Lịch sử thế giới hiện đại

Đề tài

Phong trào độc lập dân tộc ở Ấn Độ

trong những năm 1919-1945

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

1

Lịch sử thế giới hiện đại

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................ 4

I. Quá trình xâm lược và thống trị của thực dân Anh đối với Ấn

Độ ............................................................................................................. 5

1. Quá trình thực dân Anh xâm lược Ấn Độ ............................................. 5

2. Chính sách cai trị của thực dân Anh đối với Ấn Độ .............................. 8

a) Chính sách về chính trị ..................................................................... 9

b) Chính sách về quân sự .................................................................... 10

c) Chính sách về kinh tế ..................................................................... 10

d) Chính sách về văn hóa-xã hội ......................................................... 12

II. Chính sách cai trị của thực dân Anh trong Chiến tranh thế

giới thứ nhất và tác động của những chính sách đó đến Ấn Độ .. 14

III. Đảng Quốc Đại và đường lối đấu tranh của M.Gandhi trong

phong trào giải phóng dân tộc ở Ấn Độ nửa đầu thế kỉ XX ........ 18

1. Đảng Quốc Đại và một vài nét về tiểu sử M.Gandhi ........................... 18

2. Đường lối đấu tranh của M.Gandhi trong phong trào giải phóng dân tộc

ở Ấn Độ nửa đầu thế kỉ XX .................................................................... 19

a) Bất bạo động và Ahimsa (tính bất hại) ........................................... 20

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

2

Lịch sử thế giới hiện đại

b) Satya (Đạo/Chân lí) ........................................................................ 21

c) Satyagraha (Sức mạnh chân lí) ....................................................... 21

IV. Phong trào độc lập dân tộc ở Ấn Độ trong những năm 1919-

1945 .................................................................................................. 27

1. Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ trong những năm 1919-1922

................................................................................................................ 27

2. Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ từ năm 1923-1928 ............ 31

* Sự ra đời của các Đảng công nông và sự phát triển của phong

trào công nhân-nông dân Ấn Độ ............................................................. 32

3. Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ trong những năm 1929-1939

................................................................................................................ 35

a) Hoạt động đấu tranh của Gandhi và Đảng Quốc Đại ...................... 35

b) Hoạt động đấu tranh của Đảng Cộng Sản và công nhân Ấn Độ ..... 38

4. Ấn Độ trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) ..... 40

KẾT LUẬN ...................................................................................... 43

PHỤ LỤC ......................................................................................... 47

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 55

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 3-SP SỬ 2B_K37 ................ 56

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

3

Lịch sử thế giới hiện đại

MỞ ĐẦU

Thuộc địa là nhu cầu không thể thiếu của các nước thực dân phương Tây trong quá

trình phát triển của mình. Chính vì vậy, từ rất sớm các nước lạc hậu ở Á, Phi, Mĩ latinh

đã trở thành miếng mồi cho thực dân phương Tây nhòm ngó. Bằng nhiều con đường và

phương thức khác nhau mà các nước phương Tây đã lần lượt chinh phục và biến các nước

Á, Phi, Mĩ Latinh thành nơi cung cấp nguyên liệu, nhân công, và là thị trường tiêu thụ rộng

lớn của mình. Ấn Độ ở Châu Á cũng vậy, là một quốc gia phong kiến lạc hậu, rộng lớn, tài

nguyên thiên nhiên phong phú đã trở thành miếng mồi của chủ nghĩa thực dânTây BanNha,

Bồ Đào Nha , Pháp…và cuối cùng là Anh. Dưới ách thống trị thực dân, các tầng lớp nhân

dân Ấn Độ không ngừng nổi dậy đấu tranh. Nhiều cuộc khởi nghĩa khắp nơi đã nổ ra chống

lại thực dân Anh, đồng thời tấn công vào bọn phong kiến.

Năm 1917, Cách mạng Xã hội chủ nghĩa tháng Mười ở Nga thắng lợi, cuộc Chiến

tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã mở ra một thời kì phát triển mới trong phong trào giải

phóng dân tộc ở các nước thuộc đại và nửa thuộc địa. Tiếng vang của Cách mạng tháng

Mười Nga đã vượt qua biên giới của nó, tác động mạnh mẽ đến hầu khắp các quốc gia–dân

tộc trên hành tinh. Trong đêm dài đen tối đầy bất công của các chế độ phong kiến, tư bản

thực dân, nhất là qua những năm tháng khủng khiếp của Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhân

dân ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, những người phải chịu đựng nhiều tai họa nhất

của chiến tranh đã tìm thấy ở Cách mạng tháng Mười những niềm hi vọng to lớn đối với

mình, thúc đẩy họ vùng dậy đấu tranh giành quyền sống, giành độc lập dân tộc, Ấn Độ

cũng không ngoại lệ. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào đấu tranh chống thực

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

4

dân Anh dâng cao mạnh mẽ ở Ấn Độ.

Lịch sử thế giới hiện đại I. Quá trình xâm lược và thống trị của thực dân Anh đối với Ấn Độ

Trước khi Chủ nghĩa tư bản phương Tây xâm lược, Ấn Độ đang trong thời kì suy

tàn của Đế quốc đại Môgôn. Chế độ phong kiến vẫn giữ địa vị thống trị trong xã hội, ruộng

đất thuộc sở hữu quốc gia phong kiến. Đây cũng là thời kì công xã nông thôn Ấn Độ xuất

hiện những mầm mốnga sự tan rã. Là quốc gia đa dân tộc, tôn giáo cho nên mâu thuẫn dân

tộc, tôn giáoluôn là vấn đề nóng của Ấn Độ. Những cuộc chiến tranh liên miên giữa các tập

đoàn phong kiến càng khơi sâu sự chia rẽ dân tộc và làm suy yếu đất nước cộng với

những tập tục lạc hậu, lễ nghi phức tạp đã làm cản trở sự thống nhất Ấn Độ. Dưới thời kì

suy tàn của triều đại Môgôn, phong trào đấu tranh của Nhân dân chống lại chế độ phong

kiến cùng với sự xâm lược từ bên ngoài đã đánh dấu giai đoạn mạt kì của chế độ phong

kiến Ấn Độ. Chính trong bối cảnh đó thực dân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã đặt chân

lên Ấn Độ và từng bước tiến hành cuộc chiến tranh ăn cướp trên bán đảo Ấn Độ.

1. Quá trình thực dân Anh xâm lược Ấn Độ

Từ thế kỉ XVI, thực dân phương Tây đã dòm ngó và từng bước xâm nhập vào thị

trường phương Đông, đặc biệt là Ấn Độ. Sau khi mở con đường biển đến Ấn Độ, Bồ Đào

Nha chiếm một số căn cứ quan trọng ở phía Tây Nam. Trong đó, Goa là vị trí quan trọng

nhất. Đến nửa sau thế kỉ XVII, Hà Lan đánh bại ưu thế buôn bán của Bồ Đào Nha và cướp

được một số vùng trừ Goa, Điu và Đaman ở bờ biển phía tây.

Bằng sức mạnh quân sự, thực dân Anh buộc chính quyền Môgôn trao quyền thiết

lập một đại lí tạm thời ở Xu rát, sau chuyển về Bombay. Đến giữa thế kỉ XVII, lập thêm

căn cứ Mađrát, Cancutta... Thực dân Pháp xuất hiện vào những năm cuối thế kỉ XVII với

các đại lí ở Săngđecnago, Pôngđisêri... Đan Mạch, Thụy Điển, Áo và nhiều nước khác

cũng đặt chân lên mảnh đất phì nhiêu này. Các nước châu Âu đều thực hiện âm mưu xâm

lược thông qua hoạt động của các công ty Đông Ấn-một tổ chức nắm độc quyền của mỗi

nước trong việc buôn bán với phương Đông.

Đến giữa thế kỉ thứ XVII, hoạt động của các công ty được đẩy mạnh, Pháp chiếm

được một số ưu thế nhất định ở Ấn Độ: thành lập những đội quân đánh thuê người Ấn

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

5

(Xipay), đưa quân đi chiếm đóng một số nơi và được bọn phong kiến giúp đỡ, giành được

Lịch sử thế giới hiện đại hai vương quốc rộng lớn đó là Haiđerabát và Cacnatich. Điều đó làm cho Anh lo sợ và cố

giành quyền bá chủ. Do những cuộc chiến tranh ở châu đã gây ra cuộc chiến giữa Anh và

Pháp diễn ra ở Ấn Độ (1746-1763). Kết quả, Pháp thất bại chỉ giữ được vùng Pôngđisêr và

4 thành phố ở vùng ven biển. Tuy nhiên Anh cũng chưa chiếm được nhiều đất đai lắm.

Sau khi chiếm được ưu thế so với các nước phương Tây khác ở Ấn Độ, thực dân Anh tăng

cường bành trướng đất đai. Từ Mađrat chúng biến vương quốc Cacnatich thành thuộc quốc.

Chúng tăng cường hoạt động ở vùng Bengan, nơi đã đặt được 150 kho hàng và 15 đại lí

lớn. Nhưng ở đây chúng gặp phải sự kháng cự quyết liệt của dân chúng Bengan do nhà vua

trẻ tuổi Xirat Ut Đôilê đứng đầu. Nghĩa quân đã chiếm được Cancutta, buộc bọn thực dân

Anh phải bỏ chạy. Sau đó, Anh điều quân về đàn áp.

Trận Plêxi năm 1757 diễn ra rất ác liệt, bảy vạn quân Bengan chiến đấu ngoan

cường bị thất bại. Xirat Ut Đôilê bị bắt và hành hình. Quân Anh tàn phá Bengan, cướp đoạt

nhiều tiền bạc, đốt cháy nhà cửa của nhân dân. Sự đàn áp dã man đã gây nên sự căm phẫn

trong nhân dân. Nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra ở nhiều thành phố thuộc Bengan được sự

ủng hộ của vương quốc láng giềng Aođơ và đội quân Apganixtan từ Đêli tới. Nhưng lực

lượng nghĩa quân bị thất bại. Công ty Đông Ấn của anh giành được quyền thu thuế, đóng

quân, lập tòa án và thiết lập bộ máy cai trị trên mảnh đất rộng lớn nhất của Ấn Độ. Vương

quốc Aođơ cũng bị lệ thuộc vào Ấn Độ.

Ở phía Nam, vương quốc Haiđerabat khá rộng lớn bị Anh chinh phục.

Ở phía Tây, bọn thực dân từ Bombay định bành trướng ra vùng xung quanh. Thấy rõ nguy

cơ mất nước, nhà vua Haiđa Ali của vương quốc Maixuya tập hợp lực lượng kháng chiến.

Sau khi Haiđa Ali chết, con trai Tipu lên ngôi vẫn tiếp tục kháng chiến, kêu gọi sự thống

nhất của các vương quốc Ấn Độ và chiến đấu rất ngoan cường. Nhưng thực dân Anh xảo

quyệt lôi kéo các vương quốc xung quanh, cô lập Maixuya, tiến hành áp bức buộc Tipu

phải kí hòa ước năm 1792 cắt một nửa lãnh thổ cho công ty Đông Ấn. Đến năm 1796,

chúng nổ súng tấn công vào phần đất còn lại của Maixuya và chinh phục hoàn toàn vương

quốc này, Tipu bị tử trận.

Như vậy, đến cuối thế kỉ XVIII, những vùng đất giàu có nhất của Ấn Độ như

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

6

Bengan, các nước xung quanh và toàn bộ miền Nam rơi vào tay thực dân Anh.

Lịch sử thế giới hiện đại Song song với quá trình xâm lược, thực dân Anh nhanh chóng đặt ách thống trị ở Ấn Độ.

Cơ quan có toàn quyền cai trị ở đây là công ty Đông Ấn. Các chính khách, bọn con buôn

và tập đoàn thống trị ra sức củng cố địa vị trong công ty qua đó để tăng cường bóc lột Ấn

Độ. Năm 1773, Nghị viện Anh thông qua về đạo luật cai trị Ấn Độ, quy định tổng đốc của

công ty ở Cancutta đồng thời giữ chức toàn quyền trên toàn bộ lãnh địa Anh ở Ấn Độ. Viên

toàn quyền cùng với một hội đồng do chính phủ Anh chỉ định nắm quyền hành chính, bên

cạnh có một tòa án tối cao. Đồng thời ở London thiết lập một hội đồng kiểm soát các công

việc của công ty ở Ấn Độ do nhà vua chỉ định bao gồm một số thành viên của nội các.

Tính chất của sự bóc lột trong thời kì này tương ứng với thời kì tích lũy nguyên thủy

của chủ nghĩa tư bản Anh. Cho nên thủ đoạn bóc lột chủ yếu là thu thuế và vơ vét. Việc

buôn bán giữa Anh và Ấn Độ được tiến hành theo một tỉ lệ thu thuế chênh lệch khá nghiêm

trọng: hàng từ Ấn Độ sang Anh đánh thuế gấp 10 lần hàng từ Anh sang Ấn Độ. Hậu quả tất

nhiên của sự cướp bóc đó là tình trạng ngày càng khổ của nhân dân Ấn Độ. Nạn đói xảy ra

liên tiếp, riêng năm 1770 đã có tới 10 triệu người chết đói.

Ở Ấn Độ, thế kỉ XIX được bắt đầu bằng việc mở rộng chiến tranh xâm lược của

thực dân Anh và những cuộc đấu tranh chống xâm lược của nhân dân. Năm 1806, các trung

đoàn Xipay nổi dậy ở Benlua. Năm 1816, binh lính Ấn khởi nghĩa ở Bombay. Đông đảo

quần chúng nông dân đứng lên chống Anh ở khắp nơi. Xe6it Acmet Barenvi (1786-1831)

đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của những người theo đạo Hồi, lập căn cứ biên giới phía tây

bắc. Cấp tiến hơn là phong trào của Đađu Mian ở Bengan vừa chống thực dân Anh vừa

chống bọn quý tộc phong kiến. Nhưng do tính chất phân tán, thiếu tổ chức và sự hạn chế về

thành kiến về tôn giáo nên phong trào bị thất bại.

Để hoàn thành mưu đồ xâm lược, thực dân Anh chĩa mũi nhọn chủ yếu vào các

vương quốc của người Marat ở miền Trung Ấn Độ. Ngay từ đầu, nhân dân Marat đã đứng

lên đấu tranh chống xâm lược một cách kiên quyết. Nhưng tình trạng cát cứ phong kiến,

chiến tranh liên tiếp giữa các vương quốc, sự thiếu năng lực lãnh đạo và mâu thuẫn gay gắt

trong các tập đoàn phong kiến tạo nên thời cơ thuận lợi cho thực dân Anh. Cuộc chiến

tranh năm 1803-1805 đem lại cho Anh thêm những phần đất ở miền Trung và ngay thủ đô

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

7

Đeli cũng bị thất thủ. Đến năm 1817, vương quốc Marat hoàn toàn bị chinh phục. Từ đó

Lịch sử thế giới hiện đại thực dân Anh tiếp tục bành trướng ra xung quanh và bán đảo Ấn Độ chỉ còn lại một quốc

gia độc lập là Penjap.

Đầu thế kỉ XIX, do nhu cầu phát triển kinh tế và tăng cường sức mạnh chống ngoại

xâm, khuynh hướng xây dựng một quốc gia tập quyền thể hiện rõ ở Penjap. Ranjit Xinh là

người hoàn thành nhiệm vụ đó với một chính quyền mạnh mẽ, một quốc gia thống nhất,

một đội quân hùng mạnh được nhân dân ủng hộ. Tuy nhiên trong quá trình phát triển quyền

lực và mở mang bờ cõi, Penhap không tránh khỏi mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân và bọn

phong kiến ngày càng gay gắt, mâu thuẫn dân tộc giữa người Xích với các dân tộc bị chinh

phục như người Casomi, người Patan... và mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp thống trị.

Sau khi Ranjit Xinh chết (1839), cuộc tranh chấp giữa các thế lực phong kiến bùng

nổ. Quân đội Penjap đã nhanh chóng chặn đứng những âm mưu phản động. Năm 1841 họ

nổi dậy giết bọn sĩ quan phản động, thành lập những ủy ban do họ cử ra gồm 5 người gọi là

“pantraiat”. Pantraiat ỏ thủ đô Laho đã giành quyền kiểm soát những hành động cùa chính

phủ.

Bọn phong kiến Penjap lo sợ trước sức mạnh của quần chúng nhân dân và hoạt động

của pantraiat đã cấu kết với thực dân Anh là kẻ đang muốn thôn tính vùng đất cuối cùng

của Ấn Độ. Cuối năm 1845, quân đội và nhân dân Penjap chiến đấu dũng cảm chống bọn

thực dân Anh. Nhưng do sự phản bội của bọn phong kiến, trong đó bọn sĩ quan cao cấp đã

trao cho địch kế hoạch quân sự nên nghĩa quân bị thất bại. Penjap trở thành thuộc quốc của

Anh. Năm 1848, nhân dân Penjap kiên cường chống lại Anh, giành được thắng lợi ban đầu,

nhưng sau đó bị thất bại.

Đến năm 1849, thực dân Anh đã hoàn thành việc xâm chiếm toàn bộ lãnh thổ Ấn

Độ.

2. Chính sách cai trị của thực dân Anh đối với Ấn Độ

Với tầm quan trọng của thuộc địa Ấn Độ nên thực dân Anh đã thực hiện chính sách

cai trị một cách toàn diện và hệ thống về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội…Mục đích

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

8

cao nhất của những chính sách của Anh là để bóc lột được nhiều nhất nước này.

Lịch sử thế giới hiện đại

a) Chính sách về chính trị

Sau khi đàn áp các cuộc khởi nghĩa trong giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX, thực dân

Anh thi hành một số biện pháp củng cố và tăng cường ách thống trị của chúng. Thời kì đầu

Anh dùng công ti Đông Ấn thay mặt Chính phủ Anh toàn quyền cai trị và bóc lột Ấn Độ.

Công ti Đông Ấn là một thứ “nhà nước trá hình trong một hội buôn”. Năm 1773, Quốc hội

Anh đã bổ nhiệm một viên toàn quyền người Anh trông coi Ấn Độ và từ những năm 30 của

thế kỉ XIX, Chính phủ Anh đã dần không chế công ti Đông Ấn. Năm 1858, Nghị viện Anh

ra lệnh giải tán hoàn toàn công ty Đông Ấn và đặt Ấn Độ dưới quyền cai trị trực tiếp bởi

chính phủ. Thay mặt chính phủ Anh ở Ấn Độ là một viên Phó vương với một hội động điều

hành gồm 5 ủy viên, có quyền lực như một chính phủ. Quyền lập pháp cũng ở trong tay

Phó vương và một hội đồng cố vấn 12 người.

Để lôi kéo bọn phong kiến, chúng tuyên bố tôn trọng quyền lợi, danh dự, tài sản và

các đặc quyền của bọn phong kiến. Đây là một hành động nhằm hợp pháp hóa chế độ đẳng

cấp và các tàn dư trung cổ lỗi thời, khơi sâu sự cách biệt về chủng tộc và tôn giáo trong xã

hội Ấn Độ. Năm 1877, nữ hoàng Anh Victoria chính thức tuyên bố lên ngôi vua ở Ấn Độ

trong một buổi lễ có đông đảo quý tộc người Ấn tham gia. Nó đánh dấu bước hoàn thành

việc chinh phục Ấn Độ thành thuộc địa của Anh và bộc lộ rõ thái độ quy phục của giai cấp

phong kiến Ấn Độ.

Sự thống trị của người Anh đã biến triều đại phong kiến Môgôn trở thành

bù nhìn và quyền lực thực tế nằm trong tay viên toàn quyền người Anh. Người

Anh đã triệt để lợi dụng sự khác biệt về đẳng cấp, tôn giáo, và các tiểu quốc để thực

hiện chính sách “chia để trị”.

Sau cuộc khởi nghĩa Xipay (1857-1859), chính quyền Anh xoá bỏ hoàn toàn

triều đại phong kiến Môgôn, giải thể công ty Đông Ấn và trực tiếp cai trị Ấn Độ. Thay

mặt chính phủ là một phó vương người Anh với một Hội đồng gồm 5 uỷ viên có

chức năng như một Chính phủ. Ngày 1/1/1874, Nữ hoàng Anh tuyên bố đồng thời là nữ

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

9

hoàng Ấn Độ. Như vậy, Ấn Độ chính thức trở thành một bộ phận trong đế quốc Anh.

Lịch sử thế giới hiện đại

b) Chính sách về quân sự

Với chính sách dùng người bản xứ đánh người bản xứ, thực dân Anh đã chú trọng

xây dựng lực lượng đội quân người Ấn. Từ 1746, Anh đã thành lập đội quân người bản xứ

Ấn độ đầu tiên và được gọi là “Xipay”. Năm1830, đội quân này lên tới 225.000

người. Sau cuộc khởi nghĩa Xipay (1857-1859), để ngăn chặn người Ấn nổi dậy, thực

dân Anh cũng cho tổ chức lại quân đội với thành phần và vai trò của người Anh trong

quân đội được tăng cường với tỉ lệ từ 1/6 lên 1/2 hoặc 1/3, thường cứ 2 đến 8 lính Ấn

c) Chính sách về kinh tế

thì có một lính Anh. Pháo binh và các ngành kĩ thuật trong tay thực dân Anh.

Ngay từ khi đặt chân lên Ấn Độ, công ty Đông Ấn đã tiến hành cướp bóc và của cải

ùn ùn chảy về Anh. “Theo tính toán của các nhà kinh tế Ấn Độ, từ năm 1757 đến 1870,

người Anh đã lấy đi của Ấn Độ một khối lượng tiền, của trị giá 38 triệu bảng Anh” .

Người Anh đã bóc lột Ấn Độ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, công thương

nghiệp…

Trong nông nghiệp, người Anh đã đặt ra nhiều chính sách nhằm bóc lột tối đa. Đặc

biệt là chính sách Daminđa được áp dụng vĩnh viễn từ năm 1793. Với chế độ này, người

thầu có quyền sử dụng đất đai thu thuế cũng như đất đai công xã. Tình hình đó đã dẫn

đến hậu quả thủ tiêu các quan hệ ruộng đất và quyền thừa kế ruộng đất trong các công xã

nông thôn Ấn Độ. Các Daminda trở thành những địa chủ mới với quyền hành phong kiến

trước kia. Trong số thuế thu được thì phải nộp cho Anh đến 9/10 nên để có thêm cho mình

các Daminda phải tăng cường bóc lột nhân dân. Chính sách bóc lột của Anh đã dẫn đến

hậu quả người nông dân Ấn Độ ngày càng điêu đứng. Kết quả của sự bóc lột đó là 26 triệu

người chết đói trong 25 năm cuối của thế kỉ XIX. Đây là những minh chứng tố cáo chế độ

thuộc địa của thực dân Anh.

Trong công thương nghiệp, chính phủ Anh dùng mọi biện pháp để vơ vét bóc lột

nguyên liệu tiền của phục vụ cho nền công nghiệp Anh, biến Ấn Độ thành nơi tiêu thụ

hàng hóa cho công nghiệp Anh. Nguyên liệu như tơ, bông thô, lông cừu ở Ấn Độ nối

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

10

nhau chảy về Anh giúp cho cuộc cách mạng công nghiệp ở nước này, để rồi máy

Lịch sử thế giới hiện đại móc Anh lại biến nó thành vải đưa trở lại Ấn Độ. Ngành dệt vải có tiếng của Ấn Độ

đã bị bóp chết, hàng vạn thợ thủ công bị phá sản.

Ấn Độ dần trở thành một thị trường tiêu thụ quan trọng nhất của nền công nghiệp

Anh. Trong 10 năm từ 1873-1883, thương mại giữa Anh và Ấn Độ tăng 60% trong khi

thương mại giữa Anh, Pháp và Đức chỉ tăng 7%. Ấn Độ phải tăng cường cung cấp lương

thực và nguyên liệu cho Anh. Chỉ trong vòng nửa sau thế kỉ XIX, số lượng lương thực xuất

khẩu tăng lên hơn 10 lần thì số người dân Ấn Độ chết đói tăng lên gần 40 lần.

Tài chính của Ấn Độ cũng hoàn toàn lệ thuộc Anh. Ngân hàng LuânĐôn cho Chính

phủ Anh ở Ấn Độ vay từ 4 triệu bảng lên 133 triệu trong nửa sau thế kỉ XIX. Số tiền đó

thực dân Anh tập trung vào đầu tư ở các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, xí nghiệp chế biến… Năm

1848- 1849, Anh bắt đầu xây dựng hệ thống đường sắt và đường bộ. Xây dựng nhà máy

dệt ở Bom bay, nhà máy đay ở Băng gan, ….Thực chất đây không phải là Anh đầu tư phát

triển công nghiệp Ấn Độ mà mục đích chính là để tạo điều kiện vật chất nhằm

mở rộng khai thác nguồn tài nguyên giàu có của đất nước này.

Cuộc cải cách tài chính năm 1893-1899 với đồng Rupi vàng và việc mở mang hệ

thống ngân hàng Anh làm cho nền tài chính Ấn Độ phụ thuộc hoàn toàn vào Anh. Ấn Độ

còn là thị trường đầu tư của tư bản Anh. Ban đầu, hình thức xuất vốn là cho vay. Từ năm

1856-1900, ngân hàng Lodon cho bọn cầm quyền Anh ở Ấn Độ vay tăng từ 4 triệu lên 133

triệu livrơ để chi phí vào bộ máy hành chính và quân đội, vào những cuộc chiến tranh ăn

cướp vào các nước phương Đông. Toàn bộ món nợ và số lãi đều đè lên vai nhân dân các

nước thuộc địa.

Một phần vốn xuất cảng được dùng vào việc xây dựng đường sắt và các phương tiện

giao thông liên lạc để tạo điều kiện khai thác và vận chuyển nguyên liệu ra bến cảng đưa về

Anh. Những đường tàu kéo dài đến vùng hẻo lánh còn có ý nghĩa quan trọng đối với việc

chuyển quân nhanh chóng, kịp thời đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân. Đến năm

1891, đường sắt Ấn Độ dài 28.000km. Một số xí nghiệp công nghiệp bắt đầu được xây

dựng, chủ yếu là những ngành vải sợi, chế biến nguyên liệu địa phương như đay, bông...

Việc tăng cường xuất cảng nguyên liệu làm cho tính chất hàng hóa nông nghiệp

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

11

thêm đậm nét. Nhiều vùng được chuyên môn hóa sản xuất: Bengan trồng đay, Bombay và

Lịch sử thế giới hiện đại Trung Ấn trồng bông, Atxam trồng chè, Mađrat trồng cây có dầu, Penjap trồng tiểu mạch.

Tính chất hàng hóa nông nghiệp tăng lên trong điều kiện chế độ sở hữu về ruộng đất phong

kiến vẫn được duy trì, bãi chăn nuôi, đất đai và rừng của công xã bị chiếm đoạt, nợ nần

chồng chất buộc người nông dân phải gán mảnh đất cuối cùng của mình và chịu lĩnh canh

với điều kiện nộp tô đến 60% hoa lợi. Tình trạng đó sẽ dẫn tới chỗ sức sản xuất thấp kém,

d) Chính sách về văn hóa-xã hội

đời sống nông thôn khốn quẫn, nạn đói trở thành một điều tất yếu.

Thực hiện nền văn hoá giáo dục ngu dân nhằm phục vụ cho công cuộc cai trị và bóp

chết nền văn hoá dân tộc Ấn Độ. Họ mở một số trường trung học với tiêu chí là “cải cách

giáo dục” nhưng thực chất là để đào tạo đội ngũ tay sai. Chỉ một số ít con em nhà giàu theo

học để phục vụ cho chính quyền Anh còn lại đa số người dân Ấn Độ bị mù chữ. Chính phủ

Anh luôn duy trì sự phân chia đẳng cấp để gây mâu thuẫn giữa các tầng lớp giai cấp ở Ấn

Độ, khuyến khích những tập quán cổ xưa phản động của tôn giáo Ấn Độ và tích cực truyền

bá đạo Thiên Chúa vào Ấn Độ. Tất cả mọi hành vi chống đối lại đạo Thiên Chúa đều bị

đàn áp.

Với chính sách cai trị về văn hoá xã hội như vậy đã dẫn đến hậu quả đưa xã hội Ấn

Độ vào vòng ngu tối và tạo nên một tầng lớp tay sai đắc lực cho chúng để dễ bề cai trị.

Những chính sách khai thác của thực dân Anh cũng đã làm cho xã hội Ấn Độ có

chuyển biến mạnh mẽ. Đó là sự phân hoá giai cấp trong xã hội ngày càng sâu sắc, cơ

cấu giai cấp thay đổi. Trước hết, đó là sự hình thành hai giai cấp cơ bản của xã hội hiện đại,

giai cấp tư sản và vô sản. Tư sản Ấn Độ có nguồn gốc từ các Damindar, người cho vay lãi,

thương gia và các vương công. Mặc dù bị sự chèn ép nhiều mặt của tư bản Anh nhưng về

cơ bản tư sản Ấn Độ đã trưởng thành khá nhanh chóng và vững chắc vào nửa sau thế kỷ

XIX với việc xây dựng được một nền công nghiệp dân tộc và có một vị thế không thể chối

cãi đối với sự phát triển của Ấn Độ (Trong số 35,5 triệu bảng Anh vốn cổ phần vào năm

1898, ít nhất có 10 triệu bảng là thuộc về người Ấn).

Như vậy, cho đến giữa thế kỉ XIX, thực dân Anh đã hoàn thành cuộc xâm lược Ấn

Độ. Sự áp bức, bóc lột nhân dân đè nặng lên nhân dân Ấn Độ. Nền độc lập của Ấn Độ bị

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

12

chà đạp, quyền lợi sống còn của đại bộ phận dân tộc bị đe doạ. Mâu thuẫn cơ bản nổi lên

Lịch sử thế giới hiện đại hàng đầu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Ấn Độ với thực dân Anh xâm lược. Nhiệm vụ

của cả dân tộc Ấn Độ là phải đứng lên đánh đuổi thực dân Anh giành độc lập dân tộc.

Ngay trong buổi đầu của công cuộc chinh phục Ấn Độ thực dân Anh đã phải đón

nhận những đợt giông tố ập tới đó là những cuộc khởi nghĩa chống xâm lược diễn ra sôi

nổi vào các năm 1807 ở Đêli, những năm 1813 và 1831 ở Bắc Xinêcara, 1817 - 1818 ở

Ôritxa, 1825 - 1829 ở Maixo, 1846 - 1847 ở Cacnan, 1844 ở BomBay,.. Tuy nhiên những

cuộc khởi nghĩa này đều mang tính tự phát, thiếu một tổ chức chặt chẽ, thiếu một đường lối

và phương pháp đấu tranh phù hợp, cho nên dù rất quyết liệt song cuối cùng đều thất bại và

bị đàn áp đẫm máu.

Yêu cầu lịch sử dân tộc đang đặt ra cho nhân dân Ấn Độ, cho các giai cấp tiên tiến

phải lựa chọn con đường đấu tranh đúng đắn, phải có một đường lối cách mạng phù hợp để

lãnh đạo phong trào đấu tranh đi đến thắng lợi.

Có thể nói rằng, trong một đất nước rộng lớn đông dân và nhiều thành phần dân tộc,

ngôn ngữ, tôn giáo đa dạng và vấn đề đẳng cấp phức tạp như Ấn Độ thì việc đoàn kết toàn

dân, "thức tỉnh" ý thức dân tộc có ý nghĩa quyết định thắng lợi cho một cuộc đấu tranh

giành độc lập dân téc. Đặc biệt vấn đề đó càng quan trọng hơn khi ở Ấn Độ, Anh đã thi

hành " mét chính sách trên thực tế đã nuôi dưỡng và kéo dài những sự chia rẽ và lạc hậu

của một dân tộc bị nô dịch". Trong đó, thực dân Anh luôn lợi dụng tình trạng chia rẽ bất

đồng giữa người Hinđu và người Hồi giáo. Vì thế yêu cầu của lịch sử Ấn Độ để đấu tranh

giải phóng dân tộc khỏi sự thống trị của thực dân Anh phải đoàn kết yếu tố cộng đồng

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

13

thống nhất. Đó cũng chính là một thách thức lịch sử của nhân dân Ấn Độ.

Lịch sử thế giới hiện đại II. Chính sách cai trị của thực dân Anh trong Chiến tranh thế giới

thứ nhất và tác động của những chính sách đó đến Ấn Độ

Nền thống trị của Anh ở Ấn Độ hết sức đặc biệt, một mặt làm cho đời sống nhân dân

ngày càng trở nên bần cùng, song mặt khác, nó đã tạo ra những thay đổi lớn lao trong xã

hội Ấn Độ. Kinh tế tư bản chủ nghĩa xâm nhập vào các cộng đồng, liên kết người dân Ấn

Độ thành một khối trong ý thức dân tộc, giai cấp tư sản Ấn Độ ngày càng lớn mạnh, vươn

lên lãnh đạo cuộc đấu tranh đòi độc lập dân tộc thông qua chính đảng của nó-Đảng Quốc

Đại. Cuộc đấu tranh của nhân dân Ấn Độ càng trở nên mạnh mẽ hơn kể từ sau Chiến tranh

thế giới lần thứ nhất.

Năm 1914, chiến tranh bùng nổ ở châu Âu và nhanh chóng trở thành cuộc chiến tranh

thế giới. Sự tuyên chiến của nước Anh đế quốc với chủ nghĩa quân phiệt Đức đã đưa Ấn

Độ vào hàng ngũ các nước tham chiến, trong phe Anh. Từ đó cuộc chiến tranh đã trực tiếp

tác động đến đời sống xã hội Ấn Độ nói chung, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân

dân Ấn Độ nói riêng.

Trong chiến tranh, đế quốc Anh đã tìm mọi cách huy động sức người, sức của của

Ấn Độ nhằm phục vụ cho cuộc chiến tranh đế quốc của chúng. Chúng đã cướp đi của nhân

dân Ấn Độ 36 triệu tấn trang thiết bị vật tư các loại, 5 triệu tấn lương thực và 1,5 triệu

người. Điều này làm cho đời sống người dân càng trở nên cùng cực. Trong những năm

1918-1919 hơn 12 triệu người Ấn Độ bị chết đói.

Sự bần cùng hoá đời sống nhân dân làm cho làn sóng công phẫn dâng lên khắp nơi.

Do vậy, thực dân Anh đã áp dụng một chế độ cai trị hà khắc được quy định bằng “Đạo luật

phòng thủ Ấn Độ” (Defence of India Act) vào năm 1915. Dựa vào Đạo luật này chính

quyền thực dân đã bỏ tù hàng loạt những người yêu nước Ấn Độ mà không cần thông qua

điều tra hay toà án. Những chính sách này đã làm cho “Nỗi lo âu của quần chúng nhân dân

tăng lên trong khắp Ấn Độ, cuộc sống ra khỏi những nề nếp bình thường và thật là khó

khăn để nhìn về tương lai với một hy vọng nào đó”.

Sự bóc lột và thống trị hà khắc của chính quyền thực dân Anh làm cho ý thức dân

tộc nhanh chóng phát triển ở Ấn Độ. Đây chính là cơ sở để Đảng Quốc Đại có điều kiện

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

14

đưa cuộc đấu tranh đòi quyền tự trị Ấn Độ lên một giai đoạn mới và đây cũng là nguyên

Lịch sử thế giới hiện đại nhân để thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh của quần chúng nhân dân Ấn Độ ngay sau khi

chiến tranh kết thúc.

Bên cạnh việc tăng cường vơ vét sức người, sức của của Ấn Độ và trấn áp quần

chúng nhân dân, thực dân Anh đã thực hiện những nhượng bộ nhất định với tư sản Ấn Độ.

Có thể nói, chiến tranh đã đẩy nhân dân Ấn Độ vào cuộc sống khốn cùng, nhưng mặt khác

nó đã kích thích sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp Ấn Độ, đặc biệt là các ngành công

nghiệp phục vụ chiến tranh. Các nhà máy luyện kim Tata đã trở thành cơ sở luyện kim chủ

chốt của cả nước nhờ nhận được nhiều đơn đặt hàng từ chính quốc.

Cùng vào thời kỳ này sự thâm nhập của tư bản nước ngoài, đặc biệt là Mỹ và Nhật,

vào Ấn Độ, ngày càng được tăng cường. Gánh nặng của cuộc chiến tranh làm cho nước

Anh không còn đủ sức ngăn cản các nhà tư bản độc quyền của các nước đế quốc khác. Vì

vậy, tư sản Anh quyết định lôi kéo tư sản Ấn Độ về phía mình, bảo vệ nó khỏi sự cạnh

tranh với các đế quốc khác. Do đó, chính sách kinh tế của Anh buộc phải khôi phục lại

đáng kể nền kinh tế Ấn Độ, phát triển công nghiệp dân tộc, tăng cường vị trí của tư sản Ấn

Độ. Chính phủ Anh đã tuyên bố:

1. Nếu Ấn giúp Anh đánh Đức, sau chiến tranh Anh sẽ để cho người Ấn tổ chức lấy

chính phủ tự trị .

2. Từ năm 1916, mức thuế nhập cảng bông sẽ giảm xuống còn 3%.

Với sự nhượng bộ của thực dân Anh, “giai cấp tư sản Ấn Độ đã thu được rất nhiều

lợi. Tính ra đến năm 1917 số vải Ấn Độ bán ra ngoài có tới 94,6 % là vải do các nhà máy

của người ấn làm ra (trước chiến tranh chỉ có 42% và ít hơn nữa)”.

Sự nhượng bộ của chính phủ Anh với tư sản Ấn Độ không chỉ riêng trong lĩnh vực

kinh tế mà cả lĩnh vực chính trị. Lord Harding–người thay Minto giữ chức Phó vương Ấn

Độ–ngay từ những ngày trước Chiến tranh thế giới thứ nhất đã quyết định đưa ra những lời

hứa hẹn về một tương lai tốt đẹp cho Ấn Độ, với điều kiện Ấn Độ phải tăng cường sự giúp

đỡ vào cuộc chiến tranh của nước Anh. Thủ tướng Anh cũng đưa ra những hứa hẹn chính

trị cho Ấn Độ theo hướng này. Đúng như K.R.Bomwall, trong cuốn Indian polities and

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

15

government (Since 1885), đã nhận xét khi nghiên cứu tình hình chính trị Ấn Độ trong thời

Lịch sử thế giới hiện đại gian chiến tranh: Ngay trước cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, chính sách của Anh đối

với Đảng Quốc Đại và các lãnh tụ của nó đã trở nên mềm mỏng hơn.

Việc chính quyền thực dân thay đổi thái độ đối với tư sản Ấn Độ, trao cho nó những

quyền lợi kinh tế và những lời hứa hẹn chính trị là nhằm mục đích giữ vững sự kiểm soát

Ấn Độ trong thời gian chiến tranh và thời kỳ bất ổn định sau chiến tranh. Nước Anh muốn

có một hậu phương ổn định để tiến hành chiến tranh và nó đã đưa ra những nhân nhượng

và cải cách kinh tế, chính trị nhằm tạo ra khả năng tư sản Ấn Độ hứa hẹn trước sự giúp đỡ

của mình đối với nước Anh. Chính sự nhượng bộ này từ phía chính quyền Anh đã mở ra

một con đường cho các lãnh tụ Đảng Quốc Đại trong cuộc đấu tranh đòi quyền tự trị cho

Ấn Độ. Họ hy vọng rằng nước Anh sẽ trao quyền tự trị cho Ấn Độ sau khi chiến tranh kết

thúc nếu như Ấn Độ giúp đỡ cho nước Anh chiến thắng trong cuộc chiến tranh này. Không

chỉ những người ôn hoà mà ngay cả những lãnh tụ cực đoan của Đảng Quốc Đại cũng đã

tin tưởng, hy vọng điều này. B.G.Tilak đã viết trên tờ Maharatta rằng: “Nghĩa vụ của mọi

người Ấn, dù lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, là ủng hộ giúp đỡ Chính phủ của Bệ hạ với khả

năng tốt nhất của mình” và tư tưởng của ông là nhấn mạnh tầm quan trọng của tự trị vào

thời điểm Ấn Độ được đền đáp trước “sự phục vụ huy hoàng” cho Đế quốc Anh. A. Besant

cũng đã nhìn thấy trong hoàn cảnh chiến tranh một cơ hội để nhấn mạnh lại một lần nữa

đối với quyền Ấn Độ về tự trị… Chính những tư tưởng này sẽ góp phần giải thích vì sao

trong những năm chiến tranh Đảng Quốc Đại Ấn Độ đã cổ động tích cực cho sự giúp đỡ

Đế quốc Anh.

Vấn đề tự trị (Swaraj) đã được Đảng Quốc Đại Ấn Độ xem là một trong những

nhiệm vụ chính trị cơ bản của Đảng từ năm 1906. Tuy nhiên, khái niệm tự trị ở đây mang

nặng ý nghĩa của việc tiến hành cải cách từng phần bộ máy chính quyền hiện hành, đồng

thời sự suy yếu của Đảng Quốc Đại do bị chia rẽ làm cho vấn đề tự trị chỉ là vấn đề nằm

trên giấy tờ trong những năm tiếp theo. Khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra, cuộc

đấu tranh đòi quyền tự trị của Đảng Quốc Đại đã trở nên sôi động hơn dưới tác động của

những nhân tố mới, đặc biệt là thông qua Phong trào tự trị (Home rule Movement). Việc

thực dân Anh đưa ra những hứa hẹn chính trị và tiến hành một số nhượng bộ về chính trị và

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

16

kinh tế cho người ấn trước hết là để huy động tối đa sức người và sức của của Ấn Độ, phục

Lịch sử thế giới hiện đại vụ cho cuộc chiến tranh đế quốc, sau đó là để giữ Ấn Độ–một hậu phương quan trọng của

Anh được yên ổn. Chính những hứa hẹn và nhượng bộ này đã gợi ra cho các lãnh tụ phong

trào dân tộc Ấn Độ một cách thức, một con đường để đạt đến nền tự trị cho dân tộc, đó là

giúp cho nước Anh thắng trận và chuẩn bị tiếp nhận nền tự trị sau khi chiến tranh kết thúc.

Dù rằng con đường đó, cách thức đó phản ánh sự “ngây thơ” của tư sản Ấn Độ và

nó đã không đem lại hiệu quả thực tiễn nhưng cuộc đấu tranh này có một ý nghĩa lớn trong

cuộc đấu tranh vì tự trị của dân tộc Ấn Độ. Trên cơ sở cuộc đấu tranh này, năm 1920

M.Gandhi đã kế thừa để đề ra đường lối mới cho dân tộc: Huy động quần chúng nhân dân

tiến hành đấu tranh đòi quyền tự trị trên cơ sở bất hợp tác, bất bạo động. Có thể dễ dàng

nhận thấy rằng, đường lối bất hợp tác, bất bạo động của Gandhi vẫn tuân thủ theo nguyên

tắc sử dụng các biện pháp hòa bình và hợp pháp.

Cuộc đấu tranh đòi quyền tự trị của nhân dân Ấn Độ trong những năm Chiến tranh

thế giới lần thứ nhất đã có bước phát triển mới về quan niệm, khái niệm tự trị được mở

rộng thêm. Đúng như A. Bessant, một lãnh tụ của Đảng Quốc Đại đã viết trong số báo đầu

tiên trên tờ New India, ra ngày 14/7/1914, rằng: Từ Swaraj (tự trị) vào năm 1906 có nghĩa

là thực hiện cải cách từng phần, còn từ Home rule (tự trị) trong những năm chiến tranh có

nghĩa là yêu cầu quyền tự trị, “từ Home rule đã được sử dụng như một khẩu hiệu quần

chúng với ý nghĩa là điều khiển cuộc đấu tranh không chống lại nước Anh và vì sự tự do

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

17

trong thành phần của Đế quốc”.

Lịch sử thế giới hiện đại III. Đảng Quốc Đại và đường lối đấu tranh của M.Gandhi trong

phong trào giải phóng dân tộc ở Ấn Độ nửa đầu thế kỉ XX

1. Đảng Quốc Đại và một vài nét về tiểu sử M.Gandhi

Qua nhiều thế kỉ bị chinh phục, nhân dân Ấn Độ không ngừng đấu tranh

giành độc lập dân tộc nhưng trong buổi đầu các phong trào đấu tranh ấy đều bị đàn áp thất

bại. Phải đến năm 1885, khi Đảng Quốc đại của giai cấp tư sản ra đời và đặc biệt đến

những năm 1917-1920 với sự xuất hiện của Gandhi thì phong trào giải phóng dân tộc mới

có đường lối đúng đắn phù hợp và kết quả là đã giành độc lập vào năm 1947.

Năm 1885, Đảng Quốc Đại ra đời theo "ý muốn" của chính quyền thực dân nhưng

ngay 10 năm sau đó nó đã bắt đầu nói tiếng nói của riêng mình và đến những năm 1917-

1920, nó đã có một đường lối chính trị vững chắc-đó là chủ nghĩa Gandhi.

Lòng căm thù của nhân dân lao động Ấn Độ đối với ách ngoại xâm đã tạo nên những

khả năng để Đảng Quốc Đại hướng họ vào mục đích đấu tranh của mình. Đường lối chính

trị của M.Gandhi dần dần chi phối hoạt động của Đảng Quốc Đại. Điều này được thể hiện

tại Hội nghị thường niên của Đảng họp vào tháng 12/1920 ở Nagpur. Tuy nhiên còn cần

phải thấy rằng: "Đảng Quốc Đại bị chi phối bởi M.Gandhi, nhưng đó chỉ là sự chi phối đặc

biệt, vì Đảng Quốc Đại là một tổ chức hành động, bạo loạn, mang nhiều sắc thái rất khác

nhau" . Mặc dù vậy, thông qua Đảng Quốc Đại, đường lối đấu tranh của M.Gandhi đã được

nhân dân Ấn Độ tiếp nhận và nó đã góp phần tạo nên con đường riêng của Ấn Độ trong

cuộc đấu tranh đòi độc lập dân tộc.

Dưới sự thúc đẩy của Gandhi, Đảng Quốc Đại đã trở thành một chính đảng có hệ

thống tổ chức ở Trung ương và khắp các địa phương, trở thành một chính đảng mang tính

quần chúng có người thành thị và người thôn quê tham gia; sự đấu tranh từ trong vòng nhỏ

hẹp của các phần tử tầng lớp trên đã mở rộng ra đến quảng đại quần chúng.

Mahātmā Gāndhī (2/10/1869–30/1/1948), nguyên tên đầy đủ là Mohandas

Karamchand Gandhi (Devanagari: मोहनदास करमच(cid:219)द गांधी; Gujarati: મોહનદાસ કરમચંદ

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

18

ગાંધી), là anh hùng dân tộc Ấn Độ, đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân của

Lịch sử thế giới hiện đại Đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ nhiệt liệt của hàng triệu người

dân. Trong suốt cuộc đời, ông phản đối tất cả các hình thức khủng bố bạo lực và thay vào

đó, chỉ áp dụng những tiêu chuẩn đạo đức tối cao.

Từ lúc lãnh đạo cuộc đấu tranh giành tự do và đứng đầu Đảng Quốc dân Đại hội Ấn

Độ (Indian National Congress) năm 1918, ông được hàng triệu dân Ấn Độ gọi một cách

tôn kính là Mahātmā, nghĩa là "Linh hồn lớn", "Vĩ nhân" hoặc "Đại nhân". Danh hiệu có

gốc tiếng Phạn này được triết gia và người đoạt giải Nobel văn chương Rabindranath

Tagore dùng lần đầu khi đón chào Gandhi tại Mumbai (hay Bombay) ngày 9/1/1915. Mặc

dù Gandhi không hài lòng với những cách gọi tôn vinh nhưng đến ngày nay, danh hiệu

Mahātmā Gāndhī vẫn thường được dùng hơn tên Mohandas Gāndhī trên thế giới. Ngoài

việc được xem là một trong những môn đồ Ấn Độ giáo và những nhà lãnh đạo Ấn Độ vĩ

đại nhất, ông còn được nhiều người Ấn tôn kính như một Quốc phụ (gọi theo tiếng Hindi là

Bapu). Ngày sinh của ông, 2/10, là ngày lễ quốc gia của Ấn Độ. Năm 2007, Liên Hiệp

Quốc ra nghị quyết lấy ngày 2/10 là Ngày Quốc tế Bất Bạo động.

Bằng phương tiện bất hợp tác, Gandhi đã dần đưa đến nền độc lập cho Ấn Độ, đưa

nước mình thoát sự đô hộ của Anh, khích lệ những người dân bị đô hộ khác phấn đấu cho

nền độc lập của nước nhà và đả đảo triệt để Đế quốc Anh.

2. Đường lối đấu tranh của M.Gandhi trong phong trào giải phóng

dân tộc ở Ấn Độ nửa đầu thế kỉ XX

Mohandas Karamchand “Mahatma” (“Thánh nhân”) Gandhi đi vào lịch sử bằng

cuộc đấu tranh chống lại chính quyền Anh Quốc ở Nam Phi và kế tiếp là vai trò lãnh đạo

của ngài trong phong trào đòi độc lập cho Ấn Độ. Bất bạo động là nền tảng cho tất cả các

chiến dịch vận động đấu tranh của ngài, điều đó thể hiện các chiều sâu đạo đức trong hoạt

động chính trị của Gandhi. Hoạt động chính trị của Gandhi chỉ đơn thuần là sự áp dụng các

ý tưởng xã hội và đạo đức vào trong hành động, và các ý tưởng này mới chính là mối quan

tâm thực sự của ngài. Ba triết lý nền tảng trong tư tưởng của Gandhi là Ahimsa, Satya và

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

19

Satyagraha.

Lịch sử thế giới hiện đại

a) Bất bạo động và Ahimsa (tính bất hại)

“Tín điều của ta là bất bạo động trong mọi trường hợp. Phương pháp của ta là cải

biến tâm tính con người chứ không dùng sự áp chế; là tự chịu khổ nạn chứ không phải gây

khổ nạn cho kẻ nắm bạo quyền”. Tuyên cáo này của Gandhi kết tinh các nguyên tắc căn

bản nhất của triết lý bất bạo động.

Triết lý bất bạo động là một trong những di sản quan trọng nhất trong tư tưởng của

Gandhi, và nó là nền tảng cho nhiều di sản tư tưởng khác của ngài, đặc biệt là Satyagraha

(sức mạnh của chân lý). Tính kiên định của Gandhi đối với nguyên tắc bất bạo động trong

lĩnh vực chính trị là biểu hiện về sự hiến thân của ngài cho một nguyên tắc tinh thần sâu

sắc hơn thế và hướng đến việc cải đổi cuộc sống của từng con người.

Theo Gandhi, bất bạo động là một hành vi “tẩy uế bản thân mình”. Khái niệm “bất

bạo động” thực ra là một từ Sanskrit, ahimsa (tính bất hại). Ahimsa nghĩa đen là sự thương

yêu hoặc sự thống nhất trọn vẹn của bất bạo động trong cả ý nghĩ và hành động. Gandhi

nói rằng “không có gì mới về tính bất hại cả. Triết lý này cổ xưa như núi đồi”. Điều này

khá chính xác vì triết lý về tính bất hại là trung tâm của nhiều tôn giáo gốc Ấn Độ, thí dụ

như đạo Giai-na, đạo Hindu và đạo Phật.

Gandhi định nghĩa tinh tuý của tính bất hại là: “bất hại đích thực phải có nghĩa là sự

tự do hoàn toàn khỏi tất cả các ý muốn tối tăm, sự giận dữ và bao gồm một tấm lòng yêu

thương đích thực chảy mênh mang đối với mọi loài”. Triết lý của Gandhi về “tính bất hại

tích cực” (active ahimsa) bao gồm không chỉ việc xa lánh tất cả các hình thức bạo lực, mà

còn dành tình yêu thương đến ngay cả kẻ thù của mình. Nó đòi hỏi “sự tự chịu khổ nạn một

cách có chủ tâm” và vì thế “cần đến đức vô uý (không khiếp nhược) ”. Một tông đồ của

thuyết bất hại “dùng tâm linh của mình đối chọi với nhục thể của đối phương”. Cuối cùng,

sự tự chịu đựng của một người đi theo thuyết bất hại là nhằm đánh thức và lay chuyển tâm

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

20

tính của kẻ thù, người này sau đó sẽ bị chế ngự bởi lòng trắc ẩn và tình thương yêu.

Lịch sử thế giới hiện đại

b) Satya (Đạo/Chân lí)

Gandhi đặt ngang hàng Satya (Đạo) với Đức Chúa Trời. Ngài nói rằng “Chân lý là

Đức Chúa Trời của ta. Bất bạo động là phương tiện để đạt được ngài”. Gandhi giới thiệu

cuốn tự truyện của mình bằng “ta chỉ muốn kể lại câu chuyện về những trải nghiệm của đời

mình với chân lý, vì cuộc sống này của ta không có gì khác hơn ngoài những trải nghiệm

đó.” Với việc theo đuổi Chân lý như là “mục đích duy nhất”, Gandhi đã tiến hành các thí

nghiệm suốt đời này trong tiểu thế giới là cuộc đời ngài và đại thế giới là cả xã hội nói

chung.

Dựa trên những huấn dụ trong Chí tôn ca (Bhagavad Gita), Gandhi xác định rằng

Chân lý chỉ có thể đạt được qua bất bạo động. Không thể ngộ ra Chân lý đích thực và nó

chỉ được dùng như một thứ vũ khí thay vì một nguồn gốc của tri thức, trừ phí Chân lý được

tách khỏi những động cơ ích kỷ. Cuộc kiếm tìm Chân lý của Gandhi đòi hỏi những thử

thách liên tiếp về các động cơ cá nhân của ngài. Qua những cuộc thử thách như thế, ngài đã

thể nghiệm một cách sâu sắc đức hi sinh cá nhân và quên mình. Gandhi nhận ra rằng Chân

lý có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Ngài tin rằng một khi ngộ ra tính đa nghĩa

của Chân lý, tất cả các động cơ ích kỷ sẽ biến mất. Chúng sẽ được thế chỗ bởi lòng trắc ẩn,

sự dấn thân cho triết lý bất bạo động, và khả năng tự hi sinh cá nhân vô hạn. Gandhi cũng

tin rằng trong khi mưu cầu Chân lý, phải thường xuyên từ bỏ những tà tín (conviction),

cũng như thường phải từ bỏ các điều phi lý. Ngài nói: “Nếu nhãn quan của ta được minh

c) Satyagraha (Sức mạnh chân lí)

định là lầm lạc, ta sẽ sẵn sàng từ bỏ chúng”.

Satyagraha có nghĩa đen là “bám vững vào Chân lý”. Cũng có thể giải nghĩa từ này

là “sức mạnh của lòng thương yêu, sức mạnh của tâm linh, và được biết đến nhiều hơn

nhưng kém chính xác hơn, là phản kháng thụ động”. Gandhi mô tả khởi nguyên của khái

niệm này khi còn ở Nam Phi:

“Sadagrah có nghĩa là kiên định với lý tưởng chính đáng. Ta thích từ này nhưng nó

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

21

không diễn đạt hoàn toàn chính xác những gì ta muốn nói đến. Vì thế, ta hiệu chỉnh lại

Lịch sử thế giới hiện đại thành Satyagraha. Đạo hay Chân lý (Satya) hàm ý tình yêu thương, và Sự kiên định

(Agraha) sinh ra và vì thế được dùng làm từ đồng nghĩa cho sức mạnh… nói thế tức là, Sức

mạnh được sinh ra bởi Chân lý và Tình yêu thương hoặc Bất bạo động”.

Với Gandhi, Sức mạnh chân lý là “con đường duy nhất” để đạt được swaraj (tự trị).

Nó liên quan mật thiết đến tính bất hại (ahimsa) vì Sức mạnh chân lý bản chất là tính bất

hại “trong hành động”. Sức mạnh chân lý dẫn đến bất bạo động, bất hợp tác với cái ác và tự

hi sinh. Tấm lòng sẵn sàng hi sinh và chịu khổ nạn tràn đầy yêu thương của một tông đồ

của Sức mạnh chân lý là nhằm khơi dậy giao cảm và đánh thức tính bất hại trong tâm

(heart) và thức (mind) của đối phương.

Gandhi giải thích rằng “tính tự chịu khổ nạn, được sinh ra bởi lòng can đảm, có thể

làm tan chảy ngay cả trái tim của đá… đó là chìa khoá dẫn tới Sức mạnh chân lý”. Nói

cách khác, “hành vi bất bạo động có nghĩa là việc chịu khổ nạn tự nguyện… chống đối

phải được chuyển thành đồng cảm, vì trong sâu thẳm mỗi người, cho dù bị che giấu thế

nào, vẫn ẩn chứa sự giác ngộ về tính thiện của con người”. Sức mạnh chân lý phải được

thực hành không chỉ đơn thuần bằng tính bất hại và tự hi sinh; chúng phải luôn tuân thủ

“đức thanh tịnh tuyệt đối, chấp nhận sự nghèo túng, đi theo Chân lý và gieo trồng đức vô

uý”.

Trong khi tính bất hại là động lực dẫn đường, bất hợp tác với cái ác là hành vi chủ

yếu của phong trào Sức mạnh chân lý. Phần tinh tuý của “bám vững vào Chân lý là nhằm

từ bỏ việc tiếp tay cho những điều phi lý. Nếu có đủ số người làm như vậy nếu… thậm chí

chỉ có một người làm như vậy với công phu đủ thâm sâu- cái ác sẽ phải sụp đổ vì không

còn chỗ nương tựa”. Như Gandhi đã từng khẳng định, “khi ta từ chối không thực hiện một

việc làm trái với lương tri của mình, ta sử dụng sức mạnh của tâm”. Gandhi đưa ra ngụ ý

chính trị của nguyên tắc này khi ngài nói rằng “Chính quyền sẽ không thể điều khiển chúng

ta nếu chúng ta bất hợp tác”.

Lúc ngài còn sinh thời, người ta thường lẫn lộn giữa Sức mạnh chân lý với phản

kháng thụ động. Gandhi đã làm sáng tỏ sự khác biệt này: “Có sự khác biệt rất lớn và căn

bản giữa phản kháng thụ động và Sức mạnh chân lý… Nếu ta tiếp tục tin, và để người khác

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

22

cũng tin, rằng ta yếu đuối và tuyệt vọng, và vì thế phản kháng một cách thụ động, sự phản

Lịch sử thế giới hiện đại kháng này sẽ không khi nào làm chúng ta mạnh lên được, và khi bất cứ cơ hội nào khác

xuất hiện, ta sẽ chụp lấy nó và từ bỏ phản kháng thụ động vì nó là vũ khí của kẻ yếu. Mặt

khác, nếu chúng ta là những người có sức mạnh của Chân lý, và vì thế, thực hiện Sức mạnh

chân lý, tin tưởng rằng chúng ta có sức mạnh… thì chúng ta sẽ mạnh lên từng ngày… Phản

kháng thụ động thường được nhìn nhận như là một sự chuẩn bị để sử dụng vũ lực, trong

khi Sức mạnh chân lý không bao giờ được sử dụng theo cách ấy… Sức mạnh chân lý hàm

ý việc chinh phục đối phương được thực hiện bởi sự tự chịu khổ nạn của bản thân”.

Tuy nhiên, Gandhi vẫn thường dùng hai khái niệm này thay thế cho nhau: “Phản

kháng thụ động, đó là sử dụng tâm lực, là phương pháp không có đối thủ”. Gandhi nhìn

nhận Sức mạnh chân lý không chỉ là một sức mạnh hơn hẳn sức mạnh của súng đạn, mà

ngài còn coi đó là sức mạnh dẫn dắt cả vũ trụ. Gandhi nói, “sức mạnh của tình yêu cũng

giống như sức mạnh của tâm hồn hoặc chân lý… Vũ trụ sẽ chẳng còn nếu không có sức

mạnh ấy”. Tương tự, ngài tuyên bố rằng “ví dụ rõ ràng nhất và không thể chối cãi được về

sức mạnh này của chân lý hoặc tình yêu sẽ được tìm thấy trong sự thật là, mặc cho đã trải

qua bao nhiêu cuộc chiến tranh trên thế giới này, sức mạnh ấy vẫn còn sống mãi”.

Vì Gandhi nhìn nhận Sức mạnh chân lý là sức mạnh dẫn dắt của tình yêu và chân lý

trong vũ trụ, tầm nhìn của Gandhi khi lãnh đạo các phong trào Sức mạnh chân lý không chỉ

hướng tới sự thay đổi chính trị, mà còn hướng tới sự thay đổi đạo đức và tâm hồn của từng

cá nhân. Ngài khẳng định “sự kết thúc của phong trào Sức mạnh chân lý chỉ có ý nghĩa khi

nó khiến những tông đồ của Sức mạnh chân lý trở nên mạnh mẽ hơn so với lúc ban đầu”.

Người soạn tiểu sử cho Gandhi đã nắm bắt được tinh tuý trong các phong trào Sức

mạnh chân lý: “Sức mạnh chân lý không nhằm ‘đoạt’ lấy một đối tượng nào, cũng không

nhằm ‘nghiền nát’ một đối thủ nào, mà để kích hoạt các sức mạnh có thể dẫn tới sự cải biến

tâm tính; bằng chiến lược này, hoàn toàn có thể thua ở tất cả các trận đánh nhưng vẫn là

người chiến thắng trong cuộc chiến. Thực ra, chiến thắng hoặc thua cuộc không mô tả

chính xác mục đích của phong trào Sức mạnh chân lý: một nền hoà bình đáng trân kính cho

cả hai bên.”

Nguyên lí bất bạo lực được ông đề xướng với tên Chấp trì chân lí (hay Sức mạnh

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

23

chân lí) (sa. Satyāgraha). Đó là cốt lõi của đường lối đấu tranh do Gandhi đề xướng. Nó đã

Lịch sử thế giới hiện đại ảnh hưởng đến các phong trào đấu tranh bất bạo động trong và ngoài nước cho đến ngày

nay, bao gồm phong trào Vận động Quyền công dân tại Hoa Kỳ (American Civil Rights

Movement) được dẫn đầu bởi Martin Luther King, Jr..

Nguyên lí Chấp trì chân lí của Gandhi (có gốc tiếng Phạn: satya là "chân lí" và ā-

graha là "nắm lấy", "nắm chặt"), cũng thường được dịch là "con đường chân thật", "truy

tầm chân lí", đã cảm kích những người chủ trương hành động giành tự do như Đạtlại

Lạtma Đăngchâu Giamụcthố (Tenzin Gyatso), Lech Wałęsa, Stephen Biko, Aung San Suu

Kyi và Nelson Mandela. Tuy nhiên, không phải tất cả những nhà lãnh đạo nêu trên đều

theo nguyên tắc bất bạo lực và bất kháng cự khắt khe của Gandhi.

Gandhi thường nói là nguyên tắc của ông đơn giản, lấy từ niềm tin truyền thống của

Ấn Độ giáo: Chân lí (satya) và bất bạo lực (ahiṃsā). Chính ông nói rằng: "Tôi chẳng có gì

mới mẻ để dạy đời. Chân lí và bất bạo lực đều có từ xưa nay".

Điều chú ý là Gandhi kiên quyết chống lại việc áp dụng cho thuật ngữ Satyagraha

bằng thuật ngữ "phản kháng thụ động", bởi chúng khác nhau "như cực Bắc khác với cực

Nam", đó là sự khác nhau giữa một "vũ khí mạnh mẽ nhất" với một vũ khí yếu ớt. Theo

Gandhi, người Ấn Độ cần sử dụng phương thức đấu tranh bất bạo lực, vì: "Nếu chúng ta

đối xử với người Anh một cách công bằng và hợp lý, thì ngày giải phóng đất nước Ấn Độ

chúng ta càng sớm đến. Trái lại, nếu ta coi họ như thù nghịch, thì ngày đó chưa biết đến

bao giờ", vả lại "bản ngã của con người là sự ôn hoà, mực thước" và "người Ấn Độ còn

nhiều sứ mệnh cao cả phải theo đuổi chứ đâu chỉ có mục đích trừng trị những kẻ độc ác

trên trái đất này", hơn nữa "tôn giáo không dạy ta ghét bỏ người ngoại quốc. Tôi còn để

lòng nhân lên trên lòng yêu nước của tôi".

Cùng với tư tưởng bất bạo lực, Gandhi đề ra tư tưởng "bất hợp tác" và xem đó là một

trong những biện pháp đảm bảo sự thắng lợi của cuộc đấu tranh. Tẩy chay hàng hoá của

người Anh chưa đủ, còn phải tẩy chay các học đường, các toà án, các công sở, tư sở, các

huy chương khen tặng của người Anh. Tóm lại, bất hợp tác trong tất cả mọi ngành. Bởi vì

"phong trào bất hợp tác không có tính cách tranh đấu tích cực như hội họp và kích thích

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

24

dân chúng công nhiên kháng Anh, nên không thể gây ra đổ máu được.

Lịch sử thế giới hiện đại Để đảm bảo cho công cuộc giải phòng Ấn Độ theo đường lối "bất hợp tác trong bất

bạo lực”, Gandhi chủ trương tiến hành đoàn kết các lực lượng dân tộc. Ông luôn đấu tranh

cho sự hoà hợp dân tộc, đặc biệt là vấn đề đẳng cấp và tôn giáo.

Học thuyết của Gandhi về bất bạo lực thể hiện tính chất phức tạp và hai mặt trong

lập trường của tư sản Ấn Độ. Một mặt tư sản Ấn Độ muốn thoát khỏi sự lệ thuộc vào tư

bản Anh nên ban đầu huy động quần chúng đấu tranh, mặt khác tư sản Ấn Độ cũng không

muốn quyền lợi của mình bị đe dọa nên họ đã hạn chế cuộc đấu tranh này trong phạm vi

bất bạo lực. Tuy nhiên, trong một xã hội mà sự phân chia đẳng cấp và tôn giáo cùng với

ách thống trị thực dân đã làm mờ đi những mâu thuẫn về giai cấp thì đường lối của Gandhi

đã được chấp nhận.

Ông là người đã tiến hành "Tổng kết hệ thống qua điểm triết học và đường lối chính

trị, xã hội của tư sản Ấn Độ” và được toàn thể nhân dân Ấn Độ gọi bằng cái tên trìu mến

Mahatma (Tâm hồn vĩ đại).

Dưới sự thúc đẩy của Gandhi, Đảng Quốc Đại đã trở thành một chính đảng có hệ

thống tổ chức ở Trung ương và khắp các địa phương, trở thành một chính đảng mang tính

quần chúng có người thành thị và người thôn quê tham gia; sự đấu tranh từ trong vòng nhỏ

hẹp của các phần tử tầng lớp trên đã mở rộng ra đến quảng đại quần chúng.

Kiên trì đấu tranh cho mục đích của mình bằng phương pháp hoà bình là nét quán

xuyến nổi bật nhất của Đảng Quốc Đại trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân

dân Ấn Độ giai đoạn (1919-1950). Đây là thời điểm đặc sắc nhất trong lịch sử phong trào

giải phóng dân tộc của Ấn Độ. Tư tưởng đấu tranh hoà bình phản ánh một cách đi riêng,

một cách hiểu riêng của người Ấn Độ và con đường tiến tới tự do và tất nhiên cách đi riêng

ấy, cách hiểu riêng Ấn Độ được quy định bởi những truyền thống văn hoá, lịch sử của dân

tộc Ấn Độ.

Từ đối sánh lực lượng tư tưởng đấu tranh bất bạo lực, sự lãnh đạo của tư sản Ấn Độ

(Đảng Quốc Đại) đã quy định con đường đấu tranh của nhân dân Ấn Độ-con đường đó là:

tự trị-độc lập hoàn toàn. Đó là bước chuyển hoá tuần tự. Đồng thời, chính con đường tiên

tiến này (tự trị-độc lập; Swaraj-Purna Swarij) cũng là điều kiện đảm bảo cho nhân dân Ấn

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

25

Độ tiến hành cuộc đấu tranh một cách hoà bình. Giai cấp tư sản Ấn Độ đã đoàn kết các giai

Lịch sử thế giới hiện đại cấp, tầng lớp trong xã hội vào cuộc đấu tranh chung-đó là nhân tố cơ bản để tư sản Ấn Độ

có thể đảm nhận sứ mệnh giải phóng dân tộc.

Đảng Quốc Đại-chính đảng của giai cấp tư sản Ấn Độ dù có những hạn chế nhất định

đã đóng vai trò của một tổ chức lãnh đạo có thế lực nhất và có ảnh hưởng nhất trong nhân

dân, giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng yêu nước Ấn Độ đã tham gia

tích cực vào sự nghiệp của toàn dân tộc chống thực dân Anh. Thành tựu vẻ vang của sự

nghiệp đấu tranh giải phóng Ấn Độ là kết quả thắng lợi của chủ nghĩa yêu nước dưới ngọn

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

26

cờ của Đảng Quốc Đại.

Lịch sử thế giới hiện đại IV. Phong trào độc lập dân tộc ở Ấn Độ trong những năm 1919-1945

1. Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ trong những năm 1919

-1922

Như đã thực hiện trong cuộc chiến Nam Phi, Gandhi khuyến khích việc ủng hộ

người Anh trong cuộc chiến (Thế chiến thứ nhất) và chủ động khích lệ người Ấn tham gia

quân đội. Khác với quan niệm của nhiều người khác, cách biện luận duy lí của ông cho

trường hợp này là quyền công dân đầy đủ, tự do và quyền lợi trong Đế quốc Anh, và như

vậy thì việc giúp nó phòng vệ không có gì sai. Ông thuyết trình trước Quốc dân Đại hội Ấn

Độ, nhưng phần lớn ông cũng chịu ảnh hưởng từ Gopal Krishna Gokhale, nhà lãnh đạo

được tôn trọng nhất của Đảng Quốc dân Đại hội bấy giờ.

Những thành tích lớn đầu tiên của Gandhi xảy ra vào năm 1918 với cuộc kích động

tại Champaran và phong trào Chấp trì chân lí tại Kheda mặc dù ông chỉ thực hiện trên mặt

danh nghĩa trong trường hợp thứ hai và người chính chủ đạo là Sardar Vallabhbhai Patel,

cánh tay phải của Gandhi. Tại Champaran, một khu vực nằm trong tiểu bang Bihar, ông tổ

chức cuộc kháng cự cùng với hơn 10.000 nông dân không có đất, nông nô và những nông

gia nghèo khổ có số lượng đất không đáng kể. Họ bị ép buộc phải trồng indigo và những

nông sản bán được trên thị trường thay vì gieo trồng những loại cung cấp thực phẩm cần

thiết cho sự sinh tồn của họ. Bị đàn áp bởi dân binh của điền chủ (phần lớn là người Anh),

họ được trả công rất ít nên cuộc sống rất vất vả cơ hàn. Thôn làng của họ rất dơ bẩn, thiếu

vệ sinh. Những vấn đề như uống rượu, kì thị dân ti tiện (untouchable) và khăn che (purdah)

ngày càng lan tràn. Giờ đây, ngay trước một cuộc chống đói kinh hoàng, thực dân Anh lại

đưa ra một loại thuế tàn ác, cứ y vào sự gia tăng theo chu kì mà thu thuế. Tình thế rất tuyệt

vọng và tại Kheda, bang Gujarat thì sự việc nhìn chung cũng không khác.

Gandhi đã tổ chức một công trình nghiên cứu để có được một tổng quan về các thôn

làng, xem xét những sự tàn bạo và những tình tiết thống khổ bao gồm những trạng thái

thoái hóa của cuộc sống nói chung. Lập cơ sở trên lòng tự tin của người làng, Gandhi bắt

đầu chỉnh lí các thôn xóm, lập trường học và bệnh viện, khuyến khích chủ làng xoá bỏ

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

27

những việc hủ nát như phân biệt tiện dân, bắt phụ nữ mang khăn che và áp chế họ.

Lịch sử thế giới hiện đại

Nhưng cuộc phát động có tổ chức đầu tiên của Gandhi xảy ra khi ông bị cảnh sát bắt

giam với lí do gây bạo động và được yêu cầu rời địa phương này. Hàng trăm nghìn người

biểu tình chống đối, vây quanh nhà giam, các trạm cảnh sát và quan tòa đòi trả tự do lại

cho ông, một sự việc pháp tòa không muốn nhưng sau cũng phải thực hiện. Gandhi đứng

đầu những cuộc biểu tình có tổ chức chống lại điền chủ, và họ, dưới sự lãnh đạo của chính

quyền Anh, đã kí một hiệp định đảm bảo trả lương cao hơn và kiểm soát việc cho nông dân

nghèo địa phương thuê đất, xoá bỏ việc tăng thuế cũng như việc thu thuế đến khi nạn đói

chấm dứt. Chính trong thời gian kích động này, Gandhi được quần chúng tôn xưng là Bapu

(người cha già dân tộc) và Mahātmā (tâm hồn vĩ đại). Tại Kheda, Patel đại diện các nông

gia trong những cuộc thương lượng với chính quyền Anh với kết quả là họ tạm dừng thu

thuế, đảm bảo trợ cấp. Tất cả những người bị tù đều được thả ra. Danh tiếng Gandhi từ đây

như một ngọn lửa lan truyền khắp nước và ông đã trở thành năng lực ảnh hưởng nhất định

trong phong trào chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ.

Dự thảo pháp luật Rowlatt được duyệt năm 1919, cho phép chính phủ bắt giam

những người bị vu khống gây loạn mà không cần đưa ra tòa duyệt. Khi Gandhi bắt đầu đề

ra phong trào bất hợp tác chống lại Đạo luật Rowlatt, Hội nghị Đảng Quốc Đại ở Calcutta

đã thảo luận sôi nổi vấn đề này và tại Hội nghị Nagpur (12/1920) đã thông qua chương

trình bất hợp tác theo dự án của M.Gandhi.

Gandhi và đảng Quốc dân Đại hội tổ chức những cuộc biểu tình lớn phản đối và

đình công, và tất cả những cuộc phản đối này đều được tổ chức rất hòa bình trên khắp

nước. Tất cả những thành phố và thị xã lớn đều đóng cửa; các hoạt động cơ quan chính phủ

đều phải được quân đội đảm nhiệm. Hàng nghìn người bị bắt giam, lệnh giới nghiêm được

áp dụng ở nhiều vùng của Ấn Độ. Tại Punjab, cuộc đại tàn sát ở Amritsar với 379 người

dân bị giết bởi quân đội Anh và Ấn Độ đã gây chấn thương nặng nề cho đất nước, gia tăng

phẫn oán nơi quần chúng cũng như những hành vi bạo lực.

Gandhi phê bình cả hai hành vi của người Anh và bạo lực phục thù của người Ấn.

Ông viết một bài phân ưu cùng với những nạn nhân Anh và lên án những cuộc bạo động.

Bài này ban đầu bị phản đối trong đảng, nhưng được chấp thuận sau một bài thuyết giảng

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

28

của Gandhi mà trong đó, ông đề cao nguyên tắc là tất cả những hành vi bạo lực đều có hại,

Lịch sử thế giới hiện đại không thể được biện minh. Người Ấn không mang tội vì sự kì thị của người Anh, và không

nên trừng phạt công dân Anh vô tội.

Nhưng sau cuộc tàn sát lớn và bạo lực này, Gandhi nhận thức được là không chỉ

người Ấn chưa được chuẩn bị cho việc kháng cự số đông, mà sự cai trị của người Anh đích

thật tàn ác và nó có bản chất là đàn áp. Gandhi giờ đây chú tâm đến việc giành quyền tự trị

và quyền quản lí tất cả những cơ quan chính quyền Ấn Độ, vươn đến trạng thái tự chủ

(svarāj), nghĩa là sự tự chủ toàn vẹn về mặt cá nhân, tâm linh và chính trị.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Quốc Đại theo đường lối của Gandhi, cuộc đấu tranh

chống thực dân Anh đã nổ ra hết sức mạnh mẽ trong những năm 1919-1922. Nét đặc trưng

của phong trào đấu tranh trong thời kỳ này là sự tham gia của đông đảo các tầng lớp, từ

công nhân đến nông dân, những người buôn bán, người Ấn, người Hồi. Chỉ trong 6 tháng

đầu năm 1920 ở Ấn Độ đã nổ ra 200 cuộc bãi công với 1,5 triệu người tham gia. Công

nhân đã thành lập các tổ chức nghiệp đoàn. Năm 1920, Hội Công Liên Ấn Độ được thành

lập. Từ những cuộc đấu tranh của công nhân, phong trào đã phát triển mạnh mẽ với sự

tham gia của mọi tầng lớp cư dân thành thị và các khu vực nông thôn lân cận nhằm chống

lại đạo luật Râulét.

Ngày 30/3 và ngày 6/4/1919, ở các thành phố nhân dân đã tiến hành Hartan. Trong

quá trình đấu tranh, tình đoàn kết anh em giữa người Ấn và người Hồi được củng cố vững

chắc ở phong trào Khaliphát. Trước sự phát triển của phong trào, thực dân Anh đã tiến

hành đàn áp hết sức dã man.

Đặc biệt ngày 13/4/1919, dưới sự chỉ huy của Tướng Đaiơ, quân đội đã xả súng bắn

vào một đám đông đang tiến hành một cuộc biểu tình ở Amritsa, giết hại khoảng 1.000 người và làm bị thương khoảng 2.000 người . Sự kiện này đã làm cho cuộc đấu tranh của

nhân dân Ấn Độ ngày càng mạnh mẽ. Từ Pengiáp, phong trào đấu tranh lan ra các nơi khác

như Ahmêdabat, Gutgierat, Bombay, Cancuta, các tỉnh liên hiệp, Biha, Orisa. Cuộc vận

động bất hợp tác được triển khai trong toàn quốc. Hoảng sợ, chính quyền thực dân đã bắt

tất cả các nhà lãnh đạo nổi tiếng của đảng Quốc đại, trừ Gandhi (1921). Tuy nhiên, phong

trào đấu tranh của quần chúng đang phát triển đến đỉnh cao. Giữa lúc đó sự kiện Sauri-

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

29

Saura và Bácđôli diễn ra.

Lịch sử thế giới hiện đại

Tháng 4/1920, Gandhi được bầu làm chủ tịch hội Liên hiệp Tự trị Toàn Ấn Độ (All

India Home Rule League). Căn cứ vào tình hình chính trị trong nước, Gandhi quyết định

thay đổi đường lối và nhiệm vụ của Liên đoàn Tự trị. Nhằm mục đích đó, đầu tháng

9/1920, một ủy ban nghiên cứu điều lệ và cương lĩnh của Liên đoàn được thành lập. Ngày

3/10/1920, tại Bombay đã tổ chức Hội nghị toàn thể của Liên đoàn, dưới sự chủ tọa của

Gandhi. Hội nghị đã thảo luận dự án của Ủy ban nghiên cứu cương lĩnh và điều lệ Liên

đoàn với các nội dung chính như sau:

1. Đổi tên liên đoàn từ Home Rule League thành Svatja Sabha.

2. Mục đích Svatja Sabha (Liên đoàn tự trị) là phải “đạt được quyền tự trị

(Svatja) hoàn toàn ở Ấn Độ để đáp ứng nguyện vọng của nhân dân”.

3. Việc giải thích từ Svatja (tự trị ) phải phù hợp với điểm I trong Điều lệ của

Đảng Quốc Đại Ấn Độ .

Một số các lãnh tụ do M.Jinnah, K.Dwarkadas đứng đầu đã phát biểu chống lại sự

thay đổi này. Sau cuộc tranh cãi gay gắt kéo dài Hội nghị đã thông qua dự án với đa số

phiếu. Do vậy, 20 thành viên do M.Jinnah đứng đầu đã tuyên bố ra khỏi Đảng Quốc Đại.

Từ đây Liên đoàn tự trị đã chấm dứt sự tồn tại độc lập và trở thành một bộ phận của Đảng

Quốc Đại.

Đến tháng 12/1921, ông được trao uy quyền chấp hành trong Đảng Quốc dân Đại

hội. Dưới sự lãnh đạo của Gandhi, Quốc dân Đại hội được tổ chức lại với một hiến pháp

mới có mục đích là tự chủ. Ai cũng có thể trở thành đảng viên sau khi đóng một lệ phí trên

danh nghĩa. Một tổ chức có giai cấp của các uỷ ban được thành lập nhằm cải thiện kỉ luật

và kiểm soát những phong trào từ trước đến giờ không có định hình và khuếch tán, chuyển

biến đảng từ một tổ chức tinh duệ số ít thành một đảng lớn với sức lôi cuốn toàn quốc.

Gandhi mở rộng mặt trận bất bạo lực, bao gồm chính sách "bản quốc" (svadeshi)-

nghĩa là tẩy chay những sản phẩm ngoại lai, đặc biệt là những sản phẩm Anh. Liên hệ với

chính sách này là sự ủng hộ việc mang y phục tự dệt ở nhà, được gọi là khadi, của ông,

khuyên tất cả các người Ấn ăn mặc như vậy thay vì dùng đồ vải của người Anh. Gandhi

khuyến cáo toàn dân, nam cũng như nữ, mỗi ngày dành chút thời gian để dệt vải ủng hộ

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

30

phong trào đấu tranh giành độc lập. Đây là chiến thuật nhằm khắc sâu kỉ luật và sự cống

Lịch sử thế giới hiện đại hiến để loại trừ những người không có thiện ý và những người hoài bão, và bao gồm phụ

nữ vào phong trào ở một thời điểm mà nhiều người cho rằng, những việc làm như vậy

không đáng trọng cho phụ nữ.

Thêm vào việc tẩy chay các sản phẩm Anh, Gandhi cũng khuyến khích dân chúng

tẩy chay các cơ quan giáo dục và pháp tòa Anh, từ chức không làm cho chính quyền, từ

chối không đóng thuế và huỷ bỏ những danh hiệu, huy chương Anh. Chương trình mới này

đã đạt được sức lôi cuốn và thành công rộng lớn, gia lực cho người Ấn chưa từng có từ xưa

nay. Nhưng khi phong trào vừa đạt đỉnh điểm thì đã chấm dứt một cách đột ngột vì một

cuộc xung đột bạo lực tại thị xã Chauri Chaura, bang Uttar Pradesh vào tháng 2/1922.

Chauri Chaura là một ngôi làng nhỏ ở quận Gorakhpur của bang Uttar Pradesh. Ngày

5/2/1922, cảnh sát ở đó bắn vào một nhóm người biểu tình. Những người biểu tình trả đũa

bằng cách đốt cháy đồn cảnh sát, gây ra cái chết của 22 người cảnh sát tại đây. Thực tế này

cho thấy đường lối "Bất bạo lực" đã bị vượt qua. Trước tình hình đó, Gandhi vội vã triệu

tập Hội nghị Ban chấp hành Đảng Quốc Đại vào ngày 12/2/1922 ở Bácđôli, quyết định

đình chỉ phong trào bất hợp tác, thay vào đó là một chương trình "Xây dựng” (kéo sợi, giáo

dục) mang tính chất ôn hoà. Quyết định này đã làm cho phong trào đấu tranh bị giảm sút

nhanh chóng. G.Nêru cũng thừa nhận là quyết định này "đã phần nào gây ra tình trạng mất

tinh thần. Có thể nói rằng việc bóp nghẹt đột ngột phong trào rộng lớn đã góp phần tạo ra

một tình hình bi thảm trong nước”. Phải mất 6 năm sau phong trào đấu tranh của nhân

dân Ấn Độ mới phát triển trở lại.

2. Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ từ năm 1923-1928

Sau nghị quyết Bácđôli (1922), thực dân Anh càng tăng cường hơn nữa chính sách

đàn áp phong trào đấu tranh, Gandhi bị kết án 6 tháng tù giam (tháng 3/1922). Đây không

phải lần đầu Gandhi bị bỏ tù nhưng là lần bị giam cầm lâu nhất. Bắt đầu từ ngày 18/3/1922,

ông ngồi tù khoảng hai năm và được thả tháng 2/1924 sau một ca mổ viêm ruột thừa.

Đồng thời với sự đàn áp là chính sách chia rẽ dân tộc, gây thù hằn giữa các tôn giáo,

thực dân Anh đã kích động để gây ra những cuộc xung đột máu thê thảm giữa người Ấn và

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

31

người Hồi vào năm 1925 nhằm phá vỡ tình đoàn kết Ấn-Hồi đã được cũng cố từ năm 1916.

Lịch sử thế giới hiện đại Cũng trong thời gian này, thực dân Anh tiến hành đàn áp gắt gao trước hoạt động của

những người cộng sản Ấn Độ trên đường tiến đến thành lập Đảng.

Không có nhân cách hùng mạnh của Gandhi để kiềm chế các người đồng sự, Đảng

Quốc Đại bắt đầu tan vỡ, phân thành hai phái trong thời gian ông ngồi tù. Một phái được

dẫn đầu bởi Chitta Ranjan Das và Motilal Nehru, ủng hộ việc đảng tham dự cơ quan lập

pháp. Phái thứ hai được dẫn đầu mởi Chakravarti Rajagopalachari và Sardar Vallabhbhai

Patel, phản đối việc này. Thêm vào đó là việc hợp tác giữa tín đồ Ấn Độ giáo và Hồi giáo

mạnh mẽ trong những chiến dịch bất bạo động giờ đây sa sút.

Lúc bấy giờ uy tín của Đảng Quốc Đại Ấn Độ bị giảm sút nghiêm trọng trong quần

chúng nhân dân. Số lượng đảng viên từ chỗ 10 triệu người đến năm 1924 chỉ còn khoảng

30 vạn người. Đảng Quốc Đại thực hiện “chương trình xây dựng” do Gandhi đề ra, kêu gọi

nhân dân khôi phục các nghề thủ công truyền thống, chống các tệ nạn xã hội (uống rượu,

hút thuốc phiện), đấu tranh xoá bỏ chế độ đẳng cấp. Năm 1925, hội những người kéo sợi

được thành lập do Gandhi đứng đầu. Hội có nhiệm vụ truyền bá tư tưởng của Gandhi trong

nhân dân, góp phần đấu tranh bài trừ hàng ngoại hoá nhằm giúp người lao động thoát khỏi

sự bóc lột của chủ nghĩa đế quốc. Trong thực tế, Hội đã có ảnh hưởng rộng rãi trong quần

chúng ở nông thôn.

Nhìn chung, phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân đã lắng xuống. Tuy

* Sự ra đời của các Đảng Công nông và sự phát triển của phong trào

công nhân-nông dân Ấn Độ

nhiên, đây cũng là thời kỳ chuẩn bị lực lượng cho một cuộc đấu tranh mới.

Theo những bản thống kê nǎm 1921, tại Ấn Độ, có 105.510.858 công nhân nam, nữ

làm trong nông nghiệp, 346.349 người trong các mỏ, 16.728.373 trong công nghiệp,

5.819.375 trong thương mại. Theo Factory inspection report nǎm 1923, trong thời kỳ này,

có 1.418.000 công nhân nữ, nam làm việc trong các nhà máy thực sự là nhà máy so với

1.270.000 người nǎm 1921.

Phần đông những người vô sản nông nghiệp làm việc trong các đồn điền trồng cây

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

32

công nghiệp (đồn điền cà phê, cao su và cây chàm: 382.300 công nhân; đồn điền chè:

Lịch sử thế giới hiện đại 695.100; đồn điền trồng bông: 2.875.122; những đồn điền khác trồng cây có sợi:

15.672.372).

Lương rất thấp, một công nhân có trình độ tay nghề trong ngành dệt lĩnh 29 rupi

(bằng 250 phrǎng) mỗi tháng. Một nữ công nhân cũng làm việc như thế chỉ lĩnh một nửa số

tiền này. Ngày làm việc rất dài, những người thợ mỏ làm hơn 12 giờ mỗi ngày.

Những điều kiện vệ sinh trong nhà máy cũng như trong nhà ở của công nhân thật tồi

tệ. Người ta thường thấy sáu gia đình với tổng số 30 người sống chen chúc trong một nhà

dành cho công nhân dài 5 mét và rộng 4 mét. Phần lớn các nghiệp đoàn đều chịu ảnh

hưởng chủ nghĩa cải lương của Công Đảng Anh.

Trong thời kì này, phong trào cách mạng thế giới cũng như các thành tựu của công

cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, những tin tức thắng lợi cuộc cách mạng Trung

Quốc đang đấu tranh đã tác động mạnh mẽ đến cuộc đấu tranh của nhân dân Ấn Độ.

Từ những nhóm cộng sản đầu tiên xuất hiện vào năm 1922 đến 1924, các nhóm

cộng sản đã bí mật hoạt động ở Ấn Độ và ngày càng tăng cường truyền bá các tư tưởng của

chủ nghĩa Mác-Lênin vào Ấn Độ. Năm 1923, nhóm những người cộng sản ở Bombay đã

xuất bản tạp chí "Người xã hội chủ nghĩa” do S.A.Dange làm chủ biên. Những người cộng

sản Ấn Độ tham gia họat động trong các chi bộ cơ sở của Đảng Quốc Đại và tích cực tiến

hành các cuộc đấu tranh cùng với công nhân.

Năm 1926, Đảng Công nông ra đời ở Bengan và tháng 5/1927 đã thông qua một bản

cương lĩnh trong đó có những điểm mới đối với Ấn Độ: đấu tranh giành độc lập hoàn toàn

cho Ấn Độ, tiến tới thành lập một nước Cộng hoà Dân chủ Ấn Độ, thủ tiêu quyền chiếm

hữu ruộng đất của đại địa chủ phong kiến, quốc hữu hoá những xí nghiệp quan trọng có lợi

ích công cộng, ban hành luật ngày làm 8 giờ và quy định tiền lương tối thiểu.

Vào nǎm 1926 có 130 cuộc bãi công với 131.655 người tham gia. Nǎm 1927, có 128

cuộc bãi công với 186.811 người tham gia. Như vậy nǎm 1927 có kém nǎm 1926 hai cuộc

bãi công, nhưng số người bãi công cao hơn nhiều (hơn 55.156 người) và số ngày bỏ việc

nǎm 1927 tǎng gấp đôi nǎm 1926.

Trong quá trình đấu tranh của phong trào công nhân trong thời kỳ này, công nhân

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

33

Bombay đã dẫn đầu phong trào. Năm 1925, Bombay chiếm 51% tổng số các cuộc bãi công

Lịch sử thế giới hiện đại trong toàn quốc. Cũng trong năm 1925 đã diễn ra cuộc bãi công của công nhân đường xe

lửa Tây Bắc Ấn Độ. Năm 1926 công nhân đường sắt Bengan-Nátpua đã tiến hành một cuộc

bãi công lớn, chính quyền thực dân phải huy động quân đội đến đàn áp.

Nǎm 1928 bắt đầu bằng dấu hiệu phục hồi mạnh mẽ của phong trào công nhân.

Không kể những cuộc bãi công chính trị chống Uỷ ban Ximông, số cuộc đấu tranh mang

tính chất thuần tuý kinh tế diễn ra trong sáu tuần lễ đầu của nǎm đó như sau: ngày l0/1, bãi

công của 22.000 thợ dệt ở Bombay. Ngày 22/1, bãi công của 400 thợ thuyền đường xe hoả

tại Nắcpua; 21/1, thợ luyện kim ở Chalima bãi công đòi tǎng lương; 31/l, 700 công nhân xe

lửa Cancutta cũng bãi công đòi tǎng lương. Ngày 2/2, bãi công của lái xe tắc xi tại Rangun

chống một thứ thuế mới do thống đốc Anh đặt ra; 11/2, bãi công của 2.500 công nhân

khuân vác ở Rangun; 16/2, bãi công của 8.000 thợ nhà máy, Kôhinpua ở Bombay; 17/2, bãi

công của 1.700 công nhân nhà máy Đarivan.

Trong những năm 1927-1928, nhiều Đảng Công nông khác được thành lập ở

Bombay, Biha, các tỉnh biên giới Tây Bắc và nhiều tỉnh khác.

Nhìn chung, các Đảng Công nông chưa phải là đội tiền phong chân chính của công

nhân Ấn Độ bởi tính chất phức tạp của nó. Riêng Đảng Công nông Bombay tỏ ra cách

mạng nhất với tờ báo "Tia sáng”-một tờ báo chủ yếu tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin,

giáo dục đường lối cách mạng vô sản cho giai cấp Ấn Độ.

Gandhi trở về địa vị hàng đầu vào năm 1928. Một năm trước đó, chính quyền Anh

đề cử một hội đồng cải cách hiến pháp dưới sự lãnh đạo của Sir John Simon mà không có

tên một người Ấn nào trong hội đồng. Kết quả của việc này là sự tẩy chay hội đồng của các

đảng Ấn Độ. Tại Quốc dân Đại hội Calcutta vào tháng 12/1928, Gandhi đã đề nghị Đại hội

thông qua một bản Nghị Quyết đòi chính quyền thuộc địa Anh trong vòng một năm phải

công nhận quyền tự trị của người dân Ấn; nếu không sẽ tiến hành một cuộc đấu tranh bất

bạo động để giành lại độc lập. Chính quyền thuộc địa Anh hoàn toàn im lặng và đã không

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

34

quan tâm gì đến yêu sách của Đảng Quốc Đại.

Lịch sử thế giới hiện đại

3. Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ trong những năm

1929-1939

Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1939 ở các nước tư bản chủ nghĩa đã tác động mạnh

mẽ đến Ấn Độ. Nền kinh tế Ấn Độ trở nên hết sức khó khăn. Công nghiệp bị thu hẹp lại.

Tiền lương công nhân bị hạ xuống 30-40%, số công nhân bị sa thải ngày càng tăng. Sản

xuất nông nghiệp cũng bị giảm sút nghiêm trọng, đời sống của nhân dân trở nên cùng cực.

Cũng trong thời gian này, quá trình tập trung và tích tụ tư bản, quá trình thành lập các công

ty tư bản Anh-Ấn được đẩy mạnh. Hai ngành công nghiệp mới ở Ấn Độ ra đời là công

nghiệp đường và xi măng, phần lớn nằm trong tay tư bản Ấn Độ. Thực tế cuộc khủng

hoảng kinh tế ở Ấn Độ đã làm cho mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc và đế quốc Anh càng

trở sâu sắc và nó đã tạo ra phong trào đấu tranh sôi nổi trong những năm trước Chiến tranh

a) Hoạt động đấu tranh của Gandhi và Đảng Quốc Đại

thế giới thứ hai.

Lúc bấy giờ, trong nội bộ Đảng Quốc Đại đã xuất hiện nhóm "tự trị” với những chủ

trương cấp tiến của G.Nêru. Phái tả trong Đảng do G.Nêru đứng đầu gồm những đảng viên

trẻ tuổi chủ trương họat động chính trị trong và ngoài nước, liên hệ và tìm sự ủng hộ của

các tổ chức quốc tế trong phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Mục tiêu của phái tả

đề ra là "tự trị” hoàn toàn. Đại hội Laho năm 1929 đã bầu Nêru làm Chủ tịch Đảng Quốc

Đại. Sự chuyển biến này của Đảng Quốc Đại đánh dấu một bước tiến mới của phong trào

đấu tranh đòi độc lập ở Ấn Độ .

Thực tế, sự phục hồi của phong trào quần chúng đã diễn ra từ năm 1928, khi chính

phủ Anh cử phái đoàn Simơn đến Ấn Độ để "Nghiên cứu một bản dự thảo Hiến pháp”

cho Ấn Độ. Đảng Quốc Đại kêu gọi quần chúng tẩy chay phái đoàn Simơn với khẩu hiệu

"Simơn cút đi”.

Với việc Đảng Quốc Đại nêu cao khẩu hiệu "Tự trị hoàn toàn”, phong trào đấu tranh

của quần chúng càng phát triển mạnh mẽ. Vào lúc nửa đêm ngày cuối cùng của năm 1929,

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

35

bước sang năm 1930, Nêru đã trịnh trọng kéo lá cờ 3 sắc (đỏ, trắng, xanh lá cây) được chọn

Lịch sử thế giới hiện đại làm Quốc kỳ của nước Ấn Độ độc lập trong tiếng hô vang của các đại biểu Cách mạng

muôn năm. Ngay sau đó, nhiều cuộc biểu tình rầm rộ được tổ chức khắp đất nước vào ngày

26/1/1930. Trong các cuộc biểu tình này, người Ấn Độ đã đọc lời thế đấu tranh cho nền

độc lập của đất nước. Gandhi đề nghị Đảng Quốc Đại chọn ngày 26/1/1930 làm ngày Kỷ

niệm Độc lập. Đề nghị này đã được hầu hết các đảng phái và các nhóm quần chúng ủng hộ

mạnh mẽ.

Sau ngày 26 /1/1930, Gandhi đã nêu yêu sách 11 điểm trên tờ “Ấn Độ trẻ” đòi thực

dân Anh cải cách kinh tế, trả tù chính trị. Tiếp đó, Gandhi yêu cầu nhà cầm quyền Anh

phải bỏ chính sách độc quyền về muối. Chính quyền Anh đã bác bỏ các yêu cầu này và

Gandhi chính thức phát động một chiến dịch "phản kháng bất bạo lực” mới gọi là "chấp trì

chân lí phản đối thuế muối” vào tháng 2/1930. Cuộc Hành trình muối (Salt March) từ

Ahmedabad đến Dandi nổi tiếng kéo dài từ 21/3 đến 6/4/1930. Đây là cuộc hành trình nổi

tiếng nhất trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của Ấn Độ do Gandhi hướng dẫn. Ông đã

đi bộ 400 cây số để tự lấy nước biển làm muối đem về dùng, chống lại lệnh cấm làm Muối

của chính quyền Anh. Hàng ngàn người dân đã đi theo Gandhi đến bờ biển Dandi. Trên

đoạn đường này đã có mấy chục ngàn người dân bị bắt, bị cưỡng chế trở về và bị quản chế

tại nhà; nhưng hành động đàn áp này đã không làm nao núng, số người tham dự ngày một

quá đông.

Tháng 4/1930, Gandhi tiếp tục phát động phong trào "Bất hợp tác” với mục tiêu:

- Không tuân theo luật lệ về độc quyền muối.

- Tẩy chay hàng vải ngoại hoá.

- Tổ chức các đội kiểm soát việc mua bán vải vóc ở các cửa hàng.

- Kiểm soát sự lui tới ở các quán rượu và tiệm hút.

- Bãi bỏ sự đối xử bất công với những người thuộc đẳng cấp "không thể đụng đến”.

- Tổ chức biểu tình chống đế quốc Anh và các cuộc bãi công, bãi khoá của công

nhân học sinh sinh viên và viên chức.

Phong trào này được mọi tầng lớp trong xã hội Ấn Độ hưởng ứng đông đảo. Điều

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

36

này làm cho thực dân Anh hết sức lo sợ. Tháng 5/1930 chính quyền Anh ra lệnh bắt giam

Lịch sử thế giới hiện đại Gandhi và sau đó tuyên bố đặt mọi tổ chức, đảng phái chính trị (kể cả Đảng Quốc Đại) ra

ngoài vòng pháp luật, chỉ trong năm 1930 có 60.000 người bị bắt.

Sự đàn áp của thực dân Anh càng làm cho phong trào quần chúng trở nên mạnh

mẽ quyết liệt. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh vũ trang của nhân dân vùng Sôlaqua, Petsava,

các cuộc bãi công ở Bombay, Bengan, Pengiáp, Mađrát. Trong phong trào đấu tranh, các

tầng lớp nhân dân đã hình thành một cách tự nhiên mặt trận nhân dân thống nhất chống

thực dân Anh. Tuy nhiên các cuộc đấu tranh đều tự phát, thiếu sự lãnh đạo, tổ chức chu đáo

nên đã thất bại trước sự đàn áp của chính quyền thực dân.

Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng, ngày 26/1/1931 thực dân

Anh vội thả Gandhi và nhiều lãnh tụ khác của Đảng Quốc Đại. Ngày 5/3/1931, Gandhi ký

với Phó vương Irwin một bản "hiệp định Gandhi-Irwin”, Qua hiệp ước này, chính phủ Anh

đồng ý trả tự do cho tất cả các tù nhân chính trị, đổi lại Gandhi phải ngưng toàn bộ cuộc

đối đầu bất bạo động. Ngoài ra, chính quyền Anh còn mời Gandhi sang London tham dự

một Hội nghị bàn tròn với tư cách là người đại diện Đảng Đại Hội Quốc Dân Ấn Độ.

Tại "hội nghị bàn tròn” Gandhi hy vọng đàm phán với chính phủ Anh trên cơ sở "dự

án Môtilan Nêru”, còn chính phủ Anh đi đến hội nghị với ý đồ củng cố địa vị thống trị Ấn

Độ bằng chính sách chia rẽ các cộng đồng tôn giáo và đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ, do đó

hội nghị không đạt được một kết quả nào. Nhưng Gandhi đã không hài lòng với Hội nghị

bàn tròn vì chính quyền Anh không thực sự muốn trao trả quyền độc lập lại cho dân Ấn.

Hơn thế nữa, sau khi Lord Irwin về hưu người thay thế là Lord Willingdon lại tung ra

chính sách đàn áp mạnh mẽ những người lãnh đạo trong các lực lượng đấu tranh giành độc

lập nên Gandhi đã tuyên bố tiếp tục thực hiện các cuộc đấu tranh cho đến khi nào chính

quyền trao trả độc lập cho Ấn. Chính quyền Anh đã bắt giữ Gandhi và tìm cách cô lập mọi

ảnh hưởng của ông đối với phong trào giành độc lập; nhưng mọi nỗ lực của chính quyền

thực dân Anh đều thất bại vì tiếng nói của Gandhi đã được hầu hết dân Ấn tin tưởng dù ông

ở bất cứ đâu.

Tháng 1/1932, Gandhi về nước và tuyên bố phát động lại phong trào bất hợp tác

mới trong toàn quốc. Phong trào bất hợp tác mới kéo dài đến cuối năm 1932 mới kết thúc,

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

37

tuy nhiên do sự đàn áp mạnh mẽ của chính quyền thực dân nên quy mô của nó không rộng

Lịch sử thế giới hiện đại lớn như năm 1930. Ngày 8/5/1933, Gandhi bắt đầu một cuộc tuyệt thực 21 ngày để phản

đối sự đàn áp của người Anh tại Ấn Độ. Mùa hè năm 1934, ông ba lần bị mưu hại không

thành công.

Mùa hè năm 1933, khi Đảng Quốc Đại thảo luận về việc nên hay không nên tham

gia tuyển cử vào quốc hội liên bang, Gandhi thấy là sự hiện hữu của ông ở trong Đảng có

thể tạo khó khăn cho việc chọn lựa hướng đi mới của Đảng vào lúc đó; đồng thời tránh sự

khai thác tuyên truyền của chính quyền Anh đối với việc Đảng Quốc Đại công nhận quyền

lực chính trị của Anh, nên Gandhi đã rút lui khỏi Đảng.

Năm 1936, Gandhi phục hoạt trở lại, khi đồng minh của ông là Nehru lên làm chủ

tịch Đảng Quốc Đại. Nhưng vào lúc này, Gandhi đối diện với rất nhiều vấn đề phức tạp ở

trong Đảng. Đó là ông chỉ muốn chuyên tâm vào con đường đấu tranh giành độc lập và

chưa nghĩ nhiều về viễn cảnh xây dưng chính quyền tương lai; nhưng khuynh hướng chung

của các nhà lãnh đạo đảng vào lúc đó là muốn đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đặc

biệt là Subhas Chandra Bose, một đối thủ chính trị của Nehru cho rằng cách đấu tranh của

Gandhi quá chậm và không hiệu quả.

Khi S.Bose lên làm chủ tịch Đảng Quốc Đại, sự tranh cãi về phương thức đấu tranh

giữa Gandhi và Bose đã xảy ra một cách khá gay gắt từ năm 1938. Nhiều người đã tuyên

bố rút lui khỏi đảng hay từ chức các trách vụ để phản đối Bose đã không thi hành các quan

b) Hoạt động đấu tranh của Đảng Cộng Sản và công nhân Ấn Độ

niệm bất bạo động của Gandhi.

Cũng trong thời kỳ này, phong trào công nhân Ấn Độ được củng cố qua các cuộc

đấu tranh. Các tiểu tổ cộng sản đã tăng cường các họat động chung và tháng 11/1933, các

tiểu tổ cộng sản đã hợp nhất với nhau, thành lập Đảng Cộng sản Ấn Độ, cử ra Ban chấp

hành Trung ương lâm thời của Đảng. Một chương trình hành động chung đã được Ban

chấp hành Trung ương lâm thời đưa ra nhằm tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ

ở Ấn Độ. Tuy nhiên, trong điều kiện của xã hội Ấn Độ, cùng với sự đàn áp tàn bạo những

người cộng sản của chính quyền thực dân, những họat động của Đảng Cộng sản Ấn

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

38

Độ được tiến hành trong điều kiện cực kỳ khó khăn. Tháng 7/1934, Đảng Cộng sản Ấn

Lịch sử thế giới hiện đại Độ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và mãi đến năm 1943 Đảng mới có thể tiến hành Đại hội

lần thứ nhất.

Năm 1933, Nghị viện Anh thông qua một đạo luật mới về việc cai trị Ấn Độ. Và đến

năm 1935, nó được công bố cho nhân dân Ấn Độ với tên gọi là "Hiến pháp mới” của Ấn

Độ. Thực chất đây là một đạo luật thống trị, không thừa nhận quyền tự trị của nhân dân Ấn

Độ. "Hiến pháp mới” đã gây nên một làn sóng phản đối mạnh mẽ ở Ấn Độ, nhân dân Ấn

Độ gọi đây là "Hiến pháp nô dịch”, Đảng Quốc Đại tuyên bố sẽ đấu tranh đòi triệu tập Hội

nghị lập hiến toàn Ấn Độ. Liên đoàn Hồi giáo cũng lên tiếng phản đối.

Phong trào phản đối bản "Hiến pháp nô dịch” đã đoàn kết được tất cả các lực lượng

chính trị thành một mặt trận thống nhất trên thực tế. Biểu hiện rõ nhất là cuộc mít tinh của

nhân dân Bombay để phản đối "Hiến pháp mới”, tổ chức ngày 7/2/1935, hầu hết các đảng

phái chính trị và tổ chức quần chúng yêu nước đều tham gia tích cực vào cuộc mít tinh này.

Tháng 4/1936, Đại hội Tổng nông hội toàn quốc họp tại Lắcnao, kết án "Hiến pháp mới”

và kêu gọi nông dân toàn quốc đoàn kết với các lực lượng tiến bộ đấu tranh chống thực

dân. Tháng 5/1936, tổng công hội Ấn Độ cũng tiến hành đại hội và ra Nghị quyết thành lập

Mặt trận dân tộc thống nhất, chủ trương hợp tác với Đảng Quốc Đại. Chính trong thời kỳ

này Đảng Cộng sản Ấn Độ đã tích cực tuyên truyền và tổ chức cho sự hình thành Mặt trận

thống nhất chống đế quốc. Do vậy phong trào công nhân phát triển rất mạnh mẽ. Trong

những năm trước Chiến tranh thế giới thứ hai, hàng năm ở Ấn Độ có gần 400 vụ đình công,

thu hút từ 40 đến 50 vạn công nhân tham gia, trong số đó có khoảng 1/2 các cuộc đình

công kết thúc thắng lợi.

Thực dân Anh đã tìm đủ mọi cách để phá họai sự thống nhất của các lực lượng tiến

bộ ở Ấn Độ vào một mặt trận dân tộc phản đế. Chúng ra sức lợi dụng các lãnh tụ phản

động của Liên đoàn Hồi giáo và tổ chức Hinđu Mahasabha, gây ra nhiều vụ xung đột giữa

người Ấn và người Hồi. Từ năm 1937 đến 1939, ở Ấn Độ đã xảy ra 57 vụ xung đột đổ máu

giữa các cộng đồng tôn giáo. Điều này đã làm suy yếu phong trào đấu tranh của quần

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

39

chúng.

Lịch sử thế giới hiện đại

4. Ấn Độ trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945)

Trong những năm trước Chiến tranh thế giới thứ hai, các lực lượng dân chủ trong

nước, trong đó có các lãnh tụ Đảng Quốc Đại, đứng đầu là Nêru, đã tích cực đấu tranh

chống chủ nghĩa phát xít, tỏ tình đoàn kết và ủng hộ nhân dân Tây Ban Nha, nhân dân

Abixini (Êtiôpia ngày nay), nhân dân Trung Quốc đang chiến đấu chống bọn phát xít xâm

lược Đức, Italia, Nhật Bản. Đồng thời họ cũng ra sức chống lại âm mưu của thực dân Anh

muốn lôi kéo Ấn Độ vào cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Mặc dù điều này đã không

thành công, nhưng những họat động tích cực của Nêru và Đảng Quốc Đại đã có ý nghĩa lớn

trong công cuộc đấu tranh đòi độc lập Ấn Độ ở giai đoạn sau này.

Ngày 1/9/1939, quân đội Đức tấn công Ba Lan. Hai ngày sau thì Anh và Pháp tuyên

chiến với Đức. Thế là ba cường quốc ở châu Âu cùng với Ba Lan chính thức tham chiến.

Chiến tranh thế giới bắt đầu.

Trong cuộc đại chiến lần thứ hai này chiến trường không chỉ ở phạm vi châu Âu mà

còn kéo theo một hệ thống các nước thuộc địa rộng lớn trên toàn thế giới…và trong đó có

cả Ấn Độ, một thuộc địa rộng lớn nhất trong hệ thống thuộc địa của thực dân Anh, là đối

tượng đầu tiên mà thực dân Anh hướng đến.

Khi thế chiến thứ hai bùng nổ vào năm 1939, Gandhi đưa đề nghị rằng người Ấn sẽ

hỗ trợ nước Anh tham chiến nhưng ngược lại chính quyền Anh phải tôn trọng quyền độc

lập của người Ấn. Chính phủ Anh không những không chấp nhận đề nghị này của Gandhi

mà còn âm mưu gây ra những hiềm khích giữa Ấn Độ Giáo và Hồi Giáo để tạo sự phân

hóa.

Tháng 9/1939, chính phủ Anh tự ý tuyên bố Ấn Độ là một nước tham chiến. Quyết

định độc đoán này đã gây ra một làn sóng phản đối mạnh mẽ trong nhân dân Ấn Độ. Phong

trào đấu tranh bùng lên mạnh mẽ khắp trong nước, đòi thành lập một chính phủ quốc gia

Ấn Độ.

Năm 1940 các lãnh tụ Liên đoàn Hồi giáo đòi chia cắt Ấn Độ ra thành 2 quốc gia,

một theo người Hồi, một theo người Ấn Độ giáo. Được chính quyền thực dân Anh hậu

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

40

thuẫn, Liên đoàn Hồi giáo ra sức lôi kéo đông đảo người Hồi về phía mình.

Lịch sử thế giới hiện đại

Chính quyền thực dân Anh còn đưa nửa triệu quân sang Ấn Độ, tình hình ở Ấn Độ

trở nên căng thẳng, nhân dân căm phẫn vùng lên đấu tranh ở nhiều thành phố lớn như

Mađơrát, Bombay, Nagơpua công nhân và học sinh biểu tình phản đối chính sách vơ vét

sức người và của cải ở Ấn Độ cung cấp cho mặt trận và chính quyền thực dân (chỉ tinh

riêng vùng Bengan đã có gần 4 triệu người chết đói). Phong trào đấu tranh càng lên cao,

nhất là mỗi khi giá lương thực, thực phẩm và giá hàng công nghiệp tăng lên.

Gandhi đã vận động các lực lượng chống Anh ra một quyết nghị chung đòi chính

quyền phải rút khỏi Ấn Độ. Đương nhiên, một số tổ chức và chính trị gia thân Anh đã bị

chính quyền Anh xúi giục ra thông tư phản đối nghị quyết của Gandhi, cho rằng những đòi

hỏi mạnh mẽ như kiểu này không phù hợp vào lúc này. Tuy nhiên, nghị quyết đòi người

Anh rút về nước, đã tạo một tác động tâm lý rất lớn trong lòng dân Ấn, với nhiều cuộc biểu

tình, mít tinh được tổ chức ở nhiều nơi và đã dấy lên phong trào giành độc lập mạnh mẽ

hơn lúc nào hết.

Cũng như trong những năm Chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản Ấn Độ lợi dụng

tình thế này và phát triển nhanh chóng. Mặc dù vậy, những lực lượng dân chủ và tiến bộ

trong nước ngày càng lớn mạnh. Trong những năm chiến tranh, giai cấp công nhân lớn

mạnh hơn trước, số lượng công nhân trong toàn quốc tăng từ 5 triệu lên 6 triệu, các tổ chức

nông dân cũng không ngừng phát triển.

Năm 1942 Đảng cộng sản Ấn Độ được hoạt động công khai và sử dụng hình thức

hợp tác để mở rộng ảnh hưởng của mình trong quần chúng, số lượng đảng viên là 16.000

năm 1943 (năm 1946 là 53.000 người). Ảnh hưởng của Đảng cộng sản ngày càng sâu rộng

trong quần chúng nhân dân, trong các tầng lớp công nhân, nông dân, học sinh, trí thức…

Chính quyền thực dân Anh một mặt theo đuổi chính sách “chia để trị” giữa người

Ấn Độ giáo và Hồi giáo, mặt khác ra sức vơ vét lương thực của Ấn Độ làm cho phong trào

đấu tranh trong nước càng sôi sục hơn. Bên cạnh đó nhiều tổ chức giới trí thức cũng xuất

hiện và phát triển mạnh như: Hội Liên hiệp sinh viên và học sinh toàn quốc, hội nhà văn…

Tháng 8/1942 Đảng Quốc đại một lần nữa đòi thành lập chính phủ quốc gia Ấn Độ.

Để đối phó với yêu sách này, chính quyền Anh đã ra lệnh công an và sử dụng cả quân đội

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

41

để đàn áp khiến cho hàng ngàn người bị bắt và bị giết. Gandhi kêu gọi mọi người đấu tranh

Lịch sử thế giới hiện đại trong ôn hòa, bất bạo động và kiên quyết lập trường đấu tranh vì tự do của Ần Độ, cho đến

khi chính quyền Anh phải thừa nhận độc lập. Gandhi và nhiều lãnh tụ Đảng Quốc Đại bị

bắt, trong đó có Gandhi, Nêru, Abun Kalam, Ađát…, đã bị bắt giữ vào ngày 9/8/1942 tại

Mumbai.

Sau khi xảy ra vụ bắt bớ các lãnh tụ của Đảng Quốc Đại, một phong trào đấu tranh

chính trị lại bùng lên ở Ấn Độ nhằm phản đối chính sách của thực dân Anh. Ở nhiều nơi đã

diễn ra những cuộc bạo động tự phát của quần chúng chống chính quyền. Trước tình hình

đó, thực dân Anh đã thẳng tay đàn áp phong trào, bắt giam hàng nghìn người. Phong trào

đấu tranh của quần chúng tạm thời lắng xuống.

Sau khi bị bắt giam vào tháng 8/1942, Gandhi bị giam hai năm trong điện Aga Khan

tại Pune. Do ảnh hưởng cái chết của vợ của ông là bà Kasturbai và người thư ký mà ông

coi như con ruột là Mahadev Desai, trong thời kỳ này, khiến sức khoẻ của ông suy kiệt đột

ngột, chính quyền Anh sợ ông chết trong tù nên đã phải trả tự do cho ông vào năm 1944.

Mặc dù chính quyền Anh đã đàn áp và khống chế được phong trào giành độc lập

nhưng thái độ của họ đã thay đổi khá nhiều vào lúc này. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ

hai chấm dứt, chính quyền Anh đã tự động trả tự do cho hơn 100 ngàn tù chính trị và nhất

là đưa ra những tín hiệu sẵn sàng thương lượng với các nhà lãnh đạo Ần trong quốc hội để

trao trả độc lập.

Có thể dễ nhận thấy rằng phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ trong những

năm Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) được tiến hành với mục tiêu chủ yếu là đòi

thành lập một chính phủ quốc gia ở Ấn Độ. Dù rằng những kết quả cụ thể còn bị hạn chế

bởi các chính sách của thực dân Anh cũng như sự rạn nứt trong quan hệ giữa Đảng Quốc

đại và Liên đoàn Hội giáo. Tuy nhiên sau Chiến tranh thới giới thứ hai kết thúc, cuộc đấu

tranh của nhân dân Ấn Độ chuyển sang một giai đoạn mới mạnh mẽ, quyết liệt hơn và đã

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

42

buộc thực dân Anh phải thừa nhận độc lập ở Ấn Độ.

Lịch sử thế giới hiện đại

KẾT LUẬN

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Gandhi "đã đặt viên đá đầu tiên để xây dựng lên thuyết

bất hợp tác và bất bạo động". "Bất hợp tác" và "bất bạo động" đều là những tư tưởng

phương pháp đấu tranh trong con đường cứu nước Ấn Độ đó là sự sáng tạo tuyệt vời của

Gandhi. Học thuyết "bất bạo động" của M.Gandhi có cội rễ từ lịch sử tôn giáo ở Ấn Độ mà

trực tiếp là Ấn Độ giáo.

Gia đình M.Gandhi và bản thân M.Gandhi đều theo Ấn Độ giáo, thuộc phái Jain.

Giáo lý của giáo phái này được xây dựng chủ yếu trên hai nguyên tắc: thứ nhất là

"Ahimsa" tức là không làm điều ác, không được sát sinh; thứ hai là "Satyagraha" nghĩa là

kiên trì chân lý, giữ vững lòng tin. Có thực hiện được hai điều này, con người mới được

siêu thoát và lên cõi Niết bàn. Ở mộtt xứ sở có nhiều tôn giáo như Ấn Độ, M.Gandhi đã tìm

đến cái chung giữa các tôn giáo để đoàn kết lực lượng, đó là Đức tin và cái Thiện. Con

đường đấu tranh hoà bình "bất bạo động" đã phù hợp với tình hình Ấn Độ nó được quần

chúng nhân dân Ấn Độ chấp nhận và nó đã chỉ đường cho nhân dân Ấn Độ đi đến thắng lợi

cuối cùng.

Bằng "lòng nhân ái" của mình, Gandhi đã "thức tỉnh" đoàn kết nhân dân Ấn Độ vì

một mục tiêu nhất quán. Đó là giải phóng dân tộc Ấn Độ ra khỏi ách áp bức của chế độ

thực dân. Sự tài tình của ông là đã giải quyết rất thành công vấn đề ở một xứ sở "đa dạng

và phức tạp" về tôn giáo.

Tư tưởng "bất bạo động" đã được nhân dân Ấn Độ theo đuổi một cách thắng lợi.

Con đường cứu nước mà Gandhi đưa ra, phần nào đấy đã quy định con đường đấu tranh

của nhân dân Ấn Độ, con đường chuyển hoá tuần tự: tự trị - độc lập hoàn toàn.

Đường lối cách mạng của Gandhi đã được thực tiễn cuộc cách mạng giải phóng dân

tộc Ấn Độ kiểm nghiệm và chứng minh. Công lao lớn nhất của Gandi là đoàn kết đông đảo

quần chúng, kêu gọi củng cố tình hữu nghị giữa các dân tộc, khẳng định những mối quan

hệ bình đẳng giữa các quốc gia và giải quyết mọi xung đột quốc tế bằng đàm phán hoà

bình.

Như vậy, với một tinh thần kiên trì bất khuất đã theo đuổi sự nghiệp giải phóng dân

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

43

tộc của Ấn Độ. Trong cuộc đời củaông từng 17 lần ngồi tù và lần dài nhất là 6 năm, ông đã

Lịch sử thế giới hiện đại tuyệt thực 17 lần và lần dài nhất 21 ngày. Cho dù như thế, ông chưa bao giờ buông bỏ mục

tiêu thực hiện sự tự trị và độc lập của Ấn Độ. Chính vậy mà ông được nhân dân Ấn Độ

xem là bậc "thánh".

Có thể nói mỗi một dân tộc đều có những con người kiệt xuất. Với dân tộc Ấn Độ,

Gandhi là con người kiệt xuất, có đực hi sinh cao cả đã hiến dâng trọn đời mình cho sự

nghiệp cứu nước vì dân. Ông không những đã đề ra đường lối mà còn lãnh đạo trực tiếp

cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Ấn Độ. Gandhi là người mở cửa cho Ấn

Độ bước vào thời kỳ mới. Thời kỳ xây dựng và phát triển, thời kỳ làm chủ thực sự của dân

tộc Ấn Độ.

Hiện nay, trong công cuộc xây dựng đất nước, vấn đề xây dựng một cộng đồng bền

vững gắn kết các dân tộc, tôn giáo đẳng cấp Ấn Độ luôn là vấn đề có tính thời sự nóng

bỏng, đặc biệt là vấn đề xung đột Ấn-Hồi, có ảnh hưởng quyết định tới quá trình xây dựng

và phát triển đất nước. Tư tưởng và hành động của Gandhi luôn là kinh nghiệm lịch sử quý

báu với nhân dân và những nhà lãnh đạo Ấn Độ.

Cuộc đấu tranh đòi độc lập của nhân dân Ấn Độ được tiến hành dưới sự lãnh đạo

trực tiếp của Đảng Quốc Đại- đại diện cho tư sản Ấn Độ. Đảng ra đời năm 1885 theo ý

muốn của chính quyền thực dân, nhưng ngay sau 10 năm sau đó nó đã bắt đầu có tiếng nói

riêng của mình và đến những năm 1917-1920 nó đã có một đường lối chính trị vững chắc

đó là chủ nghĩa Găngđi. Có thể nói chủ nghĩa Gandhi là sự kết hợp những truyền thống văn

hóa Ấn Độ với quyền lợi của tư sản và dân tộc Ấn. Chính từ tư tưởng của Gandhi mà tư

sản Ấn Độ đã thành công trong cuộc đấu tranh đòi độc lập.

Cuộc đấu tranh đòi độc lập của nhân dân Ấn Độ diễn ra theo con đường của

Gandhi- con đường hòa bình. Tư tưởng đấu tranh hòa bình phản ánh một cách đi riêng, một

cách biểu diễn riêng của người Ấn về con đường đi tới tự do và tất nhiên cách đi riêng ấy

được quy định bởi những truyền thống văn hóa lịch sử Ấn Độ. Về văn hóa Ấn Độ là xứ sở

của tôn giáo và đó là cơ sở để Gandhi đề ra tư tưởng bất bạo lực (giáo lí Ahimsa), Ấn Độ

có nền văn minh phát triển từ sớm, được kết tinh trong các trường phái triết học, mà chủ

yếu là tìm hiểu bản ngã của nó đó là cơ sở lý thuyết của bất hợp tác. Về lịch sử Ấn Độ là

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

44

“đế quốc hướng nội”, đã chịu nhiều cuộc xâm lăng từ bên ngoài nhưng người Ấn Độ luôn

Lịch sử thế giới hiện đại chiến thắng bởi đặc điểm thu hút vào vòng ôm của họ những khác biệt để tạo nên sự thống

nhất trong đa dạng.

Tư tưởng đấu tranh bất bạo lực, sự lãnh đạo của tư sản Ấn cũng như từ đối sánh lực

lượng đã quy định con đường đấu tranh của nhân dân Ấn Độ đó là: Tự trị-độc lập hoàn

toàn. Tất nhiên giữa “tự trị” và “độc lập” là những bước chuyển hóa tuần tự. Chính con

đường đi tịnh tiến từ tự trị đến độc lập là một điều kiện để đảm bảo cho nhân dân Ấn Độ

tiến hành đấu tranh một cách hòa bình và ngược lại con đường đấu tranh bất bạo động cùng

với sự lãnh đạo của tư sản Ấn Độ cũng như so sánh lực lượng xã hội đã quy định con

đường tịnh tiến từ tự trị đến độc lập

Cuộc đấu tranh đòi độc lập của Ấn Độ do tư sản Ấn Độ lãnh đạo với một con đường

hòa bình. Tuy nhiên đường lối bất bạo động của Gandhi khi thâm nhập vào quần chúng đã

được họ sử dụng một cách linh hoạt, ra khỏi sự kiểm soát của chính Gandhi. Điều đó

có nghĩa là các lực lượng khác trong xã hội Ấn Độ đã sử dụng các hình thức đấu tranh khác

phong phú có cả bạo lực. Công nhân và nông dân là hai lực lượng cơ bản tạo thành động

lực cuộc đấu tranh. Đảng Quốc Đại đã đoàn kết các lực lượng trong xã hội vào cuộc đấu

tranh chung- đó là nhân tố đảm bảo để tư sản Ấn Độ có thể đảm nhiệm sứ mệnh giải phóng

dân tộc. Nhưng trong điều kiện cụ thể của xã hội Ấn Độ, đường lối đoàn kết của Đảng

Quốc Đại là đường lối đoàn kết các cộng đồng tôn giáo và các đẳng cấp trong xã hội, vấn

đề giai cấp vì thế mà không được chú trọng. Mặc dù còn hạn chế nhưng Đảng Quốc Đại đã

thành công trong cuộc đấu tranh đòi quyền tự trị cho Ấn Độ và đòi độc lập.

Con đường giải phóng dân tộc ở Ấn Độ khác rất nhiều so với phong trào giải phóng

dân tộc ở các nước Châu Á khác như: Trung Quốc, Việt Nam, Inđônêxia. Điều kiện đặc

biệt của lịch sử Ấn Độ đã quy định con đường đấu tranh rất đặc sắc của Ấn Độ: Đấu tranh

bằng phương pháp hoà bình dưới sự lãnh đạo của Đảng Quốc Đại-thực tế cuộc đấu tranh

đòi độc lập ở Ấn Độ cho thấy Đảng Quốc đại đã đấu tranh hết sức kiên quyết cho mục tiêu

của dân tộc Ấn Độ, đồng thời cũng hết sức nhất quán với tư tưởng đấu tranh "bất bạo lực"

của mình. Sự kiên quyết nhất quán trong mục tiêu và đường lối cũng như sự linh hoạt, sáng

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

45

tạo của con đường đi đến độc lập mà Đảng Quốc Đại vạch ra đã đảm bảo cho thắng lợi.

Lịch sử thế giới hiện đại Như vậy, việc nhận định tư sản Ấn Độ là "hai mặt", "hèn nhát" đều tỏ ra quá chật hẹp và

thiếu khách quan.

Phong trào giải phóng dân tộc Ấn Độ với con đường rất riêng đã cho thấy: Mỗi dân

tộc tùy theo điều kiện, hoàn cảnh của mình mà tìm đến một con đường thích hợp cho dân

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

46

tộc mình để tiến tới nền độc lập.

Lịch sử thế giới hiện đại

PHỤ LỤC

Gandhi năm 1876 Gandhi năm 1918

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

47

Gandhi ngồi quay sợi vào cuối năm 1920

Lịch sử thế giới hiện đại

Gandhi với công nhân dệt may tại Gandhi năm 1930 Darwen, Lancashire, Anh, 26/9/1931

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

48

Gandhi tại một cuộc biểu tình trong Satyagraha (1930)

Cuộc biểu tình phản đối chống thuế muối của thực dân Anh

Lịch sử thế giới hiện đại

(Salt Satyagraha-1930)

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

49

Bức tượng về Salt Satyagraha ở New Delhi-Ấn Độ

Lịch sử thế giới hiện đại

Cuộc biểu tình của nhân dân Chauri-Chaura năm 1922

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

50

Gandhi vào năm 1940

Lịch sử thế giới hiện đại

Gandhi và Nehru năm 1942 Gandhi và Jinnah ở Bombay, tháng 9-1944

Gandhi nói chuyện với Chakravarthi Rajagopalachari trong các cuộc đàm phán

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

51

Gandhi-Jinnah tại Birla House-Bombay, tháng 9/1944

Motilal Nehru Rajagopalachari tại một cuộc mít tinh ở

Lịch sử thế giới hiện đại

Ootacamund, 1939

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

52

Chitta Ranjan Das Sardar Vallabhbhai Patel

Lịch sử thế giới hiện đại

Gandhi tại Hội nghị bàn tròn ở London, năm 1931

Quân đội Ấn Độ nằm trong quân đội Anh đang hành quân trong cuộc Chiến tranh

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

53

thế giới thứ hai (1939-1945)

Lịch sử thế giới hiện đại

Đảng kì Đảng Quốc Đại

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

54

Chữ kí của M.Gandhi

Lịch sử thế giới hiện đại

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 SÁCH:

1) Đỗ Thanh Bình, Lịch sử phong trào giải phóng dân tộc thế kỉ XX-một

cách tiếp cận, NXB Đại học Sư phạm, 2006.

2) Nguyễn Anh Thái (Chủ biên), Lịch sử thế giới hiện đại, Nhà xuất bản

giáo dục, 2009.

 TRANG WEB:

1) http://dangcongsan.vn/cpv/index.html

2) http://diendankienthuc.net

3) http://doan.edu.vn

4) http://suhoctre.hisforum.net

5) http://user.hnue.edu.vn

6) http://vanngocthanh.wordpress.com

7) http://vi.wikipedia.org

 ĐƯỜNG LINK VIDEO:

1) http://www.youtube.com/watch?v=dsBHeBXt5Qk:

Phong

trào

Satyagraha Salt năm 1930.

2) http://www.youtube.com/watch?v=rfHUvW7L5-k: Bộ phim về cuộc đời

và cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc Ấn Độ của M.Gandhi.

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

55

Lịch sử thế giới hiện đại DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 3-SP SỬ 2B_K37

K37.602.012 K37.602.020 K37.602.022 K37.602. 047 K37.602.057 K37.602.072 K37.602.087 K37.602.090 K37.602.091 K37.602.104 K37.602.120

Đinh Thị Minh Chóch 1 Võ Thị Ngọc Điệp 2 Trần Bích Dịu 3 Hoàng Thị Liên 4 Trần Thị Mùi 5 Trương Nhất Nương 6 Hồ Minh Thành 7 Cao Thị Thu 8 9 Đỗ Thị Kim Thúy 10 Nguyễn Thị Thùy Trang 11 Nguyễn Đình Vũ

Nhóm 3-Khóa K37-SP Sử 2B

56