
NHÌN LẠI CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ THỜI
GIAN QUA VÀ MỘT VÀI ĐỀ XUẤT
1. Điều hành chính sách tiền tệ 2008-2009 – những thành công lớn
Theo nhận định của nhiều chuyên gia tài chính trong và ngoài nước, của
giới ngân hàng cũng như công luận nói chung, việc điều hành chính sách
tiền tệ trong hai năm qua đã thực sự thành công. NHNN đã có những
quyết định hết sức nhanh nhậy, kịp thời trong điều hành lãi suất, tỷ giá,
… và những liệu pháp đó đã nhanh chóng có tác động điều tiết rõ rệt đối
với thị trường. Có thể điểm lại một số ví dụ.
- Về lãi suất
Sau hơn hai năm giữ ổn định ở mức 8,25%/năm, lãi suất cơ bản (LSCB)
đã được NHNN điều chỉnh tăng lên mức 8,75% từ 01/02/2008 và nhảy
vọt lên mức 12% từ 19/05/08. Chưa đầy 1 tháng sau đó, từ ngày 11/06/09,
LSCB đã được đẩy lên mức đỉnh – 14%. Cùng với LSCB, lãi suất tái
chiết khấu (LSTCK), lãi suất tái cấp vốn (LSTCV) cũng liên tiếp được
điều chỉnh tăng với đỉnh tương ứng là 13% và 15% áp dụng trong khoảng
thời gian từ 11/06/08-20/10/08. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD
cũng được điều chỉnh tăng trong khi lãi suất DTBB bị điều chỉnh giảm.
NHNN còn phát hành trên 20.000 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc đối với các
NHTM.
Nguồn: NHNN Việt Nam
Chính sách tiền tệ thắt chặt với hàng loạt các động thái quyết liệt trên đã
tạo ra một lực hút mạnh thu hút tiền từ lưu thông đồng thời làm giảm
mạnh cấp tín dụng từ các NHTM ra thị trường. Và kết quả là lạm phát đã
bị chặn đứng và đẩy lùi từ đỉnh điểm 3,91%/tháng (tương đương
25,2%/năm) trong tháng 5 xuống các mức thấp hơn trong quý 3 và thậm
chí âm trong các tháng cuối năm. Tỷ lệ lạm phát cả năm 2008 chỉ còn là
19,89%.
Sau khi đã thực hiện thành công vai trò kiềm chế lạm phát, NHNN đã
từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ và lãi suất vẫn là một công cụ hết
sức quan trọng. LSCB đã hạ dần từ đỉnh 14% xuống 13% (từ 21/10/08),
12% (từ 05/11/08) và liên tiếp được điều chỉnh tới 3 lần trong vòng 1
tháng cuối năm 2008 (11% từ 21/11/08, 10% từ 05/12/08, 8,5% từ
22/12/08) trước khi giữ ổn định ở mức 7% (từ 01/02/09) như hiện nay.
Cùng với LSCB, LSTCK, LSTCV cũng được điều chỉnh giảm; các
NHTM được bán tín phiếu bắt buộc trước hạn; Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được
nới lỏng dần đi kèm với việc điều chỉnh lãi suất DTBB. Các công cụ trên

đã tác động mạnh tới thị trường, làm tăng dần mức cung tiền cho nền
kinh tế. Tăng trưởng tín dụng 2008 đạt ~ 23% (bằng gần ½ mức tăng của
năm 2007), riêng 6 tháng đầu năm 2009 đạt ~ 17,1%, tăng ~ 17,8% so với
cùng kỳ 2008. Tăng trưởng tín dụng đã góp phần chặn đà suy giảm, ổn
định kinh tế vĩ mô.
- Về tỷ giá
Diễn biến tỷ giá ngoại tệ của Việt Nam từ đầu năm 2008 đến nay là hết
sức phức tạp. Trong quý 1/2008, có những lúc tỷ giá USD liên ngân hàng
xuống dưới 16.000 và tỷ giá thị trường tự do thậm chí còn thấp hơn trong
ngân hàng. Nhưng chỉ qua đầu quý 2, tỷ giá lại tăng đến chóng mặt, có
lúc đã lên tới 19.500.
NHNN đã quyết định nới biên độ dao động từ +1% lên +2% (từ ngày
26/06/08) đồng thời triển khai hàng loạt các biện pháp khác: kiểm soát
chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ, tăng cường truyền thông, công bố dự trữ
ngoại hối của Việt Nam (điều chưa hề có tiền lệ tại Việt Nam), … Nhờ đó,
tỷ giá đã dần dịu lại và duy trì ở mức ~ 16.500 cho đến hết quý 3/08.
Từ cuối năm 2008 đến nay, suy thoái kinh tế đã tác động mạnh đến nguồn
cung ngoại tệ của Việt Nam; cộng thêm tâm lý găm giữ ngoại tệ của dân
cư và các thành phần kinh tế đã dẫn đến tình trạng khan hiếm ngoại tệ,
làm cho tỷ giá ngoại tệ luôn nóng, phố biến ở mức ~ 18.000. NHNN đã
thêm hai lần điều chỉnh biên độ dao động tỷ giá (+3% từ 06/11/08 và
+5% từ 23/03/09) và triển khai một số công cụ can thiệp khác. Vì vậy, tỷ
giá ngoại tệ đang dần ổn định, nhu cầu ngoại tệ trong thanh toán những
mặt hàng thiết yếu được đáp ứng cơ bản đầy đủ.
- Hỗ trợ lãi suất
Đầu năm 2009, Chính Phủ đã đưa ra gói kích cầu bao gồm các nhóm giải
pháp cơ bản: (i)Với doanh nghiệp: giảm, giãn thuế TNDN, hỗ trợ lãi suất
ở mức 4%; Với dân cư: trợ cấp người nghèo, giãn/miễn thuế TNCN, giảm
VAT, đào tạo lao động; (3) Về phía Chính Phủ: tăng đầu tư cơ sở hạ tầng,
tăng chi tiêu công, đẩy mạnh xúc tiến thương mại để tăng xuất khẩu.
Nổi bật và có tác động rõ rệt nhất là chính sách hỗ trợ lãi suất mà ở đó vai
trò của hệ thống ngân hàng và các công cụ chính sách tiền tệ một lần nữa
lại được phát huy mạnh mẽ.
Đến hết tháng 7/2009, tổng dư nợ cho vay HTLS của toàn hệ thống ngân
hàng đã đạt 389.107 tỷ đồng, trong đó dư nợ đối với các doanh nghiệp

nhà nước là 61.048 tỷ đồng, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 259.454
tỷ đồng và với hộ kinh doanh là 68.605 tỷ đồng.
Để đối phó với suy thoái, Chính Phủ của hầu hết các nước đều đưa ra các
gói hỗ trợ lên tới hàng ngàn tỷ USD với cách thức chủ yếu là hỗ trợ trực
tiếp: mua tài sản xấu, sở hữu vốn của các tập đoàn tài chính và tập đoàn
công nghiệp lớn; chi tiền cho người nộp thuế, người tiêu dùng; thưởng
tiền cho người hủy xe cũ, mua xe mới, … Gói hỗ trợ của Chính Phủ Việt
Nam được định lượng là 1 tỷ USD (trên 17.000 tỷ đồng) với cách làm rất
sáng tạo, rất linh hoạt, rất “made in Vietnam”. Phần lớn tiền hỗ trợ không
được chi trực tiếp mà được hỗ trợ gián tiếp thông qua hỗ trợ lãi suất.
Bằng cách này chúng ta đã kích thích tăng trưởng mạnh tín dụng, giúp
các doanh nghiệp có được nguồn vốn giá rẻ nên giảm được giá thành sản
phảm, duy trì ổn định sản xuất, kích thích được nhu cầu trong nước, …
Cũng đã có nhiều ý kiến trái chiều về chính sách hỗ trợ lãi suất của Chính
Phủ rằng can thiệp như vậy sẽ làm méo mó hoạt động của các NHTM,
làm như vậy thực chất là kích cung chứ không phải kích cầu, nên hạ lãi
suất thay vì “trợ giá” qua lãi suất, nên hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp
và người dân, …. Và công bằng mà nói, chính sách này cũng đã gây ra
một số tác động không mong muốn như: làm thay đổi cung cầu vốn ngoại
tệ và VND (nhu cầu vay vốn VND tăng mạnh, một số khách hàng trả nợ
trước hạn, trả nợ vay ngoại tệ chuyển sang vay bằng VND, …); tạo sức
ép cho tỷ giá,…
Tuy nhiên, sau hơn nửa năm thực hiện hỗ trợ lãi suất, thực tệ ngày càng
minh chứng cho tính đúng đắn của công cụ này. Thứ nhất, số tiền hỗ trợ
của Chính Phủ có quy mô không lớn, sẽ không có tác dụng đáng kể nếu
chi hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và dân cư; chưa kể quá trình thực
hiện có thể phát sinh nhiều tiêu cực. Thứ hai, nếu hạ lãi suất chúng ta có
thể bị rơi vào “bẫy thanh khoản”[1], các NHTM không huy động được và
cũng không cho vay được. Và rõ ràng là nếu không tăng được tín dụng
cho nền kinh tế thì việc kích cầu chẳng có ý nghĩa gì. Thứ ba, hỗ trợ lãi
suất qua tín dụng sẽ khuyến khích thúc đẩy sản xuất, kích thích tiêu dùng
và vẫn đảm bảo các NHTM vẫn huy động được. Thứ 4, số tiền hỗ trợ qua
tín dụng được khuyếch đại lên nhiều lần (~ 32 lần) tạo ra một nguồn vốn
lớn cho đầu tư và tiêu dùng xã hội.
2. Nền kinh tế thế giới đã chạm đáy và kinh tế Việt Nam đã đến thời
kỳ “hậu suy giảm”?
Dù còn nhiều ý kiến trái chiều nhưng phần lớn các nhà kinh tế đều thống
nhất nhận định, khủng hoảng kinh tế thế giới đã đang đi qua giai đoạn tồi
tệ nhất và có nhiều dấu hiệu phục hồi vào cuối năm 2009, đầu năm 2010.

Tất nhiên, mô hình phục hồi dạng chữ U, chữ L hay chữ W còn chưa ngã
ngũ và còn tùy thuộc vào từng nền kinh tế.
Thông tin từ các Bộ Tài Chính, Bộ Công thương, Tổng cục Thống kê cho
biết giá trị sản xuất công nghiệp tháng 7/2009 tăng 2,3% so với tháng 6
và 7,6% so với cùng kỳ 2008. Như vậy ngoại trừ tháng 1 tăng trưởng âm,
6 tháng còn lại đều có tốc độ tăng trưởng dương và tính chung 7 tháng,
giá trị sản xuất công nghiệp đã tăng 5,1%. GDP 7 tháng đầu năm tăng
4,4% và dự báo cả năm sẽ đạt mức trên 5%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa
dịch vụ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 7 tháng tăng 18,1% so với cùng
kỳ 2008. CPI tháng 7 tăng 0,52% so với tháng 6, thấp hơn mức tăng của
tháng trước (0,55%) đưa CPI 7 tháng đầu năm về mức 1 con số (9,25%).
Kim ngạch xuất khẩu tháng 7 tăng 0,3% so với tháng 6. Tổng kim ngạch
xuất khẩu, nhập khẩu 7 tháng đạt tương ứng 32,4 tỷ USD và 35,4 tỷ USD
giảm 13,4% và 34% so với cùng kỳ 2008. Mức nhập siêu 7 tháng ~ 3 tỷ
USD (~ 10% tổng kim ngạch XNK, thấp hơn mức 40,8% cùng kỳ 2008).
FDI cam kết đạt trên 9 tỷ USD với mức giải ngân ~ 4,5 tỷ USD.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, kinh tế Việt Nam sẽ phục
hồi nhanh trong cuối năm 2009 và đầu 2010.
3. Những nguy cơ và một vài đề xuất cho cho thời gian tới
Nền kinh tế Việt Nam đang có dấu hiệu dần ổn định và tăng trưởng trở lại.
Tuy nhiên, vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Tốc độ tăng trưởng GDP còn
thấp; tình trạng nhập siêu và thâm hụt cán cân thanh toán chậm được cải
thiện; mức thâm hụt ngân sách cao; lạm phát có nguy cơ tăng do giá cả
một số mặt hàng nhất là nguyên nhiên liệu đầu vào đang tăng và sẽ tiếp
tục tăng khi kinh tế hồi phục.
Về lĩnh vực tài chính tiền tệ, cuộc đua lãi suất của các NHTM đang có xu
hướng nóng dần lên, một số NHTM bắt đầu gặp khó khăn về thanh
khoản; Tăng trưởng tín dụng có dấu hiệu “nóng”; Tình trang khan hiếm
ngoại tệ chưa được giải quyết triệt để, tỷ giá ngoại tệ còn diễn biến phức
tạp. Như vậy, có thể thấy nền kinh tế Việt Nam đã tạm qua giai đoạn suy
giảm và đang bắt đầu hồi phục với không ít khó khăn và nhiều nguy cơ
đòi hỏi phải những nhà hoạch định chính sách tiền tệ phải đối mặt để
ngăn chặn.
Điều tiết mức cung tiền là nội dung cơ bản và cũng là quan trọng nhất của
chính sách tiền tệ. Thông qua các công cự khác nhau như lãi suất, tỷ giá,
dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, … NHNN tác động điều tiết
mức cung tiền nhằm ổn định tiền tệ, tác động vào nên kinh tế hướng đến
các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Vai trò to lớn và ngày càng rõ rệt của các

công cụ thực thi chính sách tiền tệ là thực tế hoàn toàn không thể phủ
nhận. Từ giác độ NHTM, xin nêu ra một số đề xuất.
Thứ nhất, ngoại trừ điều kiện bất khả kháng, nên tiếp tục duy trì lãi suất
cơ bản như thời gian qua.
Trong thời gian qua, lãi suất cơ bản đã thực sự trở thành công cụ quan
trọng trong điều hành chính sách tiền tệ, chỉ báo nhạy bén của thị trường
tiền tệ. Mỗi thay đổi của công cụ này đã gần như ngay lập tức có tác động
điều tiết rõ rệt đối với thị trường.
Tính đến thời điểm hiện nay đã là hơn 6 tháng NHNN giữ lãi suất cơ bản
ở mức 7%. Điều này một mặt cho thấy sự ổn định của thị trường tiện tệ.
Mặt khác, mức lãi suất thấp có tác dụng tích cực trong kích thích đầu tư,
giảm khó khăn cho các doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vĩ mô
– yếu tố rất cần thiết trong giai đoạn “hậu suy thoái”. Vì vậy, lãi suất cơ
bản nên tiếp tục giữ ổn định ở mức như hiện nay.
Thứ hai, nên xem xét thu hẹp phạm vi hỗ trợ lãi suất, tiến tời dừng thực
hiện hỗ trợ lãi suất.
Gần đây NHNN đang có hướng hạn chế dần mức cung tiền với các biện
pháp: khống chế tăng trưởng dư nợ tín dụng của các NHTM Nhà nước,
giảm lãi suất DTBB (xuống còn 1,2% từ 17/07/09), giảm tỷ lệ cho vay
trung dài hạn trên tổng nguồn vốn ngắn hạn từ 40% xuống còn 30%
(Thông tư 15/2009/TT-NHNN ngày 10/08/2009).
Trước hết phải nói rằng, hạn chế mức cung tiền trong thời điểm hiện nay
là một động thái đúng đắn khi tín dụng có xu hướng tăng nóng và cần
thiết để ngăn chặn nguy cơ lạm phát. Áp lực tăng giá trong năm 2009 có
thể còn thấp nhưng chắc chắn sang năm 2010 sẽ lớn hơn do các nền kinh
tế bắt đầu phục hồi, nhu cầu đầu vào lớn đẩy giá cả của nguyên nhiên liệu
tăng cao.
NHNN nên xem xét đề xuất với Chính Phủ giảm dần, tiến tới ngừng hỗ
trợ lãi suất. Tiếp tục duy trì hỗ trợ lãi suất một mặt sẽ tạo sức ép gia tăng
lạm phát, mặt khác có thể dẫn đến việc sử dụng vốn thiếu hiệu quả gây
tác động không tốt cho nền kinh tế và hệ lụy xấu cho các NHTM. Dừng
hỗ trợ lãi suất cũng sẽ trực tiếp giảm áp lực bội chi ngân sách, giảm áp
lực lạm phát.
Tính đến hết tháng 7 năm 2009, tổng dư nợ tín dụng của toàn hệ thống đã
tăng 22,76% so với cuối năm 2008. Thời gian qua, dư nợ tín dụng tăng
mạnh không thể nói là không có lý do từ hiệu ứng của chính sách “hỗ trợ