
ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN ĐAN PHƯỢNG
TRƯỜNG THCS LIÊN TRUNG
--------o00o---------
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN
NGỮ VĂN 7 BẰNG PHƯƠNG PHÁP DÙNGBẢN ĐỒ
TƯ DUY TRONG TRƯỜNG THCS.
Môn: Ngữ văn
Cấp hoc: Trung học cơ sở
Tên Tác giả: Tạ Thị Kiên
Đơn vị công tác: Trường THCS Liên Trung
Đan Phượng – Hà Nội
Chức vụ: Giáo viên
A.ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận
Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội. Đây là môn
học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy
của con người. Đồng thời môn học này có tầm quan trọng trong việc giáo
dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Mặt khác nó cũng là môn
học thuộc nhóm công cụ, môn Văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với rất

2/14
nhiều các môn học khác trong các nhà trường phổ thông. Học tốt môn Văn
sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại, các môn học khác
cũng góp phần học tốt môn Văn. Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính
thực hành,giảm lí thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết
sức phong phú, sinhđộng của cuộc sống.
2. Cơ sở thực tiễn:
Năm học 2011 - 2012 là năm học Bộ giáo dục và đào tạo tiếp tục đổi
mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học Ngữ văn
trong các nhà trường phổ thông. Một trong những phương pháp dạy học
mới và hiện đại nhất được đưa vào là phương pháp dạy học bằng bản đồ
tư duy (BĐTD) - một phương pháp dạy học mới đang được rất nhiều nước
trên thế giới áp dụng. Qua việc tìm hiểu và vận dụng phương pháp dạy
học bằng bản đồ tư duy, tôi nhận thấy phương pháp dạy học này rất có
hiệu quả trong công tác giảng dạy và học tập của học sinh. Bước đầu đã
giảm bớt được tâm lý ngại học văn, khơi gợi trong học sinh tình yêu đối
với môn học, đồng thời đem đến cho các em cái nhìn mới, tư duy mới về
môn học Ngữ văn. Vậy thế nào là phương pháp dạy học bằng bản đồ tư
duy? Cần sử dụng bản đồ tư duy như thế nào để nâng cao chất lượng trong
các giờ học văn? Đó là những vấn đề tôi muốn cùng được chia sẻ với các
đồng nghiệp trong sáng kiến kinh nghiệm này. Bản đồ tư duy là hình thức
ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng.
BĐTD một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó l à một kĩ
thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc
phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người
khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. BĐTD giúp học sinh có được
phương pháp học hiệu quả hơn.Việc rèn luyện phương pháp học tập cho
học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là
mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ
nhưng vẫn học kém, các em thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau
đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không
biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số
học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi
chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử
dụng thành thạo BĐTD trong dạy học sẽ gúp học sinh có được phương
pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
BĐTD - giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên
cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà

3/14
do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy
việc sử dụng BĐTD giúp họcsinhhọc tập một cách tích cực, huy động tối
đa tiềm năng của bộ não.
Xuất phát từ những lí do trên, cùng với quá trình giảng dạy của bộ
môn tôi xây dựng đề tài.“ Nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn 7
bằng phương pháp sử dụng bản đồ tư duy”.
3. Mục đích viết sáng kiến kinh nghiệm
Trên cơ sở tìm hiểu lí luận và thực tiễn, tôi đi sâu vào khai thác nội
dung và phương pháp, sử dụng các BĐTD để dạy môn Ngữ văn, ở 2 lớp
khối 7 ở trường trung học cơ sở.Tôi viết đề tài này ngoài việc củng cố kiến
thức, tôi còn trau dồi đạo đức rèn luyện kĩ năng chuyên môn nghiệp vụ,
đồng thời giáo dục tư tưởng đạo đức, rèn kĩ năng cho học sinh, tăng sự yêu
thích môn Văn.Tôi cùng với các đồng chí giáo viên dạy môn Ngữ văn, trao
đổi những kinh nghiệm trong phương pháp giảng dạy sử dụng BĐTD để
đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy học hiện nay.Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin, thường xuyên sưu tầm trên mạng, trên nhóm chuyên môn...để lấy
tư liệu áp dụng vào bài giảng, làm cho bài giảng trở nên sinh động, phát
huy tính tích cực của học sinh trong giảng dạy môn Ngữ văn.
4. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là học sinh lớp7 ở trường trung học cơ
sở.
5 . Phạm vi và thời gian:
Phạm vi của đề tài thực hiện ở lớp 7 trường THCS.
Thời gian thực hiện đề tài từ năm 2020 đến nay tôi thường xuyên áp dụng
vào bài giảng, kết quả giờ học rất sinh động, học sinh có hứng thú học hơn.
6 . Đối tượng khảo sát thực tế:
Trong quá trình giảng dạy tôi tiến hành các biện pháp khảo sát như sau:
Điều tra tình hình học tập của học sinh đối với môn Ngữ văn.Tiến hành
dạy mỗi lớp 7 một bài để lấy kết quả giờ học.
Lớp Giỏi Khá TB Yếu
SL % SL % SL % SL %
7b(35hs) 5 14 10 28,5 15 43,5 5 14
7c(29 hs) 1 3 7 24 14 48 7 24

4/14
Từ những kết quả giờ học trên tôi rút ra nhận xét như sau.
Nhà văn hoá lớn của nhân loại Lê-nin từng nói:"Văn học là nhân
học" vậy mà một thực trạng đáng lo ngại là học sinh bây giờ không còn
thích học văn. Thực trạng này lâu nay đã được báo động. Ban đầu chỉ đơn
thuần là những lời than thở với nhau của những người trực tiếp giảng dạy
môn văn và nay đã trở thành vấn đề của báo chí và dư luận. Ai đã trực tiếp
dạy và chấm bài làm văn của học sinh trong những năm gần đây mới thấy
cần thiết phải có những thay đổi về phương pháp dạy văn và học văn hiện
nay. Qua công tác giảng dạy cũng như chấm trả các bài kiểm tra Ngữ văn,
tôi nhận thấy có rất nhiều những biểu hiện thể hiện tâm lý chán học văn
của học sinh, cụ thể là:
Học sinh thờ ơ với Văn: Những năm gần đây, nhiều người quan tâm
đến côngtác giáo dục không khỏi lo ngại trước một thực trạng, đó là tâm lý
thờ ơ với việc học văn ở các trường phổ thông. Điều đáng buồn nhất cho
các giáo viên dạy văn là nhiều học sinh có năng khiếu văn cũng không
muốn tham gia đội tuyển văn. Các em còn phải dành thời gian học các môn
khác. Phần lớn phụ huynh khi đã định hướng cho con mình sẽ thi khối A thì
chỉ chủ yếu chú trọng ba môn: Toán, Lý, Hóa. Điều đáng lo ngại hơn nữa,
là có không ít phụ huynh đã chọn hướng cho con thi khối A từ khi họctiểu
học. Một bậc học mà học sinh còn đang được rèn nói, viết, mới bắt đầu làm
quenvới những khái niệm về từ ngữ mà đã định hướng khối A thì thật là
nguy hại.
Khả năng trình bày: Khi học sinh tạo lập một văn bản giáo viên có
thể dễ dàng nhận ra những lỗi sai cơ bản của học sinh như: dùng từ sai, viết
câu sai, viết chính tả sai, bố cục và lời văn hết sức lủng củng, thiếu logic.
Đặc biệt có những bài văn diễn đạt ngô nghê, tối nghĩa...Đây là một tình
trạng đã trở nên phổ biến và thậm chí là đáng báo động trong xã hội ta.
Mục tiêu của bậc học phổ thông là đào tạo con người toàn diện, nhưng thực
tế hiện nay cho thấy, các bộ môn khoa học xã hội thường bị học sinh xem
nhẹ, mặc dù kiến thức của các bộ môn này vô cùng quan trọng cho tất cả
mọi người. Muốn khôi phục sự quan tâm của xã hội đối với các bộ môn
khoa học xã hội, không thể chỉ bằng biện pháp kêu gọi mà chúng ta phải
tích cực đổi mới phương pháp dạy học văn, khơi gợi lại hứng thú học văn
của học sinh, hình thành cho các em phương pháp học văn hiệu quả nhất.
7 . Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện tôi sử dụng các phương pháp:
Dạy khảo sát ở lớp7và lấy kết quả.

5/14
Sử dụng phương pháp sưu tầm các nguồn tài liệu
Phương pháp phân tích, so sánh, đánh giá, nhận định, phương pháp thảo
luận nhóm, phương pháp sử dụng câu hỏi gợi mở nêu vấn đề, phương pháp
quan sát.
Phương pháp trao đổi đàm thoại giữa giáo viên, với học sinh
Phương pháp điều tra: Thông qua các bài tập, bài kiểm tra của học sinh để
lấy số liệu so sánh đối chiếu kết quả.
Phương pháp tổng hợp.
B.NỘI DUNG
1.Bản chất của BĐTDtrong dạy học
BĐTD là kĩ thuật dạy học tổ chức và phát triển tư duy giúp người học
chuyển tảithông tin vào bộ não rồi được thông tin ra ngoài bộ não một cách dễ
dàng, đồng thời làphương tiện ghi chép sáng tạo và hiệu quả, mở rộng, đào sâu