
Chương 1
LÃNH ĐẠO HỢP ĐẠO ĐỨC
Sau khi đọc chương này, bạn sẽ có thể:
*Phối hợp cách tiếp cận hợp lý giữa việc lãnh đạo với mối quan tâm về con
người và các khía cạnh đạo đức trong tổ chức
*Có khả năng nhận thức các giai đoạn phát triển của đạo đức bản thân và
những cách thức khác nhau nhằm thúc đẩy sự trưởng thành về mặt đạo đức
*Ứng dụng những nguyên tắc của tinh thần phục vụ trong vai trò nhà lãnh đạo
*Hiểu biết và sử dụng những cơ chế nhằm tăng cường một nền văn hoá giàu tính
nhân bản trong tổ chức
*Nhìn thấy tinh thần cam đảm ở mỗi con người, đồng thời có khả năng giải
phóng được tiềm năng của mình để sống và hành động có bản lĩnh
MỞ ĐẦU
Trong chương này, chúng ta sẽ tìm hiểu những ý tưởng liên quan đến lòng can
đảm và sự lãnh đạo tinh thần. Ở chương trước, chúng ta đã nói về hai khía cạnh tạo nên
thành công cho nhà lãnh đạo, đó là trí tuệ và trái tim. Trong chương này, chúng ta sẽ đề
cập đến nhân tố thứ ba không kém phần quan trọng đó là tinh thần (spirit) – là khả năng
nhìn thấu và suy ngẫm về điều kiện sống của con người, khả năng phân định đúng – sai
và những gì đang thực sự diễn ra trong thế giới của chúng ta, để có được lòng tin trong
việc đấu tranh cho chân lý và lẽ phải. Chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc xem xét các tình
huống mà tổ chức thường xuyên gặp phải, những trở ngại mà các nhà quản trị phải đối
mặt trong thế giới kinh doanh và các loại hành vi có thể tạo ra xu hướng phi đạo đức
trong tổ chức. Tiếp đó, chúng ta sẽ đào sâu hơn về cách thức nhà lãnh đạo hành động
hợp đạo đức, xem xét một mô hình cấp độ phát triển đạo đức và tìm hiểu tầm quan
trọng của tinh thần phục vụ trong lãnh đạo. Phần cuối của chương này sẽ cung cấp cho
chúng ta những thông tin về các phuơng pháp nhằm khích lệ lòng can đảm của nhân
viên và cách thức giúp nhà lãnh đạo thúc đẩy tinh thần đạo đức trong tổ chức và đóng
góp vào sự thành công của hãng.

1. ĐẠO ĐỨC TRONG LÃNH ĐẠO NGÀY NAY
Mỗi thập kỷ trôi qua chứng kiến rất nhiều sự thay đổi về chính trị, xã hội và kinh
doanh nhưng chúng ta cũng chứng kiến thêm nhiều những thứ gọi là suy đồi đạo đức.
Đặc biệt, các công ty bị quay cuồng trong những vụ scandal, từ những tên tuổi nổi tiếng
một thời như Eron, Adelphia, Arthur Andersen, HealthSouth, WorldCom, Tyco...đến
các công ty ở những nước đang phát triển, nơi mà bên cạnh sự giàu có đang tăng lên
vẫn còn biết bao người đang giành giật sự tồn tại. Giáo sư trường Kinh doanh Havard
đồng thời là tác giả của cuộc điều tra, Shoshana Zuboff miêu tả ảnh hưởng của những
cảm xúc này như sau: “Hố sâu ngăn cách giữa các cá nhân và tổ chức được tạo ra bởi
tâm trạng thất vọng, sự mất niềm tin, bất mãn và thậm chí là giận dữ ”1.
1.1. Tầm quan trọng của vấn đề đạo đức
Những suy đồi đạo đức có thể xuất hiện ở tất cả các cấp độ trong tổ chức, nhưng chỉ có
những nhà lãnh đạo cấp trên thực sự bị “ngồi ghế nóng” khi các sự việc phi đạo đức và
bất hợp pháp được lôi ra ánh sáng. Điều gì đang diễn ra trong các vụ dột từ nóc dột
xuống ở các tổ chức và trong xã hội. Khi các nhà lãnh đạo không thể hình thành và duy
trì các chuẩn mực đạo đức thì chính tổ chức, nhân viên, cổ đông và công chúng xung
quanh là những người gánh chịu hậu quả. Những hành vi phi đạo đức và bất hợp pháp
có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường cho tổ chức. Bởi vì, các công ty phải bỏ rất
nhiều công sức để thu hút và tuyển dụng nhân tài. Các vụ bê bối đã khiến cho các nhân
viên thận trọng hơn trong việc lựa chọn công ty theo những tiêu chuẩn đạo đức. Một
khi họ đã mất niềm tin vào nhà lãnh đạo, tất cả tinh thần, nhuệ khí, cam kết và hành
động của cá nhân đều bị ảnh hưởng. Khách hàng khi mất niềm tin sẽ từ bỏ công ty, điển
hình như việc cắt bỏ hợp đồng hàng loạt với Arthur Andersen sau khi hãng này bị phát
hiện đã che dấu và huỷ bỏ hàng tấn tài liệu liên quan đến công ty Enron. Các nhà đầu tư
cũng sẽ rút những hỗ trợ cho các công ty hay thậm chí là đệ đơn kiện nếu họ phát hiện
rằng mình đang bị lừa đảo.
Các nhà lãnh đạo ở tất cả các cấp đều phải gánh vác một trách nhiệm lớn lao về việc
hình thành một bầu không khí đạo đức trong tổ chức. Đồng thời họ cũng phải đối mặt
với nhiều áp lực nhằm thử thách khả năng thực hiện điều đúng lương tâm của mình. Đó
là những áp lực cắt giảm chi phí, gia tăng lợi nhuận, thoả mãn nhu cầu của nhà cung
cấp hay các đối tác kinh doanh và can đảm vượt qua những cám dỗ của những suy đồi
về đạo đức. Trong suốt thời kỳ “bong bóng xà phòng” của thị trường cổ phiếu, rất nhiều
nhà lãnh đạo đã cố gắng theo đuổi mục tiêu gia tăng lợi nhuận và đẩy giá cổ phiếu càng
nhanh càng tốt. Sự tăng trưởng quá nhanh chóng này đã làm xuất hiện lòng tham và làm
cho họ có khuynh hướng từ bỏ tất cả các mối bận tâm khác. Hầu hết con người ai cũng
muốn họ hay những tổ chức của mình mang vẻ thành đạt. Do đó, đôi khi các nhà lãnh
đạo làm những việc sai lầm chỉ bởi vì họ muốn mình luôn thành công trong mắt người
khác! Điều khiến cho các nhà lãnh đạo phân vân là liệu họ có đủ sức tập trung bản lĩnh
của mình để làm những gì đúng đắn hay không bất kể dưới những sức ép như thế nào.
1 3

“Cuộc đời là sống trên những ngõ dốc dễ trượt!”- Richard Tedlow tại trường Harvard
đã từng nói như thế - “và con người phải có một nhân cách để biết được giới hạn mà
bản thân không nên vượt qua”2
1.2. Nguyên do của những sai lầm đạo đức
Hành động nào của nhà lãnh đạo đã khiến cho tính toàn vẹn của tổ chức không thể đạt
được? Ở chương 2 chúng ta biết rằng tính toàn vẹn đồng nghĩa với sự trung thành với
những nguyên tắc đạo đức và hành động dựa trên những niềm tin này. Nhà lãnh đạo
đưa ra các dấu hiệu về các vấn đề thông qua hành vi của họ và khi họ hành động vì sự
ích kỷ và lòng tham, nhiều nhân viên sẽ xem những hành vi phi đạo đức này là bình
thường. Có thể các nhà quản trị cấp cao thường kiêu ngạo và tham vọng chạy theo
những mục đích cá nhân, họ ngang nhiên coi thường luật lệ và những chuẩn mực cơ
bản của sự công bằng và danh dự để đạt được lợi ích của mình. Một nhân viên trẻ của
Eron đã nói rằng “Đó là những thói quen rất dễ tiêm nhiễm. Chà, mọi người đều làm
điều đó, chắc có lẽ nó cũng không đến nỗi tồi tệ ”.3
Hình 6.1 đã so sánh các hành vi đạo đức và phi đạo đức bằng cách chỉ ra 10 điều mà
nhà lãnh đạo khiến mọi việc trở nên sai lầm xét trên góc độ đạo đức. Cột thứ nhất liệt
kê những hành vi gây nên sự suy đồi đạo đức và lạm dụng pháp luật trong tổ chức, cột
thứ hai liệt kê những hành vi ngược lại, đóng góp vào việc hình thành một xu hướng tin
cậy, công bằng và yêu lẽ phải.
Như chúng ta đã thảo luận trong chương 1, việc xem nhà lãnh đạo là một anh hùng đã
trở thành một khái niệm lỗi thời, nhưng trên thực tế, một số nhà lãnh đạo vẫn bị ám ảnh
bởi tầm quan trọng của bản thân và tận dụng mọi cơ hội để nuôi dưỡng lòng tham hoặc
lo lắng cho cái tôi của mình. Họ nỗ lực để có được mức lương cao, một văn phòng lớn
và những lợi ích khác hơn là điều tốt đẹp cho tổ chức. Đây là mẫu hình những nhà lãnh
đạo chỉ biết đặt sự chú ý vào việc đạt được lợi ích cho bản thân hơn là cho tổ chức và
xã hội. Chẳng hạn, những nhà quản trị chỉ mong muốn mức lương cao và nhiều bổng
lộc cho mình trong khi toàn thể nhân viên đang sống chật vật thì làm sao hàng ngàn
người này có thể nỗ lực để xây dựng một môi trường tin cậy và toàn vẹn?
Một điều chắc chắn rằng những nhà lãnh đạo phi đạo đức sẽ không trung thực với nhân
viên, với khách hàng, nhà cung cấp và cổ đông của mình. Họ thường không tôn trọng
lời hứa và cam kết với người khác. Điều này thoạt trông có vẻ nhỏ nhặt, nhưng dần dần,
tính không trung thực sẽ xâm lấn cuộc sống và công việc của họ. Những nhà lãnh đạo
như vậy thường đối xử mọi người không công bằng, họ có thể ban đặc quyền đặc lợi
cho những ai tâng bốc hay bợ đỡ họ và sự thăng tiến trong các tổ chức như thế chỉ dựa
vào sự thiên vị chứ không phải vì những thành tích kinh doanh cụ thể. Họ thường có xu
hướng vơ hết thành công về mình nhưng lại đổ lỗi cho người khác nếu sai lầm xảy ra.
Bằng cách tước đoạt thành quả của những người phục tùng họ không cho phép người
khác thật sự tham gia vào việc ra quyết định, đối xử với người khác bằng sự khiếm nhã
và bất kính, họ đã làm giảm đi lòng tự trọng của con người. Họ xem nhân viên như là
2 9
3 10

một phương tiện để đạt được mục đích của mình mà không một chút bận tâm về cách
cư xử với từng cá nhân hay giúp đỡ người khác phát triển tiềm năng của mình. Trong
khi những nhà lãnh đạo có đạo đức ra sức phục vụ người khác, những nhà lãnh đạo phi
đạo đức lại chỉ tập trung vào nhu cầu và mục đích cá nhân.
HÌNH 6.1. Hành vi lãnh đạo có đạo đức và phi đạo đức
Nhà lãnh đạo phi đạo đức Nhà lãnh đạo có đạo đức
-Kiêu căng và ích kỷ -Khiêm tốn
-Quá chú trọng và sở thích cá nhân -Duy trì quan tâm cho những điều lớn
lao hơn
-Gian dối, lừa gạt -Trung thực, thẳng thắn
-Phá vỡ cam kết -Giữ lời hứa
-Đối xử bất công -Đấu tranh cho sự công bằng
-Liên tục đỗ lỗi cho người khác -Dám nhận trách nhiệm
-Thờ ơ với sự phát triển cá nhân -Khuyến khích, động viên người khác
phát triển
-Từ chối giúp đỡ và hỗ trợ -Phục vụ người khác
-Hạ thấp nhân phẩm của người khác -Thể hiện sự tôn trọng đối với mỗi
thành viên
-Cổ vũ cho hành động bất công -Động viên và đứng về lẽ phải
Nguồn: Dựa trên nghiên cứu của Donald G.Zanderer “Tính hoà hợp: một nhân
tố thiết yếu trong quản trị” tại Diễn đàn Kinh doanh (Mùa thu năm 1992): 12-16
Cuối cùng, một trong những cách thức chủ yếu góp phần tạo nên tình trạng suy đồi đạo
đức của nhà lãnh đạo là không có sự bày tỏ chính kiến chống lại những hành vi được
cho là phi đạo đức. Các nhà lãnh đạo cố gắng giữ lời của mình, dĩ hòa vi quí phi phải
chứng kiến một sự bất bằng. Nếu một người biết được nhân viên bị đối xử không công
bằng bởi đồng nghiệp mà không làm gì cả tức là họ đang tạo ra một tiền lệ cho người
khác. Với những tiêu chuẩn đạo đức lỏng lẻo, đồng nghiệp và thuộc cấp sẽ cảm thấy
được tự do hành động. Thật khó để đấu tranh cho lẽ phải, nhưng đó là cách thức căn
bản giúp nhà lãnh đạo tạo dựng một môi trường hoà hợp cho tổ chức. Một môi trường
thủ tiêu đấu tranh sẽ nuôi dưỡng các hành vi phi đạo đức.
2. Hành động như một nhà lãnh đạo hợp đạo đức
Kinh doanh nghĩa là mang lại giá trị chứ không chỉ đơn giản là sản sinh lợi nhuận. Tuy nhiên
nhiều nhà lãnh đạo quên đã quên hay cố tình quên điều này. Tất nhiên, những nhà lãnh đạo hợp
đạo đức không có nghĩa là bỏ qua lợi nhuận và chi phí, giá cổ phiếu, những chi tiêu trong sản
xuất và những yếu tố khó đo lường khác. Nhưng giờ đây các nhà quản trị đang đứng trước yêu
cầu nhận ra tầm quan trọng của các giá trị đạo đức, ý nghĩa con người và những mục đích cao
cả hơn4. Câu bình luận từ hàng thế kỷ của Henry Ford xem ra vẫn còn đúng đắn cho thực tiễn
kinh doanh ngày nay “Trong một thời gian dài, con người tin rằng mục đích duy nhất của kinh
4 14

doanh là lợi nhuận. Họ hoàn toàn sai lầm. Mục đích lớn nhất của nó là mang lại hạnh phúc cho
con người”5.
Bất chấp sự thực về lòng tham, sự cạnh tranh và những nỗ lực đạt được mục tiêu và lợi nhuận
đang tồn tại trong tổ chức, các nhà lãnh đạo có thể hành động trên nền tảng các giá trị đạo đức
và khuyến khích mọi người phát triển và hành động hợp đạo đức ngay trên nơi làm việc. Nhân
tố quan trọng duy nhất trong việc quyết định đạo đức của tổ chức chính là việc các nhà quản trị
có cam kết với các giá trị đạo đức trong lời nói và đặc biệt là trong hành động của họ hay
không. Bởi vì, nhân viên sẽ nhìn vào nhà lãnh đạo của họ để biết về những giá trị được xem là
quan trọng đối với tổ chức.
Các nhà lãnh đạo đưa những giá trị vào trong từng hành động, Họ hành động để tạo dựng một
môi trường cho phép và khuyến khích người ta đối xử hợp đạo đức và đúng luân thường đạo
lý. Các nhà lãnh đạo tạo hệ thống tổ chức và các chính sách hỗ trợ cho các hành vi đạo đức,
chẳng hạn, các chính sách mở cửa khuyến khích nhân viên nói về mọi thứ mà không sợ hãi,
thiết lập các qui tắc đạo đức rõ ràng, tưởng thưởng với các cử xử đạo đức, không khoan
nhượng với những bất công. Dường như là quan trọng nhất các nhà lãnh đạo nói rõ ràng và duy
trì các chuẩn mực đạo đức và làm mọi công việc đúng thậm chí khi không ai thấy. Nhà lãnh
đạo làm sai hay lách các qui tắc khi họ nghĩ rằng sẽ không ai phát hiện thì sớm muộn cũng
gánh chịu hậu quả tai hại. Hơn nữa, nhà lãnh đạo cúng phải nhận thức rằng những gì họ làm
trong cuộc sống cá nhân cũng sẽ ảnh hưởng đến môi trường nghề nghiệp. Điều đó có nghĩa là
nhà lãnh đạo 24/24 giờ, 7/7 ngày. Hành động của nhà lãnh đạo là hành động thấm nhuần đạo
đức.
Những nhà lãnh đạo xây dựng tổ chức với các nguyên tắc xử thế bằng cách đề cao tầm
quan trọng của việc phục vụ cho người khác và cho xã hội, bên cạnh mục tiêu gia tăng
lợi nhuận kinh tế hay chiến thắng trong một cuộc tranh tài. Nhà lãnh đạo tạo dựng bầu
không khí phục vụ trong công ty, “điều tốt nhất bạn có thể làm đó là phục vụ người
khác”.6
Các nhà lãnh đạo có thể vận hành tổ chức trên những nguyên tắc đạo đức. Tổ chức phục
vụ tốt cho các cổ đông, nhân viên, khách hàng và cộng đồng là họ đã kinh doanh tốt.
2.1. Trở thành nhà lãnh đạo tinh thần
Lãnh đạo không chỉ đơn thuần là việc tiến hành các hoạt động không liên quan đến
đúng hay say. Tất cả các hành động lãnh đạo đều được đem ra để soi xét đúng sai, đạo
đức hay phi đạo đức. như vậy phải có một chuẩn đạo đức. Nhà lãnh đạo có thể chọn
hành động vì sự ích kỷ và tham vọng cá nhân hay thể hiện một tinh thần sẵn sàng hy
sinh vì sự phát triển của tổ chức và nhân loại7. Lãnh đạo hợp đạo đức là một quá trình
phân biệt giữa cái đúng và cái sai, là việc tìm kiếm sự công bằng, trung thực, những
điều tốt đẹp và chuyển chúng thành những hành động cụ thể. Nhà lãnh đạo có ảnh
hưởng rất lớn đến người khác, lãnh đạo hợp đạo đức đem cuộc sống đến cho người
khác, nâng cao cuộc sống cho người khác. Lãnh đạo phi đạo đức chiếm đoạt của người
khác để cho bản thân.8 Lãnh đạo hợp đạo đức đòi hỏi nhà lãnh đạo nâng con người lên,
5 15
6 17
7 19
8 20