Phân tích đoạn thơ trong bài thơ Việt
Bắc của Tố Hữu
“Nhớ khi giặc đánh giặc lùng
…………………………………..
Nhớ từ Cao – Lạng nhớ sang Nhị Hà”
Bài làm.
Tố Hữu một trong những cờ đầu của nền văn học cách mạng Việt Nam .
Con đường thơ của Tố Hữu gắn phản ánh chân thật những chặn đường cách
mạng đầy gian khổ hy sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân tộc, đồng
thời cũng những chặng đường vận động quan điểm tưởng bản lĩnh nghệ thuật
của chính nhà thơ. Tố Hữu nhiều tập thơ lớn với nhiều bài thơ giá trị. Bài Việt
Bắc trong tập thơ cùng tên một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu, của thơ
ca Việt Nam . Bài thơ có giá trị sâu sắc về nội dung và nghệ thuật mà tiêu biểu là đoạn
thơ sau :
Từ câu “Nhớ khi giặc đánh giặc lùng
Đến câu Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà”
Sau khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940, Việt bắc trở thành căn cứ địa cách mạng
đến năm 1945, năm 1946, thực n Pháp tái chiếm nước ta, Nội rơi vào tay giặc,
Việt Bắc tiếp tục trở thành căn cứ địa cách mạng của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Năm 1945, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, hiệp định Giơ-ne-
về Đông Dương được kết (tháng 7-1954), hòa bình trở lại, miền Bắc ớc ta được
giải phóng bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Một trang sử mới được
mở ra. Tháng 10 1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền
xuôi, Trung ương của Đảng Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc vlại Thủ đo. Nhân
sự kiện thời sự mang tính lịch sử đó. Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”.
Bài thơ “Việt Bắc” hai phần lớn: phần đầu tái hiện những kỉ niệm cách
mạng kháng chiến, phần sau gợi ra viễn cảnh tươi sáng của đất nước ngợi ca
công ơn của Đảng và Bác Hồ với dân tộc. Bài thơ có kết cấu đối đáp, hai nhân vật chữ
tình “mình – ta”: kẻ đi người ở bộc lộ tâm trạng trong buổi chia tay
đầy lưu luyến, xúc động. Chuyện tình nghĩa cách mạng được tác giả khéo kéo
thể hiện như chuyên tình yêu đôi lứa, nhà thơ đã háo thân vào hai nhân vật trữ tình để
bộc lộ m tư, tình cảm của mình, cũng của những người tham gia kháng
chiến. Đoạn thơ là đoạn năm trong đoạn trích Việt Bắc.
Trong nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi hiện về những ngày tháng gian khổ
kháng chiến, cùng với thiên nhiên Việt Bắc cảnh vật i đây đã tạo ra một trận địa
phức tạp. Đồng thời thể hiện niềm tự hào thầm kín của nhà thơ với chiến khu Việt Bắc
với cuộc kháng chiến hào hùng.
“Nhớ khi giặc đánh giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt giày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.”
Trong những ngày đầu kháng chiến gian khỏ của giai đoạn cầm cự, phòng ngự,
bộ đội phải dựa vào dân, dựa vào núi rừng Việt Bắc hiểm trở để đánh địch. Trước giờ
khắc quyết định của lịch sử, không chỉ nhân dân cả núi rừng cùng đều vùng lên,
chung sức đánh Tây. Với cuộc kháng chiến đầy gian lao của quân và dân Việt Bắc,
núi rừng cũng trở nên chí, tình người, đã trở thành những người bạn, những
người đồng đội, những chiến sĩ anh hùng của toàn quân.
Chỉ với bốn câu thơ, chữ “rừng” “núi” được lặp đi lặp lại đến năm lần,
rải kín câu thơ, rải kín đất Việt Bắc tạo lên thế hiểm của trường thành của lũy thép vây
bọc quân thù. Nhớ về lúc kháng chiến, khi giặc đánh giặc lùng, cũng khi quân ta
đang khó khăn xoay sở tình thế, ta biết địch mạnh hơn ta rất nhiều, nhưng trên trận địa
quen thuộc nói thua địch cũng không phải dễ. Rừng cây i đá ta ngđánh
Tây, bằng phép nhân hóa, rừng bạt ngàn cây, với núi bao la đá để rồi trên dưới một
lòng cùng con người đánh đuổi quân xâm lược. Đồng thời thể hiện tình cảm giữa con
người kháng chiến và thiên nhiên núi rừng Việt Bắc rất tha thiết, bao la.
cặp lục bát thhai ta sẽ thấy hơn công việc của thiên nhiên núi rừng Việt
Bắc. Núi thì giăng thành lũy, rừng thì đảm nhận hai công việc. Như một người mẹ che
chở cho con mình, rừng bao bọc cho bộ đội trước mặt kẻ thù cướp nước. Rừng trở nên
kiên quyết đến dữ dằn ng với việc vây quân thù để tiêu diệt, cái trùng trùng điệp
điệp của rừng, cái khí thế hiên nagng kiêu ng của những vách núi đã làm cho biết