Những sai lầm trong
quản lý vốn ( Harvard
Business Review)_P1
Cuộc khủng hoảng toàn cầu đang buộc các công ty xoay sở để có đủ tiền
mặt. đây chính lúc nên dành thời gian nhìn nhận tỉnh táo và thận
trọng cách quản lý nguồn vốn lưu động.
Những năm tháng tăng trưởng bùng nkhiến các doanh nghiệp gần như
bquên nguồn vốn lưu động của mình. Tiền mặt vẫn cứ quay vòng đều
đặn quanh hệ thống nên các nhà quản thật sự không thấy cần thiết
phải lo lắng làm thế nào quản chặt chẽ nó, dù biết điều này có thbào
mòn dần tăng trưởng lợi nhuận và doanh số.
Vào thời điểm hiện tại, nguồn vốn và tín dụng đã đang cạn kiệt,
khách hàng cũng ra sức thắt lưng buc bụng còn nhà cung ứng thì không
chấp nhận bất k hình thức chậm thanh toán nào. Một lần nữa, tiền mặt
là nhất.
Do đó, đã đến lúc bạn cần nhìn nhận một cách tỉnh táo và cẩn trọng cách
thức quản nguồn vốn lưu động của mình. Thường thì bạn sẽ bgiam
rất nhiều vốn vào các khoản phải thu và hàng tn kho nhưng bạn hoàn
toàn có thể biến chúng thành tiền mặt nếu có thể điều chỉnh hợp lý chính
sách và thực tiễn quản lý nguồn vốn lưu động của công ty.
Trong những phần tiếp theo, chúng ta sẽ cùng m hiểu sáu sai lầm phổ
biến các công ty thường mắc phải trong qtrình quản nguồn vốn
lưu động. Không mấy khó khăn để khắc phục sáu sai lầm ấy, nhưng nhờ
đó một lượng tiền mặt đáng kể được giải phóng để tạo nên skhác
biệt giữa sự thất bại và sinh tồn trong bối cảnh khủng hoảng hiện tại.
1. Sai lầm thứ nhất: Quản lý bằng báo cáo thu nhập
Ân huđầu tiên bạn thể làm cho ng ty mình trong thời buổi
khủng hoảng này là hãy ném bất kỳ phương pháp tính toán hiệu quả sinh
lợi nào đang được sử dụng ra cửa sổ.
Giđịnh rằng bạn đang là một giám đốc thu mua đóng góp vào lợi
nhuận thu được sẽ quyết định thành tích của bạn. rất nhiều tình
hung các nhà cung ứng sẽ đề nghị bạn mua nhiều hơn số lượng cần
thiết để đối lấy một khoản giảm giá. Nếu bạn chấp nhận lời chào hàng
đó, bạn sẽ phải giam một khoản tiền mặt vào khối lượng hàng tồn kho
dôi thêm đó.
Tuy nhiên, do chi phí hàng tồn kho không thể hiện trên báo cáo thu nhập
nên bạn không do gì tchối lời đnghị của nhà cung ứng, thậm
chí khi bạn đã tính toán nhận thấy các chi phí ấy còn cao hơn
khon lợi thu về từ mức giá chào hàng thấp nhận được. Trên thực tế, nếu
bạn từ chối khoản giảm giá ấy, khoản thù lao dành cho bạn, vốn gắn
với báo cáo thu nhập, sẽ bị ảnh hưởng xấu, dù khi đó quyết định của bạn
có lợi cho công ty.
hoạt đng trong lĩnh vực sản xuất hay dịch vụ, những công ty đó,
trách nhiệm về kết quả cân đối kế toán, chứ không chỉ lợi nhuận, thuộc
v phía các cấp quản , sẽ ít khnăng rơi vào chiếc bẫy y. c nhà
quản khi đó sẽ có động lực để đánh giá cẩn trọng và so sánh tất cả các
khon chi phí và lợi ích để có phương án hành động tốt nhất.
tháp dụng lập luận này với tất cả các thành phần khác của vốn lưu
động. Lấy các khoản phải thu làm ví dụ. Giả định rằng bạn đang định cắt
giảm thời hạn thanh toán từ 30 xuống còn 20 ngày. Sau khi đánh giá các
tác động có thể có của điều này đối với khách hàng, bạn ước tính rằng sẽ
phải giảm giá 1% để bù đắp cho việc thắt chặt thời hạn thanh toán và
doanh sbán hàng sgiảm đi 2%, kết quả là lợi nhuận kinh doanh sau
thuế năm nay sẽ giảm mất 1 triệu USD.
Mặc khác, nếu công ty tạo ra doanh số n hàng mỗi ngày 2 triệu
USD thì việc thời hạn thanh toán giảm đi 10 ngày sgiúp công ty giải
phóng được khoản tiền là 20 triu USD. Giả định rằng chi phí cơ hi của
đồng vốn là 10% (nghĩa là bạn có thể dùng tiền đó cho các khoản đầu
khác có t suất lợi nhuận là 10%), có thbạn sẽ sẵn sàng hy sinh 2 triệu
USD lợi nhuận hằng năm để có thể sở hữu số vốn này.
Khi đó, việc ra quyết định trở nên khá ràng: Nếu lợi nhuận ước tính
trong các năm tới của bạn có thể giảm hơn 2 triệu USD/năm thì bạn
không nên gim thời hạn thanh toán. Nhưng ngược lại, nếu bạn cho rằng
khon lợi nhuận mất đi sẽ thấp hơn lợi nhuận thu về từ 20 triệu USD vốn
có thêm, dĩ nhiên giảm thời hạn thanh toán là điều bạn nên làm.