Ngộ độc thức ăn khi mang thai

Trong giai đoạn mang thai, người mẹ khi được ăn những thức ăn lành

mạnh sẽ giúp bào thai và đứa con của mình khỏe mạnh. Để làm được

như vậy, người mẹ trước hết phải thận trọng, tránh ngộ độc thức ăn.

Ngộ độc thức ăn được gây ra do tiêu thụ thức ăn không hợp vệ sinh, thường

sau khi ăn khoảng 30 phút, có thể sau 2 - 3 giờ, cũng có khi sau vài ngày.

Ảnh minh họa

Dấu hiệu nhận biết là nhiều người bị tiêu chảy hoặc đi tiêu phân lỏng, còn

gọi là đi tiêu chảy lỏng hàng loạt. Người bị ngộ độc thức ăn thường nôn, đau

bụng, có sốt hoặc không sốt, đau đầu. Ngoài ra, còn có thể có các triệu

chứng thần kinh và toàn thân như nhức mỏi cơ thể, mê sảng, co giật...

Ngộ độc thức ăn ảnh hưởng lên thai nhi

Ngộ độc thức ăn trong khi mang thai là một nguy cơ cho thai nhi. Tùy thuộc

mức độ độc tính của vi khuẩn có trong thức ăn mà người mẹ ăn vào, độc tính

của vi khuẩn qua nhau thai đến thai làm ảnh hưởng nặng hay nhẹ tùy thuộc

vào tuổi thai. Với người mẹ mang thai trong 3 tháng đầu, ngộ độc thức ăn

ảnh hưởng lên thai nhi: dọa sảy thai, sảy thai hay thai chết lưu. Trường hợp

thai trong 3 tháng giữa và 3 tháng cuối, khi người mẹ bị ngộ độc thức ăn,

thai nhi chậm phát triển, thai suy và nặng hơn nữa có thể sinh non, thai chết

lưu.

Các loại vi khuẩn gây ngộ độc

Vi khuẩn, virút hay ký sinh trùng gây ra ngộ độc thực phẩm nhưng có một

các loại gây độc tính và gây ngộ độc khi ta bị nhiễm, đặc biệt cho phụ nữ

mang thai. Chúng bao gồm E.coli, salmonella, campylobacter, listeria và

nấm mốc.

Escherichia coli (thường được viết tắt là E. coli) hay còn được gọi là vi

khuẩn đại tràng là một trong những loài vi khuẩn chính ký sinh trong đường

ruột của động vật máu nóng (bao gồm chim và động vật có vú). Vi khuẩn

này cần thiết trong quá trình tiêu hóa thức ăn. Sự có mặt của E. coli trong

nước ngầm là một yếu tố có hại thường gặp cho ô nhiễm phân. E. coli thuộc

họ vi khuẩn enterobacteriaceae, thuộc gram âm, bình thường vô hại, nhưng

một số độc tính gây nên ngộ độc thức ăn bởi có nhiễm trong rau, thịt chưa

nấu kỹ và nước uống. Độc tính gây viêm ruột, nhiễm trùng tiểu. Đặc biệt,

phụ nữ mang thai bị ngộ độc dễ gây sảy thai.

Salmonella là một nhóm các vi khuẩn gây viêm dạ dày ruột, ngộ độc thực

phẩm và các bệnh khác. Nó được tìm thấy trong trứng sống, sản phẩm trứng,

thịt chưa nấu chín, gia cầm, nước bị ô nhiễm và các sản phẩm phô mai.

Salmonella nhiễm trùng cũng có thể lây lan từ người sang người. Cách tốt

nhất để tránh ngộ độc salmonella trong khi mang thai là để nấu chín tất cả

các thực phẩm có khả năng nuôi dưỡng các vi khuẩn.

Vi khuẩn campylobacter jejuni (campylobacter) gây nhiễm bệnh một trong

những nguyên nhân gây tiêu chảy phổ biến nhất trên thế giới. Vi khuẩn

campylobacter thường lây truyền trong thực phẩm hoặc nước bị ô nhiễm, có

thể lây nhiễm qua đường tiêu hóa và tiêu chảy, sốt gây ra, và chuột rút. Thói

quen rửa tay thường xuyên và an toàn thực phẩm sẽ giúp ngăn ngừa nhiễm

khuẩn campylobacter.

Listeriosis là do vi khuẩn listeria monocytogenes, một loại vi khuẩn tìm thấy

trong đất và nước. Nó có thể được tìm thấy trên rau, thịt và các sản phẩm từ

sữa, cũng như trong thực phẩm chế biến như pho mát mềm và thịt nguội.

Mặc dù các vi khuẩn nguy hiểm ít ở người khỏe mạnh, nhưng ở phụ nữ

mang thai bị nhiễm có thể dẫn đến nhiễm trùng nghiêm trọng.

Nấm mốc thường gặp trong môi trường sống, nhất là ở trong ngũ cốc, quả

hạt có dầu dự trữ trong điều kiện khí hậu nóng ẩm như ở nước ta. Nấm mốc

gây hư hỏng thực phẩm, một số loại còn sản sinh ra các độc tố nguy hiểm.

Aflatoxin là độc tố vi nấm được biết rõ nhất do nấm aspergillus flavus và

aspergillus parasiticussinh ra trong ngô, đậu và lạc, khô lạc, tương... flatoxin

có thể gây ung thư gan. Virút gây ngộ độc thực phẩm thường có trong ruột

người. Trong các loài nhuyễn thể sống ở vùng nước ô nhiễm, trong rau quả

tưới nước có phân tươi hoặc các món rau sống chuẩn bị trong điều kiện thiếu

vệ sinh thường hay bị nhiễm virút bại liệt, virút viêm gan.

Cách điều trị

Điều trị ngộ độc thức ăn ở phụ nữ mang thai, xử trí cấp cứu trước tiên là

phải làm cho người bị ngộ độc nôn ra cho hết chất đã ăn vào, ngăn cản sự

hấp thu của ruột đối với chất độc, phá hủy độc tính đồng thời bảo vệ niêm

mạc dạ dày.Gây nôn: thực hiện ngay bằng cách cho ngón tay của người bệnh

đã được rửa sạch vào họng để kích thích nôn.

Rửa dạ dày: rửa dạ dày càng sớm càng tốt, chậm nhất là trước 6 giờ. Có thể

dùng nước ấm, nước muối sinh lý để rửa. Để giải độc có thể dùng phương

pháp hấp thụ chất độc bằng than hoạt tính, trung hòa chất độc bằng các chất

thích hợp hoặc giải độc đặc hiệu theo nguyên nhân gây ngộ độc. Đặc biệt, bù

nước và điện giải khi mà người mẹ có tiêu chảy mất nước, dùng dịch truyền

tĩnh mạch ringer lactate, natri chlorua 0,9% và glucose 5%. Ở mức độ nhẹ có

thể bù dịch bằng oresol hay viên hydrid pha nước uống. Dùng thuốc kháng

sinh nếu nghi ngờ nhiễm khuẩn, thuốc dùng đường uống hay đường tĩnh

mạch như: cefotaxim, ceftriaxon, amoxicilin, cifixim, erythromycin. Thuốc

chống co thắt như spasmaverin, spasless, NO-SPA.

Tùy trường hợp tuổi thai, đe dọa sảy thai, chuyển dạ sinh non, cần chăm sóc

thai tốt, bằng cách nằm nghỉ ngơi, theo dõi nhịp tim thai bằng monitoring

sản khoa và dùng cách thuốc giảm go như salbutamol, spasfon… Tất cả

thuốc điều trị cần phải có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.

Cách phòng ngừa

Luôn luôn rửa rau và trái cây trước khi ăn. Tránh không ăn các loại thịt chưa

nấu chín, và các sản phẩm thịt. Không tiêu thụ sản phẩm chưa được chế biến

và chưa được tiệt trùng. Thức ăn phải được nấu chín kỹ càng và đun sôi.

Không ăn các loại thức ăn làm bằng gỏi sống, thức ăn qua đêm hay thức ăn

không được bảo quản kỹ, thức ăn chuyển màu, có mùi ôi thiu.

Khi chọn thực phẩm, chú ý những thực phẩm còn tươi, mới chế biến có dán

nhãn mác rõ ràng và có địa chỉ và cơ sở sản xuất có uy tín và được cấp giấy

chứng nhận về vệ sinh an toàn thực phẩm, không nên dùng các loại thực

phẩm không có nguồn gốc, thực phẩm đã hết hạn sử dụng. Chú ý, luôn rửa

tay sau khi tiếp xúc với vật nuôi bao gồm vịt, bò, lợn, chó, mèo và gà… vì

đây là những loài vật có khả năng lây nhiễm cao.