiếp của cá nhân (J.Piaget [4, 5]).. . . Tuy nhiên, trong thực tế, sự<br /> phát triển trí tuệ của cá nhân không đơn giản là do sự tác động riêng rẽ của các yếu tố đó, ngay cả<br /> khi sự tác động của chúng đạt tới mức tối ưu. Sự phát triển trí tuệ của cá nhân không phải là một<br /> phương trình mà kết quả là tổng của các tác động thành phần, cho dù ta có tìm ra được vô vàn yếu<br /> tố. Rõ ràng là, với các đối tượng phức tạp và đa dạng như hiện tượng tâm lí người, với cách nhìn<br /> quy giản "cơ giới" sẽ không thể giải quyết được triệt để, cần phải có cách nhận thức mới - nhận<br /> thức theo quan điểm hệ thống.<br /> 2.1.2. Quan điểm hệ thống và tư duy hệ thống<br /> a. Quan điểm hệ thống<br /> Hệ thống là một hệ các cấu phần độc lập, có quan hệ, có tương tác với nhau, tạo nên một<br /> toàn thể phức hợp và có đặc tính vượt trội (Jamshid Gharajedaghi [6]). Quan điểm hệ thống là<br /> trước hết xem xét mọi đối tượng như là một hệ thống toàn thể với những tính chất, tương tác, hành<br /> vi thuộc về toàn thể, mà không thể quy về hoặc suy ra từ tính chất của các yếu tố hay thành phần<br /> của nó.<br /> Một hệ thống có nhiều đặc tính, trong đó tính toàn thể, tính hợp trội, tính mở, tính hướng<br /> đích, tính đa chiều là điển hình (Jamshid Gharajedaghi [6]).<br /> Đặc tính đầu tiên của hệ thống là tính toàn thể. Một hệ thống không phải đặc trưng bởi số<br /> lượng các thành phần, mà là bởi mối quan hệ, sự tương tác giữa các thành phần đó. Sự tương tác<br /> mạnh giữa các thành phần sẽ tạo ra sự cộng hưởng, làm nảy sinh sức mạnh thặng dư, tức là thuộc<br /> tính hợp trội (emergence) của cả hệ thống. Đó là sức mạnh tổng hợp, không được sinh ra từ các<br /> thành phần, mà từ chính sự tương tác giữa chúng và có lực lớn hơn nhiều so với tổng số của các<br /> thành phần cộng lại. Tính toàn vẹn của hệ thống tạo ra nguyên lí: tổng thể lớn hơn tổng số.<br /> Tính mở của hệ thống phản ánh các mối tương tác giữa các thành phần của hệ thống và giữa<br /> hệ thống với các hệ thống khác. Theo Edgar Morin [3], bất kì một hệ thống nào cũng luôn tồn tại<br /> và phát triển với tư cách là hệ mở, luôn tồn tại trong một hệ thống lớn hơn, tức là trong một môi<br /> trường nào đó, trao đổi và tương tác với môi trường đó, tạo ra khả năng tự tổ chức, tự điều chỉnh,<br /> tự thích nghi, tự tái sinh của hệ thống.<br /> Tính hướng đích là sự lựa chọn có chủ đích, có mục tiêu của các thành phần và của cả hệ<br /> thống trong quá trình tương tác. Ngoài các hệ thống cơ học được đơn giản hoá và được tư duy cơ<br /> giới xem là những đối tượng vô tri, thì các hệ thống trong tự nhiên và xã hội đều là những hệ thống<br /> hướng đích, tức là phát triển hướng tới một (hoặc những) mục tiêu nào đó.<br /> Tính đa chiều là sự đa dạng các chiều cạnh của các mối tương tác, các mục đích hướng tới<br /> của các thành phần và của cả hệ thống. Trong đó các phần tử, các thành phần của hệ thống không<br /> chỉ vận động theo tuyến tính, nhị nguyên, mà còn theo phi tuyến, đa nguyên. Không chỉ theo xu<br /> <br /> 65<br /> Lê Minh Nguyệt<br /> <br /> <br /> thế đối lập (tổng - không): Kỉ luật/tự do; tập thể/ cá nhân. . . mà còn theo xu thế tương hỗ (tổng -<br /> khác không), cái được của bên này kéo theo cái được của bên kia và ngược lại<br /> b. Tư duy hệ thống<br /> Tư duy hệ thống là tư duy phát triển trên nền tảng hệ thống và phản ánh bản chất và sự vận<br /> động của hệ thống. Tư duy hệ thống có các đặc trưng sau:<br /> Đặc điểm chủ yếu của tư duy hệ thống là cách nhìn đối tượng trong thế toàn thể. Điều này<br /> ngược với tư duy cơ giới, với đặc trưng chia đối tượng thành các cấu phần nhỏ, nghiên cứu từng<br /> phần cô lập theo logic tuyến tính, nhị nguyên. Theo quan điểm hệ thống, đối tượng là một hệ thống<br /> trọn vẹn. Trong đó các phần tử, các thành phần của hệ thống tương tác với nhau vừa theo tuyến<br /> tính, vừa phi tuyến; vừa nhị nguyên, vừa đa chiều, hỗn độn; vừa đối lập vừa hợp tác. . . Vì vậy,<br /> không thể quy giản về, hoặc phân tích thành những cái đơn giản, tuyến tính trên cơ sở loại bỏ các<br /> yếu tố phi tuyến, tương tác, đa chiều và hỗn độn. Chỉ có cách nhìn toàn thể mới thấy được những<br /> thuộc tính hợp trội của hệ thống, là thuộc tính của toàn thể mà từng thành phần không thể có (suy<br /> nghĩ, trí tuệ, thái độ, tình yêu, sự hận thù. . . , là những thuộc tính của một người trong toàn thể, chứ<br /> không phải là của một thành phần riêng nào trong con người đó).<br /> Tư duy hệ thống hướng vào tương tác giữa các phần tử, các thành phần của hệ thống hơn là<br /> hướng vào phân tích bản thân các phần tử, các thành phần. Theo Peter M. Senge [11], tư duy hệ<br /> thống là một nguyên lí xem xét tổng thể, là một cơ cấu xem xét các mối tương quan hơn là xem xét<br /> sự vật, xem xét các mẫu hình thay đổi hơn là một tình huống bất động. Tương tác là đặc tính của<br /> hệ thống. Tư duy hệ thống hướng vào làm rõ bản chất, loại hình, chiều hướng và mức độ các tương<br /> tác đó. Chỉ có thể làm rõ các mối tương tác của hệ thống mới phát hiện được đặc tính hợp trội của<br /> hệ thống. Vì hợp trội là sản phẩm của tương tác, qua tương tác mới tạo ra sự cộng hưởng, tạo nên<br /> những giá trị cao hơn tổng gộp đơn giản các giá trị của các thành phần. Để tạo ra những thuộc tính<br /> hợp trội có chất lượng cao của hệ thống, thì phải can thiệp vào các quan hệ tương tác, chứ không<br /> chỉ vào hành động của các thành phần. Để xác lập được mối tương tác giữa các bộ phận của hệ<br /> thống, tư duy phải luôn luôn động, phải đi theo các quan hệ tương tác. Vì vậy, tư duy hệ thống là<br /> tư duy động, khác với tư duy cơ giới là tư duy tĩnh.<br /> Tính đa chiều là một đặc điểm cốt yếu của tư duy hệ thống. Hệ thống cũng như các thành<br /> phần của hệ thống luôn luôn tồn tại và vận động theo những khuynh hướng khác nhau, đối lập<br /> nhau, tạo nên sự đa chiều của hệ thống. Tư duy hệ thống phải phản ánh được tính đa chiều đó.<br /> Tư duy đa chiều là có nhiều cách nhìn, cách hiểu về nhiều mặt, nhiều cấp độ khi tìm hiểu các hệ<br /> thống. Mỗi lí thuyết phản ánh một cách hiểu nhất định về từng mặt và từng cấp độ của một hệ<br /> thống, khi xem xét nó. Vì vậy, cần tránh áp đặt một lí thuyết cụ thể là chân lí tuyệt đối của cả hệ<br /> thống, mà nên xem mỗi lí thuyết đều có những giới hạn giải thích nhất định. Điều này càng đúng<br /> với các hệ thống tâm lí.<br /> Trong tư duy hệ thống, các phương pháp thực nghiệm khoa học và suy diễn lí thuyết (bao<br /> gồm phân tích, suy luận, phán đoán, diễn dịch và các mô hình toán học), được dùng trong tư duy<br /> cơ giới, vẫn là các phương pháp tư duy chủ đạo và được phát huy tối đa, nhưng không phải hướng<br /> đến phát hiện ra các luật cơ học có tính tất định, phù hợp với tư duy tuyến tính và quan điểm phân<br /> tích, các suy luận lôgích tất định và nhị nguyên, mà hướng đến tiếp cận cái toàn vẹn, phức tạp với<br /> những ngẫu nhiên và hỗn độn của đối tượng; hướng đến xây dựng nhiều loại mô hình khác nhau,<br /> tất định và ngẫu nhiên, tuyến tính và phi tuyến, đặc biệt là các mô hình phi tuyến, các suy luận<br /> không tất định.<br /> Những điều trình bày trên cho thấy, tư duy hệ thống không phải là mâu thuẫn, phủ nhận tư<br /> <br /> 66<br /> Nghiên cứu ứng dụng các lí thuyết phát triển tâm lí người theo tiếp cận tư duy hệ thống<br /> <br /> <br /> duy cơ giới mà là sự vượt qua tư duy cơ giới cho phù hợp với sự phát triển của nhận thức khoa học,<br /> đồng thời đảm nhận vai trò giải quyết những vấn đề của thực tiễn mà do sự hạn chế của thời đại, tư<br /> duy cơ giới không giải quyết được. Trong đó có vấn đề nghiên cứu, xem xét vận dụng các lí thuyết<br /> được sản sinh theo khuôn mẫu của tư duy cơ giới, dưới ánh sáng của tư duy mới.<br /> <br /> 2.2. Nghiên cứu ứng dụng các lí thuyết phát triển tâm lí người theo tiếp cận tư<br /> duy hệ thống<br /> Sử dụng công cụ tư duy hệ thống vào việc nghiên cứu ứng dụng các lí thuyết phát triển tâm<br /> lí người sẽ mở ra nhiều khả năng và hiệu quả trong việc khai thác các thành tựu khoa học trong<br /> tâm lí học vào thực tiễn. Có thể minh chứng điều này qua việc đề cập tới bốn lí thuyết lớn dưới<br /> đây: Thuyết hành vi của J.Watson, Thuyết phân tâm của S. Freud, Thuyết phát sinh nhận thức của<br /> J.Piaget và Thuyết lịch sử - văn hóa về các chức năng tâm lí cấp cao của L.X.Vưgotxki, theo ba<br /> góc nhìn của tư duy hệ thống: cách nhìn toàn thể, tương tác và đa chiều.<br /> 2.2.1. Tiếp cận, vận dụng các lí thuyết dưới cách nhìn toàn thể<br /> Điểm dễ nhận thấy ở bốn lí thuyết về sự phát triển tâm lí người nêu trên là mỗi lí thuyết có<br /> hướng tiếp cận riêng đến đối tượng nghiên cứu. Từ đó có cách lí giải riêng về sự phát triển tâm lí<br /> người.<br /> Thuyết hành vi, mà đại biểu là nhà tâm lí học Mỹ kiệt xuất người J.Watson (1878-1958) đã<br /> xuất phát từ lí thuyết về phản xạ có điều kiện để giải quyết vấn đề phát triển tâm lí trẻ em. Từ đó<br /> hàng loạt vấn đề cơ bản về sự phát triển tâm lí cá nhân được giải quyết theo hướng này: Hành vi<br /> của cá nhân chứ không phải là tâm lí, ý thức là đối tượng nghiên cứu và tác động của J.Watson.<br /> Việc phát triển cá nhân được quy giản về phát triển hành vi và yếu tố quyết định đến quá trình này<br /> thuộc về môi trường xã hội mà đứa trẻ đang sống. Và vì vậy, vấn đề cốt lõi của việc hình thành và<br /> kiểm soát hành vi cá nhân là cải tạo, kiểm soát và củng cố môi trường sống (A.Bandura [14], B.F.<br /> Skinner [15], E.C.Tolman [16]).<br /> Dưới góc độ khác, Thuyết phát sinh nhận thức của J.Piaget hướng đến hình thành các cấu<br /> trúc nhận thức của trẻ em, tức là hướng đến yếu tố tâm lí bên trong của cá nhân. Cơ chế phát sinh<br /> và phát triển các cấu trúc nhận thức được J.Piaget mô phỏng theo cơ chế đồng hóa (Assimilation),<br /> Điều ứng (Accommodation) và cân bằng (Equilibrum) có nguồn gốc sinh học. Điểm mạnh trong lí<br /> thuyết của J.Piaget là cấu trúc nhận thức của cá nhân có nguồn gốc hành động và được hình thành<br /> trong quá trình cá nhân chủ động tương tác, khám phá đối tượng và xây dựng lại các cấu trúc của<br /> đối tượng ở trong đầu. Tuy nhiên, rất tiếc, các hành động khám phá tuyệt vời của cá nhân không<br /> được J.Piaget xét trong mối tương tác với môi trường văn hóa cụ thể, môi trường mà trong đó đứa<br /> trẻ đang sống và hoạt động (J.Piaget [5, 6]).<br /> Trong lí thuyết phân tâm, đối tượng nghiên cứu của S.Freud là “cái vô thức”, là “lực lượng<br /> bản năng” sâu thẳm trong tâm hồn mỗi cá nhân. Và để nghiên cứu, khám phá “những lực lượng<br /> bản năng, vô thức” sâu thẳm đó, không phải từ những hành vi bình thường mà từ các hành vi bất<br /> bình thường, hành vi rối nhiễu, lệch lạc (S.Freud [9]).<br /> Trong số bốn lí thuyết được kể tên, thuyết lịch sử - văn hóa về các chức năng tâm lí cấp cao<br /> của L.X.Vưgotxki tiếp cận gần với tư duy hệ thống hơn cả. Chính L.X.Vưgotxki đã đề xuất và sử<br /> dụng phương pháp phân tích đơn vị thay cho phương pháp phân tích nhân tố để nghiên cứu hiện<br /> tượng tâm lí cá nhân. L.X.Vưgotxki cũng đề xuất phương án khắc phục tính cơ giới trong nghiên<br /> cứu tâm lí theo phản xạ học, cũng như bỏ qua yếu tố tương tác của trẻ em với môi trường văn hóa<br /> <br /> 67<br /> Lê Minh Nguyệt<br /> <br /> <br /> - xã hội mà đứa trẻ đang sống. Theo đó, L.X.Vưgotxki đề nghị đối tượng nghiên cứu của tâm lí<br /> học là ý thức của cá nhân và việc nghiên cứu nó phải được bắt đầu và trong hoạt động thực của cá<br /> nhân đó, trong sự tương tác chẽ giữa cá nhân với người khác và với môi trường văn hóa - xã hội<br /> mà cá nhân đang sống, hoạt động. Tuy nhiên, L.X.Vưgotxki cũng không hoàn toàn ra khỏi tư duy<br /> cơ giới khi quy giản yếu tố cốt lõi trong nghiên cứu hoạt động của cá nhân thuộc về công cụ văn<br /> hóa. Coi việc học cách sử dụng các công cụ này là chìa khóa để cấu trúc các chức năng tâm lí tự<br /> nhiên thành chức năng tâm lí văn hóa (L.X.Vưgotxki [13]).<br /> Điểm qua ở mức sơ lược bốn lí thuyết tâm lí học nêu trên cũng đủ cho thấy sự đúng đắn<br /> trong cách tiếp cận đối tượng của các lí thuyết; sự phong phú, sâu sắc và chính xác của các thực<br /> nghiệm, phân tích và diễn giải của các lí thuyết gia. Mặt khác, có thể vận dụng thành tựu của các<br /> thuyết đó vào từng lĩnh vực tùy theo mục tiêu sử dụng. Tuy nhiên, nếu xét riêng rẽ, biệt lập từng lí<br /> thuyết, sẽ dễ dàng nhận ra sự thiếu hụt (thậm chí phiến diện) của mỗi thuyết về đối tượng nghiên<br /> cứu và cách quy giản sự hình thành cũng như các yếu tố tác động tới sự hình thành các chức năng<br /> tâm lí phức tạp của cá nhân. Đồng thời xuất hiện trong chúng ta cảm nhận về câu chuyện thầy bói<br /> xem voi. Nhưng thiếu hụt và cảm nhận đó hoàn toàn mất đi nếu bốn lí thuyết trên được đặt trong<br /> một toàn thể và được xét như một cấu phần có tính độc lập và tính tương tác trong toàn thể.<br /> 2.2.2. Các chức năng tâm lí cá nhân chỉ được hình thành và phát triển trong các mối quan<br /> hệ tương tác đa dạng của đối tượng<br /> Các hiện tượng tâm lí phức tạp của cá nhân là thuộc tính hợp trội của hệ thống – con người<br /> toàn vẹn; là sản phẩm của sự tương tác giữa các bộ phận của con người. Vì vậy, để giải quyết bài<br /> toán về sự phát triển tâm lí cá nhân, phải xác lập được hệ các mối quan hệ tương tác đa dạng của<br /> chúng.<br /> Sử dụng khuôn mẫu tư duy cơ giới có thể “bóc tách” ra được các quan hệ tương tác của đối<br /> tượng nghiên cứu với các yếu tố (khách thể) khác trong từng lí thuyết tâm lí học nêu trên. Đồng<br /> thời sử dụng khuôn mẫu tư duy hệ thống, với cái nhìn toàn thể, có thể phát hiện sự thiếu vắng các<br /> mối tương tác cốt yếu trong mỗi lí thuyết và xác lập được các mối quan hệ tương tác một cách tổng<br /> thể. Chẳng hạn, trong tâm lí học hành vi mối tương tác chủ đạo (gần như là duy nhất) được xác lập<br /> là tương tác giữa chủ thể - môi trường. Trong đó, chủ thể được xét như là đối tượng thứ cấp. Còn<br /> hàng loạt quan hệ tương tác khác như tương tác giữa các yếu tố bẩm sinh, di truyền, kinh nghiệm<br /> . . . - với hành vi của chủ thể, với kích thích của môi trường sống. . . không được đặt ra hoặc đặt ra<br /> mờ nhạt. Trong khi đó, mối tương tác giữa cái sinh học (sự trưởng thành và cơ chế hoạt động của<br /> hệ thần kinh) - hoạt động của trẻ em để hình thành các cấu trúc nhận thức, là thế mạnh trong lí<br /> thuyết phát sinh nhận thức của J.Piaget. . .<br /> Như vậy, chỉ có thể bằng tư duy hệ thống, và từ cái nhìn toàn thể, mới có thể bao quát các lí<br /> thuyết phát triển người, sau đó sử dụng các phương pháp phân tích, suy luận và thiết lập mô hình<br /> tương tác để từ đó xác lập các quan hệ tương tác tuyến tính và phi tuyến, nhị nguyên và đa nguyên,<br /> tất yếu và ngẫu nhiên của các yếu tố trong các lí thuyết. Trên cơ sở đó xác lập được các thuộc tính<br /> hợp trội, tức là xác lập được sự tồn tại và phát triển các hiện tượng tâm lí cá nhân.<br /> 2.2.3. Các chức năng tâm lí cá nhân có nhiều tiềm năng phát triển và đa chiều<br /> Là thuộc tính hợp trội của một hệ thống toàn vẹn, nên bất kì một hiện tượng tâm lí cá nhân<br /> nào đó đều “ẩn chứa” các tiềm năng và được phát triển theo nhiều chiều kích khác nhau. Điều này<br /> được quy định bởi tính đa khả năng, đa chiều của việc xác lập các mối tương tác giữa các yếu tố<br /> liên quan tới sự phát triển tâm lí cá nhân. Việc phát hiện ra các tiềm năng và chiều kích phát triển<br /> <br /> 68<br /> Nghiên cứu ứng dụng các lí thuyết phát triển tâm lí người theo tiếp cận tư duy hệ thống<br /> <br /> <br /> của các hiện tượng tâm lí người là chức năng và là thuộc tính của tư duy hệ thống. Trong khi đó,<br /> tư duy cơ giới, với nguyên lí chia đối tượng thành các thành phần nhỏ, nghiên cứu từng phần cô<br /> lập theo logic tuyến tính sẽ dẫn đến lu mờ và thủ tiêu các khả năng cũng như các chiều hướng<br /> phát triển của các hiện tượng tâm lí cá nhân. Chẳng hạn, tư duy cơ giới có thể tách bạch lí thuyết<br /> phát sinh nhận thức của J.Piaget với thuyết lịch sử - văn hóa về các chức năng tâm lí cấp cao của<br /> L.X.Vưgotxki, vì thế sẽ không nhìn thấy và không xác lập được các tình huống tương tác phát triển<br /> của trẻ em. Nhưng nếu đặt các lí thuyết này trong thể toàn vẹn và tương tác với nhau ta có thể lập<br /> được ma trận về sự tương tác và các khả năng phát triển của các cấu trúc nhận thức của trẻ em ở<br /> các giai đoạn lưá tuổi khác nhau với các tác động khác nhau từ phía người lớn trong các bối cảnh<br /> văn hóa khác nhau.<br /> <br /> 3. Kết luận<br /> Trong quá trình tiến hóa, nhận thức khoa học của loài người đã chuyển từ khuôn mẫu tư duy<br /> cơ giới lên khuôn mẫu tư duy hệ thống. Đó là tư duy phát triển trên nền tảng quan điểm hệ thống.<br /> Là tư duy sử dụng các phương pháp thực nghiệm, suy luận khoa học, mô hình hóa để phản ánh<br /> các đặc trưng cơ bản của hệ thống là tính toàn vẹn, tính tương tác, tính hợp trội, tính hướng đích và<br /> đa chiều của hệ thống. Ngày nay, tư duy hệ thống đang trở thành công cụ nhận thức sắc bén trong<br /> nghiên cứu khoa học và trong thực tiễn.<br /> Trong khoa học tâm lí, có nhiều lí thuyết phát triển tâm lí người đóng vai trò là nền tảng<br /> cho cả hệ thống tâm lí học nói chung, tâm lí học phát triển nói riêng. Nhưng do hoàn cảnh lịch sử,<br /> nhiều lí thuyết được ra đời dưới sự tác động của tư duy cơ giới. Vì vậy, phát huy được thành tựu<br /> khoa học lớn lao của các lí thuyết đó và mang lại hiệu quả tối ưu khi vận dụng vào thực tiễn, cần<br /> thiết phải sử dụng tư duy hệ thống. Việc sử dụng công cụ tư duy hệ thống vào việc nghiên cứu ứng<br /> dụng các lí thuyết phát triển tâm lí người vào thực tiễn sẽ mở ra tiềm năng to lớn và đa chiều trong<br /> việc phát triển tâm lí cá nhân.<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> <br /> [1] Phan Đình Diệu, 2002. Tư duy hệ thống và đổi mới tư duy. Tạp chí Thời đại, số 6/2002,<br /> tr.89-116.<br /> [2] Trần Thái Đỉnh, 2005. Triết học Descartes. Nxb Văn học.<br /> [3] Edgar Morin, 2009. Nhập môn tư duy phức hợp. Nxb Tri thức.<br /> [4] G. Piagie, B. Inhelder, Vĩnh Bang, 2000. Tâm lí học trẻ em và ứng dụng tâm lí học Piaget vào<br /> trường học. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.<br /> [5] G. Piagie, 1997. Tâm lí học trí khôn. Nxb Giáo dục, Hà Nội.<br /> [6] Jamshid Gharajedaghi, 2005. Tư duy hệ thống (quản lí hỗn độn và phức hợp). Nxb Khoa học<br /> Xã hội<br /> [7] Patriccia H. Miler, 2003. Các thuyết về tâm lí học phát triển. Nxb Văn hoá Thông tin.<br /> [8] Phan Trọng Ngọ, 2003. Các lí thuyết phát triển người. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.<br /> [9] S. Freud, 1970. Nhập môn phân tâm học. Nxb Khai trí – Sài Gòn.<br /> [10] Bary d. Smith – Harold J.Vetter, 2005. Các học thuyết nhân cách. Nxb Văn hoá Thông tin.<br /> [11] Peter M.Senge, 2010. Nguyên lí thứ năm (Nghệ thuật và thực hành tổ chức học tập). Nxb<br /> Thời đại.<br /> [12] Nguyễn Thơ Sinh, 2008. Các học thuyết tâm lí nhân cách. Nxb Lao động.<br /> [13] L.X.Vưgôtxki, 1997. Tuyển tập Tâm lí học. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.<br /> [14] A. Bandura, 1997. Social learning theory. Prentice – Hall.<br /> <br /> 69<br /> Lê Minh Nguyệt<br /> <br /> <br /> [15] B.F. Skinner, 1953. Science And Human Behavior. The Pree Press and colophon are<br /> trademarks of Simon & Shuster.<br /> [16] E.C. Tolman, 1959. Priciples of purposive behavior. Mc Gaw - Hill, New York.<br /> <br /> ABSTRACT<br /> Applying theories of human psychological development to systematic thinking<br /> In developmental psychology, there are many theories on human psychological<br /> development. However, many of these theories are based on the mechanical thinking model<br /> with the general principle that individual psychological development is divided into small<br /> components, each studied separately. Therefore, although these theories provide a picture of<br /> individual psychology development abundantly, vividly and in detail, each theory in itself does<br /> not present the nature, mechanism and laws of individual psychological development. Thus it is<br /> difficult to apply these theories to reality. And yet this inadequacy can be overcome by placing<br /> these theories in a systematic thinking model that can include the entirety and be interactive and<br /> multidimensional.<br /> Keywords: Mechanical thinking, system, systematic thinking, theory of human<br /> psychological development using a systematic approach.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 70<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2