
0
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do - Hạnh phúc
HỒ SƠ XÉT CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
- Tên sáng kiến: Giải pháp giảng dạy thơ Đường luật Trung đại
Việt Nam trong chương trình Ngữ văn 7
- Tác giả : Nguyễn Thị Thu Nam
- Đơn vị công tác: Trường THCS Bá Hiến
- Chức vụ : Giáo viên
- Trình độ chuyên môn: Đại học Ngữ văn
Bá Hiến, năm 2019

1
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện Bình Xuyên
a) Tác giả sáng kiến hoặc các đồng tác giả sáng kiến (nếu có):
Nguyễn Thị Thu Nam
- Ngày tháng năm sinh: 07/11/1979 Nam, nữ: Nữ
- Đơn vị công tác (hoặc hộ khẩu thường trú): Trường THCS Bá Hiến
- Chức danh: Giáo viên
- Trình độ chuyên môn: Đại học Ngữ văn
- Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến (ghi rõ đối với từng đồng
tác giả, nếu có): 100 %
b) Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
- Giáo viên: Nguyễn Thị Thu Nam
c) Tên sáng kiến; lĩnh vực áp dụng; mô tả bản chất của sáng kiến; các
thông tin cần được bảo mật (nếu có):
- Tên sáng kiến: Giải pháp giải dạy thơ Đường luật Trung đại
Việt Nam trong chương trình Ngữ văn 7
- Lĩnh vực áp dụng: Giảng dạy môn Ngữ văn lớp 7.
- Mô tả sáng kiến:
+ Về nội dung của sáng kiến
* Giải pháp mới.
Giải pháp 1: Tạo không khí giờ học ngay ở bước khởi động từ những tình
huống thực tế, qua đoạn phim hoạt hình, qua câu chuyện lịch sử...
Theo phương pháp dạy học tích cực, dạy học cần hình thành kỹ năng, phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực của học sinh. Vì vậy trong
mỗi giờ học giáoviên phải giúp học sinh nhận thức được nhiêm vụ cần giải
quyết của bài học, có sự tập trung cao, phát huy được tính tích cực, chủ động,
sáng tạo, tự chiếm lĩnh tri thức đồng thời phát huy được những năng lực. Để có

2
thể thực hiện được nhiệm vụ đó trước hết giáo viên phải tạo được bầu không
khí thoải mái nhẹ nhàng, không gò bó để cuốn hút, giúp các em tiếp nhận tốt
nội dung cơ bản của bài học, đặc biệt là đối với giờ dạy văn bản thơ Đường luật
Trung Đại có khoảng cách khá xa về mặt thời gian. Giáo viên có thể tạo bầu
không khí thỏa mái ngay ở phần khởi động bài học để kích thích hứng thú học
tập của học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau như từ tình huống thực tế, qua
đoạn phim hoạt hình, qua câu chuyện lịch sử, qua việc giới thiệu các địa danh...
Ví dụ: Khi dạy bài thơ “Phò giá về kinh” của Trần Quang Khải giáo viên có
thể cho học sinh xem đoạn phim hoạt hình “Cuộc kháng chiến chống quân
Mông Nguyên lần 2 năm 1285” với thời gian 2 phút, giới thiệu về Trần Quang
Khải và trận đánh Hàm Tử ,Chương Dương để thu hút sự chú ý, sau đó dẫn vào
bài, tạo sự hứng thú và bước đầu giúp các em có hiểu biết sơ giản về tác phẩm để
các em thích thú tìm hiểu bài học.
Giáo viên để học sinh bộc lộ và dẫn vào bài.Như vậy với tình huống hết
sức gần gũi đã gây được hứng thú với học sinh ,các em không còn thấy bài thơ
xa lạ và có tâm thế sẵng sàng khám phá tác phẩm.
Giải pháp 2: Dạy học tích hợp các với các phân môn và các môn học khác.
Để giờ dạy thơ Đường luật đạt kết quả cao, giáo viên cần chú ý tới việc
tích hợp với các phân môn khác như môn Lịch sử, môn Địa lý, môn Giáo dục
công dân ... Có hiểu biết về các lĩnh vực khác sẽ giúp các em chủ động hơn khi
khám phá tác phẩm.
Khi dạy thơ Đường luật giáo viên có thể tích hợp với các phân môn Tiếng
Việt và Tập làm văn để củng cố và nâng cao kiến thức cho học sinh. Trong mỗi
bài thơ Đường luật giáo viên có thể dễ dàng tích hợp với phân môn tiếng Việt
về: từ Hán Việt, từ đồng âm, từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa.
Ví dụ: Từ “Nam đế”: Hoàng đế nước Nam, hiểu là “vua nước Nam”. Tại
sao tác giả không dùng chữ “Nam vương” cũng có nghĩa là “vua nước Nam”?
Dùng chữ “Nam đế” tác giả bài “Sông núi nước Nam” muốn biển hiện niềm tự
hào, tự tôn dân tộc. Đằng sau câu thơ ta nghe được một tiếng nói mạnh mẽ,
kiêu hãnh: Phương Nam ta cũng có đế, bình đẳng, ngang hàng với phương Bắc
không kẻ thù nào được phép coi thường.
Thực tế khi giảng dạy giáo viên có thể tích hợp với các nội dung khác một
cách linh hoạt tùy thuộc vào bài học cụ thể. Có thể tích hợp thông qua việc

3
kiểm tra bài cũ, trong hoạt động khởi động, trong câu hỏi tìm hiêu bài, qua viêc
sử dụng bảng phụ, tranh ảnh...
Nhìn chung nếu giáo viên tích hợp một cách hợp lý, nhuần nhuyễn thì hiệu
quả dạy học sẽ tăng lên rõ rệt, nhất là phát huy dược vai trò chủ thể sáng tạo
của học sinh.
Giải pháp 3: Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
Như chúng ta đã biết Ngữ Văn là một trong những môn học công cụ,
mang tính nhân văn, giúp học sinh phát triển các năng lực và phẩm chất tổng
quát. Vì vậy, dạy học Ngữ Văn theo hướng phát triển năng lực giúp học sinh có
khả năng kết hợp một cách linh hoạt kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm,
động cơ cá nhân... nhằm đáp ứng hiệu quả một số yêu cầu phức hợp của hoạt
động trong một số hoàn cảnh nhất định. Thông qua việc học các tác phẩm thơ
Đường luật trung đại Việt Nam, giáo viên giúp học sinh hình thành và phát
triển năng lực chung và năng lực chuyên biệt để các em thực sự hiểu được giá
tri của tác phẩm. Ở mỗi hoạt đông giáo viên cần có những định hướng phất
triển năng lực phù hợp.
Ví du: Khi dạy bài “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn khuyến giáo viên có
thể giúp học sinh hình thành các năng lực như: năng lực tự học, năng lực giải
quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực thẩm
mỹ. Cụ thể, thông qua việc đọc văn bản giáo viên giúp học sinh hình thành
năng lực tiếp nhận văn bản. Từ đó học sinh bước đầu có khả năng thu thập các
thông tin,cảm thụ được tình bạn trân thành, sâu sắc trong bài thơ.
Giải pháp 4: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu những thông tin về tác giả, tác
phẩm và dẫn dắt học sinh vào thế giới quan của nhà thơ.
*Về tác giả:
Bên cạnh việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu những thông tin mà phần chú
thích SGK cung cấp, giáo viên cần tìm hiểu những thông tin ngoài văn bản về
hoàn cảnh ra đời bài thơ, những mẩu giai thoại, những điển tích, điển cố liên
quan đến tác giả và tác phẩm. Bằng những kiến thức ấy giáo viên làm cho học
sinh nhập cuộc và tìm hiểu tác phẩm tốt hơn, cặn kẽ hơn, hay trí ít cũng giúp
các em vững tâm hơn khi đứng trước những bài thơ Đường luật.
Ngoài ra giáo viên có thể đưa học sinh vào thế giới quan của các nhà thơ,
bởi tác phẩm văn học là sự phản ánh hiện thực khách quan qua sự nhào nặn của
người nghệ sĩ. Tác phẩm là nơi nhà văn gửi gắm tư tưởng tình cảm nên khi dạy

4
giáo viên cần giới thiệu cho học sinh những nét tiêu biểu về thân thế và hoàn
cảnh sáng tác của tác phẩm, điều này có ảnh hưởng rất lớn tới việc xác định ý
nghĩa giá trị của tác phẩm.
Ví dụ: khi dạy bài “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan, ngoài
những thông tin mà SGK cung cấp, giáo viên có thể cung cấp thêm cho học
sinh về tác giả như: thơ Bà Huyện Thanh Quan thường viết về thiên nhiên,
phần lớn là vào lúc trời chiều, gợi lên cảm giác vắng lặng, buồn bã. Cách bà
miêu tả trong những bài thơ giống như những bước tranh thủy mặc chấm phá.
Hơn nữa, nói cho đúng thì cảnh trong thơ bà thực tế cũng không phải là cảnh
mà là tình. Tình cảm của bà thường là sự nhớ thương da diết đối với quá khứ
vàng son một đi không trở lại. Do vậy người ta gọi bà là nhà thơ hoài cổ.
* Về tác pẩm:
+ Đặt bài thơ trong hoàn cảnh ra đời.
Khi tìm hiểu tác phẩm, giáo viên cần cho học sinh tìm hiểu hoàn cảnh ra
đời, vì hoàn cảnh ra đời có ảnh hưởng rất lớn đến giá trị tư tưởng của bài thơ.
Nếu giáo viên không hướng dẫn học sinh tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của tác
phẩm là một điều rất đáng tiếc.
Ví dụ: Khi giảng về hoàn cảnh ra đời của bài “Phò giá về kinh” của Trần
Quang Khải, ngoài thông tin trong sách giáo khoa, giáo viên có thể cung cấp
thêm: thời đại Lí - Trần là thời đại hùng mạnh của hào khí Đông A (Đông A là
chiết tự tên họ Trần gồm hai chữ: chữ Đông ghép với chữ A trong Hán tự). Hào
khí Đông A là lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, là khí thế, là quyết tâm lớn
lao của quân dân đời Trần trong sự nghiệp chống ngoại xâm và xây dựng đất
nước thanh bình. Hào khí Đông A không chỉ là tư tưởng, tâm hồn của con
người mà còn là nội dung tư tưởng, là âm hưởng bao trùm trong rất nhiều tác
phẩm thơ văn Việt Nam thời nhà Trần thế kỉ XII, XIII. Vì thế bài thơ mang âm
hưởng của chiến thắng.
Qua phân tích ví dụ ta thấy: việc tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử và hoàn cảnh
ra đời của văn bản là điều hết sức cần thiết, bởi nhiều giáo viên thường ít quan
tâm đến và cho rằng đây là yếu tố không quan trọng. Vì vậy khi phân tích bài
thơ rất dễ hời hợt, nông cạn.