
1
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng Sáng kiến ngành giáo dục Thị xã Bình Long.
Tôi ghi tên dưới đây:
Số
T
T
Họ và tên Ngày
tháng năm
sinh
Nơi công tác
(hoặc nơi
thường trú)
Chức
danh
Trình độ
chuyên
môn
Tỷ lệ (%)
đóng góp
vào việc tạo
ra sáng kiến
(ghi rõ đối
với từng
đồng tác giả,
nếu có)
1 NGUYỄN THỊ
THU HÀ
20/5/1986 Trường
THCS An
Lộc B
Giáo viên
dạy môn
Ngữ văn
ĐHSP 100%
1. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến năm học 2020 – 2021:
“ Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh qua bài “Câu đặc
biệt” Ngữ văn 7”.
2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Không có
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục (Ngữ văn)
4. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Ngày 28/1/2021.
5. Mô tả bản chất của sáng kiến:
5.1. Tính mới của sáng kiến:
Trong những năm gần đây nền giáo dục nước ta đã có sự thay đổi mạnh mẽ
đáp ứng yêu cầu học tập ngày càng cao của mọi thế hệ. Song song với đó là
việc không ngừng đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực,
chủ động sáng tạo của học sinh. Chính vì vậy tôi đưa ra sáng kiến mới này với
mong muốn là làm thế nào giúp học sinh biết chủ động, tự giác, say mê học tập,
khuyến khích tính tích cực và tinh thần tự học để chiếm lĩnh tri thức, thích ứng
được với thực tiễn xã hội luôn phát triển.
Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của người học, hình thành
và phát triển năng lực tự học ( sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm
kiếm thông tin, ... ) trên cơ sở đó tạo được hứng thú cho học sinh trong học tập

2
ở lớp cũng như ở nhà đối với môn học, khơi dậy trí thông minh, sáng tạo, kích
thích lòng ham hiểu biết cho học sinh, từ đó các em tích cực tham gia vào bài
học hơn tránh được sự nhàm chán trong phương pháp dạy và học truyền thống.
Qua sáng kiến này giúp :
+ Học sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ không thụ động tiếp
thu những tri thức được sắp đặt sẵn. Phát huy tối đa tính tích cực, chủ động
sáng tạo, học hỏi và làm chủ bản thân nơi học sinh ở tất cả các đối tượng.
+ Chú trọng rèn luyện cho học sinh biết khai thác sách giáo khoa và các
tài liệu học tập, biết cách chiếm lĩnh tri thức đã có, so sánh, đối chiếu với kiểu
câu khác đã học.
+ Giáo dục cho học sinh giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt và có thái
độ tích cực, tinh thần tập thể, hợp tác khi giải quyết một vấn đề trong nhóm, tổ.
+ Tạo không khí nhẹ nhàng giúp học sinh rèn kĩ năng tự đánh giá và đánh
giá lẫn nhau tạo điều kiện để học sinh tự bộc lộ, tự thể hiện mình.
5.2. Nội dung sáng kiến:
5.2.1. Thực trạng:
* Về phía giáo viên:
Giáo viên là người trực tiếp dẫn dắt đưa học sinh đi tìm hiểu tri thức. Tuy
nhiên trong quá trình dạy, giáo viên đã gặp phải một số hạn chế ở các phần: tìm
hiểu bài, bài học, luyện tập như sau:
Ở phần Tìm hiểu bài.
Cho ba câu:
Ôi, em Thủy! Tiếng kêu sửng sốt của cô giáo làm tôi giật mình. Em tôi
bước vào lớp.
Giáo viên chỉ gợi ý học sinh qua một số câu hỏi như:
Câu in đậm có cấu tạo như thế nào? Hãy thảo luận với các bạn và lựa chọn
câu trả lời đúng?
A- Đó là một câu bình thường có đủ CN và VN.
B- Đó là một câu rút gọn, lược bỏ cả CN lẫn VN.
C- Đó là một câu không thể có CN và VN.
Chỉ từ những câu hỏi đó, học sinh xác định câu C là đáp án đúng, giáo viên
kết luận ngay câu đặc biệt và rút ra khái niệm về câu đặc biệt. Mặt khác, giáo

3
viên cũng chưa đưa thêm ví dụ để cho học sinh thấy được sự khác nhau giữa
câu đặc biệt với câu rút gọn và câu bình thường. Nên học sinh nắm không
vững, không phân biệt được giữa câu đặc biệt với câu rút gọn và câu bình
thường một cách rõ ràng. Bên cạnh đó, một số giáo viên sau khi hình thành
xong nội dung bài học chỉ đi làm một vài bài tập trong SGK mà không đưa ra
bài tập từ nhận biết, thông hiểu, vận dụng (kết hợp trong quá trình dạy) để học
sinh luyện tập thực hành khắc sâu kiến thức.
Chỉ những bài tập đó thực sự cũng chưa giúp học sinh nắm vững, củng cố
tri thức về câu đặc biệt.
* Về phía học sinh:
Qua các năm giảng dạy cũng như đi dự giờ một số tiết học của đồng nghiệp,
tôi nhận thấy học sinh hay mắc phải một số lỗi cơ bản như sau:
Học sinh nhận biết sai câu đặc biệt. Khi nhận biết câu đặc biệt, các em chỉ
căn cứ vào hình thức của nó, các em nhìn câu nào có cấu tạo ngắn gọn thì các
em xác định ngay đó là câu đặc biệt mà các em chưa biết vận dụng vào ngữ
cảnh và cấu tạo để phân biệt các kiểu câu.
Ví dụ khi giáo viên yêu cầu học sinh đặt một câu đặc biệt các em đặt: “Mẹ
về”. hoặc câu “Mưa rơi.”. Hay khi viết một đoạn văn có sử dụng câu đặc biệt
các em viết: “Lúc đi chơi công viên tôi đã nhìn thấy một con hổ rất to và tôi hét
lên: ôi, con hổ.” . Và các em xác định “ôi, con hổ” là câu đặc biệt.
Qua đó cho ta thấy học sinh chưa thực sự nắm chắc câu đặc biệt mặc dù
phần tìm hiểu bài ở trên giáo viên đã đi phân tích rất kĩ ví dụ và rút ra bài học
và đã làm bài tập trong SGK đã cho. Thực tế đó cho ta thấy các em nắm khái
niệm rất mông lung, mơ hồ, chỉ cần đặt câu có từ ngữ giống với cấu trúc như ở
câu đã cho là các em xác định ngay đó là câu đặc biệt. Bên cạnh đó về nhà các
em rất ít tài liệu tham khảo và bản thân các em lại lười, không tự học, tự tìm
tòi. Mà tri thức về câu đặc biệt so với những loại tri thức khác không phải là
khó. Từ thực tiễn nêu trên, tôi đưa ra một số giải pháp thực hiện để nâng cao
chất lượng, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.

4
Từ khi áp dụng giải pháp này, tôi cảm thấy tự tin hơn mỗi khi lên lớp.
Trong quá trình giảng dạy, tôi vừa dạy lí thuyết vừa cho học sinh thực hành
qua một số bài tập trong SGK và bài tập đưa thêm ngoài nội dung SGK nên đã
giúp học sinh nắm chắc câu đặc biệt. Vì vậy với sáng kiến này có thể coi là một
định hướng tốt giúp tôi trong quá trình giảng dạy, góp phần nâng cao chất
lượng học tập của học sinh trong những năm qua.
5.2.2. Nội dung sáng kiến:
Với thực trạng khó khăn của giáo viên, và với những lỗi sai cơ bản của
học sinh tôi đưa ra giải pháp thực hiện dạy bài này như sau:
5.2.2.1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị kĩ bài ở nhà.
Để tiết dạy được thành công, khâu hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà
cũng rất quan trọng. Vì khi chuẩn bị bài ở nhà học sinh phần nào đã nắm sơ
lược nội dung kiến thức của bài học. Để giúp học sinh làm tốt được khâu chuẩn
bị. Giáo viên sẽ hướng dẫn như sau:
Giáo viên sẽ hướng dẫn các em tìm hiểu bài (tư liệu SGK ) ở nhà bằng các
câu hỏi gợi ý:
Phân biệt câu in đậm trong SGK với câu rút gọn và câu bình thường?
Từ đó chỉ ra đặc điểm của câu in đậm trong SGK?
Câu đặc biệt có cấu tạo như thế nào?
Câu đặc biệt có những tác dụng gì?
Từ các câu hỏi gợi ý trên kết hợp với đọc phần ghi nhớ, học sinh bước đầu
có thể nắm được khái niệm về câu đặc biệt.
5.2.2.2. Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài học.
Đây là biện pháp quan trọng nhất để học sinh biết được phần chuẩn bị, tìm
hiểu ở nhà của mình là đúng hay sai, từ đó các em cũng cố tri thức và nắm rõ
về kiến thức câu đặc biệt. Vì thế trong quá trình hướng dẫn giáo viên vừa đặt
câu hỏi gợi ý vừa củng cố, chốt ý. Quá trình đó được thức hiện như sau:
I. Tìm hiểu bài:
1. Khái niệm câu đặc biệt.
HS đọc ví dụ:

5
VD 1. Ôi, em Thủy! Tiếng kêu sửng sốt của cô giáo làm tôi giật mình. Em
tôi bước vào lớp.
Giáo viên cho học sinh lựa chọn câu trả lời đúng (câu C) theo gợi ý SGK.
Giáo viên đưa thêm hai ví dụ một ví dụ về câu rút gọn, một ví dụ về câu
bình thường:
VD2. - Ai đang đứng ngoài kia?
- Em Thủy. (câu rút gọn VN).
CN
VD3. Em Thủy //không đi học. (câu bình thường có đầy đủ CN và
VN).
CN VN
Hãy xác định thành phần câu ở 2 ví dụ trên (ví dụ 2 chỉ xác định ở câu trả
lời)?
Em có nhận xét gì về cấu tạo của ví dụ 2 và ví dụ 3 ở trên?
Ở câu rút gọn, thành phần được rút gọn có khôi phục lại được không?
Câu “Ôi, em Thủy” có thể xác định CN và VN hay không?
Từ ý kiến trả lời của học sinh, giáo viên chốt: câu không thể có CN và VN
là câu đặc biệt.
2. Tác dụng của câu đặc biệt.
Giáo viên cho học sinh đọc ví dụ SGK sau đó gợi ý cho học sinh tìm hiểu
qua một số câu hỏi như sau:
Xác định các câu đặc biệt trong các ví dụ?
Nhận xét về cấu tạo của mỗi câu đặc biệt?
Các câu đặc biệt trên có tác dụng gì (đánh dấu X vào ô thích hợp)?
Từ những câu hỏi đó giáo viên sẽ cho học sinh thấy được cấu tạo của câu
đặc biệt chỉ là một từ hoặc một cụm từ và rút ra các tác dụng của câu đặc biệt.
II. Bài học:
Từ những câu hỏi trên giáo viên có thể đưa ra câu hỏi để chốt khái niệm câu
đặc biệt:
Dựa vào ví dụ 1/I em hiểu thế nào là câu đặc biệt?