
Pyotr Đại Đế (10/6/1672 - 28/1/1725)
Tiểu sử
Khi Pyotr I lên ba tuổi rưỡi, Sa hoàng Aleksei I qua đời ở tuổi 47. Kế vị ngai v
àng là Thái
tử Fyodor, 15 tuổi, bị khuyết tật, và là con trai trưởng của Hoàng hậu quá cố Maria
Ilyinichna Miloslavskaya, tức là anh cùng cha khác mẹ của Pyotr.
Cuộc đời thơ ấu của Pyotr trải qua bình lặng trong sáu năm (1676-1682) dưới triều đại
của Fyodor III. Khi ông này qua đời, chỉ còn có hai ứng viên lên ngôi: người em ruột của
Fyodor tên Ivan, 17 tuổi, và người em cùng cha khác mẹ chính là Pyotr, lúc đó 10 tuổi.
Pyotr được chọn làm Sa hoàng kế vị.
Tuy nhiên, người chị cùng cha khác mẹ của Pyotr, tức chị ruột của Ivan, Công chúa Sofia
Alekseyevna, xách động Cấm vệ bạo loạn. Kết quả là Ivan và Pyotr trị vì bên nhau với
danh nghĩa đồng-Sa hoàng – Ivan là Sa hoàng có vị thế cao hơn. Công chúa Sofia
Alekseyevna được cử làm Phụ chính.
Trong thời gian Sofia điều hành việc nước, Pyotr rời xa Moskva, lớn lên nơi thôn dã. Khi
Pyotr lên 14, ông và bà mẹ đến cư ngụ hẳn ở Cung điện Preobra
zhenskoe, trong ngôi làng
cùng tên dọc bờ sông Yauza, cách Moskva khoảng 5 km. Những trò chơi tập đánh trận
mà Pyotr ưa thích biến nơi này thành một doanh trại quân đội hoàn chỉnh. Tổng cộng có
300 thiếu nhi và trai trẻ, sống trong những khu doanh trại, tập luyện như quân đội, sử
dụng ngôn ngữ của quân đội và lĩnh lương theo chế độ quân đội. Một trong những thiếu
niên lày là Aleksandr Danilovich Menshikov, sau này trở thành đại thần thân thiết nhất
của Pyotr. Pyotr xem tất cả thiếu niên đồng trang lứa như là bạn của mình, từ nhóm nhỏ
này Pyotr gây dựng nên Lữ đoàn Preobrazhenskoe. Đây cũng là lữ đoàn đầu tiên của lực
lượng Cảnh vệ Hoàng gia mà lữ đoàn trưởng luôn luôn là Sa hoàng nước Nga, cho đến
khi chế độ quân chủ Nga chấm dứt vào năm 1917.
Không bao lâu, mọi doanh trại trong ngôi làng nhỏ bé Preobrazhenskoe đều chật lính, các
doanh trại mới được xây dựng thêm ở ngôi làng Semyonovsky gần đó; với thời gian, đội
quân này phát triển thành Lữ đoàn Semyonovsky, và là lữ đoàn thứ hai của lực lượng
Cảnh vệ Hoàng gia. Mỗi lữ đoàn lúc sơ khai có 300 quân, được tổ chức thành bộ binh, kỵ
binh và pháo binh giống như bên quân đội thực thụ. Lữ đoàn Cảnh vệ Hoàng gia cũng có
hệ thống quân hàm, với sĩ quan trận địa, đội hậu cần, ban hành chính, ban quân lương,
lính thổi kèn, lính đánh trống... như bên quân đội.
Trong thời gian này, một thương nhân già người Hà Lan tên Franz Timmerman đã dạy
cho Pyotr số học, hình học, cách tính toán đạn đạo... Đối với Pyotr, ông vừa là chuyên gia
tư vấn vừa là người bạn, và Pyotr luôn giữ ông thầy bên mình để trả lời các câu hỏi liên
tục tuôn ra từ vị sa hoàng nhỏ tuổi.
Chính Timmerman và Pyotr tìm thấy một chiếc thuyền mục nát kiểu Anh, được một
người Hà Lan khác sửa chữa, và ông này chỉ dẫn Pyotr lái chiếc thuyền. Pyotr gọi chiếc
thuyền này là "Thủy tổ của Hải quân Nga", hiện được trưng bày ở Bảo tàng Hải quân
Nga ở thành phố Sankt-Peterburg.
Sau đó, Pyotr học đóng thuyền trên bờ hồ Pleschev, cách Moskva gần 140 kílômét về
phía đông-bắc. Việc tình cờ tìm thấy chiếc thuyền và những bài học lái thuyền đầu tiên
cùng với việc đóng những chiếc tàu khu trục nhỏ và thuyền buồm đầu tiên khởi đầu cho
lòng đam mê biển và ước muốn học hỏi từ Tây Âu của Pyotr.

Vào ngày 27 tháng 1 năm 1689, Pyotr lên 17 tuổi và nghe theo lời mẹ, cưới Evdokiya
Fyodorovna Lopukhina, lúc đó lên 20. Họ có hai con trai: Aleksei (sống đến tuổi trưởng
thành) và Aleksandr (chết 7 tháng sau khi ra đời).
Một cuộc khủng hoảng bùng nổ vào ngày 17 tháng 8 năm 1689 giữa hai phe của Sofia và
Pyotr. Kết quả là Sofia bị lật đổ, còn Ivan và Pyotr tiếp tục trị vì bên nhau. Trong 5 năm
tiếp theo, Pyotr quay trở về Preobrazhenskoe và h
ồ Pleschev, vẫn sống theo lối sống thiếu
niên thiếu quy củ, thiếu trách nhiệm, hoàn toàn dửng dưng với chính sự. Trước thời gian
này, chính phủ được điều hành bởi một một nhóm nhỏ đã từng ủng hộ và dìu dắt ông
trong cuộc đối đầu với Sofia.
Trong hai năm 1693 và 1694, Pyotr đi đến Arkhangelsk để quan sát những hoạt động của
một bến cảng, cách tập lái tàu biển, đặt mua chiếc tàu đầu tiên và đóng thêm tàu cho Hải
quân Nga... Nhận thấy tầm quan trọng của nền hàng hải, Pyotr càng quyết tâm học hỏi
điều hay từ Tây Âu và chú tâm đến việc xây dựng cảng biển.
Ngày 8 tháng 3 năm 1696, Sa hoàng Ivan thình lình qua đời ở tuổi 29. Từ đó, Pyotr là Sa
hoàng duy nhất, là người trị vì tối cao độc nhất của đất nước Nga.
Pyotr phát động hai chiến dịch quân sự đánh chiếm thị trấn và pháo đài Azov của Hãn
quốc Crimea, do sắc tộc Tatar cai trị dưới sự bảo trợ của Đế quốc Ottoman. Chiến dịch
năm 1695 bị thất bại, nhưng trong chiến dịch năm 1696 Nga xâm chiếm được Azov.
Năm 1696, Pyotr gửi một đoàn sứ thần hơn 250 người, mà sử gia gọi là Đại Phái bộ Sứ
thần đến một số nước Tây Âu. Mục đích của chuyến đi là nhằm củng cố liên minh chống
Ottoman, và còn để tìm nguồn nhân lực, mua vũ khí và trang thiết bị cho Hải quân Nga.
Pyotr không đi với tư cách Sa hoàng mà giấu tung tích, giả dạng là một nhân viên của các
đại sứ.
Tác động của chuyến đi là vô cùng rộng lớn. Pyotr trở về Nga với quyết tâm cải tổ đất
nước theo đường hướng của Tây Âu. Theo ý nghĩa nào đó, ảnh hưởng đi theo vòng tròn:
Tây Âu ảnh hưởng đến cá nhân Pyotr, Pyotr ảnh hưởng mạnh mẽ đến nước Nga, và nước
Nga, một khi đã hiện đại hóa và vươn lên, có tầm ảnh hưởng mới và mạnh hơn đến Tây
Âu. Vì thế, đối với cả ba – Pyotr, nước Nga và Tây Âu – việc lập và gởi Đại Phái bộ Sứ
thần là một thời điểm bước ngoặt.
Năm 1697, trong khi Pyotr còn đang ở Tây Âu, lực lượng Cẩm vệ lại nổi loạn và bị đàn
áp một cách mạnh bạo.
Ngày 9 tháng 8 năm 1700, Pyotr tuyên cáo chiến tranh với Thụy Điển, giải thích mục tiêu
là để chiếm lại hai tỉnh Ingria và Karelia. Hai tỉnh này, ở phía bắc và nam của sông Neva,
cộng với hồ Ladoga và các pháo đài Nöteborg, Narva và Riga, lúc trước thuộc về Nga.
Hòa ước Nga–Thụy Điển năm 1664 tái xác nhận các vùng đất này thuộc Thụy Điển. Tuy
thế, trong ý nghĩ của Pyotr, đấy là những lãnh thổ của Nga mà ông muốn đoạt lại để mở
đường thông thương ra biển. Chiến tranh kéo dài hơn 20 năm, với nhiều nước Bắc Âu
can dự vào, nên sử gia gọi là Đại chiến Bắc Âu.
Đây là sự đối đầu của hai vị vua trẻ tuổi, Pyotr I và vua Karl XII của Thụy Điển. Trong
những năm đầu, 1700 đến 1709, Pyotr ở vào thế phòng thủ, vào giai đoạn này, giữa cơn
lốc của chiến tranh, nước Nga vẫn tiếp tục chuyển biến. Những cải tổ được thực hiện
không phải từ việc quy hoạch bài bản và thực hiện đúng phương pháp, mà thật ra là
những biện pháp cấp thời nhằm đối phó với một kẻ thù luôn có quyết tâm chiến thắng.
Sau Trận Poltava, Nga lật ngược thế cờ, nhưng hai vị vua vẫn tiếp tục đối đầu với nhau.
Sau khi vua Karl XII qua đời, vua Pyotr dẫn quân đánh phá Thụy Điển liên tiếp hai năm,
cuối cùng Hòa ước Nystad giữa Nga và Thụy Điển được chính thức ký kết ngày 14 thánh

9 năm 1721. Theo Hòa ước Thụy Điển cắt nhường cho Nga vĩnh viễn các vùng Livonia,
Ingria và Estonia, cùng với Karelia kéo dài đến Vyborg.
Ngày 31 tháng 10 năm 1721, Thượng viện Nga chính thức biểu quyết ban tặng cho Pyotr
tước vị "Pyotr Đại đế, Hoàng đế và Cha của đất nước Nga."
Pyotr Đại đế mất lúc 6 giờ sáng ngày 28 tháng 1 năm 1725, sau 43 năm trên ngôi Sa
hoàng, hưởng thọ 53 tuổi.
Những sự kiện trọng đại trong cuộc đời Pyotr Đại Đế
Thuyền buồm không những có thể đi xuôi chiều gió, mà còn có thể đi ngược lại chiều
gió. (Pyotr là người Nga đầu tiên lái loại thuyền này, trên sông Yauza, cách Moskva
khoảng 5 km.)
Căn cứ đầu tiên của Hải quân Nga (ở Tagonrog, trên bờ Biển Azov, do Pyotr chọn địa
điểm).
Đô đốc người Nga đầu tiên (Fyodor Matveyevich Apraksin).
Một hạm đội Nga vượt đại dương, khởi đi từ cảng của Nga và trở về cảng của Nga, do
tướng lĩnh Hải quân Nga chỉ huy. Pyotr lái một tàu trong hạm đội này.
Quy định qưốc kỳ của Nga cho đến khi vương triều chấm dứt vào năm 1917, rồi được
phục hồi cho nước Nga hiện nay. Sau khi con tàu khu trục được đặt mua từ Hà Lan về
đến Nga, Pyotr quyết định dựa trên cờ của Hà Lan – từ trên xuống dưới là ba mầu đỏ,
trắng và xanh – để tạo nên lá cờ của Hải quân Nga – từ trên xuống dưới là trắng, xanh và
đỏ. Lá cờ này sau được sử dụng làm quốc kỳ.
Sa hoàng học đóng tàu từ lễ đặt ki cho đến công đoạn cuối cùng, và được cấp chứng chỉ
tốt nghiệp thợ đòng tàu chuyên môn.
Huân chương đầu tiên: Huân chương St Andrew, là phần thưởng danh dự ở cấp cao nhất
mà Sa hoàng nước Nga ban tặng cùng với tước vị Hiệp sĩ, áp dụng cho đến khi chế độ
quân chủ của Nga sụp đổ năm 1917.
Áp dụng niên lịch theo Tây Âu.
Cử hành lễ ở tất cả nhà thờ nước Nga vào ngày đầu năm theo niên lịch mới. Thêm nữa,
Pyotr Đại đế ra lệnh mọi người trang hoàng nhà cửa trong dịp này, và mọi công dân
Moskvva phải "biểu lộ niềm hạnh phúc bằng cách lớn tiếng chúc mừng lẫn nhau."
Phụ nữ hoàng gia được giải thoát khỏi chế độ biệt lập hà khắc trong cấm cung.
Mọi quyết định về hôn nhân phải là tự nguyện, hai bên trai gái phải gặp nhau ít nhất sáu
tuần trước khi kết hôn, mỗi bên có quyền tự do từ chối bên kia, và việc chú rể vung cây
roi trong ngày cưới như là biểu trưng cho quyền hành phải được thay thế bằng nụ hôn thể
hiện tình yêu.
Hệ thống chữ cái mới để in sách Nga văn.
Tàu chiến của Nga, mang cờ hiệu của Sa hoàng nước Nga, thực hiện một cuộc hải hành
đơn độc và tự do trên vùng biển của Hoàng đế Ottoman.
Thành phố Sankt-Peterburg được xây dựng từ bãi đầm lầy.
Trường Toán học và Hải hành (ở Moskva).
Bãi bỏ tước hiệu boyar, thiết lập hệ thống tước hiệu giống như Tây Âu.
Thành lập Thượng viện.
Thành lập Viện Hàn lâm Khoa học Nga.
Thành lập bảng Cấp bậc của Đế quốc Nga, gồm thang cấp bậc cho ba ngành: quân đội,
dân sự và tòa án, được sử dụng đến năm 1917.
Bắt đầu đào Kênh Ladoga (được hơn 30 km khi Pyotr Đại đế qua đời, hoàn tất năm

1932).
Kết hôn giữa công chúa Nga và người Tây Âu.
Cho phép Sa hoàng đương quyền chỉ định người kế vị (nhưng Pyotr Đại đế không hành
xử quyền này
Nhận định
Là một trong những nhân vật kiệt xuất của lịch sử thế giới và gần đây được dân Nga bình
chọn là người Nga được yêu mến nhất mọi thời đại, ông đã có thành tựu lớn lao trong
công cuộc hiện đại hóa đất nước ông. Ông đã đẩy mạnh một nước Nga lạc hậu, đi sau
Tây Âu dường như hàng trăm năm, trong một thời gian ngắn vượt lên thành một cường
quốc mà cả những nước châu Âu còn lại phải nể vì. Pyotr Đại đế có tố chất đa dạng: sục
sôi và gan lì, vừa bao dung vừa tàn nhẫn, vừa mềm mỏng vừa cố chấp, tình cảm ở mặt
này nhưng cứng rắn ở mặt khác..., nhưng cuối cùng tạo nên khúc ngoặt cực kỳ quan trọng
trong lịch sử nước Nga.
Lịch sử đã dành cho Pyotr Đại đế nhiều lời khen ngợi. Có lẽ lời khen ngợi đi đầu là tầm
nhìn chiến lược của ông, kế đến là nhận thức rồi quyết tâm. Những tầm nhìn, nhận thức
và quyết tâm ấy thiếu vắng hầu như trong cả nước Nga thời bấy giờ. Chỉ một mình ông
có tầm nhìn sâu rộng, nhận thức đúng đắn, rồi có quyết tâm sắt đá để đi đến đích. Chẳng
hạn, trong khi bao triều đại trước đều không nhận ra là nước Nga bao la chỉ có một cảng
biển thông ra bên ngoài thế giới trong sáu tháng mỗi năm, không có hải quân, và cả nước
Nga mãn nguyện với đội thuyền đi theo dòng nước trên sông; chỉ riêng Pyotr Đại đế nhận
ra đó là những khiếm khuyết vô cùng hệ trọng trong chiến lược xây dựng kinh tế và quân
sự cho đất nước ông. Chính Pyotr Đại đế đã nhận thức được công dụng diệu kỳ của một
chiếc thuyền buồm không những có thể đi xuôi chiều gió, mà còn có thể đi ngược lại
chiều gió – điều mà loại thuyền bè Nga hồi ấy không thực hiện được. Quyết tâm xây
dựng cảng biển và tạo dựng nên hải quân Nga khởi phát từ tầm nhìn và nhận thức như
thế.
Với bao hoài bão nung nấu nhằm hiện đại hóa nước Nga nằm kề bên Tây Âu lúc ấy đã
tiến bộ khá xa, Pyotr Đại đế tự mình đóng một chiếc thuyền và học cách điều khiển nó, tổ
chức riêng cho mình một đội quân và tập trận thường xuyên để cuối cùng chuyển thành
đội quân tinh nhuệ hơn hẳn lực lượng nòng cốt của triều đình, tổ chức một phái bộ sứ
thần đi Tây Âu để học hỏi và tuyển chọn nhân tài về giúp cho triều đình của mình, vào
vai thợ mộc học nghề ở Hà Lan để tự tay đóng một tàu chiến bắt đầu từ những súc gỗ thô
sơ cho đến khi hạ thủy. Và còn nhiều việc làm quyết đoán nữa, như ra lệnh tịch thu
chuông nhà thờ để đúc đại bác phục vụ công cuộc chống ngoại xâm mặc cho giáo hội đầy
quyền uy phản đối. Hoặc đòi hỏi các tầng lớp tăng lữ, quý tộc và thương nhân – có thế
lực mạnh nhất thời bấy giờ – góp chi phí vào việc xây dựng hải quân; ai không làm sẽ bị
tịch thu gia sản, ai kêu nài sẽ phải đóng góp thêm! Hoặc ra lệnh đàn ông Nga phải cắt râu
cho gọn và tất cả người Nga phải chuyển trang phục truyền thống sang kiểu gọn nhẹ –
mục đích sâu xa là để dân Nga tăng năng suất làm việc – mặc cho chống đối của giáo hội
uy quyền và thói ù lì muốn duy trì cách sống lâu đời.
Một công trình vĩ đại khác – khá điên rồ và mạo hiểm – là tiến hành xây dựng nên thành
phố Sankt-Peterburg bề thế từ bãi đầm lầy ngay cả trong những năm tháng chiến tranh,
ngay cả khi vùng đất mới được chiếm từ Thụy Điển, chưa có hòa ước để hợp thức hóa là

thuộc Nga vĩnh viễn, có nghĩa là Thụy Điển có quyền chiếm lại bất cứ lúc nào! Quyết
tâm ấy thể hiện qua chính sách là có thể nhượng bộ Thụy Điển bất cứ điều gì ngo
ại trừ trả
lại Sankt-Peterburg, nhằm mở một đường giao thông hàng hải và căn cứ hải quân Nga.
Quyết tâm này được lưu truyền mãi về sau, với kết quả là Sankt-Peterburg vẫn đứng
vững trước các cuộc tấn công của vua Karl XII của Thụy Điển, cũng như của Hoàng đế
Napoléon I của Pháp và Adolf Hitler của Đức Quốc xã sau này.
Việc đánh giá Pyotr Đại đế có thể theo hai xu hướng. Một là cho rằng thành quả đều do
cá nhân Pyotr: trong khi cả triều đình, cả giáo hội, cả các giới quý tộc và thương nhân –
là những thế lực quan trọng thời bấy giờ ở Nga – không ai thiên về cải tổ và hiện đại hóa
như ông (nhiều người còn chống đối, ngay cả người vợ đầu và con trai trưởng của ông).
Riêng các cận thần và các cấp chỉ huy quân sự của ông chỉ thực thi sách lược của ông và
nhận mệnh lệnh của ông mà thừa hành, nên sự đánh giá càng làm nổi bật cá nhân của
Pyotr Đại đế trong việc biết trọng dụng nhân tài dù cho họ là người Nga hoặc người nước
ngoài. Cũng nên ghi nhận là Pyotr Đại đế đã làm được nhiều việc nhờ ông có uy quyền
tuyệt đối, có quyền ban hành luật theo ý muốn, ngay cả có quyền xử tử hình bất cứ ai đi
ngược lại ý ông. Nếu trong một thể chế quân chủ lập hiến hoặc hệ thống dân chủ như thời
nay, chỉ một cá nhân như Pyotr Đại đế hẳn sẽ không thể làm được gì nhiều trong bối cảnh
xã hội nhân văn nước Nga trì trệ như thế. Bằng chứng là một số cải tổ hành chính của
Pyotr Đại đế, tuy có cơ sở chính đáng nhưng đã không thành công vì thái độ ù lì của các
cấp địa phương.
Xu hướng thứ hai trong việc đánh giá Pyotr Đại đế thì cho rằng những thành tựu là do sở
thích cá nhân từ thời niên thiếu, rồi vì bản thân là Sa hoàng, muốn gì cũng được, nên có
điều kiện từ đồ chơi đi lên trò chơi, và từ trò chơi biến ra hành động thực sự. Có nghĩa là
những hành động không nằm trong chiến lược tổng thể nào để phát triển đất nước. Ý kiến
khác là xem vai trò cá nhân của ông không phải là yếu tố quyết định, trong khi phê phán
ông về chế độ độc đoán, hà khắc – đôi lúc tàn bạo – theo kiểu phong kiến. Và trong công
cuộc cải tổ, ông đã làm mất đi một vài giá trị truyền thống của xã hội Nga. Rộng ra hơn,
những tầng lớp thấp trong xã hội Nga, đặc biệt là nông dân, không được hưởng lợi trực
tiếp từ thành quả của ông. Trái lại, họ còn khổ sở hơn vì phải trực tiếp hoặc gián tiếp chịu
gánh nặng để xây dựng căn cứ hải quân, xây thành phố Sankt-Peterburg, chi phí cho cuộc
chiến với Thụy Điển... Chiều hướng đánh giá này cũng có cái lý của nó, tùy cảm quan
của từng người. Chẳng hạn, có thể biện luận rằng một khi nước Nga đã trở nên hiện đại
hóa thì dần dà đời sống nông dân Nga cũng được nâng cao hơn.
Dù sao đi nữa, không ai có thể phủ nhận công lao của Pyotr Đại đế trong công cuộc xây
dựng lực lượng quân sự và hiện đại hóa đất nước Nga, như là việc tạo dựng nên hải quân
và đội thương thuyền hàng hải từ con số không: không tàu thuyền, không có công nghệ
đóng tàu, không có ai biết lái tàu biển. Và còn nữa: từ "chuyện nhỏ" như thiết lập trường
xóa mù chữ và dạy toán cấp cơ sở, trường kỹ thuật đào tạo thợ chuyên môn, xưởng in,
cho đến việc cải tổ hành chính, hoàn thiện cơ sở pháp luật, xây dựng hệ thống đường sá,
kênh đào vĩ đại, hoàn thiện thành phố Sankt-Peterburg, nâng cao vai trò người phụ nữ,
lập nên Viện Hàn lâm Khoa học, v.v.
Qua đó tố chất của Pyotr Đại đế được hiện rõ: trong khi sở thích cá nhân của ông thời thơ
ấu tập trung vào vài lĩnh vực như quân sự và hàng hải, khi đã là Sa hoàng độc tôn và có
cơ hội đi ra nước ngoài, sự quan tâm học hỏi của ông lại trở nên bao quát. Ông đi viếng
thăm đủ mọi nơi: nhà máy chế biến, xưởng cưa, nhà máy in, xưởng se sợi, nhà máy giấy,
xưởng cơ khí, viện bảo tàng, vườn thực vật, phòng thí nghiệm... Ông đến viếng và hỏi