VĂN MẪU LỚP 11
11 BÀI VĂN MẪU PHÂN TÍCH BÀI THƠ TỰ TÌNH II CỦA HỒ
XUÂN HƯƠNG
BÀI MẪU SỐ 1:
Một nhà phê bình văn chương nổi tiếng đã từng đưa ra một quy luật : “Văn
chương, thơ ca là tấm gương phản chiếu của tâm hồn, là tiếng nói tình cảm của nhân loại,
là những rung động của trái tim trước cuộc đời tươi đẹp. Những giá trị tinh thần mà văn
chương, thơ ca đem lại, đã thoát khỏi cái quy luật băng hoại của thời gian, để trường tồn
mãi mãi”. Không nằm ngoài quy luật đó, Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng muốn để lại cho
hậu thế những tác phẩm hoàn mỹ, đạt đến sự xuất sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Tiêu
biểu nhất, đặc sắc nhất là bài thơTự Tìnhthứ 2 – Là tiếng nói thương cảm đối với số phận
hẩm hiu của người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến, đồng thời để cao vẻ đẹp và khát
vọng sống của họ.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Với thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật được viết theo ngôn ngữ Nôm thuần
Việt, bài thơ có lẽ đã được nữ sĩ viết về cuộc đời của chính bản thân mình, torng một phút
suy tư. Nữ sĩ đã cảm nhận cuộc sống qua những âm thanh, quang cảnh lạnh buồn, vắng
lặng và tự cảm thương cho số phận hẩm hiu của bà. Đó cũng là số phận chung của những
người phụ nữ trong Xã hội đương thời..
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Hai câu thơ mở đầu trên còn được gọi là hai câu thơ ĐỀ trong thể thơ độc đáo này.
Nhắm mắt suy nghĩ về cuộc sống, từng nhịp thở của người phụ nữ trong đêm khuya lạnh
tanh hoà theo tiếng trống thông báo dồn dập, diễn tả sự qua đi nhanh chóng của thời gian.
Đêm nay, người phụ nữ đang lẻ loi, cô độc một mình. Không còn một âm vang nào khác,
không còn những tiếng ồn ào náo nhiệt của một ngày dài, chỉ còn tiếng trống canh cùng
người phụ nữ. Từ “Trơ” – một trong những từ ngữ thể hiện sự chua chát của cuộc đời và
sự đối lập giữa vẻ đẹp “Hồng nhan” – “Nước non”. Tại sao nữ sĩ Hồ Xuân Hương lại đặt
mình vào trong nhân vật với một không gian buồn bã, tàn lụi đến như vậy? Đối với riêng
nữ sĩ khi đối mặt với cái thực tế đó, tâm trạng bà thế nào? Phải chăng bà muốn diễn tả
thân phận không chỉ của riêng bà, mà còn là của những người phụ nữ khác trong cái quy
luật cổ hủ, vô nhân đạo “Hồng nhan bạc phận” ? Hay cái thân phận phải đi làm “Vợ lẽ” –
Không được tôn trọng cả về phẩm giá và tâm hồn ? Thật đớn đau …
Bước qua hai câu thơ kế, cũng là hai câu thực, liệu rằng ta có cảm nhận được diều
gì trong sáng hơn, tươi đẹp hơn hay không ?
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Trong cái không gian cô quạnh không bóng người của bầu trời đêm, người phụ nữ
tìm đến những chén rượu để giải thoát mình khỏi nỗi sầu não của cuộc đời. Thật độc đáo
khi sử dụng nghệ thuật “Mượn cảnh ngụ tình” trong hai câu thực này. Nỗi buồn đau, tụi
nhục – như đã đề cập ở trên, có thể là thân phận làm vợ lẽ, phải chịu sự ghen ghét, cay
nghiệt của người vợ cả ? Một chút hương rượu nồng có thể đã đưa người phụ nữ đến
những giấc mơ trong cơn mê để xoa dịu những nỗi đau trong giây phút thực tại. Nhưng…
Càng về khuya, khi tiếng trống canh dãn dài ra, thời gian bắt đầu chậm lại, thì cũng là lúc
mùi hương nhè nhẹ của những chén rượu không còn tác dụng. Người phụ nữ chợt bừng
tỉnh về phút giây hiện tại chan chứa nỗi buồn. Ba từ : “Say lại tỉnh” đã chứng minh được
điều đó. Càng uống càng tỉnh, cảng tỉnh lại càng nghĩ suy. Trong cái “Bóng xế khuyết
chưa tròn” của Vầng trăng tưởng chừng như êm đềm, phải chăng tác giả đang nghĩ về
nhan sắc của mình đang tàn phai theo năm tháng, mà tình duyên vẫn chưa thể vẹn toàn?
Ánh trăng đêm là ánh trăng cuả kỷ niệm, của hẹn ước yêu đương, của bao đôi tình nhân.
Ánh trăng cũng là biểu tượng của sự thuỷ chung của bao tình yêu đôi lứa. Giờ đây, ánh
trăng đó sắp tàn và đang dần khuất bóng sau những rặng dừa cao, người phụ nữ vẫn chưa
thể chìm sâu vào giấc ngủ. Trăng chưa thể tròn, như cuộc tình dang dở của người phụ nữ.
Có lẽ, nữ sĩ Hồ Xuân Hương muốn đưa cái sự suy nghĩ về lẽ đời, về sự hạnh phúc mà tác
giả đang mong đợi vào chính tâm trạng của nhân vật.
Trong lúc suy tư đó, mà đối với những bạn trẻ đang hạnh
phúc là vầng trăng cổ tích, còn đối với người phụ nữ là ánh trăng suy tư, tác giả đã đánh
động người đọc ra khỏi sự suy nghĩ về nỗi đau của phái đẹp trong xã hội phong kiến lạc
hậu bằng hai câu thơ luận :
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”
Ánh mắt ngước nhìn bầu trời đếm có trăng, có sao, có mây trôi, có gió thổi tự lúc
“Trống canh dồn”, giờ đây người phụ nữ lạc lõng đó đang ngắm nhìn những sự vật xung
quanh mình. Có lẽ nào người phụ nữ ấy đang dạo quanh đâu đó trong khung cảnh khi
bình mình chưa ló dạng, và phát hiện ra một sự thật hiển nhiên mà lâu nay không một ai
để ý đến? Những động từ mạnh mẽ như “Xiên ngang” – “Đâm toạc” được sử dụng trong
phép đảo ngữ đã toát lên được sức mạnh của sự sinh tồn từ trong những sự vật nhỏ bé.
Giữa mặt đất đầy đất và đá, đâu đó mọc lên một nhành cây con con, xanh tươi. Cũng đâu
đó dưới khung trời rộng lớn nhưng trống trải, những hòn đá tuy nhỏ bé thôi, cũng đủ làm
khung cảnh trở nên sinh động… Ta đang cảm nhận được sức mạnh của thiên nhiên.
Những ngọn cỏ tí hon hay những sự vật vô tri như hòn đá kia, đã được tác giả tô điểm
bằng nghệ thuật vô cùng độc đáo. Chính điều đó đã đánh thức người đọc ra khỏi tâm
trạng u uẩn của người phụ nữ cô đơn trong bóng đêm. Ta cũng cảm nhận được sức sống
mãnh liệt để sinh tồn, dù trước mắt hiện tại đang rất rất khó khăn của từng sự vật thiên
nhiên. Nếu như thế, phải chăng tác giả đang hướng người đọc đến sự hạnh phúc, niềm tin
ở tương lai, dù khó khăn, bất hạnh ở phút hiện tại, đối với nhân vật trong bài thơ, với tác
giả hay toàn thể những người phụ nữ trong Xã hội phong kiến? Dưới góc nhìn của chúng
ta ở thời này, có thể cho là như vậy. Với hai câu Luận này, khát vọng sống và được sống,
yêu và được yêu của nữ sĩ được thể hiện vô cùng quyết liệt ! Thật là một người phụ nữ có
ý chí và niềm tin
Tưởng chừng như cảnh cửa cuộc đời đang mở ra cho người phụ nữ và toàn thể
phái đẹp trong Xã hội phong kiến một hạnh phúc và niềm tin mới, nữ sĩ Hồ Xuân Hương
đã kéo chúng ta về suy nghĩ hiện tại, cũng chính là hai câu thơ kết, vừa chua xót, vừa
đắng cay của cuộc đời :
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Tâm trạng mong mỏi chờ đợi của người phụ nữ lại trở về khi ngày mới bắt đầu.
Quy luật của thời gian chính là chỉ trôi theo một chiều chứ không tương tác song song.
Xuân đến rồi Xuân lại đi. Ngày xuân hôm qua cũng chẳng giống ngày xuân hôm nay.
Mùa xuân năm sau cũng khác hẳn mùa xuân năm nay. Chẳng có sự vật gì có thể thoát
khỏi quy luật chung đó. Thế nhưng Xuân thì có thể đến, chứ người thì không thể trường
tồn mãi mà không già đi. Tuổi xuân – là nhan sắc mà mỗi ngày một phai tàn của những
“Hồng nhan”. Người phụ nữ ấy vẫn mong chờ một ngày nào đó được cảm nhận hạnh
phúc trọn vẹn thật sự, bằng cả trái tim nồng cháy của người đối diện, để nàng có thể trao
đi tất cả những gì được gọi là sự thuỷ chung, sự vẹn toàn của tình yêu. Đó cũng là nỗi uất
ức khi “Tình đã nhỏ, mà còn xé nhỏ hơn” thì cũng tương tự việc chia cắt trái tim. Thật
không còn gì có thể diễn tả được nỗi đau đó. Bằng nghệ thuật tăng tiến giảm dần, ta thấy
được sự ít ỏi, nhỏ bé của hạnh phúc trong cảnh cái cảnh chồng chung đáng phê phán, chê
trách ấy…
Có lẽ khi đọc đến đây, chúng ta mới cảm nhận được nỗi đau khổ đau đáu cũng
những người phụ nữ thầm lặng, hi sinh cho chồng cho con, hay những số phận hẩm hiu
khác trong xã hội đương thời. Bài thơ “Bánh trôi nước” cuản hà thờ cũng từng thể hiện
được nội dung tương tự. Thế nhưng trong cái xã hội này, ta cũng thấy được những người
phụ nữ được sống trong hạnh phúc, được sự quan tâm, yêu thương của chồng con, dù
cuộc đời có bôn ba vất vả. Tiêu điểm cho nhận định này chính là bài thơ “Thương vợ”
của Tú Xương. Nói cho cùng thì bất kỳ ai, sống trong thời kỳ nào thì cũng có nỗi khổ
riêng của chính họ mà thôi…
Nhà thơHồ Xuân Hươngvới tác phẩm Tự Tình là mtộ trong những bản thơ Nôm
hay nhất, diễn tả chân thực đời sống bất hạnh của người Phụ nữ Việt Nam xưa, đồng thời
thể hiện được tài năng, sự ngang tàng của bà chúa thơ Nôm này. Tác phẩm xứng đáng
đứng trong bộ thơ Nôm hay nhất nền văn học trung đại Việt Nam. Ngoài ra tác phẩm
cũng thể hiện được ước nguyện cháy bỏng của tất cả phụ nữ của mọi thời đại. Giá trị của
bản thơ vẫn còn, thậm chí là rất được đánh giá cao sau hơn 200 năm sáng tác. Hi vọng xã
hội này sẽ không còn người phụ nữ nào phải chịu nỗi đau, nhục nhã, để không còn ai phải
viết lên những nỗi đau thương về số phận đáng thương, như nhà thơ Hồ Xuân Hương
cách đây 200 năm nữa …
BÀI MẪU SỐ 2:
Hồ Xuân Hương là một trong những nữ thi sĩ xuất sắc của Việt Nam, số lượng tác
phẩm bà để lại khá nhiều, và phong cách sáng tác thơ chủ yếu của Hồ Xuân Hương chính
là tả cảnh ngụ tình. Bà còn được biết đến với hình ảnh của một nữ nhà thơ viết nhiều về
thân phận người phụ nữ, là người dũng cảm đề cao vẻ đẹp, sự hi sinh và đức hạnh của
người phụ nữ, đồng thời lên tiếng bên vực cho họ và phê phán lên án gay gắt chế độ xã
hội cũ. Tự tình là một trong những bài thơ hay, chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc của
chính tác giả và cũng là của người phụ nữ nói chung.
Bài thơ tự tình mở đầu với 2 câu thơ vừa tả cảnh nhưng cũng tả hình ảnh của một
ngươi phụ nữ- hay có thể gọi là hồng nhan.Nhưng tiếc thay, hồng nhan đó lại roi vào
hoàn cảnh- cô đươn trống vắng, giữa đêm khuya u tịch.
“ Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Từ láy “ Văng vẳng” được tác giả sử dụng để miêu tả thứ âm thanh từ xa vang lại,
mặc dù không biết nó xuất phát từ đâu hoặc dù ở xa nhưng nghe mỗi lúc một gần một rõ
hơn. Thời gian được nhắc tới là “ đêm khuya”- thời điểm khiến con người dễ rơi vào các
cung bậc cảm xúc trạng thái khó tả nhất, cũng chính thời gian này có một người phụ nữ
vẫn ngồi đó,không yên lòng mà ngủ được vẫn ngồi đó nghĩ ngợi về mọi thứ xung quanh
đặc biệt về con người cuộc đười của mình. Là một người phụ nữ có nhan sắc, nhưng lại
được miêu tả “ trơ với nước non. Trước cuộc đười rộng lớn, người phụ nữ đó nhận ra
thân phận của mình lẻ loi đơn chiếc, và âm thanh của trống cầm canh lại càng điểm thêm
một nỗi buồn, trống vắng khó tả. Người phụ nữ ấy đã tìm đến rượu để giải sầu :
“ Chén rượu hương đưa rồi lại tỉnh
Vầng trăng xế bóng khuyết chưa tròn”
Mỗi khi có chuyện gì đó sầu muộn, người xưa thường tìm đến trăng đến rượu để
ngỏ cùng bầu tâm sự. Chỉ muốn uống thật say, hương rượu thật nồng để quên đi tất cả,
nhưng nghịch lí thay, chén rượu đưa lên mũi, hương nồng vào mũi nhưng người muốn
say nhưng tâm và suy nghĩ vẫn đang rất tĩnh. Không có nỗi buồn nòa biến mất ở đây,mà
càng làm hiện hữu rõ nỗi lòng của người phụ nữ lúc này. HÌnh ảnh vầng trăng xuất hiện
nhưng khuyết chưa tròn. Phải chăng, ngụ ý hco thân phận cho hạnh phúc của chính tác
giả. Là người tài giỏi nhưng duyên phậm haamrhiu.chưa một lần trọn ven. Tuổi xuân dần
đi qua mà hạnh phúc vẫn chưa tới bến đỗ.:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm tạc chân mây đá mấy hòn”
HÌnh ảnh rêu được đưa ra đây nhưng mang những dụ ý sâu xa của tác giả Hồ
Xuân Hương, rêu là loài mỏng manh nhỏ bé nhưng lại có sức sống vô cùng mạnh mẽ,
không dừng lại đó, ở bất cứ một điều kiện nào thì nó vẫn có thể tươi tốt,dù là điều kiện
sống như thế nào đi chăng nữa. HÌnh ảnh rêu từng đám đâm xuyên ngang mặt đất gợi ra
cho chúng ta những liên tưởng mạnh mẽ về sự phản kháng mạnh mẽ cũng như sự chống
đối của nó với thứ có thể mạnh hơn nó. Hình ảnh đá cũng vậy, đối lập với sự nhỏ bé của
những viên đá với sự rộng lớn của trời đất, nó lại càng làm nổi bật sức mạnh của những
viên đá, quả thực nó không tầm thường một tí nào. Sự đồng điệu của người và thiên
nhiên, luôn đối mặt với khó khăn thách thức nhưng chưa bao giờ đi đến thành công. Kiếp
làm vợ lẽ, dù cố thoát ra nhưng vẫn không được. Cho nên mới có 2 câu cuối:
“ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Thiên nhiên thuận theo đất trời, xuân đi rồi xuân lại tới, nhưng con người lại khác,
với người phụ nữ tuổi xuân trôi đi nhưng chẳng bao giờ quay lại thêm một lần nào nữa.
Lại càng đáng buồn hơn cho nhưng số phận hẩm hưu, chờ mong cả tuổi xuân, chờ có một
niềm hạnh phúc trọng vẹn nhưng nào đâu có được. Trước sự lẻ loi, chán chường mà Hồ
Xuân Hương đã sử dụng” ngán” phần nào nói lên được nỗi lòng của thi sĩ bây giờ. Mảnh
tình đã bé lại còn phải san sẻ, chia nhỏ ra. Không được hưởng một tình yêu một hạnh
phúc trọn vẹn, tới khi tìm đến với hạnh phúc lại phải san se, thật quả là đáng thương. Qua
đây cũng ngầm ẩn ý về những số phận của người phụ nữ ,chịu cảnh thê thiếp, dưới chế độ
cũ không được coi trọng và không có quyền lên tiếng
Tự tình là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách cũng như tư tưởng của
Hồ Xuân Hương đặc biệt là những vấn đề xoay quanh người phụ nữ. Qua đây chúng ta
cũng thấy được một Hồ Xuân Hương vừa yếu mềm nhưng cũng thật ngang tàng mạnh mẽ
khi dám bộc lộ những suy nghĩ của chính mình.
BÀI MẪU SỐ 3:
Hồ Xuân Hương là một tác giả thơ có bản sắc tương dối rõ nét. Bản sắc ấy càng
dược khẳng định và biếu hiện dưới nhiều sắc thái qua mỗi bài thơ. Thơ Hồ Xuán Hương
giàu tâm trạng, giàu nồi niềm tâm sự. Nếu thi ca là sự tự thể hiện ở mức cao nhất cái tôi
trừ tình cùa nhà thơ, thì ờ Hồ Xuân Hương đặc điểm bản chát này của thơ càng được bộc
lộ nổi bật. Nhiều bài thơ của bà là sự giãi bày tâm sự. Một trong số dó là thi phẩm Tự
tình.
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã nêu lên bối cảnh của một không gian và thời gian. Giữa
đem khuya thanh vắng, thấp thoáng hiện lên hình dáng một người phụ nử. Đứng trước
không gian bao la, rộng lớn của non sông, Hồ Xuân Hương đối diện với sự vô cùng vô
tận của không gian, cũng là dối diện với cõi lòng sâu thăm thẳm, u uất tám sự, nồi niềm
của chính mình. Thật là khó tránh khỏi cảm giác rợn ngợp, thanh vắng, buồn tẻ, trông trải
đến nao lòng. Với tâm trạng cô đơn chán chường, “Bà chúa thơ Nôm” đã cảm nhận kiếp
người thật là nhỏ nhoi, phù du. Sự cô đơn đã bám riết lấy bà ngay cả lúc đêm khuya. Nó
như con sâu, con mọt gặm nhấm, cắn xé, đục khoét tâm hồn bà khiến bà bứt rứt, đứng
ngồi không yên, ngay cả khi nghe tiếng trống canh cũng thấy ngột ngạt, bối rối. Không
thể cứ mải “thu chân bó gôì” mà thấm thìa cô đơn, bẽ bàng, phũ phàng mãi được! Bà dã
tìm ra một giải pháp tạm thời: “Mượn rượu giải sầu”. Thế nhưng cay đắng thay: Chén
rượu hương đưa say lại tỉnh. Càng uống lại càng tỉnh. Càng muôn quên thì những kí ức
đau buồn lại thi nhau ùa về như muôn “trêu ngươi” người nừ sĩ tài hoa này. Vòng đời
luẩn quẩn, bế tắc, sự chán chường, trầm uất của tâm hồn đang dâng ngập trong ánh mắt u
buồn, bờ môi run rẩy, “thu cuối mùa” của Hồ Xuân Hương. Bà đang chờ đợi diều gì?
Người phụ nử tài hoa, sắc sảo, thông minh bậc nhất lúc bấy giờ nhưng lại lận đận về
đường tình duyên, hai lần sang ngang dều bị đứt gánh giừa đường này, luôn khao khát
yêu đương, khát vọng tình yêu luôn cháy bỏng trong con người “Bà chúa thơ Nôm”.
“Khát vọng tình yèu” khác với “ước vọng tình yêu”. khát vọng thì đã đạt đến “đỉnh” của
sự đam mê cháy bỏng, mạnh liệt, rạo rực hồi trong ngực trẻ”, không có giới hạn. Khát
vọng sôi sục vẫn tinh tế, đầy nữ tính. Thế nhưng, khốn nạn thay, đau xót thay, bẽ bàng
thay cho Hồ Xuân Hương khi: Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn. Đời người là hạn
hẹp, thời gian là vĩnh hằng, vù trụ thì vô tận... Bánh xe thời gian như bóng câu bên cửa sổ
mà con gái thì có thì...
Thời gian lặng lẽ trôi, tuổi xuản cùng qua đi mà tình duyên vần không trọn vẹn,
hạnh phúc vẫn lở làng. Hạnh phúc giống như một thứ quả ngọt xa xôi, quá tầm tay với
của nữ sĩ, nó khiến bà khắc khoải, day dứt không thể níu kéo. vầng trăng trôn cao dường
như cũng soi thấu những run rầy, tháng thốt, hoảng hốt trong lòng bà khi chạnh lòng nghĩ
về thán phận lẻ loi, hẩm hiu của mình. Giọng điệu ngôn ngữ, hình ảnh của câu thơ giông
như một tiếng nấc nghẹn ngào, chua xót, thổn thức đến trào nước mắt, phải cắn chặt môi
dến bật máu tươi mới ngăn tiếng khóc thành lời! Thử hỏi, dọc đến đây ai mà không xúc
động, thương xót, cám cảnh thay cho Hồ Xuân Hương? Và tự hỏi phải chăng “khách má
hồng” luôn gặp nhiều nồi truân chuyên? Phải chăng “bạc mệnh” là lời chung cho những
người phụ nữ tài hoa khi xưa? Ông vua thơ tình Xuân Diệu cho rằng: Hãy để trẻ con nói
cái ngon của kẹo Hãy để tuổi trẻ nói hộ tình yêu. Với Hồ Xuân Hương, cảm xúc đã tự
chọn được ngôn ngừ riêng trong thơ của bà. Hậu sinh chúng ta nhìn thấy bà vĩ dại ở chỗ;
sử dụng Tiếng Việt một cách tài hoa tinh tế, đã phát huy cao độ khả năng biểu cảm của
ngôn ngữ dân tộc (chữ Nôm) một cách khéo léo tài tình mà trước đó đến cả sau này ít có
ai sánh kịp.
Ở câu thơ thứ ba, mầm mông phản kháng, vùng lẽn dà bắt đầu dược nhen nhóm
khi bà trích dẩn mình “nốc rượu ào ào” giữa đêm khuya. Hình ánh vốn dĩ dành cho mày
râu, đến những nho sĩ “dài lưng tốn vải" còn chưa dám thử chứ đừng nói gì đến phận gái
dịu dàng, thùy mị, doan trang, thướt tha nơi khuê phòng như Hồ Xuân Hương. “Thơ chỉ
tràn ra khi trong tim ta cuộc sống dà tận dầy”. “Con giun xéo mãi cũng quằn”. Tâm trạng
bức bô"i, bị đè nén cũng sẽ bị bùng nổ, cũng gióng như trái bóng bay quá căng thì sẽ
“Bùm!”.. Bức tranh thiên nhiên dưới bàn tay tài hoa, góc nhìn mới lạ, mô tả bằng những
từ rất “dắt”, hiện lên giông như một con sóng lớn chuyến dộng mạnh mẽ, khuấy đạp,
chao dảo mành liệt. Cái buồn không có đất sông lâu trong con người có bản tính vui
nhộn, lạc quan, yêu đời như HỒ Xuân Hương. Sự phẩn uất của thiên nhiên cùng là sự
phần uất của tâm trạng “không thể sống mài như vậy được!”. Sự phẫn uâ't, tinh thần dấu
tranh, vùng lên, phản kháng củng đà nổi sóng trong con người bà. Câu thơ hào sảng, khí
phách, táo bạo, mảnh liệt, dữ dội, mang màu sắc “tự do chủ nghĩa, điểm thêm một chút
“phô" xá” như chính con người thật của bà.
Con người khi dã trải qua biết bao đau đớn, khố nhục, nếm đú mọi diều bi ai trần
thế nhưng không vì t' ế mà tâm * ồ chai sạn, sức ìống mành liệt, niềm lạc quan yêu đời
vẫn âm ỉ cháy sục sôi trong lòng bà, chờ thời cơ bùng nổ: Xiên ngang mặt đất rêu từng
đám Đâm toạc chân mây đá mấy hòn Bằng hai câu thơ trên, Hồ Xuân Hương đả phá vờ
nghi thức hàn lâm, đạo mạo trong văn chương lúc bấy giờ. Câu thơ mang sắc thái táo
bạo, dừ dội, pha chút chân thành, khỏng hề giấu diếm khát vọng tình yêu cúa mình. Bà là
một tiêng thơ - có thể nói là sớm nhất của một người phụ nữ dã chủ động yêu và đòi
quyền được yêu (Ờ thời phong kiến nam quyền xưa, vốn khinh rẻ phụ nữ. Người ta quen
nhìn phụ nữ dưới vai trò yếu đuôi, thụ động). Khi tự mình lèn gân, hết mình chống dờ,
vận dụng lí trí, nghị lực để vực mình đứng dậy, Hồ Xuân Hương lại chùng xuống khi đối
diện với chính mình. Bà lại ngao ngán, chấp nhận số phận trong cơn phẩn uất cực diểm.
Bà lại bật lên tiếng thờ dài ai oán “Một mình mình lại thương mình xót xa" trong căn
phòng không, chiếc gối lè loi một mình. Câu thơ bất lực, chứa dầy nét thương thân: Ngán
nỗi xuân đi xuân lại lại Mảnh tình san sẻ tí con con! Giọng thơ uất ức, hờn tủi cùng “góp
phần" tạo thèm sự tù túng, bức bối, ngột ngạt với bao cay đắng, chán chường của nữ sì.
Thế nhưng, càng đau khô, càng bế tắc, cô đơn thì Hồ Xuân Hương càng khao khát sẻ
chia, khao khát hanh phúc, khao khát yêu và được yòu. vẫn chờ đợi tình yêu dich thực
băng cả sự trinh bạch của tâm hồn: cái mà khồng một sự tàn phá, va dập nào của thời
gian chạm tới dược. Sự tự tin, cá tính mạnh mẽ, sức sống mãnh Uột dường như dà bén rễ
trong tâm hồn bà. Sóng gió, bão táp khắc nghiệt của đường dời không làm nó lụi tàn mà
dường như tiếp thêm dộng lực dể nó ra hoa, kết trái, tươi tốt thêm.
Tâm sự của bà cùng là nỗi lòng, tiếng nói của người phụ nữ lúc bấy giờ. Bà thấu
hiểu nỗi niềm tiếng lòng của chị em phụ nữ từ xưa và dến cả bây giờ. Khao khát yôu
đương, khao khát vươn lên, khao khát sống hạnh phúc là mong muốn cùa mọi phụ nữ.
Một nhà thơ chân chính là phải đi sâu vào hiện thực dể nghe tâm hồn của thời đại. Hồ
Xuân Hương đà thực hiện diều này rất thành công. Đề tài về cuộc sông, thân phận, khát
vọng ve đẹp cúa người phụ nử là sợi chi đỏ xuyên suốt trong hầu hết các tác phẩm cùa bà.
Tiếng nói, hành dộng của bà đả góp phần mở đường cho phong trào giải phóng phụ nữ.
Với tài năng dộc dáo như vậy, không phải ngầu nhiên mà Hoàng Trung Thông đà viết: Ai
thẹn thì cúi đầu, Ai thích thi nghĩ lâu. “Bà chúa thơ Nôm” - Hồ Xuân Hương đã chiêm
một vị trí quan trọng trên thi đàn Việt Nam và trong lòng bạn đọc yêu thơ hôm nay và
mãi mãi về sau.
BÀI MẪU SỐ 4:
Hồ Xuân Hương là một trong hai nhà thơ nữa nổi tiếng nhất của nền thơ văn trung
đại Việt Nam. Bà không chỉ được mệnh danh là bà chú thơ Nôm mà còn là đỉnh cao của
trào lưu nhân đạo thời kì này. Hầu hết sáng tác của bà tập trung tái hiện số phận cay đắng
đau khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Là người phụ nữ tài sắc vẹn toàn
nhưng cuộc sống lại nhiều éo le, trắc trở. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến những tác
phẩm của bà mà tiêu biểu trong số đó là bài thơ Tự tình.
Bài thơ là sự kết hợp giữa nét buồn chán của cuộc đời và những niềm khao khát
mong đợi. Người nữ ao ước một cuộc sống hạnh phúc, có tình yêu của người bình thường
chứ không phải muốn trở thành một tấm gương an phận thủ thường mà Nho giáo xưa vẫn
ra sức tuyên truyền.
Bài thơ mở đầu với hai câu thơ vừa tả cảnh vừa là để nói lên hình ảnh của người
phụ nữ hồng nhan rơi vào hoàn cảnh cô đơn trống vắng giữa đêm khuya tĩnh mịch.
“ Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Trước cuộc đời rộng lớn, những từ ngữ được nhà thơ sử dụng càng làm thấy được
sự mênh mông của không gian, cái tĩnh mịch u buồn của đem giá lạnh thoáng nghe tiếng
trống văng vẳng từ một tròi canh xa vọng đến, trời đem, tiếng trống mỗi lúc càng dồn dập
càng lúc càng như trôi nhanh hơn theo từng khoảnh khắc của thời gian. Không gian và
thời gian như đang rút ngắn tuổi đời của người phụ nữ. Người phụ nữ ấy thấy mình lẻ loi,
âm thanh trống vắng càng làm sầu thêm một nỗi buồn khó tả. Người phụ nữ ấy đã tìm
đến rượu để giải sầu.
“ Chén rượu hương đưa rồi lại tỉnh
Vầng trăng xế bóng khuyết chưa tròn”
Tước cuộc đời, trước duyên phận hẩm hiu của người phụ nữ ấy chua xót cho chính
mình, thân phận lẻ loi mong manh giữa bao vùi dập của cái xã hội đầy bất công thị phi
ngang trái. Thân phận hồng nhan bây giờ phải trải qua những đêm dài cay đắng cho tấm
lòng thủy chung vì cuộc tình dang dở. Tiếng thở dài ngao ngán và ý nguyện muốn thoát
khỏi nỗi sầu muộn dấy lên trong lòng nhưng cuối cùng cũng rơi vào bế tắc.Ước mong có
được một mảy may bù đắp, một chút an ủi mà nào có được! vầng trăng bóng xế giống
như đời mình đã ngả chiều. Chờ đợi mỏi mòn mà ước mong cũng như vầng trăng kia cứ
khuyết chưa tròn.
Tác giả khao khát và mong chờ , nỗi niềm đó nhân len theo tháng ngày, nhưng
càng hi vọng thì càng đau khổ, bị kịch có bao giờ kết thúc cho những người phụ nưa quá
lứa cùng với cái tình duyên trái ngang trong cái xã hội phong kiến ngày xưa. Nỗi buồn
dâng đầy trong lòng rồi lan tỏa ra khắp không gian, khẽ đưa mắt nhing ra khoảng trống
trước mắt những hình ảnh thiên nhiên đập vào mắt và như hòa vào tâm trạng buồn phiền
của tác giả.
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.”
Hình ảnh rêu được đưa ra đây nhưng mang những dụ ý sâu xa của tác giả Hồ Xuân
Hương, rêu là loài mỏng manh nhỏ bé nhưng lại có sức sống vô cùng mạnh mẽ, không
dừng lại đó, ở bất cứ một điều kiện nào thì nó vẫn có thể tươi tốt,dù là điều kiện sống như
thế nào đi chăng nữa. HÌnh ảnh rêu từng đám đâm xuyên ngang mặt đất gợi ra cho chúng
ta những liên tưởng mạnh mẽ về sự phản kháng mạnh mẽ cũng như sự chống đối của nó
với thứ có thể mạnh hơn nó. Hình ảnh đá cũng vậy, đối lập với sự nhỏ bé của những viên
đá với sự rộng lớn của trời đất, nó lại càng làm nổi bật sức mạnh của những viên đá, quả
thực nó không tầm thường một tí nào. Sự đồng điệu của người và thiên nhiên, luôn đối
mặt với khó khăn thách thức nhưng chưa bao giờ đi đến thành công. Kiếp làm vợ lẽ, dù
cố thoát ra nhưng vẫn không được.
Con người cô độc, bất hạnh trong thời điểm đó, không gian đó dường như chợt
bừng tĩnh, muốn làm theo rêu theo đá, xiên ngang, đâm toạc tất cả những gì ngăn trở,
ràng buộc, giam hãm, huỷ hoại thân phận mình, cuộc đời mình. Khổ nỗi, thực tế xã hội
với bao dối trá, lạnh nhạt, chưa kể áp bức, bất công… vẫn nhơn nhơn còn đó. Mà trái tim
luôn rạo rực cảm xúc của nữ sĩ đâu có chịu im tiếng. Nó có nhu cầu cấp thiết là được bày
tỏ và chia sẻ:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Thiên nhiên thuận theo đất trời, xuân đi rồi xuân lại tới, nhưng con người lại khác,
với người phụ nữ tuổi xuân trôi đi nhưng chẳng bao giờ quay lại thêm một lần nào nữa.
Lại càng đáng buồn hơn cho nhưng số phận hẩm hưu, chờ mong cả tuổi xuân, chờ có một
niềm hạnh phúc trọng vẹn nhưng nào đâu có được. Trước sự lẻ loi, chán chường mà Hồ
Xuân Hương đã sử dụng” ngán” phần nào nói lên được nỗi lòng của thi sĩ bây giờ. Mảnh
tình đã bé lại còn phải san sẻ, chia nhỏ ra. Không được hưởng một tình yêu một hạnh
phúc trọn vẹn, tới khi tìm đến với hạnh phúc lại phải san sẻ, thật quả là đáng thương. Qua
đây cũng ngầm ẩn ý về những số phận của người phụ nữ ,chịu cảnh thê thiếp, dưới chế độ
cũ không được coi trọng và không có quyền lên tiếng.
Tác phẩm trình bày một cách nghệ thuật mối mâu thuẫn giữa khát vọng hạnh phúc
lứa đôi trọn vẹn của người phụ nữ trong cảnh lẽ mọn với hiện thực phũ phàng là sống
trong cô đơn, mòn mỏi mà họ phải chịu đựng, giữa mong ước chính đáng được sống
trong hạnh phúc vợ chồng với việc chấp nhận thân phận thiệt thòi do cuộc sống đem lại.
Bài thơ diễn tả một tình cảm đáng thương, một số phận đáng cảm thông, một khát
vọng đáng trân trọng, một tâm trạng đáng được chia sẻ của người phụ nữ trong xã hội
xưa. Những mơ ước hạnh phúc đó là hoàn toàn chính đáng nhưng không thể thực hiện
được trong điều kiện xã hội lúc bấy giờ Đó là bi kịch không thể giải toả. Vì thế giọng
điệu của bài thơ vừa ngậm ngùi vừa ai oán. Yèu cầu giải phóng con ngưôi. giải phóng
tinh cảm chỉ có thể tìm được lời giải đáp dựa trên cơ sở của những điều kiện lịch sử – xã
hội mới mà thôi.
BÀI MẪU SỐ 5:
Thân phận lẽ mọn của người phụ nữ trong xã hội phong kiến là một đề tài khá phổ
biến trong văn học dân gian và văn học viết thời hiện đại. Tình yêu và hanh phúc gia đình
là một trong những mối quan tâm lớn của văn học từ xưa đến nay. Nó góp phần thế hiện
rõ tinh thần nhân đạo trong văn học. Chùm thơ Tự tình là một trong những tác phẩm tiêu
biểu viết về người phụ nữ trong vàn học Việt Nam - Hồ Xuân Hương.
Người phụ nữ cô đơn trong đêm khuya vắng lặng nghe tiếng trống cầm canh báo
thời khắc đi qua. Canh khuya là thời gian từ nửa đêm cho đến sáng. Nàng cảm thấy tiếng
trống canh báo hiệu thời gian khắc khoải mong ngóng một điều gì. Nhưng càng mong lại
càng không thấy. Tiếng trống canh đang dồn dập kia chính là thông báo về thời gian tâm
trạng của nàng. Nó thể hiện nỗi chờ mong khắc khoải, thảng thốt thiếu tự tin, đầy lo âu và
tuyệt vọng của người đàn bà.
Hồ Xuân Hương diễn tả tâm trạng bẽ bàng của người vợ cô đơn chờ mong chồng
mà chồng không đến bằng một chữ trơ - trơ trọi, trơ cái hồng nhan, cái thân phận phụ nữ
với nước non, với đời, với tình yêu.
Hai câu tiếp theo, Hồ Xuân Hương diễn tả tâm trạng tuyệt vọng cùa người vợ chờ
chồng.
Câu thơ ẩn chủ từ, chỉ thây hành động và trạng thái diễn ra. Chén rượu hương đưa
nghĩa là uông rượu giải sầu cho quên sự đời, nhưng say rồi lại tỉnh, tức là uống rượu vẫn
không quên được mối sầu!
Vầng trăng bóng xế trong câu bốn có nghĩa là đêm đã gần tàn, nhưng trăng chưa
tròn mà đã xế, thể hiện cảm xúc về hạnh phúc chưa tròn đầy. Vầng trăng bóng xế cũng
có thể có hàm ý chỉ tuổi người đã luống mà hạnh phúc chưa đầy.
Nếu như bốn câu thơ đầu tiên diễn tả cái tâm trạng chờ đợi mòn mỏi có phần tuyệt
vọng, buông xuôi, thì ở hai câu năm và sau, Hồ Xuân Hương đả bất ngờ vẽ ra hình ảnh
một sự cảm khái. Cái đám rêu kia còn được bóng trăng xê xiên ngang mặt đất soi chiếu
tới. Ta có thể tưởng tượng: mấy hòn đá kia còn được ánh trăng đâm toạc chân mây để soi
đến. Hoá ra thân phận mình cô đơn không bằng được như mấy thứ vô tri vô giác kia! Đây
không nhất thiết phải là cảnh thực, mà có thể chỉ là hình ánh trong tâm tưởng. Mấy chữ
xiên ngang, đăm toạc có ý tiếp cái mạch vẩng trũng bóng xế ở câu trên. Nhưng các sự
vật, hình ảnh thiên nhiên ở đây diễn ra trong dáng vẻ khác thường, do việc tác giả sử
dụng những từ ngữ chỉ hành động có tính chất mạnh mẽ, dữ dội:
Xiên ngang mặt đất/ rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây/ đá mấy hon.
Hai câu thơ này cũng có thể hiểu là đảo ngữ: rêu từng đám xiên ngang mặt đất,
còn đá mấy hòn vươn lên đâm toạc chân mảy. Và đó không phải là hình ánh của ngoại
cảnh, mà là hình ảnh của tâm trạng, một tâm trạng bị dồn nén, bức bối muốn đập phá,
muốn làm loạn, muôn được giải thoát khỏi sự cô đơn, chán chường. Nó thể hiện cá tính
manh mẽ, táo bạo của chính Hổ Xuân Hương.
Những dồn nén, bức bôi, đập phá của tâm trạng nhà thơ bất ngờ bộc phát, và cũng
bất ngờ lắng dịu, nhường chỗ cho sự trở lại của nỗi buồn chán và bất lực, chấp nhận và
cam chịu. Càu thơ Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại chứa đựng biết bao nhiêu là thời gian và
sự chán ngán kéo dài. Cuộc đời cứ trôi đi, thời gian cứ trôi đi, tình yêu và hạnh phúc thì
chỉ được hưởng tí chút. Tác giả đã đi, tình yêu mà hạnh phúc thì chỉ được hưởng tí chút.
Tác giả đã dùng từ mảnh tinh để nói cái tình bé như mảnh vỡ. Lại nói san sẻ - Chắc là san
sẻ với chồng, san sẻ với vợ cả chăng? Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ, như một tổng kết,
như một lời than thở thầm kín của người phụ nữ có số phận lẽ mọn về tình yêu và hạnh
phúc lứa đôi không trọn vẹn trong xã hội xưa.
Bài thơ là lời than thở cho số phận hẩm hiu của người phụ nữ chịu cảnh lẽ mọn,
thể hiện thái độ bi quan, chán nản cùa tác giả và thân kiếp thiệt thòi của con người.
Đặc sắc nhất về nghệ thuật của bài thơ là sử dụng những từ ngữ và hình ảnh gây
ấn tượng mạnh. Tác giả chủ yếu sử dụng các từ thuần Việt giàu hình ảnh, màu sắc, đường
nét với sắc thái đặc tả mạnh, bằng những động từ chỉ tình thái: dồn, trơ, xế, xiên ngang,
đâm toạc, đi, lại lại, san. sẻ, ... và tính từ chỉ trạng thái: say, tỉnh, khuyết, tròn... để miêu
tả những cảm nhận về sự đời và số phận.
Hình ảnh trong bài thơ gây ấn tượng rất mạnh bởi nghệ thuật đặc tả. Nhà thơ
thường đẩy đối tượng miêu tả tới độ cùng cực của tình trạng mang tính tạo hình cao. Nói
về sự cô đơn, trơ trọi đến vò duyên của người phụ nữ thì: Trơ cái hồng nhan với nước
non. Mấy chữ xiên ngang, đâm toạc đều là những hành động mạnh mẽ như muốn tung
phá, đầy sức sông thể hiện những cảm xúc trẻ trung.
Tác phẩm trình bày một cách nghệ thuật mối mâu thuẫn giữa khát vọng hạnh phúc
lứa đôi trọn vẹn của người phụ nữ trong cảnh lẽ mọn với hiện thực phũ phàng là sống
trong cô đơn, mòn mỏi mà họ phải chịu đựng, giữa mong ước chính đáng được sống
trong hạnh phúc vợ chồng với việc chấp nhận thân phận thiệt thòi do cuộc sống đem lại.
Bài thơ bày tỏ sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với nỗi bất hạnh của người phụ
nữ, phê phán gay gắt chế độ đa thê trong xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện rõ sự bất
lực và cam chịu của con người trước cuộc sống hiện tại.
Bài thơ diễn tả một tình cảm đáng thương, một số phận đáng cảm thông, một khát
vọng đáng trân trọng, một tâm trạng đáng được chia sẻ của người phụ nữ trong xã hội
xưa. Những mơ ước hạnh phúc đó là hoàn toàn chính đáng nhưng không thể thực hiện
được trong điều kiện xã hội lúc bấy giờ Đó là bi kịch không thể giải toả. Vì thế giọng
điệu của bài thơ vừa ngậm ngùi vừa ai oán. Yèu cầu giải phóng con ngưôi. giải phóng
tinh cảm chỉ có thể tìm được lời giải đáp dựa trên cơ sở cũa những điều kiện lịch sử - xã
hội mới mà thôi.
BÀI MẪU SỐ 6:
Bài thơ thể hiện nỗi buồn, nỗi cô đơn thấm thía của người yêu đời, tràn đầy sức
sống nhưng gặp cảnh ngộ éo le, một con người luôn khao khát tình yêu nhưng chỉ gặp
toàn dang dở, bất hạnh. Đó còn là sự bất hạnh của một mơ ước không thành.
Trong hệ thống những bài thơ mang chứa tâm sự của Hồ Xuân Hương, “Tự tình”
là một trong những bài thơ hay nhất. Bài thơ thể hiện nỗi buồn, nỗi cô đơn thấm thía của
người yêu đời, tràn đầy sức sống nhưng gặp cảnh ngộ éo le, một con người luôn khao
khát tình yêu nhưng chỉ gặp toàn dang dở, bất hạnh. Đó còn là sự bất hạnh của một mơ
ước không thành.
Sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy sóng gió (nửa cuối thế kỉ XVIII
đến nửa đầu thế kỷ XIX), Hồ Xuân Hương là người chứng kiến và phần nào chịu ảnh
hưởng cái không khí sôi sục của phong trào quần chúng đòi quyền sống, quyền hạnh
phúc cho con người. Không khí ấy tác động đến tâm hồn vốn thông minh và giàu lòng
trắc ẩn của bà. Bà uy nghiêm, thức tỉnh, trăn trở về đời mình, một cuộc đời lắm éo le, bạc
phận: Lấy chồng hai lần, hai lần làm lẽ và hai lần chồng đều chết sớm. Điều đó, với bà là
những biểu hiện cụ thể, đầy nước mắt của nỗi đau “hồng nhan bạc phận”. Mở đầu bài thơ
"Tự tình", tác giả gợi ra một khoảng thời gian, một góc không gian xao xác tiếng gà. Đây
là một thứ không gian, thời gian nghệ thuật được vận dụng làm nền cho sự thổ lộ tâm
trạng tác giả: "Cảnh khuya văng vẳng trống canh dồn". "Văng vẳng” chính là từ tượng
thanh nhưng ở đây nó vừa biểu thị tâm trạng, không khí, cái không khí buồn vắng lặng
của một người thao thức giữa đêm khuya thanh vắng. Câu thứ hai nhức nhối một tâm sự:
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
Hay nhất của câu thơ thứ hai là từ “trơ”. Trơ là trơ trọi, cô đơn, lẻ loi. Nhà thơ cảm
nhận nỗi buồn hồng nhan. Một nỗi buồn “cụ thể” càng kinh khủng hơn khi cọ xát với
toàn xã hội, toàn cuộc đời: “nước non”. Một nỗi buồn đè nặng lên tâm sự bà, lên số phận
của người phụ nữ. Không chịu đựng nổi, bà muốn chống lại, thoát khỏi. “Chén rượu
hương đưa" là một phương tiện. Không phải phương tiện duy nhất nhưng hầu như là cuối
cùng cho một đè nén quá mức. Thế nhưng, bi kịch vẫn cứ là bi kịch:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh”.
Câu thơ nữ sĩ gợi nhớ một câu thơ đầy trầm tư của Lí Bạch:
“Dùng gươm chém nước, nước chẳng dứt
Uống rượu tiêu sầu, sầu vẫn sầu”
Bất lực, câu thơ chuyển sang một sự cám cảnh sinh tình. Hồ Xuân Hương nói:
“Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Trong quan điểm thẩm mĩ xưa, vầng trăng tượng trưng cho cuộc đời, tuổi tác của
người phụ nữ. Câu "Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn" vừa là một hình ảnh đẹp, có
thực nhưng đượm buồn. Cái buồn của một “vằng trăng khuyết”. Đối với thơ xưa, cảnh là
tình, cảnh trăng khuyết man mác, gợi nhớ cuộc đời bà. Trong “mời trầu " bà đã ẩn ý suy
nghĩ như vậy.
Sang câu 5, 6 tứ thơ như đột ngột chuyển biến. Sự cụ thể trong miêu tả khiến việc
tả cảnh trở nên thuần khiết. Một cảnh thực hoàn toàn:
"Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hồn”
Nghê thuật đảo ngữ và đối tạo nên sự sinh động và cảnh đầy sức sống. Một sức
sống nhờ tài quan sát của bà như quẫy đạp, cựa mình. Cảnh này chỉ có thể là cảnh của
"Bà chúa thơ nôm" chứ không phải của ai khác. Rõ ràng, dẫu đang rất buồn, rất cô đơn
nhưng điều đó vẫn không suy giảm chất riêng của Hồ Xuân Hương. Bản lĩnh, sức sống
mãnh liệt, sự khao khát với cuộc đời khiến cho dù lòng đầy cám cảnh bà vẫn nhìn cảnh
vật với con mắt yêu đời, tha thiết, chứa chan sức sống. Đó là sự lí giải về những phản
kháng, đối nghịch trong bản chất bà, tạo nên những vần thơ châm biếm đối lập. Vũ khí ấy
hơn hẳn chén rượu “say rồi tỉnh”. Đó là phương tiện kì diệu nâng đỡ tâm hồn bà. Chỉ như
thế mới có thể hiểu tâm trạng, tiếng thở dài của Hồ Xuân Hương, ở hai câu thơ kết :
“Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”.
Yêu đời là thế, sức sống mãnh liệt là thế mà cuộc đời riêng thì vẫn: “Xuân đi xuân
lại lại. ”, điệp từ chỉ cái vòng luẩn quẩn đáng ghét, vô vị của ngày tháng, cuộc đời. Điều
này khiến bà không tránh khỏi một tiếng thở dài chua xót. Càng chua xót hơn khi giữa cái
tuần hoàn thời gian ấy là một “mảnh tình” đang bị san đi, sẻ lại... chia xới. Đối với trái
tim thiết tha với đời kia, điều đó như một vết thương, nhức nhối.
Người ta nói rằng thơ là tâm trạng, là một bức thông điệp thẩm mĩ. Đọc “Tự tình”,
là thấu hiểu được tâm sự ẩn chứa bi kịch của Hồ Xuân Hương. Là một nhân cách luôn
khao khát hạnh phúc, là một tâm hồn tràn đầy sức sống, yêu đời lại bắt gặp toàn những
dở dang, bất hạnh, điều đó tạo nên trong thơ bà có khi là môt tiếng thở dài. Một tiếng thở
dài đáng quý của một người có hoài bão nhưng không thể thực hiện được, trách nhiệm là
ở phía xã hội phong kiến, một xã hội mà hạnh phúc riêng đã đối lập thật gay gắt với cơ
cấu xã hội chung. Trong chiều hướng ấy, “Tự tình" là một bài thơ đòi quyền hạnh phúc,
một lời phản kháng độc đáo lại chứa chan tiếng nói bênh vực của người phụ nữ, tạo được
sự thấu hiểu, đồng cảm với những cảnh ngộ éo le, trắc trở.
BÀI MẪU SỐ 7:
Kho tàng văn học dân gian Việt Nam phong phú và đa dạng, nhưng vẫn thiếu
bóng dáng người phụ nữ. Nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương là sự hiếm hoi ấy. Thi sĩ Hồ Xuân
Hương là người tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc sống lại nhiều éo le, trắc trở.Điều này ảnh
hưởng không nhỏ đến những tác phẩm của bà mà tiêu biểu trong số đó là bài thơ "Tự
tình". Hồ xuân Hương một nữ thi sĩ tài ba với phong cách sáng tác thơ nôm tả cảnh ngụ
tình sâu sắc cùng ý tứ chân thành nhằm giãi bày tâm sự lòng mình theo giới nghiên cứu
hiện còn khoảng 40 bài thơ nôm tương truyền là của Hồ Xuân Hương nữ sĩ còn có tập thơ
lưu hương kí, Hồ Xuân Hương là một hiện tựơng khá độc đáo trong lịch sử văn học việt
nam đó là nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình. Nổi bật trong sáng tác
của hồ xuân hương là tiếng nói thưong cảm đối với phụ nữ, là sự khẳng định đề cao vẻ
đẹp và khát vọng sống khát vọng hạnh phúc mãnh liệt trong trái tim họ. và một lần nữa ta
bắt gặp điều đó qua những câu thơ rất đỗi chân thành trong bài thơ tự tình 2 trong chùm
thơ tự tình dc viết nên từ những cung bậc tình cảm dừơng như đang làm rối bời tâm trạng
nhà thơ.
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
Trong cái tĩnh mịch u buồn của đêm giá lạnh thoáng nghe tiếng trống canh văng
vẳng từ môt chòi canh xa vọng đến báo hiệu đã nữa đêm, tiếng trống mỗi lúc một dồn
dập hơn xa đến gần càng lúc như nhanh hơn trôi theo từng khoảnh khắc của thời gian và
rút ngắn tuổi đời của một ng phụ nữ “hồng nhan” nhưng “trơ” đi trứơc cuộc đời trứoc
cảnh vật tựa như gỗ đá đã bị mất hết cãm giác vì bao nỗi phiền muộn đợi chờ một thứ
hạnh phúc mong manh, giọng thơ trĩu xuống tăng thêm nỗi chán chừơng và cái cô đơn
đang bủa quanh tác giả.Cách sử dụng đão ngữ nhấn mạnh thêm sự trơ trọi bẽ bàng và tủi
hổ. Trứơc cuộc đời trứơc duyên phận hẩm hiu ng phụ nữ ấy chua xót cho chính mình,
thân phận lẻ loi mong manh giữa bao vùi dập của cái xã hội đầy bất công thị phi ngang
trái. Thân phận hồng nhan bây giờ phải trải qua những đêm dài cay đắng cho tấm lòng
thủy chung vì cuộc tình dang dở.Tiếng thở dài ngao ngán và ý nguyện muốn thoát khỏi
nỗi sầu muộn dấy lên trong lòng nhưng cuối cùng cũng rơi vào bế tắc, dừong như nghịch
cảnh khôg buông tha cho ng phụ nữ ấy, mựợn rựou quên đi nhưng lại càng nhớ :
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Chén rựơu cầm hững hờ trên tay mặc cho hương nồng của rựơu phả vào mặt xộc
vào mũi, tác giả mong rượu có thể giải tỏa hộ nỗi lòng của mình, mong cơn say mau tìm
đến để đưa ng đến một nơi yên bình dù trong thời gian ngắn ngủi cũng đỡ hơn khi phải
một mình đối diện nỗi cô đơn đang giày xéo tâm can.Nhưng say rồi lại tỉnh cứ chập chờn
chập chờn mơ hồ trong cái vòng lẩn quẩn.Thời gian thì cứ trôi tác giả lúc thì tỉnh để nhận
ra cái éo le của cuộc đời lúc thì chìm vào cơn say quên đi bao tuyệt vọng, mong mỏi phút
giây nào đếy có thể gạt dc tất cả qua một bên để sống với những khao khát của chính
mình nhưng mong ứơc bé nhỏ ấy cũng bị cuốn phăng đi vô tình.Nỗi buồn tủi bắt đầu xâm
chiếm, bao đêm dài thao thức đợi chờ nhưng vô vọng, chờ nhiều đợi nhiều mà hạnh phúc
chẵng bao nhiêu trong khi cái xuân thì ngày càng rời xa tác giả. Vầng trăng xuất hiện để
làm chứng nhân cho bao cuộc tình mà sao khi tác giả thấy trăng thì lại không dc tròn đầy
mà là hình ảnh đối lập là khuyết, phải chăng cuộc tình này cũng thế chẵng bao giờ có một
cái kết trọn vẹn.Đến bao giờ thì trăng mới tròn đến khi nào thì hạnh phúc mới trong tầm
tay và bao lâu nữa thì nỗi cô đơn này thôi xuất hiện làm xót lòng.Tác giả khao khát và
mong chờ, nỗi niềm đó nhân lên theo ngày tháng, nhưng càng hi vọng thì càng đau khổ,
bi kịch có bao giờ dc kết thúc cho những ng phụ nữ quá lứa lỡ thì cùng tình duyên ngang
trái trong cái xhpk ngày xưa.Nỗi buồn dâng đầy trong lòng rồi lan tỏa ra không gian khắp
bốn bề, khẽ đưa mắt nhìn ra khoảng trống trứoc mặt những hình ảnh thiên nhiên đập vào
mắt và như hòa vào tâm trạng nhuốm nỗi buồn phiền của tác giả :
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Câu thơ tả cảnh với cấu trúc tương phản hình ảnh những đám “rêu” bé nhỏ yếu ớt
với sức mạnh “xiên ngang” cả lớp đất dày vưon lên với sức sống mãnh liệt hay “đá mấy
hòn” nhưng lại có khả năng đâm toạc chân mây trứoc mắt.Thái độ phản ứng khá mạnh
mẽ trứoc duyên tình lận đận thể hiện qua cả gịong thơ ngang ngạnh phản kháng và ấm
ức.Thiên nhiên trong mắt nhà thơ tiềm ẩn một sức sống đang bị đè nén và đang vươn lên
mãnh liệt.Ta thấy rõ dc tác dụng của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình ở hai câu thơ này, dừơng
như có một điểm giống nhau giữa tâm hồn thơ và những hình ảnh thiên nhiên ấy. Rêu và
đá bé nhỏ là thế nhưng chúng giống nhau ở sức sống mạnh mẽ vô cùng và nhà thơ cũng
vậy. Dù trong hoàn cảnh xót xa nhưng tâm hồn lúc nào cũng tràn đầy một niềm hy vọng,
bi kịch dẫu đắng cay nhưng bằng cả nghị lực tác giả vẫn cố gắng gựơng mong chờ vựơt
qua để đến bến bờ bình yên cho mình.2 câu thơ hay ẩn dụ dc khát vọng rất lớn không chỉ
của riêng hxh mà là tiếng lòng chung của bao số phận hồng nhan hẩm hiu về một cuộc
đời hạnh phúc hơn.Dâng tràn trong họ là tất cả hy vọng mong chờ bằng cả niềm tin dù
bao nghịch cảnh.Nhưng đáng buồn thay vòng xoay cuộc đời một lần nữa làm ng rơi vào
bế tắc.Cuộc đời nhà thơ là những thắng ngày buồn tủi không chỉ một mà đến 2 lần ng đều
là vợ lẽ và âu cũng vì vậy mà bao phẫn uất kết tụ đến hồi bộc phát khi thực tại vẫn là bao
chua xót não nề.Khao khát dc yêu thương dc sống hạnh phúc như nhữgn ng phụ nữ bình
thừơng nhưng càng vô vọng, đêm đã khuya mà nhà thơ vẫn còn trằn trọc thao thức ưu tư,
nỗi đau bị dồn tụ khi tác giả nhìn lại chính mình thì cũng là lúc nỗi cô đơn đâng đầy hơn
bao giờ hết trong tâm trạng chán chừờng và mệt mỏi thậm chí là thất vọng với sự thực
trứơc mắt
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
Tiếng lòng than thở của nhà thơ vang lên qua từ “ngán” dc rõ nét hơn.Mùa xuân
có đi rồi cũng đến ngaỳ sẽ quay về với thiên nhiên nhưng còn tình duyên thì mới bao giờ
trở lại với con tim chung tình đang chịu nỗi đau.Tuổi xuân ng phụ nữ trôi nhanh nhưng
cũng không bằng cuộc tình dang dở, hạnh phúc ngắn ngủi để rồi bây giờ chỉ còn nhà thơ
quạnh hiu trong nỗi cô đơn đang ngấm buốt tê lòng.Tình duyên lỡ làng tan vỡ như mảnh
vụn chỉ dành nhà thơ dc một chút nhưng lại phải “san sẻ” để còn trong nhà thơ là “tí con
con”.Buộc lòng cam chịu cảnh ngộ đơn chiếc đang ngày đêm trải qua sự đợi chờ mỏi
mòn.Nỗi đau như thế chưa đủ hay sao mà còn tình cảm nhận dc chẳng những quá ít mà
còn quá vô tình, quá hờ hững. Câu thơ tả thực nỗi chua chát ngấm từ trong lòng. Nỗi
trống trải cô đơn làm tác giả chán nản nới những mong chờ mà đáp lại chỉ là sự lành lùng
tàn nhẫn. Mổi từ như một giọt nứoc mắt rưng rưng chỉ chực trào ra theo những tủi hờn
trách móc.Có mấy ai hiểu dc những gì đang hành hạ tâm hồn mỏng manh của người, thấu
chăng nơi đây đang có bóng hình chờ và đợi.Đau lắm nhưng cũng phải tự nén lòng và
nuốt nghẹn đắng vào trong.Cuộc đời thì cứ đùa cợt trêu đùa với những ng làm vợ lẽ, phải
chịu bao phân biệt và bất công có ai thấu hiểu dùm
Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng
Cầm lòng làm mứơn mứơn không công
Cả bài thơ là muôn vàn sắc thái tình cảm của nhà thơ có buồn có hờn có giận có
chua chát có lúc phản kháng dữ dội nhưng rồi chán chừơng vì thất vọng. Tiếng thơ táo
bạo chân thành thễ hiện khát vọng mưu cầu hạnh phúc lứa đôi của bao hồng nhan torng
xã hội phong kiến lúc bấy giờ, qua đó đã dẫn dắt cho ng đọc đi vào thế giới tâm hồn đa
dạng của họ và thấy được cũng như có cơ hội cảm thông với bao nỗi buồn mà họ phải
gánh chịu .Ngôn ngữ thơ mang đậm chất dân gian dc sử dụng khéo léo giàu sức biểu cảm
tinh tế. Tài thơ nôm cua hxh còn thể hiện qua việc viết thơ đừong luật bằng tiếng việt thật
tài tình quả không hổ danh là bà chúa thơ nôm.
BÀI MẪU SỐ 8:
Hồ Xuân Hương thuộc dòng dõi họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh
Nghệ An. Là nhà thơ Nôm nổi tiếng cuối thế kỷ 18, đầu thể kỷ 19 Bà đã để lại nhiều bài
thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh danh là Bà chúa thơ
Nôm. Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt
Nam.
Bài thơ Tự Tình 2 là một bài thơ nổi tiếng với phong cánh cô đơn, buồn tẻ hẩm
hiu.. Bà là người đa tài, đa tình, tính cách phóng khoáng và giao thiệp rộng, có rất nhiều
bạn văn chương. Tuy thế, đường tình duyên của nữ sĩ lại vô cùng lận đận, mấy lần lấy
chồng đều không toại nguyện, nên bà đã mang tâm trạng của mình nói gieo vào tác phẩm
của mình.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Bài thơ Tự tình được tác giả gợi ra một khoảng thời gian, một góc xao xác tiếng
gà. Đây là một thứ không gian, thời gian nghệ thuật được vận dụng làm cho sự thổ lộ tâm
trạng tác giả:"canh khuya văng vẳng trống canh dồn". "Văng vẳng" chính là từ tượng
thanh nhưng ở đây nó biểu thị tâm trạng, không khí, cái không khí buồn vắng lặng của
một người thao thức giữa đêm khuya thanh vắng.
Ở Câu thứ hai nhức nhói một tâm sự. Trơ là trơ trọi, cô đơn, lẻ loi. Nhà thơ cảm
nhận nỗi buồn hồng nhan. Một nỗi buồn cá thể càng kinh khủng hơn khi cọ xát với toàn
xã hội, toàn cuộc đời: "nước non". Một nỗi buồn đè nặng lên tâm sự bà, lên số phận của
người phụ nữ. Không chịu đựng nổi, bà muốn chống lại, thoát khỏi. " Chénrượu hương
đưa" là một phương tiện. không phải là phương tiện duy nhất mà hầu như là cuối cùng
cho một đè nén quá mức. Thế nhưng, bi kịch vẫn cứ là bi kịch
Trong cái không gian cô quạnh không bóng người của bầu trời đêm, người phụ nữ
tìm đến những chén rượu để giải thoát mình khỏi nỗi sầu não của cuộc đời. Thật độc đáo
khi sử dụng nghệ thuật “Mượn cảnh ngụ tình” trong hai câu thực này. Nỗi buồn đau, tụi
nhục – như đã đề cập ở trên, có thể là thân phận làm vợ lẽ, phải chịu sự ghen ghét, cay
nghiệt của người vợ cả ? Một chút hương rượu nồng có thể đã đưa người phụ nữ đến
những giấc mơ trong cơn mê để xoa dịu những nỗi đau trong giây phút thực tại. Nhưng…
Càng về khuya, khi tiếng trống canh dãn dài ra, thời gian bắt đầu chậm lại, thì cũng là lúc
mùi hương nhè nhẹ của những chén rượu không còn tác dụng. Người phụ nữ chợt bừng
tỉnh về phút giây hiện tại chan chứa nỗi buồn.
Nữ sĩ đã cảm nhận cuộc sống qua những âm thanh, quang cảnh lạnh buồn, vắng
lặng và tự cảm thương cho số phận hẩm hiu của bà. Đó cũng là số phận chung của những
người phụ nữ trong Xã hội đương thời..
Không những vậy mà bà từ bỏ mà bà lại có sức sống mãnh liệt, sự khát khao với
cuộc đời khiến cho lòng đầy cám cảnh bà vẫn nhìn cảnh vật với con mắt yêu đời, tha
thiết, chứa chan sức sống. Đó là lý giải về những phản kháng, đối nghịch trong bản chất
của bà, tạo nên những vần thơ châm biến đối lập. Vũ khí ấy hơn hẳn chén rượu "say rồi
tỉnh". Đó lả phương tiên kỳ diệu nâng đỡ tâm hồn bà.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Chỉ như thế mới có thể hiểu tâm trạng, tiếng thở dài của Hồ Xuân Hương, ở hai
câu kết: "ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,mảnh tình san sẻ tí con con!" Yêu đời là thế, sức
sống mãnh liệt là thế, mà cuộc đời riêng thì vẫn:"xuân đi xuân lại lại.", điệp từ chỉ cái
vòng luẩn quẩn đáng ghét, vô vị của ngày tháng, cuộc đời. Điều này khiến bà không tránh
khỏi một tiếng thở dài chua xót. Càng chua xót hơn khi giữa cái tuần hoàn thời gian ấy là
một "mảnh tình" đang bị san đi, sẻ lại... chia xới. Đối với trái tim thiết tha với đời kia,
điều đó như một vết thương, nhức nhối.
Đọc "tự tình", ta thấu hiểu tâm sự ẩn chứa bi kịch của Hồ Xuân Hương. Là một
nhân cách luôn khát khao hạnh phúc, là một tâm hồn tràn đầy sức sống, yêu đời lại bắt
gặp toàn những dang dở, bất hạnh, điều đó tạo nên thơ bà có khi là một tiếng thở dài. Một
tiếng thở đáng quý của một người có hoài bão nhưng không thể thực hiện được, trách
nhiệm là ở phía xã hội phong kiến, một xã hội mà hạnh phúc riêng đã đối lập gay gắt với
cơ cấu chung, trong chiều hướng ấy, "tự tình" là một bà thơ đòi quyên hạnh phúc, một lời
phản kháng độc đáo lại chứa chan tiếng nói bênh vực của người phụ nữ, tạo dc sự thấu
hiểu , đồng cảm với cảnh ngộ éo le, trắc trở.
BÀI MẪU SỐ 9:
Tự tình là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Hồ Xuân Hương, đây là bài thơ
tự bày tỏ lòng mình. Như chúng ta cũng biết Hồ Xuân Hương sống vào cuối thế kỉ XVIII
– đầu thế kỷ XIX , bà xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, cha làm nghề dạy học.
Thế nhưng, Hồ Xuân Hương không chịu gò bó vào cái xã hội eo hẹp, tù túng mà bà là
một người phóng khoáng, đa tài, đa tình, giao thiệp với những nhà văn, tài tử, đi rất nhiều
nơi. Nhưng éo le thay, người xưa thường có câu “Hồng nhan bạc phận”, bà cũng phải
chịu kiếp số lận đận, éo le, đầy ngang trái trong con đường tình duyên. Các tác phẩm của
bà chủ yếu được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Người ta thường gọi bà là “Bà chúa thơ
Nôm”. Hồ Xuân Hương – hiện tượng độc đáo trong lịch sử văn học Việt Nam.
Bài thơ Tự Tình mà tôi đề cập đến chính là một trong ba bài thơ Tự Tình của Hồ
Xuân Hương và nó là bài thơ Tự Tình II. Được viết dưới dạng Đường luật thất ngôn bát
cú . Với lối viết sắc xảo và cũng chính là lời tự bày tỏ lòng mình nên chủ đề bai thơ được
hiện lên là một nghịch đối: duyên phận muộn màng, lỡ dở trong khi tác giả cứ lạnh lùng
trôi qua. Điều này dẫn đến tâm trạng vừa buồn vừa phần uất, nhưng cuối cùng vẫn đọng
lại trong tâm trí của bà.
Để thấy rõ được nội dung chính, ta sẽ đi vào tìm hiểu sâu qua các câu thơ.Bài thơ
được viết theo thể thơ đường luật bát cú ngôn nên bố cục gồm 4 phần: 2 câu đề, 2 câu
thực, 2 câu luận và 2 câu kết.
Trước hết, tác giả mở đầu với hai câu đề:
“Đêm khuya văng vẳng bóng canh dền
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Khung cảnh được hiện lên là một đêm khuya, khi con người chìm sâu vào giấc
ngủ, nhưng cũng chính là lúc người ta đối diện với chính mình và đây cũng là lúc Hồ
Xuân Hương nhận ra được cảnh đáng thương của mình. Sự cô đơn, lẻ bóng một mình gắn
liền với thời gian, tạo cho người ta một cảm giác thật đáng thương cho thân phận người
phụ nữ. Tác giả đã rất tinh tế khi sử dụng nghệ thuật lấy động nói tĩnh: âm thanh “văng
vẳng” của tiếng trống cầm canh để nói lên một không gian tĩnh lặng, vắng vẻ. Chính cái
khoảnh khắc ấy, tự soi vào mình, tác giả thấy “trơ” mà đặc biệt nó còn được đặt ở đầu
câu, càng thêm nhấn mạnh nối đau, bất hạnh về đường tình duyên, số kiếp “hồng nhan
bạc phận” của chính tác giả. “Trơ” ở đây có thể được hiểu là tủi hổ, bẽ bàng. Tiếp theo nó
là “cái hồng nhan” ý nói đến dung nhan của người phụ nữ, thường được dùng trong xã
hội xưa. Nhưng điều đáng chú ý ở đây, một nhân phẩm, vẻ đẹp của người phụ nữ lại gọi
là “cái” gợi cho người đọc thấy được sự rẻ rúng, mỉa mai. “Cái hồng nhan” trơ với nước
non không chỉ là sự cay đắng, tủi hổ mà còn là nỗi xót xa, thấm thía, càng ngẫm càng
thương thân. Nhưng chữ “trơ” ở đây một phần cũng có thể hiểu được đó chính là sự gan
dạ của Xuân Hương, là sự thách thức . Để nhấn mạnh điều này, tác giả đã dùng nhịp thơ:
1/3/3 để nhấn mạnh vào sự bẽ bàng.
Nối tiếp hai câu đề, tác giả viết:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tàn”
Với hai câu thơ thực trên, hoàn cảnh và tâm trạng của nhà thơ được hiện lên rõ
hơn. Khi sầu, người ta thường lạm bạn với rượu, để có thể quên đi mọi thứ không vui,
những nỗi đau. Thế nhưng “say lại tỉnh” làm nỗi buồn không thể nguôi được, Đây chính
là một vòng quay luẩn quẩn, tình duyên đã trở thành một trò đùa, càng say càng tình,
càng cảm nhận nỗi đau của thân phận. Câu thơ là ngoại cảnh nhưng cũng là tâm trạng. Vì
vậy, tạo nên sự đồng nhất giữa tâm trạng và cảnh “ trăng” sắp tàn “bóng xế” và vẫn
“khuyết chưa tròn”. Tuổi xuân, cái tuổi đẹp nhất của người con gái đã trôi qua mà nhân
duyên vẫn chưa trọn vẹn. Gợi lên một nỗi sầu lẻ bóng.
Tiếp tục hướng về ngoại cảnh, lấy thiên nhiên để bày tỏ tâm trạng, nỗi lòng của
mình, Hồ Xuân Hương viết:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Hai câu luận ở trên được tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh trạng
thái của thiên nhiên, nhưng đó cũng chính là tâm trạng của con người. Rêu và đá là hai
hình ảnh được hiện lên là những vật yếu mềm, không chịu chấp nhận sự thấp bé ấy, đã
vươn lên bằng mọi cách, vượt qua những cản trở (mặt đất, chân mây) để chứng tỏ mình.
Các động từ mạnh: xiên, đâm kết hợp với bổ ngữ: ngang, toạc gợi cho người ta thấy sự
ngang ngạnh, phẫn uất. Nó không chỉ thể sự phẫn uất mà còn nói lên một phần của sự
phản kháng. Cũng có thể cho người đọc ngầm hiểu Hồ Xuân Hương với sức sống mãnh
liệt ngay cả khi đau buồn nhất.
Khép lại bài thơ với hai câu kết:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tý con con”
Hồ Xuân Hương đã có cách dùng từ rất độc đáo “xuân” tức là mùa xuân, tuổi
xuân, “ngán” tức là ngao ngán, chán. Bên cạnh đó từ “lại” chỉ sự trở lại một cách nhanh,
sợ sự quay trở lại. Theo quy luật của tạo hóa, mừa xuân qua rồi sẽ trở lại. Nhưng mỗi
mùa xuân qua đi lại mang theo tuổi xuân của con người và mãi không trở lại. Sự trở lại
chính là sự ra đi của tuổi xuân. Tác giả đã quá ngán ngẩm với cuộc đời éo le. Với lối
nghệ thuật tăng tiến, nhấn mạnh vào những điều bé nhỏ, làm cho nghịch cảnh éo le hơn.
Mảnh tình đã nhỏ bé lại còn phải san sẻ “tý con con” tạo nên một cảm giác xót thương.
Đây cũng chính là nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa. Hạnh phúc luôn là chiếc
chăn quá hẹp.
Như vậy, bài thơ Tự Tình đã hiện lên với những hình ảnh giản dị mà đặc sắc, hình
ảnh giàu sức gợi cảm, tinh tế từ đó nói lên tâm trạng của chủ thể. Bài thơ hiện lên cả bi
kịch và khát vọng sống hạnh phúc của Hồ Xuân Hương. Trong những lúc buồn tủi, bế
tắc, người phụ nữ cố vươn lên nhưng lại vẫn bị rơi vào cái vòng quay luẩn quẩn, tù túng
của xã hội đương thời.
BÀI MẪU SỐ 10:
Hồ Xuân Hương, nữ sĩ nổi tiếng thế kỉ XVIII đã được nhà thơ Xuân Diệu tôn vinh
là “Bà chúa thơ Nồm”. Theo giai thoại lưu truyền trong dân gian thì bà là người đa tài, đa
tình, tính cách phóng khoáng và giao thiệp rộng, có rất nhiều bạn văn chương. Tuy thế,
đường tình duyên của nữ sĩ lại vô cùng lận đận, mấy lần lấy chồng đều không toại
nguyện, vì thế mà bà luôn sống trong tam trạng cô đơn. Bài thơ Kể nỗi lòng (Tự tình II)
có lẽ được sáng tác trong hoàn cảnh ấy. Trong một ngày thì lúc hoàng hôn hay đêm
khuya thanh vắng thường dễ gợi buồn nhất.
Với những người đa cảm như Xuân Hương, đây là thời điểm mình sống thực với
lòng mình và chắc là tâm trạng của bà sau bao sóng gió cuộc đời cũng chẳng khác mấy
tâm trạng Thuý Kiều khi một mình một bóng trước ngọn đèn khuya: Khi tĩnh rượu, lúc
tàn canh, Giật mình mình lại thương mình xót xa ! Những cơn sóng cảm xúc đang cuộn
xoáy trong lòng khiến nữ sĩ suy tư trăn trở, thao thức thâu đêm. Tiếng trống cầm canh lâu
lâu lại điểm, báo thời gian đang trôi qua: Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn, Trơ cái
hồng nhan với nước non. Bước chân của đêm tối mới nặng nề, chậm chạp làm sao! Chậm
chạp nhưng nó vẫn đi, còn tâm trạng buồn thương của con người trong đêm khuya thì
lắng đọng và chốc chốc lại như dồn như thúc, như chồng chất thêm lên khiến cho lòng
càng nặng trĩu. Nỗi đau đời âm ỉ, dai dẳng thiêu đốt tâm can nữ sĩ bấy lâu nay bật thốt
thành lời chua chát, đắng cay. Hổng nhan là gương mặt đẹp, thường được dùng để chỉ
phụ nữ nói chung và những người con gái đẹp nói riêng. Nhưng lại gọi với ý mĩa mai là
cái hổng nhan thì nữ sĩ đã hạ nó xuống ngang hàng với những vật vô tri vô giác. Chao ôi!
Biết bao là xót xa, hờn tủi trong cách gọi bất bình thường ấy! Lại còn trơ ra đó với nước
non, có nghĩa là đã chai sạn mọi cảm giác, cảm xúc chứ không phải là trơ trọi trước cảnh
nước non dào dạt sức sống, sức yêu. Đó là tình cảnh và tâm trạng bi đát của nữ sĩ ở giờ
khắc đặc biệt này.
Tưởng như nỗi bất hạnh đã khiến tâm hồn hoá thành gỗ đá nhưng không phải. Trái
tim còn đập nên ý thức vẫn còn, nữ sĩ đành say cho quên vậy: Chén rượu hương đưa say
lại tĩnh, Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn. Muốn mượn chén rượu thdm để say cho
quên hết mọi đau khổ, bẽ bàng, lỡ lầm, dối trá… nhưng khổ nỗi không sao quên được.
Hết say lại tỉnh mà bao hững hờ, dối trá của người đời vẫn sờ sờ ra đó và nỗi bẽ bàng,
đau khổ của mình thì cũng cứ còn nguyên. Ước mong có được một mảy may bù đắp, một
chút an ủi mà nào có được! vầng trăng bóng xế giống như đời mình đã ngả chiều. Chờ
đợi mỏi mòn mà ước mong cũng như vầng trăng kia cứ khuyết chưa tròn. Vậy thì biết
đến bao giờ trăng mới tròn, hỡi trời ! Tĩnh thì đau khổ nhưng mình vẫn còn được là mình
không đến nỗi tuyệt vọng. Niềm tin của nữ sĩ vẫn còn, trước hết là tin ở lòng mình, sức
mình. Lời dạy của trời đất sâu kín mà rành rành trước mắt, ngụ ở ngay trong rêu trong đá:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám, Đâm toạc chân mấy, đá mấy hòn. Rêu yếu ớt là thế
mà từng đám, từng đám vẫn tung sức sống xiên ngang mặt đất đón ánh mặt trời. Đá im
lìm là vậy mà hòn nọ tảng kia như đua nhau đâm toạc chân mây để khẳng định sự hiện
diện của mình. Cách đặt câu. đảo ngược đưa tính từ lên trước đã nhấn mạnh sức sống bất
diệt của thiên nhiên. Mình là con người nên đâu có thể dễ dàng biến thành gỗ đá được?!
Con người cô độc, bất hạnh trong thời điểm đó, không gian đó dường như chợt bừng tĩnh,
muốn làm theo rêu theo đá, xiên ngang, đâm toạc tất cả những gì ngăn trở, ràng buộc,
giam hãm, huỷ hoại thân phận mình, cuộc đời mình. Khổ nỗi, thực tế xã hội với bao dối
trá, lạnh nhạt, chưa kể áp bức, bất công… vẫn nhơn nhơn còn đó. Mà trái tim luôn rạo
rực cảm xúc của nữ sĩ đâu có chịu im tiếng. Nó có nhu cầu cấp thiết là được bày tỏ và
chia sẻ: Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại, Mảnh tình san sẻ tí con con!
Ngày tháng cứ tuần tự trôi qua. Xuân đi xuân lại lại theo nhịp tuần hoàn của đất
trời, nhưng trước đôi mắt đầy tâm trạng của nữ sĩ thì nó lại như một sự cố tình trêu ngươi,
vì mùa xuân của đời người chỉ có qua đi mà không bao giờ trở lại. Vậy thì có đáng buồn,
đáng chán hay không? Ngẫm đến mình thì tuổi xuân trôi qua đã lâu, tình thì chỉ còn một
mảnh. Cụ thể hoá tình yêu đến như thế thì quả là nữ sĩ không chỉ chán chường mà còn
ngao ngán đến cực độ. Tuy nhiên vẫn chưa phải là tuyệt vọng. Dẫu tình yêu, tình đời chĩ
còn một mảnh tí con con nhưng nữ sĩ vẫn muốn ,tiếp tục đem san sẻ với mong ước chân
thành là để cho nhân tình thế thái đỡ xanh như lá, bạc như vôi
. Đọc kĩ câu thơ, ta nghe như nỗi hờn giận, đau xót thấm đến tận chân tơ kẽ tóc,
đến từng tế bào nhưng nữ sĩ vẫn không nguôi hi vọng. Bài thơ Kể nỗi lòng in đậm dấu ấn
cá tính và phong cách thơ Xuân Hương. Đúng là bài thơ trĩu nặng một nỗi buồn nhưng
không hể bi lụy. Cốt cách cứng cỏi, tâm hổn nhạy cảm và mạnh mẽ đã giúp nữ sĩ vượt
qua bao bất hạnh của cuộc đời. Bài thơ vừa là tiếng lòng riêng của nữ sĩ, vừa lồ tiếng
lòng chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến thuở ấy- Dù buồn đến đâu thì nữ sĩ
vẫn đắm say, thiết tha với cuộc sống. Đó là điều cốt lõi rất đáng trân trọng của Hồ Xuân
Hương – “Bà chúa thơ Nôm”.