LUẬN VĂN:

Nhận thức, thái độ và hành vi của

cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với

pháp lệnh dân số

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tháng 01 năm 1993, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp Trung ương Đảng khoá VII đã

ban hành Nghị quyết về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình (DS - KHHGĐ)

nhằm giải quyết cơ bản về vấn đề dân số, tiến tới ổn định quy mô dân số của nước ta.

Văn kiện Đại hội IX của Đảng cũng khẳng định: “Chính sách dân số nhằm chủ động

kiểm soát quy mô và tăng chất lượng dân số phù hợp với những yêu cầu phát triển kinh tế

- xã hội. Nâng cao chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia

đình; giải quyết tốt mối quan hệ giữa phân bố dân cư hợp lý với quản lý dân số và phát

triển nguồn nhân lực” [13, tr.107]. Thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng về chính

sách dân số, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh dân số (PLDS) ngày

9/1/2003, Chủ tịch nước ký Lệnh ban hành ngày 22/1/2003, tạo điều kiện thuận lợi và

bảo đảm hành lang pháp lý cho việc tổ chức thực hiện công tác dân số; điều chỉnh thống

nhất, định hướng toàn diện vấn đề dân số, bao gồm quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân

bố dân cư, chất lượng dân số, các biện pháp thực hiện công tác dân số.

Tuy nhiên, từ khi PLDS được ban hành, năm 2003 tỷ lệ dân số của cả nước lại

tăng lên rõ rệt, từ 1,32% năm 2002 lên 1,47% năm 2003, tương đương mức tăng của năm 1999.

Đến năm 2004 - 2005, xu hướng tăng dân số tuy bước đầu được kiểm soát nhưng cả nước

vẫn không có khả năng thực hiện chỉ tiêu giảm mức tăng dân số xuống còn 1,22% vào

năm 2005 như Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra. Số liệu thống kê

cho thấy, ở 38 tỉnh/ thành phố trong tổng số 64 tỉnh/thành phố của cả nước, mức sinh đã

tăng lên [71, tr.3]. Điều đáng lo ngại là tỷ lệ sinh con thứ ba ở các thành phố lớn, như Hà

Nội và thành phố Hồ Chí Minh, tăng lên khá cao so với năm trước đó. Một số cán bộ

công nhân viên và thậm chí cả đảng viên cũng lợi dụng sự thiếu chặt chẽ, chưa rõ ràng

trong một vài điều của PLDS để sinh con thứ ba. Điều này cho thấy, kết quả đạt được của

công tác dân số chưa thực sự vững chắc, chất lượng dân số thấp, vẫn chứa đựng nhiều

yếu tố tiềm ẩn dẫn đến sự bùng nổ dân số trở lại.

Trước sự gia tăng dân số như vậy, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 47-NQ/TW

ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ. Nghị quyết

nhấn mạnh, thực hiện chính sách dân số, DS - KHHGĐ là một trong những nhiệm vụ

quan trọng, cấp bách trước mắt. Mục tiêu nhanh chóng đạt mức sinh thay thế đảm bảo

trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ chỉ có một hoặc hai con, tiến tới ổn

định quy mô dân số ở mức 115 - 120 triệu người vào giữa thế kỷ XXI. Đồng thời nâng

cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ, tinh thần và cơ cấu nhằm cung cấp nguồn

nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để

làm tốt những điều này, đòi hỏi các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các đoàn thể xã hội

phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu thực hiện PLDS và Nghị quyết 47-

NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách

DS - KHHGĐ.

Trước tiên cần tiến hành những nghiên cứu đánh giá về nhận thức, thái độ và sự

thực hiện PLDS của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý (CBLĐ QL) các cấp. ở mỗi địa

phương, khu vực có hướng điều chỉnh và truyền thông, hướng dẫn việc thực hiện PLDS

nhằm đạt tới những mục tiêu mà chương trình quốc gia về dân số, dân số - phát triển

(DSPT) đã đề ra. Nghiên cứu ở từng địa bàn của mỗi tỉnh đang trở thành một nhiệm vụ

cấp thiết.

Yên Bái là một tỉnh miền núi phía Bắc, từ khi Nhà nước ban hành PLDS tỉ lệ sinh

con thứ 3 tăng, trong đó có nhóm cán bộ, đảng viên. Năm 2002 tỉ lệ sinh con thứ 3 ở Yên

Bái là 10,55%, 2003 là 12,9% đến năm 2004 mức này là 11,6%, năm 2005 là 12% và 6

tháng đầu năm 2006 là 12,45%. Như vậy, sau ba năm thực hiện PLDS, tỷ lệ sinh con thứ

ba đều cao hơn mức của năm 2002. Đây là một điều đáng lo ngại ở tỉnh Yên Bái. Do vậy,

chọn đề tài về “Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo - quản lý đối với

pháp lệnh dân số” là đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn, góp phần giúp các cơ quan

nhà nước thực hiện thành công những mục tiêu mà chương trình dân số, DSPT của Yên

Bái đã đặt ra.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong những năm vừa qua, do yêu cầu cả về lý luận và thực tiễn, đã có không ít

các công trình nghiên cứu trên các phương diện khác nhau về DS - KHHGĐ, DSPT,

sức khoẻ sinh sản (SKSS). Tuy nhiên, nghiên cứu về tác động của PLDS tới nhận thức,

thái độ, hành vi của cộng đồng dân cư nhất là của CBLĐQL thì chưa có nhiều. Mới có

một số công trình nghiên cứu được tập hợp như sau:

Tác giả Lê Thi đã có 2 bài viết.

Bài viết thứ nhất “Tác động của những yếu tố tâm lý đến sự gia tăng mức sinh

nhanh hiện nay” (Tạp chí Dân số và phát triển số 12/2004). Tác giả đã chỉ ra những

nguyên nhân khách quan dẫn đến sự gia tăng dân số trở lại. Những yếu tố tâm lý đang

hiện diện trong tâm thức của người Việt Nam. Người dân nhận thức sai lầm về PLDS,

trong đó có nêu lên sự tự nguyện của người dân trong việc sinh con. Từ đó bài viết đề cập

giải quyết những vấn đề tâm lý không thể áp đặt thô bạo, cần phải có lý lẽ thuyết phục,

những biện pháp tiến hành tế nhị, sâu sắc mới có thể thành công.

Bài thứ hai “Gia tăng dân số đột biến sẽ làm trầm trọng thêm nạn nghèo đói và

sự tụt hậu của Việt Nam” (Tạp chí dân số và phát triển số 2/2005). Tác giả đề cập đến

hậu quả của sự gia tăng dân số dẫn đến đói nghèo khiến các chi phí cho y tế, giáo dục,

văn hoá của Nhà nước không đáp ứng nổi. Tuy nhiên, đói nghèo do nhiều nguyên nhân

nhưng vấn đề cơ bản chính là gia đình nghèo đông con. Vì vậy, cả xã hội phải tham gia

công tác kế hoạch hoá trong việc sinh đẻ của các gia đình.

Tác giả Nguyễn Quỳnh Anh cũng có bài viết: “Pháp lệnh dân số nâng cao trách

nhiệm của công dân, gia đình và xã hội” (Tạp chí Cộng sản số 27/ 2003). Tác giả đề cập

đến một số quy định trong PLDS, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân về DS - KHHGĐ.

Trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các biện pháp

nâng cao chất lượng dân số.

Tác giả Nguyễn Thị Vũ Thành, Lê Cự Linh cũng đã có bài viết: “Tìm hiểu một số

yếu tố ảnh hưởng đến sinh con thứ 3 trở lên ở Hà Nội” (Tạp chí dân số và phát triển số

6/2005). Tác giả chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến việc sinh con thứ 3. Trong đó nghiên

cứu cho thấy một bộ phận các cặp vợ chồng đã hiểu sai, hoặc cố ý làm sai PLDS.

Bên cạnh đó còn có luận văn thạc sỹ Xã hội học của Nguyễn Hữu Cường (2005)

về đề tài “Cán bộ các ban Đảng với việc thực hiện các chủ trương, chính sách dân số -

phát triển/sức khoẻ sinh sản”, đã đi sâu phân tích, đánh giá, dự báo về xu hướng biến đổi

và đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao nhận thức, thái độ và sự tham gia

tích cực, có hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công chức các ban Đảng vào công tác xây dựng

và thực hiện các chủ trương, chính sách DSPT/SKSS.

Nghiên cứu “Đánh giá thái độ của các nhóm đối tượng đối với các qui định của

chính sách DS - KHHGĐ” do TS. Nguyễn Đức Mạnh và các cộng sự thực hiện vào năm

2005 cũng đã chỉ rõ thực trạng nhận thức và thái độ của các nhóm đối tượng đối với một

số quy định của chính sách DS - KHHGĐ và PLDS như: các quy định về tuổi kết hôn; về

quy mô gia đình; về khoảng cách giữa các lần sinh; về không phân biệt giới tính; cấm lựa

chọn giới tính thai nhi qua siêu âm; các quy định về sử dụng các biện pháp tránh thai;

khám thai đối với phụ nữ mang thai; nạo phá thai, về phòng tránh các bệnh nhiễm khuẩn

đường sinh sản và các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/ADIS; các quy định giáo

dục giới tính và sức khoẻ sinh sản vị thành niên. Trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến

nghị nhằm góp phần bổ sung, sửa đổi hoàn thiện chính sách phù hợp với yêu cầu công tác

DS - KHHGĐ trong thời gian tới.

Ngoài ra, khi tìm hiểu về nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ đảng viên với

chính sách dân số đã có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập ở những góc độ khác

nhau. Tuy những nghiên cứu này được thực hiện vào thời điểm trước PLDS nhưng chúng

đã cung cấp những nội dung, phương hướng, cách thức tiếp cận với vấn đề mà luận văn

này đang hướng tới. Có thể kể tới một số công trình nghiên cứu sau: Đề tài nghiên cứu

khoa học về “Nhận thức, thái độ và thực hiện của đảng viên là cán bộ lãnh đạo chủ chốt

và tổ chức đảng đối với Nghị quyết về chính sách DS - KHHGĐ” do TS. Đào Trọng Cảng

và cộng sự tiến hành năm 1994 - 1995; “Thực trạng nhận thức và chỉ đạo của đội ngũ

cán bộ lãnh đạo quản lý, sau 2 năm thực hiện Nghị quyết TW4 của Ban Chấp hành Trung

ương (khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ” do GS. Chung á và cộng sự tiến hành năm

1993 - 1995. Các nghiên cứu này đã khẳng định vai trò quan trọng của các cấp uỷ Đảng

và CBLĐQL trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác DS - KHHGĐ. Những vấn đề liên

quan đến nhận thức, thái độ và hành vi lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chương trình dân số,

DS - KHHGĐ của CBLĐQL các cấp cũng đã được đề cập. Trên cơ sở này mà đề xuất

một số khuyến nghị có giá trị thiết thực như: Nhanh chóng trang bị những kiến thức cơ bản

và cần thiết về DS - KHHGĐ cho CBLĐQL ở các cấp; nâng cao chất lượng hoạt động của

bộ máy quản lý này. Tăng cường đầu tư kinh phí và trang thiết bị cho các địa phương để

thực hiện công tác DS - KHHGĐ.

Năm 1997, PGS.TS. Nguyễn Hữu Tri đã thực hiện đề tài“Đánh giá nhận thức và

vai trò của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước các cấp trong việc thực hiện

chính sách DS - KHHGĐ”. Đề tài đã tiến hành nghiên cứu trên 20 đơn vị thuộc ba miền:

Bắc, Trung và Nam. Đề tài tập trung vào việc đánh giá mức độ nhận thức của đội ngũ cán

bộ quản lý hành chính nhà nước các cấp trong việc thực hiện các chính sách DS -

KHHGĐ. Từ đó đưa ra một số khuyến nghị cụ thể nhằm nâng cao vai trò và nhận thức

của cán bộ quản lý hành chính nhà nước đối với các vấn đề liên quan đến DS - KHHGĐ.

Năm 1999, nghiên cứu của Hoàng Xuân Trường, TS. Nguyễn Phương Hồng đã

tiến hành “Khảo sát, đánh giá vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng và cán bộ chủ chốt các

cấp trong việc thực hiện Nghị quyết TW4 (Khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ ở nước

ta”. Nghiên cứu này đã chỉ ra thực trạng lãnh đạo của các tổ chức đảng, chính quyền và

các đoàn thể xã hội ở tỉnh, huyện và cơ sở trong việc thực hiện Nghị quyết TW4 (Khoá

VII) về chính sách DS - KHHGĐ. Qua đó đề xuất và khuyến nghị, các giải pháp nhằm

nâng cao vai trò của tổ chức đảng và cán bộ chủ chốt với công tác DS - KHHGĐ.

Năm 2001, trong khuôn khổ dự án VIE/97/P16 do Trung tâm nghiên cứu dư luận xã

hội thuộc Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương đã tiến hành đề tài: “Nghiên cứu nhận thức,

thái độ và sự tham gia của các nhà lãnh đạo, quản lý và chuyên gia các cấp trong việc

hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách dân số - SKSS và phát triển”. Công

trình này đề cập đến nhận thức, thái độ và hoạt động tuyên truyền vận động với sự tham gia

của các nhà lãnh đạo, quản lý, các chuyên gia, những người có uy tín trong cộng đồng trong

hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách, chương trình DSPT/SKSS. Trên cơ sở

đó đề xuất các khuyến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thông tin, tuyên

truyền về các chủ trương, chính sách, chiến lược DSPT/SKSS.

Có thể thấy rằng, các nghiên cứu về nhận thức, thái độ và hành vi của

CBLĐQL với dân số, DSPT/SKSS là khá phong phú. Các nghiên cứu đã góp phần

làm rõ thực trạng nguyên nhân, xu hướng biến chuyển trong nhận thức, thái độ và

hành vi của CBLĐQL với công tác dân số, DS - KHHGĐ và DSPT trong thời gian

qua. Song đến nay vẫn chưa có những công trình nghiên cứu nào đề cập một cách

toàn diện và sâu sắc tác động của PLDS với nhận thức, thái độ, hành vi của cộng

đồng dân cư nhất là của nhóm CBLĐQL các cấp. ở địa phương như Yên Bái, các

công trình nghiên cứu như vậy càng hiếm hơn. Do vậy, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài

"Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với pháp lệnh dân

số" làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ xã hội học.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

* Mục đích nghiên cứu:

Luận văn tập trung vào làm rõ thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của

CBLĐQL ở tỉnh Yên Bái đối với PLDS, trên cơ sở này đề xuất một số giải pháp góp

phần hoàn chỉnh PLDS và các văn bản có liên quan, nâng cao hiệu lực và hiệu quả việc

thực hiện PLDS.

* Nhiệm vụ nghiên cứu:

Để đạt được các mục tiêu trên luận văn tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cơ

bản sau:

- Xác định và làm rõ một số khái niệm đặt cơ cở cho việc nghiên cứu như: nhận

thức, thái độ, hành vi, PLDS, CBLĐQL.

- Xác định cơ sở lý luận và những lý thuyết xã hội học cho việc nghiên cứu như lý

luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và các lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết cơ cấu chức

năng, lý thuyết dân số.

- Thu thập, phân tích các tài liệu có sẵn và khảo sát xã hội học để chỉ ra thực trạng nhận

thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với việc tiếp thu, thực hiện PLDS và những văn bản có

liên quan.

- Xác định những yếu tố tác động đến nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL

đối với PLDS.

- Dự báo xu hướng và đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp góp phần hoàn chỉnh

PLDS và nâng cao nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL trong việc cụ thể hoá và thực

hiện có hiệu quả PLDS.

4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu của luận văn

* Đối tượng nghiên cứu:

Nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL các cấp tỉnh, huyện và cơ sở xã,

phường của Yên Bái với PLDS.

* Khách thể nghiên cứu:

Cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp ở tỉnh Yên Bái.

* Phạm vi nghiên cứu:

- Không gian: tỉnh Yên Bái.

- Thời gian: Từ sau khi ban hành PLDS (2003) đến nay.

5. Giả thuyết nghiên cứu, hệ biến số và khung lý thuyết của luận văn

* Giả thuyết nghiên cứu:

- PLDS có điểm quy định thiếu rõ ràng nên một bộ phận CBLĐQL có nhận thức, thái

độ và hành vi chưa đúng.

- Công tác truyền thông về PLDS chưa đồng bộ, thiếu nhất quán nên một bộ phận

CBLĐQL quán triệt chưa cụ thể, thiếu rõ ràng nên thực hiện pháp lệnh chưa tốt.

- Nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS phụ thuộc khá nhiều

vào đặc điểm cá nhân như tuổi, giới tính, trình độ học vấn, dân tộc, cấp công tác và khối

công tác.

* Khung lý thuyết:

Hành vi:

Tuổi

- Gương mẫu thực hiện. - Tham gia tổ thực

chức hiện.

- Tuyên truyền,

Giới tính

Cán bộ

Thái độ: - ủng hộ hay không ủng

Học vấn

lãnh

hộ.

- Tích cực hay không

Dân tộc

đạo,

tích cực.

quản lý

Cấp công tác

Nhận thức: - Nội dung PLDS. - Trách nhiệm cá nhân

đối với PLDS.

Khối công tác

- Trách nhiệm của cơ quan đối với PLDS. - Nghị quyết 47/ BCT.

Môi trườn g KT -XH Chính sách dân số Pháp lệnh dân số

*Hệ biến số:

Đề tài đã xác định hệ thống các biến số như sau:

+ Biến số độc lập:

Đặc điểm cá nhân:

- Độ tuổi.

- Giới tính.

- Học vấn : Trung học phổ thông, trung cấp, cao đẳng trở lên.

- Dân tộc.

- Cấp công tác: Cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, phường.

- Khối công tác: Khối Đảng, khối chính quyền, khối đoàn thể, khối doanh nghiệp.

+ Biến số phụ thuộc:

Nhận thức:

- Thời điểm ra đời của PLDS.

- Pháp lệnh dân số quy định về trách nhiệm công dân.

- Những quy định của PLDS về trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị.

- Tiếp thu PLDS qua kênh truyền thông nào? hình thức nào?

- Truyền thông có gì khác biệt giữa các kênh khác nhau.

- Mức hiểu biết về Nghị quyết số 47- NQ/TW của Bộ Chính trị

Thái độ:

- Pháp lệnh dân số ra đời đúng thời điểm chưa?

- Mức độ ủng hộ của CBLĐQL đối với sự ra đời của PLDS

- Cán bộ có sẵn sàng tiếp thu tổ chức thực hiện PLDS không?

- Mức độ cần thiết ban hành Nghị quyết số 47- NQ/TW của Bộ

Chính trị.

Hành vi:

- Gương mẫu thực hiện.

- Tuyên truyền vận động người khác thực hiện.

- Tham gia tổ chức chỉ đạo thực hiện: Nêu ý kiến sửa đổi, tổ chức lãnh đạo, chỉ

đạo thực hiện và đầu tư nguồn lực.

+ Biến trung gian:

Chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và môi trường kinh tế xã hội.

6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

* Cơ sở lý luận:

- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước về dân số và chính

sách DS - KHHGĐ và DSPT/SKSS.

- Dựa trên các lý thuyết xã hội học như: Lý thuyết cơ cấu chức năng, lý thuyết

hành động xã hội, lý thuyết dân số.

* Phương pháp nghiên cứu cụ thể:

Luận văn sử dụng các phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu sau:

+ Phương pháp nghiên cứu định tính:

- Phân tích tài liệu có sẵn: Thu thập và phân tích các tài liệu bao gồm: các công

trình nghiên cứu liên quan đến đề tài; Niên giám thống kê của tỉnh; Các báo cáo về

công tác DS - KHHGĐ và DSPT/SKSS của tỉnh từ năm 2002 đến nay.

- Phỏng vấn sâu 12 cuộc, trong đó CBLĐQL thuộc cơ quan đảng (3 cuộc), uỷ

ban nhân dân (3 cuộc), hội đồng nhân dân (3 cuộc), tổ chức đoàn thể (3 cuộc).

+ Phương pháp nghiên cứu định lượng:

Đề tài thực hiện điều tra xã hội học 300 phiếu trưng cầu ý kiến.

+ Giới tính người trả lời :

Nam giới : 67%

Nữ giới : 33%

+ Về độ tuổi:

Dưới 30 tuổi : 15,9%

Từ 31 - 40 tuổi : 31,4%

Từ 41 - 50 tuổi : 46,2%

Trên 51 tuổi : 6,5%

+ Về dân tộc:

Kinh : 78,3%

Dân tộc thiểu số : 21,7%

+ Học vấn:

Trung học phổ thông : 6,7%

Trung cấp : 25,7%

Cao đẳng trở lên : 67,6%

+ Khối cơ quan:

Khối Đảng : 19,7%

Khối chính quyền : 54,0%

Khối đoàn thể : 17,7%

Khối doanh nghiệp : 8,6%

7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

* ý nghĩa lý luận:

Trên cơ sở vận dụng các lý thuyết xã hội học như lý thuyết cơ cấu chức năng, lý

thuyết hành động xã hội, lý thuyết dân số để phân tích và lý giải hành vi của nhóm

CBLĐQL với việc giải quyết vấn đề dân số, DSPT, thực hiện PLDS. Luận văn sẽ góp

phần làm rõ tính quy luật trong hành vi của CBLĐQL trong việc sinh sản và nâng cao

chất lượng dân số.

* ý nghĩa thực tiễn:

- Đề tài góp phần làm rõ thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của đội ngũ

CBLĐQL các cấp trong việc thực hiện PLDS ở một tỉnh miền núi phía Bắc có đồng bào

dân tộc thiểu số sinh sống. Trên cơ sở này mà góp phần đề xuất một số khuyến nghị, giải

pháp nhằm nâng cao năng lực cũng như sự tham gia tích cực, có hiệu quả của CBLĐQL

vào quá trình hoàn chỉnh và thực

hiện PLDS.

- Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ các cơ quan Đảng,

Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, cho đội ngũ giáo viên, học viên trong hệ thống trường

chính trị khi tiếp cận và tham gia tuyên truyền, thực hiện PLDS.

8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm có 3 chương, 10 tiết.

Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu

Chương 2: Thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS

Chương 3: Một số giải pháp, khuyến nghị nhằm hoàn chỉnh và nâng cao chất

lượng thực hiện PLDS

Chương 1

Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu

1.1. Các khái niệm cơ bản

1.1.1. Nhận thức

Theo từ điển Tiếng Việt, nhận thức là nhận ra và biết được, hiểu được về một ai

đó, một vấn đề hay một hiện tượng nào đó [36, tr. 89].

Nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư

duy, là quá trình con người nhận biết và hiểu biết thế giới khách quan. Quá trình ấy đi

từ cảm giác đến tri giác, từ tri giác đến tri thức. Diễn ra ở mấy mức độ:

- Kinh nghiệm hàng ngày về các đồ vật và người khác, mang tính tự phát,

thường hỗn hợp với tình cảm, thành kiến, thiếu hệ thống.

- Khoa học, các khái niệm được kiến tạo một cách chặt chẽ, có hệ thống, với ý

thức về phương pháp và những bước đi của tư duy để chứng nghiệm đúng sai.

Ngày nay đa số các nhà khoa học cho rằng nhận thức là một quá trình tiếp cận,

tiến đến gần chân lý, nhưng không bao giờ ngừng ở một trình độ nào vì không bao giờ

nắm bắt hết toàn bộ hiện thực, phải thải loại dần những cái sai, tức không ăn khớp với

hiện thực, đi hết bước này sang bước khác [84, tr.250].

Nhận thức của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với Pháp lệnh dân số:

Là quá trình phản ánh, thu nhận những kiến thức về PLDS. Nghiên cứu này chú

trọng tới việc tìm hiểu mức độ hiểu biết của đối tượng hay khối lượng kiến thức mà đối

tượng nắm được về năm ban hành và cơ quan ban hành PLDS; Hiểu biết một số quy định

về nội dung trong PLDS như: Hiểu biết đối với quy định về quy mô gia đình 1-2 con; về

khoảng cách giữa các lần sinh; về quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân

trong việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình (KHHGĐ) (Điều 10); Hiểu biết đối với quy

định cấm lựa chọn giới tính thai nhi; về quy định các biện pháp thực hiện KHHGĐ và về

quy định các biện pháp nâng cao chất lượng dân số; Ngoài ra còn là hiểu biết về Nghị

quyết 47-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính

sách DS - KHHGĐ; Hiểu biết quy định về các biện pháp thực hiện công tác dân số.

1.1.2. Thái độ

Theo từ điển xã hội học, thái độ của một cá nhân đối với một đối tượng là một

trong những nhân tố chính gắn với cá nhân và quyết định ứng xử của cá nhân đối với

đối tượng [16, tr.443].

Chúng ta có thể hiểu thái độ là cách nghĩ, cách nhìn, cách hành động theo

hướng nào đó trước một vấn đề.

Thái độ xuất phát chủ yếu từ những thông tin nhận được về các đối tượng, các

sự vật, hiện tượng. Có thể là thông tin trực tiếp phát ra từ đối tượng, cũng có thể là

gián tiếp do người khác cấp cho.

Thái độ của một người trước một sự kiện xã hội thông qua sự tán thành hoặc

phản đối, thông qua hành vi tham gia hoặc không tham gia sự kiện đó. Thái độ của

một người bị quy định bởi các yếu tố xã hội phụ thuộc vào các khuôn mẫu xã hội.

Theo từ điển Tâm lý, trước một số đối tượng nhất định như hàng hoá hoặc một

ý tưởng nào (chính trị, tôn giáo, triết lý), nhiều người thường có những phản ứng tức

thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay chống đối, như đã sẵn có những cơ

cấu tâm lý tạo ra định hướng cho việc ứng phó, đó là thái độ [84, tr.346].

Thái độ của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với Pháp lệnh dân số:

Là những quan điểm của đối tượng về PLDS. Nó được thông qua việc đánh giá

về mức độ ủng hộ hay không ủng hộ một số quy định trong nội dung PLDS. Thái độ

đối với ý nghĩa, tầm quan trọng của PLDS; Mức độ ủng hộ hay không ủng hộ việc tìm

hiểu và thực hiện PLDS.

1.1.3. Hành vi

Mọi phản ứng của một cá nhân khi bị một yếu tố nào trong môi trường kích

thích; các yếu tố bên ngoài và tình trạng bên trong gộp thành một tình huống và tiến

trình ứng xử để thích ứng có định hướng, mục tiêu nhằm giúp chủ thể thích nghi với

hoàn cảnh thì gọi là hành vi.

Theo từ điển Tiếng việt, hành vi là toàn bộ nói chung những phản ứng, cách cư

xử, biểu hiện ra ngoài của một người trong hoàn cảnh cụ thể nhất định [36, tr.25].

Hành vi là sự chuyển tải nhận thức, thái độ thành việc làm cụ thể. Hành vi của

con người ở mức độ cao là được học tập và có thể thay đổi bởi ảnh hưởng của những

động viên hoặc kích thích thay đổi được của môi trường. Theo Max Weber, hành vi xã

hội là điểm xuất phát của mọi quá trình xã hội. Theo Parsons, muốn giải thích một hiện

tượng xã hội nào phải quy về những hành vi cá nhân sơ đẳng, coi như một sự kiện, một

dữ kiện riêng.

Như vậy, hành vi bao giờ cũng phát triển trong hệ thống cưỡng chế ít hay nhiều

rõ rệt đối với chủ thể. Tuy vậy nó cũng không phải hoàn toàn do các cơ cấu xã hội khách

quan quy định. Nó là hành vi cá nhân diễn ra trong quá trình xã hội hoá, nó còn dựa vào

những ý định và động cơ của chủ thể hành vi, cũng như vào những phương tiện thực hiện

hành vi của chủ thể [83, tr.125].

Hành vi của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với pháp lệnh dân số:

Là một dạng hoạt động xã hội có mục đích của nhóm xã hội - CBLĐQL gắn

với sự cần thiết phải đáp ứng những nhu cầu căn bản của quá trình nhận thức về

PLDS. Hành vi nghiêm túc hay gương mẫu trong việc thực hiện PLDS; tuyên truyền

vận động người khác thực hiện; Tham gia tổ chức thực hiện như nêu ý kiến sửa đổi,

tuyên truyền vận động, tổ chức lãnh đạo; Tham gia đầu tư nguồn lực cho việc thực

hiện PLDS.

1.1.4. Cán bộ lãnh đạo, quản lý

* Cán bộ, theo nghĩa chung nhất, là khái niệm chỉ người làm công tác có

nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước. Theo nghĩa hẹp, cán bộ chỉ người làm

công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường,

không có chức vụ [54, tr.121].

* Lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức động viên thực hiện chúng

[17, tr.540]. Lãnh đạo thường nhấn mạnh đến chức năng định hướng về tư tưởng, sắp xếp

về cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của một hệ thống xã hội nào đó.

* Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định

[17, tr.540]. Quản lý ở một góc độ nhất định thường nhấn mạnh đến chức năng điều

hành, tổ chức những công việc hoặc những hoạt động cụ thể. Quản lý là sự tác động có tổ

chức, có hướng đích của chủ thể quản lý vào khách thể quản lý, hướng khách thể quản lý

đến những mục tiêu đã được xác định trước.

Lãnh đạo và quản lý là hai lĩnh vực khác nhau nhưng không hoàn toàn tách biệt

mà gắn bó mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau thống nhất chặt chẽ trong hoạt động của

những người có chức vụ trong hệ thống tổ chức xã hội. Không nên hiểu lãnh đạo là chức

năng riêng của cơ quan Đảng, cán bộ Đảng; quản lý là chức năng riêng của cơ quan nhà

nước, cán bộ nhà nước. Trên thực tế, không có cán bộ Đảng nào chỉ lãnh đạo về mặt

chính trị mà không quản lý, không có cán bộ chính quyền nào chỉ quản lý các hoạt động

kinh tế, xã hội, dân cư...mà không lãnh đạo.

Như vậy, trong luận văn sử dụng khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý là chỉ những

người giữ cương vị nhất định, thường là cấp trưởng, cấp phó của các cơ quan Đảng,

chính quyền, đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội trong hệ thống chính trị hiện nay.

1.1.5. Pháp lệnh dân số

Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, Pháp lệnh là văn bản quy phạm pháp luật do

cơ quan thường trực của Quốc hội ban hành. Theo quy định (điều 91) của Hiến pháp

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992) Uỷ ban thường vụ Quốc hội “ra pháp

lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao”. Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội

phải được quá nửa tổng số thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành

và phải được công bố chậm nhất là 15 ngày. Quyền công bố pháp lệnh thuộc về Chủ tịch

nước (Điều 103, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992). Theo quy

định của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, sau một thời gian thực hiện và hoàn

thiện, Quốc hội sẽ xem xét để quyết định ban hành thành luật (điều 21). Điều 47 luật ban

hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định trình tự xem xét, thông qua dự án pháp

lệnh tại phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Sau khi pháp lệnh được Uỷ ban

thường vụ Quốc hội thông qua, Chính phủ ban hành nghị định quy định chi tiết thực hiện

pháp lệnh. Quyền giải thích pháp lệnh thuộc về Uỷ ban thường vụ Quốc hội [21, tr.419].

Dân số: Là tập hợp người sinh sống trong một quốc gia, khu vực, vùng địa lý kinh

tế hoặc một đơn vị hành chính (Khoản 1, điều 3 PLDS )

Pháp lệnh dân số: Là văn bản qui phạm pháp luật, là cơ sở pháp lý bảo đảm cho

việc tổ chức thực hiện công tác dân số và nâng cao trách nhiệm của công dân, gia đình,

Nhà nước và xã hội trong công tác dân số. PLDS điều chỉnh toàn diện vấn đề dân số, bao

gồm qui mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư và chất lượng dân số, các biện pháp

thực hiện công tác dân số.

Theo những văn bản có tính pháp quy về dân số thì:

+ Quy mô dân số: Là số người sống trong một quốc gia, khu vực, vùng địa lý kinh

tế hoặc một đơn vị hành chính tại thời điểm nhất định (Khoản 2, điều 3 PLDS). Quan

niệm này cho thấy, quy mô dân số sẽ chẳng có ý nghĩa khi xét độc lập về mặt số lượng

đơn thuần, nó chỉ thực sự có ý nghĩa khi so sánh chúng với nhau theo thời gian và khi xét

chúng trong mối quan hệ với không gian mà con người sinh sống, nghĩa là theo quốc gia,

khu vực, vùng địa lý hoặc một đơn vị hành chính. Quy mô dân số chỉ có ý nghĩa khi so

sánh về tốc độ thay đổi của nó với những đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội và

sự phát triển nói chung của xã hội.

+ Cơ cấu dân số: Là tổng số dân được phân loại theo giới tính, độ tuổi, dân tộc,

trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân và các đặc trưng khác (Khoản 3, điều

3 PLDS). Cơ cấu dân số phản ánh các đặc trưng của mỗi lớp người và của toàn bộ dân số.

Các đặc trưng về giới tính, độ tuổi phản ánh về mặt nhân khẩu học; các đặc trưng về dân

tộc, tôn giáo, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn phản ánh về mặt xã hội; các đặc trưng

về nghề nghiệp, trình độ chuyên môn phản ánh về mặt kinh tế; các đặc trưng về giai cấp,

thành phần xã hội phản ánh về mặt chính trị. Như vậy, việc phân loại tập hợp người theo

các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng được hiểu chung như là cơ cấu xã hội của tập hợp

người theo các đặc trưng cụ thể.

+ Chất lượng dân số: là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần

của toàn bộ dân số (Khoản 6, điều 3 PLDS). Hiện nay có rất nhiều đặc trưng phản ánh

trạng thái về thể chất, trí tuệ và tinh thần, nên việc đo lường đánh giá chất lượng dân số là rất

phong phú, đa dạng và phức tạp. Có thể gộp các đặc trưng thành 5 nhóm: Thu nhập và phúc

lợi; sức khoẻ và dinh dưỡng; giáo dục và phát triển trí tuệ; giải trí văn hoá và tinh thần; môi

trường sống.

+ Công tác dân số: Là việc quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động tác động

đến quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư và nâng cao chất lượng dân số (Khoản 10,

điều 3 PLDS). Quan niệm này cho thấy, dân số là một tập hợp người nên mọi hoạt động kinh

tế - xã hội đều tác động đến mỗi người và tập hợp người. Do đó, việc quản lý và tổ chức thực

hiện các hoạt động dân số là hết sức cần thiết nhằm tác động và tác động có hiệu quả đến quá

trình dân số để hình thành quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư và chất lượng dân

số phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội trong hiện tại và tương lai.

1.2. Một số lý thuyết xã hội học áp dụng trong nghiên cứu luận văn

1.2.1. Lý thuyết cơ cấu chức năng

Lý thuyết cơ cấu chức năng gắn liền với tên tuổi của các nhà xã hội học như Emile

Durkheim, Talcott Parson, Robert Merton và nhiều nhà xã hội học khác.

Lý thuyết cơ cấu chức năng luôn nhấn mạnh đến tính liên kết chặt chẽ của các bộ

phận cấu thành nên một chỉnh thể mà mỗi bộ phận đều có chức năng nhất định góp phần

đảm bảo sự tồn tại của chỉnh thể đó với tư cách là một cấu trúc tương đối ổn định và bền

vững.

Cấu trúc theo các tác giả của phương pháp tiếp cận chức năng có thể khái quát lại

là kiểu quan hệ giữa con người và xã hội được định hình một cách ổn định, bền vững.

Chức năng là nhu cầu, lợi ích, sự cần thiết, sự đòi hỏi, hệ quả, tác dụng mà một thành

phần, bộ phận tạo ra hay thực hiện để đảm bảo sự tồn tại, vận động của cả hệ thống [23,

tr.201].

Các luận điểm chính của việc tiếp cận cấu trúc chức năng đều nhấn mạnh tính cân

bằng, ổn định và khả năng thích nghi của cấu trúc. Theo lý thuyết cơ cấu chức năng, một

xã hội tồn tại được, phát triển là do các bộ phận cấu thành của nó hoạt động nhịp nhàng

với nhau để đảm bảo sự cân bằng chung của cả cấu trúc; bất kỳ một sự thay đổi nào ở

thành phần nào cũng kéo theo sự thay đổi ở các thành phần khác. Sự biến đổi của cấu

trúc tuân theo quy luật tiến hoá, thích nghi khi môi trường sống thay đổi; sự biến đổi của

cấu trúc luôn hướng tới thiết lập lại trạng thái cân bằng, ổn định [23, tr.199].

Tiếp cận chức năng hướng vào giải quyết vấn đề bản chất của cấu trúc xã hội và

hệ quả của cấu trúc xã hội. Đối với bất kỳ sự kiện xã hội, hiện tượng xã hội nào, những

người theo thuyết chức năng đều hướng vào việc phân tích các thành phần tạo nên cấu

trúc của chúng, xem các thành phần đó có mối liên hệ với nhau như thế nào và đặc biệt

xem xét quan hệ của chúng đối với nhu cầu chung của sự tồn tại, phát triển các sự kiện,

hiện tượng đó. Ngoài ra lý thuyết cơ cấu chức năng còn đòi hỏi phải hướng vào tìm hiểu

cơ chế hoạt động của từng thành phần để biết chúng có chức năng, tác dụng gì đối với sự

tồn tại một cách cân bằng, ổn định của một cấu trúc xã hội [23, tr.199].

T. Parsons được coi như là đại biểu xuất sắc nhất đã phát triển lý thuyết cơ cấu chức

năng lên mức hoàn thiện nhất hay lý thuyết cơ cấu chức năng đã được trình bày một cách

có hệ thống nhất.

Về mặt lý thuyết, Parsons xem xét hệ thống trong một trục toạ độ 3 chiều: cấu trúc - chức

năng - kiểm soát. Tức là hệ thống nào cũng có cấu trúc của nó, hệ thống luôn nằm trong trạng

thái động vừa tự biến đổi, vừa trao đổi với môi trường xung quanh, hệ thống có khả năng điều

khiển và tự điều khiển [23, tr.204].

Khi nghiên cứu cấu trúc của hành động xã hội, Parsons cho rằng cấu trúc của hành

động được triển khai trên các cấp độ hệ thống khác nhau, trong đó hệ thống xã hội chỉ là

một trong các hệ thống của nó. Ông cho rằng thông qua quá trình xã hội hoá cá nhân,

hành động của con người hình thành và biểu hiện trên các cấp độ hệ thống từ cấp hành vi

của cá thể lên cấp nhân cách, cấp xã hội và cấp văn hoá. Trong các hệ thống hành động

trên (từ cấp hành vi đến cấp văn hoá) đều phải thích ứng với những vấn đề có tính chức

năng, những nhu cầu của tổng thể hệ thống, đó là vấn đề thích nghi, hướng đích, thống

nhất và duy trì khuôn mẫu. Các nhu cầu chức năng của hệ thống là những đòi hỏi mạnh

đến mức nó buộc bộ phận nào hoạt động không đúng chức năng sẽ phải thay đổi thậm chí

bị thu hẹp lại, hay phá bỏ đi hình thành bộ phận thay thế. Bộ phận nào hoạt động có hiệu

quả sẽ trưởng thành, lớn mạnh.

Parsons đã đưa ra sơ đồ nổi tiếng về hệ thống chức năng xã hội, viết tắt là AGIL.

Trong đó gồm bốn loại yêu cầu chức năng hợp thành: (A) thích ứng với môi trường; (G)

Hướng đích - huy động các nguồn lực để đạt mục tiêu; (I) Liên kết, phối hợp các hoạt

động; (L) Duy trì khuôn mẫu để tạo ra sự ổn định, trật tự [23, tr.206].

Tương ứng với sơ đồ trên, trong hệ thống xã hội, người ta có tiểu hệ thống kinh tế;

tiểu hệ thống chính trị; tiểu hệ thống pháp luật và tiểu hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã

hội được quy chuẩn thông qua các thiết chế gia đình, nhà trường, tổ chức văn hoá, tôn

giáo.

Tương quan và tương tác AGIL sẽ đảm bảo trật tự, ổn định của hệ thống xã hội.

Parson cho rằng các tiểu hệ thống quan hệ với nhau theo nguyên lý điều khiển học và

theo nguyên lý chức năng để tạo thành một chỉnh thể toàn vẹn. Thực tế, các tiểu hệ thống

trao đổi với nhau thông qua một loạt các phương tiện và công cụ xã hội.

Còn Merton cho rằng thuyết cấu trúc chức năng là sự giải thích một hiện tượng xã

hội bằng cách chỉ ra hệ quả (chức năng) của nó đối với những cấu trúc mà nó là một bộ

phận cấu thành. Theo ông các cấu trúc văn hoá mà cụ thể là hệ các giá trị xã hội là những

yếu tố cơ bản để lý giải cơ chế hoạt động và phối hợp hoạt động của các thiết chế xã hội.

Một trong những đóng góp lớn của Merton đối với lý thuyết chức năng trong xã hội học

là việc phát hiện ra sự loạn chức năng còn gọi là phi chức năng hay phản chức năng.

Theo ông phản chức năng là những hệ quả làm cản trở, thậm chí gây rối loạn, làm giảm

khả năng tồn tại, thích ứng của cấu trúc. Điều này cho thấy hệ quả có thể là chức năng,

tức là có lợi cho nhóm người này nhưng lại là phản chức năng, tức là có hại cho nhóm

người kia.

Merton đã sử dụng triệt để cách phân tích chức năng luận để đưa ra lý thuyết về sự

sai lệch xã hội. Ông cho rằng sự lệch chuẩn là sự không phù hợp, sự lệch pha giữa mục

tiêu văn hoá và phương tiện được thiết chế hoá. Do xác định sai mục tiêu văn hoá hoặc

chọn sai phương tiện mà hành động bị coi là lệch chuẩn, là sai lệch thậm chí là tội phạm.

Merton đã phân biệt năm kiểu hành động thích nghi với xã hội đó là:

+ “Kiểu thoả hiệp: Khi cả mục tiêu văn hoá và phương tiện được chủ thể lựa chọn

đều phù hợp với các hệ giá trị, chuẩn mực xã hội và do vậy được xã hội hoàn toàn chấp

nhận.

+ Kiểu đổi mới: Đây là kiểu hành động nhằm mục tiêu đã được chấp nhận nhưng

bằng những phương tiện và cách làm mà xã hội có thể chưa hay không chấp nhận.

+ Kiểu nghi thức: Đây là kiểu hành động tuân theo các thủ tục, các quy định và sử

dụng các phương tiện được thừa nhận, nhưng lại không nhằm vào mục tiêu văn hoá được

xã hội chấp nhận.

+ Kiểu thoái lui: Đây là kiểu hành động mà cả mục tiêu và phương tiện của nó đều

không được chấp nhận.

+ Kiểu nổi loạn: Đây là kiểu hành động hướng tới mục tiêu mới được đặt ra để thay

thế cho những mục tiêu cũ và sử dụng phương tiện mới thay thế cho phương tiện cũ.

Trong năm kiểu hành động này được sắp xếp trên cùng một trục ta thấy kiểu hành

động thoả hiệp nằm ở cực “bình thường, đúng mực” đối lập với kiểu nổi loạn ở cực “bất

thường, sai lệch”. Các kiểu hành động còn lại nằm dọc trên trục này, cụ thể sau “thoả

hiệp” là “đổi mới”, tiếp đến là “nghi thức” rồi “thoái lui” và cuối cùng là “nổi loạn” [23,

tr.214-215].

Merton nhấn mạnh sự khác biệt giữa các kiểu ứng xử xã hội chủ yếu là ở sự nhận

thức và thái độ đánh giá của xã hội đối với từng biểu hiện của mục tiêu văn hoá và

phương tiện được lựa chọn để thực hiện mục tiêu. Tiêu chuẩn để xác định mức độ đúng

mực hay sai lệch của hành động phụ thuộc vào hệ quả của nó đối với xã hội. Điều này

liên quan tới câu hỏi phương pháp luận của thuyết cấu trúc- chức năng mà Merton đặt ra

đó là hành động xã hội có chức năng hay phản chức năng đối với những nhóm cụ thể nào

[23, tr.215].

Theo hướng tiếp cận chức năng thì mọi xã hội từ bản chất nội tại của nó luôn có xu

hướng tiến tới sự hài hoà và tự điều chỉnh tương tự như những cơ thể sinh học, giống như

cơ thể con người là một thể thống nhất, mà các bộ phận riêng phải phục tùng những nhu

cầu cụ thể của cả hệ thống. Xã hội là một hệ thống các thiết chế phụ thuộc lẫn nhau và

tham gia tạo nên sự bền vững của tổng thể [37, tr.59].

áp dụng lý thuyết cơ cấu chức năng vào xem xét hệ thống tổ chức chính trị và chức

năng của từng bộ phận CBLĐQL trong việc hoàn thành những nhiệm vụ chính trị, xã hội

mà hệ thống đặt ra cho thấy, với PLDS CBLĐQL là người phải nghiêm túc thực hiện

PLDS. Nhận thức của CBLĐ QL thế nào thì họ sẽ có thái độ, hành vi tương ứng như vậy.

Tuy nhiên, hành vi của họ còn phụ thuộc vào vị thế, vai trò, những chuẩn mực văn hoá và

hệ thống xã hội đã sắp xếp họ vào. Đây là cơ sở quan trọng để xem xét thái độ và hành

động của CBLĐQL trong việc tổ chức thực hiện PLDS.

1.2.2. Lý thuyết hành động xã hội

Lý thuyết hành động xã hội gắn với tên tuổi nhiều nhà xã hội học, trong đó đặc

biệt là M. Weber. Tiếp cận này coi hành động xã hội là cốt lõi của mối quan hệ giữa con

người và xã hội, đồng thời là cơ sở của đời sống xã hội của con người.

ở phương diện triết học, hành động xã hội là một hình thức hoặc cách thức giải

quyết các mâu thuẫn, các vấn đề xã hội. Còn ở phương diện xã hội học, hành động xã hội

được hiểu cụ thể hơn và thường gắn với các chủ thể của hành động là các cá nhân.

Một trong những khái niệm quan trọng nhất trong lý thuyết xã hội học của Max

Weber là hành động xã hội. Weber đã sử dụng triệt để phương pháp luận để định nghĩa

xã hội học là “khoa học giải nghĩa hành động xã hội và... tiến tới cách giải thích nhân quả

về đường lối và hệ quả của hành động xã hội”[86, tr.4]. Theo quan điểm của Weber, xã

hội học là khoa học có nhiệm vụ lý giải, tức là giải nghĩa, thông hiểu động cơ, ý nghĩa

của hành động xã hội. Điều này cho thấy xã hội học vừa có đặc điểm tự nhiên, tức là giải

thích nguyên nhân, điều kiện và hệ quả của hành động xã hội, vừa có đặc điểm của khoa

học xã hội - nhân văn, tức là lý giải mục đích, nhu cầu, động cơ, ý nghĩa của hành động

xã hội [12, tr.115].

Xã hội học phải là một khoa học giải thích các lý do của hành động xã hội, quá

trình và tác động của chúng. Hành động có nghĩa là một thái độ của con người (tự có,

hành động bên ngoài hoặc bên trong, không được phép hoặc được phép), khi và chỉ khi

chủ thể gắn liền thái độ của mình với một ý nghĩa chủ quan. Hành động, cái ý nghĩa mà

các tác nhân phản ảnh, có quan hệ với hành động của những người khác và diễn ra do sự

định hướng của hành động này. M. Weber cho rằng xã hội học chỉ xem xét hành động

chừng nào chủ thể có một ý nghĩa xác định cho những hành động của mình. Chỉ hành

động như vậy mới có thể khiến nhà xã hội học quan tâm. Khái niệm hành động xã hội

xác lập chỉ chừng nào chủ thể hành động gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan. Đối với M.

Weber, đối tượng nghiên cứu của xã hội học là thứ hành động gắn với ý nghĩa được ám

chỉ một cách chủ quan. Theo quan điểm của ông, xã hội học là khoa học về cái “hiểu”

[11, tr.102-103]. Như vậy, hành động xã hội nghĩa là cơ sở của những động cơ chủ quan

của cá nhân (hay nhóm) và sự định hướng đến người khác. Đây là hai điều kiện mà thiếu

nó thì không thể nói đến hành động xã hội.

Trên cơ sở đó, M. Weber đã chỉ ra sự khác nhau giữa hành động xã hội và những

hành vi và hoạt động khác của con người. Nói tới hành động là nói tới việc chủ thể gắn cho

hành vi của mình một ý nghĩa chủ quan nào đó. Hành động, kể cả hành động thụ động và

không hành động (ví dụ như hành động im lặng, hành động chờ đợi không làm gì cả) được

gọi là hành động xã hội khi ý nghĩa chủ quan của nó có tính đến hành vi của người khác

trong quá khứ, hiện tại hay trong tương lai; ý nghĩa chủ quan đó định hướng hành động [23,

tr.177-178].

Theo quan điểm của M. Weber, không phải hành động nào cũng có tính xã hội hay

đều là hành động xã hội. Những hành động nào chỉ nhằm tới các sự vật mà không tính

đến hành vi của người khác thì không được gọi là hành động xã hội. Không phải tương

tác nào của con người cũng là hành động xã hội. Chỉ những hoạt động nào có mục đích,

chủ thể “hiểu” ý nghĩa của nó mới là “hành động xã hội” cần nghiên cứu. Theo hướng

này M. Weber phân hành động xã hội thành 4 loại bao gồm:

+ “Hành động duy lý giá trị: Là hành động được thực hiện vì bản thân hành động

(mục đích tự thân). Thực chất loại hành động này có thể nhằm vào những mục đích phi lý

nhưng lại được thực hiện bằng những công cụ, phương tiện duy lý. Ví dụ hoạt động tín

ngưỡng là một loại hành động duy lý giá trị.

+ Hành động cảm tính (xúc cảm): Là hành động do các trạng thái xúc cảm hoặc

tình cảm bột phát gây ra, mà không có sự cân nhắc, xem xét, phân tích mối quan hệ giữa

công cụ, phương tiện và mục đích hành động. Những hành động này rất khó kiểm tra, vì

nó mang tính tự phát, những hành động do cảm xúc cũng khó nghiên cứu. Ví dụ hành

động của đám đông quá khích hay hành động do tức giận gây ra.

+ Hành động theo truyền thống: Là loại hành động tuân thủ những thói quen, nghi

lễ, phong tục tập quán đã được truyền lại từ đời này qua đời khác như hành động theo

người xưa, cổ nhân nói, hành động vì mọi người đều làm như thế cả…

+ Hành động duy lý - công cụ: Là hành động được thực hiện với sự cân nhắc, tính

toán, lựa chọn công cụ, phương tiện, mục đích sao cho có hiệu quả cao nhất. Ví dụ rõ

nhất là hành động kinh tế luôn phải tính toán, lựa chọn phương pháp để đạt được năng

suất, chất lượng, hiệu quả cao nhất có thể được” [23, tr.179-180].

Theo M. Weber, bốn loại hành động trên đây không tồn tại độc lập hoàn toàn với

nhau mà có sự tác động và thâm nhập vào nhau. Ông coi bốn loại hình hành động này hết

sức cần thiết đối với nhà nghiên cứu. Vấn đề là ở chỗ cần phải xác định được ranh giới

của bốn loại hoạt động đó trong từng nền văn hoá khác nhau. Theo Weber, xã hội cấu

thành từ các cá nhân với những hành động xã hội đặc trưng của họ. Tuy nhiên, trong bốn

loại hành động trên, hành động duy lý - công cụ là hành động được thực hiện với sự cân

nhắc, tính toán, lựa chọn công cụ, phương tiện, mục đích sao cho có hiệu quả cao nhất.

Với những đặc trưng, tính chất nói trên, chúng ta có thể vận dụng thuyết hành

động xã hội vào nghiên cứu nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS. ở

đây, bên cạnh hành vi sinh sản của từng người cần phải xem xét hoạt động tổ chức, chỉ

đạo, tuyên truyền thực hiện các chính sách dân số nhất là PLDS. Trong đó các yếu tố về

chuẩn mực văn hoá, quan niệm về hạnh phúc gia đình, con cái chi phối thế nào đến hành

vi sinh sản và sự tham gia tổ chức chỉ đạo, lãnh đạo thực hiện PLDS của CBLĐQL là

những điều cần phải chú ý.

1.2.3. Lý thuyết dân số

Quá độ dân số là lý thuyết được các nhà nhân khẩu học phương Tây đưa ra hơn

nửa thế kỷ trước nhằm phân tích sự biến đổi dân số. Lý thuyết này cho rằng, sự phát triển

dân số luôn tuân theo một quy luật nhất định và sự gia tăng dân số có quan hệ biện chứng

với sự phát triển kinh tế - xã hội [85, tr.17]. Chính vì vậy, tiến trình phát triển dân số của

các quốc gia thường phải đi qua 3 giai đoạn sau:

Giai đoạn trước quá độ có đặc trưng là mức sinh cao và ổn định còn mức chết

cao và biến động. Sự không ổn định của tỷ suất tử là sự phản ánh những biến đổi trong

nền kinh tế, ảnh hưởng của mùa màng và bệnh tật. Trong điều kiện kinh tế như vậy, mức

sinh cũng rất cao, tư tưởng đông con nhiều cháu đã ăn sâu vào cộng đồng xã hội; Giai

đoạn quá độ là thời kỳ có những biến động lớn cả về mức sinh và mức chết mà xu hướng

thường gặp là mức chết giảm nhanh hơn mức sinh. Đây là giai đoạn sự gia tăng dân số

bắt đầu diễn ra với tốc độ cao còn gọi là bùng nổ dân số; Giai đoạn sau quá độ có đặc

trưng là mức sinh và mức chết đều thấp. Những thành tựu của khoa học và công nghệ tạo

khả năng cho con người có thể kéo dài tuổi thọ, loại trừ một số dịch bệnh ra khỏi đời

sống xã hội, dịch vụ sức khoẻ của con người tốt hơn và kết quả là mức chết giảm nhanh

và mức sinh dần ổn định. Xã hội xuất hiện một thời kỳ “dư lợi dân số”. Trong xã hội, tỷ

lệ người trong độ tuổi lao động lớn (60% - 65%). Nơi nào tận dụng được tiềm năng lao

động này thường đẩy nhanh được tốc độ phát triển kinh tế. Ngược lại, đây sẽ là gánh

nặng về giải quyết việc làm, thất nghiệp và những phức tạp xã hội khác.

Như vậy, quá độ dân số là quá trình chuyển đổi khuôn mẫu cân bằng dân số trên

cơ sở tương quan giữa tỷ suất sinh và tỷ suất chết khi nhân loại đi từ xã hội tiền công

nghiệp sang xã hội công nghiệp. Nếu ở thời kỳ đầu, lý thuyết này mới chỉ ở dạng mô tả

thuần tuý thì sau này nó càng được mở rộng, bổ sung và phát triển. Trên cơ sở hai yếu tố

chủ đạo là mức sinh và mức chết, lý thuyết quá độ dân số đã cho thấy những khía cạnh

rộng lớn và phức tạp trong việc phân tích các động thái dân số.

Vận dụng lý thuyết quá độ dân số vào việc xem xét nhận thức, thái độ và hành vi

của CBLĐQL là việc hết sức cần. Bởi dựa vào lý thuyết này sẽ cho phép làm rõ cơ sở

thực tiễn khoa học của quá độ dân số ở nước ta hiện nay. Những yếu tố cần thiết làm

giảm mức chết và giảm mức sinh đã đạt ngưỡng để đưa ra những quyết định có tính bước

ngoặt trong PLDS hay chưa? Sự chuyển biến về nhận thức, thái độ, hành vi của

CBLĐQL và của cả cộng đồng dân cư đã có thể đảm bảo những giải pháp mà PLDS đưa

ra được thực hiện hay chưa? Đây là vấn đề mà luận văn sẽ góp một phần làm rõ thông

qua thực tế được phân tích ở phần sau, từ thực tiễn của tỉnh Yên Bái.

1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về chính sách dân số và

pháp lệnh dân số

1.3.1. Quan điểm chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam về

chính sách dân số

Do sớm nhận thức được tác động to lớn của dân số đến sự phát triển kinh tế - xã

hội nói chung và đời sống của từng gia đình, của mỗi cá nhân nói riêng, nên từ đầu thập

niên 1960 đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc hoạch định và thực thi

chính sách dân số quốc gia, nhằm giảm mức sinh, mức chết, nâng cao chất lượng dân số

và phân bố dân cư hợp lý. Chính sách dân số hướng tới giảm sinh ở Việt Nam ra đời cách

đây hơn 40 năm được đánh dấu bằng Quyết định 216/CP ngày 26/12/1961 của Hội đồng

Chính phủ. Tại thời điểm này, chính sách dân số được thể hiện thông qua cuộc vận động

về “hướng dẫn sinh đẻ” và sau đó “sinh đẻ có kế hoạch” hay kế hoạch hoá gia đình. Điều

đó chứng tỏ Nhà nước ta đã sớm ý thức được tầm quan trọng của việc kiểm soát mức

sinh, kiềm chế sự bùng nổ dân số. Tuy nhiên, chính sách dân số trong giai đoạn đầu tiên

còn gặp nhiều khó khăn trong cả nhận thức lẫn kinh nghiệm tổ chức thực hiện. Công tác

tuyên truyền, vận động và giáo dục, thuyết phục chưa được coi trọng đúng mức, các

nguồn lực của xã hội chưa được huy động đầy đủ, lại chưa cung cấp thuận tiện và đa

dạng các dịch vụ KHHGĐ. Hàng chục năm, công tác DS - KHHGĐ đạt kết quả còn rất

khiêm tốn. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm còn ở mức cao (trên 3%). Chất lượng dân

số, vì nhiều lý do còn rất thấp.

Công tác DS - KHHGĐ tiếp tục được triển khai trong phạm vi cả nước với mục

đích đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch thông qua các văn bản quan

trọng của Chính phủ, tại Đại hội lần thứ IV, lần thứ V và lần thứ VI của Đảng. Công tác

DS - KHHGĐ được xác định có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất

nước. Mục tiêu cuộc vận động là đẻ ít (2 đến 3 con), đẻ muộn (từ 22 tuổi trở lên) và đẻ

thưa (cách nhau từ 3 - 5 năm). Mục tiêu cụ thể được xác định tại đại hội IV (1976) là

“đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch, kiên quyết giảm dần tốc độ gia

tăng dân số hàng năm, phấn đấu đến năm 1980, tỷ lệ tăng dân số là trên 2% một ít”; tại

Đại hội V (1982) Đảng xác định: “giảm tốc độ tăng dân số bình quân của cả nước từ

2,4% hàng năm xuống còn 1,7% vào năm 1985”; tại Đại hội VI (năm 1986) “giảm tỷ lệ

phát triển dân số từ 2,2% hiện nay xuống 1,7% vào năm 1990” [67, tr.10]. Trong giai

đoạn này, Chính phủ đã có chỉ thị cho các cấp, các ngành phải tham gia công tác dân số

nhưng thực tế chỉ có ngành y tế, phụ nữ và công đoàn trực tiếp thực hiện. Các cấp uỷ

đảng, chính quyền chưa thấy rõ trách nhiệm của mình trong công tác chỉ đạo, lãnh đạo

công tác DS - KHHGĐ, nhiều CBLĐQL vẫn coi đây là công tác của ngành y tế.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), trong Chiến lược ổn định và phát

triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, phần chính sách dân số và việc làm chỉ rõ: “Thực

hiện đồng bộ chiến lược ổn định dân số trên cả ba mặt: quy mô dân số, cơ cấu dân số và

phân bố dân số; giảm tỷ lệ phát triển dân số mỗi năm khoảng 0,4 - 0,6%o và coi giảm tốc

độ tăng dân số là một quốc sách” [85, tr.346].

Để tổ chức triển khai các chủ trương, chính sách về dân số, bộ máy tổ chức thực

hiện công tác DS - KHHGĐ cũng dần được hoàn thiện. Ngày 19/6/1991, Hội đồng Bộ

trưởng ra Nghị định số 193-HĐBT về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy

và chế độ làm việc của Uỷ ban quốc gia DS - KHHGĐ; Quyết định số 315-QĐ của Thủ

tướng Chính phủ về Chiến lược truyền thông DS - KHHGĐ.

Từ sự đòi hỏi cấp bách của thực tiễn, nhận thức ngày càng rõ hơn về sức ép gay

gắt của sự gia tăng dân số quá nhanh đối với sự phát triển đất nước, Hội nghị lần thứ tư

Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá VII) đã ban hành Nghị

quyết chuyên đề số 04-NQ/TW ngày 14/1/1993 về chính sách DS - KHHGĐ. Đây là

Nghị quyết Trung ương đầu tiên đề cập sâu sắc và toàn diện về công tác DS - KHHGĐ,

nó tạo ra bước ngoặt quan trọng đối với công tác dân số ở Việt Nam. Nghị quyết này đã

đề ra 5 quan điểm cơ bản sau:

(1)Công tác DS - KHHGĐ là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển

đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu của nước ta, là

một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia

đình và của toàn xã hội; (2) Giải pháp cơ bản để thực hiện công tác DS -

KHHGĐ là vận động, tuyên truyền và giáo dục, gắn liền với đưa dịch vụ

KHHGĐ đến tận người dân, có chính sách mang lại lợi ích trực tiếp cho người

chấp nhận gia đình ít con, tạo động lực thúc đẩy phong trào quần chúng nhân

dân thực hiện KHHGĐ;(3) Đầu tư cho công tác DS - KHHGĐ là đầu tư mang

lại hiệu quả kinh tế trực tiếp. Nhà nước cần tăng mức chi ngân sách cho công

tác DS - KHHGĐ, đồng thời động viên sự đóng góp của cộng đồng và tranh

thủ sự viện trợ của quốc tế;(4) Huy động lực lượng của toàn xã hội tham gia

công tác DS - KHHGĐ, đồng thời phải có bộ máy chuyên trách đủ mạnh để

quản lý theo chương trình mục tiêu, bảo đảm cho các nguồn lực nói trên được

sử dụng có hiệu quả và đến tận người dân;(5) Để đạt được mục tiêu trong thời

gian tương đối ngắn, điều có ý nghĩa quyết định là Đảng và chính quyền các

cấp phải lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác DS - KHHGĐ theo

chương trình [67, tr.12-13].

Sau đó, trong quyết định số 270/TTg (1993), Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt

Chiến lược DS - KHHGĐ đến năm 2000. Đây là chiến lược DS - KHHGĐ đầu tiên, đánh

dấu bước chuyển biến rất quan trọng trong việc hoàn thiện chính sách dân số của Việt

Nam.

Để tăng cường triển khai công tác DS - KHHGĐ, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra

chỉ thị số 50- CT/TW, ngày 6/3/1995 về việc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết lần thứ tư

Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ.

Mục tiêu của chính sách dân số là: Thực hiện gia đình ít con, khoẻ mạnh, tạo điều

kiện để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc”. Mục tiêu cụ thể là : “Mỗi gia đình chỉ có một hoặc

hai con, để tới năm 2015 bình quân trong toàn xã hội mỗi gia đình có 2 con, tiến tới ổn định

quy mô dân số từ giữa thế kỷ thứ 21. Tập trung mọi nỗ lực nhằm tạo chuyển biến rõ rệt ngay

trong thập kỷ 90 này”.

Đến nay, Đảng và Nhà nước ta không chỉ tập trung giải quyết vấn đề quy mô dân

số mà phải giải quyết đồng bộ, từng bước, có trọng điểm các vấn đề về cơ cấu dân số,

phân bố dân cư và chất lượng dân số. Đảng và Nhà nước đã liên tiếp ra nhiều chỉ thị, nghị

quyết như Quyết định số 147/2000/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược dân số Việt

Nam giai đoạn 2001 - 2010; Chỉ thị số 10/2001/CT-TTg về việc triển khai thực hiện

Chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010; Nghị định số 94/2002/NĐ-CP quy

định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban dân số, gia đình và

trẻ em; Nghị định số 12/2003/NĐ-CP về sinh con theo phương pháp khoa học. Tiếp

theo, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị số 10/2001/CT-TTg ngày 4/5/2001 nhằm

cụ thể hoá việc thực hiện Chiến lược DS - KHHGĐ trong giai đoạn 2001 - 2005 với mục

tiêu và nhiệm vụ chủ yếu là “Duy trì vững chắc xu thế giảm sinh để đạt mức sinh thay thế

bình quân trong toàn quốc chậm nhất vào năm 2005, ở vùng sâu, vùng xa và vùng nghèo

chậm nhất vào năm 2010 để quy mô dân số, cơ cấu dân số và phân bố dân cư phù hợp với

sự phát triển kinh tế - xã hội vào năm 2010” [73, tr.2]. Tuy nhiên, những chỉ tiêu này, đến

nay đã không đạt được. Lý do: sau khi Uỷ ban Thường vụ quốc hội ban hành PLDS

(9/1/2003), một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân không hiểu hết những quy định

của nó. Do vậy, nhiều người đã sinh thêm con thứ ba. Tỷ lệ dân số tự nhiên ở nhiều tỉnh,

thành phố lại gia tăng. Cụ thể, năm 2003 mức tăng tự nhiên của dân số Việt Nam là

1,47%, tăng 0,15% so với mức 1,32% của năm 2002, tỷ lệ tăng dân số năm 2004 là 1,4%

và năm 2005 là 1,38% [29, tr.1]. Trước tình hình trên, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khoá IX đã ban hành Nghị quyết số 47- NQ/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực

hiện chính sách DS - KHHGĐ. Nghị quyết 47- NQ/TW của Bộ Chính trị xác định hai

mục tiêu cơ bản là:

Nhanh chóng đạt mức sinh thay thế (trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi

sinh đẻ có hai con), tiến tới ổn định quy mô dân số nước ta ở mức 115-120

triệu người vào giữa thế kỷ XXI” và “Nâng cao chất lượng dân số Việt Nam về

thể chất, trí tuệ, tinh thần, cơ cấu nhằm đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước [30, tr.3].

Vấn đề đặt ra là vì sao khi PLDS ra đời và có hiệu lực trên thực tế, tỷ lệ sinh con thứ

ba lại gia tăng. Xem xét điều này phải hết sức căn cứ vào nội dung, cách trình bày và vận

động của xã hội với văn bản pháp lý quan trọng này.

1.3.2. Pháp lệnh dân số của Việt Nam năm 2003

Pháp lệnh dân số được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 9/1/2003 số

06/2003/PL-UBTVQH11, là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất trong lĩnh vực dân số, là

những quy định khung, định hướng để điều chỉnh toàn diện vấn đề dân số, bao gồm quy

mô dân số, cơ cấu dân số, chất lượng dân số, phân bố dân cư, các biện pháp thực hiện

công tác dân số, quản lý nhà nước về dân số. Pháp lệnh dân số được ban hành nhằm quán

triệt quan điểm của Đảng tại NQTW4 (Khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ và thể chế

hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ

IX.

Pháp lệnh dân số được xây dựng phù hợp với các công ước, điều ước quốc tế có

liên quan mà Việt Nam đã ký kết và gia nhập, trong đó có Chương trình hành động quốc

tế về DSPT mà nội dung cần đặc biệt chú ý là quyền con người, quyền sinh sản và quyền

phát triển toàn diện. Pháp lệnh dân số đặt con người vào vị trí trung tâm là động lực của

sự phát triển. PLDS bảo đảm quyền chủ động, tự nguyện của mỗi công dân trong việc

phát triển toàn diện bản thân phù hợp với yêu cầu của sự phát triển đất nước. Pháp lệnh

dân số bao gồm phần mở đầu, 7 chương và 40 điều. Trong nội dung PLDS có một số quy

định cụ thể như sau:

* Quy định nguyên tắc của công tác dân số.

Nguyên tắc của công tác dân số là: (1) Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ

quan, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực dân số phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội, chất

lượng cuộc sống của cá nhân, gia đình và toàn xã hội; (2) Bảo đảm việc chủ động, tự

nguyện, bình đẳng của mỗi cá nhân, gia đình trong kiểm soát sinh sản, chăm sóc sức khoẻ

sinh sản, lựa chọn nơi cư trú và thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số; (3)

Kết hợp giữa quyền và lợi ích của cá nhân, gia đình với lợi ích của cộng đồng và toàn xã

hội, thực hiện quy mô gia đình ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững

(Điều 2 PLDS).

Đây là 3 nguyên tắc nhằm bảo đảm sự chủ động của cả đối tượng thi hành và chủ

thể tham gia công tác tổ chức thực hiện Pháp lệnh và chính sách dân số. PLDS cũng đã

quán triệt đường lối, chính sách của Đảng về công tác dân số, cụ thể hoá các quy định của

Hiến pháp, tạo điều kiện để giải quyết vấn đề dân số gắn với phát triển.

* Quy định về thực hiện kế hoạch hoá gia đình.

PLDS quy định “Kế hoạch hoá gia đình là nỗ lực của mỗi gia đình, của nhà nước,

xã hội để mỗi cá nhân, cặp vợ chồng chủ động, tự nguyện quyết định số con và khoảng

cách giữa các lần sinh nhằm bảo vệ sức khoẻ, nuôi dạy con có trách nhiệm, phù hợp với

chuẩn mực xã hội và điều kiện sống của gia đình”(Khoản 9, điều 3 PLDS). Xét về bản

chất, KHHGĐ không phải là mục đích tự thân mà là kết quả vận động của gia đình, nhà

nước, xã hội để mỗi cá nhân, cặp vợ chồng có đủ kiến thức, sự hiểu biết và quyết định

một cách có trách nhiệm khi thực hiện quyền sinh sản. Vì vậy, PLDS quy định “Kế hoạch

hoá gia đình là biện pháp chủ yếu để điều chỉnh mức sinh góp phần bảo đảm cuộc sống

no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”(Khoản 1, điều 9).

Điều 7 - PLDS quy định nghiêm cấm các hành vi như: “Cản trở, cưỡng bức việc

thực hiện KHHGĐ; Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức; Sản xuất, kinh

doanh, nhập khẩu, cung cấp phương tiện tránh thai giả, không bảo đảm tiêu chuẩn chất

lượng, quá hạn sử dụng, chưa được phép lưu hành; Di cư và cư trú trái pháp luật; Tuyên

truyền phổ biến hoặc đưa ra những thông tin có nội dung trái với chính sách dân số,

truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, có ảnh hưởng xấu đến công tác dân số và đời

sống xã hội; Nhân bản vô tính người”.

Quy định này thể hiện tính lôgíc, nhất quán của chính sách dân số. Việc thực hiện

KHHGĐ chủ động, tự nguyện để mỗi cặp vợ chồng, cá nhân quyết định một cách có

trách nhiệm về số con, thời gian sinh con và khoảng cách giữa các lần sinh nhằm bảo vệ

sức khoẻ, nuôi dạy con có trách nhiệm, phù hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện sống

của gia đình. Đồng thời, để bảo đảm quyền của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc lựa

chọn, sử dụng biện pháp tránh thai phù hợp với điều kiện kinh tế, sức khoẻ, tâm lý và các

điều kiện khác, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân trong việc thực hiện

KHHGĐ. Đó là yêu cầu, là biện pháp trong việc thực hiện KHHGĐ, không một cơ quan,

tổ chức, cá nhân nào được cản trở, cưỡng bức việc thực hiện KHHGĐ. Bất cứ hành vi

nào gây cản trở, cưỡng bức việc thực hiện KHHGĐ đều bị coi là vi phạm pháp luật và sẽ

bị xử lý theo đúng pháp luật.

Khoản 2, điều 9 PLDS cũng quy định các biện pháp của KHHGĐ bao gồm:

Tuyên truyền, tư vấn, giúp đỡ bảo đảm để mỗi cá nhân, cặp vợ chồng chủ động, tự

nguyện thực hiện KHHGĐ; Cung cấp các dịch vụ KHHGĐ bảo đảm chất lượng, thuận

tiện, an toàn và đến tận người dân; Khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần, thực hiện

các chính sách bảo hiểm để tạo động lực thúc đẩy việc thực hiện KHHGĐ sâu rộng trong

nhân dân”. Trong quy định này mỗi cá cặp vợ chồng, cá nhân chủ động, tự nguyện thực

hiện quyền, nghĩa vụ về KHHGĐ phù hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện cụ thể của

mỗi cá nhân, gia đình thì phải thực hiện đồng bộ ba biện pháp tuyên truyền, vận động, tư

vấn, cung cấp dịch vụ và khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần.

* Quy định về chất lượng dân số.

PLDS quy định “Chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí

tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số”(Khoản 6, điều 3 PLDS); “Nâng cao chất lượng dân

số là chính sách cơ bản của nhà nước trong sự nghiệp phát triển đất nước”(Khoản 1, điều

20).

Quy định này khẳng định quan điểm coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động

lực của sự phát triển. Do vậy, việc nâng cao chất lượng dân số là mục đích cơ bản của sự

phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Với cách tiếp cận có tính hệ thống, nhân văn, coi

con người là trung tâm, là mục đích tối thượng của sự phát triển đã mở rộng các cơ hội

lựa chọn và nâng cao năng lực lựa chọn của mỗi người nhằm hướng tới một cuộc sống

phát triển bền vững. Trong đó việc tăng thu nhập, được tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục

tốt hơn, có chỗ ở tốt hơn, có việc làm phù hợp, tham gia đầy đủ tích cực hơn vào các hoạt

động xã hội, cộng đồng…chính là sự thể hiện quyền được lựa chọn của các cá nhân trong

các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Điều 21 PLDS quy định các biện pháp nâng cao chất lượng dân số, cụ thể là: “Bảo

đảm quyền cơ bản của con người; quyền phát triển đầy đủ, bình đẳng về thể chất, trí tuệ,

tinh thần; hỗ trợ nâng cao những chỉ số cơ bản về chiều cao, cân nặng, sức bền; tăng tuổi

thọ bình quân; nâng cao trình độ học vấn và tăng thu nhập bình quân đầu người; Tuyên

truyền, tư vấn và giúp đỡ nhân dân hiểu và chủ động, tự nguyện thực hiện các biện pháp

nâng cao chất lượng dân số; Đa dạng hoá các loại hình cung cấp hàng hoá và dịch vụ

công cộng, đặc biệt về giáo dục, y tế để cải thiện chất lượng sống và nâng cao chất lượng

dân số”. Như vậy, quy định các biện pháp nâng cao chất lượng dân số nhằm bảo đảm yêu

cầu mở rộng cơ hội lựa chọn của con người, tạo điều kiện cho mỗi người thực hiện các

quyền cơ bản, quyền phát triển đầy đủ, được tiếp cận với dịch vụ y tế, giáo dục, phát triển

năng khiếu, hưởng thụ văn hoá, nghệ thuật, vui chơi, giải trí.

Đây là những quy định hết sức tiến bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển của mỗi người,

của cả cộng đồng trong thời đại mới - văn minh, phù hợp với cả những quy định quốc tế

mà Việt Nam đã cam kết thực hiện.

* Quy định quyền và nghĩa vụ của công dân.

PLDS quy định các quyền của công dân về công tác dân số nhằm bảo đảm sự chủ

động, tự nguyện của mỗi công dân, bảo đảm việc thực hiện các mục tiêu một cách bền

vững. Các quyền của công dân bao gồm: Quyền được cung cấp thông tin về dân số; được

cung cấp các dịch vụ dân số có chất lượng, thuận tiện, an toàn và được giữ bí mật theo

quy định của pháp luật; Quyền lựa chọn các biện pháp chăm sóc sức khoẻ sinh sản,

KHHGĐ và nâng cao chất lượng dân số; Quyền lựa chọn nơi cư trú phù hợp với quy định

của pháp luật (Khoản 1, điều 4 PLDS).

Quyền sinh sản được quy định cụ thể tại điều 10, khoản 1, điểm a, PLDS quy định

quyền “quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù

hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khoẻ, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu nhập và

nuôi dạy con của cá nhân, cặp vợ chồng trên cơ sở bình đẳng” [67, tr.72]. Quyền sinh sản

là quyền quyết định tự nguyện và có trách nhiệm về thời gian sinh con, số con và khoảng

cách giữa các lần sinh. Quyền sinh sản phù hợp với các quyền cơ bản của con người được

chấp nhận trong luật pháp quốc gia, trong các văn bản nhân quyền quốc tế đã được thông

qua tại Liên Hiệp quốc. Điều này cho thấy, mỗi cặp vợ chồng và cá nhân thực hiện quyền

sinh sản một cách có trách nhiệm, phù hợp với những nguyên tắc và chuẩn mực của công

tác dân số.

Đây cũng là điểm quy định hết sức tiến bộ trong PLDS. Tuy nhiên, điểm này nếu

không đạt trong tổng thể các quy định về quyền và nghĩa vụ sẽ dễ đưa đến những nhận

thức sai lệch về việc thực hiện quyền sinh sản trên thực tế. ở đây, quyền được cung cấp

thông tin về dân số; được cung cấp các dịch vụ dân số có chất lượng, thuận tiện, an toàn

và được giữ bí mật theo quy định của pháp luật được coi là các quyền điều kiện để thực

hiện các quyền cơ bản hướng đích. Đó là quyền sinh sản, quyền lựa chọn các biện pháp

chăm sóc SKSS, KHHGĐ và nâng cao chất lượng dân số và quyền lựa chọn nơi cư trú

phù hợp với quy định của pháp luật.

Thực tế đã có không ít người hiểu chưa đầy đủ về những quy định về quyền và

nghĩa vụ công dân trong PLDS. Một số người chỉ nhấn mạnh đến quy định quyền, không

gắn quyền với nghĩa vụ. Đây là lý do khiến thời gian qua một số cán bộ, đảng viên và

nhân dân tiếp tục sinh con thứ ba. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên lại có xu hướng cao ở một

số tỉnh, thành phố.

Cần phải khẳng định rằng, PLDS đã quy định các nghĩa vụ của công dân về sinh

sản nhằm bảo đảm lợi ích của cá nhân, gia đình, nhà nước, cơ quan, tổ chức và cộng

đồng. Các nghĩa vụ công dân bao gồm: “Thực hiện KHHGĐ, xây dựng quy mô gia đình

ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững; Thực hiện các biện pháp phù

hợp để nâng cao thể chất, trí tuệ, tinh thần của bản thân và các thành viên trong gia đình;

Tôn trọng lợi ích của nhà nước, xã hội, cộng đồng trong việc điều chỉnh quy mô dân số,

cơ cấu dân số, phân bố dân cư, nâng cao chất lượng dân số; Thực hiện các quy định của

Pháp lệnh này và các quy định khác của pháp luật có liên quan đến công tác dân

số”(Khoản 2, điều 4). Quy định công dân có nghĩa vụ thực hiện việc kiểm soát sinh sản

và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân, các thành viên gia đình giúp người dân

hiểu và tự nguyện thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.

Trên đây là những nội dung cơ bản chính yếu nhất của PLDS - văn bản có tính

pháp lý cao nhất của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về dân số. Đây cũng

là một văn bản đã tích hợp được những quy chuẩn về giá trị của cả quốc tế lẫn Việt Nam.

Tuy nhiên, văn bản này cũng còn có điều khoản chưa gắn bó chặt chẽ giữa quyền và

nghĩa vụ của công dân trong việc thực hiện chức năng sinh sản của mọi người, của mỗi

cặp vợ chồng. Do vậy, cả tuyên truyền giải thích lẫn hiểu biết của cán bộ, đảng viên và

nhân dân nhiều lúc chưa nhất quán. Việc thực hiện PLDS còn nhiều vấn đề phải bàn bạc,

điều chỉnh. Chính vì vậy, nghiên cứu về nhận thức, thái độ và hành động của người dân,

nhất là của CBLĐQL các cấp với PLDS là điều đang rất cần.

Chính trong thông báo của Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

trong phiên họp thứ 38 ngày 27/3/2006 để chuẩn bị trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp thứ

9 đã ghi rõ: “Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã nghe và cho ý kiến về Pháp lệnh sửa đổi, bổ

sung một số điều của PLDS; nhất trí cho rằng không nên vội sửa đổi PLDS với nội dung

như quy định trong tờ trình của Chính phủ (Mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có nghĩa vụ

thực hiện gia đình có một hoặc hai con, ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền

vững) mà cần tổng kết về việc thực hiện Pháp lệnh này để nâng lên thành Luật dân số”.

Đây chính là cơ sở để luận văn đi sâu nghiên cứu thực trạng vấn đề này ở tỉnh Yên Bái,

góp thêm thông tin, thực tiễn để góp phần giúp các nhà làm luật sửa đổi, bổ sung, hoàn

chỉnh PLDS, làm cho PLDS được thực thi có hiệu quả nhất.

Chương 2

Thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với pháp

lệnh dân số

2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Yên Bái

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên

Yên Bái là một tỉnh miền núi, nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa Tây Bắc và Trung du

Bắc bộ. Phía Tây Bắc giáp tỉnh Lao Cai, phía Đông Bắc giáp hai tỉnh Tuyên Quang và

Hà Giang; Phía Đông Nam giáp tỉnh Phú Thọ và phía Tây Nam giáp tỉnh Sơn La.

Diện tích đất tự nhiên của toàn tỉnh là 6887 km2, xếp thứ 4 trong số 11 tỉnh vùng

Đông Bắc (sau Lạng Sơn, Lao Cai, Hà Giang). So với các tỉnh và thành phố trong cả

nước thì Yên Bái xếp thứ 15. Địa bàn rộng nên từ trung tâm thành phố đi huyện Mù Cang

Chải dài hơn 200 km.

Yên Bái có 9 đơn vị hành chính cấp huyện thị (1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện) với

tổng số 180 xã phường, thị trấn. Theo báo cáo của tỉnh tính đến ngày 31/12/2005 có 85

xã vùng cao trong đó có 70 xã vùng cao đặc biệt khó khăn, chiếm 74,2% về diện tích và

39,95% về dân số so với toàn tỉnh. Toàn tỉnh có 731.784 người trong đó nam là 363.010

người, nữ là 368.774 người, có 30 dân tộc anh em cùng chung sống. Dân tộc thiểu số

chiếm 50,4% dân số toàn tỉnh [9, tr.6]. Tuy nằm sâu trong nội địa nhưng Yên Bái tương

đối thuận lợi về giao thông, với một mạng lưới đường sắt, đường bộ, đường thủy khá

thuận lợi. Yên Bái có vị trí quan trọng, là một trong những đầu mối giao thông của vùng

núi phía Bắc.

Địa hình: Đặc điểm địa hình của tỉnh Yên Bái là cao dần từ Đông Nam lên Tây Bắc

và được kiến tạo bởi ba dãy núi lớn đều có hướng chạy Tây Bắc - Đông Nam. Địa hình

khá phức tạp nhưng có thể chia Yên Bái thành hai vùng lớn: vùng cao và vùng thấp.

- Vùng cao có độ cao trung bình 600m trở lên so với mặt nước biển, bao gồm 70

xã có diện tích tự nhiên chiếm 67,56% diện tích toàn tỉnh. Vùng này dân cư thưa thớt, đại

bộ phận là đồng bào thiểu số như: Mông, Dao, Khơ Mú; trình độ dân trí thấp, cơ sở hạ

tầng yếu kém; tập quán canh tác lạc hậu, còn nhiều hộ du canh du cư; đời sống người dân

còn gặp nhiều khó khăn.

- Vùng thấp có độ cao dưới 600m, chủ yếu là địa hình đồi núi thấp, thung lũng bồn

địa chiếm 32,44% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Dân cư vùng này đông đúc, đại bộ phận là

người Kinh, Thái, Tày, Nùng. Người dân có tập quán canh tác tiến bộ hơn, đời sống nhân

dân khá hơn, trình độ dân trí cao hơn. Nhiều công trình thuộc cơ sở hạ tầng được đầu tư

xây dựng, đặc biệt là những vùng thị trấn, thị xã. Đây là vùng đang góp phần quan trọng

làm tăng trưởng nền kinh tế của tỉnh.

Thời tiết và khí hậu: Yên Bái nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình 22-230C, tổng nhiệt độ cả năm 7.500-8.0000C; lượng mưa trung bình 1.500-

2.200 mm/năm; độ ẩm trung bình 83- 87%, rất thuận lợi cho việc phát triển nông lâm

nghiệp.

Tài nguyên rừng: Theo số liệu điều tra 1998 toàn tỉnh có 180.410,2 ha rừng tự

nhiên, 78.330 ha rừng trồng, tỷ lệ tán che 37,59%. Tổng trữ lượng gỗ các loại khoảng 17.200.000m3. Ngoài ra, Yên Bái còn nhiều cây tre vầu nứa và các loại lâm sản khác. Về

khai thác lâm sản từ khi có chủ trương đóng cửa rừng, sản lượng khai thác gỗ đã giảm xuống đáng kể từ 114.114m3 năm 1991 (trong đó rừng tự nhiên 42.830 m3, rừng trồng 71.284 m3) xuống 37.747 m3 năm 1998 (trong đó rừng tự nhiên 9.325 m3, rừng trồng 28.422 m3).

Năm 2002, diện tích đất rừng đạt 274.410 ha, so với năm 1995 tăng 66.802 ha

(trong đó, rừng tự nhiên tăng 22.122 ha, rừng trồng tăng 4.680 ha); tỷ lệ tán che đạt 40%,

so với năm 1995 tăng 9,5%. Đây là điểm đạt giới hạn cho phép của độ an toàn về môi

trường và sản lượng khai thác.

Tài nguyên nước: Yên Bái có ba hệ thống sông suối lớn: sông Hồng, sông Chảy và

suối Nâm Kim (một chi nhánh của sông Đà) với tổng chiều dài 320 km với diện tích lưu vực trên 3.400 km2. Hệ thống chi lưu của nó phân bố tương đối đồng đều trên toàn lãnh

thổ. Ngoài hệ thống sông suối còn có 20.193 ha mặt nước hồ ao, trong đó hồ Thác Bà

19.050 ha. Trong nhiều năm, nguồn tiềm năng này đã được khai thác sử dụng để xây

dựng thủy điện, sản xuất nông, lâm nghiệp, vận chuyển lâm sản, hàng hóa và giao lưu

giữa các vùng trong tỉnh cũng như giữa Yên Bái với đồng bằng sông Hồng.

Tiềm năng du lịch: Yên Bái là một tỉnh miền núi có phong cảnh thiên nhiên đa

dạng, nhiều hang động; hang Thẩm Lé (Văn Chấn), Thẩm Khuôi, động Thủy Tiên (Yên

Bình)..., sông hồ lớn như: Hồ Thác Bà, du lịch sinh thái Suối Giàng và nhiều di tích cách

mạng. Song do điều kiện kinh tế chậm phát triển, cơ sở hạ tầng thấp kém nên chưa có

điều kiện khai thác những tiềm năng này để phát triển ngành du lịch. Trong tương lai gần,

cần đầu tư để xây dựng và phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của

tỉnh.

2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội

Yên Bái đang là tỉnh nghèo của cả nước, GDP bình quân đầu người năm 2005 đạt

4,267 triệu đồng, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 19,29% xuống còn 7%. Riêng đối với vùng cao,

tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 35,4% xuống còn 22,27%. Tỉnh cũng đã hoàn thành xoá trên

4454 căn nhà dột nát cho hộ nghèo, hộ chính sách. Trong 5 năm (2001-2005) thực hiện nghị

quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, tốc độ tăng trưởng (GDP) bình quân tăng

9,55%/năm. Trong đó:

- Nhóm nông lâm ngư thủy sản tăng 5,6%/năm.

- Nhóm công nghiệp - xây dựng tăng 12,8%/năm.

- Nhóm dịch vụ tăng 11,8%/năm.

Tổng vốn đầu tư phát triển đạt 5.500 tỷ đồng, bình quân tăng 17,45%/năm, so với

năm 5 trước tăng 2,51 lần. Giải quyết và tạo việc làm mới cho 85.000 lao động. Cơ cấu

lao động chuyển dịch còn chậm, nhưng theo hướng tích cực; lao động trong lĩnh vực

nông nghiệp giảm từ 82,37% năm 2000 xuống còn 76,3% năm 2005 và lao động trong

công nghiệp, dịch vụ tăng từ 8,59% lên 23,7% [5, tr.7].

Sự nghiệp giáo dục - đào tạo có tiến bộ, 96,4% số trẻ em từ 3 đến 5 tuổi đến lớp

mẫu giáo; 180 xã, phường hoàn thành chương trình xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu

học; 160 xã, phường hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở; thực

hiện kiên cố 4.200 phòng học [9, tr.202]. Sự nghiệp y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân

có nhiều tiến bộ; có 17,5% tỷ lệ xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; 50% tỷ lệ dân số được

dùng nước hợp vệ sinh. Hiện nay, kinh tế trang trại được xác định là hướng đi quan trọng

trong sản xuất nông, lâm nghiệp của tỉnh, với 808 trang trại đạt tiêu chí quốc gia. Trên

đây là những thành tựu quan trọng mà tỉnh Yên Bái đã đạt được, làm tiền đề cơ bản để

tiến nhanh, tiến mạnh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Tuy nhiên, Yên Bái vẫn còn là một tỉnh miền núi nghèo. Nền kinh tế kém phát

triển. Kết cấu hạ tầng cơ sở thấp kém, hệ thống giao thông còn nhiều khó khăn. Sự phân

hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt với khoảng cách ngày một lớn. Vẫn còn tình trạng du

canh, du cư và học sinh tái mù chữ. Nhiều xã chưa có điện, chưa có nước sạch; trẻ suy

dinh dưỡng dưới 5 tuổi còn chiếm tỷ lệ cao. Nguyên nhân của tình trạng này có nhiều

song ngoài yếu tố xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu,

trình độ dân trí thấp lại không đồng đều giữa các vùng thì ở vùng cao, tỷ lệ gia tăng dân

số trên 2%. Đặc biệt, tỷ lệ sinh con thứ 3 tăng trở lại trong một số năm gần đây là vấn đề

cần phải chú ý. Đây là yếu tố sẽ có ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển bền vững của Yên

Bái - điều mà các ngành, các cấp của tỉnh Yên Bái không thể không quan tâm.

2.2. Nhận thức của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với pháp lệnh dân số

Pháp lệnh dân số là văn bản có giá trị cao nhất với mục đích là nâng cao trách

nhiệm của công dân, nhà nước và xã hội trong công tác dân số; bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của công dân; tăng cường thống nhất quản lý nhà nước về dân số. Vì vậy, hiểu

và biết rõ PLDS của CBLĐQL có ý nghĩa quan trọng. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và

đầy đủ về PLDS, CBLĐQL mới có thái độ và hành vi tốt trong thực hiện PLDS.

2.2.1. Hiểu biết về thời gian và cơ quan ban hành pháp lệnh dân số

Chỉ báo đầu tiên để đánh giá nhận thức của CBLĐQL đối với PLDS là thời gian ra

đời của Pháp lệnh này. Tổng hợp số liệu từ câu hỏi điều tra: PLDS ban hành vào năm

nào? Số liệu cho thấy, tỷ lệ CBLĐQL trả lời đúng (PLDS được Uỷ ban Thường vụ Quốc

hội thông qua ngày 9/1/2003, sau đó Chủ tịch nước công bố ngày 22/1/2003) là 55,3%;

số CBLĐQL trả lời sai chiếm 32,7%, không biết 12%. Điều này cho thấy CBLĐQL biết

về năm ban hành PLDS không cao.

Tỷ lệ người trả lời đúng về năm ban hành PLDS ở cấp huyện chiếm cao nhất là

69,2%, cấp tỉnh là 60,9%, cấp xã, phường là 25%. Trong đó, cấp xã, phường trả lời sai về

năm ban hành PLDS chiếm tỷ lệ cao nhất 70,6%, cấp tỉnh 26,8%, cấp huyện 13,8%. Số

liệu này cho thấy có sự mâu thuẫn giữa nhận thức của các nhóm cán bộ và công việc thực

tế mà họ đang làm. Cụ thể, cán bộ cấp xã, phường là những người trực tiếp nhất trong

thực hiện công tác dân số nhưng PLDS ra đời năm nào họ lại ít nhớ chỉ 25% số người

được hỏi trả lời đúng (xem biểu 2.1).

Biểu 2.1: Tương quan giữa năm ban hành PLDS với cấp công tác của

80

70.6

69.2

70

60.9

60

50

40

25

26.8

30

12.3 17

13.8

20

4.4

10

0

§ óng

Sai

Kh«ng biÕt

CÊp tØnh

CÊp huyÖn

CÊp x·

CBLĐQL

Bên cạnh chỉ báo đánh giá về thời gian ban hành PLDS, cuộc điều tra còn hướng

tới làm rõ chủ thể ban hành PLDS. Điều này giúp xác định rõ hơn nhận thức của

CBLĐQL đối với PLDS. Với câu hỏi: Đồng chí cho biết cơ quan nào ban hành PLDS, có

58% CBLĐQL trả lời đúng - đó là Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Số ý kiến trả lời sai khá

cao 40%. Số ý kiến này cho rằng PLDS do các cơ quan khác như Uỷ ban dân số, gia đình

và trẻ em Việt Nam, Chính phủ hoặc Bộ Chính trị ban hành (xem biểu 2.2).

2%

§ óng

40%

Sai

Kh«ng biÕt

58%

Biểu 2.2: Tỷ lệ CBLĐQL hiểu biết về cơ quan ban hành pháp lệnh dân số

Những số liệu tổng hợp trên đã cho thấy, nhận thức của CBLĐQL về cơ quan ban

hành PLDS còn khá mơ hồ, thiếu chính xác. Tuy nhiên, nhận thức này có sự khác biệt

giữa các nhóm có học vấn khác nhau, nhóm có học vấn càng cao thì nhận thức đúng càng

lớn. (xem bảng 2.1)

Bảng 2.1: Hiểu biết của CBLĐQL về cơ quan ban hành PLDS phân theo trình

độ học vấn

Đơn vị tính: %

Hiểu biết về cơ Trung học phổ quan ban hành Trung cấp Cao đẳng trở lên thông PLDS

Đúng 35,0 45,5 64,5

Sai 60,0 50,7 33,5

Không biết 5,0 3,8 2,0

Bảng số liệu trên cho thấy, biến số học vấn có ảnh hưởng đến nhận thức của người

trả lời về cơ quan ban hành PLDS. Có tới 64,5% CBLĐQL có trình độ Cao đẳng trở lên

trả lời đúng, so với 45,5% CBLĐQL có trình độ học vấn trung cấp và 35% CBLĐQL có

trình độ trung học phổ thông. Trong khi đó, nhóm CBLĐQL có trình độ trung học phổ

thông trả lời “không biết” PLDS do cơ quan nào ban hành chiếm tỷ lệ cao nhất (5%).

Như vậy, hiểu biết chung của CBLĐQL về năm ra đời và cơ quan ban hành

PLDS còn thiếu chính xác. ở đây, yếu tố cấp công tác và tương đồng với nó là trình độ

học vấn của CBLĐQL đã ảnh hưởng nhiều đến nhận thức của họ về PLDS: cấp công

tác càng cao (cấp tỉnh), trình độ học vấn cao (cao đẳng trở lên) thì nhận thức càng rõ

hơn về thời gian ban hành và chủ thể ban hành của PLDS.

2.2.2. Hiểu biết về nội dung của pháp lệnh dân số

* Hiểu biết về một số nội dung chính của PLDS

Đánh giá về nhận thức của CBLĐQL đối với PLDS không thể không tìm hiểu

những hiểu biết của họ về nội dung mà PLDS đã đề cập. Tuy nhiên, nội dung của PLDS

có rất nhiều, nghiên cứu chỉ đề cập đến một số vấn đề chính như: Phạm vi điều chỉnh và

đối tượng áp dụng; quyền lợi và nghĩa vụ của công dân về công tác dân số; điều chỉnh

quy mô dân số; KHHGĐ; điều chỉnh cơ cấu dân số; phân bố dân cư; chất lượng dân số và

nâng cao chất lượng dân số; quản lý nhà nước về dân số; khen thưởng và xử lý vi phạm.

Mỗi một nội dung cụ thể được quy định trong PLDS tuỳ theo khả năng tiếp cận thực tiễn

của mình mà hiểu biết về PLDS của CBLĐQL ở các nhóm xã hội là khác nhau. Cụ thể:

Bảng 2.2: Tỷ lệ CBLĐQL biết đúng về một số nội dung chính của PLDS

Đơn vị tính %

Hiểu biết TT Nội dung PLDS Tỷ lệ % đúng

1 Quy định phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp 193 64,3

dụng.

2 Quy định quyền lợi và nghĩa vụ của công dân về 269 89,7

công tác dân số.

3 Quy định trách nhiệm của nhà nước, cơ quan, 251 83,7

đoàn thể xã hội trong công tác dân số.

4 Quy định về phòng chống tệ nạn xã hội và 95 31,7

HIV/AIDS.

5 Quy định về điều chỉnh quy mô dân số 214 71,3

6 Quy định về kế hoạch hoá gia đình 270 90,0

7 Quy định về an toàn cộng đồng, phòng chống tai 35 11,7

nạn thương tích

8 Quy định về điều chỉnh cơ cấu dân số 211 70,3

9 Quy định về việc phân bố dân cư 123 41,0

10 Quy định về chất lượng dân số và nâng cao chất 220 73,3

lượng dân số

11 Quy định về quyền trẻ em 117 39,0

12 Quy định quản lý nhà nước về dân số 244 81,3

13 Quy định về quyền phụ nữ 113 37,7

14 Quy định về khen thưởng và xử lý vi phạm 174 58,0

Để đánh giá chính xác hiểu biết của CBLĐQL với một số nội dung chính của

PLDS, nghiên cứu đã đưa ra nhiều chỉ báo đúng song cũng kèm một số chỉ báo sai. Đây

là cách để kiểm tra nhận thức của các nhóm CBLĐQL. Những số liệu tổng hợp cho thấy,

phần lớn CBLĐQL có nhận biết đúng về những nội dung cụ thể trong PLDS. Trong đó,

nhận thức đúng quy định về KHHGĐ chiếm tỷ lệ cao nhất (90%). Mục đích chính của

KHHGĐ là để điều chỉnh mức sinh. Đây là giải pháp quan trọng chính yếu để giảm sự

gia tăng dân số.

Chiếm tỷ lệ cao thứ hai là hiểu biết của CBLĐQL về những quy định quyền lợi và

nghĩa vụ của công dân trong công tác dân số (89,7%). Hầu hết, CBLĐQL đều ý thức rõ

được quyền lợi và nghĩa vụ của công dân. Đây là sự nhấn mạnh gắn kết giữa quyền và

nghĩa vụ của mỗi công dân trong công tác dân số. Điều này đã được quy định ngay cả

trong Hiến pháp năm 1992 và được sửa đổi, bổ sung năm 2001: “quyền công dân không

tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân

phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội” (Điều 51). Với những quy

định như vậy, một người không thể chỉ đòi hỏi quyền mà không chịu thực hiện nghĩa vụ

và ngược lại, không một ai chỉ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ mà không được hưởng

quyền lợi. Nghĩa vụ của mỗi công dân là thực hiện đúng, đủ các quy định của pháp luật

về công tác dân số và được hưởng tất cả những quyền mà pháp luật đã quy định. Mặt

khác, mỗi công dân còn có nhiều quyền như quyền được chăm sóc sức khoẻ, quyền được

học tập, làm việc, quyền được phát triển toàn diện. Nhưng mỗi công dân cũng phải thực

hiện nghĩa vụ của mình trong KHHGĐ, nâng cao chất lượng dân số, thực hiện gia đình có

quy mô nhỏ - chỉ có một hoặc hai con. Tuy nhiên không phải ai cũng hiểu chính xác là

như vậy.

Chiếm tỷ lệ cao thứ ba là quy định trách nhiệm của nhà nước, cơ quan, đoàn thể xã

hội trong công tác dân số (83,7%). Số liệu này cho thấy, trách nhiệm của nhà nước, cơ

quan, đoàn thể xã hội trong công tác dân số vẫn được người trả lời đánh giá cao. Đây

cũng là sự thể hiện phần nào đó ý thức trách nhiệm của bản thân CBLĐQL với công tác

dân số, DSPT trong các lĩnh vực công tác của mình.

Nhà nước có trách nhiệm trong việc khuyến khích các tổ chức, cá nhân hỗ trợ

chương trình KHHGĐ, chăm sóc SKSS và nâng cao chất lượng dân số. Các chính sách,

biện pháp để triển khai công tác dân số được thể hiện qua hệ thống pháp luật, các chiến

lược, chương trình có mục tiêu. Nhiều CBLĐQL cũng đã hiểu rằng, PLDS và các văn

bản khác của nhà nước đã xác định các cơ quan, tổ chức phải tích cực chủ động lồng

ghép các yếu tố dân số trong quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội;

tuyên truyền, vận động thực hiện công tác dân số; cung cấp các loại dịch vụ dân số; tổ

chức thực hiện pháp luật về dân số trong cơ quan, tổ chức mình.

Chiếm tỷ lệ cao thứ tư là quy định quản lý nhà nước về dân số có 81,3% ý kiến

được hỏi đồng ý. Số liệu cho thấy, CBLĐQL đã có những hiểu biết tốt về những quy

định trong quản lý nhà nước về dân số. Quy định này xác định rõ mục đích quản lý nhà

nước nhằm bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu quả công tác dân số và bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của công dân; tăng cường, thống nhất quản lý nhà nước về dân số.

Ngoài ra, PLDS còn quy định về chất lượng dân số và nâng cao chất lượng dân số.

CBLĐQL đã có ý thức tốt về vấn đề này chiếm 73,3%. Một số CBLĐQL đã hiểu đây là

quy định cơ bản và toàn diện nhằm nâng cao chất lượng con người và chất lượng dân số;

nâng cao chỉ số phát triển con người. Từ việc bảo đảm những quyền cơ bản của con

người như: quyền được phát triển đầy đủ về thể chất, trí tuệ, tinh thần đến việc được cung

cấp thông tin qua tuyên truyền, tư vấn, giúp đỡ và đa dạng hoá các loại hình cung cấp

dịch vụ về dân số và DSPT. Với PLDS, đây là lần đầu tiên vấn đề chất lượng dân số được

đưa vào văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao, giải quyết đầy đủ, đồng bộ,

cân đối các lĩnh vực của công tác dân số.

Các quy định khác như quy định về điều chỉnh quy mô dân số cũng có 71,3%

CBLĐQL được hỏi biết quy định này; quy định về điều chỉnh cơ cấu dân số (70,3%); quy

định về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng (64,3%); quy định về khen thưởng và

xử lý vi phạm (58%); quy định về phân bố dân cư (41%). Như vậy, nhiều nội dung cơ

bản của PLDS đã được CBLĐQL biết đến - đây là điều đáng ghi nhận.

Tuy nhiên, bên cạnh phần đông CBLĐQL trả lời nhận thức rõ về các nội dung cơ

bản của pháp lệnh, vẫn còn những nhận thức chưa đúng về những nội dung cơ bản trong

PLDS. Một số nội dung được đưa ra không có trong pháp lệnh, song vẫn có nhiều ý kiến

cho rằng những nội dung này có trong PLDS như: “Quy định về quyền trẻ em” là nội

dung không có trong PLDS nhưng có tới 39% số cán bộ trả lời có. Đây là một nhầm lẫn

đáng tiếc; nội dung khác “quy định về quyền phụ nữ” cũng có tới 37,7% ý kiến cho rằng

đây là một nội dung trong PLDS nhưng thực tế quyền sinh sản và quyền bảo vệ SKSS là

quyền của chung tất cả mọi người; tương tự như vậy, “Quy định về phòng chống tệ nạn

xã hội và HIV/AIDS” tuy không có trong PLDS như một mục riêng nhưng cũng có tới

31,7% ý kiến cán bộ cho rằng đây là một nội dung của PLDS; Bên cạnh đó, nội dung

“quy định về an toàn cộng đồng, phòng chống tai nạn thương tích” thậm chí không có liên

quan gì đến nội dung của PLDS thì cũng có tới 11,7% CBLĐQL được hỏi cho đó là nội

dung PLDS. Tất cả những điều trên cho thấy, vẫn còn một bộ phận CBLĐQL chưa nắm

vững những quy định được đưa ra trong PLDS. Về đại thể họ biết có trong PLDS song khi đi

vào những nội dung cụ thể, chi tiết thì họ không nắm được.

Đây là một khâu yếu trong tuyên truyền, giải thích và cung cấp thông tin cho

CBLĐQL nói chung ở nước ta hiện nay, trong đó có PLDS. Điều này cho thấy, phải có

kế hoạch tuyên truyền, vận động cụ thể hơn, chi tiết hơn cho từng nhóm cán bộ cũng như

cho cả cộng đồng. Rõ ràng, ngay cả với đội ngũ CBLĐQL, công tác truyền thông về dân

số, DSPT/SKSS và PLDS còn nhiều việc phải làm. Chỉ có như vậy mới làm thay đổi hẳn

cả nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL - nhóm xã hội có vai trò cực kỳ quan

trọng trong thực hiện PLDS.

* Hiểu biết về một số nội dung cụ thể trong PLDS:

Như đã phân tích ở trên, PLDS có rất nhiều nội dung cụ thể khác nhau, nghiên cứu

chỉ đưa ra một số nội dung cơ bản để đánh giá sự hiểu biết của CBLĐQL đối với một số

quy định, nhất là những quy định liên quan đến quyền và nghĩa vụ công dân và các yếu tố

của quá trình dân số.

+ Hiểu biết đối với quy định về quy mô gia đình 1-2 con:

Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã ban hành Nghị

quyết về chính sách DS - KHHGĐ đã chỉ rõ trong phần mục tiêu cụ thể “Mỗi gia đình chỉ

có một hoặc hai con, để tới năm 2015 bình quân trong toàn xã hội mỗi gia đình (mỗi cặp

vợ chồng) có 2 con, tiến tới ổn định quy mô dân số từ giữa thế kỷ 21. Tập trung mọi nỗ

lực nhằm tạo chuyển biến rõ rệt ngay trong thập kỷ 90 này” [59, tr.35]. Trong PLDS,

điều 4, khoản 2, điểm a quy định: Công dân có nghĩa vụ “Thực hiện KHHGĐ, xây dựng

quy mô gia đình ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững” [82, tr.3].

Nghị định 104/2003/NĐ-CP ngày 16/9/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng

dẫn thi hành một số điều của PLDS: Điều 3, khoản 2 quy định “Quy mô gia đình ít con là

mỗi cặp vợ chồng có một hoặc hai con”; Điều 17, khoản 3, điểm a quy định: Mỗi cặp vợ

chồng và cá nhân có nghĩa vụ “Thực hiện quy mô gia đình ít con - có một hoặc hai con,

no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững” [31, tr.7].

Theo kết quả khảo sát, nhận thức của CBLĐQL đối với quy định của nhà nước về

số con của các cặp vợ chồng là tương đối rõ ràng và chính xác. Hầu hết những người

được hỏi (chiếm 96%) đều biết rõ về quy định số con trong PLDS.

Khi phân tích tương quan giữa các nhóm tuổi cho thấy, phần lớn CBLĐQL được

hỏi ở các nhóm tuổi đều trả lời đúng về quy định số con trong PLDS như: CBLĐQL dưới

30 tuổi trả lời đúng là 95,7%, từ 31 - 40 tuổi (96,7%), từ 41- 50 tuổi (95,5%) và

CBLĐQL trên 51 tuổi nhận thức đúng là 100%. Tuy nhiên, vẫn còn một số CBLĐQL nhận

thức sai khi cho rằng PLDS quy định mỗi cặp vợ chồng có thể sinh ba con hoặc chỉ được sinh

một con. Số lượng ý kiến này là không đáng kể nhưng rất đáng chú ý. Bởi lẽ đây là những

nhận thức hết sức sai lầm - nguyên nhân làm tăng tỷ lệ dân số trong thời gian qua.

Nghiên cứu định tính cũng cho những kết quả tương tự. Có thể thấy điều này qua

phỏng vấn sâu CBLĐQL cấp xã như sau:

“Pháp lệnh dân số ra đời, tôi cứ tưởng là nhà nước cho sinh con thứ ba. Gia

đình nào có khả năng thì cứ sinh chứ không phải sinh 1-2 con” (PVS, LĐ cấp

xã, dân tộc Mông, xã Tá Lâu, huyện Trạm Tấu).

Tương tự như vậy, quan điểm một CBLĐQL cấp huyện cho biết:

“Tôi nghe nói PLDS ra đời là mọi người có thể tự quyết định sinh con tuỳ ý,

Nhà nước không cấm đoán chuyện này như trước nữa. Nhà tôi thì cũng mới có

3 cháu gái, vợ tôi và ông bà hai bên nội ngoại đều mong muốn có thêm cháu

trai nên tôi quyết định sinh và đã được như mong muốn”(PVS, LĐ huyện,

huyện Mù Cang Chải).

Kết quả phỏng vấn sâu trên cho thấy, không chỉ cộng đồng mà ngay cả cán bộ, kể

cả CBLĐQL huyện đang có nhận thức lệch lạc về quy định số con của mỗi cặp vợ chồng

trong PLDS. Đây cũng là biểu hiện cho thấy sự thiếu vững chắc trong những thành quả

mà chương trình dân số quốc gia đã đạt được. Tâm lý muốn có con trai để “nối dõi tông

đường” và tâm lý “đông con nhiều phúc” còn nặng.

+ Hiểu biết quy định về khoảng cách giữa các lần sinh

Trong PLDS điều 10, khoản 1, điểm a và Nghị định 104/2003/NĐ-CP của Chính

phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của PLDS, điều 17, khoản 2,

điểm a quy định

Quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng giữa các lần sinh phù hợp

với quy mô gia đình ít con, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và chính sách

dân số của nhà nước trong từng giai đoạn; phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức

khoẻ, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu nhập và nuôi dạy con của các

cặp vợ chồng, cá nhân trên cơ sở bình đẳng [31, tr.7].

Với câu hỏi “Đồng chí có biết trong hướng dẫn về PLDS quy định cụ thể về

khoảng cách giữa các lần sinh không?”, kết quả thu được cho thấy, có tới 70% những

người được hỏi cho biết nhà nước đã có quy định về khoảng cách giữa các lần sinh,

nhưng vẫn còn tới 24,7% số người được hỏi cho rằng không có quy định này và 5,3%

không biết nhà nước đã có quy định điều này trong PLDS hay không.

Những số liệu này cho thấy, mặc dù PLDS đã được tuyên truyền nhiều nhưng tính

hình thức còn lớn, hiệu quả truyền thông chưa cao, còn tới 1/3 số cán bộ được hỏi trả lời

sai hoặc không biết có quy định này trong PLDS hay không. Đây là điều đáng chú ý để

đưa ra giải pháp can thiệp về sau.

So sánh nhận thức về quy định khoảng cách giữa các lần sinh trong PLDS của

CBLĐQL phân theo khối công tác cũng thấy những khác biệt đáng chú ý (xem biểu 2.3).

Biểu 2.3: Tương quan giữa quy định về khoảng cách giữa các lần sinh với khối

công tác của CBLĐQL

77

80

71

69

70

61

60

50

34

40

25

30

17 19

20

12

5

6

4

10

0

Kh«ng

Kh«ng biÕt

Khèi § ¶ng

ChÝnh quyÒn

§ oµn thÓ

Doanh nghiÖp

Số liệu ở biểu đồ trên cho thấy, CBLĐQL thuộc khối đoàn thể có nhận thức chính

xác với tỷ lệ cao nhất, sau đó là khối chính quyền, khối doanh nghiệp và khối Đảng có tỷ

lệ nhận thức đúng thấp hơn hai khối trên.

Trên thực tế, khối đoàn thể là khối thường xuyên tiếp cận và lồng ghép công tác

tuyên truyền, vận động những nội dung liên quan đến dân số nhiều hơn, do đó, có thể họ

có những nhận thức rõ hơn những khối cơ quan khác.

Qua khảo sát cho thấy, 77% số người được hỏi thuộc khối đoàn thể khẳng định

PLDS có quy định về khoảng cách giữa các lần sinh, 17% khẳng định không có quy định

này và chỉ với 6% không biết là có quy định này; khối chính quyền có biết quy định về

khoảng cách giữa các lần sinh là 71%, không có quy định là 25% và số không biết là 4%;

khối Đảng biết có quy định về khoảng cách giữa các lần sinh là 61%, không có quy định

là 34% và số không biết là 5%. Như vậy, khối đoàn thể và doanh nghiệp có hiểu biết tốt

hơn khối chính quyền và khối Đảng.

+ Hiểu biết đối với quy định về quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng và cá

nhân trong việc thực hiện KHHGĐ.

Điều 10, khoản 1 quy định: Mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có quyền:

a. Quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh

phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khoẻ, điều kiện học tập, lao động, công tác,

thu nhập và nuôi dạy con của cá nhân, cặp vợ chồng trên cơ sở bình đẳng.

b. Lựa chọn, sử dụng các biện pháp kế hoạch hoá gia đình [82, tr.5].

Đây là điều khoản quy định trong PLDS dễ bị hiểu lầm và gây tranh cãi nhiều

nhất. Chính vì vậy, nghiên cứu đã đặt ra câu hỏi để CBLĐQL trả lời xem quy định trên

đã rõ ràng, rành mạch chưa? Tổng hợp số liệu từ câu trả lời của CBLĐQL được hỏi cho

số liệu trong bảng sau ( xem bảng 2.3).

Bảng 2.3: Hiểu biết của CBLĐQL về quyền của mỗi cặp vợ chồng và cá nhân

trong việc thực hiện KHHGĐ.

Đơn vị tính: %

Điều 10, khoản 1, Điều 10, khoản 1, Hiểu biết điều 10, khoản điểm a điểm b 1, điểm a Số lượng % Số lượng %

Rất rõ ràng 68 22.7 103 34.3

Rõ ràng 90 30.0 177 59.0

Không rõ ràng 136 45.3 13 4.3

Khó trả lời 6 2.0 7 2.4

Tổng số 300 100 300 100

Kết quả khảo sát cho thấy, về Điều 10, khoản 1, điểm a, tỷ lệ người được hỏi cho

rằng quy định như vậy là không rõ ràng chiếm 45,3%. Điều này gây nhiều tranh cãi và có

những hiểu lầm về việc quy định số con từ khi PLDS ra đời. Ngược lại, với điểm b có tới

93,3% CBLĐQL có ý kiến cho rằng quy định mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có quyền lựa

chọn, sử dụng các biện pháp KHHGĐ là rất rõ ràng và rõ ràng, chỉ có 4,3% ý kiến cho

rằng không rõ ràng. Một số phỏng vấn sâu cũng cho thấy, hầu hết CBLĐQL đều cho rằng

Nhà nước quy định mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có quyền quyết định số con là chưa rõ

ràng, thiếu chặt chẽ.

Khi hỏi ý kiến của CBLĐQL là Nhà nước cho các cặp vợ chồng được đẻ tự do

đúng hay sai? 56,7% CBLĐQL cho rằng điều đó là sai. Khi họ đánh giá là sai tức là họ

đã có những nhận thức đúng, bởi vì, PLDS không hàm ý các cặp vợ chồng được sinh đẻ

“tự do”. Bên cạnh đó vẫn còn 43,3% số người được hỏi cho rằng điều đó là đúng, nghĩa

là họ đã có nhận thức sai. PLDS không hàm ý cho các cặp vợ chồng được sinh đẻ “tự

do”.

Trong khi đó đánh giá của người trả lời về ý kiến của đồng nghiệp với câu hỏi này

cho thấy kết quả tương tự như cách mà họ đã hiểu. Nghĩa là cán bộ ở cơ quan đơn vị

người công tác trả lời có nhận thức đúng chiếm 55,7% và sai chiếm 44,3%.

Những con số này cho thấy CBLĐQL có sự hiểu biết sai hoặc cố tình hiểu sai về

quy định trong điều 10, khoản 1, điểm a là khá đông. Họ đã không hiểu tính ràng buộc

giữa quyền với nghĩa vụ của công dân trong quy định về số con. Điều này cắt nghĩa cho

tình trạng gia tăng dân số trở lại của tỉnh Yên Bái nói riêng, cũng như của cả nước nói

chung, từ sau khi có PLDS. Theo báo cáo của Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em

(UBDSGĐ&TE) tỉnh Yên Bái, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên một số năm gần đây như sau:

14

12

12.9

11.6

12.45

12

10.55

10

8

6

4

2

0

2002

2003

2004

2005

th¸ ng 6/2006

Biểu 2.4: Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên qua một số năm gần đây ở tỉnh Yên Bái

Qua biểu 2.4 cho thấy, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên ở Yên Bái tăng lên từ khi PLDS

ra đời. Năm 2002 tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên là 10,55% nhưng đến năm 2003 tỷ lệ này

tăng lên 12,9%; năm 2004 tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm xuống còn 11,6%; năm 2005

tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên tăng lên 12% và đến tháng 6/2006 tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên

tiếp tục tăng trở lại 12,45%.

Một thực tế khó phủ nhận, những người sinh con thứ ba trở lên ở tỉnh Yên Bái

không phải chỉ là người dân mà đang tăng ở cả cán bộ, đảng viên. Qua phỏng vấn sâu,

một CBLĐQL ở cấp xã đã sinh con thứ ba cho câu trả lời sau:

“Tôi đã sinh được 3 đứa con gái rồi. Vì tôi là con trưởng trong gia đình nên

Bố mẹ tôi mong có cháu đức tôn nên tôi quyết định sinh thêm cháu thứ

4...”(PVS, LĐ cấp xã, dân tộc Mông, xã Suối Giàng, huyện Văn Chấn, Yên Bái

)

Trước đây, cán bộ công chức Nhà nước sinh ít con, một phần do bị hạn chế bởi

những quy định chỉ được phép sinh một hoặc hai con chứ không chỉ đơn thuần là từ ý

thức giác ngộ và mong muốn của họ. Vì vậy, khi có cơ hội là tỷ lệ sinh con thứ ba lập tức

tăng. Đây là kết quả tác động của các yếu tố kinh tế tăng trưởng liên tục, đời sống được

cải thiện, tâm lý thích con trai vẫn còn nặng trong cộng đồng dân cư.

Thực tế khá nhiều người hiểu quyền quyết định số con mà PLDS quy định cho

mỗi cặp vợ chồng và cá nhân đồng nghĩa với sinh bao nhiêu tuỳ ý. Một số người cho

rằng, PLDS khuyến khích các gia đình sinh thêm con. Quan niệm sai lầm này tồn tại

không chỉ ở người dân mà còn ở cả cán bộ, đảng viên. Họ cho rằng PLDS tạo cho họ một

tâm lý thoải mái hơn hay coi việc sinh con thứ 3 trở lên là chuyện bình thường, đương

nhiên được chấp nhận trong xã hội. Điều đó có nghĩa là hiểu biết của CBLĐQL vẫn còn

có sự bất cập giữa nhận thức thực tế và nhận thức về những quy định chung. Đây là vấn

đề cần phải chú ý để có giải pháp về tuyên truyền giáo dục và tổ chức quản lý của

CBLĐQL trong thực hiện triệt để PLDS.

Như vậy, vấn đề về số con nhất là con trai vẫn đang là một vấn đề nhạy cảm. Bước

vào thế kỷ XXI, Việt Nam đã tiến gần đến mức sinh thay thế. Song những thành tựu mà

công tác dân số của Việt Nam đạt được vẫn chưa thực sự bền vững. Quy mô dân số vẫn

có nguy cơ tăng nhanh trở lại nếu công tác tuyên truyền và các biện pháp thực hiện thiếu

rõ ràng. Do đó, việc nâng cao nhận thức cho các CBLĐQL vẫn là vấn đề rất cần được

quan tâm.

Về nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng và cá nhân trong việc thực hiện KHHGĐ,

PLDS đã ghi rõ trong Điều 10, khoản 2, các điểm a, b, c. Cụ thể: Mỗi cặp vợ chồng và cá

nhân có nghĩa vụ:

a. Sử dụng các biện pháp tránh thai

b. Bảo vệ sức khoẻ và thực hiện các biện pháp phòng, tránh các bệnh nhiễm

khuẩn đường sinh sản và các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS

c. Thực hiện các nghĩa vụ khác liên quan đến chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế

hoạch hóa gia đình [82, tr.5-6]

Khi hỏi về hiểu biết của CBLĐQL về các điều quy định này, tổng hợp số liệu khảo

sát ở tỉnh Yên Bái cho thấy như sau:

Bảng 2.4: Hiểu biết của CBLĐQL về nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng và cá

nhân trong việc thực hiện KHHGĐ.

Đơn vị tính: %

Sử dụng các biện Bảo vệ sức khoẻ, Nghĩa vụ khác Hiểu biết về pháp tránh thai phòng bệnh nghĩa vụ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ

Rất rõ ràng 116 38.7 122 40.7 104 34.7

Rõ ràng 147 49.0 167 55.7 159 53.0

Không rõ ràng 31 10.3 8 2.6 34 11.3

Khó trả lời 6 2.0 3 1.0 3 1.0

Bảng số liệu tổng hợp trên cho thấy, phần lớn những quy định về nghĩa vụ của mỗi

công dân đã được cán bộ trả lời là rất rõ ràng và rõ ràng. Trong đó, quy định về nghĩa vụ

của mỗi cặp vợ chồng và cá nhân trong việc bảo vệ sức khoẻ và thực hiện các biện pháp

phòng, tránh các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản và các bệnh lây truyền qua đường

tình dục, HIV/AIDS được CBLĐQL đánh giá là rõ ràng nhất với tỷ lệ 96,4%.

Tuy nhiên, số ý kiến trả lời không rõ ràng tuy chiếm tỷ lệ nhỏ 11,3% với việc thực

hiện các nghĩa vụ khác liên quan đến chăm sóc SKSS, KHHGĐ; 10,3% với việc sử dụng

các biện pháp tránh thai và 2,6% với việc bảo vệ sức khoẻ và thực hiện các biện pháp

phòng, tránh các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản và các bệnh lây truyền qua đường

tình dục, HIV/AIDS song cũng là vấn đề phải chú ý. Bởi một bộ phận CBLĐQL vẫn

chưa thật hiểu hết quy định về quyền và nghĩa vụ công dân trong công tác DS - KHHGĐ,

DSPT/SKSS. Đây là điều cần chú ý để đưa ra các giải pháp truyền thông giáo dục về sau.

+ Hiểu biết đối với quy định về cấm lựa chọn giới tính thai nhi.

Trong thời gian gần đây, thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng phản ánh

tình trạng mất cân bằng giới tính ở trẻ em mới sinh đang diễn ra là điều đáng lo ngại ở nước

ngoài cũng như ở Việt Nam. Theo số liệu thống kê, hiện có tới 16 tỉnh có tỷ lệ giới tính

nam/nữ khi sinh ở mức 115/100, cao hơn nhiều so với tỷ số giới tính tự nhiên 106/100.

Trong các cuộc điều tra 1/4/1989 (107/100); điều tra 1/4/1999 (107/100) và điều tra 1/4/2000

(108/100) [70, tr.41].

Như vậy, ở Việt Nam hiện nay, hiện tượng lựa chọn giới tính thai nhi đang diễn ra.

Nếu tình hình này cứ tiếp diễn thì một xã hội thừa nam, thiếu nữ sẽ xảy đến. Sự mất cân

bằng giới tính sẽ tác động đến đời sống tâm lý, tình cảm của mỗi gia đình, đồng thời ảnh

hưởng đến sự phát triển bền vững của toàn xã hội. Tuy nhiên, Yên Bái vẫn nằm ngoài

danh sách những tỉnh được thống kê có sự chênh lệch về giới tính trong trẻ em mới sinh.

Kết quả điều tra ở Yên Bái cho thấy, có tới 81,3% CBLĐQL biết trong PLDS có

quy định nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức, trong khi đó có

18,7% cho rằng không biết trong PLDS có quy định này.

Khi xem xét đến yếu tố giới tính cho thấy, cả CBLĐQL nam và CBLĐQL nữ đều

biết trong PLDS có quy định nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức

chiếm tỷ lệ cao. CBLĐQL nam trả lời có biết (80,1%), ý kiến CBLĐQL nữ là (83,8%). Tuy

nhiên, tỷ lệ CBLĐQL nam và CBLĐQL nữ trả lời có sự chênh lệch nhưng không đáng kể.

Trong đó, 19,9% số ý kiến CBLĐQL nam và 16,2% CBLĐQL nữ trả lời không biết trong

PLDS có quy định này.

Như vậy, số liệu này cũng cho thấy, mặc dù PLDS đã ban hành được ba năm, điều

khoản quy định nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức được các

phương tiện truyền thông đại chúng đăng tải nhiều lần nhưng không phải tất cả CBLĐQL

đã nắm chắc quy định này. Hiện nay, vẫn còn một bộ phận CBLĐQL có những hiểu biết

chưa chính xác hoặc chưa biết về quy định này trong PLDS. Đặc biệt, trong những năm

gần đây, việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại vào chuẩn đoán và khám chữa

bệnh đã giúp cho việc phát hiện giới tính của thai nhi từ khi bào thai còn rất nhỏ. Tình

hình này khiến một số nước trong đó có Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng mất

cân bằng giới tính. Do vậy, tìm hiểu thực trạng vấn đề này để có những giải pháp ngăn

ngừa sớm là việc cần làm.

Yên Bái tuy chưa vào danh sách những tỉnh mất cân bằng giới tính ở trẻ mới sinh

nhưng đưa ra những biện pháp phòng ngừa sớm là điều rất cần.

+ Hiểu biết về quy định các biện pháp thực hiện kế hoạch hoá gia đình.

Trong PLDS điều 9, khoản 2 quy định: “Các biện pháp thực hiện KHHGĐ”.

KHHGĐ là biện pháp chủ yếu để điều chỉnh mức sinh góp phần bảo đảm cuộc sống no

ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.

Qua kết quả điều tra ở Yên Bái cho thấy, số CBLĐQL trả lời có biết PLDS quy

định rõ các biện pháp thực hiện KHHGĐ chiếm tỷ lệ cao (80%), số không biết chỉ chiếm

10,7%, không rõ chiếm 9,3%. Đa số CBLĐQL hiểu rõ vai trò của mình trong việc thực

hiện KHHGĐ. (xem bảng 2.5)

Bảng 2.5: Hiểu biết của CBLĐQL về quy định các biện pháp thực hiện

KHHGĐ trong PLDS phân theo cấp công tác.

Đơn vị tính: %

Hiểu biết quy định

các biện pháp thực Cấp tỉnh Cấp huyện Cấp xã, phường

hiện KHHGĐ

Có 79,0 78,7 83,8

Không 11,6 11,7 7,4

Không rõ 9,4 9,6 8,8

Bảng số liệu trên cho thấy, CBLĐQL các cấp đều biết ở mức cao quy định của

PLDS về các biện pháp thực hiện KHHGĐ. Trong đó, số CBLĐQL cấp tỉnh trả lời có

biết chiếm 79%, cấp huyện 78,7%, cấp xã, phường 83,8%. Tuy nhiên, vẫn còn một số

CBLĐQL không biết về quy định các biện pháp thực hiện KHHGĐ trong PLDS ở cấp

tỉnh 11,6%, cấp huyện 11,7%, cấp xã, phường 7,4%. CBLĐQL trả lời “không rõ” có quy

định này hay không chiếm tỷ lệ không đáng kể ở cả ba cấp.

Như vậy, phần lớn CBLĐQL đã có hiểu biết khá tốt về những quy định các biện

pháp thực hiện KHHGĐ trong PLDS. Điều đáng mừng là cán bộ ở cấp cơ sở lại có nhận

thức đúng cao nhất 83,8%. Đây là điều đáng ghi nhận ở Yên Bái - một tỉnh miền núi có

đông đồng bào dân tộc sinh sống.

+ Hiểu biết biện pháp nâng cao chất lượng dân số.

Điều 21 trong PLDS quy định các biện pháp nâng cao chất lượng dân số. Tỷ lệ

CBLĐQL hiểu biết về những quy định này ở Yên Bái chiếm tỷ lệ tương đối cao.

Kết quả điều tra cho thấy, CBLĐQL nhận thức đúng về bảo đảm quyền cơ bản

của con người, quyền phát triển đầy đủ, bình đẳng về thể chất, trí tuệ, tinh thần chiếm tỷ

lệ cao nhất (84,7%). Chiếm tỷ lệ cao thứ hai là quy định về việc tuyên truyền, tư vấn và

giúp đỡ nhân dân hiểu và chủ động, tự nguyện thực hiện các biện pháp nâng cao chất

lượng dân số (78,7%). Trong khi đó, quy định đa dạng hoá các loại hình cung cấp hàng

hoá và dịch vụ công cộng để nâng cao chất lượng dân số chiếm 61,7% và quy định về

việc thực hiện chính sách và biện pháp hỗ trợ đối với vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc

biệt khó khăn, người nghèo chiếm tỷ lệ thấp nhất 60%. Điều này cho thấy, phần đông

CBLĐQL ở Yên Bái đã có nhận thức đúng về quy định các biện pháp nâng cao chất

lượng dân số.

Nếu phân tích vấn đề theo các tương quan khác cho thấy, có sự khác biệt trong

nhận thức giữa cán bộ các cấp về chất lượng dân số. Thực tế cho thấy, cấp công tác có

quan hệ tỷ lệ thuận với nhận thức đúng về những biện pháp nâng cao chất lượng dân số.

Nhìn chung, cán bộ công tác ở cấp cao thì có nhận thức đúng về các biện pháp nâng cao

chất lượng dân số lớn. Song so sánh ở 3 cấp, cấp huyện có tỷ lệ biết đúng cao nhất (xem

bảng 2.6).

Bảng 2.6: Tương quan giữa quy định các biện pháp nâng cao chất lượng dân

số với cấp công tác.

Đơn vị tính: %

Nhận thức của CBLĐQL về các biện Cấp Cấp xã, Cấp tỉnh pháp nâng cao chất lượng dân số huyện phường

Bảo đảm quyền cơ bản của con người, 87,0 92,6 69,1 quyền phát triển đầy đủ, bình đẳng về

thể chất, trí tuệ, tinh thần.

Tuyền truyền, tư vấn và giúp đỡ nhân

dân hiểu và chủ động, tự nguyện thực 78,3 86,2 69,1 hiện các biện pháp nâng cao chất lượng

dân số.

Đa dạng hoá các loại hình cung cấp hàng

hoá và dịch vụ công cộng để nâng cao 65,9 67,0 45,6

chất lượng dân số

Thực hiện chính sách và biện pháp hỗ

trợ đối với vùng có điều kiện kinh tế xã 60,9 63,8 52,9

hội đặc biệt khó khăn, nguời nghèo.

Số liệu bảng trên cho thấy, nhận thức đúng các quy định về những biện pháp nâng

cao chất lượng dân số ở CBLĐQL cấp tỉnh, cấp huyện có tỷ lệ cao, trong khi đó cấp xã,

phường có tỷ lệ thấp hơn. Riêng vấn đề bảo đảm quyền cơ bản của con người, quyền được

phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần và xã hội, quyền bình đẳng được CBLĐQL cấp tỉnh và

cấp huyện có nhận thức cao hơn nhiều so với cấp xã, phường: 87% cấp tỉnh, 92,6% cấp huyện,

69,1% cấp xã, phường. Các chỉ báo khác, mức chênh lệch giữa nhận thức của CBLĐQL cấp

tỉnh, cấp huyện, cấp xã, phường về các biện pháp nâng cao chất lượng dân số được ghi trong

PLDS cũng khá cao từ 10% đến hơn 20%. Tất cả những điều này cho thấy, ở Yên Bái, hiểu

biết về những điều khoản ghi trong PLDS có liên quan đến chất lượng dân số tuy đã ở mức

khá cao, song ở các cấp công tác, CBLĐQL cấp xã, phường đang còn khá hạn chế về nhận

thức. Đây là điều cần chú ý để đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục cả trước mắt lẫn

lâu dài.

+ Hiểu biết quy định các biện pháp thực hiện công tác dân số.

Cũng như nhiều văn bản có tính pháp lý khác, PLDS có được thực hiện triệt để phụ

thuộc rất nhiều vào việc đề ra và thực thi các biện pháp cụ thể. Trên thực tế, văn bản pháp lệnh

cũng đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm đưa pháp lệnh vào thực tiễn cuộc sống. Những điều này

được ghi trong PLDS từ điều 26 đến điều 32. Trong đó, ghi rõ về định hướng cho quy hoạch,

kế hoạch phát triển dân số; xã hội hoá công tác dân số; huy động nguồn lực cho công tác dân

số; thực hiện giáo dục dân số; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dân số; nâng cao năng lực đội ngũ

cán bộ làm công tác dân số và tăng cường các nghiên cứu khoa học về dân số….

Tìm hiểu về nhận thức của CBLĐQL với những quy định này cho thấy, phần lớn

CBLĐQL có biết về quy định thực hiện công tác dân số chiếm 79,3%, tuy nhiên, tỷ lệ những

người không biết cũng chiếm một tỷ lệ không nhỏ 20,7%.

Số liệu biểu 2.7 dưới đây cho thấy, tỷ lệ CBLĐQL cấp tỉnh có hiểu biết về những

biện pháp được quy định trong PLDS là 82,6% cao hơn chút ít so với cán bộ cấp huyện

(80,9%) và cán bộ cấp xã, phường có biết về quy định này chiếm tỷ lệ thấp nhất (70,6%).

Tuy nhiên, sự khác biệt này chưa đủ để khẳng định rằng cứ là cán bộ cấp cao hơn thì biết rõ

hơn về các quy định. Đây cũng là yếu tố cho thấy, việc chưa thực hiện đầy đủ PLDS bắt

nguồn từ nhiều yếu tố, từ quán triệt ý nghĩa, tầm quan trọng, nội dung của pháp lệnh đến việc

hiểu biết về những biện pháp cần thực hiện để đưa pháp lệnh vào cuộc sống. Hơn nữa cả cán

bộ cấp cơ sở - cấp thực hiện trực tiếp lên các cấp trên nhiều cán bộ hiểu biết chưa đầy đủ, do

đó thực hiện chưa đúng, chưa đủ, chưa nghiêm cũng là điều dễ hiểu.

Biểu 2.5: Hiểu biết của CBLĐQL về quy định các biện pháp thực hiện công

82.6

80.9

70.6

29.4

17.4

19.1

90 80 70 60 50 40 30 20 10 0

CÊp tØnh

CÊp huyÖn

CÊp x· , ph­ êng

Kh«ng

tác dân số phân theo cấp công tác

2.2.3. Hiểu biết về Nghị quyết 47/NQ-TW

Từ khi PLDS ra đời, lợi dụng một số điểm trong pháp lệnh thiếu rõ ràng nên một

số người, kể cả cán bộ, đảng viên đã tranh thủ sinh con thứ ba. Vì vậy, tỷ lệ sinh con thứ

3 lại tăng lên. Trước tình hình này, ngày 22/3/2005 Bộ Chính trị ra Nghị quyết 47/NQ-

TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ. Đây là một văn bản quan

trọng nhằm thống nhất tư tưởng, thống nhất phương châm, phương pháp tổ chức, chỉ đạo

thực hiện chương trình dân số. ở đây, ngoài khẳng định những thành tích đã đạt được, Bộ

Chính trị đã chỉ rõ những điểm yếu mà việc thực hiện chương trình dân số đang gặp phải,

nhất là trong công tác tổ chức, chỉ đạo thực hiện PLDS. Đó là lý do khiến việc nghiên

cứu PLDS phải tiếp cận với văn bản này.

Với câu hỏi “Đồng chí có biết Nghị quyết 47-NQ/TW của Bộ chính trị ngày

22/3/2005 không?”, kết quả khảo sát cho thấy, số người trả lời có biết Nghị quyết 47/NQ-

TW là tương đối cao với 70,7%. Điều này cho thấy, phần lớn CBLĐQL các cấp đã được

tiếp cận với nghị quyết.

Khi xem xét đến yếu tố dân tộc cũng cho thấy, CBLĐQL là người dân tộc trả lời

có biết Nghị quyết này 69,4% và có 72,2% ý kiến CBLĐQL là người kinh trả lời có biết

Nghị quyết 47-NQ/TW. Điều này cho thấy, CBLĐQL là người dân tộc hay không phải

người dân tộc đều trả lời có biết Nghị quyết này chiếm tỷ lệ cao. Tuy nhiên, việc có Nghị

quyết và việc biết đến nội dung của Nghị quyết là không đồng nhất.

Khi hỏi thêm Nghị quyết bàn về vấn đề gì thì có tới hơn một nửa số người được

hỏi trả lời sai (56%) và chỉ với 44% số người được hỏi trả lời đúng. Những người trả lời

sai cho rằng nội dung của Nghị quyết này đề cập đến công tác phòng chống AIDS chiếm

12,1%; phòng chống tội phạm chiếm 27,6%; phòng chống tệ nạn xã hội chiếm 16,4%.

Như vậy, cho dù CBLĐQL các cấp về nguyên tắc là người tiếp thu và triển khai thực

hiện Nghị quyết 47/NQ-TW, nhưng với kết quả khảo sát trên cho thấy, Nghị quyết vẫn

chưa được CBLĐQL quán triệt đầy đủ, một số CBLĐQL còn hiểu sai. Điều này một lần

nữa chứng tỏ cần tiếp tục tuyên truyền, vận động mạnh mẽ hơn nữa thì PLDS và các văn

bản khác của Đảng và Nhà nước về dân số mới được thực thi triệt để.

2.3. Thái độ của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với việc thực hiện pháp lệnh

dân số

Từ nhận thức đến thái độ là một quá trình mà trong đó thường có nhận thức đúng

thì có thái độ tích cực. Trong nghiên cứu về PLDS, ngoài việc tìm hiểu về nhận thức của

CBLĐQL, còn cần làm rõ thái độ của họ với sự ra đời và thực hiện PLDS. Trong đó, các

đo lường cần thiết về quan điểm, thái độ của họ với PLDS đã được tiến hành. Một trong

những chỉ báo để đo lường về thái độ của CBLĐQL đối với PLDS là sự đánh giá của họ

về ý nghĩa, tầm quan trọng của PLDS với công tác dân số, DS - KHHGĐ, DSPT nói

riêng và đời sống xã hội nói chung.

2.3.1. Thái độ của cán bộ lãnh đạo, quản lý với sự ra đời của Pháp lệnh dân

số

Pháp lệnh dân số xác định “Dân số là một trong những yếu tố quyết định sự

phát triển bền vững của đất nước”. Vì vậy, dân số vừa là mục tiêu, vừa là động lực

của sự phát triển. Như vậy, sự thay đổi của các yếu tố dân số có ảnh hưởng không nhỏ

đến sự phát triển. Ngược lại, chính sự phát triển lại tác động trở lại tới cả quy mô, cơ

cấu, chất lượng dân số và phân bố dân cư. ở đây, sự phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu

ngày càng tăng trong cộng đồng dân cư, nâng cao chất lượng cuộc sống. Nếu sự phát

triển không tương ứng hoặc chỉ đáp ứng nhu cầu của dân số hiện tại mà không đảm

bảo đến chất lượng cuộc sống của con người trong tương lai thì sự phát triển đó sẽ

không bền vững.

Khi đo lường sự đánh giá của CBLĐQL về ý nghĩa, tầm quan trọng của PLDS với

cộng đồng, với đất nước. Câu hỏi được đặt ra theo hai cấp độ - PLDS có ý nghĩa gì đối

với đất nước và đối với bản thân. Tổng hợp số liệu điều tra cho biểu sau: (xem biểu 2.6).

Biểu 2.6: Thái độ của CBLĐQL với sự ra đời của PLDS

90

80.3

80

70

54.2

60

50

35.5

40

30

17.3

20

10.3

2.4

10

0

RÊt quan träng Quan träng

B×nh th­ êng

§ Êt n­ í c

B¶n th©n

Biểu số liệu trên cho thấy, hầu hết CBLĐQL đánh giá cao về tầm quan trọng của

PLDS. ở mức độ quốc gia có tới 80,3% ý kiến cho rằng PLDS là rất quan trọng, 17,3% ý

kiến cho là quan trọng và chỉ có 2,4% cho điều đó là bình thường. Như vậy, có tới 97,6%

CBLĐQL được hỏi cho PLDS là văn bản pháp luật quan trọng và rất quan trọng. Đây là

một chỉ số mạnh đánh giá thái độ đồng tình của CBLĐQL với sự ra đời của PLDS. ở cấp

độ cá nhân, tính quan trọng tuy có giảm hơn chỉ 89,7% CBLĐQL được hỏi cho là quan

trọng và rất quan trọng, 10,3% cho là bình thường. Song đây vẫn là một chỉ báo mạnh

cho thấy sự đồng tình của CBLĐQL với PLDS.

Những số liệu trên một lần nữa cho thấy rằng, hiện tại ở Yên Bái nói riêng và ở

Việt Nam nói chung, CBLĐQL đã hiểu khá rõ và đồng tình với những chủ trương, đường

lối chính sách, hệ thống luật pháp của Đảng và Nhà nước về dân số, DS - KHHGĐ và

DSPT. PLDS dù còn một số điều chưa rõ ràng, song đa số CBLĐQL đồng tình với việc

công bố và thực hiện nó. Bởi lẽ, hiện nay đa số CBLĐQL và người dân đều đã hiểu rõ

rằng muốn tăng trưởng kinh tế phải khai thác triệt để nguồn nhân lực, mà chất lượng

nguồn nhân lực lại gắn liền với quá trình biến đổi và phát triển của dân số. Do vậy, công

tác dân số là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước; đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho sự phát triển với những hiệu quả trực tiếp

và rõ rệt. Các mục tiêu kinh tế - xã hội ở mọi cấp độ chỉ có thể đạt được một khi chúng ta

có một chính sách điều chỉnh và phát triển phù hợp về dân số, về cả quy mô dân số, cơ

cấu dân số, phân bố dân cư và chất lượng dân số.

2.3.2. Thái độ của cán bộ lãnh đạo, quản lý với việc thực hiện Pháp lệnh dân

số

PLDS là một văn bản có tính pháp lý cao. Pháp lệnh đã đề cập đến trách nhiệm và

nghĩa vụ về dân số của mọi công dân và của các cơ quan nhà nước cùng những tổ chức,

đoàn thể chính trị xã hội. Thực hiện PLDS là nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người, nhất

là của CBLĐQL. Vậy thái độ của CBLĐQL với việc thực hiện PLDS thế nào. Có thể

xem xét vấn đề này dưới những góc độ sau:

Thứ nhất, thái độ của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với quy định về khoảng cách

giữa các lần sinh.

PLDS quy định về khoảng cách giữa các lần sinh của các cặp vợ chồng và cá nhân

phải phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khoẻ, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu

nhập và nuôi dạy con của cá nhân, cặp vợ chồng trên cơ sở bình đẳng. PLDS không nêu

rõ khoảng cách giữa các lần sinh cụ thể. Tuy nhiên, nghị định 104/2003/NĐ-CP quy định

chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của PLDS ghi rõ:

Điều 14, khoản 1 quy định:

Bảo đảm các điều kiện để cá nhân, các cặp vợ chồng thực hiện mục tiêu chính

sách dân số, phụ nữ sinh con trong độ tuổi từ hai mươi hai tuổi đến ba mươi

lăm tuổi; lựa chọn khoảng cách giữa các lần sinh từ ba năm đến năm năm; sử

dụng biện pháp tránh thai phù hợp điều kiện kinh tế, sức khoẻ, tâm lý và các

điều kiện khác của mỗi cá nhân, cặp vợ chồng [31, tr.5-6].

Trong Nghị định 104/2003/NĐ-CP có nêu rõ khoảng cách đó là từ 3 đến 5 năm.

Vậy CBLĐQL tiếp nhận và thực hiện những quy định trên thế nào. Tổng hợp số liệu điều

tra được ở tỉnh Yên Bái cho thấy, có tới 91,7% số người được hỏi cho rằng, khoảng cách

giữa các lần sinh từ 3 đến 5 năm là hợp lý. Các khoảng cách khác như 1- 2 năm thì nhiều

người cho là quá ngắn còn 6 năm trở lên thì lại cho là quá dài khó thực hiện. Điều này

cho thấy, đa số CBLĐQL có thái độ đúng đắn và đồng tình cao với những quy định về

khoảng cách giữa các lần sinh hiện nay.

Kết quả này cũng tương đồng với kết quả phỏng vấn sâu khi người trả lời cho

rằng khoảng cách giữa các lần sinh từ 3 đến 5 năm là thích hợp nhất. Bởi vì, trong

điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện nay, áp lực về thời gian, áp lực công việc

đang đè nặng lên nhiều người ở nhiều hộ gia đình. Khoảng thời gian nhàn rỗi cho các

gia đình ngày một ít, khoảng cách giữa các lần sinh từ 3-5 năm giúp người mẹ có điều

kiện chăm sóc con cái, gia đình và bản thân. Có thể thấy điều này qua ý kiến của một

số cán bộ lãnh đạo của tỉnh Yên Bái:

“Tôi thấy khoảng cách giữa các lần sinh từ 3-5 năm là hợp lý để các cặp

vợ chồng có thời gian để nghỉ ngơi, làm ăn, học hành và nuôi dạy con cái. Theo

tôi, nhà nước quy định khoảng cách giữa các lần sinh từ 3-5 năm là phù hợp”

(PVS, LĐ huyện, huyện Văn Chấn, Yên Bái)

Qua trao đổi với lãnh đạo phường cũng cho biết:

“Tôi nghĩ trong điều kiện hiện nay, nếu khoảng cách sinh con quá ngắn

còn ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều vấn đề như: điều kiện chăm sóc nuôi dạy

đứa trẻ, sức khoẻ bà mẹ, khả năng kinh tế gia đình...Chính vì vậy, tôi đã

sinh cháu thứ 2 cách nhau 5 năm để có điều kiện chăm sóc các cháu được

tốt hơn” (PVS, LĐ phường, phường Yên Thịnh, thành phố Yên Bái)

Khi được hỏi khoảng cách giữa các lần sinh được thực hiện bằng cách

thức nào? Phần nhiều CBLĐQL cho rằng quy định về khoảng cách giữa các

lần sinh là quy định mang tính khuyến khích với 68,3%. Trong khi đó, 25% ý

kiến cho rằng đây là giải pháp mang tính vừa bắt buộc, vừa khuyến khích, chỉ

có 3,7% ý kiến cho rằng đây là giải pháp hoàn toàn mang tính bắt buộc và

3% không trả lời. Tuy nhiên, phỏng vấn sâu CBLĐQL lại cho thấy thái độ có

tính cứng rắn hơn khi thực hiện quy định này.

“Theo tôi Nhà nước cần ban hành một văn bản mang tính cứng rắn

hơn, cụ thể hơn để quy định mỗi gia đình chỉ sinh từ một đến hai con,

khoảng cách giữa các lần sinh từ 3 đến 5 năm” (PVS, LĐ thị xã, thị xã

Nghĩa Lộ).

Như vậy, qua kết quả khảo sát phân tích ở Yên Bái cho thấy, phần lớn CBLĐQL

đều đồng ý với quy định về khoảng cách giữa các lần sinh, vì quy định này có lợi cho cả

gia đình và xã hội.

Thứ hai, thái độ đối với quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng trong

việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình.

Quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng trong việc thực hiện

KHHGĐ là điều quy định trong PLDS đang gây nhiều tranh cãi và hiểu lầm trong cả

CBLĐQL và cộng đồng dân cư. Về nguyên tắc, hệ thống luật pháp nào khi quy định

về quyền cũng phải song song với những quy định về điều kiện đảm bảo thực hiện

quyền cũng như nghĩa vụ tương xứng với những quyền đó.

Trong điều 10 của PLDS, quyền sinh sản và nghĩa vụ của công dân đã được quy

định trong các khoản 1, điểm a, b và khoản 2, điểm a, b, c. Tuy nhiên, tại điều 10 này các

quy định về quyền chưa được xác định trong sự gắn bó chặt chẽ với các quy định về

nghĩa vụ nên đã đưa đến những hiểu biết không rõ ràng, thiếu nhất quán của cả CBLĐQL

và nhân dân. Điều tra thái độ của CBLĐQL ở Yên Bái với những quy định trong điều 10

của PLDS cho bảng số liệu sau:

Bảng 2.7: Thái độ của CBLĐQL với quy định trong điều 10 của PLDS

Đơn vị tính: %

Điều 10 Đồng ý Không đồng ý

Khoản 1, điểm a 41.8 58.2

Khoản 1, điểm b 96.5 3.5

Khoản 2, điểm a 89.8 10.2

Khoản 2, điểm b 96.2 3.8

Khoản 2, điểm c 89.1 10.9

Kết quả khảo sát cho thấy, tỷ lệ CBLĐQL trả lời không đồng ý với quy định Điều

10, khoản 1, điểm a chiếm 58,2% người được hỏi. Số này yêu cầu phải sửa đổi điều quy

định này trong pháp lệnh. Các quy định khác trong điều 10 được hầu hết CBLĐQL được

hỏi đồng ý. Chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ CBLĐQL không đồng ý. Cụ thể, khoản 1, điểm b có

3,5%; khoản 2, điểm a có 10,2%; khoản 2, điểm b có 3,8% và khoản 2, điểm c có 10,9%.

Rõ ràng, trong thực hiện PLDS, đa số CBLĐQL đã tỏ rõ thái độ đồng tình với

những quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân đối với việc sinh sản. Những điều

khoản mà PLDS quy định đúng và rõ ràng, tuyệt đại đa số CBLĐQL được hỏi tỏ thái độ

ủng hộ cao. Riêng điều 10, khoản 1, điểm a, tỷ lệ tỏ thái độ không đồng tình lớn. Một số

CBLĐQL yêu cầu phải sửa đổi. Đây là điều cần phải chú ý để bổ sung, hoàn thiện PLDS,

đưa PLDS vào cuộc sống đúng như ý kiến của đại biểu Quốc hội trong kỳ họp vừa qua.

Phỏng vấn sâu một số CBLĐQL cũng cho kết quả tương tự. Đa số CBLĐQL đều

cho rằng phải sửa đổi Điều 10, khoản 1, điểm a. Số ý kiến sau đây cho thấy rõ điều đó:

“Theo tôi PLDS cần phải sửa điều 10, khoản 1, điểm a về quyền quyết định số

con cho rõ ràng. Nếu ghi số con chung chung như vậy có thể số con do họ

quyết định không phải là 1-2 con mà có thể từ 3 con trở lên” (PVS, LĐ Uỷ ban

nhân dân tỉnh).

Để khẳng định rõ hơn về điều 10, một cán bộ lãnh đạo huyện cũng cho biết:

“Cái khó nằm ở nhận thức không chỉ người dân mà ngay cả CBLĐQL ở các

địa bàn thị xã, thị trấn. Mọi người đã cố tình hiểu sai tinh thần quy định của

Điều 10 PLDS. Họ cố tình tách rời quyền và nghĩa vụ công dân đối với công

tác dân số. Mặt khác, do chưa có văn bản quy định biện pháp xử lý đối với

những trường hợp vi phạm chính sách dân số nên tất cả mới chỉ dừng lại ở vận

động và thuyết phục. Nếu người dân cứ cố tình sinh thêm con thì ngành dân số

cũng bất lực” (PVS, LĐ huyện, huyện Lục Yên, Yên Bái).

Tương tự như vậy, trao đổi với một cán bộ lãnh đạo huyện cũng cho thấy rõ điều

này.

“PLDS ra đời khoảng 9 tháng sau mới ra Nghị định hướng dẫn. Vì vậy, ngay

cả cán bộ lãnh đạo cũng lợi dụng khe hở của pháp lệnh để sinh con thứ 3. Họ

có sự ngộ nhận về quyền tự do sinh sản coi đây là quyền tự nhiên nên ai có

điều kiện kinh tế và điều kiện nuôi dưỡng thì có thể sinh thêm con”(PVS, LĐ

huyện, huyện Văn Yên).

Như vậy, quan điểm của CBLĐQL đối với quy định trong điều 10, khoản 1, điểm

a của PLDS là rõ ràng và thoả đáng. Bởi vì, thực tế cho thấy, từ khi PLDS ban hành, tỷ lệ

sinh con thứ 3 trở lên đã gia tăng ở hầu hết các huyện thị trong tỉnh. Nhà nước cần sớm

điều chỉnh lại điều 10, khoản 1, điểm a. Đây như một nhiệm vụ không thể không làm.

Để pháp luật được thực thi, cần có các chế tài. Với PLDS cũng phải như vậy. Vấn

đề là, với những người đã sinh con thứ ba sau PLDS, cần có chế tài nào cho họ? Đây là

câu hỏi mà cuộc nghiên cứu hướng vào. Tuy nhiên câu trả lời đúng còn khi chưa rõ trong

một số CBLĐQL được hỏi. Cụ thể, có 86,7% CBLĐQL được hỏi trả lời là cần phải có

biện pháp hành chính đối với những người vi phạm. Số này cao hơn so với tỷ lệ đồng tình

của nhân dân (80,3%). Điều này cho thấy, hầu hết CBLĐQL có thái độ cứng rắn đối với

những người đã sinh con thứ 3 trở lên sau khi PLDS đã được ban hành. Cần phải khẳng

định rằng PLDS không có điều khoản nào quy định về việc xử phạt với cán bộ hoặc công

dân vi phạm quyền và nghĩa vụ sinh sản. Song những văn bản pháp lý khác như Pháp

lệnh công chức, điều 17 có ghi: “mỗi gia đình chỉ nên có từ 1 đến 2 con”. Do đó, những

cán bộ, đảng viên, công chức sinh con thứ 3 trở lên tuy không vi phạm PLDS, song ở góc

độ nào đó đã vi phạm Pháp lệnh công chức. Do đó, xử lý ở mức nào đó với những vi

phạm của đảng viên, cán bộ trong việc cố tình sinh con thứ ba trở lên, có lẽ cũng là điều

phải suy nghĩ. Tuy nhiên, để cho việc xử lý hợp luật phải điều chỉnh lại điều 10, khoản 1,

điểm a trong PLDS để mọi người hiểu rõ phải kết hợp chặt chẽ việc thực hiện quyền với

nghĩa vụ sinh sản mà pháp luật đã ghi nhận.

Qua nghiên cứu định tính cũng cho những kết quả tương tự, một số CBLĐQL cho

rằng cần có biện pháp xử lý nghiêm những trường hợp sinh con thứ ba là cán bộ công chức

nhà nước, tuy nhiên mức độ xử lý nặng - nhẹ thế nào còn tuỳ thuộc vào việc cơ quan họ đã

ký cam kết hay chưa ký cam kết sinh đẻ có kế hoạch chỉ một hoặc hai con. Điều này cũng

đã được Nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải phát biểu trong hội nghị triển khai Nghị quyết

số 47/NQ-TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ.

Yêu cầu các cấp uỷ Đảng, chính quyền đưa việc hoàn thành các chỉ tiêu thực

hiện chính sách dân số, đặc biệt là chỉ tiêu không có người sinh con thứ 3 trở

lên, là tiêu chuẩn đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ kinh tế - xã hội của

từng ngành, từng địa phương, tiêu chuẩn xét duyệt các danh hiệu thi đua đối

với các đơn vị và cá nhân. Đặc biệt Thủ tướng yêu cầu lãnh đạo các bộ, ngành,

địa phương phải kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp cán bộ, đảng viên

công chức Nhà nước sinh con thứ 3 trở lên [7, tr. 8].

Thứ ba, thái độ của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với quy định nghiêm cấm lựa

chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức.

Thực tế khảo sát cho thấy, số CBLĐQL được hỏi đều có thái độ tán thành quy định

“nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức”. Trong đó tỷ lệ “rất đồng ý và

đồng ý” chiếm tới 86,3% ý kiến cán bộ được hỏi. Tuy nhiên, vẫn còn 13,7% ý kiến

CBLĐQL “không đồng ý” với quy định này.

Điều này cho thấy, dù ở Việt Nam, điều kiện kỹ thuật cho việc chọn giới tính thai

nhi chưa nhiều. ảnh hưởng của tình trạng mất cân bằng về giới tính trong sinh sản chưa

cao. Song đã có một bộ phận dân cư là CBLĐQL đồng tình với việc cho phép một bộ

phận dân cư được chọn giới tính thai nhi. Đây là một quan niệm xã hội ít nhiều lạc hậu

cần đấu tranh gạt bỏ. Bởi nó vi phạm cả quy luật sinh sản tự nhiên của con người.

Qua phỏng vấn sâu một số CBLĐQL cũng đồng tình với quy định này cho biết:

“Theo tôi, hiện nay siêu âm là để xem tình trạng thai nhi đó phát triển có bình

thường hay không bình thường để người ta tìm ra một số dự báo về tai biến

cho mẹ, tôi nghĩ cái đó thì cũng nên nhưng siêu âm để lựa chọn giới tính thai

nhi thì không nên” (PVS, LĐ sở y tế, thành phố Yên Bái).

Khi xem xét thái độ của CBLĐQL có trình độ học vấn khác nhau về quy định

nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi trong PLDS, kết quả khảo sát cho thấy, người có

trình độ học vấn cao, tỏ thái độ ủng hộ cao hơn với quy định nghiêm cấm lựa chọn giới

tính thai nhi dưới mọi hình thức. Có thể thấy điều này qua bảng số liệu sau:

Bảng 2.8: Thái độ của CBLĐQL đối với quy định nghiêm cấm lựa chọn giới

tính thai nhi dưới mọi hình thức phân theo trình độ học vấn.

Đơn vị tính: %

Thái độ Trung học phổ thông Trung cấp Cao đẳng trở lên

Rất đồng ý 48,2 54,3 67,0

Đồng ý 31,2 33,5 22,6

Không đồng ý 20,6 12,2 10,4

Bảng số liệu trên cho thấy, nhóm có trình độ học vấn từ cao đẳng trở lên có thái độ

“rất đồng ý và đồng ý” chiếm tỷ lệ cao nhất 89,6%. Trong khi đó, nhóm có trình độ học

vấn trung học phổ thông có tỷ lệ đồng ý thấp nhất chỉ 79,4% (chệnh lệch 10%). Điều này

cũng dễ hiểu bởi người có trình độ học vấn cao, nhận thức càng tiến bộ. Họ càng ý thức

được rõ ràng những ảnh hưởng to lớn về cả sinh học và xã hội của việc lựa chọn giới tính

thai nhi đối với sự phát triển bền vững của toàn xã hội.

Thứ tư, thái độ của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với quy định các biện pháp thực

hiện kế hoạch hoá gia đình.

Ngoài những quy định về quyền sinh sản, nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi,

PLDS còn đưa ra quy định các biện pháp thực hiện KHHGĐ. Trong PLDS, Điều 9,

khoản 2, quy định “Các biện pháp thực hiện KHHGĐ” như: Tuyên truyền, tư vấn, giúp

đỡ, bảo đảm để mỗi cá nhân, cặp vợ chồng chủ động, tự nguyện thực hiện KHHGĐ;

Cung cấp các dịch vụ KHHGĐ bảo đảm chất lượng, thuận tiện, an toàn và đến tận người

dân; Khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần, thực hiện các chính sách bảo hiểm để tạo

động lực thúc đẩy việc thực hiện KHHGĐ sâu rộng trong nhân dân.

Trên thực tế với quy định này CBLĐQL có thái độ rất khác nhau: có người cho

rằng đây là quy định mang tính “giáo dục, thuyết phục”, có người hiểu quy định đó là

“bắt buộc bằng biện pháp hành chính” hoặc “vừa giáo dục thuyết phục, vừa cưỡng bức

hành chính”. Kết quả cuộc khảo sát đánh giá thái độ của CBLĐQL, có 69% cán bộ cho

rằng quy định này mang tính giáo dục thuyết phục, 4,3% quy định này mang tính bắt

buộc bằng biện pháp hành chính, 23,7% quy định này mang tính vừa giáo dục, thuyết

phục, vừa bắt buộc bằng biện pháp hành chính và chỉ có 3% là không biết.

Điều này cho thấy, phần lớn số người được hỏi cho quy định này mang tính giáo

dục thuyết phục là cao nhất. Trong khi đó số người cho quy định này chỉ mang tính bắt

buộc bằng biện pháp hành chính chiếm tỷ lệ thấp. Việc thực hiện KHHGĐ là quyền của

mỗi cá nhân, mỗi cặp vợ chồng. Luật pháp Việt Nam đặt ra những quy định, nhưng đó là

quy định mang tính tự nguyện, khuyến khích, giáo dục thuyết phục. Đó là những quy

định mang tính định hướng, việc thực hiện các biện pháp KHHGĐ là do đối tượng tự lựa

chọn chúng ta không được ép các cặp vợ chồng thực hiện các biện pháp KHHGĐ. Các

nghiên cứu định tính cũng cho kết quả tương tự. Nghĩa là CBLĐQL được hỏi đa số cho

rằng, các biện pháp KHHGĐ được quy định trong PLDS sẽ do mỗi người, mỗi cặp vợ

chồng tự giác thực hiện cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và sức khoẻ của mình. ý

kiến phỏng vấn sâu một cán bộ lãnh đạo cấp xã sau đây thể hiện điều đó:

Theo tôi việc thực hiện các biện pháp KHHGĐ là do mỗi cá nhân tự quyết

định. Nếu bắt buộc thực hiện thì chưa chắc có hiệu quả. Để mọi người

thực hiện tốt thì cách tốt nhất là giáo dục, tuyên truyền rồi vận động. (PVS,

LĐ xã, xã Hợp Minh, thành phố Yên Bái).

Thứ năm, thái độ của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với quy định các biện pháp

nâng cao chất lượng dân số.

Hiện nay, chất lượng dân số nước ta còn thấp. Người Việt Nam còn yếu về thể lực.

Chiều cao, cân nặng vẫn còn kém một số nước trong khu vực. Học vấn còn chưa cao,

chất lượng đào tạo thấp. Chất lượng dân số Việt Nam chưa đáp ứng nhu cầu xây dựng

nguồn nhân lực cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do đó, định

hướng của PLDS đối với chất lượng dân số là nâng cao chất lượng dân số về cả thể chất,

trí tuệ và tinh thần cho mỗi người dân và cho cả cộng đồng.

Quy định của PLDS là như vậy, thái độ của CBLĐQL là thế nào? Tổng hợp số liệu

cuộc điều tra tại tỉnh Yên Bái cho thấy, tuyệt đại đa số cán bộ được hỏi đồng tình với quy

định này. Cụ thể, có 100% ý kiến CBLĐQL được hỏi cho rằng nâng cao chất lượng dân số

trong điều kiện hiện nay là một chủ trương đúng, phù hợp. Trong số này, tỷ lệ cán bộ rất

đồng ý chiếm tới 58,9%. ở đây, phần đông CBLĐQL được hỏi đều nhất trí cho rằng, chất

lượng dân số phụ thuộc vào việc thực hiện các giải pháp về bảo đảm quyền cơ bản của con

người, quyền được phát triển toàn diện, quyền được tiếp cận thông tin và được tuyên truyền,

giáo dục, giúp đỡ, đa dạng hoá các loại hình cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cộng, đặc

biệt đối với cư dân vùng có điều kiện kinh tế khó khăn. Chú ý thực hiện nâng cao chất lượng

dân số thông qua việc hướng dẫn, giúp đỡ cộng đồng làm cho mọi người dân hiểu và thực

hiện tốt các biện pháp bảo vệ sức khoẻ, bảo đảm điều kiện học tập, rèn luyện, vui chơi và tổ

chức cuộc sống, sinh hoạt một cách khoa học. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng dân số đòi

hỏi sự tham gia rộng lớn của toàn xã hội. Phần đông CBLĐQL đã quán triệt quan điểm này.

Đây chính là một trong những cơ sở quan trọng để CBLĐQL tích cực tham gia tổ chức, thực

hiện việc nâng cao chất lượng dân số, thực hiện tốt PLDS.

2.4. Hành vi của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với việc thực hiện pháp lệnh

dân số

Nhận thức, thái độ và hành vi là quá trình có quan hệ ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.

Nhận thức đúng sẽ định hướng đến thái độ tích cực và điều chỉnh các hành vi phù hợp. Do

vậy, khi nghiên cứu CBLĐQL với PLDS, ngoài việc tìm hiểu nhận thức, thái độ của họ cần

xem xét hành vi của họ thế nào. Thông thường hành vi được thể hiện dưới các cấp độ sau: sự

gương mẫu trong tư tưởng và hành động, sự tự giác tham gia tổ chức thực hiện một công

việc nào đó và cuối cùng là việc huy động các nguồn lực cho việc thực hiện đầu tư, phát

triển. Về hành vi của CBLĐQL ở Yên Bái với việc thực hiện PLDS, nghiên cứu cũng đã đi

sâu đề cập vấn đề theo ba yếu tố: nghiêm túc hay gương mẫu thực hiện, tham gia tổ chức

thực hiện và đầu tư nguồn lực cho việc thực hiện PLDS.

2.4.1. Sự gương mẫu thực hiện Pháp lệnh dân số của cán bộ lãnh đạo, quản lý

Trước hết cần phải khẳng định rằng ở Yên Bái trong triển khai, thực hiện PLDS,

hầu hết CBLĐQL đều nghiêm túc thực hiện các điều khoản đã được quy định trong

PLDS. Tuy nhiên, do điều 10, khoản 1, điểm a, quy định chưa rõ ràng giữa quyền và

nghĩa vụ của công dân trong sinh sản nên một số cán bộ và nhân dân còn mang nặng tư

tưởng “trọng con trai” và quan niệm “đông con, nhiều phúc” đã để “vỡ kế hoạch” sinh

thêm con thứ 3, thậm chí thứ 4, thứ 5. Ngay 6 tháng đầu năm 2006 này, theo báo của

UBDSGĐ&TE tỉnh Yên Bái, tỷ lệ sinh con thứ 3 đã tăng lên mức cao trong vòng 4 năm qua:

12,45% so với tổng trẻ sinh. CBLĐQL và đảng viên cũng có trong con số này. Điều đó chứng

tỏ rằng, tính tiên phong gương mẫu trong việc thực hiện PLDS của một bộ phận CBLĐQL còn

chưa tốt. Quán triệt và thực hiện PLDS chưa nghiêm.

Trong nghiên cứu định lượng, với câu hỏi “ở địa phương đồng chí tỷ lệ sinh con

thứ 3 có tăng không?” thì được kết quả như sau: 50,3% số CBLĐQL được hỏi trả lời có

gia tăng, số ý kiến trả lời không là 43,3% và 6,3% trả lời là không rõ. Nếu xem xét chỉ

báo này theo cấp công tác, tỷ lệ CBLĐQL cấp xã, phường trả lời là có sự gia tăng dân số

chiếm tỷ lệ cao nhất (66,2%), cấp huyện (51,1%) và thấp nhất là cấp tỉnh (42%).

Bảng 2.9: ý kiến CBLĐQL đánh giá hiện tượng sinh con thứ 3 trở lên theo

cấp công tác

Đơn vị tính: %

Cấp tỉnh Cấp huyện Cấp xã, phường ý kiến

Có 42 51,1 66,2

Không 49,3 42,6 32,4

Không rõ 8,7 6,3 1,4

Qua kết quả nghiên cứu định tính cũng nhất quán với kết quả nghiên cứu định lượng.

Hầu hết CBLĐQL được phỏng vấn đều cho rằng từ khi PLDS ra đời, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở

lên đã gia tăng ở hầu hết các huyện, thị xã trong tỉnh. Một trong những nguyên nhân dẫn đến

tình trạng này là hiểu sai hoặc cố tình hiểu sai PLDS. Kết quả phỏng vấn sâu một số

CBLĐQL sau đây cho thấy rõ điều này.

“Tôi thấy tỷ lệ sinh con thứ 3 tăng mạnh trong mấy năm gần đây. Đặc biệt xã

tôi là một xã vùng cao tình trạng lãnh đạo xã phụ trách công tác dân số còn

sinh con thứ 5 thì làm sao tuyên truyền người dân thực hiện tốt được” (PVS,

LĐ xã Tá Lâu, huyện Trạm Tấu).

Một ý kiến trả lời khác cũng tương tự:

“Tình trạng sinh con thứ 3 trở lên tăng không chỉ ở vùng cao mà ngay cả ở thị xã,

thành phố, cán bộ lãnh đạo sinh con thứ 3. Tôi nghĩ là do họ cố tình không hiểu

PLDS để nhân cơ hội này họ sinh con thứ 3”(PVS, LĐ Uỷ ban dân số, gia đình và

trẻ em huyện Yên Bình).

Điều đáng quan tâm ở đây là nhiều CBLĐQL là người dân tộc thiểu số cũng đều

đánh giá là ở địa phương tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên đang gia tăng. Nguyên nhân sâu xa

dẫn đến sự gia tăng này là tâm lý muốn có con trai để “nối dõi tông đường” và tâm lý

“đông con nhiều phúc” đã ăn sâu vào tiềm thức của cộng đồng dân cư nơi đây. Nhiều gia

đình sinh con một bề nhất là sinh toàn con gái nhân cơ hội này họ tiếp tục sinh.

Những thông tin trên cho thấy, giảm sinh ở Việt Nam vẫn chưa vững chắc. Tâm lý

lạc hậu của cư dân nông nghiệp “trọng con trai” và “đông con, nhiều phúc” vẫn còn rất

nặng nề. Ngay cả CBLĐQL và đảng viên vẫn chưa thật sự gạt bỏ được tư tưởng này.

Cuộc đấu tranh giảm sinh - KHHGĐ vẫn còn gay go, quyết liệt. Tuyên truyền vận động

CBLĐQL, trước hết là CBLĐQL chủ chốt gương mẫu thực hiện PLDS đang là nhiệm vụ

rất cần quan tâm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể, chính trị - xã

hội.

2.4.2. Về sự tham gia tổ chức thực hiện Pháp lệnh dân số của cán bộ lãnh đạo,

quản lý

Đánh giá hành vi của CBLĐQL không thể không xem xét những hoạt động liên

quan đến chức năng tổ chức, chỉ đạo thực hiện công tác của họ. Với PLDS, hoạt động tổ

chức thực hiện của CBLĐQL được đánh giá với những vấn đề sau: Tìm đọc, tiếp cận với

Pháp lệnh, tuyên truyền và tham gia tổ chức tuyên truyền Pháp lệnh, tổ chức thực hiện

Pháp lệnh …Điều tra trên những chỉ báo này cho bảng số liệu tổng hợp sau đây:

Bảng 2.10: Sự tham gia tổ chức thực hiện PLDS của CBLĐQL

Đơn vị tính: %

Hành vi Số lượng Tỷ lệ %

Tìm đọc PLDS 217 72,3

Tuyên truyền PLDS 190 63,3

Tổ chức tuyên truyền PLDS 128 42,7

Tổ chức thực hiện PLDS 128 42,7

Không làm gì cả 8 2,7

Kết quả khảo sát cho thấy, CBLĐQL tham gia “tìm đọc PLDS” chiếm tỷ lệ cao

nhất (72,3%). Chiếm tỷ lệ cao thứ hai (63,3%) số ý kiến trả lời tham gia “tuyên truyền

PLDS”. Trong khi đó, số ý kiến trả lời tham gia “tổ chức tuyên truyền PLDS” và “tổ

chức thực hiện PLDS” chiếm tỷ lệ bằng nhau (42,7%), chỉ có tỷ lệ rất nhỏ CBLĐQL trả

lời “không làm gì cả” chiếm 2,7%. Điều này cho thấy, đa số CBLĐQL ở tỉnh Yên Bái đã

quan tâm đến PLDS, Tuy nhiên, mức độ tham gia của CBLĐQL cũng chưa thật tích cực.

Mới chỉ có 42,7% CBLĐQL khẳng định có tham gia tổ chức tuyên truyền và thực hiện

PLDS. Đây là một chỉ báo không cao. Song cũng phải thấy rằng, ở những lĩnh vực

chuyên môn không gần với dân số, không thể đòi hỏi CBLĐQL am tường mọi mặt để

tham gia tổ chức, thực hiện thật đầy đủ công tác dân số. Phỏng vấn sâu một số CBLĐQL

sau đây cho thấy rõ thêm về vấn đề này.

“Tôi cũng được biết về PLDS nhưng cũng chỉ nghe qua loa, tôi không làm

chuyên về công tác dân số nên chưa hiểu hết nội dung của PLDS ”(PVS, LĐ

thị uỷ, thành phố Yên Bái).

Tương tự như vậy, trao đổi với lãnh đạo huyện cũng cho biết:

“Mặc dù PLDS được ban hành 3 năm nhưng công việc bận quá nên tôi không

có thời gian để nghiên cứu, với lại công việc của ngành nào, ngành ấy biết là

chính, đôi khi do tình cờ hội họp được thông báo”(PVS, LĐ huyện, Huyện Văn

Yên).

Mặc dù, UBDSGĐ&TE tỉnh có tổ chức tập huấn về PLDS cho cán bộ lãnh đạo,

song một số CBLĐQL còn tham gia chưa tích cực. Điều này được thể hiện qua ý kiến

của một lãnh đạo xã:

“Tôi có tham gia lớp tập huấn về PLDS do Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em

tỉnh tổ chức nhưng do không có thời gian nên chỉ đọc sơ qua, chưa nắm cụ thể

những nội dung quy định trong PLDS ” (PVS, LĐ xã, xã Suối Giàng, huyện

Văn Chấn).

Ngay cả khi tỉnh tổ chức lớp tập huấn về dân số hoặc về PLDS dành cho

CBLĐQL nhưng nhiều khi vì bận việc, CBLĐQL không đi mà chỉ cử chuyên viên đi

thay. Đây cũng là một yếu tố làm cho nhận thức lẫn thái độ và hành động của họ chưa

thật tích cực. ý kiến của một cán bộ Uỷ ban nhân dân tỉnh sau đây cho thấy:

“Tôi thấy tình trạng hiện nay thành phần tham dự lớp tập huấn về dân số

thường là đi không đúng yêu cầu. Công văn thì yêu cầu cán bộ LĐ, QL tham

dự nhưng thực tế toàn cử người đi thay về báo cáo lại cho lãnh đạo” (PVS, LĐ

Uỷ ban nhân dân tỉnh).

Xét vấn đề theo cấp công tác số liệu tổng hợp được thể hiện trong bảng dưới đây:

Bảng 2.11: Sự tham gia tổ chức thực hiện PLDS của CBLĐQL theo cấp công

tác.

Đơn vị tính: %

Tham gia tổ chức thực Cấp tỉnh Cấp huyện Cấp xã, phường

hiện PLDS Số Số Số Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ lượng lượng lượng

Tìm đọc PLDS 110 79,7 72 76,6 35 51,5

Tuyên truyền PLDS 96 69,6 58 61,7 36 52,9

Tổ chức tuyên truyền 51 37,0 41 43,6 36 52,9

PLDS

Tổ chức thực hiện PLDS 58 42,0 45 47,9 25 36,8

Không làm gì cả 3 2,2 2 2,1 3 4,4

Bảng 2.11 cho thấy, CBLĐQL đã tham gia “tìm đọc PLDS” ở cấp tỉnh chiếm tỷ lệ

cao nhất (79,7%), cấp huyện đứng thứ hai (76,6%) và thấp nhất là cấp xã, phường

(51,5%). Riêng việc tham gia “tuyên truyền PLDS” CBLĐQL cấp tỉnh khẳng định có là

69,6%, cán bộ cấp huyện 61,7% và cấp xã, phường số CBLĐQL nói có là 52,9%. Phải

chăng do CBLĐQL xã, phường phải lo nhiều việc, điều kiện tiếp cận với thông tin khó

nên số CBLĐQL xã, phường có tỷ lệ tiếp cận thông tin và tuyên truyền PLDS là thấp

nhất. Ngược lại, cấp xã, phường lại là cấp phải thực hiện mọi chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước với nhân dân nên tỷ lệ cán bộ xã, phường khẳng định có tham gia tổ

chức tuyên truyền PLDS lại nhiều nhất 52,9% so với 43,6% cấp huyện và 37% cấp tỉnh.

Đây là thực tế đáng chú ý để điều chỉnh công tác tuyên truyền và tổ chức tuyên truyền

PLDS cũng như các chủ trương chính sách khác của Đảng và Nhà nước.

Rõ ràng là CBLĐQL tham gia tổ chức thực hiện PLDS ở các cấp công tác chưa

thật cao. Điều này phản ánh thực tế còn một bộ phận CBLĐQL chưa thật hiểu đầy đủ ý

nghĩa, tầm quan trọng của công tác dân số, chưa quán triệt đầy đủ PLDS - đây là điều cần

chú ý khắc phục sớm.

2.4.3. Đầu tư nguồn lực cho việc thực hiện

Nghiên cứu hành vi của đội ngũ CBLĐQL nếu không nghiên cứu về sự quan tâm

giúp đỡ, tạo nguồn lực của họ sẽ là một khiếm khuyết. Đầu tư các nguồn lực góp phần triển

khai thực hiện có hiệu quả công tác dân số trong giai đoạn vừa qua đã khá thành công. Tuy vậy,

theo báo cáo UBDSGĐ&TE Việt Nam mức đầu tư cho công tác dân số ở nước ta vẫn còn

thấp (0,35 USD/người/năm), chưa đạt yêu cầu của chiến lược dân số đề ra là 0,6

USD/người/năm.

Trong mấy năm gần đây, đầu tư kinh phí cho công tác dân số giảm chưa đáp ứng

nhu cầu. Cơ chế quản lý lại chưa thật phù hợp, quản lý phân tán và kém hiệu quả. Nguồn

lực đầu tư cho chương trình mục tiêu quốc gia dân số không tăng trong một số năm qua.

Hơn nữa cơ chế quản lý kinh phí của chương trình có một số sửa đổi không phù hợp với

điều kiện đặc thù quản lý chương trình mục tiêu Quốc gia dân số. Vì vậy, một số tỉnh đã

cắt giảm ngân sách Trung ương đầu tư cho chương trình mục tiêu Quốc gia dân số. Năm

2002 có 41 tỉnh cắt giảm kinh phí hơn 5,6 tỷ đồng; năm 2003 có 27 tỉnh cắt giảm kinh

phí gần 8 tỷ đồng [72, tr.8].

Yên Bái là một trong 27 tỉnh cắt chuyển kinh phí của chương trình dân số do

Trung ương phân bổ sang thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội khác ở địa phương.

Điều này khiến cho UBDSGĐ&TE tỉnh không chủ động được trong việc phân bố và sử

dụng kinh phí từ Trung ương đưa xuống dành cho công tác dân số mà số kinh phí này

được đưa xuống do Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định. Đây là yếu tố làm cho mức đầu tư

kinh phí cho công tác dân số ở tỉnh đang ở mức thấp hơn so với giai đoạn trước đây.

ý kiến phỏng vấn sâu một cán bộ chuyên trách về dân số ở huyện Trấn Yên cho

thấy rõ điều này:

“Trong những năm qua, do thoả mãn với những kết quả đã đạt được về công

tác dân số nên kinh phí đầu tư cho công tác dân số rất thấp, không được chú

trọng như trước đây, nhất là cấp huyện” (PVS, LĐ UBDS, GĐ & TE, huyện

Trấn Yên).

Như vậy, trên thực tế việc đầu tư nguồn lực cho thực hiện công tác dân số và

PLDS của CBLĐQL trong các cơ quan, ban ngành, đoàn thể các cấp chưa thực sự được

coi trọng trong thời gian vừa qua. Điều này cho thấy dù nhận thức và thái độ của

CBLĐQL đã có chuyển biến tích cực song sự chuyển biến cụ thể trong hành vi của cán

bộ là cần có thời gian và những quy định cụ thể. Đây là điều kiện cần chú ý để các quyết

định thực sự đi vào cuộc sống.

2.5. Những yếu tố tác động đến nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh

đạo quản lý đối với pháp lệnh dân số

2.5.1. Công tác tuyên truyền, vận động

Để thực hiện PLDS có hiệu quả, công tác tuyên truyền vận động là khâu rất quan

trọng. Các hình thức tuyên truyền vận động phải phù hợp với từng đối tượng, từng vùng

trong tỉnh. Thông thường những thông tin liên quan đến PLDS mà cán bộ các cấp tiếp

cận được chủ yếu là từ công tác tuyên truyền, vận động sâu rộng của các ngành, các cấp.

Do đó, công tác tuyên truyền, vận động được xác định là một trong những yếu tố quan

trọng đầu tiên làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS.

Thực tế, trong thời gian qua, khi chưa có Nghị định 104/NĐ-CP quy định chi tiết

và hướng dẫn thi hành một số điều của PLDS, công tác tuyên truyền vận động để thực

hiện PLDS ở Yên Bái còn những biểu hiện lúng túng do chính điểm 10, khoản 1, điểm a

và một số điểm khác còn thiếu rõ ràng, có mâu thuẫn. Hơn nữa, một số cấp, ngành trong

tỉnh chưa có sự phối hợp đồng bộ trong việc tuyên truyền và tổ chức thực hiện trong từng

cơ quan các đơn vị. Nhận thức của một bộ phận cán bộ và nhân dân về PLDS chưa đầy

đủ, thậm chí có phần sai lệch. Công tác thông tin giáo dục tuyên truyền còn hạn chế về

nội dung và hình thức, chưa phù hợp với một số đối tượng, chưa tập trung vào nhóm đối

tượng có nguy cơ cao làm tăng mức sinh trở lại như đối tượng sinh con một bề là gái, các

cặp vợ chồng người dân tộc thiểu số…

ý kiến trao đổi sau đây với lãnh đạo Hội đồng nhân dân cho thấy rõ điều này:

“Theo tôi công tác truyền thông của chúng ta có phần sơ hở, bất cập, chủ

quan với những thành công đã đạt được, chưa đi vào thực chất và tác động

vào nơi sâu xa của phong tục tập quán muốn sinh con trai để “nối dõi tông

đường”, tâm lý “đông con nhiều phúc”PVS, LĐ Hội đồng nhân dân tỉnh).

Đặc biệt, khi ban hành PLDS do lúng túng trong giải thích quy định về quyền

chưa gắn liền với trách nhiệm của công dân nên một số CBLĐQL còn hiểu và tuyên

truyền thiên lệch chỉ nói đến quyền mà không gắn liền với nghĩa vụ công dân. Điều này đưa

đến nhận thức sai lầm, suy diễn là quyền đồng nghĩa với thoải mái, tự do, không hạn chế

trong sinh sản. Tất cả đã tạo ra nhận thức, thái độ và hành vi sai trong cả cộng đồng và

CBLĐQL về việc thực hiện PLDS.

ý kiến một cán bộ lãnh đạo phường sau đây cho thấy điều này:

“Từ khi PLDS ban hành, tôi nghĩ là Nhà nước cho các cặp vợ chồng tự quyết

định số con nên vợ chồng tôi quyết định sinh con thứ 3 và hy vọng đó là con

trai”. (PVS, LĐ phường, phường Đồng Tâm, thành phố Yên Bái).

Hơn nữa, sự bất cập lúng túng của chính các cơ quan chức năng và cơ quan truyền

thông, nhất là truyền thông đại chúng trong giải thích một số quy định được ghi trong

PLDS đã làm cho việc thực hiện các điều khoản của Pháp lệnh càng khó khăn. Ngay cả ở

các cơ quan Trung ương, sự thiếu nhất quán trong giải thích về điều 10, khoản 1, điểm a đã

làm cho các cơ quan chức năng và truyền thông ở cấp tỉnh, huyện và cơ sở xã, phường càng

lúng túng hơn. Điều này đã được phản ánh phần nào qua số liệu điều tra được tổng hợp sau

đây:

Bảng 2.12: Đánh giá của CBLĐQL về sự nhất quán trong tuyên truyền của

các phương tiện truyền thông về PLDS

Đơn vị tính: %

Khối chính Khối đoàn Khối doanh Mức đánh giá Khối Đảng quyền thể nghiệp

78,4 54,7 69,2 72,9 Có

9,9 30,2 23,1 6,8 Không

11,7 15,1 7,7 20,3 Không rõ

Bảng số liệu trên cho thấy, dù có đa phần CBLĐQL đánh giá là tuyên truyền về

PLDS đã là nhất quán, không mâu thuẫn. Nhưng tỷ lệ cao nhất đánh giá cũng mới chỉ là

78,4% ý kiến cán bộ của khối chính quyền, 72,9% khối đảng, 69,2% khối doanh nghiệp

và 54,7% khối đoàn thể. Trong khi đó, còn 30,2% ý kiến của cán bộ khối đoàn thể,

23,1% khối doanh nghiệp, 9,9% khối chính quyền và 6,8% ý kiến cán bộ khối đảng cho

là việc tuyên truyền về PLDS chưa nhất quán, thiếu đồng bộ. Phải chăng đây là một trong

những lý do khiến cho PLDS thực hiện còn chậm và nhiều khó khăn. Thực tế này một lần

nữa yêu cầu các nhà hoạch định chính sách cần phải rút kinh nghiệm để mỗi khi nhận

thức hoặc tuyên truyền thực hiện một văn bản pháp lý nào đó phải hết sức thận trọng

trong từ ngữ, câu văn, kết cấu của văn bản phải thật lôgíc, chuẩn xác. Chỉ như vậy, việc

thực hiện PLDS mới đạt hiệu quả tốt.

Vấn đề đặt ra, CBLĐQL tiếp cận và quán triệt những nội dung của PLDS qua

những nguồn thông tin nào? Nguồn thông tin nào đem lại hiểu biết cho CBLĐQL nhiều

nhất? Số liệu tổng hợp được từ khảo sát cho thấy, nguồn thông tin về PLDS mà

CBLĐQL các cấp có thể tiếp cận là tương đối phong phú. Trong đó, phải kể đến một số

nguồn thông tin như: đài; báo; tivi; hội họp; tập huấn (xem biểu 2.6).

81

79.3

81

45.7

41.7

90 80 70 60 50 40 30 20 10 0

§ µi

B¸o

Tivi

Héi häp TËp huÊn

Biểu 2.7: Nguồn cung cấp thông tin về PLDS cho CBLĐQL

Biểu số liệu trên cho thấy, đa số CBLĐQL đã tiếp cận thông tin về PLDS chủ yếu

từ các phương tiện truyền thông đại chúng như đài, ti vi, báo. Trong đó, đài, ti vi được

CBLĐQL đánh giá cao nhất (81%), báo chí (79,3%). Hội họp và tập huấn tuy là những

kênh thông tin đáng lý đưa lại nhiều thông tin hữu ích nhất cho CBLĐQL, song lại chính

CBLĐQL được hỏi đánh giá không cao - chỉ 45,7% và 41,7%. Đây là điều cần phải chú ý

để rút kinh nghiệm cho sự quán triệt, triển khai những văn bản có tính pháp lý về sau. Bởi

lẽ, thông thường, văn bản pháp lý của Đảng, Nhà nước thường đến với CBLĐQL tốt nhất

qua hội họp và qua lớp tập huấn. Đây là những hình thức quán triệt có hiệu quả cao.

Tóm lại, chính nhờ công tác thông tin truyền thông mà nhận thức, thái độ và hành

vi của CBLĐQL về PLDS đã có chuyển biến căn bản. Song vì những lý do khác nhau

như: Văn bản Pháp lệnh có chỗ chưa rõ ràng, tuyên truyền chưa nhất quán, phổ biến qua

hội họp, tập huấn chưa nhiều khiến cho CBLĐQL quán triệt chưa sâu, hiểu chưa hết. Một

số CBLĐQL có thái độ và hành vi thực hiện PLDS chưa rõ ràng, còn hạn chế.

2.5.2. Công tác tổ chức lãnh đạo của cơ quan chức năng

PLDS có được cán bộ các cấp nhận thức rõ hay không, thái độ có tích cực hay

không và hành vi thực hiện có tốt hay không phụ thuộc khá nhiều vào việc các cơ quan

chức năng tuyên truyền, tổ chức, chỉ đạo như thế nào.

Thực tế, trong một số năm qua, việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân số của cấp uỷ,

chính quyền ở nhiều địa phương cơ sở chưa thực sự được chú trọng. Mặc dù, PLDS ban

hành từ tháng 1/2003 nhưng Nghị định 104/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi

hành một số điều của PLDS mãi tới tháng 9/2003 mới được ban hành. Do vậy, một bộ

phận CBLĐQL chậm tiếp cận với Pháp lệnh, không hiểu rõ Pháp lệnh nên thái độ và

hành vi chưa tích cực.

ở Yên Bái, việc quán triệt và thực hiện PLDS chậm trễ còn liên quan đến quá trình

sát nhập và ổn định tổ chức của Uỷ ban DS - KHHGĐ và Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ

của tỉnh. Quá trình hợp nhất kéo dài, biên chế không ổn định khiến cho nhiều Uỷ ban dân

số huyện và ban dân số xã, phường lúng túng trong tổ chức, thực hiện nhiệm vụ thường

xuyên về DS - KHHGĐ lẫn triển khai thực hiện PLDS. Hơn nữa, sau sát nhập, khối

lượng công việc của nhiều cán bộ thuộc UBDSGĐ&TE tỉnh tăng lên trong khi lương và

trợ cấp không tăng. Những yếu tố này phần nào tác động đến nhiệt tình công tác của một

số cán bộ của UBDSGĐ&TE tỉnh trong một thời gian. Đây chính là một trong những yếu

tố ít nhiều tác động đến việc triển khai thực hiện PLDS của đội ngũ CBLĐQL các cấp.

Để làm rõ những tác động của các cơ quan chức năng trong thực hiện PLDS, điều

tra còn hướng tới làm rõ trách nhiệm thực hiện PLDS của đội ngũ CBLĐQL. Thực tế,

PLDS đã quy định khá rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân và vai trò của các cơ quan,

đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội trong thực hiện PLDS. Nhưng kết quả điều tra cho số

liệu tổng hợp sau:

Bảng 2.13: Trách nhiệm của các chủ thể trong việc thực hiện PLDS

Đơn vị tính: %

Trách nhiệm Số lượng Tỷ lệ %

Nghĩa vụ của từng công dân 263 87,3

Trách nhiệm của cơ quan chức năng như y tế, dân số 184 61,3

Trách nhiệm của các tổ chức Đảng 97 32,3

Trách nhiệm của các tổ chức chính quyền 122 40,7

Trách nhiệm của các đoàn thể 147 49,0

Bảng số liệu trên cho thấy, phần đông CBLĐQL trả lời cho rằng, thực hiện PLDS

là trách nhiệm của từng công dân chiếm tỷ lệ cao nhất 87,3%. Đây là một nhận thức đúng

đắn, thực hiện PLDS là trách nhiệm của mọi công dân, không phải riêng tổ chức hay cá

nhân nào.

Tuy nhiên, các cơ quan đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội phải tham gia triển khai

thực hiện công tác này. Song cơ quan có chức năng chính yếu nhất - ngành y tế, dân số

mới được 61,3% ý kiến được họ đồng tình. Các tổ chức chính quyền được 40,7%; đoàn

thể được 49% và cơ quan Đảng chỉ được 32,3% ý kiến đồng ý. Những số liệu này cho

thấy, PLDS dù ban hành đã 3 năm, tuyên truyền, vận động thực hiện đã nhiều nhưng đến

nay vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị còn chưa được đánh giá cao. Điều này

phần nào đó, đánh giá vai trò, tác động thực tế của đội ngũ CBLĐQL trong việc thực hiện

PLDS còn chưa thực sự cao.

Chương 3

một số giải pháp, khuyến nghị nhằm hoàn chỉnh

và nâng cao chất lượng thực hiện pháp lệnh dân số

3.1. Một số giải pháp

Xuất phát từ các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà

nước về công tác dân số, DSPT/SKSS; xuất phát từ thực trạng nhận thức, thái độ và hành

vi của CBLĐQL đối với PLDS ở tỉnh Yên Bái, để hoàn thiện và nâng cao chất lượng việc

thực hiện PLDS cần chú ý thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

3.1.1. Rà soát lại toàn bộ những quy định đã đưa ra trong PLDS; những điều

khoản nào chưa phù hợp, không rõ ràng, khó thực hiện thì sửa đổi cho phù hợp. Trong đó

về nguyên tắc phải thực hiện việc kết hợp giữa quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân

trong việc sinh sản.

Về quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng và cá nhân trong việc thực hiện

KHHGĐ, phải sửa lại điều 10, khoản 1, điểm a cho phù hợp để mọi người hiểu một cách

thống nhất, tránh hiểu lầm. Cụ thể phải sửa điều khoản theo hướng: “Mỗi cặp vợ chồng

và cá nhân có quyền quyết định thời gian sinh con, nhưng số con phải phù hợp với mục

tiêu chính sách dân số gia đình ít con, từ 1 - 2 con”.

Sửa đổi điều 10 gắn chặt với việc quy định giữa quyền của mỗi công dân được ghi

trong PLDS với việc thực hiện nghĩa vụ công dân được ghi trong các luật khác đặc biệt Luật

công chức. Trong đó có quy định mỗi cặp vợ chồng chỉ được sinh một hoặc hai con để đảm

bảo nuôi con khoẻ, dạy con ngoan.

3.1.2. Đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục, truyền thông nhằm nâng cao hiệu

quả thực hiện PLDS. Trong đó, ngoài việc tiếp tục các chương trình truyền thông qua ti

vi, đài, báo, tạp chí, internet, cần đẩy mạnh việc tuyên truyền qua việc mở các lớp tập

huấn ngắn ngày hoặc phổ biến nội dung PLDS qua các cuộc họp chuyên đề hoặc họp

thường kỳ của các cơ quan đoàn thể, tổ chức trong hệ thống chính trị. Làm sao tuyệt đại

đa số CBLĐQL các cấp tiếp thu, quán triệt được những nội dung cơ bản của PLDS cùng

những văn bản khác như Nghị quyết 47-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22/3/2005 về tiếp

tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ; Nghị định 104/2003/NĐ-CP ngày

16/9/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của PLDS.

Làm sao để CBLĐQL hiểu thống nhất về các quy định trong PLDS, xác định quyết tâm

tham gia tổ chức và gương mẫu thực hiện. ở đây vấn đề cần phải đặc biệt quan tâm là vấn

đề quyền và nghĩa vụ trong sinh sản.

3.1.3. Với những CBLĐQL đã sinh con thứ ba trở lên sau khi có PLDS, cần

tuyên truyền, vận động để họ có thể trình bày công khai những suy nghĩ của mình

trước quần chúng nhân dân nơi sinh sống về những yếu tố tác động để họ đưa ra quyết

định sinh thêm con. Trên cơ sở này mà rút kinh nghiệm cho chính bản thân người đã

sinh con thứ ba trở lên, đồng thời lấy đó làm bài học để giáo dục, thuyết phục những

cán bộ đang có ý muốn sinh con thứ 3. ở đây quan điểm về giới cần được lấy làm cơ

sở cho việc tuyên truyền giáo dục và đấu tranh chống những quan niệm sai lầm như:

trọng nam khinh nữ, đông con nhiều phúc đang còn tồn tại trong một bộ phận

CBLĐQL và nhân dân.

Với những cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ đảng viên chủ chốt xác định chính

xác đã lợi dụng sự thiếu rõ ràng trong PLDS để sinh con thứ ba thì phải căn cứ mức

độ cố tình mà xử lý kỷ luật Đảng để lấy làm bài học giáo dục chung cho CBLĐQL.

Tất nhiên phải chú ý CBLĐQL người dân tộc ít người hoặc có theo tôn giáo tín

ngưỡng nào đó để đưa ra quyết định xử lý phù hợp.

3.1.4. Nhận thức, thái độ và hành vi là một quá trình. Quá trình này diễn ra trong

những nhóm người có học vấn, có mức sống, có vị thế xã hội khác nhau thì khác nhau.

Do đó, tuyên truyền vận động, quán triệt PLDS cho CBLĐQL ở một tỉnh có đồng bào

dân tộc sinh sống như Yên Bái phải chú ý đến những đặc trưng này. Cụ thể, trong phổ

biến quán triệt lại tinh thần, nội dung của PLDS và những văn bản hướng dẫn khác phải

tuỳ theo đặc điểm từng nhóm cán bộ về độ tuổi, nghề nghiệp, vị thế xã hội, trình độ học

vấn, dân tộc, tôn giáo, thạo tiếng kinh hay không…để mở những lớp tập huấn, họp

chuyên đề hoặc họp lồng ghép nội dung tuyên truyền, quán triệt PLDS cho phù hợp.

Với những dân tộc ít người của vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, ngoài đội ngũ

cán bộ hiện có trong hệ thống các cơ quan chức năng về dân số và hệ thống chính trị, cần

chú ý những già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng để tuyên truyền vận

động về PLDS. Chuyển biến về nhận thức, thái độ của họ sẽ có tác động tích cực đến

cộng đồng.

3.1.5. Kinh nghiệm từ thực tiễn tuyên truyền vận động thực hiện PLDS những

năm vừa qua cho thấy, một trong những khó khăn trở ngại cho việc làm chuyển biến

nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL và cộng đồng trong thực hiện PLDS chính là

sự thiếu nhất quán trong việc hiểu và tổ chức tuyên truyền PLDS của các cơ quan chức

năng là hệ thống truyền thông đại chúng. Do vậy, để thống nhất cần tổ chức một hội nghị

cán bộ các cơ quan có chức năng chính trong việc thực hiện PLDS như: UBDSGĐ&TE,

Sở y tế, Sở lao động thương binh và xã hội, Sở giáo dục, Hội phụ nữ, Đoàn thanh

niên…và các cơ quan truyền thông đại chúng như: Đài phát thanh truyền hình, báo

chí…để thống nhất quan điểm, thống nhất thái độ, thống nhất cách giải thích với từng nội

dung của PLDS. Tránh tình trạng không nhất quán, thiếu rõ ràng như đã từng xảy ra.

3.2. Một số khuyến nghị

3.2.1. Với các cấp uỷ đảng

Để thực hiện tốt hơn PLDS, ở những tỉnh thành mà tỷ lệ tăng dân số tự nhiên và tỷ

lệ sinh con thứ ba tăng sau PLDS. Tỉnh uỷ cần ra một thông tư yêu cầu các cấp uỷ Đảng

quan tâm đến việc quán triệt lại cho cán bộ, đảng viên để họ hiểu đúng và có trách nhiệm

cao trong tổ chức, thực hiện PLDS. Trước hết, cần quán triệt và thực hiện nghiêm Nghị

quyết 47-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính

sách DS - KHHGĐ. Sau nữa, cần thông qua một hội nghị giao ban thường kỳ của cấp uỷ

để giới thiệu nội dung PLDS cần quán triệt. Từ đây mà chỉ đạo các cấp uỷ cơ sở lãnh đạo

việc tổ chức, triển khai tiếp tục thực hiện PLDS.

3.2.2. Với các cơ quan quyền lực Nhà nước

- Quốc hội: Cần thông qua các đại biểu quốc hội của tỉnh mà góp phần thúc đẩy

việc sửa chữa, bổ sung, hoàn chỉnh PLDS, đặc biệt điều 10, khoản 1, điểm a. Hoặc nâng

PLDS thành Luật dân số, trong đó có điều khoản trên.

- Hội đồng nhân dân: Cần có kế hoạch chất vấn và thông qua chương trình tuyên

truyền, vận động và tổ chức thực hiện pháp lệnh dân số. Hội đồng nhân dân cần rà soát

những văn bản có tính pháp luật liên quan. Hoàn chỉnh những văn bản này chuẩn xác hoá

kế hoạch thực hiện, trên cơ sở đó mà quyết định phân bố các nguồn lực hợp lý cho từng

hoạt động của chương trình. Đây là cơ sở để hội đồng nhân dân kiểm tra giám sát việc

thực hiện chương trình dân số và PLDS có hiệu quả.

- Uỷ ban nhân dân: Phát huy vai trò nòng cốt của UBDSGĐ&TE, Uỷ ban nhân

dân tỉnh cần chỉ đạo xây dựng một kế hoạch cụ thể cho việc tuyên truyền vận động, thực

hiện PLDS và chương trình dân số quốc gia tại tỉnh. Kế hoạch này phải đảm bảo được sự

rõ ràng, nhất quán các quan điểm chỉ đạo, các vấn đề cơ bản cần thực hiện, cách thức

thực hiện và cả những điều kiện đảm bảo khác.

Kế hoạch cần cụ thể hoá ở từng cấp cho phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã

hội, văn hoá có tính đặc thù của từng vùng nhất là vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng dân

tộc.

3.2.3. Với các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội

Tuỳ chức năng nhiệm vụ của mỗi tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội mà huy động

tham gia tổ chức thực hiện PLDS khác nhau. Song để thực hiện tốt PLDS, mỗi tổ chức,

đoàn thể chính trị - xã hội cần có kế hoạch cụ thể tuyên truyền, quán triệt cho cán bộ và

quần chúng trong tổ chức mình hiểu một cách rõ nhất tinh thần và nội dung của Pháp

lệnh nhất là với những vấn đề nhạy cảm. Trên cơ sở này mà thuyết phục, thực hiện tốt.

UBDSGĐ&TE phải là hạt nhân gắn kết hoạt động của tất cả các cơ quan đoàn thể

xã hội này, đảm bảo tính mục đích và hiệu quả cho toàn bộ chương trình thực hiện PLDS

mà các cơ quan quyền lực nhà nước đã thống nhất thông qua.

3.2.4. Với bản thân cán bộ lãnh đạo, quản lý

Cần nêu cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ và đảng viên trước Đảng, trước

nhân dân, gương mẫu quán triệt và vận động mỗi thành viên trong gia đình, dòng tộc,

thôn xóm, cụm dân phố mà mình đang sống thực hiện nghiêm PLDS. Bản thân không

được sinh con thứ ba trở lên. Những người đã vi phạm phải kiểm điểm trước đảng và

trước quần chúng.

ở những nơi có cán bộ, đảng viên vi phạm nhiều, cấp uỷ Đảng phải có thảo luận

chuyên đề về thực hiện nghiêm PLDS. Trên cơ sở này mà ra nghị quyết nhằm chấn chỉnh

lại việc thực hiện Pháp lệnh, đưa việc thực hiện PLDS theo đúng yêu cầu đã đặt ra.

Kết luận

Khảo sát, đánh giá về nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL ở tỉnh Yên

Bái đối với PLDS cho thấy, phần đông CBLĐQL đã tiếp thu, quán triệt khá tốt

những quy định của PLDS. Thái độ của CBLĐQL đã hiểu rõ ý nghĩa, tầm quan

trọng và những quy định cơ bản của PLDS. Do đó họ có thái độ hành vi đúng trong

thực hiện và tuyên truyền thực hiện PLDS. Tuy nhiên PLDS còn một số điểm chưa

rõ ràng. Quy định quyền và nghĩa vụ chưa gắn kết chặt chẽ với nhau, do vậy một

bộ phận CBLĐQL còn hiểu lầm hoặc cố ý hiểu lầm. Hậu quả là tỷ lệ sinh con thứ

ba tăng và tỷ lệ tăng dân số tự nhiên lại có nguy cơ tái bùng phát. Đây là vấn đề

cần rút kinh nghiệm trong việc soạn thảo các văn bản có tính pháp quy để làm sao

khi ban hành văn bản mọi người đều hiểu một cách thống nhất. Các cơ quan truyền

thông nhất quán tuyên truyền theo cùng một hướng với cùng một tư tưởng, quan

điểm, nội dung các quy định mà văn bản đã đưa ra. Đây là cơ sở quan trọng để

CBLĐQL thống nhất ra hành động trong thực hiện.

Trước tiên nên sửa đổi điều 10, khoản 1, điểm a, gắn quyền sinh sản với trách

nhiệm, nghĩa vụ của người thực hiện hành vi sinh sản. Trên cơ sở này mà đẩy mạnh

tuyên truyền và quán triệt lại cho CBLĐQL và nhân dân tinh thần và nội dung của

PLDS, khuyến khích CBLĐQL gương mẫu thực hiện và vận động nhân dân cùng thực

hiện nghiêm PLDS để mỗi cặp vợ chồng đảm bảo sinh một hoặc hai con, thực hiện

KHHGĐ, nâng cao chất lượng dân số. Đây là cách thiết thực nhất để thực hiện chiến

lược dân số Việt Nam đến năm 2010 và những mục tiêu mà Văn kiện Đại hội Đảng

toàn quốc lần thứ X đã xác định:

Tiếp tục kiềm chế tốc độ tăng dân số, phấn đấu đạt chỉ tiêu về dân số trong

chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010. Chú trọng nâng

cao chất lượng dân số và phân bố dân cư hợp lý giữa các vùng; xây dựng

các quy hoạch và chính sách thích hợp nhằm đáp ứng xu thế chuyển dịch cơ

cấu dân số ở nông thôn và thành thị. Đưa công tác dân số, gia đình và trẻ em

ở các cấp đi vào nền nếp, vào từng gia đình, có chiều sâu và mang tính bền

vững [14, tr.215].

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Quỳnh Anh (2003), “Pháp lệnh dân số nâng cao trách nhiệm của công dân,

gia đình và xã hội”, Tạp chí Dân số và phát triển, (27), tr.50-58.

2. Chung á (1993 - 1995), Thực trạng nhận thức và chỉ đạo của đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý sau 2 năm thực hiện Nghị quyết IV Ban Chấp hành Trung ương

(khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ.

3. Chung á - Nguyễn Đình Tấn (1996), Nghiên cứu xã hội học, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

4. Ban Chấp hành Trung ương (2005), Nghị quyết của Bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh

thực hiện chính sách DS - KHHGĐ.

5. Ban chấp hành Đảng bộ Yên Bái (2006), Văn kiện đại biểu Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần

thứ XVI.

6. Đào Trọng Cảng (1995), Nhận thức, thái độ và thực hiện của đảng viên là cán bộ

lãnh đạo chủ chốt và tổ chức đảng đối với nghị quyết về chính sách DS -

KHHGĐ.

7. Liên Châu (2005), “Xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên, công chức sinh con thứ ba trở

lên”, Báo thanh niên, (47).

8. Trần Thị Trung Chiến (2003), Dân số Việt Nam bên thềm thế kỷ XXI, Nxb Thống kê,

Hà Nội.

9. Cục Thống kê tỉnh Yên Bái (2005), Niên giám thống kê tỉnh Yên Bái.

10. Nguyễn Huy Cường (2004), Cán bộ các ban Đảng với việc thực hiện các chủ trương,

chính sách dân số phát triển/sức khoẻ sinh sản, Luận án thạc sĩ xã hội học,

Viện xã hội học, Hà Nội.

11. Bùi Quang Dũng (2004), Nhập môn lịch sử xã hội học, Nxb Khoa học xã hội.

12. Bùi Quang Dũng - Lê Ngọc Hùng (2005), Lịch sử xã hội học, Nxb Lý luận chính trị,

Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Đăng Quang Điều (2004), “Cần sớm sửa đổi pháp lệnh dân số”, Báo Lao động,

(19/11).

16. G. Endrweit và G. Trommsdoff (2001), Từ điển xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội.

17. Giáo trình sơ thảo nhà nước và pháp quyền Việt Nam (1986), Thời đại trước phong kiến

và thời đại phong kiến, Tập 1, Nxb Khoa học xã hội.

18. H.H. Gerth and C. Wright Mills (1958) From Max Weber: Essays in Sociology, New

York, Oxford University Press.

19. Ngân Hằng (2004), “Pháp lệnh Dân số 2003 có sơ hở”, Báo Lao động, (21/12).

20. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Kỷ yếu hội thảo các vấn đề ưu tiên

trong dân số và phát triển tại khu vực miền Trung và Tây Nguyên.

21. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), Từ điển

bách khoa Việt Nam, Tập 3, Nxb Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội.

22. Nguyễn Thế Huệ (2004), “Vấn đề dân số và nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số

nước ta”, Tạp chí Cộng sản, (9).

23. Lê Ngọc Hùng (2002), Lịch sử và lý thuyết xã hội học, Nxb Đại học quốc gia, Hà

Nội.

24. Mai Kỷ (2004), “Tỷ lệ phát triển dân số tăng trở lại: Nguyên nhân và giải pháp”, Báo

Nhân dân, (22-23/11).

25. Mai Kỷ - Nguyễn Quốc Anh (2005), “Dân số tăng gấp đôi: Quá khứ và tương lai”,

Báo Nhân dân cuối tuần, (10/4).

26. Khánh Lam - Mai Hạnh (2005), “Vi phạm nghiêm trọng Pháp lệnh dân số”, Báo Gia

đình và xã hội, (159. 4/10).

27. Phạm Hồng Loan (2004), “Vì sao mức sinh tăng”, Tạp chí Dân số và phát triển, (11),

tr. 15-16.

28. Vũ Minh Mão - Hoàng Xuân Hoà (2004), “Dân số và chất lượng nguồn nhân lực ở

Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế”, Tạp chí Cộng sản, (9).

29. Nguyễn Đức Mạnh (Chủ nhiệm đề tài) (2005), Báo cáo kết quả đánh giá thái độ của

các nhóm đối tượng đối với các qui định của chính sách DS - KHHGĐ.

30. Nghị quyết số 47-NQ/ TW ngày 22/3/2005 của Bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện

chính sách DS - KHHGĐ của Ban Chấp hành Trung ương.

31. Nghị định số 104/2003/NĐ-CP ngày 23/9/2003 của Chính phủ Quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh dân số.

32. Nguyễn Hồng Ngọc (2005), “Gia tăng dân số trở lại - nguyên nhân và giải pháp”,

Tạp chí Cộng sản, (10), tr. 65-69.

33. Patrick Gubry- Nguyễn Hữu Dũng- Phạm Thuý Hương, Dân số và phát triển ở Việt

Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.

34. Pháp lệnh dân số và các văn bản hướng dẫn thi hành (2004), Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

35. Phân viện Báo chí và tuyên truyền (2001), Kết quả và nhu cầu đào tạo cán bộ thông

tin - giáo dục - truyền thông dân số.

36. Hoàng Phê (1996), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

37. Nguyễn Đình Tấn (2005), Xã hội học, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

38. Nguyễn Đình Tấn - Nguyễn Văn Đoàn (2004), Dân số học, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

39. Tổng cục thống kê (2002), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999.

40. Tổng Cục thống kê (2004), Điều tra biến động dân số và nguồn lao động 1/4/2003.

Những kết quả chủ yếu, Nxb Thống kê, Hà Nội.

41. Tổng Cục thống kê (2005), Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình

1/4/2004. Những kết quả chủ yếu, Nxb Thống kê, Hà Nội.

42. Tổng cục thống kê (2002), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999.

43. Phạm Thắng (2003), “Phát triển dân số ở Việt Nam theo định hướng pháp lệnh dân

số”, Tạp chí Dân số và phát triển, (33), tr. 55-59.

44. Nguyễn Thị Vũ Thành - Lê Cự Linh (2005), “Tìm hiểu một số yếu tố ảnh huởng đến

sinh con thứ ba trở lên ở Hà Nội”, Tạp chí Dân số và phát triển, (6), tr. 22-28.

45. Lê Thi (2004), “Gia tăng dân số đột biến sẽ làm trầm trọng thêm nạn nghèo đói và sự

tụt hậu của Việt Nam”, Tạp chí Dân số và phát triển, (2), tr. 25-28.

46. Lê Thi (2004), “Tác động của những yếu tố tâm lý đến sự gia tăng mức sinh nhanh

hiện nay”, Tạp chí Dân số và phát triển, (12), tr. 6-9.

47. Lê Thi (2004), Gia đình, phụ nữ Việt Nam với dân số, văn hoá và sự phát triển bền

vững, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

48. Đinh Công Thoan (2004), “Nguyên nhân làm dân số tăng nhanh trở lại”, Tạp chí Dân

số và phát triển, (10), tr. 17-20.

49. Lê Thị Thu - Bộ trưởng - Chủ nhiệm Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (2005),

“Công tác dân số, gia đình và trẻ em trong chiến luợc phát triển con người”,

Báo Nhân dân, (25/12).

50. Trung tâm Dân số - Lao động và xã hội (1996), Các chính sách liên quan đến DS -

KHHGĐ Việt Nam, Dự án VIE/93/P07.

51. Trung tâm Nghiên cứu dư luận xã hội (2001), Báo cáo kết quả- Nghiên cứu nhận

thức, thái độ và sự tham gia của các nhà lãnh đạo, quản lý và chuyên gia các

cấp trong việc hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách DS - SKSS

và phát triển, Dự án- VIE/ 97/ P16.

52. Trung tâm nghiên cứu thông tin và tư liệu Dân số (1995) (Trung tâm DS-LĐ và XH).

Tuyển chọn số liệu- Một số cuộc điều tra lớn phục vụ công tác DS - KHHGĐ

(sử dụng nội bộ), Dự án MIS- P/ FP.

53. Trung tâm Xã hội học - Học viện Chính trị Quốc gia HCM (2003), Nhu cầu đào, bồi

dưỡng kiến thức và kỹ năng lồng ghép các vấn đề DS - PT/SKSS cho đội ngũ

cán bộ lãnh đạo quản lý thuộc đối tượng đào tạo của hệ thống Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh (Báo cáo kết quả khảo sát).

54. Trung tâm từ điển ngôn ngữ (1992), Từ điển Tiếng Việt, Hà Nội.

55. Đặng ánh Tuyết (2005), “Biến động gia tăng dân số, thực trạng và những vấn đề đặt

ra”, Tạp chí Dân số và phát triển, (1), tr. 7-11.

56. Đỗ Xuân (1998), "DS - KHHGĐ là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển

đất nước", Tạp chí Xây dựng Đảng, (10).

57. ủy ban Quốc gia DS - KHHGĐ (1996) (NCPP), Kiểm điểm, đánh giá chính sách dân

số Việt Nam (Dự án VIE/ 93/ P07), Nxb Thanh niên, Hà Nội.

58. Uỷ ban Quốc gia DS - KHHGĐ (1997), Đánh giá nhận thức và vai trò của đội ngũ

cán bộ quản lý hành chính nhà nước các cấp trong việc thực hiện chính sách

DS - KHHGĐ, Đề tài Viện nghiên cứu hành chính.

59. ủy ban Quốc gia DS - KHHGĐ (1999), Khảo sát, đánh giá vai trò lãnh đạo của tổ

chức Đảng và cán bộ chủ chốt các cấp trong việc thực hiện NQTW 4 (Khoá

VII) về chính sách DS - KHHGĐ ở nước ta, (Đề tài khoa học cấp bộ).

60. Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (2000), Báo cáo kết quả dự báo dân số Việt Nam

1999 - 2024, Nxb Thống kê, Hà Nội.

61. Uỷ ban dân số - Kế hoạch hóa gia đình (2000), Nghiên cứu chính sách và giải pháp

nhằm thực hiện ổn định dân số và nâng cao chất lượng dân số phục vụ phát triển

kinh tế - xã hội thủ đô giai đoạn 2001 - 2010.

62. ủy ban DS - KHHGĐ (2000), Chiến lược dân số Việt Nam 2001- 2010, Hà Nội.

63. Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em - Học viện Chính trị Quốc gia HCM (2003),

Nghiên cứu tác động của các phương tiện thông tin đại chúng đến nhận thức,

thái độ và hành vi về SKSS/KHHGĐ của nhóm dân cư trong độ tuổi sinh đẻ.

64. Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (2003), Các báo cáo đánh giá hiệu quả của dự án

Dân số- sức khoẻ gia đình, Nxb Y học, Hà Nội.

65. Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (2003), Truyền thông thay đổi hành vi trong lĩnh vực

dân số và chăm sóc sức khoẻ sinh sản, Nxb Y học, Hà Nội.

66. Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (2004), Chương trình hành động thực hiện các

chiến lược Quốc gia về dân số, chăm sóc sức khoẻ sinh sản, dinh dưỡng giai

đoạn 2003- 2007, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

67. Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (2003), Những nội dung chủ yếu của pháp lệnh

dân số, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

68. Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (2004), Báo cáo tổng kết công tác dân số, gia đình và

trẻ em năm 2004 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2005.

69. Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (2005), Kỷ yếu kết quả nghiên cứu khoa học về

dân số, gia đình và trẻ em 2002 - 2004.

70. Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (2005), Báo cáo kiểm điểm 5 năm thực hiện chiến

lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001- 2010.

71. Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em - Trung tâm xã hội học (2005), Báo cáo kết quả

khảo sát kiểm điểm thực hiện chiến luợc dân số Việt Nam 2001- 2010, Hà Nội.

72. Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (2006), Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện

chính sách dân số giai đoạn 2001- 2005.

73. Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (2006), Báo cáo kiểm điểm, đánh giá tình hình

thực hiện chiến lược dân số Việt Nam 2001- 2010 của các tỉnh, thành phố

(Giai đoạn 2001- 2004).

74. Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em, Một số yếu tố liên quan đến chất lượng dân số

Việt Nam, Mối quan hệ giữa chất lượng dân số và dịch vụ xã hội cơ bản ở

nông thôn Việt Nam cuối thế kỷ thứ XX (Tập 1).

75. Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em tỉnh Yên Bái (2005), Báo cáo kiểm điểm thực hiện

chiến lược dân số Việt Nam của Tỉnh YB giai đoạn đầu 2001 - 2005. Phương

hướng nhiệm vụ thực hiện chiến lược giai đoạn 2006 - 2010.

76. Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em tỉnh Yên Bái (2002), Báo cáo công tác dân số, gia

đình và trẻ em năm 2002.

77. Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em tỉnh Yên Bái (2003), Báo cáo công tác dân số, gia

đình và trẻ em năm 2003.

78. Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em tỉnh Yên Bái (2004), Báo cáo công tác dân số, gia

đình và trẻ em năm 2004.

79. Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em tỉnh Yên Bái (2005), Báo cáo công tác dân số, gia

đình và trẻ em năm 2005.

80. UNF (2005), Tăng trưởng dân số Việt Nam. Thực trạng từ những con số, Hà Nội.

81. ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái (2003), Kế hoạch hành động thực hiện chiến lược quốc

gia chăm sóc sức khoẻ sinh sản tỉnh Yên Bái giai đoạn 2001- 2010.

82. Uỷ ban Thường vụ quốc hội (2003), Pháp lệnh dân số.

83. Nguyễn Khắc Viện (1994), Từ điển xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội.

84. Nguyễn Khắc Viện (1995), Từ điển Tâm lý, Nxb Thế giới, Hà Nội.

85. Viện Xã hội học và tâm lý lãnh đạo, quản lý (2005), Giáo trình dân số và phát triển,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

86. Max Weber 1925 (1978), Economy and Society. Berkeley: University of California

Press.

87. Nguyễn Như ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.