Phân tích "Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo

Nhiên chi Quảng Lăng" - Bài 2

1. Thể loại

Đời Đường (618  907), được coi là thời đại hoàng kim của thơ ca cổ điển

Trung Quốc. Là đỉnh cao rực rỡ của văn học Trung Hoa, thơ Đường không chỉ rộng

rãi về đề tài, phong phú về số lượng mà còn đạt đến trình độ nghệ thuật rất cao, hình

tượng thơ hàm súc, ngôn ngữ thơ tinh tế và hình thức biến hoá rất linh hoạt. Thành tựu

của thơ Đường có sự góp mặt của những đỉnh cao như Lí Bạch (701 762), Đỗ Phủ

(712 770), Vương Duy (701 761), Bạch Cư Dị (772 846), Thôi Hiệu (704

754)...

2. Tác giả

Lí Bạch, tự Thái Bạch, nguyên quán ở tỉnh Cam Túc, lớn lên ở đất Tứ Xuyên,

là người ham đọc sách, ham đấu kiếm, văn võ toàn tài, có nhiều ước mơ hoài bão,

mong có dịp mang tài của mình ra giúp đời. Song cuộc đời của nhà thơ này cũng gặp

nhiều chuyện thất vọng. Vì thế, thơ Lí Bạch khi hăm hở thực hiện hoài bão, khi lại

chùng xuống với những suy tư đầy nỗi niềm của một người khát vọng lớn mà không

có đất thực hiện.

Lí Bạch là một trong những đỉnh cao của thơ ca Trung Quốc. Thơ của ông đã

thể hiện hai phương diện cơ bản trong con người "Thi tiên" Lí Bạch, đó là một nhà thơ

có tài năng nghệ thuật đặc biệt và một con người có tấm lòng nghĩa tình cao cả đối với

thiên nhiên và con người. Sự nghiệp sáng tác đồ sộ và giàu giá trị nhân văn của ông đã

đưa ông trở thành nhà thơ có ảnh hưởng lớn tới thi đàn đời Đường và Trung Quốc.

Thơ thơ ca Lí Bạch có phần lãng mạn tiêu cực song căn bản ông vẫn là nhà thơ lãng

mạn tích cực. Thành công của ông thuộc về những thi phẩm thể hiện tình cảm của ông

đối với nhân dân, với quê hương đất nước, với bạn bè. Tài năng nghệ thuật của ông là

một tấm gương, một ước mơ cho muôn đời sau. Nỗi sầu nhân thế trong thơ ca Lí Bạch

thể hiện một tấm lòng tha thiết tình đời, một tư tưởng nhân văn cao đẹp trong tâm hồn

của nhà thơ đa tài  "Thi tiên" Lí Bạch. Thơ ca của Lí Bạch không chỉ giúp con người

thanh lọc tâm hồn mà còn có khả năng nâng cao năng lực nghệ thuật cho người đọc.

Những bài Đường thi vốn chặt chẽ và nghiêm ngặt về niêm luật trở nên uyển chuyển

và mềm mại dưới bàn tay điêu luyện của người nghệ nhân có tâm hồn phóng khoáng

này.

3. Tác phẩm

Bài Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng là bài thơ nổi tiếng

của Lí Bạch. Bài thơ khai thác đề tài tình bạn, là cảm xúc về một cuộc chia tay trong

cảm nhận của người ở lại. Lấy cảm hứng từ cuộc chia tay với Mạnh Hạo Nhiên – một

tri âm tri kỉ, nhà thơ đã thể hiện nỗi niềm day dứt của mình về cuộc đời. Ngôn ngữ,

hình ảnh thơ độc đáo, đa nghĩa và có khả năng gợi cảm như "yên hoa", "cố nhân", "cô

phàm", "thiên tế lưu"...

4. Đọc hiểu

"Sầu nhân thế" là một trạng thái tâm lí thường thấy ở người nghệ sĩ thời phong

kiến. Đó luôn là đề tài được thể hiện nhiều nhất trong lịch sử thơ ca và đã làm nên rất

nhiều những đỉnh cao cho nền văn học nhân loại. Nỗi sầu không thể giải toả ấy đã

được thể hiện trong một câu thơ bất tử của một nhà thơ đời Đường, ấy là "Thi tiên" Lí

Bạch, niềm tự hào của thơ ca cổ điển Trung Hoa :

Cất chén tiêu sầu, sầu cứ sầu

Rút dao chặt nước, nước vẫn chảy

(Trên lầu Tạ Liễu ở Dương Châu tiễn chú Vân làm Hiệu thư)

Lí Bạch tự là Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, nguyên quán ở Thành Kỉ,

Lũng Tây, sinh trưởng ở Thanh Liên, huyện Chương Minh thuộc Miên Châu. Quê

hương Lí Bạch vốn là nơi có phong cảnh hùng vĩ, sơn thuỷ hữu tình nổi tiếng ở Trung

Quốc. Nơi đây tụ họp nhiều anh hùng hảo hán, cũng là nơi sản sinh ra những truyện

truyền kì hấp dẫn. Những nhân tố này đã ảnh hưởng nhiều đến hồn thơ phóng khoáng

và ý chí kiên cường của nhà thơ, là một trong những nguyên nhân đưa Lí Bạch trở

thành nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của văn học Trung Hoa.

Cuộc đời Lí Bạch là cuộc đời của một con người đã "đọc nát vạn quyển sách,

đi hết vạn dặm đường". Lí Bạch sáng tác rất nhiều, có tới trên 1000 bài thơ và nhiều

bài nổi tiếng. Thơ Lí Bạch là sự kết hợp của một tâm hồn thơ bay bổng và một tấm

lòng luôn tha thiết tình đời. Mỗi bài thơ của ông là một tâm sự của một người luôn tha

thiết được thực hiện chí quân tử, đồng thời cũng là niềm say mê cảnh đẹp của giang

sơn gấm vóc. Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng là một bài thơ

thành công và thể hiện khá tập trung những nét tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật

thơ Lí Bạch. Bài thơ khai thác đề tài tình bạn, đề tài chia li giữa những người tri âm tri

kỉ  một đề tài rất quen thuộc trong thơ ca cổ kim. Với một đề tài quen thuộc nhưng

tài năng của Lí Bạch đã tạo nên một biểu tượng đẹp về tình bằng hữu. Mạnh Hạo

Nhiên là bạn tri âm của Lí Bạch, trong bài thơ tặng Mạnh Hạo Nhiên, Lí Bạch viết :

Ta yêu Mạnh Hạo Nhiên

Phong lưu thiên hạ biết

Mạnh Hạo Nhiên (689 740) là một nhà thơ có tiếng đời Đường. Dù chênh

nhau 12 tuổi nhưng giữa hai nhà thơ có nhiều điểm tương đồng, đều gặp nhiều trắc trở

trong cuộc đời, tính tình hào hiệp, coi thường công danh, thích ngao du sơn thuỷ.

Mạnh Hạo Nhiên theo lời triệu của triều đình, đi Dương Châu làm quan, chấm dứt

những ngày bạn bè bên nhau, chén tạc chén thù. Bài thơ không có hình ảnh cuộc chia

tay, chỉ có tâm sự của người đưa tiễn. Lầu Hoàng Hạc là một địa danh, di tích văn hoá

nổi tiếng của Trung Quốc, lại là địa điểm của một cuộc chia li đầy tâm sự. Vì vậy, bài

thơ như một bức tranh sơn thuỷ đẹp và gợi cảm. Ngôn ngữ thơ Đường vốn không

phong phú nhưng lại rất hàm súc. Các nhà thơ cổ điển rất chú ý đến việc lựa chọn, gọt

giũa và trau chuốt ngôn từ. Hình ảnh thơ cũng thường mang tính khái quát cao với

những ẩn dụ tượng trưng có giá trị hàm súc. Nghệ thuật tinh xảo của ngôn ngữ và

niêm luật tạo nên khả năng "ngôn hữu hạn ý vô cùng" cho bài thơ Đường. Niêm luật

chặt chẽ và những quy tắc đối xứng tạo cho bài thơ vẻ đẹp cổ điển. Đặc biệt tính chất

"thi trung hữu hoạ" và "thi trung hữu nhạc" được thể hiện rất triệt để trong thơ Đường.

Có thể thấy bài thơ được sáng tác vào giai đoạn Lí Bạch đã gặp một số trắc trở

trên con đường thực hiện lí tưởng giúp nước của mình. Lí Bạch từng được giới thiệu

vào triều đình của Đường Minh Hoàng nhưng ông đã rất thất vọng và tìm quên trong

vò rượu. Tính tình phóng khoáng của Lí Bạch không hợp với cuộc sống chen chúc và

đầy phức tạp chốn quan trường. Mạnh Hạo Nhiên là nhà thơ Đường thuộc trường phái

thơ "sơn thuỷ điền viên", là một người phóng khoáng, hợp với cuộc sống thanh nhàn

nơi làng quê nhưng ông lại đến Dương Châu làm quan. Và vì thế Lí Bạch tiễn đưa bạn

trong một tâm trạng đầy trắc ẩn, vừa cô đơn vừa lo lắng. Bài thơ tứ tuyệt cổ điển hai

mươi tám chữ nhưng cô đọng cả một niềm day dứt lớn. Bài thơ có lối mở đầu quen

thuộc của Đường thi, câu đề từ giới thiệu tình huống :

Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu

(Bạn từ lầu Hạc lên đường)

Câu thơ dịch đã làm mất khả năng hàm súc của ngôn từ. Những từ "cố nhân",

"tây từ" truyền tải nghĩa rộng hơn nhiều so với từ "bạn" và ý nghĩa chỉ địa điểm cuộc

chia tay. Hơn nữa, việc sử dụng nhiều thanh bằng và gieo vần bằng của nguyên tác đã

gợi một dư âm cho câu thơ thể hiện trạng thái bịn rịn của cuộc li biệt. Cố nhân xuôi

Dương Châu là đi về hướng đông. "Tây từ" là hướng về phía tây (về phía lầu Hoàng

Hạc khi đã lên thuyền xuôi hướng Dương Châu), gợi hình ảnh người ra đi đang hướng

về lầu Hoàng Hạc. Đây thực ra là hình ảnh người ra đi trong cảm nhận của người ở

lại. Hình tượng, thời gian và không gian nghệ thuật của bài thơ đều được tái hiện qua

cảm nhận của người ở lại. Câu thơ thứ nhất là hoàn cảnh, địa điểm của cuộc chia tay,

đều rất cụ thể. Câu thơ thứ hai lại mở ra không gian cuộc chia tay  một không gian

đầy chất thơ. Vừa là không gian thực của cuộc chia tay, vừa là không gian nghệ thuật :

Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu

(Giữa mùa hoa khói, Châu Dương xuôi dòng)

Bốn chữ "yên hoa tam nguyệt" được dùng để chỉ thời gian, với ý nghĩa là tháng

ba, vào mùa xuân. Đây là một buổi sáng mùa xuân, khi hơi nước quyện với sương mù

tháng ba đã tạo nên hình ảnh "hoa khói". Đây là thời gian và không gian cuộc chia tay

song cũng là những biểu tượng nghệ thuật có sức gợi rất lớn. "Yên hoa" là "hoa và

khói", thường chỉ khói sóng trên sông, khói sương mù. Vào mùa xuân ở Trung Quốc,

đây là hình ảnh thiên nhiên không mấy xa lạ và nó đã đi vào thơ như một hình tượng

nghệ thuật đầy gợi cảm, làm thức dậy bao nỗi niềm tâm sự của thi nhân như nhà thơ

Thôi Hiệu đã thổ lộ : "Yên ba giang thượng sử nhân sầu". "Yên hoa" còn có nghĩa là

cảnh đẹp mùa xuân. Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên là hai người bạn tri âm, tính tình

đều rất phóng khoáng, thích ngao du sơn thuỷ. Với hai tâm hồn nghệ sĩ ấy thì lầu

Hoàng Hạc giữa mùa xuân là khung cảnh gợi bao thi hứng, đó là nơi lí tưởng để họ

đàm đạo thi ca và nhân tình thế thái. Đó cũng là những giây phút mà cả hai đều thú vị.

Thế nhưng họ lại phải chia tay nhau. Và đương nhiên mỗi người mang trong mình một

nỗi niềm tâm sự. Câu thơ thứ hai đã hé mở tâm sự của người đưa tiễn. Tâm sự ấy

được bộc lộ rõ hơn ở hai câu thơ cuối :

Cô phàm viễn ảnh bích không tận,

Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.

(Bóng buồm đã khuất bầu không,

Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.)

Đề tài là một cuộc chia li nhưng thực ra bài thơ lại là tâm trạng của người đưa

tiễn, tức là chủ thể trữ tình của bài thơ. Vì vậy thời gian và không gian nghệ thuật của

bài thơ vừa hư vừa thực, nó thiên về thời gian và không gian tâm tưởng. Được viết

theo mạch cảm xúc nên bài thơ có kết cấu hướng tâm. Tâm điểm là hình ảnh người ra

đi. Cuộc đưa tiễn tinh thần này được diễn ra trong một không gian mở và một thời

gian vô định.

Không gian mở ra trước tầm mắt của nhân vật trữ tình, từ lầu Hoàng Hạc

hướng về Dương Châu, nơi người ra đi đang hướng đến. Nhưng chỉ lướt qua hình

tượng "yên hoa" để dừng lại và tạo điểm nhấn ở hình ảnh "cô phàm". Đây là một bài

thơ giàu chất hội hoạ. Bài thơ như một bức tranh xinh xắn, có chiều sâu hun hút và

điểm nhấn của bức tranh hay hình ảnh sắc nét nổi trội nhất của bức tranh là hình ảnh

một cánh buồm lẻ loi giữa màu xanh bất tận của nước Trường Giang và của chân trời.

Cánh buồm nhỏ ấy đã ở rất xa, chỉ còn là viễn ảnh, nó thật nhỏ nhoi và cô độc giữa cái

bát ngát vô tận của màu xanh nối tiếp đến tận chân trời. Câu thơ thứ ba trong bài thơ

tứ tuyệt có vai trò rất quan trọng. Ở câu thơ này, tác giả đã tạo nên một cặp hình ảnh

đối lập, một thủ pháp nghệ thuật rất quen thuộc của thơ ca cổ điển. Đó là sự đối lập

giữa "cô phàm" và "bích không tận". Cái nhỏ nhoi đơn độc của cánh buồm giữa sự

mênh mông của sông nước đã gợi tả hình ảnh của người ra đi. Giữa cảnh sắc nước trời

mùa xuân thơ mộng, người ra đi lại hướng đến một nơi xa xôi đầy những điều bất trắc.

Cô độc là tâm trạng tất yếu của mọi cuộc chia li. Nhất là cuộc chia tay giữa những

người bạn tri âm. Vậy cánh buồm cô đơn ấy là tâm trạng cô đơn của chủ thể trữ tình 

người đưa tiễn. Thả hồn theo bóng người ra đi, người ở lại dõi tầm mắt theo người ra

đi đến khi hình ảnh người ra đi chỉ còn là cánh buồm nhỏ rồi dần mất hút, và trước

mắt chỉ còn duy nhất hình ảnh dòng Trường Giang cuộn chảy :

Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu

(Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời)

Dòng Trường Giang vốn hùng vĩ, dưới cái nhìn của người ở lại càng dữ dội

hơn. Nó trở thành "thiên tế lưu". Bản dịch đã không lột tả được thần thái của hai câu

thơ cuối. Cái chất "thiên tế lưu" của dòng Trường Giang thể hiện được cả sóng trong

lòng người đưa tiễn, đó là một cơn sóng dữ dội. Chứng tỏ cuộc chia tay đã tác động

rất mạnh đến tâm lí người ở lại. Đây là những hình ảnh thơ rất hay xuất hiện trong thơ

Lí Bạch. Là nhà thơ lãng mạn, thích phóng túng, ưa thích tự do nên bên cạnh những

vần thơ phá luật, nhà thơ còn thích dùng những hình ảnh có tính chất dữ dội và giàu

khả năng gợi cảm. Khi miêu tả thác Lư Sơn tác giả đã dùng hình ảnh "Phi lưu trực há

tam thiên xích", còn dòng Trường Giang thì như từ trên trời đổ xuống. Cái dữ dội của

dòng Trường giang dưới con mắt của người đưa tiễn có thể liên tưởng rộng hơn nữa.

Phải chăng Dương Châu phồn hoa đô hội còn có cái gì đó thật dữ dằn đối với người

sắp đến. Cánh buồm của Mạnh Hạo Nhiên đơn độc và vô cùng nhỏ bé trước cái vô

cùng của sông nước Trường Giang và thật yếu ớt mong manh trước cái dữ dội của

dòng sông ấy. Bản chất trong sáng, thẳng ngay và tấm lòng thanh bạch của những

người nghệ sĩ có tâm như Lí Bạch, Mạnh Hạo Nhiên thật không dễ tồn tại yên ổn

trong thế giới quan trường đầy cạm bẫy và mưu mô danh lợi. Đó có phải là nỗi lo lắng

của người ở lại dành cho người ra đi khi biết rằng bạn mình đến một nơi chẳng mấy

bình yên ? Sinh thời Lí Bạch là người thích ngao du sơn thuỷ song cũng luôn da diết

một khát vọng giúp nước. Là người quân tử, cả Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên đều đã

muốn mang tài năng của mình ra giúp nước. Nhưng sau nhiều phen thất vọng vì

không thực hiện được hoài bão chính trị, những khát khao ấy đã trở thành nỗi đau đời

trong ông. Có thể bài thơ được sáng tác khi Lí Bạch đã vấp phải những thất bại trên

đường đi tìm minh quân để phát huy tài năng, giúp ích thiên hạ. Vì vậy khi Mạnh Hạo

Nhiên quyết định đến Quảng Lăng để làm quan, nỗi háo hức được phò vua giúp nước

trong Lí Bạch đã phần nào bớt sôi nổi. Và thay vào đó là tâm trạng hồ nghi. Và, chính

vì lẽ đó mà bên cạnh nỗi cô đơn của cả người đi và người ở lại còn là một nỗi băn

khoăn day dứt. Về nội dung, bài thơ có khả năng gợi rất nhiều liên tưởng. Nhưng bao

trùm lên tất cả là tâm trạng rất bộn bề của người đưa tiễn. Sức khái quát và khả năng

gợi tả của bài thơ được làm nên bởi những hình thức nghệ thuật độc đáo. Bài thơ nhỏ

nhắn xinh xắn như một bức tranh sơn thuỷ mà màu sắc và đường nét đều rất sắc sảo.

Với hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh và đậm chất hội hoạ, bài thơ đã chứng tỏ tài

năng nghệ thuật của thi tiên Lí Bạch. Và cuộc chia tay tinh thần đầy lưu luyến diễn ra

trong tâm tưởng người ở lại đã chứng tỏ tình bạn thắm thiết giữa hai thi nhân tài năng

đời Đường.