
Một vài phương pháp rèn kĩ năng làm bài văn nghị luận cho học sinh khá,
giỏi lớp 7 – Trung học cơ sở
1
A. Đ
ẶT VẤN ĐỀ
Môn Ngữ văn là môn học cực kì quan trọng trong hệ thống Giáo dục v
à
Đào tạo nước ta. Bởi vì dạy Văn là dạy cách ứng xử, dạy cách làm ngư
ời. Ngữ
văn là công cụ đắc lực trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Đối tượng học sinh ở bậc phổ thông nói chung và học sinh ở Trung học c
ơ
sở nói riêng rất hồn nhiên, trong sáng. Các em như vùng đất phù sa màu mỡ ph
ì
nhiêu. Người giáo viên cùng toàn xã h
ội phải có trách nhiệm gieo trồng những
hạt giống tốt để thu hoạch những hoa thơm, trái ngọt cả về tri thức và đ
ạo đức.
Với môn Ngữ văn, hạt giống tốt về kiến thức văn học không chỉ riêng n
ội dung ý
nghĩa sâu sắc từ mỗi bài học hay một khái niệm Tiếng Việt nào đó, mà h
ọc sinh
cần phải có được những kĩ năng cần thiết để làm văn một cách thành th
ạo. Mặt
khác, Văn học từ lâu đã là một bộ môn khoa học xã hội hay, song lại là m
ột môn
học khiến nhiều học sinh ngại học, ngại viết. Vậy đối với giáo viên gi
ảng dạy bộ
môn Ngữ văn, ngoài việc cung cấp nội dung bài dạy theo hư
ớng dẫn của sách
giáo khoa, sách giáo viên, chúng tôi còn phải rất quan tâm đến ph
ương pháp rèn
kĩ năng làm văn cho học sinh.
I. Lí do chọn đề tài :
Đã từ lâu, tôi rất quan tâm đến kiểu bài Nghị luận trong chương trình Ng
ữ
văn. Đây là một kiểu bài khó trong chương trình Tập làm Văn c
ủa cấp Trung học
cơ sở. Tôi đã để tâm nghiên cứu và đưa vào thực nghiệm rèn cho h
ọc sinh một số
kĩ năng để các em làm tốt hơn một bài văn ngh
ị luận. Đặc biệt, trong năm học
này, tôi được giao nhiệm vụ giảng dạy môn Ngữ văn lớp 7, năm học đầu tiên học
sinh được làm quen với kiểu bài nghị luận. Với học sinh lớp 7, tư duy lô-
gic, tư
duy trừu tượng của các em còn non nớt, không muốn nói là còn hạn chế thì vi
ệc
học và làm văn nghị luận đối với các em là một việc vô cùng khó khăn. V
ới các
em, tôi đã rất băn khoăn trăn trở để tìm ra nh
ững cách khác nhau, trong đầu tôi
luôn đặt câu hỏi cho mình : Phải làm thế nào để giúp các em nắm được và th
ực
hành tốt được những kĩ năng của kiểu bài nghị luận, để các em có thể viết đư
ợc
những bài văn nghị luận đạt yêu cầu ?
1.Cơ sở lí luận:
Con người muốn tồn tại trong tự nhiên và trong xã hội bao giờ cũng có y
êu
cầu và cũng cần nhận thức về thế giới. Để nhận thức thế giới, con ngư
ời không
chỉ dựa vào những hiểu biết do giác quan mang lại. Là động vật có t
ư duy, con
người còn biết các tri thức do giác quan mang lại mà phán đoán và suy lu
ận để
nhận thức sâu hơn về thế giới. Dựa trên những phán đoán và suy lu
ận chính xác,
con người đã phát hiện ra rất nhiều quy luật của tự nhiên và xã hội. C
àng ngày

Một vài phương pháp rèn kĩ năng làm bài văn nghị luận cho học sinh khá,
giỏi lớp 7 – Trung học cơ sở
2
con người càng nắm chắc quy luật đó để làm chủ thế giới và c
ải tạo thế giới.
Phán đoán, suy luận – thao tác của tư duy nhận thức con người – là yêu c
ầu
thường xuyên và liên tục của tư duy nhận thức con người. Nh
ưng tư duy con
người bao giờ cũng gắn chặt với ngôn ngữ và tiến hành trên cơ s
ở ngôn ngữ. Do
đó, văn nghị luận cũng ra đời và phát triển theo yêu cầu nhận thức của con người.
Văn nghị luận có thể được xem là phương tiện giúp con ngư
ời nhận thức
thế giới, nhận thức bằng tư duy lí tính, bằng trừu tư
ợng hóa, khái quát hóa. Nhận
thức con người ngày càng phát triển phong phú thì văn ngh
ị luận cũng phát triển
phong phú và đa dạng.
Chúng ta thấy văn nghị luận trong những văn bản triết học xa x
ưa như
“Luận ngữ, Mạnh Tử” (Trung Quốc), trong những luận văn triết học của Hê-ra-
clit, A-ri-xtôt (Hi Lạp), chúng ta còn thấy văn nghị luận dư
ới dạng những tác
phẩm văn học như “Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn), “Bình Ngô đ
ại cáo”
(Nguyễn Trãi)… Và chúng ta còn thấy văn nghị luận trong xã luận, bình luận tr
ên
báo chí, trong các công trình nghiên cứu, phê bình văn học.
Như vậy, văn nghị luận đã hình thành cách chúng ta m
ột khoảng thời gian
khá xa và phát triển cùng với sự phát triển của tư tư
ởng văn hóa nhân loại. Đến
ngày nay, văn nghị luận càng phát triển đến một tầm cao mới. Nó chính là m
ột
thứ vũ khí khoa học, vũ khí tư tưởng vô cùng sắc bén có thể giúp con ngư
ời nhận
thức đúng đắn mọi lĩnh vực của đời sống xã h
ội cũng giúp một phần không nhỏ
thúc đẩy mọi hoạt động thực tiễn của con người.
Chính vì vậy, văn nghị luận là một loại văn đã được đưa vào giảng dạy v
à
cũng trở thành một nội dung quan trọng trong việc dạy – học văn trong nh
à
trường. Văn nghị luận đặt ra những vấn đề tư tưởng, quan điểm về học thuật đ
òi
hỏi người học sinh phải tìm ra những hướng giải quyết và t
ừ đó giúp cho các em
vận dụng tổng hợp các tri thức đã học được từ tự nhiên đến xã hội, rèn các k
ĩ
năng diễn đạt bằng ngôn ngữ, khả năng tư duy lô-gic khoa học, nghĩa l
à có
phương pháp tư duy đúng để tìm hiểu đúng vấn đề và có thái độ đúng trư
ớc các
sự việc xảy ra trong cuộc sống. Từ đó, các em được phát triển t
ư duy và hoàn
thiện nhân cách một cách toàn diện. Vì vậy, văn nghị luận ngày càng quan tr
ọng
và chiếm một vai trò không nhỏ trong cuộc sống của con người.
Vậy nên hiểu về văn nghị luận như thế nào?
Văn nghị luận là một trong những ki
ểu văn bản quan trọng trong đời sống
xã hội con người. Vì nó giúp cho con người rèn luyện năng lực tư duy bi
ểu đạt
những quan điểm. những tư tư
ởng sâu sắc trong đời sống. Văn nghị luận thực
chất là văn bản lí thuyết, văn bản nói lí lẽ, nhằm phát biểu những nhận định, t
ư

Một vài phương pháp rèn kĩ năng làm bài văn nghị luận cho học sinh khá,
giỏi lớp 7 – Trung học cơ sở
3
tưởng, suy nghĩ, thái độ trước một vấn đề đặt ra. Do đó, muốn làm văn ngh
ị luận
ph
ải có một khái niệm về một vấn đề, có quan điểm, chủ kiến, biết vận dụng khái
niệm, đồng thời biết tư duy lô-gic, biết vận dụng những thao tác phân tích, t
ổng
hợp, quy nạp, diễn dịch, so sánh, tư duy trừu tượng, có năng lực nghị luận là m
ột
điều kiện để con người có thể thành công trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống.
2. Cơ sở thực tiễn
a. Trong văn học trung đại :
- Có văn nghị luận cổ: được nhà vua Lí Thái T
ổ sử dụng để ban “Chiếu dời đô”
(Thiên đô chiếu) với mục đích nêu lên một tư tưởng, một quan điểm lớn là ch
ọn
nơi đóng đô để mưu toan nghiệp lớn, xây dựng một quốc gia độc lập, h
ùng
cường, tìm kế phát triển lâu bền cho nhân dân, xã tắc.
- Tiếp đó là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn viết bài văn ngh
ị luận “Hịch
tướng sĩ” đúng lúc Tổ quốc bị lâm nguy trư
ớc nạn ngoại xâm của đế chế Mông
Nguyên vào thế kỉ XIII để khích lệ lòng yêu nước, lòng căm thù gi
ặc; để các
tướng sĩ đồng tâm hiệp lực đứng dậy đánh đuổi giặc ngoại xâm.
- Rồi nữa, đến thế kỉ XV, sau khi Lê Lợi quét sạch không còn bóng dáng một t
ên
giặc Minh nào trên đất nước ta thì Nguyễn Trãi đã thay mặt ông viết bài văn ngh
ị
luận “Bình Ngô đại cáo” (Cáo Bình Ngô) để tổng kết toàn bộ thắng lợi ấy v
à
tuyên bố nền độc lập tự cường của dân tộc Đại Việt – một dân tộc có chủ quyền.
b. Trong văn học hiện đại :
- Sau khi cuộc cách mạng tháng Tám – năm 1945 thành công, H
ồ Chí Minh viết
văn bản nghị luận “Tuyên ngôn độc lập” để khai sinh ra nư
ớc Việt Nam dân chủ
cộng hòa.
- Khi nói về truyền thống yêu nư
ớc của nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh viết
văn bản nghị luận “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” (Ngữ văn 7 – tập II).
- Khi muốn bàn về sự giàu đẹp và trong sáng của tiếng Việt ta, nhà phê bình v
ăn
học Đặng Thai Mai đã tôn vinh v
ẻ đẹp của tiếng Việt bằng văn bản nghị luận “Sự
giàu đẹp của tiếng Việt” (Ngữ văn 7, tập II).
- Khi muốn bàn về sự vô giá của sách và t
ầm quan trọng của việc đọc sách đối
với đời sống con người và các phương pháp đọc sách để tích lũy kiến thức đ
ể
nâng cao tầm hiểu biết, nhà mĩ học, lí luận văn học Trung Quốc –
Chu Quang
Tiềm đã dùng văn bản nghị luận “Bàn về đọc sách” (Ngữ văn 9 – tập II).
- Ngoài ra, trong cuộc sống, còn vô cùng nhiều những văn bản khác đư
ợc viết
bằng phương thức nghị luận với mục đích trình bày những tư tư
ởng, quan điểm
tư duy trước thực tiễn cuộc sống xã hội của con người. Cho nên văn nghị luận l
à
một kiểu văn bản có một vị trí vô cùng quan trọng trong thực tế đời sống xã h
ội

Một vài phương pháp rèn kĩ năng làm bài văn nghị luận cho học sinh khá,
giỏi lớp 7 – Trung học cơ sở
4
con người.
- Vì vậy, sách Ngữ văn lớp 7 đã đưa vào chương trình gi
ảng dạy phần nội dung
tìm hiểu chung về văn nghị luận với hai phương pháp lập luận chứng minh v
à
giải thích để tiến hành lập luận trong bài văn nghị luận. Tuy nhiên, phần bài t
ập
tìm hiểu và bài tập rèn kĩ năng mới chỉ dừng lại ở mức độ nhận biết, còn ph
ần
luyện tập thì chưa nhiều.
3. Về tính cấp thiết
- Vậy, làm thế nào đ
ể học sinh lớp 7 có thể nắm vững kĩ năng tạo lập văn bản
nghị luận là một vấn đề đặt ra ngay trước mắt ? Với đối tư
ợng học sinh lớp 7, học
văn nghị luận là một việc làm khá khó khăn. Đ
ể trả lời câu hỏi đó, theo tôi học
sinh cần phải được luyện tập thêm hệ thống bài tập để nắm vững đặc trưng c
ủa
phương thức nghị luận, phương pháp làm bài văn nghị luận, các bư
ớc tạo lập văn
bản nghị luận; cần phải có thêm thời gian. Và hơn hết, học sinh cần có l
òng yêu
thích bộ môn Ngữ văn thì mới có được những bài văn ngh
ị luận hay, đặc sắc, có
sức lay động lòng người.
- Trong quá trình giảng dạy bộ môn Ngữ văn, tôi đã tích lũy cho mình một v
ài
kinh nghiệm – mà theo tôi nghĩ, đã giúp ích rất nhiều trong việc làm văn ngh
ị
luận, tôi mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình trong đề tài: “Một v
ài phương pháp
rèn kĩ năng làm bài văn nghị luận cho học sinh khá, giỏi lớp 7 – Trung học c
ơ
sở”
II. Thời gian và đối tượng nghiên cứu, khảo sát, thực nghiệm:
- Đề tài được áp dụng trong năm học 2014 - 2015. Tôi bắt đầu có ý tưởng n
ày
nghiên cứu đề tài này từ những năm học trước. Và năm nay được nhà trư
ờng
phân công dạy môn Ngữ văn khối 7 nên tôi đã bắt tay vào thực hiện nghiên c
ứu
đề tài này ngay từ khi lên kế hoạch d
ạy học tháng 9 năm 2014, đến cuối tháng 4
năm 2015 đề tài của tôi đã kết thúc.
- Tôi nghĩ rằng việc rèn kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh lớp 7, trư
ớc
hết là áp dụng đối với học sinh có lực học khá, giỏi của khối. Sau khi thu đư
ợc
những kết quả khả quan, tôi sẽ tiến hành th
ực hiện đối với học sinh ở những lớp
đại trà và thực hiện tiếp tục ở các năm học sau này. Tuỳ cơ ứng biến, tôi c
òn có
thể sử dụng kinh nghiệm này một cách tỉ mỉ, kiên trì cho đối tượng là nh
ững học
sinh ngại học văn, chưa có tình cảm với thể loại văn nghị luận.
- Đối với lớp học sinh khá, giỏi, nội dung đề tài sẽ đư
ợc lồng ghép trong
những chuyên đề bồi dưỡng học sinh khá, giỏi và nh
ững giờ dạy, học theo phân
phối chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định, những giờ học bồi dưỡ
ng
ngoài gi
ờ học chính khóa. Ngay cả những tiết học ngoại khóa cũng có thể áp

Một vài phương pháp rèn kĩ năng làm bài văn nghị luận cho học sinh khá,
giỏi lớp 7 – Trung học cơ sở
5
dụng được. Bên cạnh đó, tôi còn áp dụng bằng cách đưa bài tập về nhà đ
ể các em
luyện tập thêm, sau đó sẽ thu lại và chấm chữa cho các em nhận ra ưu, như
ợc
điểm để làm những bài sau được tốt hơn.
III. Nhiệm vụ của sáng kiến :
Từ những đối tượng đưa ra ở trên, giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn 7 s
ẽ phải
thật linh hoạt trong việc rèn kĩ năng cho học sinh. Sau đây là những nhiệm v
ụ của
sáng kiến kinh nghiệm này:
+ Giúp học sinh biết cách tìm hiểu đề bài để xác định đúng yêu cầu của đề bài,
định hướng làm bài cho đúng với yêu cầu.
+ Hướng dẫn học sinh cách tìm ý cho bài văn nghị luận nói chung và c
ả hai loại
nhỏ: chứng minh và giải thích.
+ Hướng dẫn học sinh cách lập dàn bài, xây dựng các dàn bài đại cương và c
ả
dàn bài chi tiết.
+ Rèn kĩ năng dựng đoạn trong văn nghị luận.
+ Rèn kĩ năng diễn đạt trong văn nghị luận cho học sinh.
+ Luyện lời văn chuyển đoạn, liên kết đoạn cho bài văn nghị luận.
+ Luyện viết mở bài và kết bài cho bài văn ngh
ị luận; luyện viết những đoạn văn
nhỏ trong phần thân bài.
+ Giao viết bài hoàn chỉnh từ những dàn ý có sẵn.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
1. Trực tiếp giảng dạy, đọc và sưu tầm tài liệu tham khảo.
2. Khảo sát đối tượng học sinh qua trực tiếp giảng dạy bằng những bài ki
ểm tra
trắc nghiệm, bài kiểm tra thường xuyên hoặc định kì, bài viết Tập làm Văn.
3. Tham khảo ý kiến đồng nghiệp.
4. Điều tra, dự giờ, thực nghiệm.
5. Đàm thoại, kiểm tra, đối chiếu trước và sau khi áp dụng đề tài sáng ki
ến kinh
nghiệm.
6. Viết đề cương, từ đó áp dụng vào để viết sáng kiến kinh nghiệm.
B. NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Phần I. Thực trạng vấn đề qua khảo sát thực tế :
Năm học 2014 – 2015, tôi đư
ợc giao nhiệm vụ giảng dạy môn Ngữ văn
của khối 7. Trong đó có một lớp có đại đa số học sinh có lực học khá, giỏi
; hai
lớp còn lại số học sinh khá, giỏi rất ít, đại đa số là học sinh có học lực trung b
ình,
một số ít học sinh có lực học yếu kém. Ở học kì I, các em h
ọc tiếp về tự sự, văn
miêu tả và văn biểu cảm (các kiểu bài mà các em đã h
ọc ngay từ lớp 2 của bậc
Tiểu học). Đến học kì II của lớp 7, các em được làm quen với kiểu bài ngh
ị luận,